Cảm thức Aware-sabi-wabi-karumi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đến với xứ sở hoa anh đào, xứ sở phù tang chúng ta tìm thấy ở đất nước này mộtnét văn hóa đã đi vào tiềm thức đó là thể thơ Haikư, một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Chính những nhà thơ thiền sư đã đưa chất thiền vào thơ. Họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ. Đối với họ, thơ với đời, đời với thiên nhiên là một, trong sự gắn kết mật thiết. Đó là điểm xuất phát để giải thích vì sao thơ haiku thấm đẫm chất thiền. Những cảm thức thẩm mỹ được thể hiện ở thể thơ haikưnhư cái nhìn của các thi sĩ haiku trước hiện thực mang đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con người. Trong thơ haiku chứa đựng những cảm thức thẩm mỹ như sabi, wabi, aware và karumi.

1. Cảm thức Sabi Sabi là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, là cảm thức hùng tráng chứ không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh mịch không có giới hạn. Sabi là niềm cô tịnh vô ngã.

Ôi tiếng ve kêu/ Thấm xuyên vào đá /Trong cõi quạnh hiu. (Basho)

Một khung cảnh buồn, đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải rơi vào “cõi quạnh hiu”. Tiếng ve thể hiện niềm cô tịch vô ngã của thiên nhiên đến nỗi đá núi tưởng như mềm ra và trở nên vô ngại. Trong tiếng ve kêu, ta bước vào cõi thâm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Niềm cô tịch được gió đưa đi xa hơn tiếng ve, tiếng chim cu gáy có tan biến về một nơi nào đó trong không gian vô định thì trong biển thiền lắng động đó vẫn có sự xao động. Chính những âm thanh nhỏ nhoi đó làm cho sự cô liêu càng thêm cô liêu: Gió mùa thu/ Bóng dài của núi /Rung lên mơ hồ. (Issa)

Nửa đêm thăm thẳm/ Dòng sông Ngân hà /Rời đổi chỗ nằm. (Ransetsu)

Nửa đêm thức giấc nhìn lên trời, thi sĩ thấy dải Ngân hà không còn nằm ở chỗ cũ mà dời sang nơi khác. Đó là sự vận động của các vì tinh tú trong vũ trụ. Nhưng đặt nhà thơ dưới đất đang nhìn lên Ngân hà ở vũ trụ, tác giả tạo nên một cảnh cô tịnh đến huy hoàng. Trong đêm thanh vắng, con người và sự vật đều chìm vào khoảng không gian bao la vô định của vũ trụ, chìm vào cái sâu thẳm của bể đêm.Nhà thơ đẩy cảm thức sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài haiku nổi tiếng:

Cánh quạ ô/ Trên cây héo hắt/ Chiều thu. (Basho)

Thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác. Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm thức sabi.

2. Cảm thức Wabi

Wabi là gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông nói đến sự trải nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng mang ý nghĩa cô đơn nhưng nếu sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì wabi lại nhằm ám chỉ đến điều kiện sống và tình cảm của con người và sự vật hơn. Theo D.T.Suzuki: “Sabi nghiêng về đồ vật cá nhân, trong khi wabi là sống cuộc đời bình thường trong sự thanh bần hay tri túc, thiểu dục. Do đó, sabi quy về cảnh vật có tính khách quan hơn còn wabi thì thiên về cá tính chủ quan hơn” Mái lều im/ Một con chim gõ kiến/ Gõ ngoài trụ hiên. (Basho)

Wabi nói đến sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất và các phương tiện sống, nhưng chứa đựng trong đó là một cái gì đó thanh cao, phóng khoáng và lành mạnh. Một đêm lạnh trở mình tỉnh giấc vì gió rét, Basho viết một bài thơ haiku:

Sương giá nửa đêm/ Không ngủ được/ Tôi mượn áo bù nhìn. (Basho)

Một cảm xúc rất chân thành tự nhiên: Lạnh không ngủ được thì thức giấc. Nhưng ý thơ chuyển sang đột ngột và bỗng kết thúc với câu “tôi mượn áo bù nhìn”. Một thực cảnh đến đau lòng cho thi sĩ, nghèo đến mức mùa đông không đủ áo để mặc, không đủ chăn ấm. Nhưng biết làm sao bây giờ?. Phải đành “mượn áo bù nhìn” vậy. Áo “bù nhìn” thay áo người để bớt lạnh - Một ý tưởng nghịch lý, trớ trêu nhưng mang tính chất ngang tàng, phóng khoáng.

3. Cảm thức Aware.

Cảm thức aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất hiện khá sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết Truyện Genji (Murasaki). Aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là một bi cảm thâm trầm.

Trước cái chết của một người bạn, Basho viết: Trăng rụng rồi/ Bốn góc bàn quen thuộc/ Còn lại mà thôi.

Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn còn tồn tại trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và khoảnh khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là niềm bi cảm của con người.

Một tiếng kêu thảng thốt của con chim nhạn đang đi tìm chỗ trú giữa mùa đông thâm u gợi lên cảm thức phù du của trần thế và một niềm thương cảm ở người thi sĩ: Kêu chi, nhạn ơi/ Đi đâu cũng thế/ Cõi phù thế thôi. (Issa)

4. Cảm thức Karumi

Karumi bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng. Một đoá phù dung cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa: Mưa mù sương/ Phù dung một đoá/ Làm mùa lên hương. (Basho)

Những cánh hoa anh đào vương vãi khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào bữa ăn khiến cho cả người và thức ăn đều thấm một màu hồng của anh đào: Dưới cây lao xao/ Chén canh, đĩa cá/ Đều vương anh đào. (Basho)

Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần của một bữa cơm đạm bạc nhưng chính những cánh anh đào vương vào chén canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên thú vị, nên thơ.

Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, e ấp thể hiện ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày. Đến các loài chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:

Bươm bướm nào biết đâu/ Một bông hoa mới nở/Bên trời mùa thu. (Basho)

Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng, thanh thoát thông qua những khám phá xung quanh đời thường. Qua cánh cổng con/ Hoa đào ta gặp/ Cả trong lẫn ngoài.

Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con người và sự vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông trong thơ haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của Basho.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dangducpy