các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trả lời:

Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác hay nói cách khác thì đó là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa 2 đồng tiền của 2 nước. Tỷ giá là hệ số quy đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác, được xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường.

Các yếu tố tác động đến tỷ giá (USD/VND):

A. Các nhân tố ngắn hạn.

-   Lãi suất so sánh giữa các nước về cùng 1 loại tiền gửi. Những thay đổi lãi suất trong nước thường được nêu lên như là nhân tố chính tác động đến tỷ giá. Chúng ta thường nghe trên các báo chí như sau : “Việt Nam đồng lên giá vì lãi suất tăng”. Nhưng có phải nhận định này lúc nào cũng đúng. Lãi suất ở đây mà bài báo nhắc tới là lãi suất danh nghĩa, lãi suất của các ngân hàng, và sự tác động của từng loại lãi suất là khác nhau.

Như ta đã biết Lãi suất danh nghĩa được tính như sau: i = ir + П (với П < 10%). Trong đó ir là lãi suất thực tế, còn П là tỷ lệ lạm phát. i thay đổi do 2 do là lãi suất thực tế thay đổi hoặc do tỷ lệ lạm phát dự tính thay đổi. Và ảnh hưởng tới tỷ giá là hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào nhân tố nào trong 2 nhân tố đó là nguồn gốc của sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa (các yếu tố khác không đổi).

TH1: Lãi suất danh nghĩa trong nước cao hơn do lãi suất thực tế tăng lên.( do kinh tế phát triển).

Lãi suất thực tế trong nước tăng lên làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên trong khi lam phát dự tính vẫn không thay đổi. Và như vậy lợi tức dự tính về tiền gửi nước ngoài sẽ vấn không thay đổi với bất kỳ tỷ giá nào đã cho còn lợi tức về tiền gửi trong nước lại tăng lên. Khi vậy vốn ngắn hạn từ nước ngoài sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra đó. Điều này làm cho cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, dẫn đến sự thay đổi tỷ giá theo hướng tăng giá đồng nội tệ tức là tỷ giá giảm xuống.

Vậy khi lãi suất thực tế trong nước tăng thì đồng nội tệ tăng giá.

TH2: Lãi suất danh nghĩa trong nước cao hơn do một mức lạm phát dự tính trong nước gây lên.

Khi lãi suất danh nghĩa tăng lên do một sự tăng lên trong lạm phát dự tính. Việc này làm cho mức tăng giá dự tính của VND giảm xuống, mức này được cho là lớn hơn mức tăng của lãi suất trong nước. Kết quả là, với một tỷ giá đã cho bất kỳ lợi tức dự tính về tiền gửi nước ngoài tăng nhiều hơn lợi tức dự tính về tiền gửi VND và làm cho cầu gửi tiền nước ngoài tăng lên và làm tỷ giá tăng lên. (Ảnh hưởng của lạm phát nữa là khi lạm phát cửa nước A lớn hơn nước B dẫn đến hàng xuất khẩu của nước A tính theo ngoại tệ đắt hơn, làm giảm cạnh tranh của hàng hóa nước A và làm giảm cung ngoại tệ vào nước A và làm cho đồng nội tệ giảm giá. Mình dành việc xét tác động của lạm phát tới tỷ giá hẳn 1 phần cho rõ ràng. Cái này cũng không khó phân tích lắm. Các bạn làm thử nhé.)

Vậy một lãi suất trong nước cao hơn do một mức lạm phát dự tính trong nước gây lên sẽ làm cho mức giá của đồng nội tệ giảm xuống.

-   Lãi suất gửi nội tệ và lãi suất gửi ngoại tệ trong nước. Nếu lợi tức của việc gửi nội tệ cao hơn so với lợi tức của việc gửi ngoại tệ (sau khi đổi về cùng 1 đơn vị tiền tệ) thì người dân sẽ có xu hướng gửi nội tệ, cầu về tiền gửi nội tệ tăng lên .Điều này làm cho người dân trước đây nắm giữ ngoại tệ hay gửi ngoại tệ vào ngân hàng sẽ có xu hướng chuyển lượng ngoại tệ đó sang nội tệ và gửi bằng nội tệ để hưởng mức chênh lệch lợi tức. Và như vậy làm cho nội tệ trong lưu thông giảm xuống (chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN nhằm chống lạm phát) dẫn đến tỷ giá có xu hướng giảm, tức là đồng nội tệ tăng giá.

-   Ảnh hưởng của cung, cầu ngoại tệ. Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn mua vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối đoái cũng được xác định theo quy luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông thường. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm, tức tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ sẽ tăng, tức tỷ giá tăng. Ở vị trí cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ xác định trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho tỷ giá thay đổi. Ta có thể hình dung cơ chế hình thành tỷ giá được hiểu thị từ khi có sự khác nhau về cung và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đó có một số người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá ngoại tệ trên thị trường giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số người không mua được ngoại tệ sẵn sàng trả giá cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên thị trường tăng. Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần mua đúng bằng lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá ngoại tệ không đổi, thị trường cân bằng. Chúng ta có thể thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi do cung và cầu về ngoại tệ luôn thay đổi.

-   Ảnh hưởng của cung, cầu nội tệ (phần này có thể cho vào phần lạm phát). Giả định rằng NHNN quyết định tăng mức cung tiền tệ để giảm thất nghiệp, mà mọi người tin là quá nhiều. Cung VND tăng lên sẽ dẫn đến mức giả cả trong nước cao hơn về dài hạn và từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá tương lai dự tính thấp hơn. Kết quả sụt xuống trong sự tăng giá dự tính của VND làm tăng lợi tức dự tính về tiền gửi nước ngoài với bất kỳ một tỷ giá hiện hành đã cho nào và làm cho VND giảm giá. Nói tóm lại là việc tăng cung nội tệ sẽ dẫn đến việc lạm phát dự tính tăng lên trong tương lai, theo như trên thì sẽ làm cho giá nội tệ giảm xuống, tức là tỷ giá giữa USD/VND tăng lên.

-   Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu (Khi xét tác động của vấn đề này tới tỷ giá ta phải bỏ qua những khoảng mục phản ánh sự can thiệp của Chính Phủ và tương quan lực lượng cung cầu ngoại hối trên thị trường.). Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Ngoài ra cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá không chỉ có tác động một chiều mà có tác động ngược lại của tỷ giá đối với cán cân. Khi cán cân thanh toán thâm hụt sẽ làm cho đồng nội tệ giảm giá, và điều này làm tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Quá trình này diễn ra đến khi nó đạt mức cân bằng. Tóm lại, khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.

-   Tỷ giá chịu ảnh hưởng của hoạt động đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài, cú ảnh hưởng tới tủ giỏ hối đoỏi cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái giảm. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ.

-   Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái đó là yếu tố tâm lý. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng. Nhiều nhà đầu tư định chế (NHTM và các công ty bảo hiểm) thực hiện vị thế tiền tệ dựa trên biến động lãi suất sự kiến ở các nước khác nhau. Ví dụ cac nhà đầu tư định chế có thể đầu tư 1 cách thường xuyên ngân quỹ vào VND nếu họ dự kiến lãi suất của VND tăng; 1 sự gia tăng như thế sẽ thu hút vốn vào Việt Nam nhiều hơn và tạo áp lực tăng giá VND. Bằng cách thực hiện vị thế mua bán tiền dựa vào kỳ vọng, họ có thể đạt được lợi ích từ sự thay đổi trong giá trị của VND vì họ mua VND trước khi có sự thay đổi xảy ra. Đương nhiên rủi ro có thể xảy ra do kỳ vọng có thể sai nhưng vấn đề ở đây là kỳ vọng ảnh hưởng đến tyrgias vì chúng thúc đẩy các nhà đầu tư định chế thực hiện các vị thế tiền tệ

-   Sự can thiệp của chính phủ. Bất cứ sự can thiệp nào của chính phủ mà có ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát, thu nhập thực tế hoặc mức lãi suất trong nước đều làm ảnh hưởng đến sự biến động của tý giá hối đoái. Chính phủ có thể sử dụng ba loại hình can thiệp chủ yếu: can thiệp vào thương mại quốc tế; đầu tư quốc tế; can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối. Việc tác động của Chính phủ đến các yếu tố trên sẽ gây ảnh hưởng đến tỷ giá.

-   Tác động của Lạm phát tới tỷ giá. Lạm phát cao làm tăng lãi suất tương đối của tiền gửi ngoại tệ so với nội tệ và dẫn đến giảm giá của đồng nội tệ. Lạm phát cao còn làm cho sức mua của nội tệ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát tác động trực tiếp tới hàng xuất – nhập khẩu dẫn đến làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của quốc gia đó và ảnh hưởng tới tỷ giá. Đối với hàng xuất khẩu, khi lạm phát tăng cao thì giá hàng hóa nội địa tăng lên tương đối so với hàng nước ngoài (các yếu tố khác không đổi), điều này làm giảm xuất khẩu, dẫn đến giảm cung ngoại tệ gây áp lực giảm giá đồng nội tệ. Còn đối với nhập khẩu, khi lạm phát xảy ra thì nhập khẩu tẳng nhẹ do yếu tố lạm phát ở nước ngoài. Do mức lạm phát ở nước ngoài và trong nước tăng như nhau làm cầu hàng hóa ko giảm. Nhưng trong ngắn hạn, người tiêu dùng trong nước chưa bắt kịp với sự tăng giá của hàng nội địa, do đó họ và các công ty vẫn phải trả 1 khoản ngoại tệ cho hàng nước ngoài, điều này làm tăng cầu ngoại tệ, làm tăng giá ngoại tệ.

Ta có sơ đồ sau.

Tỷ giá giữa ngoại tệ và VND.

B. Xét về các yếu tố dài hạn:

Có 4 nhân tố chính tác động đến tỷ giá : (1) mức giá cả tương đối; (2) thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu; (3) ưa thích hàng nội hơn hàng ngoại; (4) năng suất lao động. Cụ thể như sau:

-   Mức giá cả tương đối : Theo thuyết ngang giá sức mua – thuyết PPP – theory of purchasing power parity (thuyết này được phát biểu như sau: tỷ giá giữa bất kỳ hai đồng tiền nào sẽ điều chỉnh để phản ánh những thay đổi trong mức giá cả của hai nước. Ví dụ thế này: nếu nồi cơm điện của Việt Nam rẻ hơn ở Mỹ dẫn đến người mua sẽ mua nồi cơm điện của Việt Nam nhiều hơn làm cho xuất khẩu của Việt Nam tăng còn xuất khẩu của Mỹ giảm, dẫn đến su hướng làm cho VND tăng giá so với USD) khi giá hàng Việt Nam tăng thì cầu về hàng hóa Việt Nam sẽ giảm xuống và VND có xu hướng giảm giá để cho hàng Việt Nam có thể bán được tốt hơn. Mặt khác nếu giá cả hàng hóa nước ngoài tăng lên sao cho giá tương đối của hàng Việt Nam giảm xuống thì cung về hàng Việt Nam tăng lên và VND có xu hướng tăng giá bởi vì hàng Việt Nam sẽ tiếp tục được bán tốt hơn ngay cả khi giá trị đồng nội tệ cao hơn. Trong dài hạn, một sự tăng lên mức giá của một nước (tương đối so với mức giá nước ngoài) làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá, trong khi một sự giảm xuống của mức giá tương đối của một nước làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá.

-   Thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu. Công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm tăng giá của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước. Làm tăng giá đồng nội tệ vì hàng hóa trong nước sẽ tiếp tục được bán tốt hơn ngay cả khi đồng nội tệ tăng giá. Như vậy trong dài hạn thì thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu về lâu dài làm cho đồng tiền của một nước tăng giá.

-   Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu như sự ham thích của người nước ngoài đối với hàng Việt Nam tăng lên, chẳng hạn thích dùng quạt Việt Nam hơn và thích xem phim Việt Nam, thì cầu về hàng hóa Việt nam tăng lên và làm tăng giá VND bởi vì hàng hóa Việt Nam được bán tốt hơn ngay cả khi VND tăng giá. Và ngược lại. Như vậy trong dài hạn thì cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên về lâu dài làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá trong khi cầu về hàng nhập tăng lên làm cho đồng tiền của nước đó giảm xuống.

-   Năng suất lao động. Khi năng suất lao động trong nước cao hơn so với nước ngoài thì những nhà kinh doanh trong nước có thể giảm giá hàng hóa của mình một cách tương đối so với hàng hóa nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận cao. Kết quả là làm cho cầu về hàng nội tăng lên và đồng tiền nội tệ có xu hướng tăng giá bởi vì hàng nội tệ sẽ tiếp tục được bán tốt với một trị giá cao hơn của đồng nội tệ. Và ngược lại. Như vậy trong dài hạn nếu năng suất lao động của một nước cao hơn tương đối so với các nước khác thì đồng tiền của nước đó tăng giá.

Liên hệ Việt Nam.

I. Giai đoạn trước năm 1988.

Trước năm 1986 nền kinh tế nước ra trong tình trạng kế hoạch hóa tập trung cao độ, mọi vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai hoàn toàn được tập chung và được chỉ đạo từ trên xuống. Trong thời kỳ này quan hệ ngoại thương của nước ta chỉ bó hẹp với những nước XHCN, đồng Rúp của Liên xô trở thành đồng tiền dự trữ ngoại hối chính của chúng ta, còn các đồng tiền tự do chuyển đổi khác là rất ít. Ngoài ra, trên thị trường quan hệ cung cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế không được xem xét. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Đây là 1 khó khăn lớn của chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

Trong giai đoạn này, đất nước bị đặt trong tình trạng rất nhiều thử thách: lạm phát phi mã, cán cân thanh toán bị mất cân bằng nghiêm trọng, nền kinh tế lạc hậu, năng suất lao động thấp. Những yếu tố này đã tác động mạnh tới tỷ giá.

Năm

Lạm phát

Thay đổi %

1980

25,156

1981

69,6

176,67

1982

95,401

37,07

1983

49,487

-48,13

1984

64,897

31,14

1985

91,602

41,15

1986

453,538

395,12

1987

360,357

-20,55

1988

374,354

3,88

Về tỷ giá của giai đoạn này mình chưa kiếm được khoản số liệu.

II. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1992 – là năm mà hệ thống các nước XHCN bị sụp đổ.

Năm 1986 đại hội TW 6 họp và đề ra đường lối cải cách và đến năm 1988 thì bắt đầu thực hiện đường lối ở trên toàn nước. Trong khi đó tình hình thế giới có những chuyển biến nhiều. Khu vực Đông Âu và Liên xô bị gián đoạn khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực dùng USD, trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động mạnh của chính sách thả nổi tỷ giá. Tỷ giá USD/VND biến động mạnh theo xu hướng giá trị USD tăng mạnh và cùng nhiều biến động khác nữa về kinh tế.

Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng USD nhằm đầu cơ để ăn chênh lệch. Dẫn đến ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại trở lên khan hiếm hơn. Trong giai đoạn này NGân hàng không kiểm soát được lưu thông tiền tệ, mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả.

Trong các năm 1991 – 1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thương với Liên xô và Đông Âu làm cho nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng ( năm 1991 là 357 triệu USD đến năm 1992 còn 91,1 triệu USD). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu 1 lãi suất cao do thiếu USD, đô đã thiếu lại càng thiếu do tâm lý đầu cơ dẫn đến các cơn sốt đô theo chu kỳ vào giai đoạn này.

Cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990

Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng cùng với cơ chế rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm giảm xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các năm từ 90 đến 92.

Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết sức gay gắt, mặc dù lạm phát đã giảm mạnh so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD tăng vọt lên trên 13.000 VND/USD trong tháng cuối năm 1991, giảm đột ngột còn 11.000 VND/USD đến năm 1992. (nguyên nhân là do: đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong hệ điều chỉnh tỷ giá (như buộc các doanh nghiệp có đô la phải gửi vào NH, bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá theo nhóm hàng ...) làm cho giá đô giảm và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992)

Thời gian

Tỷ giá chính thức

Tỷ giá tự do

Chênh lệch giá trị

1988

3000

5000

2000

1989

3900

4100

200

1990

6500

7000

500

1991

14194

14420

226

1992

10407

10520

50

Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cũng giảm dần.

Năm

Lạm phát

Thay đổi phần trăm.

1989

95.77

-74.42%

1990

36.031

-62.38%

1991

81.817

127.07%

1992

37.705

-53.92%

III. Giai đoạn từ năm 1992 đến đầu năm 1997 – bắt đầu nổ ra cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á (tháng 7-1997).

Tỷ giá trong suốt từ năm 1992 đến năm 1996 được giữ ở mức thấp trong khoảng từ 10.500 đến 11.000 VND/USD.

12/1992

12/1993

12/1994

12/1995

12/1996

Tỷ giá danh nghĩa.

10720

10841

11004

11021

11040

Trước đó do việc thả nổi tỷ giá mất kiểm soát dẫn đến Việt Nam nhập siêu liên tục do nhu cầu phát triển trong nước nhập khẩu trang thiết bị (giai đoạn thực hiện Công nghiệp hóa đất nước). Chính phủ quyết định chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái cố định, và thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá.

Đồng thời Chính phủ tăng cường công tác thông tin, cho công khai hóa 1 cách nhanh chóng và chính xác chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số tỷ giá, sự biến động giá vàng. Nhờ vậy mà hạn chế được hoạt động đầu cơ nhằm hưởng chênh lệch, giảm tâm lý hoang mang cho người dân. Chính phủ cũng chú trọng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ bình ổn giá. Ví dụ: đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm giao dịch ngoại tệ như trung tâm giao dịch ngoại tệ trực tiếp Hồ Chí Minh tháng 8-1991 để cho các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá tự thảo thuận, tạo ra môi trường điều kiện đẻ cung cầu thực sự gặp nhau.

Tính đến cuối năm 1992 đầu năm 1993 những biện pháp can thiệp đã đem lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải tỏa, những đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình hình cung – cầu ngoại tệ được cả thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó, USD có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong phạm vi từ 10200 đến 10400VND/1USD thậm chí có lúc tụt xuống ở mức USD = 9750 VND. Như vậy, tỷ giá được xác định phù hợp với quy luật của thị trường. Chính việc VND bị đánh giá cao đã gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh trong thương mại quốc tế của hàng hóa – dịch vụ Việt Nam, làm kìm hãm xuất khẩu, làm tăng nhập khẩu gây ra thâm hụt lớn về cán cân thanh toán quốc tế. Tạo sức ép tới các ngành sản xuất trong nước.

Năm

Lạm phát

Thay đổi phần trăm

1993

8.379

-77.78

1994

9.483

13.18

1995

16.929

78.49

1996

5.593

-66.96

1997

3.095

-44.66

IV. Giai đoạn từ tháng 7 -1997 đến đầu năm 1999 – Kết thúc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á.

Tháng 7 năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra, bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan sang các nước Đông Nam Á và rồi là cả Châu Á.Việt Nam cũng không tránh khỏi cuộc khủng hoảng. Chính sách tỷ giá cố định ở thời kỳ trước định giá VND cao thì  nay lại càng cao hơn. Điều này tạo sức ép giảm giá đồng nội tệ. Cuộc khủng khoảng đã tác động rất mạnh tới các nhân tố tác động làm thay đổi tỷ giá. Cụ thể như sau:

Thứ nhất: Tác động đến Ngân hàng.

-   Tăng áp lực giảm giá VND trên thị trường ngoại tệ.

-   Việc tăng áp lực làm tăng gánh nặng nợ đối với các doanh nghiệp nhập khẩu.

-   Gây súc ép tới đồng nội tệ và sự  mất ổn định của hệ thống Ngân Hàng.

-   Tác động đến xuất khẩu: Trước khi xảy ra khủng hoảng thì kim ngạch xuất khẩu sang các nước Châu Á – Thái Bình Dương chiếm 70%, trong đó các nước Đông Nam Á chiếm 23%. Khi xảy ra khủng hoảng đã làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm sút.

-   Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của các đồng tiền các nước trong khu vực đã kích thích gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu theo đường tiểu ngạch từ Thái Lan.

Thứ hai: Tác động đến hoạt động đầu tư.

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng xảy ra nhiều dự án đầu tư dở dang bị đình lại, nhiều dự án đầu tư mới tạm thời hoãn. Và các nước bị khủng hoảng nặng nề lại là những quốc gia dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Còn trong nước thì Ngân hàng dè dặt cho vay, doanh nghiệp cũng hạn chế đầu tư do lãi suất tăng, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp theo hướng tăng lên.’

Thứ ba, đối với thu chi Ngân sách.

Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giam của thị trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiêu doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng đến xấu đến nguồn thu ngân sách. Chi Ngân sách đòi hỏi tăng lên do sự xa xút của nền kinh tế. Điều này làm tăng mức bội chi ngân sách.

Ngày 13/10/1997 thống đốc NHNN quyết định mở rộng biên độ giao dịch lên mức 10%. Ngày 16/2/1998 NHNN quyết định nâng tỷ giá chính thức từ 1USD = 11176VND lên mức 1USD = 11800VND, tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, NHNN quyết định thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 7% đồng thời nâng tỷ giá chính thức lên 1USD = 12998VND là 1USD=12992VND, ngày 6/11/1998 là 1USD = 1298 VND, ngày 26/11/1998 là 1USD = 12987VND ... cho đến ngày 15/1/1999 thì tỷ giá chính thức chỉ còn ở mức 1USD = 12980VND.

Trên thế giới: Trong suốt cuộc khủng hoảng này, nhiều NHTM trên thế giới đã bán tháo các đồng tiền của các nước Châu Á để mua đồng tiền khác vì họ đánh giá rằng đồng tiền của các nước Châu Á được đánh giá cao hơn giá trị thực của chúng. Hành vi này gây sức ép giảm giá đồng tiền của các nước Châu Á và NHTM đã bị một số chỉ trích là đã hành động làm tăng thêm sự yếu kém của các đồng tiền này. Tuy nhiên khi các Ngân hàng thực hiện những hoạt động như thế thì họ đã đẩy giá thị trường của tiền tệ về đúng giá trị đích thực của nó. Như vậy các Ngân hàng đã làm cho thị trường ngoại hối hiệu của hơn, có nghĩa là ở đó giá trị thị trường của tiền được điều chỉnh theo thông tin hợp lý mà những thông tin này có ảnh hưởng đến kỳ vọng làm ảnh hưởng tới tỷ giá.

V. Giai đoạn từ năm 1997 đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (2006).

Việc duy trì lựa chọn chính sách tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì ổn định tỷ giá quá lâu đã gây ảnh hưởng 1 cách không tốt tới hoạt động kinh tế.

Do bị tác động bởi khủng hoảng tài chính của khu vực Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời để thúc đẩy tăng trưởng kinh ết, lãi suất VND có xu hưởng giảm mạnh, cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hưởng tăng nên xảy ra hiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ kệ tiền gửi USD/ tổng tiền gửi tăng từ mức 33% năm 1997 lên mức 36,6% năm 2000 và 41% năm 2001.ư

Ngược lại thì các khoản vay bằng ngoại tệ/ tổng dư nợ lại có xu hướng giảm từ mức 1997:31,3%, năm 1998: 25,4%, năm 1999: 16,1%, năm 2000: 20,6%, năm 2001:21%.

Điều này có thể gây mất cân đối nguồn vốn với sử dụng vốn của các NHTM, gây mất an toàn hoạt động của các NHTM. Kể từ ngày 26/2/1999, NHNN chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ giao động tỷ giá xuống còn 0,1%. Từ đó tỷ giá được NHNN công bố theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng của đồng VN đối với đồng USD. Biện pháp này đã góp phần ổn định tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường tự do, tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động sôi nổi. Năm 1999 tỷ giá giữa VND/USD khá ổn định, tỷ giá liên ngân hàng tăng 1%, tỷ giá trên thị trường tự do tăng 1,1% so với năm 1998. Năm 2000 tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng 3,45% , tỷ giá trên thị trường tự do tăng 3,18% so với năm 1999. Năm 2001 tăng tỷ giá 3,9% so với năm 2000. Năm 2002 tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng tăng 1,97%, so với năm 2001. Năm 2003 tăng 1% so với năm 2002.

Ngày 1/7/2002 NHNN Việt Nam công bố nới lỏng biên độ lên 0,25% so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng.

Năm

Lạm phát.

Thay đổi.

1997

3,095

-44,66%

1998

8,11

162,04%

1999

4,108

-49,35%

2000

-1,768

-143,04%

2001

-0,31

82,47%

2002

4,079

-1415,81%

2003

3,303

-19,02%

2004

7,895

139,03%

2005

8,394

6,32%

2006

7,503

-10,61%

VI. Thời kỳ từ tháng 11/2006 đến nay.

Tháng 11/2006 Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại WTO. Đây là 1 sự kiện có ý nghĩa đặc biệt đối với nước ta. Nó đánh dấu 1 bước ngoặt trong chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta và trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Gia nhập WTO mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng bên cạnh đó cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới.

Đầu năm 2007, đã có những biến động lớn trong chính sách điều hành tỷ giá của NHNN và làm ảnh hưởng đến tỷ giá. Tỷ giá có những biến động mạnh:

Trên thị trường tiền tệ quốc tế, trong năm 2007 đồng Đôla Mỹ rơi vào xu hướng giảm giá liên tục so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt khác. Tính đến ngày 27/12/2007, Đô la Mỹ đã mất giá 9,37% so với Euro; 0,99% với Bảng Anh và 3,72% so với Yên Nhật.

Nguyên nhân chủ yếu khiến Đôla Mỹ mất giá là do khủng hoảng trên thị trường nhà đất và thị trường tín dụng Mỹ đã kéo theo nguy cơ suy thoái kinh tế. Trong năm 2007, ảnh hưởng của khủng hoảng thị trường cầm cố thế chấp nhà đất là mối lo ngại bao trùm nền kinh tế Mỹ, bức tranh thị trường nhà cũng khá ảm đảm, kéo theo thị trường chứng khoán biến động hết sức phức tạp. Với mối quan ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã hạ mức dự đoán tăng trưởng GDP của cả năm 2007 và năm 2008.

Để khắc phục tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất đồng Đô la Mỹ, nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế Mỹ. Trong 4 tháng cuối năm, FED đã ba lần liên tiếp cắt giảm lãi suất cơ bản đồng Đô la Mỹ, đưa lãi suất đồng tiền này từ mức 5,25% xuống còn 4,25%. Giới phân tích và các nhà đầu cơ dự đoán có khả năng Mỹ sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất trong năm tới.Cùng với việc cắt giảm lãi suất, FED cũng đã cùng các Ngân hàng Trung ương lớn trên toàn cầu nỗ lực hỗ trợ thanh khoản qua hệ thống ngân hàng để cải thiện tình trạng căng thẳng trên thị trường tín dụng toàn cầu.

Còn ở trong nước, tỷ giá USD/VND trên các thị trường từ tháng 1 đến tháng 7 tương đối ổn định nhưng biến động khá nhiều trong tháng 8 và tháng 9. Vào thời điểm giữa tháng 8 tỷ giá mua - bán USD/VND của NHTM và trên thị trường tự do tăng nhanh do nguồn cung về ngoại tệ giảm sút, trong khi cầu về ngoại tệ lại tăng mạnh làm VND mất giá khá mạnh. Từ tháng 9, nguồn cung ngoại tệ trên thị trường đã có chiều hướng tăng mạnh, thị trường ngoại tệ lại có biểu hiện dư thừa ngoại tệ.

Với chủ trương chung tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, trong năm 2007, NHNN cũng đã nới rộng biên độ tỷ giá giữa USD/VND. Ngày 24/12/2007 Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định mở rộng biên độ tỷ giá từ ±0,5% lên ±0,75% (tăng 0,25%), tạo điều kiện cho các NHTM ấn định tỷ giá mua bán linh hoạt hơn sát với cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Cơ chế tỷ giá ngày càng linh hoạt hơn sẽ đòi hỏi các NHTM và thành viên tham gia thị trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro về biến động tỷ giá, để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.

So với thời điểm đầu năm, tỷ giá bình quân liên Ngân hàng tăng 12VND/USD, ở mức 16.113VND/USD. Tỷ giá của các NHTM giảm khoảng 20-35VND/USD, hiện đang giao dịch ở mức 16.000/16.010/16.030VND/USD. Tỷ giá mua bán USD/VND trên thị trường tự do cũng giảm từ 5-35VND/USD so với thời điểm đầu năm và đang giao dịch ở mức 16.020/16.040VND/USD trên thị trường Hà Nội và 16.050/16.085VND/USD trên thị trường TP HCM.

Tỷ giá mua bán EUR/VND trên thị trường tự do trong nước đã tăng khoảng 2000VND/EUR so với thời điểm đầu năm, hiện đang giao dịch ở mức 23.150/23.200VND/EUR tại Hà Nội và 23.130/23.280VND/EUR tại TP HCM. Tỷ giá EUR/VND của các NHTM cũng được tiếp tục điều chỉnh tăng, hiện ở mức 22.969/23.038/23.345VND/EUR.

Năm 2008:

Giai đoạn đầu (3 tháng đầu năm từ 01/01/2008 – 25/03/2008): Tỷ giá liên tục giảm, dưới mức sàn.

Trong giai đoạn 3 tháng đầu năm, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD.

Nguyên nhân là thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về nước khá lớn. Thứ hai, các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh…Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.

Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.

Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.

Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần. Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới buôn ngoại tệ trên thị trường tự do đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng.

Tỷ giá lên đỉnh ngày 18/06, sau đó giảm dần. Ngày 27/06, NHNN tăng biên độ USD/VND từ 1% lên 2%.

Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của giưois đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế.

Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán TPCP khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).

Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.

Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.

Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng, tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11.

Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.

Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.

Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến nay): tỷ giá USD tăng trở lại.

Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.

Nguyên nhân: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).

Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính).

NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu.

Năm 2009:

Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” ở Việt Nam. Tỷ giá tăng mạnh, khan hiếm cục bộ USD, lãi suất Ngân hàng kịch trần ...

Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước.

Nguyên nhân của tình trạng căng thẳng tỷ giá:

VND đã chịu sức ép giảm giá so với USD trong một thời gian dài. So với đầu năm 2007, VND đã tăng giá khoảng 20% so với USD tính theo tỷ giá hiệu dụng thực, trong đó nguyên nhân chính là do lạm phát (đo bằng CPI) ở Việt Nam trong hai năm 2007 và 2008 rất cao, lần lượt là 12,7% và 20%.

Nguyên nhân đầu tiên là từ thâm hụt cán cân thanh toán:

Năm 2009, mặc dù CPI ở mức thấp (6,52%) nhưng sức ép giảm giá VND vẫn được duy trì, lần này là do thâm hụt cán cân thanh toán. Nhìn vào số liệu, có thể thấy cán cân thanh toán của Việt Nam đã thặng dư lớn trong năm 2007 (+10,2 tỷ USD), tuy nhiên mức thặng dư này đã giảm mạnh trong năm 2008 (chỉ còn + 0,5 tỷ USD), và chuyển sang thâm hụt (-5,7 tỷ USD) trong ba quý đầu năm 2009.

Đầu tiên, trạng thái nhập siêu nhẹ trong quý 1/2009 đã chuyển thành nhập siêu nặng trong quý 2 và quý 3 khi các biện pháp kích thích kinh tế được Chính phủ triển khai. Thực ra nguy cơ nhập siêu đã được cảnh báo từ trước khi thực hiện chính sách kích thích, lý do là vì cả hoạt động sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam đều phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu, thêm vào đó VND lại bị định giá cao so với USD nên hệ quả tất yếu (mặc dù không mong muốn) của những biện pháp kích thích tiền tệ và ngân sách là gia tăng nhập khẩu.

Trong khi nhập khẩu tăng vọt từ mức trung bình 3,9 tỷ USD/tháng trong quý I lên 6,2 tỷ USD/tháng trong quý 3 thì xuất khẩu, kiều hối và các khoản mục khác lại giảm khiến cán cân tài khoản vãng lai chuyển từ thặng dư nhẹ (+0,12 tỷ USD) trong quý I sang thâm hụt nặng trong hai quý tiếp theo (lần lượt là -2,4 và -3,5 tỷ USD)

Nguyên nhân thứ 2 là do việc găm giữ ngoại tệ của người dân, dẫn đến sự khan hiếm USD và làm cho giá đô tăng mạnh.

Cụ thể như sau:

Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2009 tỷ giá tăng trên cả 2 thị trường Liên Ngân hàng và thị trường tự do.

-   Từ tháng 1 đếntháng 3: tỷ giáLNH dao độngtrong khoảng17.450 - 17.700đồng/USD, cáchgiá trần khoảng từ0 – 200đồng,cònTTTD cao hơn tỷgiá LNH khoảng100 đồng.

-   Từ tháng 4 đến tháng 9 :tỷ giá trên2 thị trường daođộng trong khoảng18.180 - 18.500đồng/USD.-Từ tháng 10 đến25/11/2009: Biếnđộng tỷ giá rất dữdội từ 18.545 – 19.300đồng/USD,có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên thị trường tự do và 19750VND/USD trên thị trường liên ngân hàng.

Nguyên nhân là do:

+ Hiện tượng găm giữngoại tệ chờ giá lên củangười dân

+Có hiện tượng DN vayUSD tuy chưa đến kỳ trảnợ nhưng đã mua sẵn USDđể giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng.Chính lượng đặt mua nhiềucủa DN khiến cầu ngoại tệtăng. Ngoài ra, do tâm lý bất ổn của cả DN và ngườidân khi tỷ giá tăng nhanhdẫn tới hiện tượng găm giữngoại tệ.

+Do tác động của chínhsách hỗ trợ lãi suất cho cácDN bằng tiền đồng, do lãisuất vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vayđược mở rộng theo chủtrương của chính phủ nênmột số DN có ngoại tệ cóxu hướng không muốn bánngoại tệ và chỉ muốn vaytiền đồng. Đây là 1 tácđộng thiếu tích cực khôngmong muốn khi triển khaigói kích cầu.

+Ngoài ra, còn 1 số nguyênnhân khác như: thâm hụtcán cân thương mại lớn các tháng cuối năm 2008 và yếu tố tin đồn.

Giaiđoạn 2(từ 25/11đến hết năm2009)

Tỷ giá bắt đầugiảm về quanh mức 18.500đồng /USD.

 Nguyên nhân là do NHNNthực hiện các biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt cósự chung góp sức của các NHTM đã làm giảm tỷ giá sau 1 giai đoạn đầy biến động.

Năm 2010:

Các tháng đầu năm 2010:

-Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1/2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010

Nguyên nhân là do: Nguồn cung USD có thể sẽ tăng khá từ các nguồn: Từ nước ngoài, lượng USD vào nước ta sẽ tăng khá so với năm trước, kể cảnguồn vốn đầu tư trực tiếp (thực hiện tháng 1 tăng 33,3%); Vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết, ký kết đạt mức kỷ lục; Vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán; Nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%); Kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương…Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lýgăm giữ USD do lo sợ rủi ro tỷ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể. Ngoài ra,từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp“vượt trước ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ giá liên ngân hàng đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%; Yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng; Bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%; Hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi USD…

Từ giữa tháng 2/2010 đến tháng 6/2010: tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000đồng/USD (18.900-19.100 đồng /USD) và đang có xu hướng giảm do nhưng chínhsách tích cực từ phía NHNN. Ngày 11/02 Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàngtừ mức 17.941 VNĐ/USD lên mức 18.544 VNĐ/USD.

Trong vòng 10 tháng kể từ 11/2009 đến 8/2010, NHNN đã phải thực hiện 3 lần điều chỉnh tỷ giá  liên ngân hàng,  tăng  tổng cộng 11.17% lên mức 18,932 VND/USD. Tỷ giá trần hiện nay được niêm yết là 19,500 VND/USD, nhưng tỷ giá trên thị trường tự do lên cao nhất ở mức 21,500 VND/USD. Sự chênh lệch khá lớn này (khoảng 10%) cho thấy áp lực tiếp tục phá giá VNĐ  trong  thời gian tới là rất lớn. So với các nước trong khu vực, tiền VNĐ đang bị mất giá mạnh ngay cả khi tính theo tỷ giá chéo chính thức. Cụ thể, VND mất giá hơn 20% so với đồng Yên của Nhật Bản, hơn 17% so với đồng tiền của Thái Lan và Malaysia, gần 8% so với  đồng Nhân dân tệ  của Trung Quốc.

Nguyên nhân:

 Thứ nhất, ngày 30/12/2009, với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành thông tư hướng dẫn việc các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng. Việc bán lại được thực hiện khá nhanh sau đó và tạo một nguồn cung đáng kể, hỗ trợ các ngân hàng cải thiện trạng thái ngoại tệ vốn căng thẳng trước đó.Thứ hai, chỉ hơn nửa tháng sau đó, ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường.

Thứ ba,ngay sau đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành Thông tư số03/2010/TT-NHNN, quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy định này được bình luận là đặt các tổ chức đó vào thế “tự xử”, phải tính toán lợi ích và xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính sách này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ tiềm năng này.

Thứ tư, chênh lệch lãi suất vay vốn bằng VND và USD lớn khiến các doanh nghiệp cân nhắc và dịch chuyển sang vay USD. Lãi suất vay VND tăng cao đầu năm2010, lên từ 15% - 17%, thậm chí 18%/năm…, trong khi lãi suất vay USD chỉ khoảng 6% - 9%/năm. Chênh lệch này khiến một bộ phận doanh nghiệp chọn“đường vòng” vay USD rồi bán lại lấy vốn VND, tăng cung ngoại tệ cho thịtrường. Ngoài chênh lệch lãi suất lớn, lựa chọn này được hỗ trợ bởi kỳ vọng tỷ giá USD/VND sẽ ổn định, hoặc rủi ro biến động không quá lớn trong kỳ vay vốn.Thực tế, tỷ giá USD/VND gần như cố định kể từ tháng 2 đến nay.

Thêm vào đó, ngày 15/12/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số25/2009/TT-NHNN mở rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt là các đối tượng xuất khẩu.Tác động này được dẫn chứng ở tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ đã tăng đột biến tới 14,07% trong quý 1/2010, trong khi cùng kỳ năm ngoái giảm 2,24%. 

Ngoài ra, còn do  tài khoản vãng lai của Việt Nam luôn bị  thâm hụt rất lớn (do nền kinh tế nhập siêu với mức thâm thụt 10-12% GDP), lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm (do sự thiếu ổn định của chính sách tỷ giá và lạm phát cao triền miên) và tình trạng đô  la hóa nền kinh tế gia  tăng  (tâm  lý đầu cơ ngoại tệ, sử dụng trong thanh toán và tín dụng ngoại tệ tăng mạnh do chênh lệch lãi suất giữa USD và VND). Lạm phát tăng cao trong năm 2010.

Những tác động chính trên tạo sự cộng hưởng từ loạt chính sách điều hành với diễn biến thực tế thị trường. Và thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước liên tục phát đi thông điệp thị trường ngoại hối có chuyển biến tích cực.

Báo cáo mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Các doanh nghiệp đã bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng thương mại, tính thanh khoản của thị trường được cải thiện rõ rệt, nhu cầu mua ngoại tệ được đáp ứng đủ. Từ giữa tháng 3 đến nay,trạng thái ngoại tệ của hệ thống tổ chức tín dụng liên tục dương và trong hầu hếtcác ngày số ngoại tệ mua được lớn hơn số ngoại tệ bán ra”.

Từ đầu năm 2011 đến nay:

2 tháng đầu năm 2011 tỷ giá có nhiều thay đổi.  Đầu tiên là vào những ngày gần tết thì tỷ giá nói chung ổn định ở mức 18932VND/USD ở thị trường liên ngân hàng còn ở thị trường tự do thì tỷ giá giao động quanh ngưỡng 21000VND/USD.

Tuy nhiên do thâm hụt thương mại lớn, cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ, chính sách tăng hạn chế nhập khẩu, giảm mức chênh lệch tỷ giá giữa 2 thị trường thì vào ngày 11/02/2010, Ngân hàng Nhà nước chính thức tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18,932 lên 20,693 đồng/ USD, tương đương tăng 9,3%, đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch từ (+/-) 3% xuống còn (+/-) 1%.

Ngoài ra, do sự phục hồi rõ nét của nền kinh tế Hoa Kỳ và mức dự báo tăng trưởng kinh tế nước này được FED đưa ra cho năm 2011 khá cao (từ 3.4%-3.9%), điều này làm cho đồng USD đã tăng giá so với nhiều đồng tiền khác trên thế giới. Nên việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN còn một lý do khác là phù hợp với khả năng giá trị của đồng USD đang tăng lên trên thế giới.

Ngay sau khi quyết định điều chỉnh tỷ giá được ban hành vào ngày 11/02/2011 thì tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do ngay lập tức tăng lên mức 21.700 VND/USD và  những ngày tiếp theo có lúc tăng lên đến 22.300 VND/USD (ngày 21/02/2011).

Vào cuối tháng 3 năm 2011 NHNN ban hành lệnh cấm buôn bán đô la ngoài "chợ đen". Đồng thời giảm lãi suất gửi tiền bằng ngoại tệ từ 3%/ năm xuống còn 2%/năm nhằm hạn chế tình trạng đô la hóa thị trường. Và lệnh cấm buôn bán ngoại tệ vượt giá trần cũng được ban hành nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận được nhiều với nguồn ngoại tệ hơn.

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro