Càn Long Hạ Giang Nam (23~33)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 23

Bá Chế Quân , mấy phen kiếm chúa

Đường giáo đầu, hai bận giãi vây

Nói về quan Phủ dạy Dương thị gã Nguyệt Kiều cho con họ Huỳnh, chẳng dè Dương thị quyết ý chẳng gã, lại nói nhiều lời cứng cỏi, bèn nổi giận mà đánh chết đi . Chừng nghĩ lại thì trong lòng không an, nên không nỡ làm bức Nguyệt Kiều nữa, song mắc hối lộ của Huỳnh Nhơn đã nhiều nên phải làm cho hết lòng đặng nuốt cho trơn cổ , bèn dạy giam Nguyệt Kiều và Lâm Phiêu vào ngục, rồi khiến bọn đờn bà bị giam thủng thẳng dỗ lần, chẳng dè Nguyệt Kiều quả nhiên trinh tiết, chẳng hề đổi chí .

Tri phủ cũng không biết làm sao, sang nói dối vời Huỳnh Nhơn rằng :

- Mình dỗ lần phải đặng , chẳng nay thì mai Nguyệt Kiều cũng phải về tay .

Phi Hồng nghe vậy thì tin rằng thiệt, cho nên trong mình giảm bịnh hết nhiều , lần lần đi ra đi vào mạnh lành như cũ .

Việc ấy còn lâu. Đây nói về quan Chế quân là Bá Đạt, từ ngày gặp đặng Thiên tử tại Trấn giang, Đơn đồ huyện khuyên thỉnh Thiên tử hồi trào, ngặt vì người đi chơi chưa đủ nên chưa chịu về .

Bá Đạt đã tuân thánh chỉ , sai trung quân quan đem binh đến bắt cả nhà Thái Chấn Võ mà giải về tỉnh, lại đem mật chỉ giao cho Trang tuần phủ , bắt hết cả nhà Diệp binh bộ giải về kinh , rồi dẫn bổn bộ binh đinh đi tuần miệt Trường Giang mãn kỳ một năm, bèn trở về trào phục mạng , lại đem việc mình gặp Thiên tử tại Đơn đồ huyện tâu cho Thái hậu hay .

Thái hậu liền sai Bá Đạt đi tuần theo miệt Trường Giang một lần nữa, lại dặn dò phải ráng mà tìm Thiên tử , khuyên thỉnh về trào, chớ nên lưu luyến ở ngoài lâu ngày không ổn.

Bá Đạt lãnh mật chỉ của Thái hậu rồi vội vã dẫn kẻ tùng nhơn dọn thuyền nhắm Giang Nam tấn phát.

Khi đi đến nơi , thuyền vừa đậu vào bờ, quan địa phương liền nghinh tiếp vào nhà công quán mà nghĩ .

Bá Đạt bèn sai người tâm phúc đi rảo khắp nơi tìm Thiên tử, kiếm hơn mấy tháng mà chưa đặng tin, bèn dắt bốn tên gia đinh qua Dương châu tìm quán ở ngụ, đặng có dạo chơi các chỗ , trước là dọ tin Thiên tử , sau là thăm coi các quan địa phương hiền dữ thể nào.

Nói về Thiên tử và Châu Nhựt Thanh, ngày ấy đi dạo chơi nơi Ma vương miếu mà về, đi đến giữa đường, vùng gặp một người thiếu niên than khóc cùng đường, bèn đón lại hỏi thăm duyên cớ.

Thiếu niên ấy liền bước tới vừa khóc vừa nói rằng :

- Tôi họ Lâm tên Báo , nhơn vì dượng tôi tên là Ân Kế Xương, vốn là người ở Quảng Đông, cửa nhà giàu có, dì tôi là Dương thị sanh đặng một gái tên là Nguyệt Kiều, ở tại xứ này buôn bán, năm ngoái nấy dượng tôi đã mất sớm rồi , qua năm nay hai mẹ con dì tôi dắt nhau đi tảo mộ, trong xứ nầy lại có một người thổ hào , họ Huỳnh tên Nhơn, cũng dắt người con thứ ba là Phi Hồng đi tảo mộ , nhơn thấy Nguyệt Kiều xinh đẹp nên muốn cưới thiếp cho mình, dì tôi không chịu vì đã có hứa gã cho Trương tú tài rồi . Huỳnh Nhơn bèn lo với quan Phủ sở tại, phao vu cho Trương tú tài là ăn cướp, quan Phủ nghe lời bèn bắt Trương tú tài giam cầm cho đến chết đi ; rồi Huỳnh Nhơn lại khiến người khiêng lễ vật qua bỏ đại trong nhà dì tôi . Dì tôi nổi giận mắng nhiếc va một hồi, va bèn làm hôn thơ giả bẩm với quan Phủ, nói rằng bọn tôi gạt gẫm lễ vật và loại hôn . Quan phủ lại nghe lời bắt hết hai mẹ con dì tôi , với anh tôi là Lâm Phiêu mà giam và tra hỏi dì tôi ; vì bởi dì tôi ăn nói khẳng khái, nên bị tham quan đánh chết tại giữa công đường ; nay còn anh tôi và em tôi còn giam tại ngục, chắc chết chớ không sống đặng ; tôi không biết phương chi cứu đặng , nên mới than khóc mà thôi .

Thiên tử nghe nói nổi giận, bèn muốn phát tác, song nhớ lại mấy lần trước ghe phen gặp nhiễu nguy hiểm, nên phải dằn lòng, bèn nói với Lâm Báo rằng :

- Thôi, để ta làm giùm cho mi một lá đơn , mi đem đến nha Tri phủ mà đầu đệ, như va chẳng chấp, thì mi phải về cho hãy đặng ta lo phương khác, ta ở tại tiệm Lý gia chờ mi.

Lâm Báo nghe nói liền tạ ơn và hỏi thăm tên họ.

Thiên tử nói :

- Ta họ Cao tên Thiên Tứ.

Nói rồi bèn dắt Lâm Báo vào quán mua giấy mực mà viết đơn, viết rồi coi lại một hồi , lại khiến Nhựt Thanh chép lại, rồi mới giao cho Lâm Báo, lại khiến Nhựt Thanh lấy ra một đính bạc ròng mà cho và dặn rằng : Ngươi hãy cứ việc đem đi chớ có sợ chi .

Lâm Báo lãnh bạc và đơn rồi từ tạ Thiên tử tuốt đến nha Tri phủ .

Lúc ấy nhằm ngày mồng tám, là ngày xử kiện, bá tánh đến nha thưa kiện rất đông , trời vừa đúng ngọ quan Phủ mới ra hầu, hai bên sai dịch hầu hạ nghiêm trang, bá tánh lục tục đem đơn vào dâng lên, Lâm Báo cũng dâng theo, quan phủ tiếp lấy đơn Lâm Báo, liền mở thư ra xem .

Đơn như vầy :

Tôi là Lâm Báo, tuổi vừa mười chín . người Dương châu, bẩm vì thô hào ỷ thế, hiếp buộc việc hôn nhơn. Nguyên vì tôi có một bà dì, nhơn lúc tháng ba, dắt em tôi là Nguyệt Kiều đi tảo mộ, cha con Huỳnh Nhơn là người thổ hào xứ nầy , thấy em tôi có nhan sắc, bèn muốn cưỡng bức cưới cho đặng, lại đem lễ vật bỏ vãi vào nhà, dì tôi không chịu , va lại làm hôn thơ giả và vu việc hiệp loã ăn cướp , thông gian loại hôn mà cáo dì tôi, làm cho mẹ con dì tôi và anh tôi đến đổi bị giam ; cũng vì vụ ấy mà Trương tú tài uổng mạng, dì tôi lại bỏ mình, nay còn anh tôi là Lâm Phiêu, và em tôi là Nguyệt Kiều, còn đang bị giam xin ngài tha ra cho khỏi thác . Chí như cha con Huỳnh Nhơn, mai dong là Trần má, ác ôn là Ngũ Bình, xin hãy bắt hết đem về tra cứu , nhờ ơn Công tổ đại lão gia . Muôn đời tôi vẫn ghi tạc.

Năm.. tháng.. ngày..

Lâm Báo cúi bẩm

Tri phủ xem đơn của Lâm Báo rồi bèn nổi giận vỗ án mắng rằng :

- Mi chớ nói hồ đồ ; anh của mi gian dâm dâu người, chiếm đoạt vợ người , ta tra đã rõ ràng, mi còn dám đến đây cáo gian nữa sao, lẽ thì bắt mi trị tội, song ta nghĩ vì mi tuổi còn thơ ấu vốn chẳng biết chi, nên ta tạm tha cho đó .

Nói rồi liền xé nát lá đơn và hối lính đuổi ra.

Khi Lâm Báo bị lính đuổi ra rồi, chạy tuốt về tiệm Lý gia, ra mắt Thiên tử và thuật việc ấy lại.

Thiên tử nghe nói cả giận, bèn nói rằng :

- Thôi, để ta làm một lá đơn khác nữa, ngươi hãy đem đến tỉnh thành tìm vào nha Án sát mà cáo .

Lâm Báo nói :

- Vậy thì xin khách quan viết giùm, đặng tôi đi một phen nữa.

Thiên tử ngẫm nghĩ một hồi, liền lấy viết ra não, rồi khiến Nhựt Thanh chép lại, và cũng lấy thêm một đính bạc nữa giao cho Lâm Báo và dặn rằng :

Ngươi hãy đem lá đơn nầy đến tỉnh thành đầu đệ, mựa chớ dần dà, ta sẽ ở đây chờ ngươi.

Lâm Báo lãnh bạc và đơn rồi vội vã xuống bến sông tìm đò mà đi.

Ngày kia đi đến tỉnh thành, Lâm Báo bèn bước lên bờ, thấy trời còn tối phải tìm quán xá nghỉ ngơi.

Sáng ra bữa sau kêu chủ tiệm dọn cơm, lót lòng , rồi tuốt vào thành tìm đến nha Án sát, hỏi thăm lại thì ngày ấy Niết đài chẳng có xuất nha, nên phải trở lại tiệm mà nghĩ .

Qua bữa sau là bữa Niết đài ra hầu , bá tánh lăng xăng đem đơn vào nạp .

Nguyên quan Niết đài này họ Hoát tên Đạt Thanh , người ở tỉnh Quảng Đông , làm quan thanh liêm chánh trực , xử đoán cẩn thận, duy có một điều là nhu nhược lắm mà thôi.

Ngày ấy ra ngồi nơi công án, thâu hết đơn của bá tánh ; khi thu tới đơn của Lâm Báo , thấy cáo quan Tri phủ Dương châu, thì trong lòng kinh hãi.

Đơn như vầy :

Người đứng đơn là Lâm Báo, mười chín tuổi, ở tại phủ Dương châu. Bẩm vì sự vũ đoán vầy vò, giết oan người vô tội, xin quan trên lấy đức cứu sanh, và rửa oan cho người cơ quả . Nguyên tôi có một bà dì, người quán Quảng Đông, dượng tôi buôn bán, bất hạnh đã mất sớm đi rồi, có để lại một người con gái ; đã định hôn vói một viên Tú tài tên là Trương Chiêu . Khi nhằm tiết tháng ba , dì tôi với em tôi là Nguyệt Kiều nhơn đi tảo mộ , cha con thổ hào là Huỳnh Nhơn ngó thấy em tôi xinh đẹp , nên muốn cưỡng bức , quyết cưới cho được mới nghe, lại đem lễ vật bỏ vãi trong nhà, bởi dì tôi không chịu, nên va vu cáo dì tôi . Quan phủ lại chẳng xét trước sau cho rõ, trước đã ăn hối lộ , hại Trương tú tài chịu thác oan , sau lại bắt dì tôi, anh tôi và em tôi giam và ngục, xử ép dì tôi phải gả con cho họ Huỳnh, dì tôi không chịu, cho nên quan Phủ dạy quân sai dịch đánh vã dì tôi cho đến bõ mạng, nay còn giam anh tôi và em tôi nơi ngục. Tôi thấy vậy nên phải làm đơn đến phủ đường kêu oan ; chẳng dè quan Phủ mắc ăn hối lộ đám kia, cho nên chẳng hề thương xót dân lành, bèn xé lá đơn của tôi, lại khiến nha dịch đánh đuổi tôi ra cho khỏi cửa ; việc rất nên oan ức, nếu chẳng bẩm nơi quan trên, thì cái oan nầy làm sao cho rõ đặng, nên phải đến đây khẩn cầu xin quan trên hãy tra lại Dương châu Tri phủ, và tha giùm anh tôi là Lâm Phiêu, em tôi à Nguyệt Kiều là người không tội mà bị giam , còn nhưng thổ hào là cha con Huỳng Nhơn, mai dong là Trần má, ác côn là Ngũ Bình, xin bắt chúng nó đến trị tội ; thiệt là tôi cảm đức muôn đời .

Cúi trông quan cả án chuẩn thi hành.

năm . . . . . tháng . . . . .ngày . . . . .

Lâm Báo cúi bẩm.

Khi Hoát niết đài xem lá đơn rồi, bèn nói với Lâm Báo rằng :

- Ngươi cáo quan Tri phủ ăn hối lộ và giết oan người vô tội, việc ấy hoặc chơn hoặc giả ta chưa tin đặng, vậy thì để ta sai người đi thám cho rõ ràng, rồi sẽ thẩm tra minh bạch.

Lâm Báo bẩm rằng :

- Việc ấy chắc chắn rõ ràng, nếu có gian dối tôi cam chịu tội .

Niết đài nói :

- Vậy thì ngươi hãy về mà chờ lịnh , để ta ta hỏi cho ra rồi ta sẽ xử .

Lâm Báo thấy nói làm vậy không biết làm sao, nên phải từ tạ lui ra khỏi nha, về chỗ ngụ quảy đồ hành lý xuống đò trở lại Dương châu, tìm đến tiệm Lý gia ra mắt Thiên tử và đem hết những lời Niết đài mà thuật lại một hồi .

Thiên tử nói :

- Như quan Niết đài nói vậy thì đễ chờ chừng nữa tháng hoặc mười ngày, coi ra làm sao rồi sẽ liệu bề khác nữa .

Lâm Báo nói :

- Cao khách quan có lòng cố cập, tôi phải vưng lời .

Nói rồi liền từ biệt trở về nhà đợi hơn một tháng có dư , lại cậy người dọ nghe công việc trong phủ , thì chẳng có tin tức chi của Niết đài hết.

Nguyên quan Niết đài nầy vốn là anh em bạn thiết với quan Tri phủ, nên khi thấy lá đơn của Lâm Báo cáo quan Tri phủ thì yểm đi không ngó tới Lâm Báo dọ đặng tin ấy bèn tìm đến tiệm tõ cho Thiên tử nghe, và xin người lập kế chi khác giải cứu .

Thiên tử nghe nói cả giận mắng rằng :

- Loài cẩu quan thiệt là đáng giận, để mai ta vào thành luận biện với nó mới xong.

Đêm ấy nghỉ ngơi, sáng ra bữa sau hối người chủ tiệm dọn cơm lót lòng, ba người dùng rồi, liền dắt nhau vào thành , đến nha Tri phủ.

Thiên tử bèn khiến Lâm Báo đánh trống lên.

Tri phủ nghe trống vội vã ra trước công đường, nạt quân sai dịch rằng :

- Hãy bắt người đánh trống vào đây cho mau.

Sai dịch áp ra bắt Lâm Báo dẫn vào để quì trước công án .

Quan Phủ ngó thấy Lâm Báo thì nổi giận nạt rằng :

- Mi đến có việc chi, dám cả gan đánh trống om sòm như vậy ?

Lâm báo nói :

- Hôm tháng trước tôi có vào đơn, nhưng lão gia không thèm chấp, nay phải đến một lần nữa mà cầu lão gia, xin tha đại ca và biểu muội tôi ra, và bắt cha con Huỳnh Nhơn mà tra hỏi , thì tôi rất cảm đức muôn đời.

Quan Phủ nạt rằng :

- Mi thiệt lớn gan, hôm tháng trước đến đây cáo gian cho người , ta thấy ngươi nhỏ dại nên ta chẳng bắt tội, ngươi lại tìm qua nha Niết đài cáo ta rằng thiên đoán, nếu chẳng trừng trị mi, thì kẻ sau hay bắt chước.

Nói rồi liền khiến kẻ tả hữu đè xuống mà đánh một trăm roi .

Thiên tử liền bước tới nói rằng :

- Ngươi làm quan Phủ, sao lại hiếp đáp bá tánh như vậy, đã giết oan Trương tú tài và đánh chết Dương thị là người vô tội, ấy cũng là lớn gan về sự làm quấy đã rồi, nay còn dám đánh hiếp người lương thiện nữa sao ; ta khuyên ngươi hay nghe lời ta , phải mau mau thả Lâm phiêu và Nguyệt Kiều ra, bằng dụ dự thì phép vua ngươi khó thoát.

Tri phủ nạt rằng :

- Ngươi ở đâu dám đến đây mà nói lẽ thể ấy , ngươi biết chỗ nầy là chỗ chi chăng ?

Thiên tử nói :

- Sá chi một cái nha Tri phủ như vầy, nơi tướng phủ kia ta còn coi cũng như không.

Tri phủ nói :

- Ngươi khi bổn Phủ là nhỏ, để ta làm cho mi biết lợi hại thế nào.

Nói rồi liền nạt quân sai dịch đuổi ra.

Quân sai dịch vâng lịnh ào ra, bị Thiên tử tay thoi chơn đá, quân sai dịch ngã lăn , Tri phủ liệu thế không xong, liền chạy vào nhà trong, xảy có mấy mươi sai dịch tay cầm binh khí áp ra phủ vây thiên tử.

Lúc ấy Lâm Báo và Nhựt Thanh thấy việc chẳng hiền , nên đã chạy trước ra ngoài , còn Thiên tử thấy có một tên sai dịch cầm thương đâm tới liền né qua một bên, rồi thừa cơ giựt đặng cây thương đánh với bọn kia mở đường chạy tuốc ra ngoài, quân sai dịch rượt theo .

Thiên tử vừa đánh vừa chạy tuốt ra khỏi thành, vừa đến Mã vương miễu .

Nói về Đường Hoán, từ ngày cứu giá đến nơi Anh võ viện đến sau, đã ghe phen muốn vào Kinh sư , ngặt không tiền lộ phí, lại không dám về Anh võ viện, nên phải lánh mặt đi xa, đi dọc đường cứ chuyên một nghề mãi võ mà nuôi miệng, đến Dương châu đã hơn một tháng.

Ngày ấy vừa muốn khai tràng mãi võ nơi miễu Ma vương, bỗng thấy một người tay cầm thương bén , hơ hải chạy tới còn sau lưng hơn mấy mươi người đều cầm binh khí rượt theo .

Đường Hoán coi kỹ lại, mới biết là Thiên tử, mà mình đã gặp nơi Anh võ viện lúc trước ; trong lòng thất kinh liền hươi thiết côn xốc ra kêu lớn lên rằng :

- Cao lão gia chớ sợ, có tôi đến đây .

Thiên tử coi lại thì là Đường Hoán, hai người liền hiệp lực trở lại rượt đánh, quân sai dịch rượt theo vừa đến bị Đường Hoán hươi thiết côn đánh lia, đánh thôi, quân sai dịch kẻ bể đầu , người nát óc, máu chảy dầm dề, liền dắt nhau chạy ráo .

Đường Hoán vừa muốn đuổi theo, Thiên tử cản lại mà nói rằng :

- Chớ rượt nữa làm chi, hãy theo trẫm về tiệm rồi sẽ chuyện vãn với nhau .

Đường Hoán liền dẹp hết võ cụ, theo Thiên tử về tiệm.

Nhựt Thanh và Lâm Báo đang ở trong mà chờ, thấy Thiên tử về tới thì mầng rỡ hỏi thăm, Thiên tử bèn đem việc Đường Hoán giúp sức mà thuật lại một hồi , rồi xuất tiền ra trao cho chủ tiệm đi mua ngỗng, và rượu, thịt về làm tiệc đặng có ăn uống với nhau .

Rồi đó Thiên tử hỏi Đường Hoán rằng :

- Đường khanh , từ ngày biệt trẫm nơi Anh võ quán đến nay bề ăn ở thế nào ?

Đường Hoán nói :

- Từ tôi cách biệt Thánh thượng đến sau, chẳng dám trở về Anh võ viện, cũng muốn tìm xuống Kinh sư, song không biết Thánh thượng đã về trào hay chưa, nên chưa dám ra đi , phần thì lộ phí không có nên phải chuyên nghề mãi võ cho qua ngày ; còn thánh thượng chẳng hay vì cớ chi mà bị chúng quân rượt theo dữ vậy ?

Thánh thiên tử nói :

- Ấy cũng là tại tánh trẫm hào hiệp, thấy sự bất bình thì không nín đặng nên mới có chuyện như vậy .

Nói rồi bèn đem việc gặp Lâm Báo khóc lóc dọc đường, đầu đuôi thuật hết một hồi rồi lại hỏi rằng :

- Chẳng hay Đường khanh ở đâu; có anh em chi chăng ? Đặng có dùng một chước cho hay mà cứu Lâm Phiêu , Nguyệt Kiều ra , và giết phứt Tri phủ ấy đi mà trả hờn cho trẫm .

Đường Hoán tâu rằng :

- Thánh thượng là một vì thiên tử, xin chớ làm điều nguy hiểm như vậy, hãy làm một tờ mật chỉ, giao cho Chiết giang Tuần phủ lấy lẽ công mà xử đoán ; vã chăng hôm trước đây, có một người tùng nhơn mang bịnh ở tại nơi tiẹm Đường gia . Tôi cho thuốc mạnh rồi, bèn hỏi thăm người chủ là ai ; người ấy xưng mình là kẻ tùng nhơn của quan Khâm mạng tuần giang Bá Tổng đốc, nhơn đến đây phỏng sát dân tình, vậy xin thánh thượng giao cho người biện thẩm vụ nầy thì mới tiện cho , chớ chẳng nên đạp vào nơi nguy hiểm .

Thiên tử nói :

- Bá đạt đến đây phen nầy chắc là tìm trẫm về trào, ý trẫm cũng muốn về trào đã lâu , ngặt vì vụ nầy chưa xong, về không an dạ ; vậy thì khanh hãy đi đến tiệm ấy nói với kẻ tùng nhơn, và giao cái nang chỉ của trẫm cho khanh lúc trước đó cho hắn, biểu hắn dâng cho Bá Đạt, hễ Bá Đạt xem thấy thì phải ra mặt với khanh, chừng ấy khanh sẽ nói thiệt với Bá Đạt rằng trẫm ở tại Sài gia thành, lại dặn va, hễ khi thấy trẫm thì đừng có làm đại lễ mà thiên hạ biết.

Đường Hoán vâng mạng.

Kế lấy chủ tiệm dọn ra một tiệc bỉ bàn, mấy người đều ngồi lại ăn uống,

ăn uống rồi bèn phân nhau đi nghĩ .

Sáng ra bửa sau, Thiên tử dạy Lâm Báo về nhà , còn Đường Hoán thì trở qua tiệm Đường gia .

Khi hai người đi rồi , Thiên tử bèn tính tiền cơm , tiền phòng trả cho tiệm, rồi dắt Nhựt Thanh trở về Sài gia trang .

Sài viên ngoại chạy ra rước vào mừng và hỏi thăm rằng :

- Hổm nay anh sui dạo chơi xứ nào .

Thiên tử nói :

- Tôi đi cùng các xứ , chỗ nào cũng có dạo chơi.

Chuyện vãn một hồi , rồi bước qua Đông thính thay đồ mà nghĩ.

Nói về Đườn Hoán qua đến tiệm Đường gia vào nói với kẻ tùng nhơn ấy rằng :

- Nay ta vâng mạng Cao Thiên Tứ lão gia, muốn ra mắt chủ ngươi, như không tin, thì đem cái nang chỉ nầy giao cho người xem thì rõ minh bạch.

Kẻ tùng nhơn lãnh cái nang chỉ đem vào , chẳng bao lâu liền trở ra nói với Đường Hoán rằng :

- Chủ tôi thỉnh ngài vào trong.

Đường Hoán nói :

- Xin dắt dùm tôi vào .

Tùng nhơn dắt Đường Hoán vào ra mắt Bá chế quân.

Bá chế quân bèn hỏi rằng :

- Chẳng hay thai huynh tên họ là chi ? Ở tại đâu mà gặp đặng Thánh thượng, xin hãy ngồi đây nói chuyện cùng nhau .

Đường Hoán nói :

- Đại nhơn ngồi đó tôi đâu đám ngồi.

Bá chế quân nói :

- Thai huynh vâng mạng chúa tới đây, thì khác chi như một vị Khâm sai, có lý nào chẳng dám ngồi.

Đường Hoán thấy Bá chế quân khiêm nhường lắm , nên phải cáo lỗi rồi mới ngồi xuống mà nói rằng :

- Tôi họ Đường tên Hoán, người ở tĩnh Phước Kiến , lúc trước tôi ở nơi Anh võ viện của Diệp hoằng Cơ là em của Diệp binh bộ mà làm giáo đầu ; nhơn vì thánh chúa vào đó xem chơi, sau gây việc ra, bi sắp gia đinh vây khổn , tôi đang ngủ ngày, có thần nhơn mách bảo, nên tôi mới hay mà cứu giá, thánh thượng bèn cho tôi một cái nang chỉ, rồi chúa tôi phân biệt nhau ai đi đàng nấy, từ ấy đến nay tôi trôi nổi giang hồ, duy có mãi võ mà độ nhựt, mới đây tôi đến Dương châu ở tại miễu Mã vương mãi võ, thì gặp Thánh thượng cũng đương bị khổn, tôi liều ra sức bảo giá đặng an, rồi dắt nhau về tiệm, chúa tôi chuyện vãn với nhau, mới hay Tri phủ Dương châu ăn hối lộ mà giết oan người vô tội.

Nói rồi liền đem chuyện Huỳnh Nhơn muốn cưới thiếp Nguyệt Kiều và Thiên tử làm đơn giùm cho Lâm Báo, quan Phủ chẳng chấp, lại xé mà quăng đi, đầu đuôi nhứt nhứt thuật hết một hồi .

Rồi lại nói rằng :

- Nay nghe đại nhơn đã đến đây , nên tôi vâng mạng thánh thượng đến đây cậy Đại nhơn biện tra vụ ấy .

Bá chế quân nghe nói bèn trả lời rằng :

- Tôi cũng đang lo tìm kiếm Thánh thượng hơn mấy tháng nay mà không gặp, nay may mà người ở đây, xin Thai huynh dắt tôi đến nơi đặng lạy mừng Thánh thượng, ước có nên chăng ?

Đường Hoán nói :

- Lúc tôi ra đi, thì Thánh thượng có dặn tôi rằng : Người về ở tại Sài gia trang, như đại nhơn có đến ra mắt thì chớ có làm đại lễ mà thiên hạ biết, duy làm theo bằng hữu mà thôi.

Bá chế quân nói :

- Nếu có mạng vua thì tôi phải vâng theo.

Nói rồi liền dẫn hai đứa tùng nhơn theo Đường Hoán thẳng đến Sài gia trang.

Khi đến nơi khiến người thông báo .

Thiên tử liền cho Nhựt Thanh ra rước vào trong, hai người theo Nhựt Thanh vào đến thơ phòng, lấy lễ thường mà ra mắt Thiên tử.

Lúc ấy Thiên tử dã làm một đạo mật chỉ sẵn rồi , bèn khiến Nhựt Thanh lấy ra trao cho Bá Đạt và dặn rằng :

- Khanh hãy cứ y theo đó mà làm.

Bá Đạt lãnh tờ mật chỉ rồi, lại lấy tờ ý chỉ của Thái hậu mà dâng cho Thiên tử và tâu rằng :

- Xin Thánh thượng hãy tuan theo trong chỉ ấy, mựa chớ ở lâu, mà Thái hậu nhọc lòng trông đợi.

Thiên tử nói :

- Ta đã hiểu rồi, để chờ vụ nầy cho xong thì ta sẽ trở về, khanh hãy dắt Đường khanh theo với mà biện việc ấy cho xong.

Bá chế quân dâng lịnh, rồi với Đường Hoán dắt kẻ tùng nhơn trở về chỗ ngụ mở thánh chỉ mà xem .

Tờ mật chỉ như vầy :

Vâng trời nương vận, Hoàng đế chiếu rằng : Trẫm đi dạo chơi Giang Nam đây . Một là tìm kẻ hiền lương , hai là tra sát quân gian nịnh. Hôm tháng trước đến phủ Dương châu gặp một người tuổi trẻ tên là Lâm Báo khóc lóc cũng đường, trẫm hỏi ra duyên cớ thì người trẻ ấy nói rằng : Dượng nó là Ân Kế Phong, dì nó là Dương-thị sanh đặng một đứa con gái tên là Nguyệt Kiều, dượng nó chẳng may mất sớm, dì nó mẹ goá con côi, hủ hỉ mẹ con cho qua ngày tháng, mới hồi tháng ba năm nay, hai mẹ con dắt nhau đi tảo mộ, bị cha con Huỳnh Nhơn ngó thấy Nguyết Kiều vốn có nhan sắc, nên muốn cưỡng bức mà cưới cho đặng, lại đem lễ vật bỏ vãi trong nhà, hai mẹ con Dương thị từ chối , rằng mình đã hứa gã cho Trương tú tài rồi.

Huỳnh Nhơn lại âm mưu hạ thác Trương tú tài đi , rồi làm hôn thơ giả và hối lộ với Tri phủ là Quế Văn Phương vu cho Dương thị loại hôn và giựt của. Quan phủ chẳng xét lại bắt hết mẹ con Nguyệt Kiều và Lâm Phiêu mà giam, ép uỗng đánh khảo làm cho Dương thị vô tội bị thác oan ; còn Nguyệt Kiều và Lâm Phiêu thì giam vào ngục , Lâm Báo viết đơn kêu oan, Tri phủ lại xé mà quăng đi và đánh đuổi ra ngoài. Lâm Báo lại làm đơn khác, đến với Niết đài đã hơn một tháng mà chưa thấy hỏi tới, thiệt là coi dân mạng như không. Nay trẫm đã tra rõ, khanh phải xuất trát cho Niết đài là Hoát Đạt thành, lập tức bắt Tri phủ Quế văn Phương đến nha mà tra hỏi : và bắt cha con thổ hào là Huỳnh Nhơn và Huỳnh Phi Hồng, mai dong là Trần má , côn đồ là Ngũ Bình, giam hết vào ngục, rồi phân biệt án luật trượng khinh mà xử đoán, chớ nên vi mạng ; khanh hãy tuân lấy.

Khi Bá chế quân xem tờ mật chỉ ấy rồi, liền viết trát, sai người đem qua Niết đài nha môn ; rồi khiến Đường Hoán làm Trung quân quan, dắt nhau qua đó hiệp đồng tra biện .

Ngày ấy Niết đài đang ngồi trong nha thự, bỗng nghe quan báo có trát của Bá chế sai đến, Niết đài tiếp lấy mở xem.

Trát như vầy :

Khâm mạng tuần dượt Trường giang Thuỷ sư quân vụ Tổng đốc Bổ đường Bá.

Vì trát xuất sự, cứ theo đơn Lâm Báo cáo bẩm, nguyên dượng nó là Ân Kế Xương đã thác, để mẹ con dì nó lập là Dương thị với Nguyệt Kiều, nhơn lúc tháng ba năm nay dắt nhau đi tảo mộ, bị cha con thổ hào là Huỳnh Nhơn ngó thấy Nguyệt Kiều có nhan sắc, muốn cưới về làm dâu, Dương thị có nói rằng con mình đã hứa gã cho Tú tài Trương Chiêu, không lẽ mà gả hai chồng.

Thổ hào lại sai người đem đồ lễ vật bỏ vãi trong nhà. Dương thị chẳng chịu, thổ hào lại vu rằng loại hôn, rồi hối lộ với quan Phủ mà hiếp bức cho Dương thị với Trương tú tài chết đi, lại bắt Nguyệt kiều với Lâm Phiêu giam nữa ; vì sự oan ức nên nó đã có đến nha Tri phủ đặng cầu tha, quan phủ lại giận mà xé đơn rồi lại đuổi nó ra. Nay ta đã rõ những điều tình tệ nên phải , phú cho Gai ti tuân chiếu biện , hễ trát đến ngày nào thì phải lập tức truyền đòi Tri phủ Quế Văn Phương đến án đường mà hầu tra, và phải bắt cho đặng cha con Huỳnh Nhơn, cùng Trần má với Ngũ Bình giam lại mà tra hỏi . Chớ nên trễ nải, phải tuân theo trát này.

Khi Hoạt niết đài đặng trát của Bá chế quân rồi, thì chẳng dám trễ nảy , vội vàng cho đòi Tri phủ đến nha mà hầu tra, lại khiến quân sai dịch đi bắt Huỳnh Nhơn, Phi Hồng, Trần má và Ngũ Bình đem về giam hết vào ngục ; lại sai người qua bên nha Tri phủ mở ngục tha Nguyệt Kiều và Lâm Phiêu ra , rồi dắt hết về nha để quì trước công án.

Hoạt niết đài bèn lấy lời dịu ngọt mà vỗ về rằng :

- Ta đã rõ biết những việc oan ức của mi nên nay ta tha hai anh em mi về nhà, và phải làm tội hành hình cha con Huỳnh Nhơn mà báo cừu cho mẹ và chồng mi.

Nguyệt Kiều nghe nói vùng khóc rống lên.

Hoạt niết đài bảo :

- Nay ta đã quyết báo cừu cho mi, sao mi còn khóc là cớ chi vậy ?

Nguyệt Kiều nói :

- Chồng tôi bị cha con Huỳnh Nhơn mà thác, vậy xin đại nhơn cho tôi đến nơi mộ chồng tôi mà lạy một phen, thì tôi đội ơn đại nhơn vô cùng.

Niết đài nói :

- Nếu mi muốn như vậy thì để ta cho người đi với mi.

Nói rồi liền sai người dắt Nguyệt Kiều đến mộ Trương tú tài.

Nguyệt Kiều vừa ngó thấy mộ , liền lăn khóc một hồi rồi đập đầu vào bia đá mà thác .

Tuy đã thác rồi mà thây không chịu ngã , người ấy sững sốt vội vã chạy về bẩm lại cho quan Niết đài hay .

Quan Niết đài thất kinh liền đi theo người ấy đến đó mà coi, thấy thây đứng trơ như sống, mặt không đổi sắc, bèn hứa rằng :

- Thôi, để ta đem cha con Huỳnh Nhơn đến đây mà chém, còn Trần má và Ngũ Bình thì mỗi đứa đánh một trăm roi, rồi đóng gông cả hai trói để nơi trước mộ cho đủ một tháng mà răn chúng, Quế Tri phủ thì ta lại đày ra chốn Quân đài đặng lấy công mà chuộc tội .

Quan Niết đài liền trở về nha làm văn thơ gởi cho Bá chế quân xin tâu cho trào đình hay, đặng truyền cho quan địa phương lập miếu mà thờ, bốn mùa tế tự .

Nói về Đường Hoán đã biện cái án ấy xong rồi liền từ giã Bá chế quân trở về Sài gia trang mà tâu hết đầu đuôi cho Thiên tử hay.

Thiên tử nghe đến việc Nguyệt Kiều liều mình mà thác thì khen rằng :

- Thiệt rõ ràng là trang liệt nữ.

Thiên tử khen rồi viết một bức chiếu chỉ giao cho Hoát niết đài đem về kinh đặng thăng bố đi nơi khác.

Hoát niết đài lãnh chiếu đem về Kinh giao cho quan lại học sĩ là Lưu Dung.

Lưu Dung tiếp lấy rồi mở ra xem .

Chiếu rằng :

Vâng trời nương vận Hoàng đế chiếu rằng : Trẫm đạo chơi Giang Nam, đi ngang qua Dương châu thấy có một người liệt nữ tên là Nguyệt Kiều, đã hứa gã cho Trương tú tài mà chưa kịp cưới, bị thổ hào là Huỳnh Nhơn cưỡng bức mà cưới, lại hối lộ với tri phủ là Quế Văn Phương bắt chồng giam cho đến chết, lại còn bắt Nguyệt Kiều cầm ngục, khi trẫm hay đặng thì trẫm khiến Hoạt án sát tha nàng ấy ra, chẳng dè nàng lại đến nơi mã chồng than khóc rồi đập đầu vào bia đá mà thác đi ; khi thác rồi thây không ngã, trẫm thấy người trinh tiết như ấy thiệt rất đáng thương, khanh hãy khiến quan địa phương lập tại chỗ đó một liệt nữ từ, bốn mùa tế tự cho an trinh hồn, phải xuất bạc kho tại xứ ấy ra chừng vài ngàn lượng mua điền sản, lấy huê lợi chi phí việc tế tự mỗi năm, khanh hãy tuân theo mà làm, chớ phụ ý trẫm.

Khi Lưu Dung đọc chiếu rồi, liền tuân theo đó, khiến quan địa phương tại phủ Dương châu lo lập liệt nữ từ, và xuất bạc kho ra hai ngàn lượng mua điền sản , bốn mùa tế tự hương hoả chẳng dứt.

Đến sau thường hay hiển thánh hò hộ dân gian. Còn Hoạt Đạt Thành thì thăng lên chức Bố chánh , bổ đi trấn nhậm lại Chiết giang .

Nói về Thiên tử từ ngày hạ chỉ rồi, nhưng còn nghĩ Nguyệt Kiều trinh tiết, người mẹ là Dương thị lại bị Tri phủ đánh chết , thương tiếc chẳng cùng, bèn viết một tờ mật chiếu khiến Lâm Phiêu nối dòng cho Ân Kế Xương mà giữ phần hương hoả, còn những sự nghiệp của Ân Kế Xương cũng giao lại cho Lâm Phiêu gìn giữ và thưởng thêm một ngàn lượng bạc cho Lâm Phiêu để cưới vợ, như sau có sanh đặng con trai thì để một đứa nối dòng cho Trương Chiêu ; lại thưởng áo mão theo hàng Thất phẩm , bổ làm chức Bá tổng, cho học trập cung mã, chừng nào Lâm Phiêu học đặng tinh thục rồi sẽ đến chỗ nhậm lãnh chức cho tỏ lòng trung nghĩa.

Khi viết mật chỉ rồi liền giao cho Lâm Báo , khiến đem trao lại cho anh, lại dặn dò chẳng cần chi phải đến tạ ơn.

Lâm Báo lãnh chỉ đi rồi, Thiên tử lại nói với Đường Hoán rằng :

- Nay trẫm với Nhựt thanh còn đi các chỗ khác dạo chơi ít bữa, khanh hãy theo Bá Đạt tuần thị các xứ, chừng nào công việc xong rồi sẽ về Kinh, thì khanh phải đến ra mắt đại học sĩ Lưu Dung, hễ người thấy chiếu chỉ của trẫm thì người ắt sai khanh đi trấn nhậm, nay trẫm gia phong khanh làm chức Hiệp trấn .

Nói rồi liền viết một tờ mật chỉ giao cho Đường Hoán.

Đường Hoán lãnh chỉ rồi cúi đầu tạ ơn lui ra, tìm qua theo Bá chế quân đi tuần thị các xứ.

Hồi 24

Đãi nguyệt lầu, Phấn Bàng hộ giá

Tầm phương thị, Lương Hải vong thân

Nói về Thiên Tử thưởng hai ngàn lượng bạc cho quan địa phương lập miễu liệt nữ từ mà thờ Nguyệt Kiều, lại ra ơn nhuần phong quan chức và thưởng bạc cho Lâm Phiêu, rồi lại viết một tờ mật chỉ giao cho Đường Hoán, dạy hễ công việc xong rồi thì phải về Kinh ra mắt lưu đại học sĩ thì ắt đặng phong làm Hiệp trấn, chừng có chỗ khuyết thì đặng bổ liền. Đường Hoán tạ ơn lãnh chỉ đi

liền. Rồi đó Thiên Tử và Nhựt Thanh từ biệt Sài gia trang dạo chơi chỗ khác, đi đến một chỗ kia, nhà cửa đông đầy, thiên hạ đông đảo, kêu là chợ Tầm phương thị, lúc ấy trời đã trưa rồi, hai người bèn vào chỗ tửu lầu, mười phần u nhả, trên có tấm biển hiệu đề ba chữ lớn bằng vàng : "Đãi Nguyệt Lầu " hai cha con lựa một bàn

sạch sẽ mà ngồi, tiểu nhị dâng trà xong, Thiên Tử kêu tử bảo dặn dò uống rượu, cha con vừa uống đặng vài tuần, bỗng nghe dưới lầu có tiếng cãi lẫy om sòm, không biết là việc chi, trong giây lát lại nghe có tiếng nói rằng:

Thằng du côn, mi đã uống rượu sao không trả tiền?

Rồi lại nghe có tiếng trả lời rằng:

Ta là Tái kim Cang thuở nay thường thường như vậy, mi dám đòi tiền ta sao?

Chủ tiệm hỏi nữa thì nó xoang tay xoang chơn mà đánh, thiên hạ tư đến đổi đầy, tên du côn ấy lại rút ra một cặp trước diệp bảng đao nặng hơn mười mấy cân, hươi lia chém lịa, những người trong tiệm đều chạy trốn hết, còn người ngoài đường thì tư đến càng đông đứng vây trước tiệm, tên du côn ấy đi ra không đặng, nguyên

nó có dắt theo một đứa học trò, hai thầy trò liền ra sức tung hoành đạp bàn đá ghế la hét om sòm. Nhựt Thanh Ở trên lầu thấy vậy nhịn không đặng, liền bước ra lan can nhảy phóc xuống chẳng nói chi hết cứ việc đánh nhầu.

Tên du côn thấy có người ra tay, liền nạt lớn rằng:

Mi chẳng biết thời vụ, dám đến trước đầu cọp bắt rận sao, như muốn còn tánh mạng thì hãy chạy đi cho mau.

Nhựt Thanh nghe nói như lửa chế dầu, bèn thuận tay giựt đặng cặp đao lớn trong tiệm đánh với tên du côn, đánh đặng chừng mười hiệp, sức đà muốn đuối, Thiên Tử Ở trên lầu thấy vậy, liền nhảy xuống xô hai người dang ra

rồi hỏi rằng:

Mi là du côn Ở đâu mà đến đây, đang giữa thanh thiên bạch nhựt lại dám làm điều vi phép như vậy, chẳng sợ vương pháp quan hình sao?.

Tên du côn ấy xem thấy Thiên Tử tướng mạo nho nhả thì liệu chắc không phải là tay đối thủ, liền hét lên rằng: "Mi là một đứa thơ sanh ốm yếu, nếu ta chẳng chém đứt đầu ngươi, chẳng đánh gãy xương ngươi, thì người chắng biết ta là tay thủ đoạn, tại xứ Tầm phương thị này, ai chẳng biết ta là Tái kim cang Lương Hải, và sư đệ của ta là Thiết Tý Từ Lý Giao hay sao, mà mi dám cả gan khua môi múa mỏ.

Thiên tử nói rằng:

Mi uống rượu của người đã chẳng trả tiền thì chớ, lại còn ỷ mạnh hiếp người, chắng vậy thì vương pháp vô thân, nếu mi chẳng nghe, để vào đến quan nha thì ắt phải bị trọng hình, chừng ấy ăn năn sao kịp.

Tái kim cang chẳng nghe còn khá, chớ nghe rồi lại càng nổi giận, trợn mắt nghiến răng, hươi đao chém đại. Thiên Tử liền lấy tay tã dùng thế thoát san đỡ khỏi, còn tay hự thì giựt đòn cân tạ trong tiệm làm roi mà đánh lại hai người đánh vùi với nhau hơn mấy mươi hiệp, lúc ấy Thiên Tử bụng còn đang đói, bị uống mấy chén rượu nên sức muốn yếu, coi mòi ngăn đánh chẳng lại, Nhựt Thanh

thấy vậy vừa muốn vào tiếp. Thiết Lý Tử thấy Nhựt Thanh vào tiếp, liền rút song tiên chận lại mà đánh. Bốn người đánh vùi với nhau một chỗ. Nhựt Thanh liệu đánh không lại, bèn thừa thế nhảy phóc khỏi đầu những kẻ đứng coi, tuốt ra phía ngoài, Thiết Lý Tử thấy Nhựt Thanh chạy rồi thì chẳng rượt theo, bèn trở lại giúp thầy mình mà đánh Thiên Tử. Lúc ấy Thiên Tử mệt đổ mồ hôi, hai cánh tay đỡ sao nỗi bốn cây binh khí, muốn thừa dịp mà chạy, song mắc người ta đứng coi vây chặt, chạy ra không khỏi trong lòng rất nên bối rối, nhưng người là chơn mạng Thiên Tử có bá linh phò trợ, những thần tướng hộ trì cùng Du thần Thổ địa thấy Thiên Tử nguy cấp như vậy liền chạy đi kiếm cứu tinh đến giúp.

Thuở ấy nơi phía tây cách chợ Tầm phương thị năm mươi dặm, có một làng kia kêu là Trung tín thôn, trong làng ấy có mười mấy người thiếu niên, cả ngày thường tập quyền bỗng, tuy xưng là vô loại, song thuở nay chẳng hề sanh sự, chẳng trộm cướp của ai, duy xưng mình là anh hùng mà thôi, những kẻ phú hộ trong làng đều nhờ bọn ấy mà khỏi canh giờ chi hết, cho nên hễ đến lễ tiết nào

thì thảy đều đem tiền bạc lễ vật mà dâng, quan địa phương thấy không sanh sự chi, cho nên cũng chẳng màng nói tới, người đầu đảng vẫn là người xứ TÔ châu, họ Lý tên Phấn Bàng, Ở với anh và mẹ rất nên hiếu đễ, tánh nết khoan hoà, bởi cớ ấy cho nên thiên hạ đều gọi là Sanh di Đà. Ngày ấy dùng cơm sớm mai vừa rồi, liền dắt

chúng bằng hự đến Tầm phương thị mà chơi, vừa vào đến chợ thì nghe những người qua lại đồn chuyền với nhau rằng:

Hôm nay hai thầy trò Lương lão HỔ lại ỷ mạnh mà khi người, vào Đãi nguyệt lầu uống rượu, đã không chỉ trả tiền lại còn hành hung ăn hiếp một người học trò nho nhả không ai gián can cho đặng.

Mấy anh em Sanh di Đà nghe nói, liều dắt nhau tất đến Đãi nguyệt lầu, xô vẹt những kẻ đứng coi ra, lướt vào giữa đám, ngó thấy một người lạ mặt, nghi biểu phi phàm, chừng coi lại còn quyền thấy còn sức đỡ ngăn, chớ hết phương đánh lại, nguyên Lý Phấn Bàng vẫn đã biết Lương Lão HỔ thường hay ỷ sức mà khi người, liền lướt xông vào đỡ ba người dang ra và nói rằng:

Xin liệt vị dừng tay.

Ba người nghe nói liền dừng tay lại, Lý Phấn Bàng hỏi rằng:

Chắng hay vì cớ chi mà liệt vị đánh nhau như vậy, người này giết người kia chẳng tốt, người kia giết người nọ cũng chẳng hay chi, xin hãy nghe theo lời tôi, hai đàng hoà nhau, cho khỏi gàn trở việc buôn bán, như có muốn đánh cũng xin nói cho tôi rõ minh bạch rồi sẽ đánh cũng chẳng muộn chi.

Lương Lão HỔ nói:

Việc này là việc của ta, can cớ chi mi mà hỏi.

Lý Phấn Bàng nói:

Đã biết rằng ng can chi đến tôi, nhưng tôi khuyên ba vị hoà nhau đó mà thội

Lương Lão HỔ nói:

Nội chợ này hơn ngàn dư phố cùng bốn phương đường sá, ai chẳng biết ta là Lương Hải, ta với chủ tiệm rầy lộn, cái thằng vong mạng cuồng đồ này nó lại ra giúp mà đánh với ta, vả lại xứ này biết bao nhiêu là anh hùng còn phải sợ ta, huống chi nó là người lạ mặt, ngươi chớ có làm khôn mà giải hoà, hãy đi đi cho rảnh, để ta giết nó cho rồi, cho nó biết thủ đoạn của Lương Lão Hổ.

Nói rồi lại day vào đánh với Thiên Tử nữa. Lý Phấn Bàng thấy vậy nổi xung, liền rút song tiên nhắm ngay đầu Lão HỔ mà đánh xuống rất mạnh, Lương Lão HỔ khen giỏi, liền hươi song đao rưởc đánh, hai người đánh nhau hơn mấy mươi hiệp chưa phân hơn thua, những kẻ đứng coi thảy đều sững sốt, hai người đánh với nhau

chừng nào tinh thần càng thêm sức mạnh chừng nấy. Thiết lý Tử thấy thầy mình đánh Phấn Bàng chẳng xuể, liền bước tới đánh giúp, Thiên Tử chận lại mà đánh. Còn Lương Lão HỔ liệu đánh Phấn Bàng chẳng đặng, bèn nghiêng mình né qua rồi day lại chém ngang hông một dao rất mạnh, Phấn Bàng lẹ mắt, tràn lại một bên

mà tránh, Lão HỔ liền rùng xuống, hươi song đao chém quết qua một cái. Phấn Bàng giậm chơn nhảy lên, tay tả cầm roi đỡ vẹt ra, còn tay hửu thì hươi roi đánh xuống. Lão HỔ né chẳng kịp, bị trúng nhằm một roi, từ trên đầu trợt xuống tới vai, lại đánh bồi thêm một roi nửa. Lương Lão HỔ chết tốt. Thiết lý Tử thấy thầy đã chết trong lòng sớn sác vừa chậm tay một chút, bị Thiên Tử đánh cho một đòn cân, thầy trò liền theo nhau một lượt. Những kẻ

đứng coi thảy đều khen dậy, rồi đem nhau tản lần đi hết, trời đã gần tối, chủ tiệm chạy ra mời vào tiệm uống trà và khen tạ chẳng cùng, rồi lại nói rằng:

Chẳng biết nhị vị tên họ là chi, quê quán Ở đâu, hôm nay tuy là vì tiệm tôi mà trừ loài hung bạo, ngặt vì hai cái nhơn mạng tại đó, nếu quan trên hay đặng thì liệu làm sao

Thiên Tử nói:

Tôi là người Ở Bắc Kinh, họ Cao tên Thiên Tứ, nhơn đi với con tôi là Nhựt Thanh đến đây thăm bạn hữu, nãy giờ mắc đánh lộn, không biết nó chạy đi đâu.

Nói chưa dứt lời Nhựt Thanh đà bước vào tiệm, chủ tiệm cũng mời vào uống trà. Thiên Tử bèn hỏi người chủ tiệm ấy rằng:

Chẳng hay ông chủ tiệm tên họ là chi, quê quán Ở đâu đến đây buôn bán đã bao lâu rồi?

Người chủ tiệm đáp rằng:

Tôi là người Ở Chiết Giang, họ Khu tên Vấn, hiệp với bạn đồng hương, đến đây lập cái tử lầu này mới đặng ba bốn tháng nay, chắng hay ông này tên họ là chi, mà anh hùng thế ấy?

Lý Phấn Bàng nói:

Tôi Ở lại làng Trung tín thôn, cách chợ này năm chục dặm, họ Lý tên Phấn Bàng, bổn hiệu là Sanh di Đà, nhơn dắt anh em dạo chơi đến đây, gặp việc bất bình nên phải ra tay cứu giúp.

Chủ tiệm liền mời hết mấy người bạn hữu vào tiệm hỏi thăm tên họ và mời uống trà, rồi thương nghị với nhau về việc hai cái nhơn mạng ấy. Thiên Tử nói:

Việc ấy chớ lo, quan Phủ tại đây là bạn tri giao với tôi để tôi tính thì xong.

Nói rồi liền lên lầu, lén viết một tờ mật chỉ, giao cho Nhựt Thanh đem cho quan Phủ.

Nói về quan Phủ xứ ấy vẫn là người Ở HỒ nam, họ Huỳnh tên Trung Tồn, làm quan rất nên thanh chánh, Thiên Tử vẫn thường nghe đanh, cho nên viết mật chỉ sai Nhựt Thanh đem đi, trong tờ mật chỉ, có dặn rằng:

Khanh hãy bỏ qua cái án ấy đi, và cũng đừng đến mà nhìn trẫm sợ e người ngoài biết đặng.

Khi Nhựt Thanh đi rồi bèn trở yề tiệm, cùng nhau vầy tiệc ăn uống chuyện trò. Thiên Tử bèn hỏi Phấn Bàng rằng:

Nay Lý huynh có làm nghề nghiệp chi chẳng

Phấn Bàng nói:

Tôi nhơn nhà nghèo không có nghề chi làm ăn, duy cứ mỗi ngày dạy võ mà nuôi miệng, cũng thường muốn rủ anh em đi xuống đầu quân, đặng ra sức với trào đình mà lập thân, ngặt không biết chỗ nào mà đến, phần thì không ai tiến dẫn, lại thêm lúc này là lúc thái bình, võ tướng cũng chẳng ai dùng, cho nên phải chịu mai một,

ngày nào qua ngày nấy.

Thiên Tử nói:

Việc ấy rất dễ, quan Đề đài tỉnh này là Lý Công cũng là anh em tôi, như Lý huynh chịu đi, thì đi với tôi, đến ra mắt quan Đề đài thì người ắt dùng, chừng có chỗ khuyết thì lại dùng dịp ấy mà xuất thân rất dễ.

Lý Phấn Bàng cả mừng liền đứng dậy tạ ơn rằng:

Mong ơn Cao lão gia có lòng tiến dẫn, thiệt ơn rất sâu nhưng Ở nhà tôi còn có mẹ già, xin để cho tôi về bẩm lại rồi tôi sẽ đến, ước đặng cùng chăng

Thiên Tử nói:

Lẽ thì phải vậy, song đêm nay tôi tính đi qua xứ khác khó đợi anh, vậy thì tôi viết một bức thơ, anh cầm đem đến ra mắt quan Đề đài cũng đặng, song người có hỏi thăm tôi, thì anh nói tôi đã đi rồi.

Dặn rồi liền viết một tờ mật chỉ phong niêm tử tế giao cho Phấn Bàng. Phấn Bàng lãnh thơ rồi từ tạ đi liền.

Khi Thiên Tử thấy Lý Phấn Bàng đi rồi bèn tử biệt chủ tiệm dắt Nhựt Thanh đi tìm nhà khách sạn nghĩ một đêm Sáng ra bữa sau liền quảy gói dạo chơi nơi khác, chừng Huỳnh tri phủ đến tiệm tìm thì người đã đi rồi, bèn trở về nhà mà biện sự và dạy người đem chôn hai thây thầy trò Lương Lão Hổ.

Nói về Lý Phấn Bàng đặng thơ tiến cử thì mừng rỡ bội phần, khi về đến nhà liền thưa với mẹ rằng: "Hôm nay con đi chơi với mấy anh em ra đến Tấm phương thị, gặp một người Ở xa đang đánh lộn với Lương Lão HỔ tại tiêm Đãi nguyệt lầu, tôi bèn đánh chết Lương Lão Hổ, chẳng ngờ người ấy là bạn thiết với quan Tri phủ, cho nên cái án ấy đã bỏ qua, không ai truy cừ, người ấy là người Ở Bắc Kinh họ Cao tên Thiên Tứ, lại là bà cọn với quan Đề đài tỉnh nầy, cho nên người tiến cử tôi cho quan Đề đài hễ có khuyết đâu thì bổ đó, nay tôi bẩm cho mẹ hay đặng ngày mai tôi đến đó trao thơ, chắc làm sao cũng đặng chô xuất thận

Nguyên Phấn Bàng có một người anh, tên là Phấn Biêu, cũng là người nghĩa khí thâm trượng, võ nghệ cũng tinh thục, song chẳng bằng người em, nay nghe em nói vậy thì mừng, chờ cho em lập đặng thân rồi thì sẽ theo em mà ra sức với Triều đình. Khi Lý Phấn Bàng từ biệt mẹ và anh rồi liền tìm đến nha môn quan Đề đài, trao

bức thơ ấy cho người giữ cửa mà vào. Quan Đề đài xem thơ rồi liền vội vã sai người ra thỉnh Phấn Bàng vào rồi mời ngồi. Phấn Bàng nói:

Đại nhơn là người trên trước, tôi đâu dám ngồi ngang.

Quan Đề đài nói:

Người mà nhơn huynh gặp đó là Đương kim Thiên Tử, nhơn huynh chẳng biết hay sao.

Lý Phấn Bàng nghe nói, chừng ấy mới biết Cao Thiên Tứ là Đương kim Hoàng đế, trong lòng cả mừng. Rồi đó quan Đề đài bèn truyền quân dọn bàn hương án rồi mở chiếu ra đọc rằng:

"Vầng trời nương vận, Hoàng đế chiếu rằng: Nay

trẫm dạo chơi đến đây có nghe danh khanh là người mưu

dõng, lại hết lòng vì nước vì dân, thiệt đáng tôi lương

đống, trẫm lại gặp Lý Phấn Bàng là người trung dũng

lưỡng toàn, nên khiến va đến theo làm bộ hạ, như có

khuyết chức chi chừng lối tam tứ phẩm thì phải bổ Lý

Phấn Bàng vào đó, chờ trẫm về trào thì trẫm sẽ triệu về

mà dùng, khanh thấy chiếu nầy thì phải tuân theo, và

chẳng cần phải đến ra mắt trẫm làm chi, nội ngày mai

"trẫm đi xứ khác du ngoạn, khanh hãy tuân lấy .

Quan Đề đài đọc chiếu rồi liền day qua phía Bắc tạ ợn Rồi đòi Trị nhựt quan vào dạy điểm tra lại, thì có khuyết một chức ĐÔ phủ, liền khiến Lý Phấn Bàng bái tạ và lãnh văn bảng rồi từ biệt đi ra chỗ nhậm. Đến sau vua triệu về kinh cho làm quan lớn rất nên vinh hiển.

Nói về Thiên Tử và Nhựt Thanh đi tới một làng kia mười phần u nhả, thương tòng trăm cội, tuý trúc ngàn cây hoa trổ sắc ngần, nước khoe màu bích, trên nhành chim múa, dưới suối cá đua, phong cảnh rườm rà, trăm hoa đua nở. Thiên Tử và Nhựt Thanh xem chơi mê mẩn, còn đang ngó nước nhìn hoa, bỗng nghe tiếng sấm nổ vang, dường như đá lăn núi sập, Thiên Tử và Nhựt Thanh cả kinh

Hồi 25

Dục tú thôn bá điểu nghinh hoàng

Tiểu đào nguyên vạn hoa chào thánh

Nói về l hiên Tử và Nhựt Thanh lúc đang vui xem phong cảnh, xảy nghe tiếng sấm nổ vang thì giựt mình, ai ngờ là một cây đại thiết thọ, cao hơn mấy trượng, nhành lá sum sê, cây ấy vốn của họ Liễu trồng ra đã mấy mươi năm mà chưa trổ bông, hôm nay thình lình trổ ra hai bông rất lớn, rực rỡ như châu, thiệt ìà tươi tốt trên đời ít có

Nguyên vì làng ấy gọi là Dục tú thôn, là chỗ của Vương, Liễu hai họ ở, hai nhà ấy có lập ra hơn mười tòa Tiểu đào nguyên, thiên hoa bá điểu chẳng thiếu giống chi, hoặc Ở xứ nào có giống hoa chi lạ, có thứ chim nào lạ kỳ, dẫu cho mắc mỏ thể nào cũng mua cho đặng đem về mà thả vào đó, cho nên trọn một tỉnh Giang Nam hoa, điểu

chẳng có chỗ nào hơn chỗ ấy, phần thì giàu giáp một quận nhưng đường công danh thì ít lắm, vì con cháu đều chuyên có một việc an phận thủ thường mà thôi, chớ không ưa làm quan, họ Vương có hơn năm ngàn người, còn họ Liễu cũng hơn ba ngàn người. Nguyên xưa tổ tiên của hai họ ấy là bạn đồng song, kết bạn với nhau rất thiết, đến nay con cháu mấy đời cũng cứ noi theo lời của tổ tông để lại mà kết giao với nhau đời đời, ông tổ họ Vương tên là Thừa Hựu, vẫn là một vị Cử nhơn, còn ông

tổ họ Liễu là một người học trò chớ cũng chẳng phải là con quan hiển tước chi hết, nhưng hai người cũng đồng một chí, tánh ưa cuộc thanh nhàn.

Lúc ấy Thiên Tử và Nhựt Thanh đang xem huê kiểng, bỗng nghe một trận gió thổi tới ào ào, mùi thơm bay nực mũi một bầy chim rất đẹp bay qua trước mặt.

Thiên Tử bèn nghĩ thầm rằng:

Đây chắc là vạn hoa bá điểu đến chầu trẫm.

Còn đang suy nghĩ, bỗng nhiên bầy chim đâu mất, duy thấy đầy vườn tinh những là con gái trạc chừng mười bảy mười tám, dung nhan xinh đẹp, tướng mạo dịu dàng,

má phấn môi son, mày tằm mắt phụng, áo xiêm rực rỡ, giày dép xuê xang xảy thấy sứ của điểu và sứ của bá hoa đang có giành nhau triều bái. Thiên Tử làm thinh để coi

chúng nó giành nhau làm sao cho biết. Kế thấy một người con gái mặc áo hồng, vừa muốn bước tới múa lạy, lại thấy một người con gái áo trắng, bước tới mắng rằng:

Mi là đứa tiện tỳ, mặt mày đỏ hoe đỏ hoét, dám cả gan giành lạy trước hay sao? Mi bất quá là một Thạch lựu, tuy là có sắc mà chẳng có mùi thơm, lẽ phải lui tránh, chớ ta đây là văn thái phong lưu, nghệ dung hoa lệ chớ có phải như bọn mi hễ ngã xuống thì lấm bùn, còn rụng rồi thì trôi theo giòng nước chảy vậy hay sao?

Lựu hoa tiên nghe nói đỏ mặt tía tai bèn mắng lại rằng: "Mi là loài hạc, cẵng chưa lỏng thỏng, nên thân gì mà khoe khoan hoa lệ phong lưu, như bọn mi hễ đứa nào

mập thì để cho người ăn thịt, còn đứa nào ốm yếu thì chết đói nơi bãi cát, chỗ bây Ở là chỗ lạnh lẽo không ai chịu nổi, buồn bực muốn chết chớ bì sao cho đặng như chỗ bọn ta ở, đều là lầu son gác tía mà mi lại dám giành phần trước ta sao?

Bạch hạc tiên nói:

Ta với mi chẳng cần chi là đấu khẩu với nhau cho mệt, vậy thì hai đàng ra nơi trước mặt Vạn tuế nhờ người. bình luận coi ai trước ai sau thì xong. .

Rồi đó Thạch lựu tiên bèn thỉnh Phú quí hoa vương Mẫu đơn ra. Hai đàng ra đứng ngay trước mặt Thiên Tử mà thi lễ và chúc thọ, cùng tỏ ý tranh nhau việc triều bái.

Thiên Tử thấy hai đàng tranh giành như vậy thì nói rằng:

Bọn ngươi hai nước, hơn mấy trăm tên, nay chẳng kể nhiều ít làm chi, hễ ai có các sở trường nào thì hãy dâng cho trẫm xem, hoặc ca, hoặc múa, hoặc ngâm, hoặc

chiến thảy đều dâng đặng, rồi trẫm sẽ bình luận ai hay ai dở, hễ ai hay thì chầu trước, còn ai dở thì chầu sau.

Vua vừa nói dứt lời, Phụng hoàng liền hô chúng thượng thọ: Khổng tước tiên (con công), mình mặc áo ngũ thể hà bước ra nói rằng:

Thiên Tứ xem rồi khen ngợi chẳng cùng, rồi day lại nói với Mẫu hoa vương rằng?

Còn nước của ngươi, có cái chi hay, hãy dâng cho trẫm xem, nếu giỏi hơn thì trẫm cho chầu trước.

Mẫu đơn vương vâng lịnh hoa tiên tử cũng bước ra dâng lên một bài phú. Thiên Tử bá điểu là trước, còn lấy phú quí mà luận thì bá hoa đứng đầu, là bởi vì loài lông

cánh là loại phi cầm, chưa đặng tốt hơn hết, vậy thì Hoa vương chầu trước mới phải.

Mẫu đơn nghe vua nói vậy, liền dắt hết bá hoa bước tới chúc tụng một hồi, rồi Phụng hoàng mới dẫn hết bá điểu ra chúc sau, Thiên Tử cả đẹp bèn nói rằng:

Tự hậu hai nước chớ có ỷ cái sở trường của mình mà tranh cạnh với nhau,thôi hãy lui ra.

Hai nước tạ ơn lui ra, bỗng thấy một trận gió thổi tới ào ào vừa nháy mắt, bá hoa bá điểu thảy đều biến mất, thấy còn cái vưởn trơ trơ như trước, ngước mặt ngó lên thấy có một tấm biển bằng đá đề ba chữ rằng:

Tiểu đào nguyên.

Thiên Tử và Nhựt Thanh huởn huởn bước lần tới, Thiên Tử ý muốn vào đó ngồi nghĩ giây lát, bèn khiến Nhựt Thanh gõ cữa, trong giây phút có đứa tiểu đồng lát chừng mười ba mười bốn tuổi bước ra và xá và hỏi rằng:

Hai vị quý nhơn có phải là Cao Thiên Tứ và Châu Nhựt Thanh chăng? Chủ tôi đợi đã lâu rồi xin hai ông hãy theo tôi vào.

Thiên Tứ và Nhựt Thanh vừa vào tới trong, lại có một cặp hậu sanh chạy ra nghinh tiếp theo vào khỏi mười lớp cửa mới đến một tòa đại thính mười sáu cột rất lớn, lại thấy một người trạc năm mươi tuổi, Ở trong bước ra cúi đầu quì lạy lạy rồi bèn đứng lại một bên, chớ không dám ngồi. Thiên Tử hỏi rằng:

Chẳng hay ông chủ nhà nầy tên họ là chi, sao lại biết tên học của tôi, xin nói cho tôi rõ?

Người ấy đáp:

Tôi họ Vương tên An Quốc, người Ở tại xứ nầy, ông cha tôi đều là Hiếu liêm, nhơn đêm hôm qua con gái tôi nằm chiêm bao rất kỳ dị, thấy thổ địa xứ nầy đến mách

bảo rằng: Ngày mai ắt có chơn mạng Thiên Tử tên là Cao Thiên Tứ và Càn điện hạ là Châu Nhựt Thanh đều tới chốn nầy, ngài lại nói con gái tôi có phần lương duyên với

Càn điện hạ, nên tôi đã bày giai yến sẵn sàng xin Vạn tuế với Càn điện hạ ăn uống cho vui rồi tính giùm việc hôn nhơn ấy cho rồi, thiệt tôi cảm ơn ngàn trùng.

Thiên Tử nói:

Té ra ngươi là một tên sanh viên, chẳng hay gia thế ngươi ra thể nào?

Vương An Quốc nói:

VỢ tôi là Ngô thị, sanh đặng một trai một gái, một trai tên là Gia Ký con gái là Nhược Lan, năm nay đã mười bảy tuổi rồi, song chưa hứa gả cho ai, hôm sớm mai nầy con gái tôi nói với tôi rằng: Đêm hôm qua nó thấy một đôi Thanh y đồng tứ đến thỉnh nó đến một chỗ kia, lầu các nguy nga, vào đến một chô đại diện, có một vị Phán hôn nữ chúa ngồi giữa, thấy nó bước vào thì nói rằng: Mi với Châu Nhựt Thanh điện hạ có tiền duyên lục đế với nhau, ta cho mi một cặp minh châu nầy, để phòng ngày sau có sanh sảnh lân nhi thì khỏi lo đau đớn chi cả, người ấy giờ mùi sẽ tới, đi với một người họ Cao tên Thiên Tứ, là Đương kim thiên tử. Bởi cớ ấy cho nên tôi đã dọn bày diên yến sẵn sàng, lại thêu bông kết tụi trong ngoài rực rỡ cho phải cuộc động phòng huê chúc.

Nói rồi liền sai a huờn vào trong báo cho Nhược Lan hay, biểu phải sửa soạn thay đổi đồ mới mà thành thân với Càn điện hạ. Thiên Tử thấy vậy bèn nốl nhỏ với Vương An Quốc dặn dò chắng nên tiết lậu với ai, vì e có người ám toán, duy cứ nói rằng bà con thân thích mà thôi Rồi đó vua bèn khiến Nhựt Thanh theo gia nhơn vào trong thay đổi y phục tân lang, ra lạy thần thánh tổ tiên, rồi lạy cha mình và cha vợ, làm lễ xong rồi đờn nhạc thổi lên, ăn uống qua canh khuya, họ hàng về hết, Vương An

Quốc bèn khiến gia nhơn rước Cao khách quan vào phía tây thơ phòng mà nghĩ, còn bên kia tân lang và tân nương thì động phòng huê chúc, vợ chồng ân ái nói chẳng

hay cùng.

Nói về Thiên Tử theo thơ đồng qua đến Tây thơ phòng vừa ngồi xuống ngó ra cửa sổ, thấy trăng tỏ lâu lâu hoa đơm rực rỡ, lại nghe tiếng dế thanh thao, Thiên Tử bèn bước ra ngoài, có ý thưởng trăng hoa chơi giây lát rồi sẽ trở vào nghĩ, vừa bước ra ngoài ngồi nơi ghế đá, bỗng nghe có tiếng người nói chuyện và uống rượu với nhau, Thiên Tứ bên ngó hết bốn phía, thấy bên phía Nam có một tòa Đình tứ, có hơn mười người tiên nữ ngồi tại đó uống rượu với nhau, cô nào cô nấy như hoa tợ ngọc, xinh

đẹp chẳng ai bì, chỗ ấy có đề ba chữ lớn: Lưu tiên đình.

Thiên Tử làm thinh lẳng lặng để vậy coi, xảy nghe một người nói rằng:

Uống rượu hành tịnh e không thú vị, chi bằng lấy cái ống thi ra đây thì vui hơn.

Tức thì có một người lấy ống thi ra để chính giữa, rồi giao kết với nhau, hễ ai rút ra nhằm cây xâm nào thì cứ theo chữ trong ấy mà làm đề, bất kỳ là cách nào, hoặc

làm thất ngôn tuyệt cú hay là ngũ ngôn tuyệt cú gì cũng đặng, hễ hay thì thưởng, bằng dở thì phải phạt ba chén lớn. Rồi đó tám người vầy lại một đoàn, phía ngoài thì có vài con a huờn hầu hạ, tám người lại nói lên một lượt rằng:

Phải nhượng cho ai tuổi lớn thì rút trước Rồi hỏi Quế Tiên mấy tuổi? Quế Tiên đáp: 22 tuổi. Hỏi Diệu Tiên thì 21 tuổi, còn Phụng Tiên với Lan Tiên thì 18 tuổi, một tuổi với nhau, duy có Quỳnh Tiên, Liên Tiên, Quí Ngọc và Châu Nhi bốn người đều có 16 tuổi.

Hồi 26

Du hoa viên đề tặng giai nhân từ

Náo tân phòng hy hước phong lưu thoại

Nội đó Quế Tiên là lớn, ai nấy đều nhường rút trước, Quế Tiên liền bước tới rút ra nhằm một cây xâm có đề bốn chữ "Xuân cảnh đào hoa", bèn ngâm bốn câu rằng:

Xuân ẫm đồ tô phước thọ miên,

Cảnh tân vật hoán hứng du nhiên,

Dào hồng ánh tựu yên chi điện,

Hoa khí xâm nhơn túy nhược tiên.

Quế Tiên ngâm rồi, ai nấy đều khen dậy, và nói rằng:

ấy là lời ăn tiếng nói của người lớn tuổi, dùng chữ cũng lão thành, vậy xin chị uống một chén nữa giúp vui cho cuộc rượu.

Quế Tiên cứ đứng cười hoài, ai nấy xúm nhau ép mãl. Quế Tiên từ chối rằng mình yếu rượu, song bị ép quá

phải ráng uống, uống rồi thò đũa xuống gắp lên một miếng tuyết, lê, đưa ra ngâm rằng:

"Vỏ đá lê huê thâm bế môn"

Kế đó Diệu Tiên thò tay vào ống xâm rút ra nhằm một cây xâm có đề bốn chữ: "Phi hoa túy nguyệt" bèn ngâm bốn câu rằng:

Phi hồn thượng giáp diễm ngưng chi,

Hoa phấn hương lưu ngọc xĩ thì.

Túy hướng quỳnh lâu thiên tháp thượng,

Nguyệt quang là lựu chiếu hương ky.

Ngâm rồi cả bọn đều khen rằng:

ấy là cách thơ của phong lưu mỹ nừ, câu nào chữ nào cũng luyện, bài thơ trước của chị Quế Tiên là thơ lão thành, còn bài thơ của chị đây là thơ phong thái, phải uống ba chén.

Diệu Tiên chẳng từ chối chi hết, uống luôn một hơi ha chén,hai má đào thơ thớ càng ngó càng xinh, rồi gắp một miếng thịt gà giơ lên ngâm rằng:

Kẻ thinh kinh khởi oan ương mộng.

Ngâm vừa dứt tiếng, ai nấy đều vỗ tay cười rộ và nói rằng:

Thiệt rõ ràng là gà gáy làm cho giựt mình tỉnh giấc chiêm bao oan ương đó chút, vì ngày ngày hay mơ tưởng chồng ân ái khoái lạc đó.

Diệu Tiên nghe nói thì cứ làm thinh cười hoài. tới phiên Lan Tiên rút ra nhằm một cây xâm có hai câu, mỗi câu bốn chữ, câu đầu là: "Văn thái phong lưư còn câu sau thì: "Tài cao bát đấư , câu đầu thì phải ngâm ngũ ngôn tuyệt cú, câu sau thì tùy tiện, còn bổ tửu thì phải ngâm một câu bảy chữ, và một câu năm chữ, nếu khỏi. bị phạt, thì không thưởng rượu, nghĩ vì cực lòng mà ngâm thi ấy nên Lan Tiên ngâm rằng:

Văn đàn táng đỡm tâm,

Thái tháo trợ cao ngâm,

Phong xõ kinh nhơn cú.

Lưu hà túy thượng tâm

Ai nấy nghe dứt rồi thảy đều khen rằng:

Quả thiệt tài nhơn thinh khẩu, chẳng ai bì kịp, đáng để chỉ đứng đầu

Phụng Tiên nói:

Để coi còn một bài nữa thế nào tưởng có khi còn hay hơn nữa Lan Tiên nói:

Mấy người nhìều chuyện quá, . nếu còn bày chuyện nữa thì tôi không ngâm nữa đâu.

Ai nấy nghe nói đều làm thinh lẵng lặng. Lan Tiên bèn ngâm rằng:

Tài nhơn quảng lượng chánh kham khoa,

Cao xướng đề châm cú tợ hao,

Bát hỗ văn thành nhơn tận túy

Đấu lương chước vẫn y song sa

Ngâm rồi bèn gắp lên một miếng thanh mai, liền ngâm một câu bảy chữ rằng:

Mai tử thanh thanh thái thọ tiên.

Rồi lại ngâm một câu năm chữ rằng:

Thanh mai kham chữ tửu.

Tới phiên Quỳnh Tiên, thì Quỳnh Tiên đứng dậy nói rằng:

Tôi không ưa ngâm thơ, xin cho tôi kiếu.

Ai nấy đều nói:

Không đặng, vì đã có giao kết rõ ràng rồi, không lẽ mà kẻ vầy người khác, phải cứ theo đó mà làm, bằng không thì phạt ba chén lớn mà giúp vui cho cuộc làm thơ.

Quỳnh Tiên không biết làm sao cực chẳng đã . phải thò tay vào ống thi rút ra một cây xâm thảy có đề hai chữ: "Hỷ hoan bèn ngâm hai câu rằng:

Hỹ túy huynh lâm yến.

Hoan cam kiếp cẫn bôi.

Ngâm rồi thò đũa gắp một miếng tuyết ngẫu giơ lên rồi ca một bài như vầy:

Đại ngẫu chư chu hề, loan bích hải, tiểu ngẩu như lý hề, chẫm tượng sàng, đại hiệp như bồng hề, sơ phong tị võ trường chi tợ cao kề, phá lãng xông ba, ngọc vi cốt hề,

sanh tự tại, băng vi phách hề, thũy trung ương, túng sư bích ngọc dĩ khai, tại hừu ngân tư nang cát.

Ca dứt rồi liền uống ba chén rượu, kế Phụng Tiên rút nhằm một cây có bốn chữ: "Hoa quý ung dung", bèn ngâm rằng:

Hoa lệ tiên nga túy tịch trung,

Quí Phi vị lộ mạo dung dung:

Ung ung vị thị thân tà ỷ,

Dung chĩ tây lai hựu vầng đông.

Ngâm rồi liền uống ba chén rượu, rồi thò đũa gắp một trái đào giơ lên mà ngân rằng:

Tam hoạt đào hoa lảng.

Còn đang ăn uống vui cười, bỗng nghe Ở trong có tiếng cười, có ba bốn người con gái tóc xuống tới vai, diện mạo phương phi, nết na yểu điệu, thiệt là tuyệt sắc giai

nhơn, Ở trong bước ra cười và nói rằng:

Mấy chị ham vui, chẳng thèm đợi chị em tôi ăn uống với, vậy thì sao cho công bình.

Quế Tiên nói:

Bọn ngươi nín Ở trỏng mà không chịu ra, hay là có bạn rồi chăng, đêm nay Châu cô gia với Nhị cô nương khoái huợt chẳng biết chừng nào, chẳng bao lâu đây cũng tới phiên bọn ngươi.

Bốn người nghe nói liền háy và nói rằng:

Bọn tôi đà có lời thề, quyết chẳng lấy chồng, tình nguyện vào đạo tu hành cho trót đời, chớ không phài như chị Quế cứ ràng buộc vui vè với chồng vậy đâu.

Ai nấy nghe nói thảy đều cười rộ. Chân Nhi bèn nói rằng:

Mấy chị em ta đang ăn uống vui vầy, bị bọn ngươi ra làm cho vỡ đám, lẽ thì phải phạt, mà nay ba chị em ta cũng chưa làm thơ, vậy thì ba chị em ta cũng tình nguyện

chịu phạt mà chẳng ngâm thơ: đặng lập ra lịnh mới khác, ước đặng cùng chăng?

Ai nấy đều khen phải. Rồi đó ba người đều uống mỗi người ba chén rồi nói rằng:

Bọn mới ra là Oanh muội với Quyên muội đồng ngâm một bài thất luật, còn Ngọc Thiềm muội muội với Thu Hà muội muội thì mỗi người ngâm một bài thất tuyệt, rồi bọn

tôi cũng hòa chung một bài trường lạc ca rồi sẽ nghĩ.

Oanh muội và Quyên muội đồng ngâm rằng:

Ca thinh uyển chuyển quá kiều đông,

Thảm thiết bi lưu huyết nhiễm hồng:

Hoặc hướng liễu tiên nghinh hữu nhựt,

Cấp tùng hoa để oán xuân phong,

Phi lai các thượng trình tiều ngữ,

Sầu đôí đởm tiền tố khổ nung,

Thượng uyển đề thời thiêm vạn thọ,

Ngũ canh hiếu xử hạng nan cùng.

Hai người ngâm rồi, một vui một buồn, chưa đăng hay trọn, ai nấy đều xúm lại ép uống ba chén, rồi nghe Ngọc Thiềm ngâm rằng:

Cao thọ cao ngâm ý tự hào.

Bất trí nhựt noãn dữ phong cao.

Chi đầu yên quá chi chi thực,

Phẩm cách siêu phàm hứng tự đào.

Thu Hà ngâm rằng:

Đương thời ngọc mạo nhược thiên nhiên,

Bất cận giai nhơn phẩm tợ tiẻn,

Khả tích kinh thu chi diệp lận,

Minh niên phương đắc phục kiều hiền.

Ngâm rồi mỗi người đều uống ba chén, mấy người kia bèn hiệp nhau lại mỗi người mỗi câu mà hòa một bài "Mang đường xuân" như vầy:

Quế Tiên ngâm:

Kiều quí tùng lai chưởng nguyệt trung,

Thường cư ngọc khuyết dữ châu cung.

Diêu Tiên ngâm:

Hinh hương tự thị kham vi thủ.

Lan Tiên ngâm:

Nổn nhị đô nhơn ý khí nung.

Quỳnh Tiên ngâm:

Cũng thượng vô duyên y phấn đại.

Phụng Tiên ngâm:

Kế trung hữu hạnh bạll bàn long.

Chân Nhi ngâm:

Hồng nhan Ngọc mạo da thiên diệm,

Nhã độ phong lưu thắng đạm dung.

Mấy người ngâm rồi, vừa muốn cụng chén với nhau mà uống, vùng nghe Thiên tứ khen rằng:

Hay thiệt, ấy cũng nên gọi là nữ trung học sĩ.

Mấy chị em nghe nói giựt mình bèn nói với nhau rằng:

CÓ ai rình nghe kia cà, thiệt là lớn gan dữ đây!

Liền sai a huờn đi coi cho biết ai, chẳng dè đứa thơ đồng đi theo Thiên tử đó tên là Phước Nhi, bèn bước tới nói rằng:

Liệt vị cô nương chớ ngại, ấy là ông thân của Châu cô gia tên người là Cao thiên Tứ, chẳng hề chi đâu mà sợ.

Mấy người nghe nói, liền kêu con a huờn lại rồi dắt nhau bước tới trước mặt Thiên tử mà thưa rằng:

Nếu Cao lão gia nghe thì chị em tôi lấy làm thẹn lắm, vì thi của chị em tôi làm cà rởn mà chơi, nếu ngươi nghe tới sợ e nhơ tai người chăng, vả lại người có khi cũng là tài cao học rộng vậy xin người để cho ít câu đặng cho chị em tôi học thêm, thiệt là may lắm đó.

Thiên tử chẳng chối từ chi hết. A huờn đem dâng giấy viết còn Phước Nhi thì mài mực sẵn sàng, Thiên tử liền lấy bút huơi lia một bài phú rất hay. A huờn tiếp lấy

đem dâng cho mấy vị cô nương xem, xem rồi thảy đều khen rằng:

Thiệt là bắt đầu thất bộ chi tài cũng chẳng hay hơn đặng.

Nói rồi liền dâng trả và xin đề tên vào bài phú ấy đặng để treo trong phòng làm dấu tích.

Thiên tử cất bút giơ lên không biết viết chữ chi, bèn ngẩm nghĩ một hồi rồi viết như vầy:

Phụng thương sứ glả Cao thiên Tứ, bốn chữ trên là có ý viết ẩn bốn chữ Phụng Thiên thừa vận, sau rồi mới rõ. Mấy vị tên cô thảy đều khen ngợi. Lúc ấy đêm đã

canh tư, Phước Nhi bèn nói rằng:

Trời đã khuya rồi, xin Cao lão gia hãy về phòng mà nghỉ.

Thiên tử bèn đứng dậy từ giã ra về, mấy vị tiên cô theo đưa ra ngoài rồi mới bái biệt trở lại. Thiên tử về đến thơ phòng thay áo mà nghĩ. Trời vừa sáng ra vợ chồng Nhựt Thanh thức dậy, ra ngoài làm lễ chào mừng tân khách, rồi bày tiệc ăn uống vui chơi cho dến tối, bọn con nít lại vui mầng hơn nữa, rủ nhau đến coi tân nương.

Nguyên vì làng ấy, hễ có đám cưới thì vui vẻ phi thường, phần thì nhà Vương An Quốc là nhà phú hộ, cho nên bày tiệc ăn uống luôn hơn mười ngày. Đêm ấy tiệc rượu gần mãn, kế có một bọn thiếu niên kéo tới, đặng vấn hỉ tân nương: người đầu đảng xưng là Thạch đầu thái Tuế, còn người kia xưng là Thiết chỉ oanh Ca. Nguyên bọn ấy dẫu cho chủ nhà không thỉnh, thì chúng nó cũng dùng mưu này kế kia tới cung hạ cho đặng mới nghe, ban đầu còn chẳng nói chi, đến lúc bọn thiếu niên hỏi đố tàn nương, thì mới ra nghề, dầu có ai giỏi thể nào cũng chẳng sợ, đêm ấy hiệp với bọn thiếu niên tới đó trong bọn ấy có một người bước ra nói rằng:

Tôi có một câu giáp liễn, như biện đặng thì tôi cũng nên cúi đầu chịu thua.

Cả bọn đều nói: Vậy thì ra đề đi.

Người ấy nói:

Một câu bảy chữ mà chẳng dùng theo đề, duy phải lấy theo ý đề mà làm mới đặng, nay tôi ra đề: "Phu phụ hòa hài , câu đầu phải nói phu phụ, câu sau phải nói hòa

hài, mà nóì bóng mới đặng, chớ không cho phạm đề, phải biểu tân phụ ra giữa đây mà đáp, như đáp không đặng thì phải phạt hai trăm lượng vàng, và mười tiệc rượu.

Lúc ấy tân nương ngẫm nghĩ một hồi rồi đọc một câu như vầy:

Xướng tùy cọng toại tam sanh nguyện.

Ai nấy đều cười rằng:

ấy là phu xướng phụ tùy, duyên ba sanh gặp gỡ, từ đây sắp tới đêm đêm thường chung gối chung mền , vui vẻ giấc oan ương, câu đầu hay rồi, đặng rồi, còn câu sau

nừa hãy làm luôn đi.

Tân nương lại đọc một câu nữa như vầy:

Hoan lạc đong canh bá tuế ca.

Ai nấy đều khen rằng: "Thiệt rõ ràng là tài nữ". Trong bọn ấy lại có một người bước ra nói rằng:

ấy là nghề mọn, có chi làm hay để tôi viết ra bốn câu thi, cho tân nương hòa lại một bài, và phải bộ theo nguyên vận, song chẳng cho phạm đề, như họa tại hay thì thưởng ba chén, bằng họa chẳng hay thì phạt mười tô rượu, nếu uống chẳng nổi, thì phạt y như trước.

Nói rồi liền ngâm một bài tứ tuyệt như vầy:

Tịch nhiễm bang hồng thống sát kiêu,

Thương thương hạ diêp chiến diêu diêu,

Phong cuồng võ sậu vân sơ bái,

Lưu trú lang quân bã mục tiêu.

Tân nương nghe rồi chẳng ngẫm nghi chi hết, liền hòa lại một bài thơ như vầy:

Tịch diện ân tình dạ dạ kiêu.

Thượng ca hạ võ ý diêu diêu,

Phong di thược dược tu sơ bải,

Lưu đích xuân hồng bất nhẫn tiêu.

Bọn ấy nghe rồi bèn vỗ tay khen rằng:

Thiệt là tân nhơn khẩu khí, thi phú lẹ làng. CÓ kẻ lại nói:

Chẳng phải vậy đâu, con trai tuy đa tài, chớ xét lại chẳng bằng con gái Ở nơi chỗ khoái lạc, làm sao cũng phải giỏi.

Thạch đầu thái Tuế không chịu nhịn thua bèn nói rằng:

Tôi có hai chữ "Tân nương", hãy lấy cái ý mà làm, làm sao cho có nghĩa vợ chồng, nói về vợ chồng động phòng thì mới nhằm, nếu có tài cao mà nói đặng nữa, thì

tôi mới nhịn thua cho.

Cả bọn đều khen phải, rồi hối biểu ra đề. Thạch đầu thái Tuế nói:

Phải lấy hai chữ: công bà mà giải cái ý và giải nghĩa ra, và cũng phải làm làm sao cho trong câu ấy cũng có chữ động phòng lạc thì mới nhằm cho.

Tân nương nghe nói bèn đối lại liền, đối như vầy:

"Công dã phu giả, phu vi công, thê vi bà, động phòng huê chúc lạc như bà". Ai nấy đều khen rằng:

Thiệt là tài nữ, bọn tôi không bì kịp. Lúc đang đối đáp vui cười, bỗng nghe phía ngoài người ta ngựa hí vang dầy, ai nấy thảy đều sợ hãi.

Hồi 27

Cấp khước tiên phuông, phùng ân đắc xá

Đầu hoài liễu yếu cứu chúa thành thân

Khi ai nấy đang lúc vui cười, bổng nghe người la ngựa hí thì không biết cớ chi, Vương công bèn sai gia nhơn ra hỏi coi cho biết là ai và đem binh mã đi đâu đó vậy? Gia nhơn đi rồi trở vào bẩm rằng:

CÓ một lũ cường đạo mười phần lợi hại, bộ có, kỵ có, đao thương sáng chói, đến muốn mượn cho đủ năm ngàn lượng bạc, nếu chẳng cho mượn, thì chúng nó phá nhà,

xin lão gia liệu định.

Vương an Quốc nói:

Năm ngàn lượng bạc mà có bao nhiêu, muốn thì mượn, lựa phải đem binh mã đến làm rộn ràng như thế, ngươi hãy ra nói với chúng nó bãi binh đi, rồi ta sẽ đem bạc ra cho chúng nó mượn.

Thiên tứ nghe nói thì cản lại và nói rằng:

Sao lại phải sợ nó như vậy, để tôi ra mắng cho nó ba điều và đuổi nó đi cho rãnh, để làm cho chúng nó ngày sau chẳng dám tới nữa.

Nói rồi liền xông ra ngoài nói lớn lên rằng:

Chúng bây thiệt là vô lễ, đang lúc đêm hôm dẫn binh mã vào ăn cướp nhà người là đạo lý chi vậy, không lẽ mà bây không sợ vương pháp hay sao?

Lúc ấy bọn cường đạo còn đang diệu võ gương oai, bỗng thấy cửa mở, có một người bước ra nói hơi khí khái, thì liệu chắc là người đởm dõng Nguyên người đầu đãng

là họ Huỳnh tên Thiên Hựu, lấy hiệu là Cấp khước tiên phuông, còn người thứ nhì thì họ Trương tên Quốc Tuấn, hỗn danh là Tiểu ôn hầu, hai người kết làm anh em với

nhau, Huỳnh thiên Hựu tuổi vừa hai mươi bảy, mặt đỏ râu ria, con mắt sáng như sao, mười phần hùng dõng, còn Trương Quốc Tuấn nhỏ hơn Huỳnh Thiên Hựu ba tuổi,

mặt như ngọc đúc, môi tợ thoa son, mười phần thanh nhã, coi chẳng phải tướng võ, hai người chiếm cứ núi Phi nga đã hơn mấy năm mà chẳng hề cướp giựt của ai, cho nên quan binh không màng tới. Nay trên núi lương thảo chẳng đủ dùng, phải tìm xuống nhà Vương viên ngoại mượn đỡ năm ngàn lượng bạc, rồi sau sẽ lo trả lại chẳng

dè lại gặp Cao Thiên Tứ ngăn trở. Khi Huỳnh thiên Hựu thấy Thiên tử nạt lớn như vậy thì nói rằng:

Nay anh em ta võ nghệ cao cường, lại thêm có bọn đầu mục và chúng lâu la, đến mượn năm ngàn lượng bạc, chẳng phải là lấy ngang, vì bởi trên núi thiếu lương, nếu

nói nữa tiếng rằng không thì ta e nhà cửa phải cháy tan hoang, chừng ấy ăn năn sao kịp.

Thiên tử hét lớn lên rằng:

Sao mi không chạy cho rồi, lại dám cả gan Ở đây khoe giỏi.

Huỳnh Thiên Hựu chẳng nói chi hết, cứ huơi đao chém nhầu, Thiên tứ liền rút gươm đeo rước đánh, đánh đặng mấy hiệp, trong nhà một bọn gia đinh và Nhựt Thanh chạy ra đánh tiếp, ngoài kia Trương Quốc Tuấn có người tiếp, liền dẫn lâu la áp vào chận đánh, hai bên đánh vùi với nhau tối trời tối đất, trong giây phút Nhựt Thanh đuối sức, đánh chẳng lại nên lui lại. Trương Quốc Tuấn lại xông vào giúp Thiên Hựu nữa, Thiên tử bị vây, tả xông hữu đột mà ra không khỏi, rất nên nguy cấp. ấy Rồng nằm nước cạn tôm lờn mặt, Cọp xuống đất bằng chó ngoắt đuôi.

Thuở ấy trong xóm họ Liễu, có một nàng con gái tên là Yên Cô, tuổi vừa mười tám, môi son má phấn, mắt phụng mày tằm, cốt cách giống tiên nga, hình dung như thần nữ, thiệt là ngư trầm lạc nhạn chi dung, bế nguyệt tu hóa chi mạo. Thi từ ca vận, món món đều thông, lại thêm võ nghệ, mười tám món binh khí đường nào cũng giỏi Người cha tên là Liễu Xuân Huy, sanh có một mình nàng ấy mà thôi, cho nên cưng lắm, muốn học chi thì học chẳng nài hao tốn. Nàng ấy cũng là người trinh tịnh, lại

thêm hiếu thuận với mẹ cha. Đêm ấy yên CÔ đang Ở trong phòng đánh cờ với chị em bạn gái, vùng nghe có tiếng chinh chiến gần nhà, bèn sai a huờn ra coi việc chi

cho biết. Con a huờn đi một hồi lâu rồi trở về bẩm rằng:

Nơi đầu xóm tại nhà Vương tú tài, bị ăn cướp tới đánh, người sui gia ra đánh với nó, lại bị nó vây khổn rất gấp

Yên CÔ nghe nói bèn bẩm với cha rằng:

Ở một xóm với nhau lẽ phải tiếp nhau, con xin đề đao đến đó cứu người trong cơn nguy cấp.

Người cha ban đầu hãy còn cản trở, vì con gái đêm hôm chẳng nên ra khỏi nhà mình, chừng thấy con quyết ý muốn đi, liền khiến mười mấy tên gia đinh tinh dõng theo

giúp Yên Cô. Yên CÔ nai nịt hẳn hòi, rồi đề đao lên ngựa, dẫn gia đinh tuốt đếnVương Gia Trang,xảy thấy ăn cướp đang vây phủ một người rất nên nguy cấp. yên CÔ liền

hét lên một tiếng, hơi bay thơm ngát. Lúc ấy ăn cướp còn đang đắc ý, bỗng thấy một người tiên nữ cởi ngựa lướt tới, lại có dắt theo mười mấy tay hảo hớn xông vây mà vào, bèn hô lên rằng:

Hãy bắt người xinh đẹp này đem về núi rồi sẽ bắt chủ nhà.

Liền dạy binh lại đánh với Yên Cô. Yên CÔ nạt lên rằng:

Quân ăn cướp, hãy nói tên ra đặng chịu chết. Hai tên đầu đảng thấy Yên CÔ là gái thì khi, bèn đáp lại rằng:

Mi chẳng biết Phi nga sơn Huỳnh thiên Hựu với Trương quốc Tuấn hay sao?

Nhờ dịp ấy Thiên tử thoát ra khỏi vây, rồi day lại xem thấy một viên nữ tướng đang đánh với bọn ăn cướp thì biết là đánh giúp mình, bèn thừa thế trở vào, đánh thôi bọn lâu la tan nát. Còn Huỳnh thiên Hựu với Trương Quốc Tuấn, ban đầu còn khi Yên CÔ là gái sức lực chẳng bao nhiên, đến sau thấy Yên CÔ võ nghệ phi thường coi thế đánh không lại, Huỳnh Thiên Hựu liền ráng sức huơi đao nhằm chỗ cần yếu mà chém, còn Trương Quốc Tuấn cũng huơi cây phương thiên họa kích nhằm ngay hông Thiên tử mà đâm, bốn người đánh vùi với nhau một chỗ hơn ba mươi hiệp mà chưa phân hơn thua, Yên CÔ vùng hét lên một tiếng bắt sống Huỳnh thiên Hựu, Trương Quốc Tuấn thất kinh lính quính một hồi rồi cũng bị Thiên tử bắt sống, còn bao nhiêu lâu la vỡ tan chạy ráo. Gia đình họ Vương và mấy thầy trò Yên CÔ đều dắt nhau vào nhà Viên ngoại, trong nhà chạy ra nghinh tiếp, rồi trói hai tên ăn cướp để nơi sau vườn, chờ trời sáng sẽ đem nạp cho quan làm tội. Rồi đó trong nhà bày tiệc ăn mừng, lại sai người đi mời Liễu viên ngoại qua dự tiệc đặng có tạ ơn cho con cứu giúp. Đêm ấy ăn uống vui vầy, tiệc mãn rồi từ tạ nhau ai về nhà nấy.

Sáng ra bữa sau, Vương viên ngoại vừa muốn giải hai người ấy cho quan làm tội, Thỉên tử bèn nói rằng:

Hãy đem chúng nó ra đây cho tôi tra hỏi thử coi rồi sẽ nạp cũng chẳng muộn chi.

Gia đình vâng lịnh dẫn Huỳnh Thiên Hựu và Trương Quốc Tuấn ra, hai người đứng trơ trơ chắng chịu quì.

Thiên tử bèn nạt rằng :

Bây đã bị bắt rồi, còn chống cự chắng chịu quỳ sao?

Hai người đáp rằng:

Muốn giết thì giết, muốn nạp quân thì nạp, mà chớ nhiều lời.

Thiên tử thấy hai người nghiêu dõng như vậy, lại thêm tướng mạo khôi ngô, bèn nói rằng:

Nếu hai ngươi quả thiệt bị bức, nên phải đi làm điều bất lương như vậy, thì nói thiệt cho ta nghe, không hề chi, ta chẳng những là chẳng nạp quan mà thôi, lại còn tiến cử hai ngươi có chỗ xuất thân.

Hai người thấy vậy bèn nói thiệt ra, Huỳnh thiên Hựu hỏi rằng:

Chẳng hay hào kiệt tên họ là chi, quê quán xứ nào?

Châu Nhựt Thanh đứrlg một bên, đáp rằng:

ông này họ Cao tên Thiên Tứ, người Ở xứ Bắc Kinh, vẫn là môn sanh yêu dấu của Thừa tướng tại trào, còn ta đây họ Châu tên Nhựt Thanh con nuôi của người, từ Ở

kinh ra tới đây, thâu chẳng biết bao nhiêu anh hùng và trừ không biết bao nhiêu tham quan Ô lại rồi, còn đi dọc đàng gặp việc bất bình thì lại cứu giúp, dẫu cho ai văn

như Tử Kiến, võ TỢ Tôn, Ngô đi nữa, cũng chắng sợ chi, nếu hai ngươi chịu khử tà quy chánh, thì hãy đem xứ sở và lai lịch nói thiệt ra đi.

Huỳnh Thiên Hựu nói:

Tôi vốn là người Ở Tòng giang, cha mẹ mất sớm còn lại có một mình, học đặng nghề võ chút đỉnh, phần thì nhà nghèo không nghề chi làm ăn. Ngày kia tôi đi dạo nơi Tòng giang phủ thánh, gặp một người kia bắt một người đàn bà mà nói là người chồng mắc nợ không trả nỗi, đem vợ ra thế, nên bắt đem về làm bé, tôi hỏi ra mới hay người ấy là Công tử con của Mã cẩu quan, nhơn vì người đàn bà ấy dung nhan đẹp đẽ, đi tảo mộ với chồng, bị nó ngó thấy nên muốn đem trăm lượng bạc ép người chồng bán vợ lại cho mình, người chồng không chịu, người vợ cũng không đành, nên nó làm tờ giả vu cho người ấy thiếu nợ nó rồi bắt vợ người ấy đi. Tôi hỏi lại thì người ấy xưng là Tạ Đức, nhà Ở phía Nam nơi ngoài thành, chuyên có một nghề bán gà độ nhựt, bởi vậy cho nên Mã cầu công tử nó khi người cô thế làm ngang như vậy, nên bàng nhơn cũng chẳng ai dám nói, tôi thấy sự bất bình nên đón lại đánh, ban đầu cũng tưởng là giựt người đàn bà ấy lại cho đặng thì thôi, không dè đến sau đánh chừng nào người đông chừng nấy, tôi đánh hưa tay, rủi đánh nó chết đi nên phải trốn qua đây tị nạn. Còn người này tên là Trương Quốc Tuấn cũng người Ở lối xóm với tôi, đều gặp sự bất bình đánh chết người ta, nên trốn theo tôi qua đây nương náu, chờ cho lúc nào triều đình dụng võ thì sẽ ra đầu quân. Hôm nay trên núi thiếu lương, nên phải xuống xóm này mượn, rồi ngày sau sẽ lo trả lại, chớ chẳng phải có ý cướp giựt chi, nay tôi bị bắt, người đã chẳng giết, lại còn muốn tiến cử anh em tôi nữa thì ơn ấy rất sâu, ngàn

năm tôi cũng ghi lòng chạm dạ:

Thiên tử nghe nói bèn than rằng:

Thiệt cũng chẳng nên trách, ấy là anh hùng thất chí, tráng sĩ vô nhan.

Nói rồi liền day lại hỏi Vương viên ngoại rằng:

Tôi muốn tha hai người này đi.có đặng chăng?

Vương viên ngoại nói:

Điều ấy tùy ý Cao lão gia liệu lấy.

Thiên tử bèn khiến Nhựt Thanh mở trói cho hai người. Hai người vội vàng cúi lạy tạ ơn. Thiên tử lại nói rằng:

Nay ta có một phong thơ, hai ngươi hãy cầm đem đến tĩnh thành trao cho Trang tuần phủ, thì sẽ có chỗ an thân, song hai ngươi ra mắt Trang đại nhơn rồi thì nói

ngày mai ta sẽ đi xứ khác thăm bạn, chớ đến đây làm chi.

Hai người tiếp lãnh thơ rồi ]iền từ tạ trở về núi nói cho bọn thủ hạ hay rằng:

Bọn ngươi hãy giữ sơn trại, để hai anh em ta xuống đó yên rồi, như có thiếu chức chi, thì ta sẽ kêu xuống đặng hiệp lực báo đáp cho trào đình.

Dặn dò rồi hai anh em bèn dắt nhau ra đi, chẳng mấy ngày đã đến Trang tuần phủ nha môn, hai người gởi bức thơ ấy vào trong, chẳng bao lâu, xảy thấy có người ra

thỉnh vào. Hai người bèn xóc sửa khăn áo theo vào nhà trong làm lễ lạy mừng Trang đại nhơn xong rồi, đứng lại một bên. Trang tuần phủ bèn hỏi rằng:

Nay Cao thiên Tứ còn Ở tại nhà Vương viên ngoại chăng?

Hai người đồng đáp rằng:

Cao lão gia nay đã đi chơi xứ khác rồi, người có dặn tôi bẩm lại với đại nhơn, chẳng bao lâu người sẽ về Kinh, chẳng cần chi phải tìm kiếm.

Trang đại nhơn bèn khiến hai người ngồi xuống. Hai người nói:

Đại nhơn ngồi đó, bọn tôi đâu dám ngồi theo.

Trang tuần phủ nói:

Không hề chi, ngươi biết Cao thiên Tứ là người chi chăng?

Hai người nói:

Người có nói với tôi rằng người là môn sanh của Lưu thừa tướng.

Trang tuần phủ cười rằng:

Cao thiên Tứ là Đương kim thiên tử đó, người dạo chơi Giang nam nên đi ngang qua đây.

Hái người nghe nói bèn ngước mặt lên trời tạ ơn Thánh thượng. Trang tuần phủ nói:

Hai ngươi Ở tại phủ Tòng giang đánh chết người ta, nên phải tị thân nơi sơn trại, may gặp Thiên tử, nay người đã dạy ta bỏ cái án ấy đi, và phải bắt Tri phủ Tòng giang giam lại, rồi thượng biểu về trào, chờ cho Hình bộ phát lạc, còn nay không thiếu chức chi, vậy thì hai ngươi hãy tạm lãnh chức Tuần thành thủ bị, chừng nào có công

ta sẽ thăng thưởng.

Hai người cả mừng, tạ ơn lui ra. Rồi đó Trang tuần phủ cứ y theo mật chỉ mà làm, bắt Tòng giang Tri phủ giam lại, và bỏ cái án Huỳnh thiên Hựu đi.

Nói về Thiên tử khi thấy hai người đi rồi, thì trong lòng vui đẹp, vì đặng thêm hai người võ tướng trung dong như vậy, bèn nói thiệt với Vương an Quốc rằng:

Nhơn huynh coi tôi là người gì?

An Quốc nói:

Văn võ song toàn, thiệt là quý gia Công tử.

Nhựt Thanh nói:

ấy là Đương kiêm Thiên tử đó, nhơn qua Giang nam dạo chơi mới đi tới đây, song chắng nên nói cho ai biết, e người ám toán.

Cả nhà nghe nói thảy đều quỳ xuống tung hô vạn tuế và xưng rằng tử tội. Thiên tử nói:

Hễ không biết thì có tội chi đâu, nay ta có một chuyện muốn luận với Vương huynh, song chưa biết có chịu hay chăng?

Vương an Quốc nói:

vạn tuế có dạy điều chi, tôi cũng phải tuân theo.

Thiên tử nói:

Ta muốn cậy Vương huynh làm mai, nói con gái của Liễu viên ngoại là Yên CÔ cho ta, xin Vương huynh ráng giúp cho xong.

Vương An Quốc vâng lịnh, liền qua nhà Liễu viên ngoại tỏ ra việc ấy, Liễu viên ngoại mười phần vui đẹp bèn nói rằng:

Hèn chi con gái tôi lúc mới sanh có chim én bay vào lòng, nên mới đặt tên là Yên Cô, nay quả là ứng theo điềm ấy.

Nói rồi bèn đi theo Vương an Quốc qua lạy ra mắt Thiên tử và nói rằng:

Nay Thánh thượng chẳng chê con tôi là bồ liễu phận hèn, lại cho nó sánh đặng mình rồng thì là may lắm, nhưng tôi e con tôi quê mùa, bề phục thị chẳng kham.

Thiên tử nói:

Ý trẫm đã quyết khanh chớ chối từ, lịnh ái nghề văn nghiệp võ tinh thông dung mạo lại thêm xinh đẹp có phải là quê mùa chi, nay trẫm phong cho khanh làm chức Quốc trượng, chừng trẫm hồi trào, sẽ về theo trẫm hưởng sự vinh hoa.

Liễu xuân Huy tạ ơn rồi đứng dậy. Thiên tử bèn cho Vương an Quốc đứng danh Cữ nhơn, lại thưởng thêm hàm Ngũ phẩm. Vương an Quốc tạ ơn rồi tâu rằng:

Hôm nay huỳnh đạo tốt ngày, xin vạn tuế hãy qua bên Liễu phủ hiệp cẩn với Liễu tiểu thơ.

Ngày ấy Liễu xuân Huy dọn dẹp trong ngoài, cả bày điện yến, kèn nhạc rền trời, lại dối với thiên hạ rằng gả con cho một người môn sanh của Lưu thừa tướng, vẫn là

một vị Công tử, con nhà thế gia. Hai người cầm lại không đặng, nên phải làm tiệc

đưa đi Từ đó, Thiên tử với Nhựt Thanh vừa đi du ngoạn vừa trở về Kinh lần lần, việc ấy còn lâu.

Đây nói về xứ Trấn giang có một người khách kia họ Lý tên Tu, hiệu là Dục Hương cư sĩ, tánh hay ưa đàm luận việc cổ kim thánh hiền hưng phế, văn này phú kia, lấy làm thú vị, có nhiều khi đàm luận từ sớm mai cho đến tối, không hề biết mõi, cho đến đổi quên ăn bỏ ngủ cũng không biết nhàm, lại nghe nói thuở ấy tại núi tên là Bồng lai sơn. Vân mộng nham, phía Tây cách chừng ba chục dặm, có một tòa Tam bửu tháp của Đại la Tiên lập ra, đến nay đã mấy ngàn năm, mà cũng còn sáng suốt chói lòa, những đồ chạm trổ chắng hề hư hoại, thiệt là tiên gia diệu thủ, cho nên đã lâu đời rồi mà chẳng hề khờn mẻ chút nào, nay lại khi lặn khi mọc không chừng, cho nên hễ không phải tiên thì không tới đó đặng, từng trên có để một vị Như Lai phật tổ, từng giữa có để một vị Thông Thiên giáo chủ, từng dưới có để một vị Thái Thượng lão

quân. Ban đầu thì quần tiên thường tụ tập tại đó, đến sau nhiều người đến đó chơi bời, làm ra sự uế trượt, cho nên quần tiên chẳng còn đến đó nữa, thiên hạ thấy tiên tích đã tuyệt rồi, thì cũng ít ai đến nữa, lần lần hương hỏa cũng tuyệt.

Thuở ấy tại tỉnh Giang tô có ba người thế gia Công tử, thảy đều giàu có, nguyên là người quê quán Ở tại Phước kiến, xưa người ông vẫn là Thị lang xuất thân, họ Huỳnh tên Tuế Đức, vì có công với nước nên đặng tập ấm hai đời, nhưng Tuế Đức tánh ưa phong lưu, phần thì gia tài bá vạn, nên chẳng chịu làm quan, cứ Ở nhà ăn chơi thong thả, phu nhơn là Lý Thị, sanh có một người con trai tên là Vinh Tân biệt tự là Vĩnh Thanh, tuổi vừa hai tám, tài mạo song toàn, lại thêm kìm, sắt, tiêu, thiều, môn nào

cũng giỏi, mặt trông như ngọc, môi đỏ như son, tài như Tử Kiến xuất khẩu thành thi, mạo tợ Phan An, mi thanh mục tú tuy là thế gia Công tử, mà vì giải đãi việc thi thơ, thị công danh là vô dụng, cho nên cha mẹ chưa chịu cưới vợ, lại kết anh em với hai người cũng là thế gia Công tử, một người họ Trương tên Hóa Nhơn tự Lễ Tuyền, xưa ông là Hương đạo xuất thân, còn một người họ Lý tên Chí tự Vân Sanh, người cha đang làm chức Ngự sử, ba người tuổi tác chẳng lớn nhỏ hơn nhau, gia tài bá vạn.

Bởi giàu có như vậy, cho nên coi hai chữ công danh như không, xài vàng như đất, ba người đều kết bạn sanh tử với nhau, keo sơn gắn chặt, ngày ngày thường dắt nhau

dạo chơi, hoặc huê thuyền hoặc tửu lầu, ăn uống chơi bời ngày nào cũng vậy, vì cha mẹ cưng con nên chẳng hề câu thúc. Ba người tuy là con nhà thế gia, nhưng chẳng hề ỷ thế khi người, ăn Ở có đức tánh tính thuần hậu.

Hồi 28

Si tình công tử luyến xuân quang

Mỹ mạo ca cơ ta mạng bạc

Tại đó lại có một chỗ lầu xanh, tên là Lưu xuân động, hiệu là Thiên hương các, nhà cất khéo lắm, chẳng khác chi Quãng hàn tiên phủ, phán ra làm ba từng, bọn ca kỷ cũng phân làm ba hạng, hạng nhứt thì Ở từng trên có ba hạng giá, như vào uống trà và thấy mặt một chút thì giá là một đồng, đứng đãi khách ăn uống một tiệc thì mười đồng, còn Ở lại trọn đêm, vầy cuộc gió trăng đủ việc thì ba chục đồng, những trang phong nhã đến đó, hoặc ca một bản, hoặc tặng một bài, hoặc đờn, hoặc cờ, tùy theo ý khách cho nên từng trên đều là những tay phong lưu tài tử quý khách hoạn gia, cùng là mấy thầy khăn be áo lớn, thường lên đó mà chơi. Còn từng giữa thì để cho mấy chú lái buôn, giá rẻ hơn từng trên phân nửa, còn kỷ nữ thì cũng có kém hơn từng trên. Chi như từng dưới thì để cho bọn làm công, hoặc bọn chài, cùng mấy bợm bán cà rem và bán kẹo, vì ham giá rẻ, cho nên chẳng màng chi tốt xấu miễn là cho có thì thôi. Ngày ấy Huỳnh vĩnh Thanh với Trương, Lý ba Công tử dắt nhau đến Thiên hương các mà chơi, nguyên Vĩnh Thanh đã có quen trước một nàng tên là Kỳ Vân, nàng ấy đã có thiên tư quốc sắc, lại thêm cầm kỳ thi họa đủ điều, tuổi vừa mười tám, thiệt là hạng nhứt trong lầu ấy, chơn mày vòng nguyệt con mắt như

sao, môi chẳng nhuộm mà hường, mặt chẳng dồi mà trắng, thiệt rõ ràng là: Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Còn Trương công tử

thì quen với một nàng tên là Thoại Vân, tuổi vừa mười bảy, hương trời sắc nước, nhả đạm phong lưu, má phấn môi son, mày tằm mắt phụng, dẫu cho người đá tượng gỗ

thấy cũng tiêu hồn lạc phách. Lý công tử thì lại quen với một nàng tên là Thể Vân, nhan sắc cũng mường tượng như Kỳ Vân, chẳng hơn chẳng kém, tuổi mới mười lăm,

ba nàng đều Ở lại từng trên, kết bạn chi lan với nhau rất nên thân thiết, đã có lập chí, xin cho mỗi người đều gặp đặng một người tình nghĩa nhơn tài, thì mới phỉ tình ước nguyện, nay thấy ba vị Công tử đều là tình đầu ý hiệp, nên mới đính cuộc lâu dài. Ngày ấy sáu người đang ngồi uống trà, Huỳnh Công tử nói:

Hôm nay là tiết mộ xuân, khí trời còn lạnh, bọn ta hãy dùng dịp này uống ít chén đưa xuân ước có nên chăng?

Trương, Lý, đều khen phải, rồi nói với nhau rằng:

Vậy thì bọn ta hãy dắt nhau ra nơi vườn hoa dưới gốc cây mà đưa xuân một phen, uống chơi vài tuần rồi sẽ trở vào lầu mà chung vui với nhau cũng đặng.

Rồi đó sáu người dắt nhau ra nơi sau vườn, xem thấy trong vườn sắp đặt rất xinh, hoa thơm cỏ dại chẳng thiếu chi, trăm hoa đua nở, muôn cỏ tốt tươi, con a huờn của Kỳ Vân tên là Đãi Nguyệt, a huờn của Thoại Vân tên là Xuân Đào còn a huờn của Thể Vân thì tên là Hạnh Hoa, ba con a huờn cũng đều xinh đẹp, giống như một đoàn tiên nữ hạ phàm trần. Lúc ấy sáu người ngồi chung một tiệc, Kỳ Vân thì dựa Huỳnh Sanh, Thoại Vân thì dựa Trương Sanh, Thể Vân thì dựa Lý Sanh, còn ba con a huờn thì đứng một bên mà dãi rượu, uống đặng vài tuần, Huỳnh Sanh bèn nói rằng:

ăn uống như vầy thì cũng chưa mấy vui, chi bằng dời cái bàn lại nơi gốc cây đào, rồi dọn một tiệc khác, đặng có phú thi mà tiễn tặng hoa thần, ước đặng cùng chăng

Ai nấy đều nói rằng:

ấy mới phải là cách của người phong nhã. Nói rồi liền khiến a huờn dọn ra một tiệc, hương hoa hồng chúc, văn phòng tứ bữu sẵn sàng. Huỳnh công tử nói:

Hôm nay ai nấy cũng đều có ý thưởng xuân, nên tới chỗ xuân hoa mà tống biệt, vậy phải làm mỗi người một bài hoặc thi hoặc phú chi, lấy sự đưa xuân làm đề, như làm hay thì thưởng ba chén, còn dở thì cứ theo số mà phạt. .

Ai nấy đều ưng chịu, liền thỉnh Huỳnh Sanh làm trước, Huỳnh Sanh bèn làm một bài Tống xuân như vầy:

Duy xuân ký mộ, xuân nghi cần, xuân sắc hương tàn,

xuân quang dị lão, đào lý hàm sầu, hận xuân tình chi

bất cập. Hãi đường đê thủ, thân xuân cành chi vô đa,

xuân phong cuồng hề lạc hoa mãn địa, xuân võ loan hề

phi nhự tùy ba, não oanh tàn hề bất ngử, phòng yên lược

hề sanh bi. Điệp sứ phi lai, đô thán xuân quang bạc hạnh,

phong điệp tần đáo, đồng ta xuân sắc vô tình.

Ca rồi lại ngâm thêm một câu thơ bảy chữ mà giúp vui tiệc rượu, cũng cứ lấy hai chữ "nhứt xuân" mà làm đề.

Nhứt xuân vô sự vị hoa mang.

Ngâm rồi bèn uống ba chén rượu, kế tới phiên

Trương Sanh, vừa muốn mở miệng, rồi lại nói rằng:

Hai người là một cặp của trời sanh, vậy thì phải ngâm luôn theo cho có cặp.

Nói rồi lại hối Kỳ Vân rằng:

Hãy ngâm đi cho mau chớ có gàn trở bọn tôi.

Kỳ Vân đáp rằng:

Mấy ông là kim mã ngọc đường, lẽ phải ngâm trước, chớ như chị em tôi thì nương dựa theo mà thôi, lời ăn tiếng nói thô sơ, e làm nhơ tai mấy ông mà chớ.

Trương sanh và Lý Sanh đều cứ mời hoài. Cực chẳng đã Kỳ Vân phải ngâm một câu bảy chữ trước rằng:

Nhứt xuân vô hạ loại lưu trang.

Ngâm rồi lại ca nối thêm một bài rằng:

Thiên sanh nó hề hà phiêu bạc, địa tãi nó hề hà

tiện tác, phụ hề sanh ngã hà gian nan, mẫu hề cúc ngã

hà mạng bạc, hận hãi nan điều về vạn lý, sầu thành nan

phá hề thiên trùng, ta quyên lụy chi hề nan càng, thân

oanh hầu chi hề mỗi yết, hoa tiền đối tửu hề cường lạc,

trướng để thừa hoan hề nại hà, vọng đa tình hề vật phụ,

nguyện tri kỹ hề ai lân.

Ca dứt rồi, cả tiệc thảy đều chắng vui, song cũng gắng gượng mà uống vài chén rồi nói rằng:

Thân thiếp cũng như cái hoa mùa xuân, nên phải lấy tâm sự ra mà đưa xuân, bây giờ tới phiên Trương lang, xin hãy ngâm đi.

Trương Sanh liền ngâm rằng:

Nhứt xuân sầu võ mãn gian thành

Ngâm rồi làm thinh hồi lâu chắng nói năng chi hết, ai nấy đều cười rằng:

Sao chắng ca luôn đi, hay là nói mãn thành phong võ rồi, lại gần tiết Trùng dương nên bị người thân thế cản lại chăng"

Trương Sanh nói:

Không phải vậy đâu, mỗi người đều phải nghĩ mau chậm khác nhau.

Thể Vân nói:

Nghĩ vể việc chi, ấy chẳng qua là nương theo Thoại Vân hứng tình đó mà thôi.

Thoại Vân liền háy một cái rồi nói rằng:

ấy là tại lòng chị nóng nảy nên muốn nói ý đặng có dắt nhau về phòng cho sớm, sao lại đổ thừa cho ai vậy?"

Nói rồi cả bọn đều cười. Thể Vân nói:

Thôi, đừng có gàn trở, để cho Trương lang ngâm đi.

Trương sanh bèn thuận khẩu ngâm rằng:

Nhứt văn xuân khứ tiện tương ti,

Khả tích đào linh dữ lý phi.

Lưu thủy vô tìnk ta cọng biệt,

Lạc hoa hữu ý hận đồng bi.

Hoa sầu biểu oán tu đường tích,

Tữu lục đăng hồng khúc biệt ly.

Dung dị tiễn xuân kim nhứt khứ,

Minh niên huờn cọng húy tương tư.

Ngâm rồi uống ba chén, kế tới phiên Thoại Vân. Thể Vân nói rằng:

Chị Thoại vẫn là người hay sầu hay giận, có chí có tình, ắt là nghị luận hay hơn.

Thoại Vân nói:

Mi chớ kiếm nhiều chuyện mà đè ẹp ta, để ta ngâm cho rồi.

Thể Vân nói:

CƠ khổ dữ chưa Anh Trương đè chị chớ tôi có đè chị bao giờ

Ai nấy nghe nói thảy đều cười rộ, rồi nói rằng:

Thôi đừng có nói chơi nừa, để cho nàng Thoại Vân ngâm đi cho rồi.

Thoại Vân bèn ngâm rằng:

Dương ìiễu hàm sầu, hãi đường đái hận, nhựt nhựt

vi xuân điên đảo, thậm đắc cựu hận tân sầu, đô thị

thương xuân hoài bảo, tổng thị điệp mông thế lương, oan

hồn thảm thiết, thảm thiết, thảm thiết, bá thời biệt.

Rồi lại ngâm thêm một câu rằng:

Nhứt xuân vô kế cọng lưu hoa.

Thể Vân nói:

ấy có phải là hay sầu hay giận, tình chừ phân phân hay không, ấy là con gái mến xuân mà Trương lang tiếc Thoại Vân cười mà chẳng nói, cứ liếc ngó Trương Sanh, kế tới phiên Lý Sanh, Lý Sanh bèn ngâm rằng:

Bữa sức đờn hề khai quỳnh diên, diêu sanh lộng hề

kinh túy trục, tiển xuân quy hề mi tữu, lưu xuân quang hề

kinh ba, bi xuân khứ chi tốc hề nung đào diệm lý, xướng

hoa hương chi tạ hề lục thảm hồng sầu, nhơn mãng xuân

nhi sanh cảm, xuân biệt nhơn nhi bất lâm. Oanh thinh

uyển chuyển, xướng xống xuân ca, quyên ngữ thê lương,

sái ly tuân lục khả tri vật du như thử, nhi nhơn khời vô tình hồ.

Ngâm rồi uống ba chén lại ngâm thêm một câu rằng:

Nhứt xuân mạng tảo mãm viên huê .

Tới phiên Thể Vân, Thể Vân bèn uống trước ba chén rồi ngâm một câu rằng:

"Nhứt xuân điêp mộng đáo Bồng lai .

Thoại Vân nói:

Như mi thiệt quả nằm chiêm bao thấy đến Bồng lai, thì ngày sau mi ắt đặng thành tiên, nên mới có chiêm bao lạ như vậy, ấy là tiên phong đạo cốt đó, Lý lang chớ có

mơ tưởng làm chi cho mất công.

Thể Vân nói:

Nếu chị nhiều chuyện lắm vậy thì tôi chẳng ngâm nữa đâu.

Nói rồi cứ việc làm thinh, Thoại Vân nói:

Nãy giờ chưa ai bị phạt, đến phiên chót lại phải bị phạt, vậy thì mi phải uống ba chén lớn.

Thể Vân không chịu uống ngặt bị chúng ép quá, nên phải ráng uống, trong giây phút mặt ửng đỏ bèn huởn huởn ngâm rằng:

Xuân tình dị tả, xuân hận nan điền, xuân thủy đa

sầu xuân san khôn tú, điêp mộng thủy lân, xướng xuân

quang chi dị khứ , hoa hồn thùy điếu, ta xuân sắc chi nan

lưu tùng thữ dương liễu sanh, sầu đào hoa táng phách,

tràng đoạn hãi thường hoa hạ, tâm huyền thược dược lang

biên, thiên sầu vạn hận nhơn xuđn khứ, vạn tư thiên

hồng cọng não xuân, túc phổ thiên chi hạ nhơn vật giai nhiên, ai tai thống tai.

Thề Vân ngâm rồi, ai nấy đều khen ngợi rồi rằng:

Lời ấy thiệt bọn ta lấy làm thống khoái, thiệt khắp cả dưới trời, ai thấy xuân quang mau già mà chẳng sanh bi cảm, lời luận ấy rất hay, đáng lấy túi gấm mà đựng,

vậy thì phải uống ba chén nữa.

Thể Vân không chịu uống bèn nói rằng:

Tôi uống ba chén thì đã đủ rồi.

Mấy người đều ép hoài, Thể Vân phải ráng mà uống. Uống vừa rồi, Vùng nghe dưới gốc cây phù dung có tiếng tằng hắng, ai nấy đều giựt mình.

Hồi 29

Huân ngọc các cường đồ hiếp thế

Thiên hương lầu nghĩa sĩ trừ gian

Khi mấy người ăn uống vừa rồi, vùng nghe dưới gốc cây phù dung có tiếng người đằng hắng, ai nấy đều giựt mình muốn chạy, xảy thấy ông già đầu bạc, Ở dưới gốc

cây chun lên, trạc chừng bảy mươi ngoài tuổi, tóc bạc mà mặt còn trẻ, có khí tượng thần tiên, bước tới chắp tay nói rằng:

Lão đây là thần giữ hoa, rất cảm mấy ông có lòng tế điện, biết xót ngọc thương hương mà làm lễ đưa xuân, chí thiền cảm cách, bọn tôi không biết lấy chi báo đáp, nên muốn cứu bọn ông thoát vòng khổ hãi cho khỏi Ở nơi trần thế mà lục lục như vầy. Ai nấy nghe nói thì biết là thần nhơn, liền rùng tùng quỳ xuống chắp tay nói rằng:

May nhờ thần thánh giáng lảm, xin ra ơn cứu vớt bọn đệ tử gái trai cả thảy vượt khỏi nhơn gian trần khổ, thì bọn tôi tình nguyện rưới quét tiên động thiệt cũng vui lòng, chẳng hay thần thánh có khứng thâu nạp cùng chăng?

Thần nhơn nói:

Nay có Đương kim Thiên tử dạo chơi tại tĩnh này, chẳng bao lâu người sẽ đến đây, bọn ông hễ thấy nguy thì phò thấy cấp thì cứu, hễ thấy người nào tên là Cao Thiên

Tứ thì là Thiên tử đó, ghi lấy, nhớ lấy, chớ nên sai lầm.

Nói dứt lời, vùng hóa một trận hương phong biến mất. Ai nấy mừng rỡ chắng cùng, bèn ngước mặt lên trời vái lạy khấu tạ lại day mặt nơi đám hoa mà tạ ơn. vừa muốn dọn thêm một tiệc nữa ăn uống cho vui, bỗng nghe trên lầu phía Tây nơi- Huẩn ngọc các, có người ăn uống reo cười inh ỏi, rồi lại nghe có tiếng đánh lộn, không biết là việc chi. Nguyên chỗ ấy có bọn du ác, đến đó uống rượu say sưa rồi đánh lộn với nhau , thường thường như vậy, người đầu đãng là một tên thổ hào tại xứ ấy, họ Khu tên Hồng, hổn danh là Phi Thiên Pháo, trong nhà có của, nên thỉnh giáo sư đến, học đặng một hai miếng chi đó, rồi tụ một lũ vong mạng, hễ tới đâu thì gây gỗ tới đó, ngày ấy đến Huẩn ngọc Các uống rượu, nhơn giành chỗ ngồi nên mới sanh ra sự đánh lộn, nguyên vì tại chỗ bàn giữa đã có một người đến ngồi trước rồi, bọn ấy đến sau, lại muốn đuổi đi mà giành chỗ cho mình, chẳng dè nhằm người cứng cỏi, không chịu nhịn thua, nên mới sanh sự.

Lúc đang đánh lộn với nhau, may gặp Thiên tử với Nhựt Thanh vừa đi đến đó, nghe có tiếng đánh lộn, liền chạy tuốt lên lầu, coi như có việc bất bình thì ra tay đánh giúp, khi hỏi ra thì biết Khu Hồng dọc ngang, phần thì người ấy có một mình, không ai giúp sức, vì những kẻ đứng coi đều sợ oai thế Khu Hồng, nên chẳng ai dám nói chi tới. Nhựt Thanh thấy vậy dằn lòng không đặng liền xốc tới thoi lia đánh lịa, đánh thôi, những quân vong mạng lăn nghiêng lăn ngửa, rùng rùng xuống lầu kéo nhau chạy mất. Người ấy bèn lạy Thiên tử và Nhựt Thanh mà nói rằng:

Cúi trông nhị vị cứu chữa, thiệt ơn ấy rất dày, chẳng hay hai vị khách quan tên họ là chi, người Ở xứ nào, có việc chi đến đây cứu tôi như vậy?

Thiên tứ nói:

Ta là người Ở Bắc Kinh, họ Cao tên Thiên Tứ, đi với con ta là Nhựt Thanh, đến đây thăm bà con, vì nhứt sanh ta hay can thiệp sự bất bình nên hễ gặp ai ỷ thế khi

người thì ta đánh liền, nay thấy túc hạ diện mạo đoan trang, ắt chẳng phải người thường, nên khiến con ta giúp sức đánh bọn ấy, nó đã chạy hết rồi, xét lại thì lũ ấy là

đồ vô dụng dám ỷ thế khi người, chắng hay túc hạ tên họ là chi?

Người ấy nói: Tôi họ Vương tên Nhuận, buôn bán hàng lụa sô sa, nhơn lúc rảnh rang đến đây ăn uống chơi, tôi tới trước lựa chỗ tốt mà ngồi, lũ ấy tới sau, nó lại ỷ đông mà hiếp người, biểu tôi phải nhường chỗ lại cho nó, bởi tôi không nhường nên mới sanh sự đánh lộn, may nhờ nhị vị đến đây cứu tôi, thiệt là ơn rất nặng, tiệm tôi cách

đây chắng xa, xin mời nhị vị đến tiệm tôi chuyện vãn chơi cho biết. Thiên từ nói:

Việc nhỏ mọn chút đỉnh có đủ chi phải tạ ơn, nay túc hạ đã có lòng tốt, thì ta cũng tuân theo.

Rồi đó Thiên tử, Nhựt Thanh và Vương Nhuận ba người ra khỏi Huẩn ngọc Các, dắt nhau về tiệm phân ngôi chủ khách mời ngồi, trà nước xong rồi, Vương Nhuận liền

hối gia nhơn dọn ra một tiệc bĩ bàn thết đãi hai người, uống đặng vài tuần, Vương Nhuận bèn nói rằng:

Nhị vị khách quan nếu ưa đi chơi thì để ngày mai tôi dắt đi chơi một chỗ rất vui.

Đêm ấy ăn uống rồi Vương Nhuận cầm hai người Ở lại nơi tiệm mà nghỉ.

Sáng ra bữa sau dùng cơm điểm tâm rồi, ba người sắm sửa ra đi, dắt theo một đứa tiểu đồng, thẳng đến Thiên hương Các. Ngày ấy bọn Huỳnh Vĩnh Thanh và Trương, Lý ba người cũng có đến đó ăn uống vui chơi. Nguyên vì chỗ ấy có phân ra Đông, Tây, Nam, Bắc bốn lầu đều cất giống nhau một kiểu, mỗi một lầu dọn đặng mười mấy tiệc, dầu cho khách đông chừng mười mấy người cũng còn rộng rải thong thả. Thiên tử, Nhựt Thanh và Vương Nhuận lên Nam lầu ngồi, những bọn má phấn môi son đều trang điểm tề chỉnh, bước ra thi lễ và mời vào tiệc ăn uống tự tình, một nàng tên là Diêu Cơ, một nàng tên là Thể Cơ, một nàng tên là Lệ Cơ, ba nàng thảy đều dưới hai mươi, dung nhan xinh đẹp, tài mạo gồm đủ, uống đặng vài tuần vùng nghe xa xa bên phía Tây lầu có tiếng người ăn uống chơi bời rất nên vui vẻ. Nguyên tại chỗ ấy là chỗ bọn Huỳnh Vĩnh Thanh ăn uống tại đó, mấy người đang xúm lại ép Thể Vân uống rượu. Thể Vân nói:

Liệt vị uống trước, thiếp sẽ uống sau. Lý Sanh nói:

Xin khanh hãy uống cho mau, tôi có chuyện hay mà nói.

Thể Vân bị ép quá nên phải uống thêm ba chén lớn, ai nấy đều vỗ tay cưởi rằng:

Con si tình tỳ nữ này nó đợi cho Lý lang ép nó mới chịu uống, vậy mới là chung tình cho chớ.

Thề Vân nói:

Tôi bị mấy ngưởì ép tôi uống tới ba chén lớn, rồi lại xúm nhau cười tôi nữa sao?

Nói rồi kêu con a huờn đem dọn ra thêm một tiệc rồi nói rằng:

Để tôi bày ra một cái tửu lịnh khác cho mãn cái tiệc này, vì hôm nay hai vị Công tử và hai chị chưa uống bao nhiêu để em bày ra một tiệc này đặng uống vùi với liệt vị

một bữa, như ai thua thì không phải là tữu lý anh hùng.

Ai nấy đều khen hay, nhơn thấy Thể Vân đã mấy lần uống ba chén lớn, lại thấy nàng ra lịnh làm vậy thì mừng lắm, chắc làm sao nàng cũng say vùi đặng có xúm nhau mả cười. Trong giây phút tiệc đã dọn rồi ghế bàn đều thay đồ mới, dọn dẹp chỉnh tề, chính giữa để một cái Nan kinh tháp, chung quanh ghế cố. ngoạn sắp đầy, nào là

tân thi cỗ họa, nào là kim giãn van tiển, hai bên vách phấn treo đầy những tranh tượng có danh, mai, lan cúc, trúc, bên tả có để một cặp túy ông ỷ, bên hữu có bày một cái trương quý phi sàng, nơi trước lầu thì có để mấy bồn huê thơm cỏ lạ, hơi bay nực mùi, chính giữa có treo đèn tiễu ngao san, bốn phía thì treo đèn lục giác pha ly, sáng suốt như ban ngày, còn trên bàn thì đồ ngon vật lạ chẳng biết là bao nhiêu, sáu người ngồi vào tiệc. A huờn đứng hầu hai bên, lúc ấy vừa đầu canh một, trăng tỏ làu làu, a huờn lại đốt thêm mấy ngọn liên hoa đăng, lại càng thêm thú, Thể Vân bèn khiến Thu Nguyệt đem ống chiếm linh và bồn đô hột ra, mỗi người đều phải đổ hột trước, như ai đổ ít hường hơn thì phải rút ống xâm trước, còn ai đổ không có hường, thì phải bị phạt trước một chén lớn, hoặc đổ có hường bất kỳ nhiều ít thì phải đặt lên mà kêu. Rồi đó Huỳnh Sanh đổ trước, hốt hột đổ ra, thì đặng năm mặt nhì một, mặt nhứt, rồi nói rằng:

ăy là: Bắc nhạn tiêu dương.

Đến phiên Trương Sanh đổ đặng một mặt nhứt, một mặt ngẩu, bốn mặt sa, rồi nói rằng:

ấy là: Nguyệt minh quân hạc thủ mai hoa.

Lý Sanh đổ đặng ba mặt lục, ba mặt tứ, rồi nói rằng:

ấy là: Hồng vân tán tựu ná thiên biên.

Kỳ Vân đổ đặng năm mặt nhứt, một mặt tứ rồi nói rằng:

Để tôi cho một cái tên mới cho cáe người nghe, ấy gọi là: Cửu thiên nhựt nguyệt khai tân vân.

Thoại Vân liền hốt hột đổ tiếp theo, bốn mặt sa, một mặt nhứt, một mặc lục, rồi nói rằng:

ấy là Thiên vản quy nha ngộ nguyệt minh.

Rất hết tới phiên Thể Vân đổ đặng sáu mặt ngẫu rồi nói rằng: ây là Mãn địa mai hoa.

Tuy vậy mà đen hết, Thoại Vân bèn nói rằng:

Mi đổ đặng lục phú không có hường, cứ theo lời giao, thì mi phải uống một chén lớn rồi ngâm bài thi chi đó thì ngâm cho ta nghe thử.

Thể Vân không biết làm sao, nên nói rằng:

Uống thì uống, ngâm một bài rồi tôi sẽ đổ lại. Mấy người đều nói:

Như vậy thì phải rồi, hãy ngâm đi cho mau, nếu chậm trể thì không đặng.

Thể Vân bèn ngâm rằng:

"Tình thơ nhứt chỉ. ký dữ tình lang, tư ức đa tình

lưỡng lụy uông, tự đáo tlỉu lang nguyệt dạ đồng tư ước, thệ

đồng sanh lữ bất phan trương, ám tưởng ngả lang biệt

hậu vô âm tín, nhá hại tương tư sổ nguyệt trường, hậu nô

mạng bạc như thu điệp, điễm đắc hóa vi hồng nhạn khứ

tầm lang, miễn đắc hương khâm dạ dạ vô nhơn bạn, điêu

trướng thời thời bất kiến lang, hựu thính đắc quyến đề thính thảm thiết, tự thị sầu nhơn thính đắc cánh đoạn can trường.

Ngâm rồi lại hốt hột mà đổ, đổ ra một mặt tứ, năm mặt lục, bèn nói rằng:

ấy là: Tướng quân tranh quái ấu.

Còn đang ăn uống vui cười, vùng nghe dưới lầu có tiếng xao xuyến rầy rà, ai nấy giựt mình đều làm thinh lẵng lặng nghe coi. Còn bên kia Thiên tử và Nhựt Thanh cũng đứng dựa lan can nghe, té ra một bọn côn đồ vào lầu xanh lựa mấy cô điếm lịch mà giựt, phần thì ngoài đường không ai dám tiếp, Nhựt Thanh thấy vậy bất bình bèn

chạy theo đoạt con điếm ấy lại, rồi giựt đặng một cây đao bề dài bốn thước rượt chém lũ côn đồ tan tác, máu chảy đầy đường, trong giây phút côn đồ chạy ráo. Nguyên lũ ấy là đồ phĩ loại, duy có ỷ đông hiếp người cô thế, chừng gặp tay cảm dỏng thì chạy như cua gảy càng. Lúc ấy, trong lầu xanh mụ Kiền bà dắt hết cả bọn ra lạy tạ ơn, lại bày tiệc thỉnh Cao thiên Tứ, Châu Nhựt Thanh và Vương Nhuận vào thết đãi. Bên kia Huỳnh Vĩnh Thanh đến mời, liền dắt Nhựt Thanh và Vương Nhuận qua qua bên Tây lầu ba vị Công tử xem thấy liều đứng dậy nghinh tiếp, hai đàng làm lễ ra mắt nhau xong rồi, Huỳnh Vĩnh Thanh hỏi rằng:

Chẳng hay tam vị tên họ là chi, quê quán xứ nào, xin nói cho tôi rõ?

Vương Nhuận nói:

Tôi họ Vương tên Nhuận vẫn là người Ở xứ này, buôn bán nghề hàng nhiểu, còn vị này họ Cao tên Thiên Tứ, người Ở đất Bắc kinh, còn vị này là con nuôi của người, họ Châu tên Nhựt Thanh, ngày trước cũng can thiệp việc bất bình cứu đặng tôi, chẳng dè hôm nay lại gặp bọn ác đồ này nữa.

Thiên tử nói:

ấy cũng là vì quan quân chắng đặng hết lòng, nên bọn ấy mới dám làm lộng như vậy, để tôi đi bẩm cho quan Tuần phủ người hay, đặng người răn trách quan viên bên phía võ biền, thì chúng nó mới hết lòng vì dân vì nước, chẳng hay ba vị tên họ là chi?

Huỳnh sanh nói:

Tôi đây là người Ở xứ này họ Huỳnh tên Vĩnh Thanh, ông tôi xưa làm chức Thị lang, còn hai người này cũng là con nhà thế gia.

Thiên tử nghe nói khen rằng:

Té ra ba vị cũng là dòng giống trung thần, hèn chi khẳng khái như vậy, chắng hay ba vịn còn là học sanh hay là đã có khoa mục chi chưa?

Huỳnh Vĩnh Thanh đáp:

Ba anh em tôi một giãi áo xanh cũng chưa có, nhơn tánh ưa du ngoạn, cho nên chẳng ham sự công danh.

Nói rồi liền khiến dọn tiệc, sáu người vầy lại ăn uống với nhau, Thiên tử nhơn thấy ba người nghĩa khí thâm trượng bèn nghĩ thầm rằng:

Ba người này diện mạo bề ngoài thì đặng, song chưa biết bề trong tài học thế nào, chi bằng ta khiêu thử coi cho biết, nếu quả có tài kinh luân mãng phúc, thì đề phòng ngày sau ta thâu nạp bết đặng phò tá trào đình.

Nghĩ rồi bèn đem những việc cổ kim thánh hiền hưng phế và trị quốc an bang hỏi. Ba người đối đáp như lưu Thiên tử thấy vậy khen rằng:

Ba vị Công tử đều là tài cao bác đấu, lựa phải buộc theo sự thi thơ làm chi, nếu chịu vào khoa ứng khảo, thì có lo chi là nhành quế chẳng vào tay.

Ba người đều nói rằng:

ấy chẳng phải là chỗ ba anh em tôi muốn, duy có chừng. nào nhà nước có việc nguy cấp, hoặc là nhằm năm cơ khẩn thì anh em tôi mới ra sức với triều đình.

Thiên tử nghe nói trong lòng vui đẹp. Khi ăn uống rồi ai nấy đều từ biệt nhau trở về chỗ ngụ.

Ngày ấy Thiên tử dắt Nhựt Thanh đi dạo chơi các xứ Xảy nghe thiên hạ ồn rằng: "Đang giữa ban ngày có yêu quái hại người.

Hồi 30

Đông ngưu sơn lão thử tinh tác quái

Phi nga sơn cường đạo khấu bị tru

Nói về Thiên tử và Nhựt Thanh, khi Ở nơi Thiên hương lầu từ biệt ba vị Công tử rồi dắt nhau đi các xứ dạo chơi, đi chưa đầy hai ba dặm đường, bỗng thấy bá tánh và

chạy và nói rằng:

Đang giữa ban ngày mà yêu quái hiện ra, phải tránh đi cho mau.

Thiên tử bèn đón lại hỏi Ở đâu? Bá tánh lại nói rằng:

Chớ nên đến đó làm chi, e gặp yêu quái rồi chạy không kịp, như có muốn đi thì hãy đi đến nơi làng phía trước đây thì thấy.

Thiên tử bèn dắt Nhựt Thanh tìm đường đi lần đến đó gặp một ông già chừng bảy tám chục tuổi, đang ngồi giữa đàng. Thiên tử bên hỏi rằng:

Lão trượng tên họ là chi, chẳng hay vì cớ nào lại có yêu quái hiện ra ban ngày mà hại dân như vậy, xin nói cho tôi rõ.

ông già nói:

Lão đây họ Lâm hiệu là Lập Đức, quê quán Ở xứ này, nguyên làng này gọi là Đông lưu thôn, trong làng có một người tài chủ, họ Mã tên Kiến Nhơn, gia tài bá vạn, vợ là Vương thị, sanh có một đứa con gái, tên là Châu Nhi, dung nhan đẹp đẽ, cốt cách phương phi, thi từ ca phú, món nào cũng giỏi, nhơn năm ngoái ngày rằm tháng tám, đi thưởng trăng thu, bị yêu ma bắt mất hơn mấy tháng nay, không nghe tin tức chi cả, năm nay lại đến nhiểu hại nữa, song không biết con yêu cũ đó hay là con yêu khác nữa, đêm nó lại làm lung hơn nữa. Con yêu ấy mặt xanh râu hồng, tóc đỏ mắt vàng, tay cầm cây truy hồn thỉnh mạng đao, chẳng khác chi quỹ Huỳnh bào, đã

bao phen thĩnh những hoà thượng, pháp sư và đạo sĩ, thảy đều trừ nó chẳng nỗi, lại bị nó rượt chạy đà gần chết, nay chẳng ai dám động tới nó nữa, nó lại bắt bọn tôi sớm tối phải sắm hương hoa tửu soạn mà cúng dường, bằng không thì nó quăng ngói liệng gạch khó chịu cho nổi, lại thêm một nổi khuấy phá đờn bà con gái làng xóm

không yên, chẳng hay khách quan Ở đâu đến đây, tên họ chi, đến đây có việc gì?

Thiên tử đáp rằng:

Tôi là người Ở Bắc kinh, anh em bạn thiết với quan Tuần phủ tỉnh này, nay nhờ rảnh việc, dắt con là Nhựt Thanh đến đây viếng người, tôi là Cao Thiên Tứ, chuyên có một việc thâu yêu tróc quái, xu trục tà ma, dẫu cho nó có ba đầu sáu tay, pháp thuật cao cường đi nữa, hễ nó thấy tôi, thì nó cũng không dám làm dữ, xin lão trượng

dắt tôi đến đó, đặng tôi trừ mối hại cho dân.

ông già nghe nói cả mừng, bèn nói rằng:

Nếu Cao khách quan có tài thủ đoạn như vậy thì là phước trong làng này đó.

Nói rồi bèn đứng dậy chống gậy đi trước dẫn đường, tới một chỗ gần bên một cái vườn lớn, trong ấy có mấy tên thiếu niên chạy ra nghinh tiếp, mời thẳng vào nơi

Mẫu đơn đình, có một ông già bước tới hỏi rằng:

Xin hỏi khách quan tên họ là chi, chẳng hay việc thâu phục yêu quái này, có phải lập đàn tràng hay không, xin khách quan dạy biểu đặng tôi còn sắm sửa.

Nhựt Thanh nói:

Cha tôi họ Cao tên Thiên Tứ, người Ở đất Bắc kinh, nhơn đến đây đi viếng anh em, đi đến chỗ này nghe tin lão trượng nói rằng tại quý phủ có yêu tà tác quái, nên dốc lòng đến trừ nó mà cứu dân, còn tôi đây tên là Nhựt Thanh, chẳng hay túc tạ tên họ là chi, yêu quái chừng nào mới đến?

Người thiếu niên nói:

Tôi họ Lâm tên Ngọc Ca, người chủ nhà này là anh tôi con quái ấy đến đây lúc tháng trước, đến nay đã ngoài một tháng, phá khuấy đã hơn mười mấy phen rồi, ban ngày thì nó Ở ngoài vườn làm quái, ban đêm thì nó vào nhà mê hoặc người nhà, anh tôi đã thỉnh những thầy phương sĩ và pháp sư cũng nhiều, mà chẳng ai trừ đặng, hôm nay có hai vị đến đây, ắt trừ nó đặng.

Thiên tử nói:

Chắng cần lập đàn và vẽ bùa niệm chú và cũng chẳng cần ăn chay thỉnh Phật làm chi, để hai cha con tôi dùng cơm tối rồi, nội đêm nay sẽ bắt nó cho.

Rồi đó trong nhà họ Lâm vội vã quét dọn vườn huê, trong ngoài sạch sẽ, rồi thỉnh hai người dùng cơm. Thiên tử Nhựt Thanh và hai anh em họ Lâm, bốn người ngồi lại ăn uống và đàm luận những việc tế khổn phò nguy với nhau, cơm nước xong rồi, Thiên tử và Nhựt Thanh nai nịt hẵn hòi, tay cầm bữu kiếm đi thằng vào nhà, trong nhà

đờn bà con gái đã tránh đi nơi khác hết, qua đến canh hai xảy thấy một con quái mặt xanh mình vàng, đầu đội tử

kim mạo. mình mang kim mao tiểu chiến bào, chơn mang giày thủy ba văn báo bì, đứng trên một cái tiểu thiết xa cầu mỏ nhọn như rắn, lại có râu rìa, tay cầm cây thước sắt tướng mạo dữ dằn hình dung cổ quái, và múa và nhảy đến, Nhựt Thanh xem thấy, liều huơi gươm nhảy tới chém nhầu, con quái cũng huơi thước ngăn đỡ, đánh chừng nào sức lực càng mạnh. Nhựt Thanh liệu đánh không lại vừa muốn tháo lui, Thiên tử liền nhảy tới huơi gươm tiếp đánh Nói về con quái ấy, khi thấy có người đánh tiếp, liền ra sức thần thông, huơi thước lia đánh tới, hai đàng đánh vùi với nhau qua đến canh ba, nguyên con quái ấy là loại yêu tà, phạm sao cho nổi tới bực chí tôn, đánh đến bốn mươi hiệp. con quái ấy trong lòng khiếp sợ liền hóa ra một đạo kim quang mà chạy mất. Thiên tử cả mừng, vừa muốn đem nhau đi nghĩ, bỗng nghe một trận quái phong thổi đến, hơi tanh khó chịu, liền thấy con quái ấy lại dắt đến một con quái khác nữa, con quái này cao và mình trắng ngần như bạc, tướng mạo lại càng gớm ghê hơn nữa. Hai cha con cứ việc huơi gươm nhảy tới đánh nhầu, hai con quái cũng huơi binh khí ngăn đánh. Hai đàng đánh nhau qua đến canh tư. Thiên tử và Nhựt Thanh, hai người đà đuối sức, coi thế đánh không muốn lại, chẳng dè chơn mạng Thiên tử vẫn có bá linh phò trợ, cho nên bỗn xứ Thổ địa và trí nhựt Công tào thấy vậy, vội vàng đi thỉnh một vì Kim tịnh ngọc diện miêu tinh (con mèo).

Nguyên vị Miêu tinh này tu luyện tại Tây sơn đã lâu năm rồi mà chưa thành chánh quả, nên dùng dịp này thỉnh đến cứu giá đặng có thọ phong cho thành chánh quả. Khi

hai người đằng vân giá võ đến nơi, tiểu đông vào trong báo bẩm, Ngọc Diện chơn nhơn liền dặn dò tiểu đồng coi động, rồi theo Thổ địa và Công tào tuốt đến nhà họ Lâm, thấy hai con thử tinh (chuột thành tinh) đang đánh với Thiên tử và Nhựt Thanh, bèn hiện lại nguyên hình nhảy tới chụp con huỳnh mao thử cắn chết, con bạch ngân thử thất kinh, vừa muốn chạy trốn, song chạy không kịp bị cắn chết luôn, một cặp thử tinh hiện ra nguyên hình là hai con chuột, một con vàng, một con trắng nằm chết ngay trên mặt đất. Lúc ấv Thiên tử và Nhựt Thanh ngó thấy một lằn hào quang xẹt ra, trong giây phút vùng nghe im lặng, thì biết hai con quái ấy đã thua mà chạy rồi. Còn Ngọc Diện chơn nhơn khi cắn hai con chuột chết rồi, liền hiện lại hình người bước tới cúi lạy. Thiên tử cả mừng, bèn nói rằng:

Té ra có pháp sư đây mà ta thất kính. Chơn nhơn nói:

Tôi đâu dám, nguyên vì hai con chuột ấy nó tu luyện đã lâu năm, song tại nó tham dâm nên chưa thành chánh quả, nó lại bắt con gái họ Lâm, song chẳng biết nó giấu Ở

đâu? tôi phải đi tìm cho đặng.

Nói rồi liền bay bỗng lên mây, ngó hết bốn phía, thấy giấu tại Tích vân động, liền đáp xuống nhảy vào trong động, thấy con gái họ Lâm đang ngồi khóc, thấy Chơn nhơn bước vào thì tưởng là thử tinh, lại càng khóc rống hơn nữa. Chơn nhơn nói:

Chớ có khóc nữa, ta đây là Ngọc Diện chơn nhơn, hai con thử tinh đã bị ta giết rồi, nay ta đến đây cứu nàng về nhà .

Lâm Chân Nhi nghe nói vui mừng chẳng xiết, liền lau nước mắt bước đến tạ ơn. Chơn nhơn nói:

Việc nhỏ mọn một chút có dủ chi phải trả ơn. Nói rồi liền hóa ra một trận gió, đem Châu Nhi trở lại Lâm gia trang, đáp xuống gõ cửa mà vào. Người trong nhà xem .thấy cả mừng, liền hiệp với Chơn nhơn ra đến vườn huê lạy Thiên tử với Châu Nhựt Thanh, Thiên tử xem lại thì thấy Ngọc Diện chơn nhơn diện mạo thanh kỳ, vẫn có tiên phong đạo cốt, lại thêm có công với thiên hạ trừ diệt yêu tà, bèn hỏi rằng:

Chẳng hay đạo trường ký tích tại xứ nào?

Chơn nhơn nói:

Bần đạo Ở Tây sơn, luyện khí nơi Tàng tu động, nhơn có Công tài đến kêu tới đây cứu bệ hạ và thâụ trừ yêu quái nay chúng nó đã chết rồi, vậy thì lột da chúng nó rửa sạch phơi khô, để dành trừ loài sâu và loài kiến, còn thịt nó thì quăng phứt xuống sông cho cá ních cho rồi.

Cả nhà họ Lâm đều dắt nhau ra coi, thiệt rõ ràng là hai con chuột, một con vàng, một con trắng, lớn bằng con trâu, họ Lâm bèn khiến gia đình lột da rồi khiêng bỏ dưới

sông. Nhựt Thanh bèn nói với Thiên Tử rằng:

Nay đã thâu trừ yêu quái, lại cứu đặng con gái họ Lâm, đều là nhờ sức Chơn nhơn, xin cha hãy phong pháp hiệu cho người đặng thành chánh quả mà báo công cho

xứng đáng.

Thiên tử liền phong cho Ngọc Diện chơn chơn làm chức Phục ma thiên nhơn. Đạo sĩ cúi đầu tạ ơn, rồi hóa ra một trận thanh phong đi mất. Nhựt Thanh lại thỉnh phong cho Lám châu Nhi một đạo hiệu, Thiên tử liền phong cho Lâm châu Nhi làm Trinh tiết đạo cô, lại phong tặng một tấm biển để treo trước nhà cho rõ quốc triều ơn rộng. Châu Nhị tạ ơn lui vào. Rồi đó trong nhà họ Lâm dọn bày diện yến, mời hết thân bằng cố hữu đến ăn mừng, ăn uống chơi bời trót hơn mười ngày mới thôi.

Thiên Tử sợ e có người biết đặng thì bất tiện cho mình, liền từ biệt họ. Lâm đi chơi các xứ. HỌ Lâm cầm hết sức không đặng, nên phải làm một tiệc tiễn hành, lại đem ra ba trăm lượng bạc mà đền ơn. Thiên tử không lãnh, họ Lâm cứ nài nỉ khần cầu hoài, cực chắng đã Thiên Tử phải khiến Nhựt Thanh thâu lấy, rồi từ biệt ra đi. Cả nhà họ

Lâm theo đưa hơn mười dặm mới trở lại.

Thuở ấy tại phủ Tòng giang phía Đông, cách chừng một trăm hai mươi dặm có một hòn núi tên là Mã vĩ sơn, trên núi ấy có ba vị Đại vương, chuyên có một việc cướp

nhà giựt của, bá tánh bị hại đã nhiều, đại Đại Vương là Châu Thông, nhị Đại Vương là Mã Đại Hồng, tam Đại Vương là Ngô Phấn Giao, ba người thảy đều võ nghệ cao cường, lại có một vị Quân sư tên là Giã Thiểu Thành, trên núi lâu la ước đặng ba ngàn. Ngày kia rảnh việc ba vị Đại Vương bèn thương nghị với Quân sư rằng:

Nay binh mã thì đông mà lương thảo không đủ, vả lại lời người xưa có nói: Hễ là lương thực đủ thì giữ mới bền, nếu lương không đủ thì ắt sắp nội biến, liệu làm sao bây giờ, vậy thì Quân sư phải chọn một ngày hai trăm lâu la dõng mãnh, phân ra Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn đường, phía Đông một dạo. Châu đại vương lãnh lâu la ba trăm, tiểu tướng ba viên, cứ phía Đông mà đi, mai sớm xuống núi, chừng lối canh hai phải tựu đến một lượt, hễ nghe liên châu pháo nổ lên thì đánh ào vào Khổng gia trang, mỗi đạo đều dùng một trăm năm mươi người giữ đường, một trăm. năm mươi người vào nhà, song chẳng nên giựt nhiều, liệu chừng lương thảo vừa đủ thì phải lui binh, trước phải đùng tiểu tướng hai viên, dẫn một trăm năm mươi lâu la giãi bạc về núi, còn phía sau là thì chánh tướng cũng dẫn binh huởn huởn kéo theo, chớ nên thối loạn, thoảng như có gặp quan binh thì phải đánh rút đi, ấy là kế hay.

Giả quân sư nói:

Tôi có nghe tại TÔ Châu có tên Khổng Phương là nhà giàu bá vạn, tánh rất hà tiện, lại hay hà khắc nhà nghèo, vả lại va làm giàu đó là nhờ của khắc bạc, cho nên mình có giựt của va thì cũng chẳng lỗi gì, song e quan binh theo, nên phải phân . binh ra làm bốn đạo thì mới tiện cho.

Châu Thông nói:

Kế ấy hay lắm, vậy mặc tình Quân sư điều khiển".

Giả quân sư lại dặn dò chẳng nên sát hại lương dân, sợ e trào đình dấy đại binh thì núi ấy khó giữ cho bền, hoặc trong năm ba năm, quan trên tâu với triều đình thì hoặc

may mình cũng đặng chiêu an. Rồi đó Quân sư bèn khiến Mã Đại vương dẫn ba trăm lâu la, ba tên Phó tướng đi phía Nam đánh tới,.hễ bước qua đầu canh hai nghe tiếng

pháo hiệu thì phải phân binh ra, một nữa thì giữ đường, còn một nừa thì xông vào Khổng gia trang, lại khiến Ngô đại vương đái lảnh Phó tướng ba viên dẫn ba trăm binh

ròng đi phía Bắc dánh tới, hể đến nơi thì phân binh ra, một nửa giữ đường, một nửa vào nhà lấy đồ, hễ nghe tiếng pháo hiệu thì phải ra tay. Ba người lãnh lịnh, phân

nhau dẫn binh ra đi, còn Giả quân sư thì cũng dẫn ba viên Phó tướng, binh ròng ba trăm, rần rần rộ rộ kéo xuống TÔ Châu, cùng hết lâu la một ngàn hai trăm, lớp thì giã người buôn bán, lớp thì giả kẻ ăn mày, kẻ thì giả đi làm công, phân nhau trà trộn vào thành. Qua đến canh hai Giã quân sư liền nổi pháo hiệu lên, mấy đạo binh đều phân ra làm hai, giữ gìn bốn phía chắc chắn, còn sáu trăm thì ào vào đánh phá tưng bừng. Trang đinh thất kinh chạy tuốt vào trong phi báo, Khổng Phương liền hỏi trang đinh gióng thanh la và la lên cầu cứu, còn lớp thì dùng đao thương cung tiển mà cự. Giả quân sự thấy vậy liền xua đạo tiền quân đến đánh cầm cự với trang đinh, còn đạo hậu thì lỏn vào nhà bắt hết đờn bà con gái trói lại thường đờn bà thì hay nhát gan, cho nên vừa mới bị trói thì của tiền để đâu đều chỉ hết. Lâu la bèn áp vào giựt đặng rồi kéo nhau lui ra, mấy tên Phó tướng giơ tay lên ngoắt một cái, bao nhiêu binh mã đều lui ra hết.

Trang đinh đuổi theo, ngặt bị quân giữ đường Ở ngoài chận lại đánh. Trang đinh túng phải lui vào, chừng quan binh đến cứu thì ăn cướp đã kéo xa lắc rồi, phần thì lối xóm ai ai cũng ghét Khổng Phương, cho nên chẳng có một người tiếp cứu, chừng quan trưởng nghe báo đến đó nghiệm coi thì thấy tiền bạc bị mất hết nhiều, song chẳng

biết làm sao, duy có sai người đi dọ ăn cướp tụ tại xứ nào, đặng có sai binh đi dẹp mà thôi. Còn bọn ăn cướp lấy làm đắc ý kéo nhau về núi, tụ tại Kinh trung đường điểm bạc lại và thâu cất vào kho, rồi bày tiệc ăn mừng. Thuở ấy tại phía Nam cách núi ấy có một hòn núi kêu là Phi nga sơn, trên núi eũng có một vị Đại vương tên là Diêu Phi, bổn hiệu là Phi thiên tiễn sức mạnh đánh muôn người, thủ hạ binh đinh ước cũng đặng vài ba trăm, làm nhiều điều hung bạo, hay giựt đàn bà con gái về núi không có điều dữ nào mà chẳng làm.

Ngày kia, Diêu Phi dẫn hai, ba mươi lâu la xuống núi dạo chơi, vào đến một làng kia, khí trời nóng nảy, ý muốn tựu một chỗ mà thừa lương, cùng kiếm trà giải khát chẳng dè kiếm không đặng tiệm trà, nên phải tìm nhà đặng xin mà uống, xảy gặp một người con gái xinh đẹp vô hồi, Diêu Phi xem thấy hồn phi phách tán, đứng nhìn sững sốt dường như tượng gỗ hình cây, lâu la thấy vậy thì hỏi rằng:

Đại vương tìm trà mà uống, sao đi đến đây rồi đứng trơ như vậy?

Diêu Phi nói:

Nay ta thấy người con gái ấy, thì có làm cho ta đã hết khát nước rồi, chúng bây có kế chi bắt nó về núi cho đặng thì ta ắt trọng thưởng.

Lâu la nghe nói liền hè nhau áp tới bắt đại người con gái ấy chạy bay về núi, Diêu Phi đi sau đoạn hậu, đi vừa đến đến nửa đường, lại gặp Châu Thông ngày ấy cũng hiệp với Quân sư dẫn vài ba mươi lâu la xuống núi dạo chơi, thấy bọn Diêu Phi đi cướp giựt đàn bà con gái làm vậy thì biết không phải là hảo hớn, phần thì nghe người con gái ấy la khóc mắng nhiếc om sòm. Châu Thông bước đến hỏi rằng:

Xin đại ca hãy để nàng ấy xuống, tôi muốn hỏi một điều chẳng hay đại ca có khứng cho tôi hỏi cùng chăng?.

Diêu Phi nói:

Ta cũng để nó xuống coi bọn ngươi là bọn vô danh, làm chi ta cho biết.

Nói rồi liền dạy lâu la để nàng ấy xuống rồi nói rằng:

CÓ việc chi hãy nói cho mau.

Châu Thông bước tới hỏi nàng ấy rằng:

Nàng có điều chi oan ức hãy nói hết cho ta nghe, có bọn ta đây chớ có sợ nó bắt nàng về núi, dẫu cho việc lớn bằng trời thì ta cũng đởm đương đưa nàng về nhà làm

phước.

Người con gái ấy và khóc tức tưởi và đáp rằng:

Thiếp là người Ở tại làng Tụ hiền thôn, họ Ngu tên Nhược Lan, nhơn ra cửa hứng mát, bị lũ cường đạo này ngó thấy, bèn sanh dạ bất lương, giả vào xin nước uống,

rồi thừa dịp bắt thiếp đi, nay may gặp liệt vị anh hùng. Xin ra ơn cứu khỏi, vì cha mẹ tôi đã hứa gã tôi cho HỒ tú tài cũng là người Ở một làng, xin liệt vị làm nhơn, tôi cám

ơn rất nặng. .

Nói rồi lại tức tười khóc hoài. Châu Thông bèn trở lại lấy lễ mà nói với Diên Phi rằng:

Chẳng hay đại ca xuống núi dạo chơi bao giờ, tôi chẳng biết mà cản đường thiệt tôi có tội, song tôi với anh cung ìà người đồng đạo, xin anh hãy vị tình tôi mà thả nàng ấy cho tôi, thiệt là tôi cảm tình anh rất nặng.

Nói rồi lại xá dài. Diêu Phi nói:

Tuy là mi có hai ba anh em, binh mã cũng đông, ta cũng chẳng sợ chi đâu, mi có giỏi thì đánh với ta, nếu hơn ta đặng, thì ta giao nàng ấy cho mi đưa về, chớ có để nói

giai mỏi miệng.

Châu Thông cả giận mắng rằng:

Loài thất phu, không biết phải biết quấy, hãy lại đây đánh với ta.

Diêu Phi liền huơi đao xốc tới chém nhầu, Châu Thông cũng huơi thương rước đánh đao qua thương lại đánh một hồi lâu, Châu Thông coi ý sút sức, bèn sanh ra một kế lấy mắt láy Nhược Lan. Nhược Lan hội ý, liền hốt cát vải ngay vào mặt Diêu Phi. Diêu Phi không đề phòng bị cát văng vào con mắt, xốn xang khó chịu, ngăn đánh không nổi nên phải chạy dài, lâu la thấy đầu đảng chạy rồi nên cũng hè nhau chạy mất. Giã quân sư nói:

Chúng nó đã chạy rồi, chớ theo làm chi vô ích. Châu Thông liền khiến lâu la lấy xe chở Nhược Lan dưa về nhà giao cho cha mẹ. Nói về Diêu Phi về đến sơn trại rồi tức giận bồi hồi, nghĩ rằng:

Để mai ta điểm hết binh mã kéo đến núi nó, xuất kỳ bất ý giết nó cho sạch, mới đã nư giận của ta. Nghĩ rồi trời đã tối, bèn dùng cơm nước nghĩ ngơi. Nói về Châu Thông và Giã quân sư, khi sai người đưa Nhược Lan về rồi, bèn nói với bọn lâu la rằng:

Chúng bây hãy về núi trước đi. ta với Quân sư còn dạo chơi rồi sẽ về sau.

Lâu la nghe đặng liền dắt nhau về núi. Lúc ấy mới vừa canh một, hai người dắt nhau xuống chợ, tìm dến Hạnh huê lầu, ìầu ấy rất nên sạch sẽ, trên có tấm bảng Hải tiển thiêu mãi tữu yến điểm tâm cụ toàn, nhiệm ý đình xa tiễu chước. (Đồ biển, thịt quay, gỏi rượu đều đủ, mặc tình liệt vị dừng xe ăn uống). Hai người bèn dắt nhau lên lâu ngồi xuống, kêu tiểu nhị đem rượu thịt lên ăn uống với nhau. Giã quân sư nói:

Việc hôm nay đó, tuy là Diêu Phi chạy rồi, song nó ắt chẳng cam, ngày mai làm sao nó cũng đến xâm phạm

núi ta, vậy thì hai ta hãy Ở nán lại đây tìm nơi nghĩ một đêm, đặng dọ nghe sự thế thể nào, như binh ta thắng cũng chẳng nói làm chi, như binh ta thất, thì ta lên núi

đốt phứt trại nó đi, ắt là nó phải trở về cứu, chừng ấy hai đầu ta đánh ép lại, cho chúng nó đầu đuôi cứu nhau không đặng, dẫu cho nó mạnh như hùm, cũng không thoát ra cho khỏi Đại vương tưởng ra thể nào?.

Châu Thông nói:

Kế ấy rất hay, vậy thì hai ta phải đến gần chơn núi của nó núp đó mà rình, chờ nó xuống núi thì mình lõn theo phía sau coi nó đánh, như nó chạy thì mình chận lại

đánh, còn như nó có thắng thì mình sẽ đốt núi nó đi. Hai người thương nghị xong rồi, sáng ra bửa sau dắt nhau ra núp dọc đàng, quả thấy Diêu Phi dẫn ba trăm người ngựa, sát khí đằng đằng, huởn huởn kéo qua Mã vĩ sơn, vừa đến chơn núi, Châu Thông liền nghe tiếng quân reo dậy, chiêng trống rền trời, coi chừng trời đã xế qua

thấy binh Diêu Phi chạy vê thì biết va dã bại trận rồi, còn binh mình đặng thắng. Châu Thông liền xông ra chận đánh một hồi, bao nhiêu lâu la tản lạc, trong giây phút

Diêu Phi chạy đến, thấy binh mình đâu mất, còn phía sau thì binh giặc đuổi nà, không biết tính làm sao, cứ việc chạy nhầu tới trước, chẳng dè Quân sư và Châu Thông

xem thấy rõ ràng liền huơi binh khí xông ra, xuất kỳ bất ý nhằm chỗ nhược chém nhầu, Diêu Phi trở tay không kịp bị một đao, Ô hô ai tai, phục di thượng hưởng!

Châu Thông liền hiệp binh lại kéo thẳng lên Phi nga sơn quét sạch, thâu hết bọn lâu la, mở kho chở hết lương thảo, lại đốt sơn trại đi, trống đắc thắng kéo binh về núi điểm binh lại thì đặng thêm hơn trăm ngoài, lương thảo và đao thương khí giới cũng nhiều. Từ ấy oai danh cả dậy, những bọn ăn cướp Ở gần thảy đều qui phục, quan

binh xem thấy ăn cướp có nghĩa, nên cũng chẳng thèm nói đến, lần lần tích tụ lương thảo rất nhiều, cho nên ít hay đi phá khuấy lê dân.

Đêm kia vừa lúc canh ba, Châu Thông thấy một điềm chiêm bao rất nên kỳ quái, thấy một ông Thổ địa đến mách bảo rằng:

Nay có Đương kim thiên tử bị vây tại Thiên hương lầu, phải đến cứu giá cho mau.

Sáng ra Châu Thông nói lại cho Giã quân sư nghe,

Giâ quân sư nói:

Tôi có nghe đồn rằng: Thiên từ dạo chơi tại xứ nầy, song tôi không biết giả chơn, nay có thần nhơn mách bảo, thì ta phải tính, vậy thì ngày mai phải điểm hai ba trăm

lâu la ròng mạnh, để Phó tướng Ở lại giữ núi, bọn ta bốn người dắt lâu la xuống đó xem coi động tịnh thể nào?

Ai nấy đều y theo lời, hiệp nhau dẫn binh huởn huởn ra đi, dọc đường chẳng hề làm cho kinh động bá tánh.

Nói về ngày ấy Thiên tử và Nhựt Thanh đến Thiên hương lầu tìm bọn Huỳnh Vĩnh Thanh, khi lên lầu rồi thì có bọn ca nữ mỹ nhân đến dâng trà và cầu vạn phước.

Thiên tử liền khiến dọn tiệc ra, rồi hỏi thăm ba anh em Huỳnh Vĩnh Thanh có đến đó chăng? Sắp a huờn đáp rằng:

Mấy bữa rày sao không thấy đến, hay là việc nhà chi đó, nên đến không đặng.

Rồi đó bày ra những sơn trân hải vị, Thiên tử bèn ngồi lại ăn uống với hai nàng ca cơ, một nàng tên là Toại Tâm, một nàng tên là Thủy Tâm, ăn uống đặng vài tuần, bèn day qua cuộc đờn, rất nên vui vẻ , lúc đang đờn ca, bỗng a huờn chạy lên nói rằng:

Bọn Huỳnh Công tử ba người đã đến.

A huờn nói chưa dứt lời, thì ba người đã lên lầu rồi, ngó thấy Cao, Châu hai người thì vui mừng chẳng xiết, bèn nói rằng:

Hôm nay tôi có ý trông, chẳng dè lại gặp nhau tại đây thiệt rõ ràng là tam sanh hừu hạnh đó.

Thiên tử nói:

Cao mổ cũng nhớ ba vị, nên đến đây hỏi thăm, ai dè bất kỳ nhi ngộ, thiệt là may lắm.

Nói rồi liền khiến a huờn dẹp tiệc ấy đi mà dọn tiệc khác. Trong giây phút tiệc dọn vừa xong, mấy chị em Kỳ Vân cũng tựu đến, vầy lại ăn uống chuyện trò với nhau

rất nên thích ý.

Thuở ấy trong xứ lại có một đứa du côn, tên là Phùng Tất Ky, thường hay phá xóm phá làng, nghinh ngang lừng lẫy, chẳng có điều dữ nào mà không làm.

Ngay nghe đồn rằng: CÓ Thiên tử đến xứ ấy dạo chơi, song không biết tại phương nào, bèn kết liên với một tên ăn cướp tên là Nhiêu Vị Đạt, dọ đặng tin Cao Thiên Tứ Ở

tại Thiên Hương lầu, bèn dẫn lâu la áp đến phủ vây bốn phía, lại hô lên rằng:

Phải ra nạp cho ta năm muôn ngàn tử cho mau, nếu không thì ta ắt ra tay đánh rốc vào lầu cho biết ai là Cao Thiên Tứ.

Và nói và bước lần vào. Nguyên Phùng Tất Ky với Nhiêu vị Đạt hai đứa cường đạo nầy mười phần hùng dõng, một đứa tay cầm cáng đao, một đứa tay cầm trường

thương, sức mạnh vô cùng, nhảy tuốt lên lầu, Nhựt Thanh và Thiên Tử sức cự không lại, còn nhừng người trong viện thảy đều vô dụng, đánh nhau hơn trót ba giờ, ráng hết sức mà không thắng nổi. Lúc đang nguy cấp, bỗng thấy dưới lầu lâu la rút lần ra hết, la hét vang dầy, bị một tốp khác Ở ngoài đánh vây vào (ấy là bọn Châu Thông) giết lâu la tan tác. Nhiêu Vì Đạt ra cự, bị Ngô Phấn Giao chém chết rồi lại bêu đầu lên. Phùng Tất Ky xớ rớ một hồi rồi cũng bị Châu Thông chém sã một đao đứt làm hai đoạn, còn bao nhiêu lâu la cung bị rượt chém, la khóc om sòm, trong giây phút chắng còn một đứa. Thiên tử bèn bước xuống ra mắt với bốn người, hỏi thăm tên họ rồi phong hết bốn người làm chức ĐÔ ti, dạy tạm về núi, ban cho một đạo thánh chỉ để phòng ngày sau đem đến Trang tuần phủ, thì người ắt trượng dụng. Bốn người tạ ơn lãnh chỉ lui về. Chừng ấy ba anh em Huỳnh Công Tử mới biết Cao Thiên Tứ là Đương kim thiên từ, liền bước đến thỉnh tội, và nói rằng:

Tôi muốn thỉnh Thánh giá đến nhà tôi nghĩ ngơi, chẳng hay tôn ý thể nào?

Thiên tử thấy ba người hậu ý, nên phải đi theo. Từ đó Trương Công tử và Lý công tử cũng Ở tại phủ Huỳnh Vĩnh Thanh mà cầu Thiên từ dạy tập văn thao võ lược, lấy làm đắc ý. Rồi đó ba vị Công tử lại cầu Thiên tử hạ chỉ phân tán bọn ca cơ nơi Thiên hương lầu cứu chúng nó ra cho khỏi nơi đọa khổ hải, lại cầu tứ hôn Kỳ Vân, Thể Vân và Thoại Vân ba nàng cho ba anh em. Thiên tứ thấy ba người tài mạo song toàn, tánh tình trung hậu, nên cũng nhận lời, liền hạ chỉ thả hết bọn ca cơ nơi Thiên hương lầu ra.

Hồi 31

Lý Toàn Trung báo thù lập lôi đài

Trần Phụng Hiếu phân giải tan cừu oán

Ba vị Công tử đặng bọn Kỳ Vân ba nàng, của ai nấy lãnh, đem về làm vợ, lấy làm xứng ý.

Cách ít ngày, Thiên tử lại muốn dạo chơi nơi khác, liền từ biệt bọn Huỳnh Vĩnh Thanh mà đi ; ba người cầm lại không đặng, nên phải bày tiệc tiễn hành, lại sắm lễ trình nghi, để cho Thiên tử dùng làm phí lộ.

Thuở ấy lại có một người anh em bạn thiết của Lôi Đại Bàng tên là Lý Toàn Trung, hai đàng kết bạn vơi nhau từ nhỏ đến lớn, tâm đầu ý hiệp, đãi nhau hơn anh em ruột. Từ ngày Lôi Đại Bàng mắc lên núi học võ, cho nên hai đàng xa cách nhau ; đến sau lại nghe Lôi Đại Bàng vì bạn mà báo cừu, có lập lôi đài, ý muốn gặp nhau một phen, ngặt vì trong mình có bịnh nên đi không đặng. Đến khi nghe Lôi Đại Bàng bỏ mạng tại lôi đài, thì trong lòng đau đớn thương xót vô cùng, muốn đi báo cừu giùm, ngặt vì cha mẹ quản thúc hằng ngày, chưa dám khinh động ; nay cha mẹ đã qua đời hết rồi, cho nên coi mình như không có, mới tính xuống Tân Hội thành , lập một cáì lôi đàị đặng coi có người nhà họ Hồ ra thì báo cừu. Tính như vậy rồi dặn dò gia nhơn giử gìn nhà cửa, đem hết mười tám món binh khí theo tuốt xuốug Tân Hội thành .

Nguyên vì Lý Toàn Trung lúc nhỏ đã thọ giáo với Lôi Lão Hổ, sau lại nhờ Lý Tiểu Hườn dạy thêm, cho nên học đặng mười tám món binh khí, món nào cũng giỏi , song sỡ trường hơn hết thì có một cặp bãng đao, nặng nổi mười cân ngoài, và một cặp phi báo, dùng hai món ấy thiệt là thần xuất quĩ nhập, lại thêm trong mình luyện cứng như sắt . Hai cánh tay có sức mạnh hơn mấy trăm cân , hình thù thấp nhỏ, thiên hạ đều gọi là Thiết Tứ Tử, bởi ỷ mình võ nghệ cao cường nên mới quyết ý báo cừu cho bạn hữu .

Khi xuống đến Tân Hội thành rồi, thì không có quen biết với ai, nhơn nhớ lại lúc cha mình còn sanh tiền thì vẫn có quen với một viên Thủ bị họ Huỳnh, nay hiện đang còn làm Thủ bị tại Tân Hội thành, bèn tính đến đó đặng có xin niêm biểu, và xin binh lính gìn giử lôi đài giúp oai .

Nghĩ rồi liền đi thẳng vào thành, tìm quán nghỉ ngơi .

Qua bửa sau mới hỏi thăm đường tìm đến nhà quan Thủ bị, dùng thẻ điệt danh thiệp cậy nhờ người giử cửa đem vào báo bẩm .

Trong giây phút người ấy trở ra thỉnh vào .

Lý Toàn Trung xóc sửa khăn áo theo tên giử cửa đi ngay vào nhà thính, cúi đầu làm lễ ra mắt quan Thủ bị rồi chờ dậy đứng lại một bên.

Nguyên quan Thủ bị nầy họ Huỳnh tên Quốc An, khi thấy Lý Toàn Trung thì hỏi rằng :

- Hiền điệt đến đây có việc gì ?

Toàn Trung nói :

- Thúc phụ chưa rõ, nguyên vì cháu với Lôi Đại Bàng từ nhỏ có kết giao sanh tử với nhau , lúc nọ Lôi Đại Bàng có lập lôi đài báo cừu cho bạn , rủi bị Hồ Huệ Càng đánh chết, rất nên đau đớn, từ ấy đến nay cháu lấy làm thống hận, giờ khắc chẳng hề quên.

Nói đến đó thì nước mắt xuống như mưa, nói không đặng nữa, Huỳnh Thủ bị hiểu ý bèn nói rằng :

- Việc nhỏ mọn như vậy có đũ chi mà lo, để mai chú khiến quân sĩ lập cho cháu một cái lôi đài, và chú cấp thêm ít chục tên quân mạnh cho cháu dùng, có khó chi .

Lý Toàn Trung mầng rỡ , bèn tạ ơn rằng :

- Nếu đặng như vậy tôi rất đội ơn, dầu có thác xuống cửu tuyền tôi cũng còn cảm đức.

Rồi đó Huỳnh thủ bị bèn khiến quân bày tiệc rượu thết đải Toàn Trung ăn uống với nhau cho đến khuya mới đi nghỉ .

Qua bửa sau, Huỳnh Thủ bị khiến quân cất một cái lôi đài rộng lớn, bề cao ba trượng, gần bên lôi đài lại cất một tòa tráng đình xưởng, hai bên bày ra cờ ngủ sắc, binh khí sáng ngời, lại chọn ba bốn mươi binh , tính tráng bảo thủ chung quanh rất nên oai dỏng, trên đài có treo một tấm biễn đề ba chữ lớn : "Tiết hận đài" , hai bên có hai câu liễn năm chữ :

Thi ngó tân thủ đoạn

Tiết hữu cựu oan cừu

Phía bên tả có treo một tờ cáo thị như vầy :

Tân Hội dinh Thủ bị Huỳnh,

Vi hiểu dụ sự, xét rõ Lý Toàn Trung là người nghĩa khí thâm trượng, nhơn cái cừu của Lôi Đại Bàng chưa trả nên phải đến đây trả cừu, đặng có rửa hờn cho bạn , thoảng có con cháu hoặc là bậu bạn của Hồ Huệ Càng, thì hãy lên đài tỷ thí, hai đàng sanh tử chẳng ai truy cứu, song chẳng đặng lén đem binh khí theo mình, cứ dùng tay chơn đánh với nhau , chẳng luận là người bực nào đều đặng lên đài tỹ thí, duy trừ ra có ba đạo là Nho, Thích và Đạo mà thôi, hạn trong một trăm ngày trở lại như có ai là bạn của Hồ Huệ Càng thì hãy lên đài, nay cho hay trước, vì trong quyền khước giao gia, thì thế chẳng dung tình, ai nấy phải hiểu, nay lời hiễu dụ.

Năm . . . . .tháng . . . . . ngày .

Lúc ấy kẽ qua người lại, nghe nói việc đả lôi đài, thì mừng vui chẳng xiết, kẻ dắt bà con, người dắt anh em vào thành mà coi, còn nhũng kẻ bán đồ ăn thập vật thảy đều tựu tới đông đầy như nhóm chợ, vui chẳng xiết chi.

Lý Toàn Trung chọn đặng ngày mồng mười tháng tám là huỳnh đạo , kiết kỳ . Lúc ấy nhằm tết Trung thu khí trời mát mẻ , Lý Toàn Trung nai nịt hẳn hòi, rất nên oai mảnh, đầu đội thanh sô nhuyễn bao cân, mình mặc hồ sa hiệp bào, trong mang hồng cẩm tiểu chiến bào, trưóc ngực có mang hộ tâm kiến, dưới bận củng màu lục , chơn đeo nhỉ ma bài, cỡi ngựa theo quan Thủ bị thẳng tới lôi đài . Quân binh ra nghinh tiếp, Lý Toàn Trung liền nhảy thót lên đài .

Những kẻ đứng coi thảy đều le lưỡi và khen rằng :

- Đài cao đường ấy, mà nhảy lên đặng , hèn chi dám lập lôi đài tỷ võ .

Lý Toàn Trung đứng trên đài ngó xuống nói rằng :

- Tiểu đệ vốn là người ở tại phủ nầy, nhơn kết bạn sanh tử với Lôi Đại Bảng, sau Đại Bàng tỹ võ với Hồ Huệ Càng, Hồ Huệ Càng ám toán mà giết đi, đến nay oán cừu chưa trả , nên tôi phải đến đây báo cừu giùm cho bạn hữu , thoảng như có bà con thân thuộc của Hồ Huệ Càng, bất luận là người bực nào, đều đặng tỷ thí, song chẳng cho lén đem binh khí theo mình, cứ dùng tay không mà đối địch với nhau, bằng bất tài thì xin chớ lên đài, e chết uỗng mạng, vì lúc quyền khước giao gia, thì thiệt khó dung tình, xin chư quân tử hãy xét lấy .

Nói rồi liền cởi áo sô bào ra ngồi làm thinh trên đài chờ người đến tỷ võ.

Thiên hạ đến coi đông như kiến cỏ , đầy đàng lấp nẻo, chen lấn nhau chẳng khác như coi hội.

Mặt trời gần chen lặn, mà chẳng có một người nào dám nhảy lên đài.

Lý Toàn Trung phải trở về nhà mà nghỉ.

Huỳnh Thủ bị bèn hỏi rằng :

- Hôm nay cháu giết đặng mấy người rồi ?

Toàn Trung nói :

- Chẳng có một người nào hết, cháu tưởng chẳng có người giỏi, nên chẳng có ai dám lên đài.

Nguyên Huỳnh Thủ bị cũng là người vô dụng, tánh hay háo thắng , nên nghe Lý Toàn Trung nói vậy thì mầng thầm, khen ngợi Toàn Trung là giỏi cho nên thiên hạ nghe tiếng mà sợ, chẳng dám lên đài tỷ thí.

Liền khiến bày rượu thết đải.

Qua bửa sau Lý Toàn Trung cũng cứ việc đi đến lôi đài diệu võ giương oai, nhảy phóc lên đài, đứng nói như trước một hồi , song cũng chẳng thấy động tịnh chi hết, luôn luôn như vậy hơn năm mươi ngày, cũng chẳng thấy ai , những kẻ đi coi đều ngả lòng, thủng thẳng thưa bớt lần lần.

Nói về xứ ấy, nơi phía ngoài thành, có một làng kia kêu là Cổ Hòe thôn, trong làng ấy lại có một người họ Lâm tên Phát Diển, mới mười bảy tuổi, một trắng như ngọc, môi đỏ tợ son, hình tướng dịu dàng như con gái, cha mẹ mất sớm chẳng có anh em , ở nhờ nơi nhà người cậu . Từ nhỏ theo thầy học tập, võ nghệ cao cường, hình thù tuy nhỏ, mà sức mạnh vô cùng, gân cốt cứng như sắt nguội . Hai con mắt thường ngó mặt trời mà luyện, rất nên tỏ rạng, ban đêm chiếu ánh có ngời, ban ngày cũng thấy sao trên trời đặng, thiên hạ thấy vậy nên kêu là Kim Nhản Bưu, vốn là bạn thiết của Hồ Huệ Càng. Lúc nghe Hồ Huệ Càng bị khi , thời học chưa giỏi, nên giúp không đặng ; sau nghe đặng Hồ Huệ Càng đắc thắng thì mầng lắm.

Nay Lý Toàn Trung đến lập lôi đài, bèn nghĩ thầm rằng : Nó còn biết báo cừu cho bạn hữu của nó , ta lại há đi chẳng biết vì bạn mà ra oai hay sao ?

Nghĩ rồi liền từ biệt cậu, tuốt vào thành Tân Hội, tìm quán nghĩ ngơi.

Nói về Lý Toàn Trung lập lôi đài ra hơn tám mươi ngày mà chưa gặp tay đối thủ, thì tưởng có khi những thân bằng của Hồ Huệ Càng đã biết rằng Hồ Huệ Càng trước quấy, nên chẳng dám lên đài tỷ thí nữa.

Chẳng dè ngày ấy Lâm Phát Diển thấy khí trời mát mẽ, bèn hỏi thăm đường tìm tới lôi đài ; đứng dưới đài ngó lên, thấy Lý Toàn Trung đang ngồi trên đài, oai phông lẩm lẩm, sát khí đằng đằng.

Lâm Phát Diễn bước lần tới bên đài, xem hết bốn phía, rồi vỗ tay nhãy thóc lên đài. . .

Lý Toàn Trung giựt mình ngó lại, thấy người tuổi tác còn nhỏ, và tướng tá cũng chẳng phải người trong bọn nghề võ, sao lại nhảy lên đài đặng, bèn hỏi rằng :

- Ngươi là hậu sanh, lên đây làm chi , chỗ này là chổ tỷ võ , hãy xuống cho mau .

Lâm Phát Diễn nạt rằng :

- Mi là bọn cẩu tài, giết chẳng hết, cho nên mi còn đến mãi , vậy chớ mi không biết ông hay sao ?

Lý Toàn Trang hỏi :

- Mi là đứa con nít , ai biết mi là thằng gì, hãy nói tên cho mau. Lâm Phát Diễn nói :

- Ngươi hãy ngoáy tai mà nghe, ta đây là bạn hữu Hồ Huệ Càng, tên là Lâm Phát Diển, ngươi là đồ vong mạng, hãy nói tên cho mau đặng ta có đưa ngươi về âm phũ cho rồi.

Lý Toàn Trung giận nói :

- Ta là nghĩa đệ của Lôi Đại Bàng, tên Lý Toàn Trung, dốc đến đây báo cừu tiết hận, như mi có biết danh ta thì hãy xuống cho mau, bằng chẳng vậy thì ắt chết trong nháy mắt.

Lâm Phát Diển chẳng nói chi hết, cứ hươi quyền đánh nhầu.

Lý Toàn Trung cúi đầu né khỏi, rồi cũng huơi quyền đánh lại .

Một đàng như long , một đàng tợ hổ .

Lý Toàn Trung bèn đùng thế Hắc hỗ du tâm, tay hửu ráng hết khí lực, đở hất tay Phát Diển ra, còn tay tả thì sè ngay năm ngón ra, cứng như dùi sắt, nhắm ngay nách Phát Diễn mà đâm.

Phát Diển lánh mình né khỏi.

Rồi đó hai đàng huơi quyền đánh nhầu với nhau, một qua một lại một tới một lui, một đàng thì vì bạn mà báo cừu, một đàng cũng vì bạn là tiết hận ; hai đàng đều học tập công phu từ nhỏ đến lớn, quyền thế lẹ làng, người thì tốt tướng kẻ thì xấu hình, hai đàng đánh nhau tối tròi mịt đất, ban đầu còn thấy kẻ lại người qua, kẻ ngăn ngưòi đở, đánh thét đến sau thì chẳng còn thấy người, duy thấy một cục đen đen như lùm khói bay qua bay lại đó mà thôi ; những kẽ đứng coi thảy đều khen dậy.

Ấy là :

Cờ giỏi lại gặp tay giỏi nữa

Tướng tài còn có kẻ tài hơn

Hai đàng đánh nhau cho đến trời tối , bèn dừng tay lại nhau rằng :

- Hôm nay tròi đã tối rồi để mai sẽ đánh nửa mới xong.

Một đàng thì nói nhường cho mi một ngày, còn một đàng thì nói dung cho gả ở đời một đêm nữa.

Hai đàng ai về nhà nấy cơm nước nghỉ ngơi.

Sáng ta bửa sau hai đàng đều nai nịt, sắm sửa tựu đến lôi đài.

Thuở ấy gần thành nơi phía Đông, có một người họ Trần tên Ngọc tự là Phụng Hiếu, nhơn ở với mẹ chí hiếu cho nên thiên hạ gọi là Trần Hiếu Tử, gia tài bá vạn, tuổi ước ngoài ba mươi, vợ là Ngô thị chưa có con, tánh người hay khinh tài trượng nghĩa, cứu khỗn phò nguy , hay thương xót người cô quả, ai có việc chi nguy cấp thì vui lòng cứu giúp , phàm ai có việc chi khó phân khó giải, hể có va đến thì việc ắt hòa, nay nghe đồn trong thành có lập lôi đài báo cừu cho bạn hữu ; bèn dăn vợ coi nhà, đi thẳng vào thành, tìm đến lôi đài mà phân giải.

Ngày ấy Lâm, Lý hai người đang ở lôi đài, vừa muốn ra tay, bỗng nghe dưới đài có tiếng kêu rằng :

- Nhị vị tráng sĩ, xin dừng tay lại cho tôi nói một điều .

Hai người liền dừng tay lại, Trần Phụng Hiếu bèn leo lên đài , xá hai người rồi nói rằng :

- Hôm nay nhị vị vì bằng hữu mà báo cừu tiết hận, thiệt là nghĩa khí thâm trọng, nhưng theo ý tôi thì xin nhị vị hãy hoà với nhau thì hay hơn.

Hai người nghe bèn hỏi rằng :

- Chẳng hay trưởng giả tên họ chi ?

Trần ngọc nói :

- Tôi họ Trần tên Ngọc tự là Phụng Hiếu.

Hai người nghe nói bèn nói một lượt rằng :

- Té ra người là Trần Hiếu Tử, vậy mà hai tôi không biết thiệt là thất ễ , tôi vẫn nghe danh đã lâu, ngày nay đặng gặp, thiệt đã phỉ nguyền ; nếu trưởng giả đả có lòng đến đây phân giải, thì hai tôi đâu dám chẳng tuân.

Trần Phụng Hiếu cả mầng, rồi đó Lý Toàn Trung bèn khiến người dẹp hết lôi đài, rồi thĩnh Trần Hiếu Tử trở về nhà Thủ bị, và thuật hết các việc cho Huỳnh Thủ bị nghe.

Huỳnh Thủ bị cũng chuộng cái danh Trần Hiếu Tử ; liền bày tiệc rồi cầm Trần Hiếu Tử lại ăn uống chuyện trò cho đến khuya mới tan.

Sáng bữa sau từ biệt nhau ai về nhà nấy.

Hồi 32

Bạch diện thơ sanh Phùng Thiết Hớn

Hồng nhan nữ tử ngộ Kim Cang

Khi Lâm, Lý hai người nghe lời Trần Phụng Hiếu khuyên giải bỏ việc oán thù, thì mới biết xưa nay bất kỳ là người lành người dữ thảy đều trọng nguời hiếu tử, dẫu cho trời đất quỉ thần, cùng vua quan dân giả, cũng đều kính trọng người có hiếu, cho nên ở đời phải trọng hai chữ trung hiếu thì hay hơn muôn việc.

Nói về Thiên tử với Nhựt Thanh khi đi đến Tô châu , tới một cái chợ kia rất nên đông đảo, vui vẻ dị thường .

Nguyên vì chợ ấy gần biển, mười phần hưng vượng , những thuyền buôn tới lui như kiến, đâu đâu cũng tụ lại chợ ấy mà buôn bán , trên bờ xe ngựa rần rần, phố xá hơn mấy ngàn căn, toà ngang dảy dọc.

Thiên tử với Nhựt Thanh dắt nhau vào tiệm kêu chũ tiệm sắm sửa đồ ăn thật ngon.

Chủ tiệm vâng lời, chẳng bao lâu bưng lên một mâm đồ ngon thịt tốt bĩ bàn, dọn sắp ra nơi ghế.

Hai cha con ngồi lại ăn uống với nhau.

Thiên tử vùng nghĩ thầm rằng :

- Từ trẫm ra khởi Kinh sư đi dạo chơi khắp xứ, gặp gian thì giết, thấy bạo thì trừ, cách chức những tham quan ô lại chẳng biết là bao nhiêu ; thiệt là ăn lộc thì nhiều, mà hết lòng vì nước thì ít , nhưng thế tình làm vậy, trẫm cũng không biết làm sao.

Vừa ăn vừa nghĩ, khi ăn uống rồi , liền kéo gối mà nằm, ngó ra ngoài song , thấy trăng tỏ rạng, bèn xúc cảnh ngâm một bài thơ rằng :

Hao nguyệt đương không bửu cảnh huyền,

San hà diêu ãnh thập phân tuyền,

Quỳnh lâu ngọc võ thanh quan mãn ;

Vỉnh giám ngân bàng sảng khí toàn,

Xư nữ song hiên ngâm bạch tuyết,

Gia gia viện võ lộng châu huyền,

Kim tiêu tịch tịnh lai tư địa,

Du ngoạn thời phùng hứng tự nhiêu.

Ngâm vừa dứt tiếng, lại nghe xa xa có tiếng đọc sách, Thiên tử bèn lóng tai nghe, thì mới biết là đọc sách Ly Tao kinh.

Qua bửa sau , Thiên tử dắt Nhựt Thanh tìm đến chổ ấy ngồi tại chổ Hương đình lẳng lặng mà nghe đọc .

Tại đó lại có một tên ăn trộm, sức mạnh vô cùng, dẫu cho cột lớn thế nào va bẻ cũng gảy, cho nên trong làng đều kêu va là Thiết Hớn ; nhơn dọ đặng xứ ấy có một người bạch diện thơ sanh, ở nhà có một mình đọc sách, bèn tính trong bụng rằng :

- Để đêm nay ta lén vào đó giết cho sạch lũ, nhắm không có ai giúp nó mà sợ.

Nghĩ như vậy, liền lén đến đó ngó quanh ngó quất đũ bốn phía, rồi bỏ ra về, chờ đến canh khuya sẽ hành sự .

Chẳng dè Nhựt Thanh ngó thấy người ấy đầu rắn mắt chuột, đứng ngó dao dác, thì nghi chắc là ăn trộm bèn nói với Thiên tử.

Thiên tử dặn dò Nhựt thanh núp ở tại đó coi nó làm thế nào, còn mình thì trở về tiệm mà nghỉ.

Nguyên tại nhà ấy kêu là Thâm Hiếu đường, chủ nhà là họ Kim , giàu có tại xứ ấy. Những em út cùng gia dịch trong nhà hơn mấy mươi người, ngày ấy nhơn có việc nên đi khỏi hết , duy có một mình Kim Tam Lang ở nhà với một đứa thơ đồng tên là Lộc Nhi mà thôi.

Ngụyên Kim Tam Lang nầy tánh khác hơn người , thường hay siêng năng trau giồi kinh sử, quyết làm cho có danh gì thì mới vừa lòng xứng ý , ngày ngày thường đóng cửa tuyệt khách, lại có gan dạn dỉ hơn người, tà ma yêu mị thảy đều chẳng sợ, nhiều khi ăn trộm đến nhà, đều bị va đánh đuổi, lại còn có khi đánh lộn với quỉ ; có một đêm kia có con lệ quỉ vô nhà, khi mới vào thì đầu lớn hơn đấu , đôi mắt tợ đồng linh lục lạc than, lưỡi như lưỡi rắn, le ra ló vô, cao chẳng đầy ba thước, hình tướng dữ dằn, hể ngó thấy mà không chết giấc cũng phải đau ; duy có một mình Kim Tam Lang chẳng sợ, lại lấy một cái giỏ bằng tre, phất giấy bao hết, vẽ đủ ngũ qua rồi đội trùm lên đầu, đứng ngó con quỉ, con quỉ vùng biến ra mình cao hơn một trượng hai, đứng đụng nóc nhà.

Kim Tam Lang lại lấy tre tháp lên cao cho bằng con quỉ.

Con quỉ không làm chi đặng nên phải đi.

( Ấy chẳng phải là con quỉ thấy dạn gan mà sợ, sợ là sợ người trung hậu , hiếu nghĩa mà thôi ).

Đêm ấy tên Thiết Hớn ăn cơm no rồi liền giắt đao vào mình , lén đến nhà Kim Tam Lang, núp nơi chổ vắng mà chờ đến khuya đặng có ra tay, chẳng dè Nhựt Thanh núp nơi chổ tối nhìn thấy rõ ràng ; còn Thiết Hớn cứ việc rình mò .

Qua đến canh ba trăng tỏ ; ngặt vì Kim Tam Lang thường đêm đọc sách không biết mệt, có khi đọc đến canh năm mà chưa chịu ngủ. Đêm ấy Kim Tam Lang đọc sách đã khuya, vừa mới vô mùng mà nằm.

Thiết Hớn không nghe đọc nữa, thì chắc là Tam Lang đã ngủ bèn nhãy phóc lên nóc nhà, giở ngói trèo xuống.

Kim Tam Lang thấy đã rõ ràng, mà giả rằng chẳng hay, lại làm bộ ngủ ngáy khò khò.

Thiết Hớn lại giả tiếng chuột kêu .

Tam Lang cũng làm bộ không hay .

Thiết Hớn bèn mò lại, đang lum khum cạy rương , bị Tam Lang cầm một sợi dây gai , ở sau lưng , nhãy tới thình lình, chụp bắt trói lại, bỏ ngồi dưới đất, rồi kêu tên thư đồng thức dậy đốt đèn lên, dọn rượu thịt ra ăn uống và hỏi tên Thiết hớn rằng :

- Nay ngưới đã bị bắt rồi, có điều chi muốn nói thì hãy nói đi .

Thiết Hớn nói :

- Nay tôi là bị trói, dẫu dè sức mạnh thế nào cũng không làm chi đặng , duy cầu dung thứ, thì tôi cảm đưc chàng quên .

Kim Tam Lang nói :

- Nếu ngươi khứng cải tà qui chánh thì ta tha ngươi .

Vừa nói vừa mở trói cho Thiết Hớn mời Thiết Hớn rằng :

- Sẳn rượu thịt đây, ngươi hãy ăn uống với ta một bửa cho say cũng chẳng hại chi .

Thiết Hớn tạ tội rồi mới ngồi vào tiệc.

Khi ăn uống vừa rồi, Tam Lang lại lấy ra mười lượng bạc ròng cho Thiết Hớn và dặn dò tự hậu phải cải tà qui chánh, chớ làm nghề quân tử ngồi rường như vậy nữa .

Thiết Hớn dạ dạ rồi lạy tạ ra về .

Từ ấy ăn trộm xa gần nghe tiếng Kim Tam Lang chẳng dám léo đến.

Nói về Nhựt thanh, khi thấy Thiết Hớn nhảy lên nóc nhà giở ngói trèo xuống, thì cũng nhảy theo núp trên mái ngói rình coi, đầu đuôi thấy đã rõ ràng, bèn trở về tiệm thuật hết lại cho Thiên tử nghe .

Thiên tử khen rằng :

- Thiệt là nguời đọc sách không có chổ nào chẳng giỏi .

Qua bửa sau, Thiên tử bèn từ giả chủ tiệm, dắt Nhựt Thanh dạo chơi xứ khác.

Gần đó lại có một làng kia, kêu là làng Tây thôn, có một nhà họ Vương, vợ là Vạn thị, vợ chồng đã gần sáu mươi tuổi, mà sanh có một đứa con gái, nàng ấy tên Bích Ngọc mới mười sáu tuổi, dung nhan đẹp đẽ, cốt cách phương phi, mắt phượng mày ngài, môi son má phấn. Vợ chồng Vương lão coi như châu báu , trọng giá đến ngàn vàng, chắc làm sao cũng nhờ nàng ấy đặng làm giàu, còn nàng ấy tuy là con nhà nghèo mặc dầu , chớ trong nghề cầm kỳ thi họa, món món đều hay, mỗi ngày cứ ở trong nhà, nếu chẳng ngâm thi, thì cũng là vịnh phú, có nhiều nhà giàu có hào bộ, tranh nhau đến luận hôn, song nàng ấy chẳng ưng, có ý muốn lựa người anh hùng cho xứng đáng.

Ngày kia có con quan Đề đài tại tỉnh ấy tìm đến cầu thân. Công tử này tên là Trương Hiệu Quí, tuớng mạo xấu xa, thường ỷ thế cha làm quan Nhứt phẩm , hay hiếp đáp người lành, mỗi khi ra đàng dọc ngang đà không chổ nói .

Ngày ấy đi chơi , nhơn thấy con gái Vương lão xinh đẹp, bèn cậy mụ Huỳnh bà đến nói.

Chẳng dè Vương Bích Ngọc lại muốn thữ coi cho đặng người tài mạo song toàn thì mới chịu .

Công tử không không biết làm sao, phải ráng đánh áo đánh quần, diện coi cho bảnh, rồi đi với Huỳnh bà đến nhà Vương lão ; dâng danh thiếp và làm lễ ra mắt xong rồi, Vương lão bèn nói rằng :

- Công tử đến đây thiệt nhà tôi lấy làm may mắn .

Trương Hiệu Quí nói :

- Nghe Thiên kim tiểu thơ ý muốn thử tài, nên tôi đến đây lảnh giáo .

Vương lão nói :

- Xin công tử ngồi chờ một chút.

Nói rồi liền trở vào khiến Bích Ngọc ra ngồi nơi phía sau bức sáo mà thử tài Công tử.

Vương Bích Ngọc ngồi trong ngó ra, thấy Công tử hình thù dữ tợn, tướng mạo xấu xa, trong lòng chẳng đẹp, bèn lấy viết ra một đề như vầy :

Hoặc như thiên hề , hoặc như địa ; hoặc như giai nhơn, hoặc tặng quí ; hoặc như ưu hề , hoặc như hĩ , hoặc tiếu xuân kiều hề, hoặc sinh mị ; hoặc bị bạch phát hề lão tương chí hĩ .

Công tử xem rồi không hiểu chi hết, song cũng nói gượng cho đở xấu rằng :

- Hôm nay tôi uống rượu nhiều qua nghĩ không ra đặng, để sáng mai tôi sẽ đến đối lại.

Nói rồi quảy quả từ biệt đi về một nước.

Khi về đến nhà rồi bèn nghĩ trong lòng rằng :

- Như ta là đường đường Công tử của một vị Đề đài, lại bị một đứa con gái nhà quê nó vấn nan như vầy thì thiệt là tức quá ; thôi , nó muốn vậy ta cho nó vậy, giá một đứa con gái như nó mà tài cán gì, để mai ta dắt vài mươi tên gia đinh đến đó giựt đại nó về, coi nó làm sao ta cho biết.

Lập ý xong rồi, qua bửa sau bèn dắt hai ba mươi gia đinh, tay cầm binh khí, kéo đến nhà Vương lão, chẵng nói chi hết, cứ việc áp vào bắt đại Vương Bích Ngọc, lại phao ngôn rằng Vương lão thiếu nợ mình nên đem con thế , tuy vậy thiên hạ cũng biết là làm ngang bắt con gái người ta, song chẳng ai dám cứu.

May đâu lại gặp một người hớn tử đi ngang qua đó, người nầy họ Kim tên Cang, vốn công tử người ở tại xứ ấy, hay can thiệp sự bất bình, thấy Công tử hà hiếp ngang như vậy thì giận lắm , song biết là con quan Đề đài nên chưa dám ra tay, bèn lấy lời lễ nghĩa nói với Công tử rằng :

- Đang lúc thanh thiên bạch nhựt mà bắt ngang con gái của người, tôi e trái lẻ đi chăng . Vậy xin Công tử hãy thả phứt cho rồi, kẽo sanh ra điều bất tiện.

Công tử bèn nạt rằng :

- Can cớ chi mi mà mi nói .

Kim Cang nói :

- Ta nghỉ mi là con cái nhà quan, nên lấy lời phải trái nói với mi, mi lại ỷ bọn mi đông mà cả tiếng mắng người, ta há sợ mi sao ?

Công tử nổi nóng nhãy tới đánh Kim Cang, bị Kim-cang đá ra một đá nằm ngay hết thở.

Gia-đinh chạy về phi báo cho quan Đề dài hay.

Quan Đề đài tức giận căm gan, hỏi ra mới biết là hung thủ là Kim Cang, liền họa đồ hình treo khắp phố phường, lại truyền cho võ bị các dinh tìm bắt khắp nơi rất nên nghiêm ngặt.

Hồi 33

Anh hùng đặng xá , cảm đội Hoàng ân

Nghĩa sĩ lòng lành, may nhờ ngự tứ

Nói về Kim Cang nhơn thấy sự bất bình, rũi tay đánh chết Trương công tử, trong lòng nghĩ lại thì sợ hải chẳng cùng , vì việc nhơn mạng là việc trọng, phần thì Công tử là con quan Đề đài trong tĩnh ; nghĩ lại rồi giựt mình, bèn bõ đó chạy dông, bất kể là đâu, hễ thấy có đường trống thì chạy nhầu , trời thì một ngày một tối, phần thì trong lòng lại đói.

Chạy đến một xóm kia, ráng chạy nữa không nổi , xảy thấy bên đường có một tòa cổ miếu, bèn mò vào đó nghĩ chơn, phần thì mới đánh lộn; phần thì chạy rất xa, cho nên trong mình mười phần mệt mỏí , lại thêm đói bụng chịu không nỗi, bên ăn năn trách lấy mình, sao có nóng nảy mà giết công tữ, nên phải chịu khổ sở như vầy , rồi lại nghĩ rằng :

- Tuy vậy mà ta cũng mầng, vì ta đã trừ đặng một mối hại cho địa phương.

Suy tới nghĩ lui một hồi rồi nằm queo nơi dưới bàn thần mà ngũ.

Nguyên chổ ấy kêu là làng Trung Lạc thôn, còn cái miếu ấy là miếu Quan vương, rất nên linh hiển, song hể bọn trung thần, hiếu tử, nghĩa sĩ, liệt nữ, đến đó cầu vái việc chi đều linh nghiệm cả , chỉ có những bọn gian tà đến vái thì không linh nghiệm chi hết, ngặt vì miễu đường hẹp nhỏ, nên chẳng có ông Từ , duy nhờ có người trong làng hôm sớm đèn nhang cúng cấp mà thôi.

Kim Cang nằm ngũ tại đó, qua đến canh ba, ngó thấy một vị thần nhơn, râu mọc xồm xàm, đến kêu biểu đi.

Kim Cang không biết việc chi, bên theo vị thần ấy đi đến một chổ , thấy có lầu đài điện võ nguy nga, lại có một vị thần thánh ngồi trên , mặt đỏ hồng hồng , coi kỷ lại thì là Quan phu tử đời Hớn .

Kim Cang bèn bước tới quì xuống nói rằng :

- Tôi là Kim Cang xin ra mắt .

Quan đế cho đứng dậy.

Kim Cang mới dám đứng đậy và ngước mặt lên .

Quan đế bèn nói rằng :

- Ta thấy ngươi có lòng nhân nghĩa , chẳng biết kể thân mình bị hại mà cứu người ta, ấy là phò nguy cứu khổn, thiệt cũng đáng khen, nên ta đòi ngươi đến đây mách bảo cho ngươi hay . Vã nay trào đình có lòng chiêu hiền nạp sĩ . Vậy ngươi phải đến nhà Huỳnh Vĩnh Thanh mà ở, thì làm sao ngươi cũng có chổ xuất thân, thoảng như ngày sau ngươi có đắc chí rồi, thì phải cho hết lòng đền nợ nước, hãy ghi lấy, nhớ lấy.

Kim Cang cúi đầu tạ ơn.

Quan đế dạy rồi, liền khiến hai tên Thanh y đồng tử đưa Kim Cang về.

Đi dọc đàng thấy có một cái ao cá , nước trong leo lẻo, mười phần u nhả.

Kim Cang những mảng ham coi, chẳng kịp đề phòng, bị Thanh y đồng tử xô tuốt xuống ao .

Kim Cang hoảng kinh la lên một tiếng, vùng giựt mình thức dậy mới biết là chiêm bao, mồ hôi ra ướt dầm.

Bèn ngồi nghĩ lại một mình rằng :

- Lời Đế quân dặn ta thì ta phải ghi nhớ vào lòng.

Nghĩ rồi đứng dậy lạy tạ ơn thần.

Lúc ấy trống đã trở canh năm, bèn chờ cho trời sáng đặng có kiếm đàng mà đi ; khi trời gần sáng Kim Cang ý muốn đứng dậy ra đi, ngặt đói quá tay chân bũn rũn, đi không nỗi, bèn ngồi núp lại nơi dưới bàn thần trong giây lát rồi sẽ đi. Chẳng dè chổ ấy cách nhà Huỳnh thị lang chẳng bao xa . Nơi Huỳnh phũ có việc cúng thần, gia nhơn đem lể vật đến miếu, vái lạy xong rồi, để đó đưa nhau ra ngoài.

Nói về Kim Cang khi thấy có người đến cúng, ý muốn trông cúng cho rồi đặng có xin đồ ăn cho đở đói, chừng thấy bọn gia nhơn đi hết, thì ngỡ là cúng rồi mà đi, bèn ló đầu lén dòm thấy đồ tam xên hơi còn lên ngui ngút , thèm thôi đà chảy nước dải, nhịn không đặng, liền đứng dậy lấy hết đồ tam xên, ăn uống no say rồi cũng chun xuống bàn thần mà ngồi như trước .

Trong giây phút gia nhơn Huỳnh phủ trở vào, thấy rượu thịt đồ để cúng đó đâu mất hết, bèn nói với nhau rằng :

- Không lẻ mà thần ăn hết đồ tam xên đi , chắc là có người nào ăn cắp đây chớ chẳng không .

Bèn thử kiếm khắp hết bốn phía .

Dòm xuống dưới bàn thần , thấy có một người đại hớn ngồi đó , liệu chắc người ấy ăn cắp mà thôi , liền xúm lại kéo quách Kim Cang ra mẳng rằng :

- Đồ ăn mày, mi ở đâu dám đến đây , ăn cắp lễ vật của ta , là đạo lý chi vậy ?

Kim Cang mắc cở xẽn lẻn bèn nói cố lỳ rằng :

- Nay vì tôi đói bụng quá chịu không nỗi thấy đồ để sẳn, nên ăn ba miếng đở lòng , thiệt rất cám ơn, cám ơn.

Gia nhân nói :

- Mi cám ơn ai, đã ăn cắp của người ta mà ăn rồi, bây giờ lại nói cám ơn cái gì . Mi hãy đi với ta lại nhà đây, rồi mi nói làm sao với công tử đó thì mi nói.

Vừa nói vừa kéo tuốt Kim Cang về đến Huỳnh phủ, tốp thì đứng giữ còn tốp thì chạy vào báo cho Công tử hay.

Huỳnh Vỉnh Thanh liền bước ra hỏi rằng :

- Người nào ăn cắp giống gì ở đâu, mà bây làm rộn ta vậy .

Kim Cang bước tới thưa rằng :

- Tôi đây.

Huỳnh Vỉnh Thanh nhắm nhía Kim Cang , thấy tướng mạo khôi ngô thì biết không phải là người vô dụng , bèn hỏi rằng :

- Túc hạ tên họ là chi, vì làm sao ra thân như vậy , như bụng còn đói thì ăn thêm cho no, không hề chi mà ngại.

Nói rồi liền day lại hối gia đinh dọn rựọu thịt ra .

Kim Cang biết kiếu rồi ngồi lại ăn, ăn uống no nê rồi dứng dậy hỏi Công tử rằng :

- Nảy giờ tôi chưa hỏi quí nhơn, chẳng hay quí danh người là chi ?

Huỳnh Vỉnh Thanh nói :

- Tôi họ Huỳnh tên Vỉnh Thanh, ông tôi xưa là Huỳnh Định Ban làm đến chức Thị Lang.

Kim Cang liền cúi đầu và nói rằng :

- Kẻ tiểu nhơn có mắt mà không có ngươi, chẳng biết Công tử, xin Công tử thứ tội .

Công tử nói :

- Túc hạ đã lánh họa mà trốn đến đây, vậy thì đem hết đầu đuôi nói cho tôi biết, thì tôi sẽ có thế liệu giùm.

Kim Cang bèn đem việc cứu Vương Ngọc Bích cùng việc đánh Trương công tử, đầu đuôi các việc thuật lại cho Huỳnh công tử nghe.

Huỳnh công tử khen rằng :

- Nếu vậy thì túc hạ cũng là người nghĩa khí đáng kính , đáng khen ; nay bốn phía dều có treo đồ hình bắt túc hạ, vậy thì túc hạ chớ có đi đâu làm chi, hãy ở đây với tôi dạy giùm sắp gia nhơn trong nhà, cho chúng nó tinh thông võ nghệ, tôi liệu Trương Đề đài chẳng dám đến đây tra vấn chi đâu.

Kim Cang cả mừng, bèn an lòng ở đó.

Nói về Trương Đề đài tìm kiếm hơn mấy tháng mà không ra tông tích, ngày kia nghe đặng ở tại nhà Huỳnh Vỉnh Thanh bèn khiến gia nhơn đem lễ vật và danh thiếp tuốt đến Huỳnh phủ xin giao Kim Cang ra.

Gia nhơn vâng lệnh đi đến Huỳnh phủ vào ra mắt Công tử , dâng danh thiếp cũng lễ vật lên, rồi mới tỏ ý chủ mình dạy biểu.

Công tử nói :

- Nhà ta có Kim Cang nào ở đâu, ngươi hãy về bẩm lại với chủ ngươi, ta không biết Kim Cang nào hết .

Gia nhơn không biết làm sao phải trở về bẩm lại với chủ.

Trương Đề đài cả giận nói rằng :

- Thằng Huỳnh Vĩnh Thanh nó tưởng ta sợ nó lắm sao .

Nói rồi liền truyền lịnh cho ngũ dinh điễm tề binh mã, hùng oai cử cử, sát khí đằng đằng, kéo đến trước phủ Huỳnh thị lang, rồi kêu lớn rằng :

- Bớ Huỳnh Vỉnh Thanh, hãy đem kim Cang ra giao cho sớm , nếu để diên trì đợi cho ta xét đặng , thì ta e cho cái tập ấm của mi cũng là bất tiện.

Gia nhơn chạy vào phi báo, Huỳnh công tử nói rằng :

- Trối thây nó, ta nhắm lủ nó chẳng dám vào đây đâu mà sợ.

Công tử nói vậy mặc dầu , chớ Trương đề đài ở ngoài cứ hối quân kêu réo om sòm, cớ nói hoài như trước.

Kim Cang dằn không đặng, bèn nói với công tử rằng :

- Cũng vì việc của tôi, làm rộn ràng cho công tử , thiệt lòng tôi rất chẳng đặng an, vậy xin để cho tôi ra đó đánh với nó, như đánh nó chạy hết thì sẽ tính kế khác ; bằng đánh chẳng lại thì tội phải tìm đường thoát thân trốn đi xứ khác.

Công tử cản trở đôi ba phen không đặng, nên phải để cho đi .

Kim Cang liền xách trường thương lướt ra khỏi cửa nạt lớn lên rằng :

- Người là đứa hổn quan, thả con làm điều ngang trái, đang giữa ban ngày dám đoạt con gái người ta có tội hay chăng ? May ta cứu đặng con gái của kẻ lương dân, thằng con bất hiếu của ngươi nó lại còn dám tranh trở với ta, nay ta giết nó rồi, thì đã trừ đặng một mối hại lớn cho dân trong xứ, ấy là may cho bá tính lắm đó , sao ngươi còn dám tìm ta làm chi, hãy trở về cho mau, lo việc bổn phận cho hết lòng mà đền nợ nước .

Trương đề đài nghe nói cả giận, phần thì thấy nhấy người cừu trước mặt, liền hối quân ví bắt.

Kim Cang phấn khởi thần oai đánh riết một hồi, binh đinh đều chạy ráo.

Trương đề đài thấy vậy liền thôi thúc vô dinh, các quan đều áp đến một lượt vây chặc Kim Cang .

Kim Cang tả xông hữu đột mà ra chẳng khỏi, phần thì quan binh đông lắm, phần thì mệt mỏi, nên bị quan binh bắt đặng .

Trương đề đài cả mừng, bên khiến dẫn tuốt về nha ; dụng nghiêm hình tra khảo, Kim Cang chẳng thèm chịu khai, Trương đề đài không biết làm sao, phải giao lại cho quan Huyện là Lý Liên Đăng tra hỏi cho rõ chơn tình, chừng đặng lời khẫu cung thì sẽ thĩnh vương mạng mà xử trảm .

Nói về Huỳnh Vỉnh Thanh, khi thấy Kim Cang bị bắt, thì trong lòng chẳng an, chừng dọ nghe đặng đã giao cho Tri huyện rồi, bèn nghĩ thầm rằng :

- Lý Liên Đăng với ta kết giao cũng hậu, chi bằng ta đến đó lấy điều lợi hại mà tỏ với va, hoặc may có cứu đặng cùng chăng.

Nghỉ rồi liền khiến gia nhơn sắm kiệu, đi đến trước nha, gửi danh thiếp vào .

Quan Huyện xem thấy danh thiếp, liền vội vã sắm sữa áo mảo, mở rộng cửa trung môn, bước ra nghinh tiếp, phân ngôi chủ khách mời ngồi rồi hõi rằng :

- Chẳng hay Công tử đến đây có việc chi chăng ?

Huỳnh Vĩnh Thanh nói :

- Nếu chẳng có việc chi thì tôi đâu dám đến đây , nhơn vì Kim giáo sư ỡ tại bên phủ của tôi , không biết có cừu oán chi với quan Đề đài mà người dắt binh mã đến phủ tôi bắt đi , nay nghe lại thì người đã giao cho đại nhơn thẩm đoán, chẳng hay đại nhơn đà thẳm đặng minh bạch rồi chưa .

Lý tri huyện nói :

- Tôi nghe Kim Cang với Vương Toàn giao hảo, nhơn vì Vương Toàn và Trương công tủ có khích với nhau, cho nên Kim Cang mới đánh chết Công tử của Trương đề đài là Trương Hiệu Quí, rồi mới đầu vào quí phủ mà dối làm giáo sư ; đến nay việc nhơn mạng là việc trọng đại , không lẻ bỏ qua cho đặng, vậy thì ngày mai xin Công tử hãy qua đây và tôi cũng cho quan Đề đài hay, đặng tựu đến đây, hội nhau mà thẩm vấn, ước đặng cùng chăng ?

Huỳnh Vĩnh Thanh nói :

- Tôi cũng nhờ đại nhơn lấy tình mà biện lý .

Nói rồi từ giả ra về .

Qua bửa sau Lý tri huyện sai người đi thỉnh Trương đề đài qua dinh hội thám, quan Đề đài bèn sai Diệp Du Phũ đi thế cho mình. qua đến nha Tri huyện, kế thấy Huỳnh Vỉnh Thanh cũng đến.

Tri Huyện bèn khiến quân dẫn Kim Cang ra tra thẩm.

Chẳng dè Kim Cang thấy có Huỳnh công tử đến thì e liên lụy cho người, bèn bắt từ dầu chí đuôi mà khai thật ra hết.

Tri huyện không biết làm sào, nên phải lục theo lời khai mà hồi phúc cho quan Đề dài, đặng chớ lịnh xử quyết.

Huỳnh Vỉnh Thanh cũng không biết nói làm sao, phải từ biệt ra về.

Nói về Thiên tử với Châu Nhựt Thanh dạo chơi đã khắp chổ vui, ngày kia vùng nhớ lại bọn Huỳnh Vỉnh Thành, bèn dắt nhau trở về mà thăm.

Khi về đến nơi gia đinh chạy vào thông báo.

Huỳnh Vỉnh Thanh vội vả mặc áo chạy ra quì tiếp, Thiên từ bèn lấy mắt nháy Vĩnh Thanh, chẳng cho quì, vì e thiên hạ biết.

Khi vào nhà ngồi yên rồi Thiên tử nói với Huỳnh Vỉnh Thanh rằng :

- Tự hậu đừng làm như vậy nữa, cứ lấy theo lễ chú cháu xưng hô với nhau mà thôi ?

Vinh Thanh vâng lời, rối khiến gia đinh dọn tiệc.

Trong lúc ăn uống chuyện vản với nhau, Huỳnh Vĩnh Thanh bèn đem việc Kim Cang mà nói cho Thiên tử nghe.

Thiên tử nghe nói cã giận, bèn nói rằng :

- Những loài như vậy đã thác cũng còn chưa hết tội thay , chớ như Kim Cang là nguời trung dỏng nghĩa khí, lẻ nào lại để cho nó giết hay sao ?

Để mai trẫm sẽ truyền một tờ mật chỉ cho Trang tuần phủ, khiến va bắt quách Trương đề đài mà tra hỏi, chừng trẫm về trào rồi trẩm sẽ phát lạc.

Nói rồi liền viết một tờ mật chỉ .

Sáng ra bữa sau, khiến Nhựt Thanh đem giao cho Trang tuần phũ .

Nhựt Thanh lãnh chỉ tuốt qua dinh Trang tuần phủ, khiến người vào thông báo.

Trang tuần phủ liềhn thay đổi y quan, và khiến quân dọn bàn hương án rồi quì xuống tiếp chỉ.

Nhựt Thanh mở ra đọc rằng :

Vâng trời nương vận, Hoàng đế chiếu rằng : Trẩm dạo chơi khắp xứ Giang Nam, đã nhiều phen nêu gương trung hiếu , lại lắm lúc trừ diệt gian manh ; nay dọ dặng Trương đề đài thả con làm dữ ban ngày đi cướp giựt con gái của người, nay con hắn đã chết, chẳng cần truy cứu lắm chi, song phải bắt Trương đề đài mà giải về kinh, chờ trẩm về trào trẩm sẽ phát lạc, còn Lý Liên Đăng thì ghi tên vào sổ Đạo đài , hể có khuyết thì bổ liền , còn Kim Cang thì phải thả ngay và huỷ luôn cái án ấy đi , các việc cứ theo tờ chiếu mà làm, khanh hãy tuân lấy.

Khi Nhựt Thanh về rồi, Trang tuần phủ bèn cứ theo Thánh chĩ. nhứt nhứt làm xong.

Nói về Kim Cang đặng ra khỏi ngục rồi, bèn tạ ơn Tri huyện, rồi trỡ về Huỳnh phũ tạ ơn Công tử .

Huỳnh Vĩnh Thanh nói :

- Ấy là đương kim thiên tữ tha túc hạ ra , hãy vào tạ ơn Thánh thượng.

Kim Cang liền bước vào cúi đầu lạy tạ ơn vua, rồi day lại lạy Nhựt Thanh.

Thiên tử bèn cho đứng dậy rồi đem những võ kinh tướng lược hỏi thử kim Cang .

Kim Cang nói xuôi như nước chảy.

Thiên tử cả mầng, liền phong làm chúc Du phủ, lại cho một tờ thủ chiếu, dạy đem qua dinh Trang tuần phủ mà trình, hể có khuyết thì đặng bổ liền .

Kim Cang cúi đầu tạ ơn, và cũng tạ ơn Nhựt Thanh và Huỳnh công tử rồi mới từ biệt ra đi.

Rồi đó Huỳnh Vỉnh thanh khiến gia nhơn bày tiệc rồi sai người đi mời Trương, Lý hai vị Công tử qua nhà ăn uống và trò chuyện mà chơi.

Trương Lễ Tuyền và Lý Vân Sanh nghe mời, liền rũ nhau đến một lượt, vào cúi đầu quì lạy ra mắt Thiên tử, rồi mới ngồi vào tiệc rượu khoản đãi Thiên tử với Nhựt Thanh .

Lúc đang ăn uống , chúa tôi dàm luận việc văn chương thi phú với nhau, hai đàng đều đối đáp như lưu .

Thiên tử nhơn nghĩ ba người đều là phú quí trung nghĩa cả ba , bèn khiến đem văn phòng tứ bửu ra, rồi viết ra mấy chữ lớn cho Huỳnh, Trương, Lý ba người .

Ba người bèn xem lại xem thấy chữ viết rất hay, nét sắc như dao cắt. Viết rồi liền trao cho Huỳnh Vỉnh Thanh.

Vỉnh Thanh tiếp lấy xem thì thấy viết bốn chữ lớn như vầy : "Giang Nam nghĩa sĩ" . Lại có để năm, tháng, ngày và có phê bốn chữ nhỏ : Thiên tử ngự bút .

Còn của Trương Lễ Tuyền một chữ thọ lớn cũng có phê ngự bút ; của Lý Vân Sanh thì bốn chữ lớn "Nghĩa bá Giang Nam" , cũng có phê ngự bút , mỗi tấm đều lấy ngọc ấn đóng vào .

Ba người cúi đầu tạ ơn, mươi phần vui đẹp, rồi khiến người đi kêu thợ mộc đến mướn khắc ba tấm biển y theo ba câu chữ ấy rồi treo nơi trước cửa .

Ngày ấy ăn uống đến khuya mới mản tiệc .

Huỳnh vĩnh thanh bèn thỉnh Thiên tử ra trước sân mà ngoạn nguyệt xem trăng , lúc đang xem chơi vui vẽ, bỗng nghe có tiếng đờn kìm, như ai như oán, như khóc như than , song bị gió thổi ào ào, nghe không đặng rõ , không biết từ đâu lại có lời bi ca như vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro