Cac thiet giap ham lop Revenge

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên lóng: The Mighty Oak

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Revenge

Xưởng đóng tàu: Devonport

Đặt lườn: 15 tháng 1 năm 1914

Hạ thủy: 17 tháng 11 năm 1914

Hoạt động: 1 tháng 5 năm 1916

Bị mất: Bị tàu ngầm Đức U-47 đánh chìm ngày 14 tháng 10 năm 1939

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:29.150 tấn (tiêu chuẩn);

33.500 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 189 m (620 ft 6 in)

Mạn thuyền:27 m (88 ft 6 in)

31,1 m (102 ft) sau khi thêm đai chống ngư lôi

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 6 in)

Lực đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons 18 × nồi hơi Yarrow 4 × trục công suất 40.000 mã lực (30 MW)

Tốc độ:37 km/h (20 knot)

Tầm xa:7.400 km (4.000 hải lý)

Quân số:1.009-1.244 (thời bình)

Vũ khí:8 × pháo 381 mm (15 inch) Mk I (4×2) 12 × pháo 152 mm (6 inch) Mk XII nòng đơn 8 × pháo 102 mm (4 inch) (4×2) 12 × pháo phòng không QF 2 pounder (40 mm) (2×8) 4 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vỏ giáp:Đai giáp chính: 330 mm (13 inch) giữa tàu, 102-152 mm (4-6 inch) hai đầu Sàn tàu: cho đến 127 mm (5 inch)Tháp pháo: 330 mm (13 inch) trước mặt, 127 mm (5 inch) hông và nóc Tháp súng nhỏ: cho đến 254 mm (10 inch) Cầu tàu: 279 mm (11 inch)

HMS Royal Oak (08) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Revenge của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, Royal Oak tham gia hoạt động lần đầu tiên trong trận Jutland của Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong thời bình, nó từng phục vụ trong các hạm đội Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Hạm đội Nhà, và đã hơn một lần chịu đựng tai nạn tấn công nhầm. Con tàu trở nên tâm điểm sự chú ý của toàn thế giới vào năm 1928 khi vài sĩ quan cao cấp trên tàu bị xét xử trước tòa án binh do mâu thuẫn cá nhân. Trong cuộc đời phục vụ kéo dài 25 năm, mọi dự định hiện đại hóa Royal Oak không thể khắc phục khuyếm khuyết căn bản nhất là thiếu tốc độ, và khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, nó không còn phù hợp để hoạt động ở tuyến đầu.Royal Oak đang neo đậu trong vịnh Scapa Flow tại Orkney thuộc Scotland khi nó trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Đức U-47 vào ngày 14 tháng 10 năm 1939, trở thành chiếc đầu tiên trong số năm thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia bị đánh chìm trong Thế Chiến II. Tổn thất nhân mạng rất nặng nề: trong số thủy thủ đoàn gồm 1.234 người và thiếu sinh quân của Royal Oak, 833 đã thiệt mạng hay tử thương. Ưu thế áp đảo về số lượng của Hải quân Hoàng gia và các nước Đồng Minh khiến cho việc mất một cựu binh thời Đệ Nhất thế chiến ít làm thay đổi cán cân lực lượng hải quân, nhưng ảnh hưởng đáng kể trên tinh thần trong thời chiến. Sự thành công của cuộc đột kích được ăn mừng rộn rả tại Đức, và mang lại vinh quang như một anh hùng chiến tranh cho vị chỉ huy của chiếc U-boat, Trung tá hải quân Günther Prien, trở thành sĩ quan tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Đức (Kriegsmarine) được tặng thưởng Huân chương Chữ thập sắt Hiệp sĩ. Đối với người Anh, cuộc đột kích thể hiện khả năng của Đức có thể đem hải chiến đến tận vùng biển nhà, và cú sốc đó khiến phải cấp tốc thay đổi các biện pháp an ninh tại các cảng.Hiện nay đang nằm hầu như lật úp ở độ sâu 30 m và thân tàu chỉ cách mặt nước 5 m, Royal Oak được chỉ định là một Nghĩa trang Chiến tranh Quốc gia. Trong một buổi lễ được tổ chức hàng năm đánh dấu ngày mất của con tàu, thợ lặn của Hải quân Hoàng gia đặt một Biểu trưng của Hải quân Hoàng gia dưới nước ở đuôi tàu. Việc tiếp cận xác đắm của con tàu luôn luôn bị ngăn cấm đối với mọi thợ lặn không được cấp phép.

Thiết kế và chế tạo

Lớp Revenge vốn bao gồm Royal Oak được đặt hàng vào năm 1913-1914, được dự định là một phiên bản đốt than rẻ tiền hơn, nhỏ hơn và chậm hơn so với lớp Queen Elizabeth thế hệ siêu-Dreadnought đốt dầu trước đó.[1] Thiết kế, xem ra là một bước lùi về kỹ thuật, là để đáp ứng một phần các mối lo ngại rằng một sự phụ thuộc hoàn toàn vào dầu đốt - lúc đó toàn bộ phải nhập khẩu - sẽ khiến cả một lớp tàu trở nên vô dụng trong trường hợp có sự phong tỏa hàng hải thành công.[2] Mặc khác, than chất lượng cao có thể được cung cấp dồi dào, là nguồn cung cấp ngay tại quê nhà luôn được đảm bảo.[2] Hơn nữa, tương phản với "Hải đội nhanh" của những chiếc Queen Elizabeth, lớp Revenge được dự định sẽ là những tàu chiến có pháo mạnh nhất trong hàng chiến đấu.[3] Royal Oak và các tàu chị em là những tàu chiến lớn đầu tiên của Hải quân Hoàng gia mà việc thiết kế được giám sát bởi Giám đốc Chế tạo Hải quân vừa mới được chỉ định, Sir Eustace Tennyson-D'Eyncourt.Royal Oak được đặt lườn tại xưởng tàu Devonport vào ngày 15 tháng 1 năm 1914, là chiếc thứ tư trong lớp của nó.[a] Lo ngại về khả năng giới hạn của than, đồng thời đảm bảo được nguồn cung cấp dầu mới bằng một thỏa thuận hợp đồng với Anglo-Persian Oil Company, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Hải quân Anh Jackie Fisher hủy bỏ quyết định sử dụng than vào tháng 10 năm 1914.[2] Còn đang trong quá trình chế tạo, Royal Oak được thiết kế lại để trang bị 18 nồi hơi đốt dầu Yarrow cung cấp cho bốn turbine hơi nước Parsons, mỗi chiếc dẫn động trực tiếp một trục chân vịt ba cánh đường kính 2,9 m (9 ft 6 in). Chiếc thiết giáp hạm được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm đó, và sau khi hoàn tất việc trang bị, được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 5 năm 1916 với chi phí cuối cùng là 2.468.269 Bảng Anh.[4] Được đặt tên theo Royal Oak (cây sồi hoàng gia) mà Vua Charles II ẩn nấp sau thất bại của ông trong trận Worcester năm 1651, nó là chiếc tàu chiến thứ tám của Hải quân Hoàng gia mang tên Royal Oak, thay thế cho một chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought bị tháo dỡ năm 1914. Trong khi đang được được chế tạo, nó được tạm thời đặt ký hiệu lườn 67.[5]

Nâng cấp

Royal Oak được tái trang bị giữa những năm 1922 và 1924, khi dàn hỏa lực phòng không của nó được nâng cấp bằng cách thay thế các khẩu QF 76 mm (3 inch) 20 cwt ban đầu bằng QF 102 mm (4 inch) góc cao.[6] Các hệ thống kiểm soát hỏa lực và máy đo tầm xa cho dàn pháo chính và pháo hạng hai được hiện đại hóa, đồng thời việc bảo vệ dưới nước được tăng cường bởi đai chống ngư lôi cho con tàu.[6][7] Các ngăn kín nước bố trí hai bên lườn tàu được thiết kế nhằm giảm hiệu ứng nổ của ngư lôi và tăng cường độ ổn định, nhưng cũng làm tăng chiều rộng mạn thuyền hơn 4 mét.[8]Một đợt tái trang bị ngắn vào mùa Xuân năm 1927 chứng kiến sự bổ sung thêm hai khẩu đội 102 mm (4 inch) phòng không góc cao và tháo bỏ hai khẩu 152 mm (6 inch).[6] Con tàu được tái trang bị lần cuối cùng từ năm 1934 đến năm 1936, khi lớp vỏ giáp sàn tàu được nâng lên độ dày 127 mm (5 inch) bên trên hầm đạn và đến 89 mm (3,5 inch) bên trên các phòng động cơ. Ngoài việc hiện đại hóa chung các hệ thống trên tàu, một máy phóng dành cho thủy phi cơ trinh sát được bố trí bên trên tháp pháo X, và việc phòng không cũng được tăng cường bằng cách tăng gấp đôi số pháo phòng không 102 mm (4 inch) và bổ sung hai khẩu đội QF 2-pounder Mark VIII (pompom) tám nòng trên các bệ nhô ngang hàng với ống khói.[6][8] Cột buồm chính được tái cấu trúc thành kiểu ba chân đủ mang trọng lượng của một phòng định vị vô tuyến và một trạm điều khiển góc cao thứ hai.[6] Vỏ giáp và thiết bị tăng cường khiến cho Royal Oak trở thành một trong những con tàu trang bị tốt nhất trong lớp Revenge, nhưng lượng rẽ nước gia tăng khiến tầm nước lớn hơn và tốc độ tối đa bị giảm đi nhiều knot.[6]

Lịch sử hoạt động

Chiến tranh Thế giới thứ nhất

Chiến tranh Thế giới thứ nhất đã diễn ra gần hai năm khi Royal Oak được đưa vào hoạt động. Nó được phân về Đội 3 của Hải đội Thiết giáp hạm 4 thuộc Hạm đội Grand Anh Quốc, và trong vòng một tháng, được lệnh cùng với hầu hết hạm đội đối đầu với Hạm đội Biển khơi Đức trong trận Jutland. Dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Crawford Maclachlan,[9] Royal Oak rời Scapa Flow chiều tối ngày 30 tháng 5 cùng các thiết giáp hạm Superb, Canada và soái hạm của Đô đốc John Jellicoe là Iron Duke.[10][11]Trong trận chiến bất phân thắng bại vào ngày hôm sau, Royal Oak đã bắn tổng cộng 38 quả đạn pháo 380 mm (15 inch) và 84 quả 152 mm (6 inch),[12] bắn trúng ba phát vào chiếc tàu chiến-tuần dương Đức Derfflinger, loại khỏi vòng chiến một trong các tháp pháo của nó, cùng một phát trúng vào tàu tuần dương Wiesbaden. Bản thân nó tránh được thiệt hại, cho dù vào một lúc trong trận đánh nó phải chịu đựng hỏa lực pháo bắn tới.[13]Sau trận đánh, Royal Oak được cho chuyển sang Hải đội Thiết giáp hạm 1. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1918, tuần lễ cuối cùng của Đệ Nhất thế chiến, nó đang thả neo ngoài khơi Burntisland tại Firth of Forth cùng với tàu sân bay Campania (nguyên là một tàu biển chở khách từng đoạt giải Blue Riband của hãng tàu Cunard Line trước khi cải biến thành tàu sân bay nhằm phục vụ trong chiến tranh) và tàu chiến-tuần dương Glorious. Một cơn gió lốc bất ngờ mạnh đến cấp 10 đã khiến Campania bị đứt dây neo và va chạm với Royal Oak rồi với chiếc Glorious tải trọng 22.000 tấn. Cả Royal Oak và Glorious chỉ bị hư hại nhẹ; nhưng Campania bị thủng lườn tàu do cú va chạm ban đầu với Royal Oak. Phòng động cơ của con tàu bị ngập nước, và nó nghiêng về phía đuôi và chìm năm giờ sau đó cho dù không có tổn thất về nhân mạng.[14]Vào cuối Thế Chiến I, Royal Oak đã hộ tống nhiều tàu chiến thuộc Hạm đội Biển khơi Đức đã đầu hàng đi từ Firth of Forth đến nơi bị chiếm giữ ở Scapa Flow,[15] và đã hiện diện trong một buổi lễ tại Pentland Firth để chào đón những con tàu khác khi chúng nối gót.

Giữa hai cuộc thế chiến

Việc tái bố trí Hải quân Hoàng gia trong thời bình đã chuyển Royal Oak sang Hải đội Thiết giáp hạm 2 thuộc Hạm đội Đại Tây Dương. Được hiện đại hóa trong những năm 1922-1924, nó được chuyển sang Hạm đội Địa Trung Hải vào năm 1926 và đặt căn cứ tại cảng Grand thuộc Malta.Vào đầu năm 1928, tại đây đã chứng kiến một sự kiện nổi tiếng mà báo chí đương thời gán cho cái tên "Cuộc binh biến Royal Oak".[16] Những gì bắt đầu đơn giản chỉ là một sự bất hòa giữa Chuẩn Đô đốc Bernard Collard và hai sĩ quan cao cấp trên Royal Oak là Đại tá Hải quân Kenneth Dewar và Trung tá Henry Daniel về ban nhạc của buổi dạ vũ trong phòng sĩ quan,[b] đã chuyển thành một mối hiềm thù cá nhân gay gắt kéo dài nhiều tháng.[17] Dewar và Daniel buộc tội Collard về việc "bới móc trả thù" và công khai làm nhục và xúc phạm họ trước mặt thủy thủ đoàn; đáp trả lại, Collard buộc tội chống lại hai người không tuân hành mệnh lệnh và đối xử với ông ta "tệ hơn là một học viên sĩ quan".[18] Khi Dewar và Daniel gửi thư than phiền lên cấp trên trực tiếp của Collard, Phó Đô đốc John Kelly, ông này lập tức chuyển thẳng lên Tổng tư lệnh, Đô đốc Sir Roger Keyes. Khi nhận ra mối quan hệ giữa hai người và vị Đô đốc đã đổ vỡ không thể hàn gắn được, Keyes cách chức cả ba người và gửi họ quay trở về Anh Quốc, trì hoãn một cuộc tập trận hải quân lớn.[19] Báo chí tung câu chuyện ra toàn thế giới, mô tả sự việc, với một chút cường điệu, như một cuộc "binh biến".[20] Sự quan tâm của công chúng lên đến mức dấy nên nỗi lo ngại của Vua George V, người đã cho triệu kiến Bộ trưởng Hải quân William Bridgeman để yêu cầu giải thích.[20]Do những lá thư than phiền, Dewar và Daniel bị buộc tội, theo cách khá tranh luận, vì đã viết ra những tài liệu mang tính lật đổ.[22]Trong hai phiên tòa án quân sự được báo chí theo dõi thật chi tiết, cả hai bị xem là có tội và bị khiển trách nặng nề, dẫn đến việc Daniel từ nhiệm khỏi Hải quân. Bản thân Collard bị báo chí và Quốc hội phê phán nặng nề vì đã quá đáng trong cách cư xử, và sau khi được Bridgeman báo trước là "không phù hợp để giữ những vị trí chỉ huy cao cấp",[23] bị buộc phải nghỉ hưu khỏi phục vụ.[24]Trong ba người, chỉ có Dewar tiếp tục nghề nghiệp của mình,[25] cho dù bị tổn hại: ông tiếp tục ở lại phục vụ trong Hải quân Hoàng gia qua một loạt các chức vụ nhỏ và một năm sau đó được thăng Chuẩn Đô đốc một ngày trước khi nghỉ hưu.[26] Daniel dự tính hành nghề nhà báo, nhưng sau khi dự định này cùng các cuộc phiêu lưu khác không thành công, ông biến mất trong tối tăm và sức khỏe kém tại Nam Phi.[27] Collard lui về cuộc sống dân sự và không bao giờ tuyên bố công khai về sự kiện này lần nào nữa.Vụ xì căng đan chứng tỏ một sự tổn hại đến danh tiếng của Hải quân Hoàng gia, vốn đang là lực lượng hải quân lớn nhất thế giới vào thời đó, và nó bị chế nhạo ở trong nước lẫn nước ngoài qua những bài xã luận, tranh châm biếm,[28] và ngay cả một vở oratorio jazz hài được viết bởi Erwin Schulhoff.[29] Một hậu quả của sự việc bị tổn hại này là quyết định của Bộ Hải quân xem xét lại những phương cách mà sĩ quan hải quân có thể sử dụng để than phiền về thái độ của cấp trên.

Nội chiến Tây Ban Nha

Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, Royal Oak được giao thực hiện các cuộc "tuần tra không can thiệp" chung quanh bán đảo Iberia. Trong một chuyến tuần tra như vậy cách Gibraltar khoảng 55 km (30 hải lý) về phía Đông vào ngày 2 tháng 2 năm 1937, nó bị ba máy bay của lực lượng Cộng Hòa tấn công. Chúng đã ném ba quả bom (chỉ có hai quả phát nổ) ở khoảng cách 500 m bên mạn phải mũi con tàu, cho dù không gây ra thiệt hại gì.[30] Đại biện Ngoại giao Anh Quốc đã phản kháng sự kiện này lên Chính quyền Cộng hòa, vốn đã nhìn nhận lỗi lầm và đưa ra lời xin lỗi về cuộc tấn công.[31][32] Đến cuối tháng đó, đang khi ở ngoài khơi Valencia vào ngày 23 tháng 2 năm 1937; trong khi đang xảy ra một cuộc không kích của phe Quốc gia, Royal Oak bị bắn trúng một quả đạn pháo phòng không từ một vị trí của phe Cộng hòa,[30] khiến năm người bị thương, kể cả thuyền trưởng của Royal Oak là T.B. Drew.[33] Tuy nhiên người Anh đã không phản kháng phe Cộng hòa trong dịp này, cho rằng sự kiện trên là một "thiên tai".[34] Sang tháng 5 năm 1937, nó cùng với chiếc HMS Forester đã hộ tống SS Habana, một tàu biển chở hành khách, vận chuyển trẻ em Basque tị nạn sang Anh Quốc.[35] Đến tháng 7, khi chiến sự tại phía Bắc Tây Ban Nha bùng lên, Royal Oak đã cùng với thiết giáp hạm HMS Resolution cứu thoát chiếc tàu hơi nước Gordonia khi các tàu chiến phe Quốc gia tìm cách chiếm nó ngoài khơi Santander. Tuy nhiên vào ngày 14 tháng 7 nó đã không thể ngăn cản tàu tuần dương phe Quốc gia Almirante Cervera chiếm giữ chiếc tàu chở hàng Anh Molton khi chiếc này tìm cách vào Santander. Chiếc tàu buôn đang tham gia triệt thoái những người tị nạn.[36]Cùng thời gian này, Royal Oak tham gia cùng 14 tàu chiến khác của Hải quân Hoàng gia trong cuốn phim Anh Our Fighting Navy năm 1937, cốt truyện xoay quanh một cuộc đảo chính tại một nước cộng hòa hư cấu Bianco tại Nam Phi. Royal Oak đóng vai một thiết giáp hạm nổi loạn El Mirante, khi lực lượng nắm quyền buộc một thuyền trưởng Anh phải chọn lựa giữa người yêu hay nghĩa vụ của ông.[37] Cuốn phim không được giới phê bình đón nhận, nhưng cũng có được các cảnh quay ấn tượng về các hoạt động hải quân.[38]

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Vào năm 1938, Royal Oak được cho quay lại Hạm đội Nhà và được đặt làm soái hạm của Hải đội Thiết giáp hạm 2 đặt căn cứ tại Portsmouth. Ngày 24 tháng 11 năm 1938, nó đưa di hài của Hoàng hậu Maud của Na Uy vốn sinh trưởng tại Anh quay trở về Na Uy để cử hành lễ quốc tang tại Oslo, với chồng là Vua Haakon VII cùng đi theo trên tàu.[39] Được cho ngừng hoạt động vào tháng 12 năm 1938, Royal Oak tái hoạt động vào tháng 6 tiếp theo, rồi đến mùa Hè năm 1939 thực hiện một chuyến đi huấn luyện ngắn tại eo biển Anh Quốc chuẩn bị cho một đợt bố trí kéo dài 30 tháng tại Địa Trung Hải, khi thủy thủ đoàn được phát trước những bộ đồng phục nhiệt đới.[40] Do tình trạng chiến tranh có thể xảy ra, chiếc thiết giáp hạm lại được chuyển hướng lên phía Bắc đến Scapa Flow, và nó neo đậu tại đây khi chiến tranh được tuyên bố vào ngày 3 tháng 9.[41]Vào tháng 10, Royal Oak tham gia truy tìm chiếc tàu chiến-tuần dương Đức Gneisenau, vốn nhận được lệnh tiến vào Bắc Hải nhằm đánh lạc hướng cho các thiết giáp hạm bỏ túi Deutschland và Admiral Graf Spee tiến hành các hoạt động cướp tàu buôn.[42] Cuộc tìm kiếm không mang lại kết quả, đặc biệt là đối với Royal Oak, khi tốc độ tối đa vào lúc đó chỉ có chưa đến 37 km/h (20 knot), không đủ để theo kịp phần còn lại của hạm đội.[42] Ngày 12 tháng 10, Royal Oak quay trở về Scapa Flow trong tình trạng kém, méo mó bởi những trận bão tại Bắc Đại Tây Dương, nhiều thuyền cứu sinh bị vỡ và nhiều khẩu pháo cỡ nhỏ không hoạt động.[42][43] Nhiệm vụ vừa qua đã bộc lộ sự lạc hậu của một tàu chiến cũ 25 tuổi.[42] Lo ngại về một cuộc do thám trên không gần đây của máy bay trinh sát Đức báo trước một cuộc không kích sắp xảy ra tại Scapa Flow, Đô đốc Tư lệnh Hạm đội Nhà Charles Forbes ra lệnh cho phần lớn hạm đội phân tán đến các cảng an toàn hơn. Tuy nhiên Royal Oak được giữ lại, các khẩu pháo phòng không của nó được xem là một bổ sung hữu ích vào hệ thống phòng thủ tại Scapa Flow còn đang khan hiếm.[43]

Bị đánh chìm

Scapa Flow

Scapa Flow là một nơi neo đậu gần như lý tưởng. Tọa lạc tại trung tâm của quần đảo Orkney ngoài khơi bờ biển phía Bắc của Scotland, cảng tự nhiên này đủ lớn để chứa toàn bộ Hạm đội Grand,[44] được vây quanh bởi một chuỗi các hòn đảo phân cách bởi các eo biển nông có dòng nước thủy triều chảy xiết. Mối đe dọa của U-boat đã được nhận thức từ lâu, và một loạt các biện pháp phòng ngự đã được trang bị vào những năm đầu của Đệ Nhất thế chiến.[45] Các tàu ụ cản được đánh chìm tại các điểm trọng yếu, và các hàng rào nổi được bố trí để ngăn chặn ba cửa biển ra vào rộng nhất. Được vận hành bằng tàu kéo cho phép các tàu bạn có thể băng ngang, chúng từng được cho là có thể để lọt, nhưng khá hiếm hoi, một chỉ huy U-boat gan dạ có thể tìm cách thoát qua mà không bị phát hiện trước khi hàng rào được đóng lại.[45] Hai tàu ngầm từng mưu toan xâm nhập trong chiến tranh đã gặp phải số phận không may mắn. Vào ngày 23 tháng 11 năm 1914, U-18 bị đâm thủng hai lần trước khi mắc cạn và toàn bộ thủy thủ đoàn bị bắt;[46][47] và chiếc UB-116 bị máy dò âm dưới nước phát hiện và bị tiêu diệt với tổn thất toàn bộ thủy thủ đoàn vào ngày 28 tháng 10 năm 1918.[48][49]Scapa Flow cung cấp nơi neo đậu chính cho Hạm đội Grand Anh Quốc trong phần lớn thời gian của Chiến tranh Thế giới thứ nhất, nhưng trong những năm giữa hai cuộc chiến, chúng được chuyển đến Rosyth có vị trí thuận tiện hơn thuộc Firth of Forth.[45][50] Tuy nhiên Scapa Flow được tái sử dụng khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp bắt đầu, trở thành một căn cứ của Hạm đội Nhà Anh Quốc.[45] Các công trình phòng thủ thiên nhiên và nhân tạo, trong khi vẫn chắc chắn, được nhận biết là cần phải được cải thiện; và trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến, đang trong quá trình được tăng cường thêm các tàu ụ cản.[51]

Chiến dịch Đặc biệt P: Cuộc đột kích của U-47

Chỉ huy lực lượng tàu ngầm Hải quân Đức Karl Dönitz đặt ra một kế hoạch tấn công Scapa Flow bằng tàu ngầm trong vòng vài ngày sau khi chiến tranh nổ ra.[52] Ông nhắm vào hai mục đích: một là, việc dời chỗ Hạm đội Nhà khỏi Scapa Flow sẽ thả lỏng sự phong tỏa của Anh tại Bắc Hải cho phép Đức tự do hơn trong việc tấn công các đoàn tàu vận tải tại Đại Tây Dương; hai là, đòn tấn công sẽ là một hành động biểu trưng cho sự báo thù, tấn công đúng vào nơi mà Hạm đội Biển khơi Đức đã đầu hàng tự đánh đắm sau khi Đức thua trận trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Dönitz đã chọn Trung tá Hải quân (Kapitänleutnant) Günther Prien cho nhiệm vụ này,[52][c] dự trù cuộc đột kích vào đêm 13/14 tháng 10 năm 1939, khi thủy triều cao và bầu trời không trăng.[52]Dönitz được giúp đỡ bởi những bức ảnh chất lượng cao có được từ chuyến bay trinh sát, trình bày những điểm yếu trong hệ thống phòng thủ và một sự thừa thãi các mục tiêu.[52] Ông hướng dẫn Prien xâm nhập Scapa Flow từ hướng Đông qua eo biển Kirk, băng qua phía Bắc Lamb Holm, một đảo nhỏ và thấp nằm giữa Burray và Mainland.[53] Prien thoạt tiên nhầm lẫn eo biển Skerry xa hơn về phía Nam là con đường được chọn, và bất ngờ nhận ra U-47 đang hướng đến một lối đi nông bị bịt kín. Ông buộc phải ra lệnh quay mũi nhanh sang hướng Đông Bắc.[54] Trên mặt biển, và được chiếu sáng bởi nền bầu trời bắc cực quang sáng rõ,[55] chiếc tàu ngầm đi qua lại giữa hai tàu ụ cản Seriano và Numidian bị đánh chìm, tự mắc cạn tạm thời trên một sợi cáp căng từ chiếc Seriano.[53] Nó bị bắt gặp ngắn ngủi trong ánh đèn pha của một chiếc taxi trên bờ, nhưng người lái xe không đưa ra tín hiệu báo động nào.[56][d] Sau khi lọt vào cảng lúc 00 giờ 27 phút ngày 14 tháng 10, Prien ghi dòng chữ đắc thắng Wir sind in Scapa Flow!!![e] vào nhật ký con tàu rồi chuyển sang hướng Tây Nam đi nhiều kilô-mét trước khi quay ngược lại.[53] Hoàn toàn bất ngờ đối với ông, chỗ neo đậu hiện ra hầu như trống trơn; Prien không thể biết rằng mệnh lệnh phân tán hạm đội của Forbes đã dời đi gần hết các mục tiêu lớn nhất. Lúc đó U-47 đã hướng mũi thẳng đến bốn chiếc tàu chiến, bao gồm chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Belfast vừa mới được đưa ra hoạt động, đang thả neo ngoài khơi Flotta và Hoy ở khoảng cách 8 km, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy là Prien đã nhìn thấy chúng.[57]Trên đường quay trở lại, một trinh sát viên trên cầu tàu nhìn thấy Royal Oak nằm cách khoảng 4.000 m về phía Bắc, nhận diện chính xác nó là một thiết giáp hạm thuộc lớp Revenge. Hầu như che khuất đàng sau nó là một con tàu thứ hai mà chỉ có mũi được nhìn thấy bởi U-47. Prien nhầm lẫn nó là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Renown, tình báo Đức sau đó gán cho nó là chiếc Repulse.[53] Thực ra đó chính là tàu chở thủy phi cơ thời Đệ Nhất thế chiến Pegasus.[58]Lúc 00 giờ 58 phút, U-47 bắn một loạt ba quả ngư lôi từ các ống phóng trước mũi, một quả thứ tư kẹt lại trong ống phóng. Hai quả đã không tìm thấy mục tiêu, chỉ có một quả ngư lôi duy nhất đánh trúng mũi chiếc Royal Oak lúc 01 giờ 04 phút, làm chấn động con tàu khiến thủy thủ đoàn tỉnh giấc.[59] Không có hư hại nào được nhận thấy, cho dù dây neo bên mạn phải bị cắt đứt, kêu loảng xoảng ồn ào khi nó bị trượt xuống. Ban đầu, người ta đoán rằng có một vụ nổ bên trong ở kho chứa chất dễ cháy phía trước con tàu, nơi dùng để chứa những vật liệu như dầu hỏa. Bị ám ảnh bởi vụ nổ không giải thích được đã từng phá hủy HMS Vanguard tại Scapa Flow vào năm 1917,[47][f] một thông báo được truyền qua hệ thống tăng âm của Royal Oak yêu cầu kiểm tra nhiệt độ các hầm đạn,[g] nhưng nhiều thủy thủ đã quay trở lại giường ngủ, không nhận thức được rằng con tàu đang bị tấn công.[59][60]Prien xoay tàu ngầm của mình và tìm cách bắn một loạt khác qua các ống phóng phía đuôi, nhưng tất cả lại trượt. Nạp lại các ống phóng phía mũi, ông phóng thêm một loạt ba quả, tất cả đều nhắm vào Royal Oak,[53] Lần này ông thành công: lúc 01 giờ 16 phút cả ba liên tiếp nhau đánh trúng chiếc thiết giáp hạm ở giữa tàu và phát nổ.[61][62] Các vụ nổ làm thủng một lổ lớn trên vỏ giáp sàn tàu, phá hủy phòng ăn thủy thủ đoàn và làm mất điện.[63] Thuốc phóng từ một hầm đạn bị kích nổ và các đám cháy nổ nhanh chóng lan truyền qua các khoảng trống bên trong tàu.[63] Royal Oak nhanh chóng bị nghiêng khoảng 15°, đủ để đẩy các lỗ cửa sổ đang mở ra bên mạn phải tàu xuống dưới mực nước.[h] Nó lật nghiêng hơn nữa qua mạn tàu đến 45°, giữ lại đó trong nhiều phút trước khi biến mất dưới mặt nước lúc 01 giờ 29 phút, chỉ 13 phút sau đợt tấn công thứ hai của Prien.[64] 833 người đã tử nạn cùng con tàu, bao gồm Chuẩn Đô đốc Henry Blagrove, Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 2. Hơn một trăm trong số những người chết là những thiếu sinh hải quân chưa đến 18 tuổi, tổn thất lớn nhất loại này từ trước đến nay trong một hoạt động của hải quân Hoàng gia.[65] Chiếc thuyền gỗ của Đô đốc neo đậu bên mạn thuyền cũng bị kéo chìm theo cùng Royal Oak.

Các nỗ lực cứu hộ

Tàu liên lạc Daisy 2 dưới sự điều khiển của John Gatt thuộc Hải quân Trừ bị đã neo đậu qua đêm bên mạn trái của Royal Oak. Khi chiếc thiết giáp hạm đang chìm bắt đầu nghiêng sang mạn phải, Gatt ra lệnh cho Daisy 2 cắt dây neo, nhưng nó cũng tạm thời bị mắc vào đai giáp chống ngư lôi của Royal Oak đang nhô lên và bị nhấc khỏi mặt biển một lúc trước khi tự thoát ra được.Nhiều người trong số thủy thủ đoàn của Royal Oak tìm cách nhảy được ra khỏi con tàu đang chìm không mặc gì hơn là đồ ngủ trên người và đã không chuẩn bị cho làn nước lạnh giá. Một lớp dày dầu đốt đã bao phủ mặt nước, tràn vào phổi và bụng thủy thủ và làm vướng víu những cố gắng bơi. Trong số những người tìm cách bơi qua khoảng cách 800 mét đến bờ biển gần nhất, chỉ có một nhóm nhỏ là sống sót.[68] Gatt đã cho bật sáng những đèn pha trên chiếc Daisy 2 rồi cùng với người của mình tìm cách cứu được 386 người khỏi mặt nước, kể cả chỉ huy của Royal Oak là Thuyền trưởng, Đại tá William Benn.[69] Những nỗ lực cứu hộ được tiếp tục trong hai giờ rưỡi cho đến gần 04 giờ 00 sáng, khi Gatt từ bỏ việc tìm kiếm những người còn sống sót và chuyển những người đã vớt được sang Pegasus. Cho dù được trợ giúp bởi những chiếc thuyền của Pegasus và của cảng,[70] ông là người đã vớt được hầu hết những người sống sót, một hành động mà vì đó ông được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Phục vụ Dũng cảm,[71] phần thưởng quân sự duy nhất được phía Anh trao tặng có liên quan đến thảm họa này.[72]

Diễn biến tiếp theo

Người Anh thoạt tiên lẫn lộn về nguyên nhân làm chìm tàu, suy đoán là do một vụ nổ trên tàu hoặc một cuộc không kích.[45] Sau khi nhận thức rằng một cuộc tấn công bằng tàu ngầm là lời giải thích duy nhất khả thi, các biện pháp được tiến hành để khóa các lối ra vào vũng biển, nhưng U-47 đã thoát ra và đang trên đường quay trở về Đức. BBC thông báo tin tức chìm tàu vào gần trưa ngày 14 tháng 10, và tin tức trên radio được tình báo vô tuyến Đức và bản thân U-47 nghe được. Các thợ lặn được gửi đến xác tàu đắm sáng hôm đó sau vụ nổ đã tìm thấy những mảnh vụn của một quả ngư lôi Đức, xác nhận phương tiện dùng để tấn công.Ngày 17 tháng 10, Bộ trưởng Hải quân Anh Quốc Winston Churchill chính thức thông báo việc mất chiếc Royal Oak đến Hạ nghị viện, trước tiên thừa nhận rằng cuộc đột kích là "một kỳ tích đáng kể của kỹ năng chuyên nghiệp và dũng cảm", nhưng khẳng định sự mất mát không ảnh hưởng đến cán cân lực lượng giữa các thế lực hải quân.[73] Một Ủy ban Điều tra Bộ Hải quân được triệu tập từ ngày 18 đến ngày 24 tháng 10 để xác định những hoàn cảnh mà cảng Scapa Flow bị xâm nhập. Cùng lúc đó,Hạm đội Nhà được lệnh ở lại các cảng an toàn hơn cho đến khi các vấn đề về an toàn tại đây được giải quyết.[74] Churchill bị buộc phải trả lời những chất vấn của Quốc hội là tại sao Royal Oak có trên tàu quá nhiều thiếu sinh hải quân,[75] mà hầu hết đã bị thiệt mạng. Ông đã bảo vệ cho truyền thống của Hải quân Hoàng gia gửi những thiếu sinh quân tuổi từ 15 đến 17 ra biển; nhưng sau đó việc thực hành này nói chung được chấm dứt không lâu sau vụ thảm họa, và những người dưới 18 tuổi chỉ phục vụ trên những tàu chiến thường trực trong những hoàn cảnh rất ngoại lệ.[65]Bộ Tuyên truyền Đức quốc xã nhanh chóng lợi dụng sự thành công của cuộc đột kích,[6][76] và những tin tức truyền thanh theo lời tường thuật của Hans Fritzsche trình bày một cảm giác chiến thắng suốt nước Đức.[77] Prien và thủy thủ đoàn của ông về đến Wilhelmshaven lúc 11 giờ 44 phút ngày 17 tháng 10 và lập tức được hoan nghênh như những anh hùng, khi biết được rằng Prien được tặng thưởng Huân chương Chữ thập sắt Hạng nhất, và mỗi người trong thủy thủ đoàn Huân chương Chữ thập sắt Hạng hai.[78] Hitler gửi máy bay riêng của mình đến để đưa toàn bộ thủy thủ đoàn đến Berlin, nơi ông trao thêm cho Prien Huân chương Chữ thập sắt Hiệp sĩ.[79] Phần thưởng này, lần đầu tiên được trao tặng cho một sĩ quan tàu ngầm Đức, sau này trở thành một tưởng thưởng thường lệ dành cho các chỉ huy U-Boat thành công. Dönitz được thưởng công bằng việc thăng hàm từ Đại tá lên Chuẩn Đô đốc và là Đô đốc Tư lệnh hạm đội U-Boat.[78]Prien được đặt biệt danh "The Bull of Scapa Flow" (Con bò Scapa Flow) và thủy thủ đoàn của ông đã trang trí tháp điều khiển của U-47 bằng một biểu trưng con bò khịt mũi, sau này được lấy làm biểu tượng cho cả Hải đội U-boat 7. Bản thân ông được nhiều lời mời phỏng vấn trên radio và báo chí,[78] và quyển tự truyện của ông được xuất bản một năm sau đó với tựa đề Mein Weg nach Scapa Flow.[i] Được viết thuê bởi một nhà báo Đức, trong những năm sau chiến tranh một số điểm được nêu liên quan đến những sự kiện vào tháng 10 năm 1939 bị đặt nghi vấn rất nhiều.[80][81]Báo cáo chính thức của Bộ Hải quân Anh Quốc về thảm họa lên án hệ thống phòng thủ tại Scapa Flow, khiển trách Đô đốc chỉ huy Orkney và Shetland,Sir Wilfred French, về tình trạng không chuẩn bị của chúng. French bị đưa về danh sách nghỉ hưu,[82] mặc dù đã lên tiếng cảnh báo vào mùa Hè trước đó về hệ thống phòng thủ chống tàu ngầm kém cỏi của Scapa Flow, và tình nguyện đích thân đưa một con tàu nhỏ hoặc tàu ngầm băng qua các tàu ụ cản để chứng minh quan điểm của mình.[83] Theo lệnh của Churchill, các con đường tiếp cận phía Đông vào Scapa Flow được lấp kín bằng đường nổi bê-tông nối liền Lamb Holm, Glimps Holm, Burray và South Ronaldsay đến Mainland. Được xây dựng chủ yếu bởi tù binh chiến tranh người Ý,[84] Churchill Barriers, như chúng được gọi, cuối cùng cũng hoàn tất vào tháng 9 năm 1944, cho dù chỉ được chính thức khai trương không lâu sau Ngày chiến thắng vào tháng 5 năm 1945.[85] Giờ đây chúng là một phần của hạ tầng kiến trúc vận tải tại Orkney, mang con đường A961 giữa các hòn đảo.Trong những năm tiếp theo, một tin đồn lan truyền là Prien đã được hướng dẫn vào Scapa Flow bởi Alfred Wehring, một điệp viên Đức sinh sống tại Orkney dưới vỏ bọc một thợ đồng hồ người Thụy Sĩ tên Albert Oertel.[86] Sau cuộc tấn công, Oertel đào thoát trên chiếc tàu ngầm B-06 quay trở về Đức.[87] Bài tường thuật các sự kiện có nguồn gốc từ một bài báo của phóng viên Curt Riess đăng trên số ngày 16 tháng 5 năm 1942 của tạp chí Mỹ Saturday Evening Post rồi sau đó được thêm thắt bởi các tác giả khác.[86][88]Tuy nhiên, các cuộc tìm kiếm sau chiến tranh trong hồ sơ lưu trữ tại Đức lẫn Orkney đều không thể tìm thấy những chứng cứ cho sự hiện hữu của Oertel hay Wehring hoặc một tàu ngầm có tên B-06, và toàn bộ câu chuyện được xem là hư cấu.[89][90]

Xác tàu đắm

Nghĩa trang Chiến tranh Quốc gia

Mặc dù Royal Oakchìm ở vùng nước tương đối nông, đa số các thi thể bên trong nó đã không thể lấy ra được. Được đánh dấu bằng một chiếc phao tại tọa độ 58°55′50″N 2°59′00″W, xác tàu đắm được chỉ định là một Nghĩa trang Chiến tranh Quốc gia, và mọi việc bơi lặn hay bất kỳ hình thức khảo sát không có giấy phép nào đều bị ngăn cấm theo Đạo luật Bảo vệ Di sản Quân sự 1986.[91] Trong điều kiện nước trong, có thể thấy lườn tàu bị lật úp ở khoảng cách 5 mét từ mặt nước. Các ký tự làm bằng đồng tạo nên tên con tàu Royal Oak bị tháo dỡ bởi như vật kỷ niệm của một người bơi lặn nghiệp dư trong những năm 1970. Chúng được trao trả sau gần hai mươi năm và hiện đang được trưng bày tại trung tâm du khách Scapa Flow ở Lyness thuộc Hoy. Việc mất chiếc Royal Oak được tưởng nhớ trong một buổi lễ tổ chức hàng năm trong đó thợ lặn của Hải quân Hoàng gia đặt một Biểu trưng Hải quân Hoàng gia (White Ensign) dưới nước ở đuôi tàu.[92] Một đài tưởng niệm tại Nhà thờ St Magnus ở Kirkwall gần đó trưng bày một biển đồng dành để tưởng nhớ những người đã thiệt mạng, phía sau một quyển sách ghi danh sách tên của họ.Danh sách này đã không được Chính phủ công bố cho đến khoảng 40 năm sau vụ đánh chìm.Mỗi tuần một trang của cuốn sách được lật qua. Chiếc chuông của con tàu được vớt trong những năm 1970, và sau khi phục chế được bổ sung vào đài tưởng niệm tại St Magnus.[93] Một số thi thể, bao gồm những người không thể nhận diện, được chôn ở nghĩa trang hải quân tại Lyness.[94]

Sự quan tâm về môi trường

Royal Oak chìm với khoảng 3.000 tấn dầu đốt trên tàu, số lượng chính xác không thể biết được vì những ghi chép đã bị mất cùng với con tàu. Dầu rỉ ra từ lườn tàu bị rỉ sét với tốc độ ngày càng tăng trong nhứng năm 1990 và những sự lo ngại về tác động đến môi trường đã khiến Bộ Quốc phòng phải cân nhắc các phương án tháo rút dầu.[95] Tình trạng hiện tại của Royal Oak như một Nghĩa trang Quốc gia đòi hỏi các cuộc khảo sát và mọi kỹ thuật được đề nghị nhằm tháo rút dầu phải được thực hiện thận trọng: các kế hoạch vào những năm 1950 để cho nổi và tháo dỡ xác tàu đắm đã bị hủy bỏ do sự phản đối của công chúng.[96] Ngoài những mối quan tâm về đạo đức, những hoạt động được quản lý kém còn có thể đưa đến mất cân bằng xác tàu đắm, đưa đến việc thải ra môi trường với quy mô lớn số dầu còn lại;[97] hơn nữa con tàu vẫn còn đang chứa nhiều tấn vũ khí chưa nổ.[98]Bộ Quốc phòng Anh ủy quyền cho Đội điều tra Đơn vị lặn Khảo cổ học thực hiện một loạt các khảo sát bằng phương pháp Sonar quét cạnh bên để chụp ảnh xác tàu đắm và đánh giá tình trạng của nó.[99] Những hình ảnh sonar độ phân giải cao trình bày chiếc Royal Oak nằm hầu như lật úp với cấu trúc thượng tầng của nó cắm vào đáy biển. Mũi tàu bị bắn tung bởi quả ngư lôi đầu tiên của Prien và một lỗ trống to bên mạn phải là kết quả của ba vụ nổ từ loạt thứ hai thành công.[98][100] Sau nhiều năm trì hoãn, công việc bơm dầu được bắt đầu và đến năm 2006, mọi thùng chứa hai đáy đều đã sạch dầu. Một sơ đồ thử nghiệm vào năm 2007 để tháo dầu khỏi các thùng chứa cánh bên trong bằng thiết bị cắt lạnh đã thành công và Bộ Quốc phòng dự định tiếp tục các nỗ lực rút hết số dầu còn lại có thể tiếp cận được trong những năm tiếp theo.[98] Các điều kiện hoạt động khó khăn buộc phải giới hạn công việc này trong những tháng mùa Hè.

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Revenge

Xưởng đóng tàu:William Beardmore and Company, Dailmuir, Scotland

Đặt lườn: 12 tháng 11 năm 1913

Hạ thủy: 12 tháng 6 năm 1916

Hoạt động: 1 tháng 9 năm 1917

Bị mất:Bị tháo dỡ năm 1949

Ngừng hoạt động:1946

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:28.000 tấn (tiêu chuẩn);

31.200 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 190 m (624 ft)

Mạn thuyền:27 m (88 ft 6 in)

31,1 m (102 ft) sau khi thêm đai chống ngư lôi

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước 18 × nồi hơi 4 × trục công suất 40.000 mã lực (30 MW)

Tốc độ:43 km/h (23 knot) 39 km/h (21 knot) sau khi thêm đai chống ngư lôi (1917).33 km/h (18 knot) (1939)

Quân số:997-1.146

Vũ khí:8 × pháo 381 mm (15 inch) Mk I (4×2) 14 × pháo 152 mm (6 inch) Mk XII nòng đơn 2 × pháo phòng không QF 76 mm (3 inch) 20 cwt 4 × pháo QF 3 pounder (47 mm) Vickers 4 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vỏ giáp:Đai giáp chính: 330 mm (13 inch) giữa tàu, 102-152 mm (4-6 inch) hai đầu Sàn tàu: cho đến 127 mm (5 inch)Tháp pháo: 330 mm (13 inch) trước mặt, 127 mm (5 inch) hông và nóc Tháp súng nhỏ: cho đến 254 mm (10 inch)Cầu tàu: 279 mm (11 inch)

HMS Ramillies (07) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Revenge của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. Ramillies từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai; và mặc dù đã cũ vào giai đoạn Thế Chiến II, nó vẫn hoạt động tích cực trong nhiều nhiệm vụ như đối đầu tàu chiến đối phương, hộ tống vận tải và bắn pháo bờ biển. Ramillies được đưa về lực lượng dự bị từ năm 1945 và được tháo dỡ vào năm 1949.

Thiết kế và chế tạo

Ramillies Được chế tạo bởi hãng William Beardmore and Company tại Dalmuir thuộc Scotland. Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 6 năm 1916 và đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 9 năm 1917. Việc hoàn tất nó bị chậm trễ vì bánh lái của nó bị hư hại trong khi hạ thủy. Nó được kéo rất khó khăn đến xưởng Cammell Laird trên sông Mersey để sửa chữa.[1] Giống như những thiết giáp hạm cùng lớp Revenge, Ramillies mắc phải khiến khuyết là dàn pháo hạng hai của nó, những khẩu pháo 152 mm (6 inch) được bố trí quá thấp ngay trên sàn tàu chính. Chúng có xu hướng bị quá ướt khi thời tiết xấu.Vì sự nhận thức về nguy cơ tấn công bởi ngư lôi ngày càng gia tăng từ tàu ngầm và tàu khu trục, Ramillies, được hoàn tất trễ hơn những con tàu chị em cùng lớp, được trang bị một đai giáp chống ngư lôi. Chúng là những ngăn suôn mượt bên ngoài được bố trí dọc theo mực nước và đổ đầy nhiều loại vật liệu hấp thu chấn động khác nhau, được thiết kế để chịu đựng sự va chạm của một quả ngư lôi trước khi nó có thể phá thủng lườn tàu. Ramillies cũng có những bệ máy bay gắn trên các tháp pháo B và X vào năm 1918 cũng như một máy phóng để phóng máy bay. Kiểu thủy phi cơ Fairey Flycatcher được sử dụng trong hầu hết thời gian từ năm 1918 đến năm 1939, khá hữu ích trong vai trò chỉ điểm pháo lẫn trinh sát.

Lịch sử hoạt động

Chiến tranh Thế giới thứ nhất và sau đó

Ramillies gia nhập Hải đội Thiết giáp hạm 1 thuộc hạm đội Grand vào tháng 5 năm 1917.Trong mối quan hệ căng thẳng giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Anh Quốc vào năm 1920, Ramillies đã bắn pháo từ vị trí của nó trong biển Marmora vào các mục tiêu Thổ Nhĩ Kỳ trên bờ. Đến năm 1924, Ramillies gia nhập Hải đội Thiết giáp hạm 2 thuộc Hạm đội Đại Tây Dương. Vào năm 1926 Ramillies và HMS Barham được gửi đến sông Mersey để tiếp tế lương thực. Đến cuối năm 1926 nó được bố trí đến Hạm đội Địa Trung Hải.

Những khó khăn để nâng cấp

Trong những năm giữa hai cuộc thế chiến, Ramillies được làm nhẹ bớt bằng cách tháo bỏ các lớp đệm bê-tông, gỗ và ống sắt trong đai giáp chống ngư lôi. Đến năm 1928, hỏa lực phòng không được nâng cấp thành 4 khẩu QF 102 mm (4-inch) Mark IV trong khi hai khẩu 152 mm (6 inch) trước tháp chỉ huy được tháo dỡ. Khi các xáo trộn chính trị nổ ra tại Palestine vào năm 1929, Ramillies được gửi đến để hỗ trợ sự hiện diện của Anh tại đây. Từ tháng 6 năm 1932 đến tháng 8 năm 1934, nó trải qua một đợt tái trang bị lớn tại Plymouth.Trong năm 1937, Ramillies được thay đổi dàn hỏa lực phòng không sang 8 khẩu QF 102 mm (4-inch) Mark XVI bố trí trên những tháp súng đôi. Hai khẩu đội QF 2 pounder "pom-poms" phòng không tám nòng cũng được bổ sung. Trước khi Thế Chiến II nổ ra, Ramillies được cho tháo dỡ các ống phóng ngư lôi và máy phóng máy bay. Người ta khó nâng cấp hiện đại hóa lớp thiết giáp hạm Revenge hơn so với những chiếc thuộc lớp Queen Elizabeth như HMS Valiant, vì trọng lượng rẽ nước nhỏ hơn và lườn tàu hẹp hơn nhiều đã ngăn trở việc trang bị hệ thống động lực lớn hơn để gia tăng tốc độ, có lẽ là nhu cầu nâng cấp cần thiết nhất.Những thiết giáp hạm Nhật Bản đóng mới hay được hiện đại hóa trong những năm 1930 đạt được tốc độ 44 đến 50 km/h (24 đến 27 knot), trong khi các thiết giáp hạm Ý được hiện đại hóa đạt 48 đến 52 km/h (26 đến 28 knot) còn lớp thiết giáp hạm mới Littorio lên đến 56 km/h (30 knot). Các thiết giáp hạm bỏ túi Đức có tốc độ 52 km/h (28 knot), trong khi các tàu chiến-tuần dương Scharnhorst và Gneisenau đạt 59 km/h (32 knot) còn các thiết giáp hạm mới Bismarck và Tirpitz cũng đạt được 54 km/h (29 knot). Đến năm 1939, tốc độ như thiết kế của Ramillies' 43 km/h (23 knot) là không thể đạt được với dàn động cơ đã cũ; nó thường chỉ đạt tốc độ tối đa 33 km/h (18 knot), cho dù đôi khi trong lúc khẩn cấp nó có thể đạt 37 km/h (20 knot).Điều này đã đặt Hải quân Hoàng gia vào một vị trí khó khăn. Trong khi Ramillies và các con tàu chị em ở trong hàng chiến trận, cả nhóm phải giảm xuống ngang với tốc độ tối đa của chúng. Điều này cho phép hạm đội Ý nhanh hơn có thể lựa chọn tiếp chiến hay không, và khi cần có thể cơ động đến vị trí thuận lợi. Nếu như chúng phải đối mặt với lực lượng Nhật vượt trội, người Anh sẽ bị quá chậm không thể tránh đi.Khi làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải và bị các thiết giáp hạm đối phương tấn công, Ramillies quá chậm để có thể truy đuổi hay chiếm lĩnh vị trí thuận lợi nhất. Tuy nhiên, dàn pháo chính 381 mm (15 inch) vẫn còn đủ mạnh chết người, đủ sức làm thay đổi tình thế trong nhiều dịp sau này.Mặc dù đã cũ, chiếc thiết giáp hạm vẫn phục vụ hữu ích trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đảm trách đủ loại nhiệm vụ từ đối đầu thiết giáp hạm đối phương cho đến hộ tống các đoàn tàu vận tải và và bắn phá bờ biển. Ramillies minh họa cho giá trị của một tàu chiến chủ lực dù đã cũ trong hiệu quả răn đe, khiến các tàu chiến đối phương dù vượt trội về kỹ thuật vẫn quyết định không tấn công vì lo sợ phải chịu hư hỏng trong vùng biển do Anh kiểm soát, cách xa các căn cứ sửa chữa.

Mở màn Chiến tranh Thế giới thứ hai

Khi chiến tranh nổ ra, Ramillies đang trong thành phần của Hạm đội Nhà đặt căn cứ tại Scapa Flow. Nó tham gia các cuộc tuần tra càn quét trong vùng biển giữa Iceland, Na Uy và Scotland từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 7 tháng 9 năm 1939 với nhiệm vụ chặn bắt mọi tàu buôn Đức đang tìm cách quay trở về nước trước khi chiến tranh nổ ra.Vào cuối tháng 9 năm 1939, Ramillies hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Alexandria thuộc Ai Cập. Đến tháng 10, nó đặt căn cứ tại Gibraltar. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1939 đến ngày 27 tháng 11 năm 1940, Ramillies dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Harold T. Baillie-Grohman.

Ấn Độ Dương

Vào cuối năm 1939, Ramillies lên đường hướng sang Viễn Đông, với một chặng dừng tại Ấn Độ Dương, khi Hoàng tử Philip là một thành viên thủy thủ đoàn. Nó viếng thăm New Zealand vào dịp lễ Giáng sinh năm 1939, rồi từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 12 tháng 2 năm 1940 hộ tống 13.000 binh lính New Zealand từ Wellington đến Suez. Từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 7 tháng 5 năm 1940, nó hộ tống binh lính Australia từ Melbourne đến Suez.Nhưng trước đó, khi Bộ Hải quân biết được sự hiện diện của thiết giáp hạm bỏ túi Đức Admiral Graf Spee tại Ấn Độ Dương ngoài khơi Lourenço Marques (ngày nay là Maputo thuộc Mozambique) vào ngày 16 tháng 11 năm 1939, Ramillies được cho tách ra tại Aden để hình thành nên Lực lượng J cùng với thiết giáp hạm HMS Malaya và tàu sân bay HMS Glorious. Chúng được đến phía Nam để đánh chặn tên cướp biển Đức; nhưng nó lại chuyển hướng sang khu vực Nam Đại Tây Dương nơi nó được đưa vào hoạt động trong trận River Plate ngoài khơi Montevideo bởi Lực lượng H, các tàu tuần dương HMS Ajax và HMS Achilles hợp cùng HMS Exeter từ Lực lượng G.

Địa Trung Hải

Sau khi Ý tham gia Thế Chiến II vào tháng 6 năm 1940, Ramillies phục vụ tại Địa Trung Hải. Nó cùng tàu chị em Royal Sovereign hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Alexandria, Ai Cập đến Malta từ ngày 27 tháng 6 đến ngày 30 tháng 6 năm 1940. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 8, nó bắn pháo xuống cảng Bardia và Fort Capuzzo thuộc Libya, thuộc địa của Ý tại Bắc Phi. Trên đường quay về nó bị máy bay Ý tấn công nhưng không trúng. Nó là một phần của lực lượng Hạm đội Địa Trung Hải thuộc quyền Đô đốc Andrew Cunningham, Lực lượng D, đặt căn cứ tại Alexandria.Ramillies hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Alexandria đến Malta từ ngày 8 đến ngày 14 tháng 10 năm 1940. Trên đường quay về các con tàu bị tám tàu phóng lôi Ý tấn công. Không có tổn thất nào về phía Anh, ba tàu Ý bị đánh chìm và bốn chiếc khác hư hại. Từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 10 năm 1940, Ramillies hộ tống một đoàn tàu vận tải khác từ Alexandria đến Crete. Trong giai đoạn từ 10 đến 13 tháng 11 nó làm nhiệm vụ tương tự từ Alexandria đến Malta, rồi đi đến Crete. Trong thời gian này một tàu ngầm đối phương đã trông thấy và phóng ngư lôi vào Ramillies nhưng đều bị trượt.Cuộc không kích thành công do Không lực Hải quân Hoàng gia thực hiện nhắm vào lực lượng chính của Hải quân Ý tại Taranto vào ngày 11 tháng 11 năm 1940 đã làm giảm sức mạnh của họ chỉ còn hai thiết giáp hạm có thể hoạt động. Cunningham sau đó đã có thể chuyển cho lực lượng hộ tống Bắc Đại Tây Dương những thiết giáp hạm chậm nhất và cũ nhất, Ramillies và Malaya, để lại những tàu khu trục hộ tống tại Địa Trung Hải.Ramillies di chuyển về phía Tây cùng với Hạm đội Địa Trung Hải vào cuối tháng 11 năm 1940 hình thành nên một phần của lực lượng hộ tống cho bốn tàu buôn hướng đến Malta với hàng tiếp liệu đang rất cần đến. Khi đến giữa biển, nó tách ra khỏi đội hình và hướng thẳng về phía Tây. Được tháp tùng bởi các tàu tuần dương Berwick và HMS Newcastle, nó đi ngang qua cửa biển Sicilia. Newcastle đã ở lại Malta trong nhiều ngày, nơi nó đã chuyển đến 15.000 gallon xăng máy bay, 40 động cơ cho Hawker Hurricane và 300 nhân viên kỹ thuật Không quân Hoàng gia Anh. Chúng được tháp tùng bởi Lực lượng H từ Gibraltar dưới quyền Đô đốc James Somerville vốn cũng đang ở trong khu vực hộ tống cho ba tàu buôn lớn hướng về phía Đông, hai chiếc dành cho Malta và một chiếc hướng đến Alexandria. Chúng sẽ chuyển nhiệm vụ hộ tống sang cho Đô đốc Cunningham tại một điểm đã hẹn trước rồi gấp rút ra khỏi vùng nguy hiểm để quay về Gibraltar. Ramillies đã thực hiện tối đa khả năng có thể có khi di chuyển với tốc độ 37 km/h (20 knot).Đô đốc Somerville có trong tay chiếc tàu sân bay HMS Ark Royal ở tụt lại phía sau đôi chút so với đội hình chính, đang đặt cờ hiệu của mình trên chiếc tàu chiến-tuần dương cũ HMS Renown cùng với các tàu tuần dương HMS Sheffield, HMS Manchester và HMS Despatch cùng năm tàu khu trục. Lúc 10 giờ 40 phút ngày 27 tháng 11 năm 1940, một máy bay trinh sát từ tàu tuần dương Ý Bolzano báo cáo một lực lượng bao gồm một thiết giáp hạm, hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục về phía Bắc Bône, Algeria. Đô đốc Ý Inigo Campioni đang ở ngoài biển với hai thiết giáp hạm, sáu tàu tuần dương hạng nặng và mười bốn tàu khu trục. Mệnh lệnh của ông là chỉ tấn công khi đối mặt với lực lượng đối phương yếu hơn nhiều. Với một ưu thế gấp hai lần về tàu chiến chủ lực, ông có được cơ hội và đã chuyển hướng để đánh chặn. Lực lượng của ông tập trung chung quanh chiếc thiết giáp hạm mới Vittorio Veneto mạnh mẽ và chiếc Giulio Cesare vừa được hiện đại hóa. Đây quả là một tình huống nguy hiểm cho người Anh.Somerville ý thức được mối nguy hiểm từ hạm đội Ý, đã gửi đoàn tàu vận tải của mình đi về hướng Đông Nam cùng một lực lượng hộ tống nhỏ. Ông tiến thẳng tới để gặp gỡ Ramillies và Berwick, để chen vào giữa hạm đội Ý và đoàn tàu vận tải. Ưu thế đang ở về phía lực lượng Ý, vì Ramillies chậm và các khẩu pháo của nó ở ngoài tầm của Ý. Hơn nữa, những tàu chiến của Somerville đang ở trong tầm hoạt động dễ dàng của những máy bay đối phương đặt căn cứ trên bờ. Nhưng, mục đích của ông là đưa được đoàn tàu vận tải đến Malta an toàn, nên ông tấn công trước người Ý. Ông đẩy các tàu tuần dương ra phía trước dưới quyền Phó Đô đốc Lancelot Holland, giữ hai con tàu chủ lực chậm hơn phía sau được các tàu khu trục hộ tống, trong khi Ark Royal đàng xa hơn nữa có hai tàu khu trục bảo vệ. Campioni, sau khi biết được sự hiện diện của một tàu chiến chủ lực Anh khác và một tàu sân bay, đã quyết định không mạo hiểm hai chiếc tàu chủ lực còn hoạt động duy nhất của Ý; và sau một cuộc đấu pháo ngắn ở tầm xa, mà Ramillies đã tránh được nhiều loạt đạn pháo, lực lượng Ý quay mũi và hướng về Naples. Berwick bị hư hại trong trận đánh, vốn được gọi là trận chiến mũi Spartivento, cũng như một tàu khu trục Ý.

Bắc Đại Tây Dương

Ramillies được chuyển đến lực lượng hộ tống Bắc Đại Tây Dương sau khi quay trở về Anh. Đây là một sự phân công cấp thiết vì Đế quốc Anh và các nước tự trị và thuộc địa trong khối giờ đây đơn thân một mình, những thiệt hại do tàu ngầm khá cao, và nước nhà đang trong mối nguy trước mắt bị thiếu ăn. Nếu như các tàu nổi Đức, cho dù là tàu buôn vũ trang, tuần dương hạng nặng, thiết giáp hạm bỏ túi hay thiết giáp hạm thực sự, đột phá và tiêu diệt một đoàn tàu vận tải Anh, là đủ để làm đảo lộn tình thế. Đang băng ngang đại dương này là những chuyến tàu chở lương thực, cao su, gỗ, khoáng sản, vũ khí và đạn dược từ Australia, New Zealand, Đông Nam Á, Nam Phi, Nam Mỹ, Canada và Hoa Kỳ, dầu mỏ từ Venezuela và Trung Đông cùng binh lính từ Ấn Độ và Canada. Một tàu chở binh lính bị tiêu hao có thể khiến Canada và các thuộc địa tự trị khác ngừng chuyển quân. Hướng đi ra cũng chất đầy binh lính, đạn dược và máy bay cho các chiến trường Đông Phi, Trung Đông, Ấn Độ và Viễn Đông.Ngày 12 tháng 1 năm 1941, Ramillies rời Anh Quốc hộ tống một đoàn tàu vận tải lớn chuyển 40.000 quân hướng về phía Nam băng qua khu vực nguy hiểm để đi đến Tây Phi. Họ đang trên đường đi đến Trung Đông.Ramillies đang làm nhiệm vụ tại Bắc Đại Tây Dương hộ tống đoàn tàu vận tải HX-106, khoảng 41 tàu, hướng về phía Đông từ Halifax, Nova Scotia đến Liverpool, Anh Quốc khi vào ngày 8 tháng 2 năm 1941, hai tàu chiến-tuần dương mới của Đức Scharnhorst và Gneisenau xuất hiện trên đường chân trời. Hải đội Đức đang thuộc quyền chỉ huy của Đô đốc Günther Lütjens. Thuyền trưởng chiếc Scharnhorst đề nghị khiêu chiến để thu hút Ramillies về phía mình, nhờ vậy Gneisenau có thể đánh chìm các tàu buôn. Chiến lược này, nếu thành công, có thể tạo ra một số nguy cơ cho chiếc Scharnhorst; cho dù có tốc độ chậm hơn đến 20 km/h (11 knot), Ramillies được trang bị pháo 380 mm (15 inch)/42 Mark I chính xác và mạnh mẽ và có khả năng gây hư hại nặng cho con tàu Đức. Trong lần này, Lütjens đã theo sát chỉ thị của Hitler không đối đầu các tàu chiến chủ lực đối phương.Sự có mặt của Ramillies đủ để làm nản lòng những kẻ tấn công. Sau đó hai chiếc trong số tàu buôn của đoàn tàu vận tải bị tàu ngầm đánh chìm, bao gồm MV Arthur F. Corwin chất đầy 14.500 tấn xăng máy bay. Nó chìm xuống biển ngày 13 tháng 2 mang theo toàn bộ 59 thành viên thủy thủ đoàn.Ngày 24 tháng 5 năm 1941, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur D. Read, Ramillies ở về phía Nam mũi Farewell, Greenland làm nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải Hx 127 hướng sang phía Đông từ Halifax. Có khoảng 57 tàu buôn trong nhóm hướng đến Liverpool chở theo các hàng hóa thông dụng như dầu mỏ, xăng máy bay, dầu nhờn, xăng, gỗ, ngũ cốc, thép, đường, sắt tấm và sắt thỏi. Các tàu hộ tống khác được dự trù để đối phó một mối đe dọa của tàu ngầm, bao gồm một tàu khu trục Canada hiện đại HMCS Ottawa, tàu xà-lúp Ấn Độ RIN Sutlej, một khu trục hạm nguyên của Mỹ đã lạc hậu HMS Salisbury, một tàu khu trục hộ tống HMS Hambledon, các tàu hộ tống nhỏ HMS Larkspur và HMS Begonia cùng nhiều tàu chiến nhỏ hơn khác. Sự có mặt của Ramillies là một đảm bảo chống lại các cuộc tấn công của các tàu nổi, và nếu nó phải đối mặt với một cuộc tấn công mặt biển đáng kể, có lẽ hai chiếc khu trục hạm là những lực lượng hộ tống có giá trị nhất của nó.Chiếc thiết giáp hạm mới của Đức Bismarck đã thoát ra Bắc Đại Tây Dương sau khi đánh chìm tàu chiến-tuần dương HMS Hood, tàu chiến lớn nhất của Anh, trong Trận chiến eo biển Đan Mạch. Ramillies đang ở phía Đông Newfoundland về hướng Tây Nam của Bismarck, và nếu như Bismarck tiếp tục chuyến đi cướp tàu buôn, Ramillies là tất cả những gì mà Hải quân Hoàng gia có để ngăn chặn nó tàn phá các tuyến đường biển ngoài khơi Bắc Mỹ. Ngày 24 tháng 5 năm 1941, Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho Ramillies tách khỏi đoàn tàu vận tải và chuyển hướng để đánh chặn con tàu đối phương. Đó là một biện pháp liều lĩnh trong hoàn cảnh vô vọng của Hải quân Hoàng gia, khi một con tàu cũ như vậy được gửi đi một mình mưu toan đánh chặn một trong những thiết giáp hạm hùng mạnh nhất thế giới, được hỗ trợ bởi tàu tuần dương hạng nặng Đức Prinz Eugen mạnh mẽ. Tuy nhiên, Bismarck đã chịu những hư hại trong các hoạt động chống lại Prince of Wales, và đã lựa chọn quay về Pháp để sửa chữa thay vì tiếp tục nhiệm vụ cướp tàu buôn. May mắn cho Ramillies là nó đã không được đưa ra thử sức theo cách như vậy.Một nhiệm vụ tiêu biểu khác là hộ tống ngoài biển cho đoàn tàu vận tải HX 130, hướng đến Liverpool với 45 tàu buôn. Ramillies gia nhập đoàn tàu ngay ngoài khơi cảng Halifax lúc 15 giờ 30 phút ngày 1 tháng 6 năm 1941 và ở lại với chúng cho đến ngày 9 tháng 6 ở tọa độ 53°30′N 46°48′W, điểm hẹn giữa đại dương, nơi một đoàn hộ tống từ Anh tiếp tục đảm nhiệm.

Quay lại Ấn Độ Dương

Ramillies là một phần của một hạm đội Anh Quốc, được tập hợp một cách vội vã vào tháng 3 năm 1942 dưới quyền Đô đốc James Somerville, nhằm cố gắng ngăn chặn lực lượng Hải quân Nhật Bản cắt đứt các tuyến đường biển đến Ấn Độ. Hạm đội hỗn tạp này bao gồm hai tàu sân bay và ba thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Revenge. Chúng đã không đối đầu với phần chủ lực của Hạm đội Nhật, vốn đã rút lui sau khi gây thiệt hại nặng cho tàu bè Đồng Minh, kể cả đánh chìm một tàu sân bay và nhiều tàu chiến nhỏ khác.Vào tháng 5 năm 1942, Ramillies vẫn còn ở lại Ấn Độ Dương và được gửi đến hỗ trợ cho lực lượng Đồng Minh tấn công Madagascar. Ngày 29 tháng 5 năm 1942, một máy bay trinh sát phóng lên từ tàu ngầm Nhật Bản I-10 đã phát hiện ra Ramillies tại nơi neo đậu trong cảng Diego Suarez. Ramillies thay đổi nơi neo đậu sau khi nhìn thấy chiếc máy bay. Tuy nhiên, các tàu ngầm I-16 và I-20 mỗi chiếc đã tung ra một tàu ngầm bỏ túi. Một chiếc trong số đó, do Trung úy Saburo Akieda điều khiển, đã xoay sở lọt vào bên trong cảng và bắn hai quả ngư lôi. Quả thứ nhất đánh trúng Ramillies vào khoảng 20 giờ 25 phút gây hư hại nặng chiếc thiết giáp hạm, còn quả thứ hai đánh chìm tàu chở dầu British Loyalty lúc 21 giờ 20 phút. Trung úy Akieda bị tấn công bằng mìn sâu từ các tàu hộ tống nhỏ en:corvette Genista và Thyme nhưng đã tìm cách mắc cạn chiếc tàu ngầm của mình rồi cùng Hạ sĩ Masami Takemoto chạy trốn lên bờ. Cả hai bị giết chết trong cuộc chạm súng với Thủy binh Hoàng gia ba ngày sau đó.Ramillies được Nhật Bản cho là đã bị đánh chìm, nhưng trong thực tế nó bị hư hại nặng. Nó được kéo đến Durban để sửa chữa tạm thời, và trong tháng 8 năm 1942 nó quay về Plymouth bằng chính động lực của mình; và quay trở lại hoạt động vào tháng 6 năm 1943.Trong khi được sửa chữa trong ụ tàu, một lớp thép dày 51 mm (2-inch) được bổ sung cho sàn tàu bên trên các hầm đạn. Điều này phản ảnh những bài học có được sau khi chiếc Hood bị đánh chìm cũng như là hiệu quả to lớn của các máy bay ném bom bổ nhào trong trận Midway. Bốn khẩu pháo 152 mm (6 inch) cũng được tháo dỡ thay thế bằng hai khẩu đội phòng không bốn nòng pompoms.Đó là do nhận thức nguy cơ lớn từ máy bay hơn là bởi các tàu chiến nổi nhỏ hơn. Điều khôi hài là Ramillies lại phải đối mặt với một cuộc tấn công từ tàu nổi như vậy sau đó trong chiến tranh. May mắn là những khẩu pháo 152 mm (6 inch) còn lại vẫn đủ để đối phó.

Normandy và miền Nam nước Pháp

Ngày 6 tháng 6 năm 1944, Ramillies hỗ trợ hỏa lực cho cuộc đổ bộ Normandy. Nó được phân công đảm trách Bãi Sword, về phía Đông khu vực đổ bộ, với nhiệm vụ chủ yếu là vô hiệu hóa khẩu đội Berneville. Nó bắt đầu khai hỏa các khẩu 152 mm (6 inch) để mở màn, loại khỏi vòng chiến bốn trong số sáu khẩu pháo của đối phương trong vòng 80 phút đầu tiên và tiếp tục theo dõi số còn lại, cho phép các tàu đổ bộ có thể tiến lên không bị cản trở. Đến chiều tối nó đã thanh toán xong hai khẩu pháo còn lại.Trong diễn biến của ngày thứ nhất, Ramillies đẩy lui một đợt tấn công gồm hai tàu khu trục Đức đã bắn năm quả ngư lôi nhắm vào nó, nhưng tất cả đều trượt. Nó cũng đẩy lui cuộc tấn công của một nhóm E boats bằng dàn pháo hạng hai 102 mm (4 inch) và 152 mm (6 inch). Chiều tối hôm đó nó quay về Portsmouth và được tiếp đạn trong ngày hôm sau. Nó quay lại khu vực ngoài khơi Normandy vào ngày 8 tháng 6 năm 1944 và phá hhủy một khẩu đội pháo 152 mm (6 inch) khác.Vào ngày 6 tháng 6, được hướng dẫn bởi trạm trinh sát phía trước, Ramillies nả pháo thành công vào các điểm tập trung quân, xe tăng, pháo, mô-tô đối phương, phá vỡ các đơn vị quân Đức trước khi chúng có thể tiến hành phản công. Nó cũng đẩy lui một cuộc tấn công của các E-boat Đức. Ngày 10 tháng 6, nó bắn trúng một đầu mối đường sắt gần Caen, cách nhiều dặm bên trong đất liền.Ngày 11 tháng 6, Ramillies bắn trúng một điểm tập trung gần 200 xe tăng đối phương, gây thiệt hại lớn. Đêm hôm đó nó tiếp tục nả pháo xuống nhiều ga đường sắt khác. Ngày 12 tháng 6 nó suýt bị đánh trúng khi bị một máy bay ném bom bổ ngào tấn công. Một khẩu đội pháo lưu động Đức đã bắn 32 quả đạn pháo nhắm vào Ramillies trong ngày 15 tháng 6, và hai phát đã bắn trúng con tàu, khiến một thủy thủ bị thương vào chân. Ramillies di chuyển ra khỏi tầm đạn pháo và tiếp tục vai trò bắn pháo hỗ trợ. Ngày 16 tháng 6 nó tiếp tục nhiệm vụ bắn pháo, và sang ngày 17 tháng 6 nó bắn trúng một khẩu đội pháo lưu động đối phương.Trong quá trình chiến dịch Normandy, nó đã bắn tổng cộng 1.002 quả đạn pháo 381 mm (15 inch), được cho là số lượng lớn nhất mà một con tàu từng bắn trong một chiến dịch cho đến lúc đó. Sau đó Ramillies còn cung cấp việc hỗ trợ hỏa lực tương tự cho cuộc tấn công tại miền Nam nước Pháp vào ngày 15 tháng 8 năm 1944. Nhiệm vụ đặc biệt dành riêng cho nó là vô hiệu hóa các khẩu đội pháo tại lối ra vào cảng Toulon.

Kết thúc hoạt động

Ramillies được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 31 tháng 1 năm 1945 tại Portsmouth và được sử dụng như một tàu tiện nghi. John Egerton Broome là Thuyền trưởng của nó trong giai đoạn 1945 - 1946. Nó được bán vào năm 1946 và được tháo dỡ vào năm 1949.Một trong các khẩu pháo 380 mm (15 inch) của Ramillies được phục chế và có thể thấy tại Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc tại London. Chiếc chuông của con tàu hiện đang được trưng bày tại HMCS Star, một Chi nhánh Hải quân Trừ bị tại Hamilton, Ontario, Canada.

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Revenge

Xưởng đóng tàu: Palmers Shipbuilding and Iron Company, Jarrow

Đặt lườn: 29 tháng 11 năm 1913

Hạ thủy: 14 tháng 1 năm 1915

Hoạt động: 30 tháng 12 năm 1916

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 5 tháng 5 năm 1948

Ngừng hoạt động:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:29.150 tấn (tiêu chuẩn);33.500 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 189 m (620 ft 6 in)

Mạn thuyền:27 m (88 ft 6 in)31,1 m (102 ft) sau khi thêm đai chống ngư lôi

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 6 in)

Lực đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons 18 × nồi hơi Yarrow 4 × trục công suất 40.000 mã lực (30 MW)

Tốc độ:43 km/h (23 knot)

Tầm xa:3.400 tấn dầu đốt;

160 tấn than

Quân số:1.009 - 1.146

Vũ khí:8 × pháo 381 mm (15 inch) Mk I (4 x 2) 12 × pháo 152 mm (6 inch) Mk XII nòng đơn 8 × pháo phòng không 102 mm (4 inch) 4 × pháo phòng không 2 pounder pom-poms 16 × pháo phòng không Bofors 40 mm

Vỏ giáp:Đai giáp chính: 330 mm (13 inch) giữa tàu, 102-152 mm (4-6 inch) hai đầu Sàn tàu: cho đến 127 mm (5 inch) Tháp pháo: 330 mm (13 inch) trước mặt, 127 mm (5 inch) hông và nóc Tháp súng nhỏ: cho đến 254 mm (10 inch) Cầu tàu: 279 mm (11 inch)

HMS Resolution (09) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Revenge của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó được hoàn tất quá trễ không kịp tham gia trận Jutland của Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai chỉ tham gia những trận đánh lẻ tẻ trước khi được đưa về Anh Quốc trong vai trò huấn luyện và bị tháo dỡ vào năm 1948.

Thiết kế và chế tạo

Lớp Revenge vốn bao gồm Resolution được đặt hàng vào năm 1913-1914, được dự định là một phiên bản đốt than rẻ tiền hơn, nhỏ hơn và chậm hơn so với lớp Queen Elizabeth thế hệ siêu-Dreadnought đốt dầu trước đó.Resolution được đặt lườn bởi hãng đóng tàu Palmers Shipbuilding and Iron Company tại Jarrow vào ngày 29 tháng 11 năm 1913, được hạ thủy vào ngày 14 tháng 1 năm 1915, và đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 12 năm 1916.

Lịch sử hoạt động

Được hoàn tất quá trễ không kịp tham gia trận Jutland của Chiến tranh Thế giới thứ nhất, từ năm 1916 đến năm 1919, Resolution phục vụ cùng Hải đội Thiết giáp hạm 1 thuộc Hạm đội Grand Anh Quốc. Giữa hai cuộc thế chiến, nó phục vụ cho Hạm đội Đại Tây Dương, trừ một giai đoạn ngắn tái trang bị trong những năm 1930-1931.Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bắt đầu vào tháng 9 năm 1939, Resolution đang trong thành phần Hạm đội Nhà Anh Quốc, và đã thực hiện hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Đại Tây Dương.Trong khi hỗ trợ chiến dịch Narvik vào tháng 5 năm 1940, Resolution bị đánh trúng một quả bom tại Tjeldsundet. Đến tháng 6 năm 1940, nó gia nhập Lực lượng H tại Gibraltar, và đã tham gia sự kiện phá hủy Hạm đội Pháp tại Mers-el-Kebir vào ngày 3 tháng 7 năm 1940.Vào tháng 9 năm 1940, Resolution gia nhập Lực lượng M tại Freetown, và đã nả pháo xuống các tàu chiến Pháp trong trận Dakar vào ngày 24 tháng 9 năm 1940. Ngày hôm sau, Resolution trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Pháp Bévéziers và bị hỏng nặng.Sau khi được sửa chữa tại Hoa Kỳ, Resolution lên đường vào tháng 2 năm 1942 hướng đến Colombo, và phục vụ tại Mặt trận Ấn Độ Dương trong những năm 1942 và 1943. Nó quay trở về Anh Quốc vào tháng 9 năm 1943 và trở thành một tàu huấn luyện đốt lò vào năm 1944 trong thành phần của Cơ sở huấn luyện HMS Imperieuse.HMS Resolution bị bán để tháo dỡ vào ngày 5 tháng 5 năm 1948 tại Faslane.Thứ trưởng Thứ nhất Hải quân Anh tương lai John H. D. Cunningham từng phục vụ trên Resolution dưới quyền Đô đốc Sir William Fisher, Tổng tư lệnh Hạm đội Địa Trung Hải

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Revenge

Xưởng đóng tàu: Portsmouth

Đặt lườn: 15 tháng 1 năm 1914

Hạ thủy: 29 tháng 4 năm 1915

Hoạt động: 18 tháng 4 năm 1916

Số phận: Chuyển cho Hải quân Liên Xô ngày 30 tháng 5 năm 1944

Mang cờ Hải quân Liên Xô

Tên: Arkhangelsk

Hoạt động: 30 tháng 5 năm 1944

Ngừng hoạt động: 4 tháng 2 năm 1949

Số phận: Trả lại cho Hải quân Hoàng gia Anh

Bị mất: Bị bán ngày 5 tháng 4 năm 1949; tháo dỡ ngày 18 tháng 5 năm 1949 tại Inverkeithing

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:27.500 tấn (tiêu chuẩn);31.200 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 189 m (620 ft 6 in)

Mạn thuyền:27 m (88 ft 6 in)31,1 m (102 ft) sau khi thêm đai chống ngư lôi

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 6 in)

Lực đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons 18 × nồi hơi Yarrow 4 × trục công suất 40.000 mã lực (30 MW)

Tốc độ:43 km/h (23 knot)

Quân số:997

Vũ khí:8 × pháo 381 mm (15 inch) Mk I (4 x 2) 14 × pháo 152 mm (6 inch) Mk XII nòng đơn 2 × pháo phòng không QF 76 mm (3 inch) 20 cwt 4 × pháo QF 3 pounder (47 mm) Vickers4 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vỏ giáp:Đai giáp chính: 330 mm (13 inch) giữa tàu, 102-152 mm (4-6 inch) hai đầu Sàn tàu: cho đến 127 mm (5 inch)Tháp pháo: 330 mm (13 inch) trước mặt, 127 mm (5 inch) hông và nóc Tháp súng nhỏ: cho đến 254 mm (10 inch)Cầu tàu: 279 mm (11 inch)

HMS Royal Sovereign (05) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Revenge của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó được hoàn tất quá trễ không kịp tham gia trận Jutland của Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai chỉ đóng những vai trò phụ trước khi được cho Liên Xô mượn vào năm 1944, nhưng cũng hầu như không hoạt động cho đến khi được trao trả cho Anh Quốc vào năm 1949 và bị tháo dỡ.

Thiết kế và chế tạo

Lớp Revenge vốn bao gồm Royal Sovereign được đặt hàng vào năm 1913-1914, được dự định là một phiên bản đốt than rẻ tiền hơn, nhỏ hơn và chậm hơn so với lớp Queen Elizabeth thế hệ siêu-Dreadnought đốt dầu trước đó.

Lịch sử hoạt động

Royal Sovereign được hạ thủy vào tháng 5 năm 1915, nhưng công việc hoàn tất nó bị kéo dài và nó đã không được đưa vào hoạt động trước trận Jutland của Chiến tranh Thế giới thứ nhất.Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai khởi sự vào tháng 9 năm 1939, Royal Sovereign đang được bố trí cùng Hạm đội Nhà Anh Quốc. Đến giữa năm 1940, nó được chuyển sang Hạm đội Địa Trung Hải, nơi nó đã có mặt trong trận Calabria ngày 18 tháng 7, nhưng tốc độ chậm của nó đã ngăn trở Đô đốc Andrew Cunningham không thể ép các thiết giáp hạm Ý Giulio Cesare và Conte di Cavour vào một trận chiến quyết định.Nó tiến hành hộ tống các đoàn tàu vận tải Đại Tây Dương trong những năm 1940-1941.Đến tháng 10 năm 1942, Royal Sovereign được bố trí một thời gian ngắn cùng Hạm đội Viễn Đông. Thoạt tiên được đặt căn cứ tại Trincomalee, Ceylon, nó cùng với các thiết giáp hạm cũ của hạm đội Ramillies, Resolution và Revenge được cho rút lui về Kilindini thuộc Kenya. Những chiếc tàu chiến này được xem là quá lạc hậu để có thể thách thức các tàu chiến của Hải quân Nhật Bản hay chịu các nguy cơ từ không lực hải quân. Trong những năm 1942-1943, Royal Sovereign trải qua một đợt tái trang bị tại Hoa Kỳ.Vào tháng 5 năm 1944 Royal Sovereign được chuyển cho Hải quân Liên Xô mượn dưới tên gọi Arkhangelsk để thay thế cho khoản bồi thường chiến tranh từ Ý. Một thủy thủ đoàn Xô Viết tiếp nhận Arkhangelsk vào ngày 30 tháng 5 năm 1944 và nó lên đường cùng với đoàn tàu vận tải JW.59 vào ngày 24 tháng 8 năm 1944. Arkhangelsk hầu như không hoạt động trong vùng biển Bắc Cực cho đến hết chiến tranh và nó được hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia vào ngày 4 tháng 2 năm 1949. Nó đi đến Inverkeithing vào ngày 18 tháng 5 năm 1949 để được tháo dỡ.Một phần của cơ cấu dẫn động tháp pháo của nó sau đó được sử dụng cho kính thiên văn vô tuyến "Lovell Mark I" đường kính 76,2 m (250 ft) tại Jodrell Bank thuộc Cheshire, được chế tạo trong những năm 1955-1957.

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Revenge

Xưởng đóng tàu: Barrow-in-Furness

Đặt lườn: 22 tháng 12 năm 1913

Hạ thủy: 29 tháng 5 năm 1915

Hoạt động: tháng 3 năm 1916

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 8 tháng 3 năm 1948

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 28.000 tấn (tiêu chuẩn);

31.200 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 190 m (624 ft)

Mạn thuyền:27 m (88 ft 6 in)

31,1 m (102 ft) sau khi thêm đai chống ngư lôi

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước 18 × nồi hơi 4 × trục công suất 40.000 mã lực (30 MW)

Tốc độ:43 km/h (23 knot)

Quân số:997

Vũ khí:8 × pháo 381 mm (15 inch) Mk I (4 x 2) 14 × pháo 152 mm (6 inch) Mk XII nòng đơn 2 × pháo phòng không QF 76 mm (3 inch) 20 cwt 4 × pháo QF 3 pounder (47 mm) Vickers 4 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vỏ giáp:Đai giáp chính: 330 mm (13 inch) giữa tàu, 102-152 mm (4-6 inch) hai đầu Sàn tàu: cho đến 127 mm (5 inch) Tháp pháo: 330 mm (13 inch) trước mặt, 127 mm (5 inch) hông và nóc Tháp súng nhỏ: cho đến 254 mm (10 inch) Cầu tàu: 279 mm (11 inch)

HMS Revenge (06) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm Anh Quốc Revenge; là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này. Nó từng tham gia trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, cũng như nhiều hoạt động tại nhiều khu vực trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, cho dù chỉ trong những vai trò ít quan trọng như hộ tống các đoàn tàu vận tải, trước khi được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1944 và được tháo dỡ vào năm 1948.

Thiết kế và chế tạo

Lớp Revenge mà nó dẫn đầu được đặt hàng vào năm 1913-1914, được dự định là một phiên bản đốt than rẻ tiền hơn, nhỏ hơn và chậm hơn so với lớp Queen Elizabeth thế hệ siêu-Dreadnought đốt dầu trước đó. Revenge được hạ thủy vào năm 1915 khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất đã bắt đầu; và được hạ thủy vào năm 1916, vừa kịp lúc cho trận Jutland.

Lịch sử hoạt động

Chiến tranh Thế giới thứ nhất

Revenge đã hiện diện trong trận Jutland dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân E. B. Kiddle, và đã phục vụ trong Hải đội Thiết giáp hạm 1 mạnh mẻ. Nó đứng thứ hai hai trong hàng chiến trận ngay sau soái hạm Marlborough mang cờ hiệu của Phó Đô đốc Sir Cecil Burney. Trong diễn biến của trận đánh, Marlborough bị trúng ngư lôi, buộc Burney phải chuyển cờ hiệu của mình sang Revenge. Revenge đã đấu pháo cùng đối thủ trong suốt một giờ rưỡi, không chịu đựng thiệt hại hay thương vong gì.Một ngày trước khi Hạm đội Grand khởi hành từ căn cứ của nó để tiếp nhận sự đầu hàng của Hạm đội Biển khơi Đức trong Chiến dịch ZZ, các thành viên cao cấp của Hoàng gia Anh Quốc đã viếng thăm nó: Vua George V, Hoàng hậu Mary và Edward, Hoàng tử xứ Wales. Vua và Hoàng tử đã viếng thăm thiết giáp hạm USS New York, HMS Lion (soái hạm của Tổng tư lệnh Hạm đội David Beatty), và Revenge, soái hạm của Phó Tổng tư lệnh. Hoàng hậu Mary đã uống trà trên chiếc Revenge.

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Năm 1919, tại Scapa Flow, Đô đốc Ludwig von Reuter ra lệnh cho thủy thủ đoàn của Hạm đội Biển khơi Đức, lúc đó đang bị Anh chiếm giữ, đánh đắm toàn bộ hạm đội 74 tàu chiến nhằm ngăn ngừa chúng bị phe Đồng Minh chiến thắng sử dụng. Sau sự kiện trên, von Reuter được đưa đến sàn sau của Revenge, soái hạm của Phó Đô đốc Sydney Fremantle và bị buộc tội vi phạm danh dự hải quân. Von Reuter đã trả lời cho những lời buộc tội, "Tôi tin rằng, mọi sĩ quan hải quân Anh Quốc, đặt trong hoàn cảnh của tôi, cũng sẽ hành động y như vậy." Không có hình phạt nào đã được dành cho ông.Vào tháng 1 năm 1920, Hải đội Thiết giáp hạm 1 được tách ra và gửi đến Địa Trung Hải do các cuộc khủng hoảng xảy ra trong khu vực. Trong khi ở lại khu vực này, Revenge đã hỗ trợ cho các lực lượng Hy Lạp, và đã ở lại Hắc Hải do những mối lo ngại về cuộc Nội chiến Nga cho đến tháng 7, khi nó quay trở lại Hạm đội Đại Tây Dương.Vào năm 1922, Revenge cùng với các con tàu chị em Ramillies, Resolution và Royal Sovereign một lần nữa được gửi đến Địa Trung Hải do khủng hoảng tiếp tục gia tăng tại đây, phần lớn là do việc Vua Constantine I của Hy Lạp bị buộc phải thoái vị. Revenge đặt căn cứ tại Constantinople và Dardanelles trong suốt thời gian được bố trí tại khu vực này. Nó quay trở lại Hạm đội Đại Tây Dương vào năm tiếp theo.Năm 1928 nó tạm ngừng hoạt động để trải qua một đợt tái trang bị tại Devonport. Sau khi hoàn tất việc nâng cấp vào tháng 3 năm 1929, nó được bố trí về Hạm đội Địa Trung Hải. Ngày 16 tháng 7 năm 1935, Revenge tham gia cuộc Duyệt binh Hải quân cùng 160 tàu chiến khác của Hải quân Hoàng gia tại Spithead nhân kỷ niệm Ngân khánh (25 năm) ngày Đăng quang của Vua George V. Cuối năm 1935 nó đặt căn cứ tại Alexandria do những mối nguy hiểm tiềm tàng trong cuộc Chiến tranh Ý-Abyssiny lần hai.Năm 1936 nó lại phải tạm ngừng hoạt động để trải qua một đợt tái trang bị khác. Nó trở lại hoạt động một năm sau đó, được phân về Hải đội Thiết giáp hạm 2 thuộc Hạm đội Grand. Ngày 9 tháng 8 năm 1939 nó tham gia một cuộc duyệt binh hải quân khác, dưới sự chủ tọa của Vua George VI. Cho dù Revenge giờ đây đã là một tàu chiến cũ và chậm chạp, nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong suốt cuộc chiến tranh sắp tới, được phân về Lực lượng Hộ tống Bắc Đại Tây Dương cùng với con tàu chị em Resolution.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Ngày 5 tháng 10 năm 1939, ngày đầu tiên được phân về Lực lượng Hộ tống Bắc Đại Tây Dương, Revenge rời vùng biển nhà hướng đến Canada, chở theo vàng nến có giá trị cao.Trong một chặng dừng tại Halifax vào ngày 12 tháng 5 năm 1940, nó bị tai nạn đâm phải và làm chìm tàu đánh cá lớp Battle Canada HMCS Ypres cho dù không có tổn thất về nhân mạng. Trong thời gian còn lại mà nó phục vụ trong cuộc chiến tranh, mỗi khi Revenge ghé qua Halifax, thủy thủ trên những con tàu trong cảng thực hiện và phóng đại các cơ động "Bỏ tàu" nhằm để giễu cợt chiếc tàu chiến cũ.Ngày 3 tháng 7 năm 1940, thủy thủ trên chiếc Revenge đã tiếp nhận điều khiển thiết giáp hạm Pháp Paris, các tàu ngầm Thames và Surcouf cùng các tàu chiến khác bị chiếm giữ tại các cảng Anh sau khi Pháp thất trận. Trong tháng 8 năm đó, nó cùng với Hạm đội Eo biển tiến hành tuần tra chống xâm nhập, trước khi quay trở lại nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải.Vào tháng 3 năm 1942, sau một đợt tái trang bị, Revenge được cho chuyển sang Hạm đội Viễn Đông như một phần của Hải đội Thiết giáp hạm 3, thoạt tiên đặt căn cứ tại Colombo, Ceylon, rồi được cho rút lui về Kilindini thuộc Kenya do mối đe dọa của Hải quân Nhật Bản tại khu vực này.Revenge tiếp tục đảm nhận vai trò quan trọng hộ tống các đoàn tàu vận tải cho đến suốt quảng đời hoạt động của nó trong Thế Chiến II, bao gồm một đoàn tàu chuyển Sư đoàn 9 (Australia) quay về nước của họ vào tháng 2 năm 1943 cho phép họ tham chiến tại Mặt trận Thái Bình Dương.Vào tháng 10 năm 1943 Revenge được rút ra khỏi hoạt động thường trực do tình trạng rất kém của nó, và được đưa về lực lượng dự bị.Thoạt tiên nó được sử dụng làm tàu huấn luyện đốt lò, cho dù một bản ghi nhớ của Winston Churchill đã nhấn mạnh rằng chiếc thiết giáp hạm đáng kính phải được sử dụng tốt hơn, nên Churchill đã lên chiếc Revenge thực hiện chuyến đi đến Malta như chặng đầu của cuộc hành trình tham dự Hội nghị Tehran được tổ chức tại Iran.Vào tháng 5 năm 1944, dàn pháo chính của nó được tháo dỡ nhằm cung cấp pháo dự phòng cho các thiết giáp hạm Ramillies và Warspite, cũng như cho những chiếc monitor vốn đang rất cần đến trong việc bắn phá các bãi biển tại Normandy trong Chiến dịch Overlord. Nó trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến tranh như một tàu huấn luyện của Cơ sở Huấn luyện HMS Imperieuse.Vào ngày 8 tháng 3 năm 1948 Revenge được cho ngừng hoạt động, và được bán để tháo dỡ bốn tháng sau đó. Một phần cơ cấu dẫn động tháp pháo của Revenge sau đó được sử dụng cho kính thiên văn vô tuyến "Lovell Mark I" đường kính 76,2 m (250 ft) tại Jodrell Bank thuộc Cheshire, được chế tạo trong những năm 1955-1957.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro