canh thien duong

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngày nào lòng tôi đã biết yêu em rồi, tôi biết tương tư….ngày nào cánh thiên đường đã mở hé…..”

Ai lại không mơ có ngày được lên Thiên đường…?! 

Chết rồi, linh hồn được bay lên thiên đường….. được nhập cõi Niết Bàn, đó là niềm ước mơ của nhiều người, chỉ đáng tiếc là người chết thì không thể kể là mình có được lên Thiên đường hay không mà thôi. 

Được lên Thiên đường ngay khi còn sống thì lại càng sung sướng bội phần. Ngày xưa có chuyện Từ Thức lên tiên, ở trên đó lấy vợ tiên muôn phần vui sướng, vậy mà lại nhớ nhà xin về, chỉ ở có một năm mà khi trở về đã là hơn hai trăm năm rồi, cảnh vật đổi thay, người xưa đã chết hết, đành vào núi tu hành để cầu khi chết lại được lên Thiên đường một lần nữa. 

Ở bên Mỹ từng có một giáo phái tên “Cổng Thiên Đường” toàn là những người trí thức, khá giả, vậy mà lại rủ nhau tự tử đồng loạt với niềm tin sẽ được sao chổi đưa đến Thiên đường để hưởng hạnh phúc đời đời kiếp kiếp. Ở VN trước đây cũng từng có chuyện một người mù mà lại thuyết phục được cả trăm người tự tử theo ông ta bằng cách dùng dao đâm vào bụng và đâm lẫn nhau, không biết là có lên Thiên đường được hay không nhưng đã gây nên một cảnh tượng vô cùng ghê rợn. 

Thiên đường không biết là có thật hay không nhưng chắc chắn là niềm mơ ước của biết bao người, biết bao thế hệ…. 

Hôm đó trời vừa rạng sáng, ĐHC thong thả đi ra ngoài đầu con hẻm nhỏ để uống ly “đen” như thường lệ thì từ bên ngoài có chiếc xe đạp chạy vào vù vù…..chiếc xe thắng ken két làm giật cả mình, nhìn lên thì thấy hai chú nhỏ chừng mười ba mười bốn tuổi. Hai chú bé la với với “ chú….chú ….tụi cháu tìm mãi mới ra nhà của chú….”, hai chú nhỏ này nhìn cũng có vẻ quen quen, không biết đã gặp lúc nào, tiện thể mời hai nhóc ra ngoài đầu hẻm uống cà-phê luôn. 

Vừa nhâm nhi ly “đen”, mời hai chú bé uống hai ly “bạc sỉu”, vừa nghe nói liến thoắng “ tụi cháu kiếm chú suốt mấy ngày nay….chú thay đổi chỗ ở nhiều quá làm tụi cháu dò hỏi phê luôn, hồi xưa chú hay đến nhà cháu chơi với ba cháu đó, chú quên rồi sao” – “thế ba cháu tên gì” – “ba cháu là Hòa râu đó” – à….thì ra hai đứa nhỏ này là con của đại ca Hòa, cách đây sáu bảy năm ĐHC hay đến nhà ông ta chơi, lúc đó hai chú bé này mới tám chín tuổi, còn nhỏ téo, bây giờ trổ giò lớn phổng lên làm sao mà nhận ra nổi. Đại ca Hòa còn gọi là Hòa Râu hay Hòa Sư tử vì ông ta to cao, người giống như lai, để bộ râu quai nón nom rất oách. Hòa Râu là dân “Gia Định thành, Bà Chiểu chợ”, chạy chiếc BMW to xù, nhìn cứ như diễn viên điện ảnh nên ông ta có vô số vợ, bồ nhí, con cái lủ khủ, …Dịp tết đến nhà chơi, lúc đó không biết ông ta đang ở với bà thứ mấy, “con anh, con em, con của chúng ta” đến cả chục đứa lít nha lít nhít, móc tiền ra lì xì mệt xỉu – “thế làm sao mà nhớ chú được, có việc gì mà phải tìm đến ?” – Hai chú nhỏ, chú lớn tên Tấn, chú nhỏ tên Tài tranh nhau nói “ ba cháu vẫn nhắc chú luôn, hơn sáu tháng nay bỗng nhiên ổng không có tin tức gì cả nên mẹ kêu tụi cháu đi kiếm chú….nói chú đến nhà gặp mẹ có chút chuyện..”. Hòa Râu có lẽ nuôi nhiều bà quá nên luôn túng thiếu, làm đủ thứ nghề, nghe nói sau này ông ta cũng buôn bán đồ cổ, hàng điện tử…. từ Nam chí Bắc, qua tận bên Trung Quốc….chắc lại theo bà nhỏ nào sống đâu đó rồi….Vợ ông ta nhắn lên thì cũng không tiện từ chối, đành phải hẹn hai chú nhỏ tối hôm sau sẽ ghé qua. 

Hôm sau, xuyên qua mấy khu chợ mới tới được nhà Hòa Râu , xem ra ông ta chẳng chịu đầu tư cho vợ con chút nào, vẫn cái nhà cũ kỹ như xưa, bà vợ bán tạp hóa ở trước cửa. Cách đây sáu bảy năm nom chị ta còn khá đẹp, bây giờ lớn tuổi, lại cực nhọc đâm ra xồ xề, ăn mặc thì lôi thôi, thần sắc thì phờ phạc. Chị nói “tưởng chú bây giờ phát tài rồi chê chị nghèo không đến chứ…” – “chị cứ nói thế, em với anh Hòa là chỗ tình nghĩa…” – “chị nói thật với chú, chị cũng chẳng cần, nhưng còn con cái, bảy tám đứa rồi chứ không ít. Biết chú với ổng thân thiết đã lâu, chị bây giờ cũng không biết nhờ cậy vào ai, báo CA thì cũng quê mặt, thôi thì có việc này nếu nhắm được thì chú giúp chị….” 

Theo như lời bà chị thì Hòa Râu sau này đi buôn cũng có tiền lắm, nhưng cũng không mang về cho vợ con được bao nhiêu mà cho “chem chép” ăn hết cả….năm ngoái anh ta còn ghé về nhà được một hai lần, cho tiền mấy “sắp nhỏ” được chút đỉnh, còn hơn nửa năm nay thì bặt vô âm tín, mà chị cần anh ta về để bàn việc bán bớt miếng đất ở phía sau căn nhà để lấy tiền trả nợ - “sau này ổng cũng tập tành đi đào bới, mua bán đồ cổ, làm “giặc lái” gì đó, vay mượn tiền lung tung các nơi…..vừa rồi có mấy người nom rất dữ dằn như XHĐ đến tìm ổng đòi nợ, chị bảo là chuyện ổng làm vợ con không biết gì hết…” – “vậy hiện giờ chị có chút manh mối ảnh ở đâu không ?” – “khoảng nửa năm trước ổng có về nhà vài ngày, có vẻ như đang chờ ai, sốt ruột ghê lắm…..rồi một hôm nửa đêm có một người đến tìm, người này lạ lắm, chưa gặp bao giờ….họ thì thầm bàn bạc suốt đêm, sáng hôm sau thì ổng với người đó tất tả đi ngay.” – “thế chị biết họ bàn chuyện gì không ?” – chị ta hạ giọng thì thào nói “nghe nói họ đi tìm cái gì gì đó quý giá lắm” – “thế chị có nhớ người khách lạ đó hình dung ra sao không ?”, sở dĩ ĐHC hỏi như vậy vì đám buôn đồ cổ cộm cán như Tư Sơn, Trường xoắn, Ba Thời, Hải thọt…..thuộc dạng dễ nhớ, nếu là một trong những người đó thì cũng dễ lần ra tung tích. Bà chị lắc đầu quầy quậy “nhìn cái mặt gà mái của nó là chị đã thấy ghét rồi, nên không nhớ kỹ….chỉ thấy nó gầy gầy, cao cao…nói giọng miền tây thì phải.” – “thế ảnh cũng không nói với chị là đi đâu?” – “trước giờ ổng muốn đi là đi…có bao giờ nói đi đâu cho vợ con biết…?”

Trong đám buôn đồ cổ thì khó chịu nhất là Hải thọt, y người nhỏ thó, chân đi cà nhắc, mũi thẳng, môi trề, nhân trung dài thượt, cặp mắt ti hí…..đặc biệt y chỉ nhìn đời bằng một con mắt, mắt còn lại là con mắt giả nhưng người nào phải tinh lắm mới có thể nhận thấy. Bù lại y có cái trán cao đặc biệt, trán cao muốn sói cả đầu, đầu lại chỉ có vài sợi tóc lưa thưa nên nhìn giống hệt cái sọ dừa khô. Cái sọ dừa khô đó nghĩ ra biết bao mưu ma chước quỉ từng làm cả thiên hạ phải nhiều phen náo động. Tướng mạo kỳ quái như vậy nên y vô cùng khó chịu, chẳng mấy khi chịu gặp ai, nếu kẻ đó không lọt vào…độc nhãn của y thì có quỳ trước cửa 7 ngày y cũng không thèm tiếp, còn y mà đã cần đến thì có trốn ở dưới âm ty cũng móc lên cho bằng được. Tính cách quyết đoán, hành động táo bạo, dám chung dám chi nên Hải thọt dần dần có một vị trí rất vững chắc trong giới giang hồ lẫn giới kinh doanh. 

Nhà của Hải thọt nằm sâu trong một con hẻm ngoằn ngoèo bên quận…, những con hẻm đan vào nhau như mê hồn trận, nếu không biết đường thì đi lạc là cái chắc. Nhìn bề ngoài căn nhà nom rất sập xệ….nhưng nếu được bước vào bên trong thì…. “choáng” không thể tả. Trong căn nhà nội thất đều làm bằng gỗ quý nên bốn mùa đều ấm áp, cầu thang bằng Cẩm lai, nền lót thảm Ba tư, ngay phòng khách là một bộ bình phong cổ cầu kỳ, tinh xảo chắc từ thời chúa Nguyễn, hình như được dát vàng thì phải… Trên mấy cái bệ để nguyên một bộ kiếm của Nhật, dài có, ngắn có, chuôi kiếm khảm ngọc cầu kỳ. Những thanh kiếm này đã từng được tắm máu người nên Hải thọt trưng để tạo sát khí thị uy với đàn em, có cả mấy cái đĩa cổ sắc xanh biêng biếc…, Đặc biệt giữa nhà là một cái kệ gỗ được chạm trổ công phu hình những con dơi, trên đó trang trọng đặt một cái kiềng ba chân, mỗi chân là hình đầu rồng cùng đỡ một quả cầu pha lê sáng ngời, lấp lánh. Hải thọt nói “bọn ĐL trấn hai cái cột đá đầu rồng ở ngoài trung tâm cao cả hai chục mét hòng đè bẹp linh khí của người dân chốn này, quả cầu linh thiêng này là để hóa giải hai cái cột đá đó, đây chỉ là một phần, phần còn lại anh đã sai mấy thằng đệ nửa đêm mang chôn sâu xuống dưới chân hai cái cột đá rồi”. 

Nhà toàn đồ trân quý như vậy tất nhiên Hải thọt không thể ở một mình, cũng không thể ở chung với đàn bà…..y có hai đệ tử ruột lúc nào cũng bên cạnh như hình với bóng. Một người nhìn cũng dị dạng y như Hải thọt, lại có tật nói cà lăm, nhưng nổi tiếng có tài săn đồ giả cổ để bán cho khách nước ngoài nên có biệt danh là Nghĩa “cổ”. Còn người kia là dân anh chị chính hiệu, từng giết người, trước giải phóng bị kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo…đến sau năm 75 nghiễm nhiên trở về, chẳng biết tên gì, chỉ nghe gọi là “Ba Già”. Nói chung cả cái xóm nghèo này sống nhờ vào Hải thọt, y giống như vua một cõi, chính quyền muốn chạm đến y không phải chuyện dễ vì cả xóm đều chịu ơn của y cả. Ngoài việc buôn đồ cổ, đá quý….y còn làm cả những việc như bảo kê sòng bài, cho đệ tử ghi đề, cho vay trả góp, cầm đồ, đòi nợ mướn….. “cả xóm là gà nhà” như vậy nên có người lạ vừa đặt chân đến đầu hẻm là tin đến tai Hải thọt liền. 

ĐHC chắc cũng may mắn lọt vào “độc nhãn” của y nên mới được ngồi trên cái sập thất bảo, bên cái bàn bằng gỗ đàn hương, trầm được đốt lên nghi ngút. Sau khi chủ khách ngồi yên vị, Hải thọt mới vào trong mang ra một cái cái giỏ mây nhìn rất lạ, y lấy trong giỏ ra một bình rượu đen sì rất cổ quái, có cái quai vừa là tay cầm vừa là cái miệng để rót rượu. Hải thọt nói “chú nhìn kỹ có thấy cái chữ ký này không ….?”, y đưa cái bình sát tới, ĐHC nhìn thấy trên thành bình quả là có một cái chữ ký lờ mờ….cái bình rượu này còn được đóng nguyên xi, buộc một sợi dây đỏ, có đóng mộc hẳn hòi, chắc là quà tặng gì đó của các cấp lãnh đạo…. không hiểu tại sao Hải thọt lại có được. Hải thọt mở nắp hũ rượu, hương thơm tỏa ra nồng nồng, y nói “đây là rượu của xứ Á Căn Đình….chú có còn nhớ anh Tư không ?” – ĐHC gật gù cái đầu, có biết bao nhiêu anh Tư trong cõi đời này, làm sao mà nhớ hết được? Hải thọt nói tiếp “anh Tư hồi đi công cán ở bển, được chính tay bộ trưởng ngoại giao tặng, nhưng ảnh không uống rượu…nên tặng lại cho anh đó…”. Thì ra Hải thọt bây giờ đã chán chuyện khoe của mà lại bắt đầu sính mùi khoe các mối quan hệ có tầm….“đại bác”. Rượu Á Căn Đình uống so ra không khác gì rượu Gò Đen là mấy, nhưng nhờ có thêm chữ ký của ngài bộ trưởng nên dường như ngon hơn hẳn. Bộ ly uống rượu cũng rất đặc biệt, đó là bộ ly của Nhật được mạ vàng thật, hoa văn tinh xảo, bình thường trong đáy ly trắng muốt, nhưng khi rót rượu vào một hồi sẽ hiện lên hình chân dung một kỹ nữ cực đẹp được vẽ theo phong cách cổ của Nhật, 6 cái ly là sáu hình khác nhau, mỗi cái một màu, vô cùng lộng lẫy. Uống được hơn nửa bình rượu thì cũng đã hơi say ngà ngà, Hải thọt lại lấy ra một bộ ly pha lê của Tiệp rất đẹp, y nói “ bây giờ uống đến loại rượu này đố chú biết là rượu gì”. Y lấy ra một chai rượu trong veo, chẳng có nhãn gì cả, rót vào ly, cho thêm đá rồi nói “rượu này phải uống lạnh mới thật là ngon.” Rượu này rất cay và nặng, mùi rất nồng đậm, đích thị là Votka của Nga chứ không sai, Hải thọt cười khà khà “chú uống loại rượu này nhiều rồi làm sao mà lại không biết, chai Votka này là của Nga chính hiệu đó”, y lại dọn ra một ít thịt mỡ muối, dưa chuột, pho-mát…nhâm nhi một hồi, Hải thọt mới khề khà “nghe nói chú có quen với băng Sông Đông thì phải….”, thì ra phải đợi uống say muốn mềm người rồi y mới bắt đầu nói vào việc chính….. 

Khi Thành Cát Tư Hãn đánh xuống Châu Âu, chiếm được Moskva, đã thiêu hủy hoàn toàn thành phố và giết chóc hầu hết dân cư, sau đó vượt sông Đông, đánh tan 80 vạn quân của vua Ki-ép, bắc ván lên đầu quốc vương và các vương hầu bại trận để ngồi uống rượu, vợ con của họ đều bị bắt làm nô lệ. Thế nhưng đội quân bạo tàn này tuy vượt được sông Đông, vẫn vấp phải sức kháng cự mãnh liệt và đã không thể chinh phục được vùng đất này. Trên thảo nguyên bao la có một sắc dân gọi là dân Cô-dắc, dân Cô-dắc cũng “ăn ngủ trên mình ngựa”, cũng thiện chiến không kém gì quân Mông Cổ còn gọi là quân Tarta. Khi chàng trai trẻ bất khuất Oxtap bị mang ra hành hình giữa quảng trường, bị bẻ gãy đến đốt xương cuối cùng đã la lớn “cha ơi, cha có biết hay không?” thì Tarax Bunba đã xuất hiện…..cuộc chiến giữa dân Cô-dắc và quân Tarta kéo dài hàng thế kỷ….Dân Cô-dắc trở nên nổi tiếng từ lúc đó, một sắc dân “chịu chơi”, sẵn sàng sống chết vì danh dự….Băng Cô-dắc ở SG tập hợp những người thời trước từng đi lao động ở vùng Sông Đông. Khác với các băng nhóm Hải Phòng, Nghệ An hay Quận tư, Quận bảy…. có những hoạt động bảo kê, cờ bạc, buôn ma-túy thậm chí cướp của giết người, nhóm này chỉ chuyên buôn hàng đường dài từ VN qua Nga và tất cả các nước thuộc khối Đông Âu cũ. Nhóm này có tầm quan hệ vô cùng rộng lớn trải dài từ VN qua tận Nga, Ukraina, CH Séc, Ba Lan….trong nhóm có những đại gia tiền nhiều hơn nước, có cả tàu viễn dương, sà lan, tàu kéo….Tiền nhiều, chịu chơi, băng Sông Đông ngày càng có tiếng, chắc Hải thọt đang muốn đánh hàng hay người qua Đông Âu nên mới tính tiếp cận với nhóm này. Hải thọt gằn gằn “bọn Sông Đông ỷ có tàu lớn, thường tập kết hàng lậu ngoài khơi xa, thậm chí mua đứt cả một hòn đảo để chứa hàng….anh cần đến chú chính là muốn ra hòn đảo này, muốn chú đến đó cho anh một chuyến.” Nghe Hải thọt nói đến đây, ĐHC bất giác nhớ đến hôm còn ngồi ở nhà Hòa Râu, lúc đó vợ y cũng đề cập đến một hòn đảo “chị lén nghe hai người nói chuyện, họ bàn tính ra đảo gì đó… nguy hiểm lắm nên hình như còn tính rủ thêm một người nữa.” Nói chuyện đến đây thì cô con gái lớn của Hòa Râu đi làm đâu đó về tới, cô ta giống cha nên thật là đẹp, sống mũi thẳng băng, da trắng, môi đỏ, ước chừng mười tám mười chín tuổi. Cách đây mấy năm còn là một cô bé nhỏ xíu, bây giờ đã lớn, trở thành một thiếu nữ thật xinh xắn. Cô bé nhoẻn miệng cười, gật đầu chào, một lát sau ra thì thầm cái gì đó với mẹ, chị ta liền nói “con Bé hai nói nó có photo được một quyển tập ghi chép gì đó của ổng, không chừng chú xem có thể tìm ra được cái gì chăng.” Quyển tập của Hòa Râu ghi chép chi chít, vẽ hình lung tung mà cô ta không vứt vào sọt rác, mang đi foto rồi cẩn thận giữ lại thì cô bé này hay thật.… Hòa Râu bỏ mặc vợ con phải tự bươn chải để kiếm sống, trong thời buổi khó khăn ở khu xóm nghèo mà mấy cô con gái vẫn còn giữ mình được như vậy cũng là quá quý rồi. Cô ta tên Trường Nhật Loan, còn có thêm cô em nhỏ hơn một tuổi, hiện đang đi học,…..hai cô này là con riêng của Hòa Râu. Nhà có một cậu con trai nữa, con riêng của bà vợ, làm nghề sửa xe honda tuốt ngoài đầu hẻm. Còn Tấn, Tài và mấy đứa em nữa là con chung của hai người…..Bà chị này hẳn phải là người có khí lượng rất rộng mới quản nổi một bầy con nhiều dòng như vậy. Quyển tập của Hòa Râu viết vẽ lung tung, nghiên cứu cả đêm cũng không hiểu gì mấy. Hình như y diễn tả một vùng đất hoang sơ nào đó, có những ký hiệu, ám hiệu mà chắc phải đến tận nơi may ra mới rõ. 

Hải thọt muốn ra tận ngoài đảo để điều nghiên thực lực của băng Sông Đông, sau đó mới tính chuyện lớn hơn nữa. Đó là cái y nói ra ngoài miệng, còn cái chuyện bên trong là gì thì chỉ có y mới biết rõ. Thay vì đường đường chính chính đàm phán với băng Sông Đông, Hải thọt lại muốn “điều nghiên” trước thì chứng tỏ mưu sự lần này chắc là phải lớn. Y nói “hòn đảo này còn gọi là “đảo Vương” có rất nhiều hang hốc, vực sâu….anh có cái bản đồ đây cho chú mang về xem trước”. Hải thọt lấy trong người ra một tờ giấy ố vàng, trải ra trên bàn – ĐHC nhìn vào bỗng giật mình vì trong quyển tập của Hòa Râu cũng có vẽ một cái hình giống y như vậy. Hôm sau ngồi xem kỹ và so sánh tấm bản đồ và quyển tập thì nhận ra Hòa Râu đã đến hòn đảo này nhiều lần rồi, nhiều chỗ y ghi chú thêm rất kỹ mà trong tấm của Hải thọt không có. Xem ra Hải thọt không hẳn là chỉ muốn “điều nghiên” địa điểm tập kết hàng lậu của băng Sông Đông, sâu xa bên trong chắc còn nhiều lý do khác nữa….

Hôm đó ngồi trong một cái quán khá sang bên cạnh bờ sông trên đường N.A, Trịnh Cao Nhân vô cùng vui vẻ. Không vui sao được khi chuyến hàng vừa rồi y trúng quả đậm. Hai “kông” về đến cảng Hải Phòng thì chỉ có “kông” của y là còn nguyên vẹn, “kông” còn lại của đám SG chỉ còn là cái “kông” rỗng tuếch, hàng bên trong đã biến mất từ hồi nào, một đại gia ở SG ôm đầu máu, lỗ hàng mấy tỷ…. Chỉ có Trịnh Cao Nhân là biết “hàng đi đâu về đâu…”. Thần thông quảng đại như Tề Thiên Đại Thánh cũng chưa chắc đã làm được việc đó, nhưng Trịnh Cao Nhân thì lại làm được, làm dễ dàng, làm ngọt xớt,…..Có làm được thì bây giờ mới có thể ung dung ngồi đây uống cả chai Votka ngon tuyệt. Rượu ngon thì có đủ loại, thứ gì cũng có…Chivac, Na pồ, XO, Scot….có chai giá hàng chục triệu, nhưng y chỉ thích uống Votka Nga chính hiệu, uống để nhớ đến cái thời phải ăn đói, mặc rét lúc mới qua Nga, cái lúc phải giấu trong áo khoác cái chai nhỏ xíu để lúc quá lạnh lấy ra uống cho ấm bụng. Lò mò ra đến tận Rostov vùng Sông Đông, làm đủ thứ nghề, nhiều lúc tưởng sắp về chầu ông vải rồi thì bỗng nhiên gặp ân nhân cứu mạng….người đó cũng mang họ Trịnh. 

Trịnh Cơ Đồ lúc đó chuyên đánh hàng quần jean, áo gió qua Nga, Đông Đức cũ…..với con mắt sành đời, y nhìn thấy ở Trịnh Cao Nhân tuy con khổ sở nhưng dám làm, dám chịu, dám liều…cái phẩm chất cần thiết cho những phi vụ làm ăn xuyên biên giới. Thời gian đã chứng tỏ Trịnh Cơ Đồ không lầm, Trịnh Cao Nhân ngày đêm tận tụy không mệt mỏi từ VN, qua Nga, Đức, Séc, Ba Lan…hết đánh hàng lại đưa người, dần dần được Bố già họ Trịnh đưa lên những vị trí có tầm quyết định, thâu tóm được bao mối lợi. Đến khi vào hồi các “đôm” đổ sụp, Trịnh Cơ Đồ bị chính phủ Nga truy nã phải trốn chui nhủi qua Mỹ thì Trịnh Cao Nhân tỏ ra hơn hẳn đàn anh một bực, chạy tuốt về VN, ôm theo mấy trăm ngàn đô đủ để tung hoành ngang dọc trong thời mở cửa. Sẵn các mối quan hệ, lại rành đường đi nước bước, Trịnh Cao Nhân chiêu mộ lại các đàn em sa cơ lỡ vận, nối lại các mối quen biết với các bậc “cha chú”, lại lấy được một cô vợ con ông thứ trưởng….tạo nên tiếng nói có tầm đủ mạnh để các đàn anh bên Nga tin tưởng giao cho nhiều tiền của để đầu tư đủ thứ… 

Vì thế nên Trịnh Cao Nhân mới vỗ vai ĐHC mà lên mặt giảng giải “Tây tụi nó chê người Việt mình không biết ước mơ cũng phải….sống không thể cứ cam chịu mãi, phải biết mơ làm giàu chứ…phải biết “ở Vi-la, đi xe Von-ga, lấy vợ gái Nga” chứ lỵ…. Chú cứ chịu khó theo anh một thời gian, chú có sẵn nhiều mối quen biết, quen cả với con cái mấy vị lãnh đạo…cái này là quý lắm đó, ít bữa nữa anh sẽ hẹn với chú dẫn con ông …. đến, mình sẽ đãi nó ở nhà hàng sang trọng bậc nhất, không cần nhờ vả gì cả, chỉ cần cho thiên hạ thấy là được rồi.” 

Trịnh Cao Nhân đúng là quen biết nhiều thật, ngồi uống với y mà cứ hết người này đến chào, người kia đến bắt tay nồng nhiệt. Con người gặp lúc được thời được vận thì “phú tại lâm sơn hữu viễn thân”, ai cũng muốn làm quen, ai cũng muốn tay bắt mặt mừng. Hôm ấy trời thật đẹp, làn gió thổi hiu hiu mát rượi, nhìn ra sông thấy sóng nước lăn tăn, ánh đèn sáng lung linh mờ ảo. Thỉnh thoảng có mấy chiếc du thuyền đèn rực rỡ chạy ngang qua tiếng nhạc thật ồn ào náo nhiệt. Sài Gòn về đêm dường như không ngủ, đường phố hầu như lúc nào cũng có xe chạy, người đi. Khoảng gần nửa đêm thì có tiếng xe ôtô đỗ xịch trước quán, người mới vào đi lên lầu, tiến thẳng đến bàn của Trịnh Cao Nhân, y đứng dậy kéo ghế đon đả mời ngồi, quay qua giới thiệu với ĐHC “ Đây là tân giám đốc cty cổ phần Thiên Đường….một người rất nổi tiếng, bảo đảm chú đã từng nghe nói đến !” 

Người mới đến là một người đàn bà…..một người đàn bà thật là đẹp,…đẹp không thể tả…. Mắt to và sâu, mi dài đen mượt, da thật trắng, mũi thật cao, đôi môi mới thật là gợi cảm…..mái tóc mới thật là tha thướt….ĐHC cầm ly rượu trên tay mà ngơ ngẩn đến quên cả uống, khi Trịnh Cao Nhân cụng vào ly một cái cốp mới giật mình sực tỉnh, vội nói “xin chúc mừng, xin chúc mừng …. bà… à …cô tân giám đốc….”. Nghe ĐHC cà lăm như vậy cô ta bất giác bật cười - nụ cười mới dễ thương làm sao – cô ta nói giọng khàn khàn nghe rất lạ “em tên Âu Dương Hà Hồng Ngọc, tức “Ngọc Ruby”…. 

“Ngọc Ruby”…. “Ngọc Ruby”….cái tên này đã từng nghe nhắc đến, thậm chí được nhắc đến rất nhiều lần rồi. Hồi đó “Hoàng mọi”, một nhân vật cộm cán trong giới buôn hàng đen ở Nga trong chuyến về VN đã đến ĐHC để nhờ tìm mấy món đồ đặc biệt, trong lúc uống rượu có nhắc đến việc y có một người em gái tên “Ngọc Ruby”làm ăn rất giỏi, hiện đang ở bên Nga, quen biết rất nhiều. Y có vẻ rất khâm phục cô em này….ngồi nói chuyện mà cứ ca ngợi suốt, còn nói khi nào có dịp sẽ giới thiệu với ĐHC. Nhưng chuyện đó đã không bao giờ xảy ra… “Hoàng mọi” bị một nhóm nào đó thanh toán, lãnh một băng tiểu liên ngay trước cửa nhà chết không kịp kêu một tiếng. Nước Nga thời cải tổ các băng đảng bắn giết nhau như ngóe, “Hoàng mọi” chết cũng là việc thường tình, sự việc nhanh chóng rơi vào quên lãng…Vây mà hôm nay tình cờ lại gặp “Ngọc Ruby”, cô ta thật giống anh như đúc. 

Lần gặp này không nói được gì nhiều vì “Ngọc Ruby” chỉ ghé qua giây lát để nhận chỉ thị gì đó của Trịnh Cao Nhân rồi ra sân bay ngay. Xem ra cái Cty cổ phần “Thiên đường” gì đó đã bị Trịnh Cao Nhân nuốt chửng từ lâu, “Ngọc Ruby” chỉ là bù nhìn mà thôi. Có Trịnh Cao Nhân ở đó, ĐHC cũng không dám nói với cô ta việc mình đã từng quen biết “Hoàng mọi” mà chỉ hẹn khi nào có dịp sẽ nói chuyện sau. 

Tiền bạc làm con người trở nên hùng mạnh, tiền bạc đầy túi làm người đàn ông trở nên vô cùng tự tin….anh ta cảm thấy dường như có thể chinh phục cả thế giới. 

Không có tiền, không nhà không cửa mà vẫn tự tin được thì người đó phải vô cùng hiếm. Đó chỉ có thể là một thầy tu trên núi cao mà thôi… một con người không còn bất cứ ràng buộc nào với cõi đời nữa. 

Tư Gồng cũng là một con người như vậy, nhưng y không phải là một thầy tu, y lại đang ở SG…. Y đã từng là một tỷ phú, bây giờ trở thành tay trắng. Y đã từng có một người vợ rất đẹp, rất sang, những đứa con thông minh, xinh xắn dễ thương, ….bây giờ trở thành cô độc. Đã từng có tất cả, và rồi mất tất cả, hơn mười năm bóc lịch, trải qua biết bao gian khổ, khi trở về còn được căn nhà hương hỏa của bố mẹ để lại…thế cũng là quá may mắn rồi. Căn nhà này chỉ được ở chứ không được bán, là căn nhà nhỏ để dòng họ thờ cúng, Tư Gồng nghiễm nhiên trở thành “con chó giữ nhà”. Hàng tháng y được hưởng chút đỉnh từ việc cho thuê mặt tiền phía trước bán hủ tiếu…cũng đủ để sống lay lắt qua ngày. ĐHC ngồi uống rượu với y trong một cái quán nhỏ, mồi chỉ là một dĩa gỏi vịt, một tô cháo loãng. Chủ quán là một đại tá quân đội đã về hưu, ông ta cũng thích sống đạm bạc, thích tự mình bán cháo vịt sống qua ngày. Tư Gồng chưa tới năm mươi mà nhìn y tưởng chừng đã sống ….vài ba thế kỷ. Y thật khắc khổ, thật cằn cỗi, thỉnh thoảng lại ho khan khan, nhưng y vẫn cố tỏ ra rất bình thản, nói chuyện rất rành mạch, thong thả. Y đang cố gắng lãng quên quá khứ….nhưng cũng chẳng tìm kiếm gì ở tương lai mà chỉ muốn “theo dòng nước chảy” trôi cho hết cuộc đời…y là em của Hải thọt. 

Hải thọt muốn đánh ván bài “thí chốt bắt xe”, có lẽ y đang chọn “chốt”. Đàn em của y chốt rất nhiều, đó là những tên dám xăm lên ngực chữ chốt to tổ chảng….nhưng chốt mà đổi chốt thì cũng như không….? Chốt phải đổi xe, đổi pháo, con chốt đó phải là con chốt quý, phải đáng đồng tiền bát gạo. Bởi vậy khi cầm một xấp ra trao cho ĐHC và Tư Gồng, Hải thọt nói “sáng mai hai chú ra đảo cho anh, với kinh nghiệm của hai chú thì phải làm những gì anh không cần phải chỉ dẫn cặn kẽ…” 

* * *

Tàu đi từ sáng sớm khi mặt trời còn chưa mọc, đi được một lúc thì nhìn xung quanh toàn là biển nước mênh mông chẳng còn thấy đâu là bờ bến nữa. Tàu nhỏ nên lắc rất dữ, chồm lên, chúi xuống dập dồn liên tục. Đã lâu không đi biển nên một lúc sau ĐHC cảm thấy người như ngất ngư, ngầy ngật. Có lúc tàu đi vào vùng đầy sương mù trắng xóa, không còn thấy gì nữa, cứ đi như vậy, ra đến đảo thì trời đã muốn hoàng hôn rồi. Nơi đây không phải là một hòn đảo riêng biệt mà là cả một quần đảo, rải rác cả chục hòn chứ không ít. Tuy nhiều đảo như vậy nhưng toàn là đảo trọc, đảo hoang cả, chỉ có một hòn đảo là có cây xanh nhiều, tạm có người ở. Thiên nhiên thật tuyệt vời, bầu trời bao la, biển xanh mênh mông, non cao hùng vĩ. 

ĐHC và Tư Gồng trong vai dân đi thu mua vi cá mập, đỉa biển, ghé vào một cái quán nhỏ ngồi tạm….Mặt trời bắt đầu lặn xuống, to như cái lồng bàn, nắng chiếu vàng như nghệ, cả một không gian bao la nhuộm một màu vàng rực. Làng chài nhỏ này thật êm đềm, cuộc sống thật thanh bình. Thấy có khách lạ đến, bà chủ quán già lọm khọm nhưng cũng tỏ ra sởi lởi, lẩy bẩy mang ra một đĩa khô cá mối đặc sản, một tô cháo hào và một chai rượu….bào ngư thứ thiệt. Sau khi nói vài câu bâng quơ, bà nói nếu hai người có cần ở lại vài ba ngày thì có thể tạm ở nhà bà…. Bàn bên cạnh có mấy người dân chài đang ngồi, họ mới đi biển về, màu da còn đỏ rực. Mồi họ nhậu là vài con khô cá cá phèn, cá đổng, một người khá lớn tuổi, có bộ râu cá chốt quay qua hỏi “phải ông Hùng giới thiệu mấy chú tới đây không ?” – Mặc dù không biết “ông Hùng” là ai nhưng ĐHC cũng gật gù, thấy thế ông ta hồ hởi nói tiếp – “mấy chú muốn thu mua vi cá, đỉa biển, tôm hùm, cá mú,….có thể gặp Qua, trước đây ông Hùng cũng đã giới thiệu nhiều người xuống….” 

Thu mua vi cá thì chưa vội nhưng ĐHC nhờ ông ta lấy một chiếc ghe nhỏ chở đi lòng vòng quanh hòn đảo. Ông già còn gọi là ông Hai Lẹ tỏ ra còn rất nhanh hẹn, mạnh khỏe, đúng típ dân miền biển. Ghe chạy một vòng xung quanh đảo chính. Hòn đảo này thật đẹp, gần bờ có rất nhiều cây dừa cao vút, bãi cát dài trắng mịn. Trên đồi còn có nhiều rừng cây rậm rạp, đá lởm chởm đổ từ trên đỉnh cao xuống tận bờ biển nom rất hoang sơ. Phía dưới là những ghềnh đá nhấp nhô, làn nước xanh trong đến mức trời đã về chiều mà vẫn nhìn thấy lờ mờ những đàn cá tung tăng bơi lượn trong những rặng san hô...quanh hòn đảo chim chóc rất nhiều, chủ yếu là mòng biển trắng, nhàn hồng, hải âu….tụ tập đông đảo, kêu chí chóe cả vùng. Tính ra chỉ có hơn trăm nóc nhà, tập trung làm hai khu, cũng có vài căn nhà ở rải rác….Hỏi thăm về “đảo Vương” thì ông già miền biển lắc đầu nói chưa từng nghe đến. Ông ta còn nói “có đi cả đời cũng không hết hang hốc trên cả chục hòn đảo này”.

Buổi tối đành ở tạm trên gác xép nhà của bà chủ quán, từ đây có thể nhìn ra khu bến cảng, có thể quan sát được thuyền bè ra vào. Nhà thật neo đơn, chỉ có bà chủ và một đứa bé khoảng bốn năm tuổi. Bà chủ nhà tuy già nhưng nom cũng còn rất khỏe, chắc là nhờ không khí miền biển. Đứa con trai bà đi biển bị bão đã chết, cô con dâu sau đó cũng bỏ về đất liền, bây giờ một mình bà phải buôn bán cắc củm để nuôi thằng cháu còn nhỏ dại. Bà ta từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ vào đất liền, không hình dung ra đất liền là như thế nào. Cả đời chưa nhìn thấy cái xe ôtô nó ra làm sao…?! Chỉ mơ một lần được về đất liền cho Chưa ở được bao nhiêu mà đã có thể cảm nhận được tâm hồn con người ở nơi này thật mộc mạc, thật hoang sơ. Tư Gồng tỏ ra rất khoan khoái, từ bao lâu nay chưa bao giờ thấy y vui như vậy, ngả người ra là y ngủ ngay lập tức. ĐHC trằn trọc hoài không ngủ được, gần nửa đêm thì nghe bà già đưa võng ru thằng cháu ngủ, tiếng ca thật là buồn bã, nghe lời ca một hồi, bất giác cảm thấy vô cùng kinh ngạc, lại càng trằn trọc mà ngồi dậy lắng nghe….nghe mãi….. 

Bà già ca rằng : 

“Mấy năm nay nợ trần đeo đuổi

nơi xứ người tạm gởi tấm thân,

về thăm tổ quán một lần,

có hay người cũ dấu chân nơi nào

Vọng xa xa thấy nhà tổ phụ

Dưới lùm cây bao phủ xung quanh

Cây ơi sao lại xụ nhành

Cành khô úa héo, vắng tanh bóng người

Đứng ngơ ngẩn bên đường cổ tán

Nẻo vô nhà đầy lá héo khô

Xưa kia xe ngựa ra vô

Dập dìu những khách rượu Tô thị Tần

Nay dấu ngựa về rong đã đóng

Khách thi Tần đâu vắng ai ôi

Trớ trêu chi lắm hở trời

Đổi xây, xây đổi khiến người châu sa

Kìa trước mặt vườn hoa chốn cũ

Mấy nhành hương lá rủ bông khô

Hường ơi, có biết có ngờ

Có hay tiểu chủ dật dờ về thăm

Nhớ những thuở vầng trăng tỏ rạng

Với một nàng cùng bạn thiên phương

Nhìn trăng rồi lại xem hường

Trăm năm thề quyết một lòng cùng nhau

Nay dấu ngựa về rong đã đóng

Biết người xưa trôi dạt nơi nao

Hay là cái sợi xích thằng

Đã xe sửa trấp nâng khăn nơi nào ?!

Bước vô nhà trước sau lạnh ngắt

Nhìn cảnh xưa như cắt tấm lòng

Tứ bề lưới nhện bủa văng

Lòng ta bi thảm vui chăng hởi trời

Lau giọt lụy vào nơi chốn khách

Thơ xưa đề trên vách nơi nao…

Bốn bề cô quạnh chiêm bao

Này nơi mẹ thác chỗ xưa em nằm

Chân rảo bước ra thăm phần mộ

Thấy xanh rờn ngọn cỏ phất phơ

Mẹ ơi ! chín suối có ngờ

Con nay khôn lớn dật dờ về thăm

Nghe tiếng dế đờn nam lảnh lót

Hay vì ta mà khóc dế ơi

Hay vì chích bạn lẻ đôi

Hay vì lạc ở chín nơi mộ phần.

Ngước lên nhìn thấy bóng trăng

Khăn lau nước mắt, chấm băng ra về…!”

Sáng hôm sau, lại tiếp tục thuê ghe của ông già Hai Lẹ đi quanh mấy hòn đảo hoang nữa. Hỏi thăm về Hòa Râu, ông ta nói là có gặp, nhưng họ không ở dưới làng chài mà lại lên tuốt trên núi, ở trong một ngôi chùa nhỏ “không lẽ ở đây cũng có chùa ?” – “có một ngôi chùa rất cổ xưa, chắc cũng cả trăm năm rồi, gọi là chùa La-hán vì hồi xưa chùa chỉ có duy nhất một bức tượng La-hán” – “thế họ có đi đâu không” – “họ cũng mướn qua chở vòng vòng mấy hòn đảo hoang như mấy chú vậy”. – “thế trên chùa có những ai” – nghe hỏi tới, ông già lắc đầu quầy quậy nói “Qua khuyên mấy chú đừng có lên đó….hồi xưa ở đó có một vị sư ông cũng đạo đức lắm, khi ông mất rồi thì ngôi chùa bỏ hoang….những người sau này đều không phải là sư, mà chỉ là dân tứ xứ về, họ tuy khoác áo thầy tu nhưng cũng không khác người thường là mấy”. 

Thử ghé vào một đảo hoang, trên đảo đầy những vỏ sò, vỏ ốc, san hô, lau sậy mọc um tùm cao quá đầu người,….không gian thật là vắng lặng, hoang sơ. Lần theo các vách đá đi lên triền núi cao, vào trong một vài hang động cổ sơ chưa từng có người đặt chân đến. Những măng đá, nhũ đá, trụ đá tạo cho hang động những đường nét âm u, huyền bí lạ thường. Qua năm tháng nhiều nhũ đá kết lại với nhau thành những cột đá trông như những cây cổ thụ sừng sững. Những phiến đá mọc ra trông giống như các vỉa nấm dại. Trên vòm hang cao vút là các nhũ đá phản quang lấp lánh. Trong hang còn có cả các mạch nước ngầm, dòng nước trong mát uốn lượn quanh những tảng đá, những cột nhũ đá lô nhô, cảnh vật thật là tuyệt đẹp. 

Trong mấy ngày liền đi khắp mấy hòn đảo hoang mà chẳng thấy hòn đảo nào giống với hòn đảo trong bản đồ của Hải thọt cả, không lẽ hòn đảo trong bản đồ đã bị chìm mất….. 

Vòng trở lại đảo chính, qua một khúc quanh thấy một cái bời kè thẳng tắp chạy thẳng vào trong là trụ sở của Bộ đội biên phòng. Theo như lời ông già Hai Lẹ thì có khoảng vài chục người lính trẻ đóng quân trên đảo này, mỗi khi có việc gì họ đều giúp những người dân ở đây rất nhiệt tình. ĐHC và Tư Gồng nói ông Hai Lẹ cho dừng ghe rồi đi thẳng vào trụ sở. Trời đã gần tối nên bên trong khá vắng vẻ, chỉ có hai người đang ngồi đánh cờ. Một người còn rất trẻ, cởi trần trùng trục, vai rộng ngực nở nom rất lực lưỡng, tự giới thiệu là trưởng đồn biên phòng, tên là Tâm. Anh ta tỏ ra rất cởi mở, hào sảng, nói đã hết giờ làm việc nhưng nếu có việc gì cần kíp thì sẵn sàng giúp đỡ. ĐHC chỉ nói là đi tham quan đảo nên ghé vô thăm, gửi biếu mấy anh hai tút thuốc vinataba…..thử đưa tấm bản đồ cho Tâm xem, anh ta xem xét một hồi rồi nói quần đảo ở đây không hề có hòn đảo nào giống tấm bản đồ này, nhưng cách đây độ sáu mươi hải lý còn có khoảng vài ba hòn đảo nữa, có một hòn khá giống nhưng không phải tên là “đảo Vương” mà người dân gọi là đảo “Ma”, hòn đảo này trước đây vài chục năm nghe nói cũng có người ở, cây cối, thú rừng rất nhiều, sau một trận bão quét, hầu như tất cả đều chết hết….sau đó lại có dịch bệnh, người chết, gia súc chết, cây cỏ vàng úa….bây giờ đã trở thành một hoang đảo thực sự, lâu rồi không ai dám đến ở nữa. Dân chài đồn đại trên đảo những người chết oan ban đêm đi lang thang kêu khóc thuyền bè đi xa cả vài hải lý cũng còn nghe…lâu dần hòn đảo có tên là đảo “Ma”. Trung úy Tâm cũng chẳng buồn hỏi về nguồn gốc tấm bản đồ lẫn mục đích của ĐHC là làm gì….chắc anh ta nghĩ có hỏi cũng bằng thừa, không hỏi thì không phải nghe lời nói dối…. 

Buổi tối hôm đó, ngồi lai rai trong quán để nghe ngóng tình hình, ĐHC thử hỏi bà chủ về bài ca thì bà ta trả lời cũng không biết rành lắm, chỉ nghe hồi xưa mẹ hát ru rồi bây giờ hát lại chứ không rõ nó có nguồn gốc như thế nào. Người viết nên những ca từ này hẳn không phải là tầm thường, còn cái tên “đảo Vương” nữa, không biết nó còn có hàm ý gì trong đó…? Mới có mấy ngày mà Tư Gồng quen biết muốn hết cả xóm chài, y đi khắp nơi, buổi tối cũng không về lại quán mà ngủ lại trên một chiếc ghe chài nào đó…. 

Tối hôm đó, Tư Gồng kể trên đảo có mấy tay giang hồ nhưng đã rửa tay gác kiếm, quyết tâm tu chí thành người lương thiện, ra sống ngoài này đã hơn chục năm, gặp được Tư Gồng thấy hợp nên kết làm anh em, họ kể cho y nghe tường tận cách mấy tàu lớn đánh hàng như thế nào vì trước đây họ cũng đã từng tham gia.…chuyện này rất đơn giản, khoảng ba bốn tháng một lần, khi tàu lớn về đến hải phận, theo như hẹn sẵn sẽ có từ hai đến ba ghe nhỏ giả làm ghe đánh cá ra cặp sát kết hàng, sau đó chở thẳng về đất liền. Chỉ hôm nào có động thì mới chở ra giấu ngoài đảo “Ma”, nhưng cũng chỉ để vài ngày là dọn đi ngay. Chính vì thế đám buôn lậu mới tung tin ma quỷ để làm dân đảo sợ, không dám ra đó. Hiện giờ cũng chưa biết là băng nhóm nào thường họat động ở nơi này. 

Sáng hôm sau, lại mướn ghe của ông già Hai Lẹ đi ra đảo “Ma”, ban đầu ông ta từ chối, nói là ra đó nguy hiểm lắm, nhưng năn nỉ mãi cuối cùng ông ta cũng đồng ý với điều kiện là ông ta không lên đảo mà chỉ ở dưới ghe – “theo Qua được biết thì đã có khá nhiều người đã bỏ mạng trên đảo trong hơn mấy chục năm qua, oan hồn họ còn vất vưởng chưa siêu thoát….trên đảo còn có nhiều bí mật gì đó mà lâu lâu cũng có người trong đất liền ra tìm kiếm nhưng về được toàn mạng cũng đã là may rồi, còn dân chài trên đảo nghe nói đến là tránh xa” - Đi khoảng hai tiếng thì ra đến đảo, hòn đảo thật quạnh hiu, trống vắng, chiếc ghe của ông ta là ghe nhỏ nên có thể dễ dàng luồn lách trong các con lạch nhỏ giữa các tảng đá. Trên bờ đầy cát sỏi, các mảnh vụn vỏ sò, ốc rải đầy. Cũng có một vài bụi cây gai um tùm, một vài gốc cây to đã bị đốn ngang còn trơ vơ gốc, hiển nhiên nói hòn đảo này không có người là một sai lầm. Tư Gồng thản nhiên tiến vào đảo, y đã trải qua bao nguy hiểm chết người, hòn đảo này đâu có là gì…. 

Đảo này hang hốc nhiều thật, đúng là địa điểm lý tưởng để tập kết hàng lậu, ĐHC và Tư Gồng vào thử một vài cái hang ở lưng chừng vách núi, len lỏi qua những trụ đá, nhũ đá xù xì lởm chởm với nhiều hình dạng …. đường đi ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, vách hang thẳng đứng cao vun vút, vào sâu bên trong thấy những hang động này đều thông với nhau, chia đi rất nhiều ngả khi thì chúi xuống lòng đất , khi thì xuyên lên trên cao, đi sâu mãi có thể bị lạc trong mê hồn trận không có đường ra. Có nhiều nơi nhũ đá nhọn lểu như những mũi giáo, không cẩn thận có thể bị đâm trúng đầu hoặc vai, đá trong lòng hang thường rất trơn, không cẩn thận bị ngã là gãy chân tay bị thương như bỡn. Bên trong sâu thẳm tối mờ mờ, có lúc tối đen, sau đó lại bất ngờ chói sáng vì những lỗ đá ẩn hiện trên trần động. Những giọt nước từ những lỗ đá này nhỏ xuống thánh thót từng nhịp, từng nhịp tạo thành những vũng nước nhỏ trong veo như nước tinh khiết, nếu có khát cũng đừng uống vào vì nhiều khi chảy xuyên từ trên xuống nước đã bị nhiễm độc. Nhiều chỗ phát hiện thấy có xương động vật, xác tắc kè, chứng tỏ nơi này trước đây cũng có khá nhiều thú vật nhưng một lý do nào đó đã khiến chúng rời bỏ đảo. Ra bên ngoài, Tư Gồng cẩn thận lấy ống nhòm ra quan sát khắp nơi rất kỹ, sau đó trở ra sát bờ tìm hiểu những vách đá sát bên bờ biển. Các vách đá bị xói mòn theo rất nhiều, đều là những vách đá dựng đứng, xù xì, trơn trợt, một loại dây leo hay là rong gì đó bám dầy. Loại Long tu biển này dài cả hàng vài ba mét, bám vào vách đá chắc còn hơn dây chão, có thể bám vào leo lên cao được, tất nhiên là rất nguy hiểm. Tư Gồng bám vào mấy dây rong, leo lên thoăn thoắt, lên chừng bốn năm mét , y lấy đà, đạp chân vào vách, phóng từ trên đó xuống biển nghe bùm một cái….. ĐHC cũng bắt chước y, leo lên rồi phóng xuống biển nước bao la, mát lạnh, dưới này có khá nhiều đá ngầm, không cẩn thận để đầu đập vào là về chầu ông bà sớm. Lặn chìm xuống thật lâu rồi mới trồi lên, có cái cảm giác như quên hết sự đời. Dưới mặt nước có khá nhiều hang hốc nhưng muốn xuống thì phải chuẩn bị khá nhiều đồ nghề, cũng không cần thiết để làm chuyện này. Gió biển thổi nhẹ làm mặt nước lăn tăn gợn sóng, thư giãn một hồi ĐHC và Tư Gồng lên trên bờ, lúc này chưa dám đi vòng quanh đảo vì nếu có người sống lẩn lút trên này, sẽ dễ dàng bị họ phát hiện. Đang chuẩn bị tiến lên cao hơn thì bỗng thấy Hòa Râu bò ra từ một hang đá, quần áo dính đầy máu, y vẫy tay kêu rối rít….. 

Cả hai vội chạy lại, Hòa Râu hổn hển nói “có người bắn lén tôi trúng đùi, rút đi ngay, ở đây nguy hiểm lắm”, y đứng lên không nổi, ĐHC vội choàng tay đỡ, Tư Gồng ở phía bên kia cũng vội đỡ y cùng rút ra ngoài ghe. Ông già miền biển thấy vậy thì vội cho ghe luồn lách qua các khe đá chạy đi, Hòa Râu nằm vật ra sàn, hình như y bị thương khá nặng. Quả nhiên khi Tư Gồng giở chân y lên thì thấy một vết thương giống như bị trúng đạn, máu vẫn còn ra khá nhiều. Hòa Râu nói phều phào “tôi với người bạn đang leo lên vách một cái hang thì bỗng thấy người bạn rơi xuống, chưa kịp phản ứng thì đột nhiên thấy nhói ở đùi, biết là có kẻ dùng súng giảm thanh bắn lén, tôi vội buông người chịu đau vọt vào một hang đá, luồn theo lòng hang chạy trốn suốt đêm qua…không thấy người bạn đâu, may mà gặp hai ông ở đây” – ông già Hai Lẹ được dịp nói “Qua nói rồi, hòn đảo này nguy hiểm lắm, ma quỷ, oan hồn lúc nào cũng đầy dẫy…” – Vết thương Hòa Râu tuy không nặng nhưng để lâu nên người bị mất máu, chắc phải chở y về đất liền ngay mới kịp, nếu không nó bị nhiễm trùng thì sẽ nguy đến tính mạng. Tư Gồng không chịu về nữa, y cảm thấy yêu mến nơi này nên muốn ở lại sống ở đây. ĐHC cũng không ngăn cản y làm gì….

Khi ghé trở lại đảo để cho Tư Gồng lên, phải nhờ y ra chỗ bộ đội biên phòng báo vụ Hòa Râu bị bắn và vẫn chưa tìm thấy người bạn để họ cho lực lượng truy tìm giúp, phen này chắc trung úy Tâm sẽ hết bình tĩnh mà tha hồ chửi um sùm….vì thế sau khi Tư Gồng lên bờ là ĐHC cho ghe chạy tuốt về đất liền. 

Mấy hôm sau, ghé vào bệnh viện thăm Hòa Râu thì y đã khỏe lại nhưng vẫn còn phải nằm vì vết thương đã bị nhiễm trùng, phải chích kháng sinh và truyền nước biển một thời gian. Bộ râu quai nón đã được cạo sạch nên nom y trẻ ra cả chục tuổi. Bình thường y bỏ đi biền biệt, nên lúc hoạn nạn thì chỉ có mấy đứa con lo. Do mẹ bận buôn bán nên cô bé Nhật Loan hầu như phải túc trực trong bệnh viện để chăm sóc cha. Tuy mới lớn nhưng đã có một cái rờ-mọoc theo sau, cậu ta tên Văn Thanh Nhã, có vẻ si cô ta quá rồi nên lúc nào cũng có mặt, sai gì làm nấy. Chờ cho hai đứa nhỏ rủ nhau xuống căng-tin uống nước, Hòa Râu mới than thở “ông theo nghề đã lâu nên cũng biết, cái quan trọng đâu phải là kho báu….mà đầu tiên là phải tìm được cái gì cũ kỹ như miếng da, văn thư cổ, bản khắc đồng….có vẽ ngoằn ngoèo như đường dẫn đến kho báu, bản vẽ càng mờ mịt càng tốt, để thuyết phục được một đại gia nào đó, bỏ tiền ra cho mình đi tìm. Ba cái việc đi tìm này thì ngàn vụ cũng chưa được một, may mà đào được mấy cái chum đựng tiền xưa thì còn có lãi, còn kẹt quá thì ra chợ cũ hay chợ lạc-xoong mua đại mấy món đồ giả cổ nào đó mang về chôn xuống, ít tháng sau lại đào lên, biến hóa thành đồ cổ ngàn năm mấy hồi, nếu thua thì cùng lắm là huề cả làng. Không dè lần này xui xẻo, nhằm lúc trên đảo đám buôn lậu đang kết hàng nên bị đụng”. – “thế ông có tìm thấy gì chưa ?” – “có thấy cái con khỉ gì đâu, hơn nửa năm nay tôi quanh quẩn hầu hết mấy cái đảo hoang này, thuộc từng bụi lau, ngọn cỏ, cục đá mà chẳng tìm được cái gì ráo trọi…chỉ bắt được mấy con trăn rừng mang về nấu lẩu…” – Thấy Hòa Râu sợ bị lộ chuyện nên có vẻ không muốn nhắc đến người bạn đi cùng với y và tấm bản đồ đảo “Vương” nên ĐHC cũng không tiện hỏi, ngồi với y thêm một lúc nữa rồi ra về. Khi đi ngang căng-tin thì thấy Nhật Loan đang ngồi một mình, cô ta đang lo nghĩ đăm chiêu cái gì đó, bèn thong thả bước vào, hỏi “chú nhóc đi cùng với cháu biến đâu rồi ?” – “cháu nhờ nó chạy về nhà lấy thêm mấy món đồ rồi” – Nhìn cô ta có vẻ lo lắng, hiển nhiên là mối lo muôn thuở của những gia đình đông con nhưng ít của. Sẵn tiền của Hải thọt đưa hãy còn nhiều, ĐHC liền lấy ra đưa cho cô một ít, cô ta cám ơn, rồi nói “nhà đương lúc khó khăn quá, mấy bữa rày thằng bé Tư lại bỏ nhà đi bụi đâu mất, nếu ba về bán kịp miếng đất để có tiền trả bớt nợ thì cũng đỡ được chút đỉnh, nhỏ em không phải bỏ học giống như cháu…” – Cô ta có vẻ già hơn so với tuổi, hai mắt thâm quầng do bị mất ngủ, thần sắc nhợt nhạt nhưng vẫn toát lên một vẻ đẹp thánh thiện hiếm có. Cô ta nói tiếp “từ lúc ba đi buôn gì đó, lại mượn thêm một số nợ của XHĐ, vừa rồi họ tới nhà làm dữ lắm, lần này vết thương khỏi rồi nếu chưa có tiền trả thì ba cũng không nên về nhà…”. Cô ta nói đến đó thì mắt long lanh ngấn lệ…..xem ra Hòa Râu cũng không đến nỗi vô phước, những đứa con cũng còn biết thương cha lắm. Khác với “Ngọc Ruby” có vẻ đẹp của một người đàn bà trưởng thành, kiêu sa, đài các, có sức quyến rũ mãnh liệt làm người đàn ông trở nên mê muội. Nhật Loan có vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một thiếu nữ mới lớn, một vẻ đẹp tỏa sáng rực rỡ nhất trong đời của một con người, cái vẻ đẹp của tuổi thanh xuân ấy có thể cảm nhận được trong từng hơi thở, giọng nói, ánh mắt, trong từng cử chỉ đơn sơ nhất…. 

Ngồi được một lúc thì chú nhóc trở về, chú ta xem cũng khá bảnh, mặt mũi sáng sủa, đẹp trai, đang tập tành yêu nên tỏ ra rất ga-lăng, không nề hà làm bất cứ việc gì mà bạn gái nhờ vả. Ái tình làm người già trẻ lại, còn người trẻ thì lại….già đi, có vẻ chững chạc lên so với tuổi, có thể làm những việc mà bình thường không thể làm được…. 

Hải thọt vẫn ngồi trên cái sập thất bảo như thường lệ, hầu như y đã tiên liệu trước được mọi sự việc, có lẽ Hòa Râu cũng là do y đưa ra không chừng nên y mới biết mọi việc tường tận như thế. Chỉ có chuyện Tư Gồng không chịu trở về đất liền là làm y có phần hơi xao động. Lấy ra cái tẩu thuốc đen nhánh chạm hình cái sọ người thật tinh xảo, nhồi thuốc vào một cách từ tốn, bàn tay cầm tẩu nom thật điệu nghệ. Hải thọt hút loại thuốc “haft and haft” có mùi thơm nhè nhẹ, y bập bập môi và thong thả hút, nhả ra từng làn khói trằng mờ ảo…. ngồi hút như thế một lúc, khi bắt đầu có vẻ say khói thuốc, Hải thọt mới nói “chú cũng biết đấy, anh khuyên biết bao nhiêu mà nó đâu có nghe, đến khi bị người ta hại tiêu tan cả sự nghiệp, phải lãnh cái án mười mấy năm, nếu không có anh lo thì giờ này nó vẫn còn ngồi mà ăn cơm nhà nước, ngủ có lính gác. Vậy mà….nó vẫn không hề nói một lời cảm ơn cho đến bây giờ….anh cũng không cần điều đó, chỉ cần nó sống như thế nào để ông bà dưới suối vàng đừng có buồn…” – Ông bà dưới suối vàng thì chắc không còn buồn được nữa rồi, nhưng Hải thọt mất quân một cách lãng xẹt thì y cũng tức. Ngồi thêm một lúc, hít thêm vài khói thuốc cho hả bớt hỏa đang rực trong lòng, Hải thọt đi vào trong lấy ra một cái hộp, y nói “anh cho chú xem cái này…. bảo đảm chú chưa từng thấy…” 

Cái hộp của Hải thọt làm bằng Mã não, bản thân nó cũng đã là một bảo vật. Y từ từ mở cái hộp ra, bên trong tấm nhung đỏ là ba viên trân châu như những quả trứng cút. Y nói “ngày xưa có gì quý báu là người dân phải tiến vua, loại ngọc này có tên Kim long châu hay Ngân long châu, có sách còn viết là Hoàng trân châu, viên nào tròn quay mà nổi vân đỏ thì còn gọi là Ngọc mắt rồng, chỉ các bậc vua chúa ngày xưa mới có”, nói đến đó y cười khì, lấy một viên ngọc lên đưa cho ĐHC, viên ngọc nặng trĩu màu vàng óng, lạnh ngắt thật đẹp lạ lùng, đúng là kỳ trân dị bảo, chưa từng được thấy bao giờ. Hải thọt lại nói tiếp “ những viên ngọc này đều là ngọc giả, Nghĩa Cổ làm ra để bán cho khách nước ngoài, đã bán được cả chục viên rồi đó…”. Nghe y nói thế, ĐHC giật mình kinh ngạc, không thể ngờ những viên ngọc đặc biệt này lại có thể là giả. Mà có được thấy viên ngọc thật bao giờ đâu mà so sánh….? 

Hải thọt lại lấy ra trong người một cái bọc nhỏ, mở ra bên trong có một viên ngọc giống y như vậy “đây mới chính là viên ngọc thật” – y nói. ĐHC chăm chú nhìn viên ngọc, nó hơi hơi bầu dục chứ không thật tròn, màu vàng đục, nhìn cũng chẳng biết là giả hay thật – “hiện giờ chỉ có một viên duy nhất, theo như truy tìm thì nguồn gốc của viên ngọc này là từ đảo “Vương”. – 

Thì ra là vậy, thảo nào mà Hải thọt không tiếc công sức để tìm kiếm dấu vết của hòn đảo này, có điều y chắc cũng không dại gì mà bỏ tiền ra khơi khơi…..y đâu phải là nhà sưu tầm đồ cổ có cái máu mê sẵn sàng đánh đổi tất cả chỉ để được ngắm nhìn một báu vật, y chỉ chuyên buôn bán và làm đồ giả cổ. Chắc đang có một đại gia nào đấy đứng sau chi tiền cho vụ này. Ván cờ này chưa đánh mà đã chắc phần thắng rồi. Các đại gia cũng đâu có ngu, nếu ngu thì làm sao mà giàu có được, họ thậm chí lại tài giỏi phi thường, chẳng qua là khi thành đạt quá thì người ta trở nên kiêu ngạo, chủ quan, sập phải những cái bẫy tinh vi đến mức không thể tưởng được. 

Hải thọt lại dẫn ĐHC xuống tầng hầm, nơi đây cất giấu vô số các cổ vật, cái nào thật, cái nào giả chắc chỉ có y mới biết. Trên một cái bệ, thấy có một pho tượng La-hán bằng sa thạch đen sì ửng lên ánh tím lấp lánh, pho tượng này thật sắc sảo, thể hiện một trình độ điêu khắc tuyệt kỹ, diễn tả một vị La-hán có râu, hai tay phạch áo, trên ngực lại nổi lên hình một vị Phật. Nhớ đến ngôi chùa ở trên đảo ngày xưa còn gọi là chùa La-hán, không lẽ pho tượng này chính là ở ngôi chùa đó ? Thấy ĐHC cứ trầm ngâm suy nghĩ, Hải thọt nói “nếu anh không mua pho tượng thì nó cũng rơi vào tay kẻ khác, thậm chí bây giờ đã bị mang ra nước ngoài rồi…đến một lúc nào đó anh sẽ đưa pho tượng về lại đúng vị trí của nó”. Không phải ngẫu nhiên mà Thích Kỳ Lân lại có thể sống ung dung ở một nơi hoang sơ như vậy, nơi đây có mấy phật tử cúng dường? mà ông ta có thể nuôi mấy người đàn bà, ba bốn đệ tử, cả chục chú tiểu, ngày ngày phủ phê nhậu nhẹt….Người đã mang pho tượng này ra đảo có thể chính là nhà sư đã mất, ông ta là ai vậy….là thầy tu từ trước hay đến lúc ra đảo mới xuống tóc quy y, xa lánh bụi trần? 

ĐHC lấy mảnh giấy ghi lại lời ru của bà già đưa cho Hải thọt, y chăm chú xem rất kỹ. Sau đó cứ đọc đi đọc lại mãi, bỗng y vụt nói “Hòa Râu thật là sai lầm, đã bỏ sót điều quan trọng này…”, y săm soi một lúc, sau đó lại quay ra nhìn bức tượng La-hán, bỗng nhiên y nhìn ĐHC chằm chằm, trong khoảnh khắc, bất giác cả hai như cùng lóe lên một suy nghĩ và không dám nói ra điều đó…. 

Cuối cùng thì “Ngọc Ruby” cũng cho một cái hẹn, có điều không phải ở nhà hàng hay quán bar mà lại là ở ….một ngôi chùa…. 

6 giờ sáng đến nơi mới hiểu tại sao,….tưởng là đến sớm ai dè giờ này sân chùa đã đông người rồi, những người ở đây đều là những người chơi chim kiểng. Ngôi chùa này có một cái sân thật rộng, thật mát, hàng trăm cái lồng chim được treo khắp nơi, tiếng chim hót vang lừng rộn rã. ĐHC chọn một cái bàn gần ao sen để ngồi, sáng sớm mà được ngắm sen, nghe chim hót thì đúng là Thiên đường. Những cánh lá sen còn đọng nhiều hạt sương sớm lung linh như những hạt ngọc, một vài bông sen còn e ấp, một vài bông đã nở rộ khoe những cánh hồng phơn phớt với nhụy hoa màu vàng rực. Cả một hồ sen mênh mông thơm ngát….. 

Những con chim được nuôi ở đây chủ yếu là họa mi, chích chòe, sơn ca, yến phụng…. những người chơi chim cặp mắt người nào cũng sáng rực, say đắm nhìn những com chim đang líu lo hót. Hàng trăm giọng chim trầm, bổng, véo von hòa vào nhau như một bản nhạc. Những con chim vẫy đuôi, xòe cánh, giọng hót thanh tao, lảnh lót là được ngưỡng mộ hơn cả. Chủ quán cũng là một người chơi chim, anh ta đang chăm sóc một con chim rất đặc biệt là con chim hút mật. Con chim này màu nâu nhạt, chỉ nhỏ bằng ngón tay út, nhảy tanh tách trong chuồng không lúc nào ngưng nghỉ. Nhìn cái cách anh ta săn sóc con chim mới thấy nó công phu, tỉ mỉ như thế nào, không có niềm đam mê thì không bao giờ có đủ kiên nhẫn để làm được…Chính vì thế những người chơi chim còn trẻ phần lớn đều độc thân hoặc là dân đồng tính có cùng niềm đam mê săn sóc chim quý. 

Không lẽ “Ngọc Ruby” cũng có cái thú chơi tao nhã này ? Quả nhiên khi cô ta đến trên tay cũng có một cái lồng chim thật, có vẻ cô ta cũng hay đến nơi đây nên khá nhiều người gật đầu chào hỏi. Cô ta chủ động mời ĐHC uống nước, ăn sáng….. được một người đàn bà đẹp mời ăn, mời uống thì xem ra…tai họa sắp đến nơi rồi. Hôm nay cô ta trông thật giản dị, không phấn son trang điểm….nom cô lại càng đẹp gấp bội phần. Cô ta nói “Tinh thần em luôn bất an nên em tìm đến thú chơi này để thư giãn những khi rảnh rỗi”. Cô ta là mẫu người tiêu biểu của một nữ doanh nhân thành đạt, nhưng cô ta không lên mặt đàn chị, cũng không ngạo nghễ coi thường đàn ông….hay căm thù họ, mà lại cố che dấu cái dáng vẻ buồn buồn….cái vẻ của những người đàn bà thành đạt về sự nghiệp nhưng lại thất bại về tình cảm. Nhưng “Ngọc Ruby” thì không phải mẫu người có thể thất bại trong tình yêu, cô ta quá đẹp, quá hiểu biết….lại có cái giọng khàn khàn….cái giọng nói có thể làm người đàn ông….buông súng đầu hàng. Cô ta nói “ khi em còn nhỏ bố mẹ em đã ly dị, mỗi người mỗi ngả, em về sống với bà ngoại. Khi bà mất thì em qua bên Nga với anh Hoàng, anh ấy lo cho em tất cả….Sau vụ đó em chỉ kịp mang tro của anh về nước, bỏ lại tất cả, sau hơn mười năm ra đi, khi trở về tay trắng vẫn hoàn tay trắng, lại mất thêm người mà mình yêu quí nhất…”. Không lẽ lại nói với cô ta rằng ít nhất cũng còn một hũ tro để mang về đã là may mắn hơn nhiều người khác rồi. Trong cái buổi sáng vui tươi này mà lại nói về những chuyện buồn thì có vẻ không phù hợp mấy. Có điều trong khi không biết về cô ta bao nhiêu thì cô ta lại có vẻ hiểu rõ về ĐHC. Cô ta lại cố tạo ra cái vẻ quyến rũ, tạo ra sự thân tình, cô ta thăm dò như vậy, tìm hiểu như vậy để làm gì? Chắc không phải là do ý của Trịnh Cao Nhân rồi, họ Trịnh đâu cần phải làm thế….Nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, hết chuyện hoa lan đến chuyện chim cảnh, cuối cùng cô ta bỗng nói nho nhỏ “em chỉ muốn biết trong hai người bọn họ, Trịnh Cao Nhân và Trịnh Cơ Đồ ai là người đã ra lệnh giết anh Hoàng”. 

“Oán thù nên cởi không nên buộc” – điều này rất dễ nói ra đối với những ai chẳng có oán thù gì cả. Còn với kẻ chất chứa trong lòng bao oán hận thì thật là vô cùng khó – “Ngọc Ruby” phải chăng là đang muốn trả thù, điều này có lẽ cũng không đúng lắm, cô ta chắc là đang yêu Trịnh Cao Nhân thì đúng hơn….họ Trịnh đã có vợ rồi, nhưng với típ người như “Ngọc Ruby” thì điều đó đâu có gì là quan trọng ? Cô ta bất chấp tất cả để làm việc, để thành đạt thì cũng bất chấp tất cả trong tình yêu, đó là kiểu người được xem là hiện đại, mạnh mẽ, thông minh và dũng cảm. Hơn nữa Trịnh Cao Nhân không phải là đang si mê cô ta hay sao ? Y đã hùng mạnh lắm rồi, đã có trong tay hàng ngàn mẫu đất, cả chục cái biệt thự trên khắp mọi miền đất nước, có tài khoản ở nước ngoài, năm bảy công ty, hàng trăm nhân viên, đệ tử….Chưa kể các mối quan hệ tầm cỡ, vì thế nếu muốn y có thể bỏ cô vợ già mấy hồi, hơn nữa anh hùng thành đạt như họ Trịnh thì việc có vài ba vợ, năm bảy cô bồ nhí là chuyện quá thường tình, thậm chí cần phải có để thể hiện đẳng cấp đại gia của mình ấy chứ. Nếu Trịnh Cao Nhân mà là kẻ đã ra lệnh giết “Hoàng mọi” thì……đó là điều mà cô ta lo sợ nhất. Trái tim bao giờ cũng có lý lẽ của nó, nhiều khi nó chẳng tuân theo một qui tắc nào cả, thậm chí nó còn đi ngược lại với lý trí, là cái vòng khổ ải trầm luân của con người… 

Nhưng các bố già khi muốn “xả thịt” một ai thì họ đâu có điên mà lại nói rõ ra cho thiên hạ biết, họ chỉ nói nhẹ nhàng “cái thằng A đó anh không muốn nhìn thấy nó nữa” hoặc “ thằng B nó chẳng còn coi ai ra gì, các chú có cách gì giúp anh với” thì các đệ tử thân tín tất nhiên là quá hiểu. Một lời nói vu vơ đâu có là cái gì…? Gió thổi còn bay cả tòa nhà huống hồ một lời nói….vì thế câu hỏi của “Ngọc Ruby” thật là khó trả lời, hơn nữa Trịnh Cơ Đồ bây giờ đã biến đâu mất đến cảnh sát quốc tế còn tìm không ra, thì cứ tin y là kẻ chủ mưu thật sự đi….bao nhiêu tội lỗi dồn hết cho một người, cho họ xuống đến tầng địa ngục thứ chín là hết rồi, muốn xuống đến tầng thứ mười thì cũng không có….vì thế kẻ có tội thì lại càng thêm tội, còn kẻ “sạch sẽ” thì lại càng thêm sạch, lại càng nhập vai “đạo cao đức trọng – nhân tài thế kỷ”, lại càng có dịp để thể hiện khiến các em cứ mở to đôi mắt mà nhìn ngây ngất…. 

“Ngọc Ruby” hình như cũng không chờ đợi câu trả lời…câu trả lời có lẽ đã có trong đầu cô ta rồi, cô ta chỉ muốn bộc bạch tâm tư của mình với một người nào đó…..một người đã từng quen biết, một người bạn của “Hoàng mọi” thì càng tốt, để sau này nếu có điều tiếng gì thì có thể nói “em đã hỏi ý kiến nhiều người rồi đó chứ…”. Có lẽ đó là một tình yêu thực sự không chừng, vì thế hôm đó “Ngọc Ruby” thật là vui vẻ, cô ta như cởi được tấm lòng, nhìn thấy mùa xuân sáng bừng lên nét mặt…. ĐHC đâm ra cũng vui lây, mà không vui sao được khi xung quanh ngập tràn tiếng chim hót líu lo, sen nở đầy hồ, làn gió thổi hây hây mang theo hương thơm ngào ngạt không biết là từ hoa sen hay là từ mái tóc của người đàn bà đang yêu với nụ cười rạng rỡ……

Lần thứ hai này ra đảo thì lại đi cùng với Ba Già, y là một con người thật lầm lỳ, ít nói…mà khi nói chuyện thì lại hết sức khiêm cung, lễ độ. Đó đúng là cung cách của một tay giang hồ thời kỳ trước, lúc nào cũng tỏ ra đàng hoàng, nhưng nếu đụng chuyện thì sẵn sàng chơi dữ, chơi đẹp hơn bất cứ một tay chơi thuộc hàng mới nổi nào. Đã từng sống qua mấy thời kỳ, mấy chế độ….quen biết với nhiều đại ca khét tiếng một thời….Y sống sót được đúng là nhờ thời thế, nhờ phần số còn sáng lắm, bây giờ về với Hải thọt như tay mặt tay trái, chuyện lần này có phần quan trọng lắm nên Hải thọt mới phải cho y đi. Cái dở của y chính là các hình xăm tùm lum trên người, rất dễ bị hình sự để ý, vì thế y phải mặc cái áo sơ mi cài kín cổ, tay áo cũng phải phủ xuống đến tận cổ tay để nhìn thật là lịch sự. 

Lần này không đến nỗi say sóng như lần trước, ĐHC mơ màng nhìn ra biển rộng, từng đàn chim hải âu bay lượn trên những con sóng nhấp nhô….xa khơi sao đẹp quá, không hiểu lại phải bon chen để làm cái gì…âu cũng là số mệnh. Chợt nhớ đến Hải thọt, y thông minh thật, không phải ngẫu nhiên mà y trở nên giàu có hơn người….y chỉ ngồi nhà mà cũng có thể nhìn ra những sự việc mà kẻ đi đến tận nơi như Hòa Râu cũng không nhìn thấy. Hôm đó, lúc ở dưới tầng hầm, ĐHC đã phải cố giả vờ như không biết gì mà y thì cứ nhìn soi mói….đúng là đưa bài ca cho y là sai lầm, nhưng không đưa cũng không được vì y là chủ xị chuyện này, để y đánh giá sai dẫn đến chết chùm cả đám thì cũng không được. Giữa ĐHC và Ba Già không biết y tin tưởng ai hơn ? có lẽ là Ba Già rồi, vì nếu không y đã để ĐHC đi một mình, cần gì phải phái thêm Ba Già cho tốn thêm tiền của mà nhiều khi lại lộ chuyện ? 

Ba Già có thời kỳ sống ở Côn Đảo nên chuyện đi biển, chuyện ra đảo đối với y không có gì xa lạ. Lên đến nơi, đặt chân lên đảo có cảm giác như Ba Già trở về chốn cũ, như hổ trở về rừng, y hòa nhập vào thiên nhiên, hòa nhập vào con người thật dễ dàng. Để y ở lại chuyện trò với mấy dân chài, ĐHC tranh thủ vọt lên trên chùa, đi lên đến nơi thì thấy Thích Kỳ Lân đang ngồi với một người, nhìn thấy người này bất giác ĐHC giật mình, không ngờ ông ta cũng đến tận nơi xa xôi này….? Ông ta mặc bộ đồ bà ba trắng, đầu búi tó củ hành, gương mặt dài, mũi cao, hai lỗ tai dài thượt, bộ râu bạc như cước. Cái khăn rằn và cái nón lá để trên bàn ngay cạnh. Ông đang thong thả vấn thuốc hút. 

ĐHC thấy ông ta thì tính bước lui xuống nhưng không kịp nữa, ông đã kịp nhìn thấy, liền nói “thấy rồi sao lại còn tính rút đi, lại đây qua có việc muốn nói với chú”. Ông ta nói “lúc nãy qua có gặp Tư Gồng, nghe y nói chú bây giờ về làm với Hải thọt…?” vừa nói ông ta vừa vấn thuốc, loại thuốc rê ba số chín có mùi thơm nồng nhưng rất nặng, bập bập môi một lúc rồi sau đó mới châm quẹt đốt – “Lâu lắm mới gặp thầy, không dè thầy cũng xuống tận nơi heo hút này?” – “chú chắc đâu bao giờ nghĩ là qua có ngày lại phải lặn lội xuống tận nơi này….?” Ông ta xuống đây chắc chắn là vì cái người đi cùng với Hòa Râu, thảo nào mà y cứ dấu mãi không dám nói…Hòa Râu đúng là liều mạng bất chấp tất cả, việc gì y cũng dám làm, đến con của trưởng giáo một xứ y cũng dụ dỗ đi tuốt luốt. “Đương liều”, nội cái tên cũng đủ nói lên con người này, tại sao người cha đạo cao đức trọng như vậy lại sinh ra một người con “bán trời không văn tự” thì thật là không hiểu nổi. Thảo nào mà vợ Hòa Râu mới nhìn mà đã không có cảm tình với “Đương liều”, cảm giác của phụ nữ vẫn thường hay đúng. Cũng chưa gặp Tư Gồng nên không biết số phận “Đương liều” như thế nào, y chắc là kẻ đã bị rơi xuống theo như lời Hòa Râu kể. Nếu biết có ông già đang ngồi trên núi thì ĐHC đâu có dại gì mà lại vọt lên đây ngay, đúng là khởi đầu đã có vẻ bất lợi rồi.

Lại nói sơ về “Đương liều”, là con một người nổi tiếng, trưởng giáo một xứ…Nơi ở là một căn nhà ba gian to vĩ đại, nhà chính trang trọng để cái tủ thờ cẩn ốc xà cừ với bộ lư cổ bằng đồng vô giá, mấy bộ liễn với mấy cái cột nhà bằng gỗ quý to sụ, chạm trổ cầu kỳ….có bộ tràng kỷ quý giá và mấy bộ ván ngựa dầy cộp, buổi trưa nằm mát còn hơn nằm máy lạnh. Đằng trước là cái sân rộng mênh mông với đủ loại cây kiểng quý giá, một hàng mấy chục gốc mai cổ thụ khi tết đến nở một màu vàng rực, thêm hàng trăm mái vú đủ để hứng nước mưa dùng cho cả ngàn người, mỗi lần tiệc tùng đám giỗ là cả làng kéo đến, nhiều khi mần cả con bò, năm bảy con heo, gà vịt cả trăm con mới đủ. Phía sau là mấy cái ao nuôi cá, ruộng cũng nhiều khi đến mùa thuê cả trăm người mới đủ làm. Lại có cả mấy chiếc ghe chài loại lớn chuyên chở hàng mướn, có cả nhà máy xay xát gạo thời đó thì đúng là bậc nhất rồi, vì thế nên y ăn chơi nổi tiếng, đúng típ công tử Miền Tây, xài tiền ngắt khúc chứ không thèm đếm….y lại có cái máu liều, hết tiền thì lại chôm đồ nhà, có lần nguyên một ghe gạo của mối quen chở tới để xay xát y lấy mang bán tuốt làm lần đó ông già phải đứng ra xin lỗi và đền bù tất cả. Chôm đồ nhà không đủ, “Đương liều” còn mó máy các nơi nên bị “tó” phải vào bóc lịch khiến lần đó ông già cũng phải đứng ra lo liệu…tất cả cũng là vì bà già, nhà chỉ có một đứa con nên bà thương quá, cái gì cũng cưng, cái gì cũng chiều, mới mười bảy tuổi đã làm con gái người ta có bầu nên phải cưới….cưới được ít tháng lại bỏ, lại bắt bà già đi hỏi đám khác…thế mà bà già cũng chiều được mới kỳ chớ. “Đương liều” xài tiền như rác để cua mấy em như thế chưa oách, y còn muốn làm anh hùng trước mắt mấy người đẹp miệt vườn nên cũng thích có võ công cái thế để khoe khoang với mọi người. Nếu học võ bình thường như Thiếu lâm, Thái cực đạo v.v….thì cũng phải mất cả chục năm khổ luyện may ra mới thành cao thủ, y đâu đủ kiên nhẫn để làm chuyện đó…..y mò tuốt ra vùng Bảy núi tìm thầy học “Thất Sơn Động Thần Quyền”, học bùa ngải trong vài năm rồi trở về biểu diễn….ba cái vụ chặt gạch, nhai miểng chai, bóng đèn, dùng nhang khoán trị sưng trật, giời leo…..làm cho bà con lác mắt, các em tha hồ thán phục. Người tuy gày gò nhưng khi niệm chú, lên gồng “Đương liều” đánh cũng tưng bừng, có lần trong cuộc hỗn chiến với đám thanh niên xóm khác, y đấm trúng phải cây dừa làm cái cây nghiêng hẳn một bên…vụ đó đâm ra làm y trở nên nổi tiếng, được các chiến hữu ca tụng ngất trời bên bàn nhậu. 

Ở miền Tây khi nhậu họ lấy một cái chậu to tổ chảng, chặt chừng năm trái dừa đổ vào, sau đó đổ thêm chừng năm bảy lít đế gọi là “nước mắt quê hương”. Uống thứ rượu pha nước dừa này say hết biết, có khi đi qua cầu tre không nổi té xuống sông bỏ mạng như chơi. “Đương liều” còn nghĩ ra chiêu độc hơn nữa, y chọn một cây dừa nào thật tươi xanh, trái nhiều, làm gốc thật sạch, sau đó dùng len đào sâu xuống xung quanh gốc. Chọn ngày thật nắng ráo, mua vài chục can rượu về để….tưới đẫm gốc dừa, sau vài ngày những trái dừa ở trên cây trở thành những trái “dừa rượu”, mang xuống uống vừa là nước dừa, vừa là rượu ngon vô cùng. Sau khi hái hết trái thì hạ luôn cây dừa để lấy “củ hủ” làm gỏi với khô cá sặc, tụ tập chiến hữu tha hồ “đánh chén”. Quanh năm suốt tháng y nhậu nhẹt, đá gà, đánh lộn, gái gú tiêu hết không biết bao nhiêu là tiền của ông già, vì thế y gặp Hòa Râu thì như cá gặp nước, như rồng gặp mây, cả hai bàn tính đủ thứ chuyện. Hòa Râu thì đang cần một công tử nhà giàu trẻ tuổi chơi ngông để “có đồng ra đồng vào”, còn “Đương liều” thì sau từng ấy năm tiêu tiền của cha mẹ thì cũng muốn “đánh quả” kiếm vài cục tiền bự để nở mày nở mặt, cho em út thấy đại ca ngoài cái tài ăn chơi thì cũng kiếm tiền được như thiên hạ chứ đâu có thua ai. 

Vì thế mà hôm nay ông già phải lặn lội lên tận đây để tìm thằng con phá của. Chắc Tư Gồng cũng giấu biến chuyện nên ông ta cũng chưa biết gì, vẫn đang ở trên này để chờ. Có ông ta, Thích Kỳ Lân đâm ra rụt rè không dám ăn to nói lớn như trước, còn ĐHC thì ngồi một lát rồi cũng nhanh chân biến luôn xuống dưới, về đến làng chài thì gặp Tư Gồng, y ghé tai nói nhỏ “trung úy Tâm tử nạn rồi, bên biên phòng họ đang làm lễ truy điệu….mình qua bển viếng đi…”. 

Trên đường đi mới hỏi về chuyện “Đương liều”, Tư Gồng lắc đầu nói “bên biên phòng họ có cho một đội mười mấy người qua bển tìm nhưng không có gì, vừa rồi họ lại qua một lần nữa thì có chuyện của Trung úy Tâm, phen này tình hình căng rồi…” – Tình hình quả nhiên không còn được như lúc trước, ông già Hai lẹ đi đầu, ĐHC, Tư Gồng, và mấy người dân chài nữa cùng vào làm lễ viếng….chiếc quan tài để ở giữa hội trường, bên trên trùm lá cờ tổ quốc…di ảnh chân dung trung úy Tâm còn rất trẻ…không ngờ mới gặp anh ta đây, còn rất khỏe mạnh, vui tươi là thế, bây giờ đã hóa thành người thiên cổ…. không khí trong hội trường thật trầm lắng, điệu nhạc “hồn tử sĩ” từ một cái cát xét nghe thật buồn bã….có khá nhiều sĩ quan ở đây, truy điệu xong họ sẽ đưa quan tài về đất liền. 

Quay trở lại cái quán nhỏ của bà cụ già bên làng chài, cả bọn ngồi im lìm, lần này đúng là quá bất ngờ, không thể tính được gì, thượng sách là nên quay trở về, chờ tình hình lắng dịu rồi mới quay ra lại…để Tư Gồng thăm dò xem nguyên nhân cái chết của trung úy Tâm, dấu vết của “Đương liều” rồi mới tính tiếp….còn ông già trên chùa mới là khó, nói thật với ông thì cũng không được, mà không nói gì thì lại càng không đúng, có mấy người đệ tử đi cùng với ông ở làng chài bên cạnh, đành phải qua nói khéo với họ khuyên ông già nên trở về rồi thong thả hẵng tìm tông tích “Đương liều” sau, thật đúng là “họa vô đơn chí”. 

Thực ra chuyến đi này, không cần phải thăm dò về băng Sông Đông nữa, đường đi nước bước của nhóm này Hải thọt đã rành sáu câu rồi…..chỉ có điều y điều nghiên như vậy thực chất là để làm gì thì chưa biết rõ, lơ mơ trở thành con chốt thí của y thì cũng oan mạng. Hải thọt cũng không phải típ coi mạng người như ngóe, y chỉ chuyên tâm chuyện làm ăn, hết cách rồi thì y mới tính đến những chuyện có phần bạo lực, nhưng cũng rất né tránh để không đụng chạm đến chính quyền. Báu vật khi chưa đưa vào bảo tàng, chưa nằm trong khu qui họach bảo tồn, còn nằm đâu đó dưới lòng đất, dưới biển khơi thì việc tìm thấy đâu phải là phạm pháp, thậm chí thế giới người ta còn khuyến khích nữa là…còn có cả những công ty tư nhân chuyên làm những chuyện như trục vớt, đào tìm đó chứ. Hôm ấy ĐHC và y cùng nảy ra một ý nghĩ, đó là vì cái bản đồ….thực ra có thể nó chẳng là gì cả, nó chỉ là sự đánh lạc hướng, sự ngụy tạo, “đảo Vương” có thể chính là cái hòn đảo trù phú này, cần gì phải đi đâu tìm cho xa xôi… Cái ngôi chùa đó, cái bài ca đó, pho tượng La-hán và cả ông sư đã mất không phải đã nói lên điều đó hay sao ? chỉ cần tìm ra được tông tích nhà sư đó là ai thì mọi việc có thể sẽ rõ…còn những hang động trên đảo cũng cần phải xem lại hết vì Hòa Râu đã bị tấm bản đồ đánh lạc hướng, có thể y chỉ xem xét đảo này một cách hời hợt, bỏ qua nhiều thứ. 

Trên đường trở về, khi đến đất liền, ĐHC cùng với Ba Già vào một cái quán nhỏ, ngồi uống vài xị, ăn tô cháo cá để lấy lại tinh thần. Uống được vài ly bất giác Ba Già nói “Cần phải tránh xa những người đàn ông yếu đuối….” – “vì sao ?” – “Trong hoàn cảnh bình thường thì họ rất bình thường, thậm chí lại dễ thương nữa là khác…nhưng trong những lúc khó khăn, khốc liệt, theo bản năng sinh tồn họ sẽ trở thành những kẻ thâm hiểm….điều này rất nguy hiểm cho cộng sự của họ…” – ĐHC chăm chú nhìn Ba Già, gương mặt y lạnh lùng, trơ cứng như cục đá, nhưng đôi mắt thì lại rất linh động. Y đã sống qua mấy chế độ, mấy thời kỳ, đã từng bị bầm dập, kinh nghiệm chiến trường vô cùng dày dặn, tự nhiên y nói điều này không phải là không có lý do – “ý anh muốn nói là…..” – “cần phải cảnh giác với Hòa Râu….coi chừng y không nói thật…” 

Hòa Râu hình dong to lớn, mặt vuông, râu rậm mà Ba Già lại cho y là yếu đuối ? Suy cho cùng thì y bỏ bê gia đình, hết theo người đàn bà này đến người đàn bà khác, nhiều khi sống dựa dẫm vào họ….một kẻ mạnh mẽ sẽ không làm thế - Ba Già lại nói tiếp “Đương liều đã phải trả giá….còn chú hãy coi chừng đó, anh thương chú nên mới nói…” – ĐHC uống hết ly rượu, cảm thấy có vị đắng đắng trong miệng, bất giác lại rót thêm một ly nữa – “ông già lặn lội ra tận nơi đây không lẽ chỉ vì thương thằng con ?” – “hình như ông ta đã từ con mấy lần…tất cả cũng vì bà già.” – “cần phải xét kỹ điều này, khả năng là “Đương liều” đã lấy đi cái gì đó nên ông ta mới phải cùng mấy đệ tử truy tầm theo như vậy…” – Ba Già không nói gì nữa, y móc ra một điếu xì-gà to tổ bố và thong thả hút, nhả ra từng vòng khói trắng cuồn cuộn. Cũng giống như Hải thọt, trong lúc hút y không bao giờ nói gì cả - Xem ra đã có hai người chết rồi, kẻ tiếp theo sẽ là ai nữa….?, ăn hết tô cháo, tính tiền xong chuẩn bị đi thì bất ngờ thấy từ một con hẻm bên cạnh có mấy người dìu ra một cô gái, cô ta đi lảo đảo, hai mắt trợn trắng, miệng nói lảm nha lảm nhảm, hình dong tiều tụy, nhìn giống y như là bị ma nhập….. 

Không ai bảo ai, ĐHC và Ba Già bất giác cùng tiến sát đến bên cô gái, lắng nghe cô ta nói lảm nhảm những gì. Cô gái hai con mắt như đờ dại, miệng nói nhảm “….cầu Bình Triệu……cầu Bình Triệu……”, con ma nhập này có vẻ hiền chứ nếu là con ma dữ thì đã hất văng mấy người nắm giữ từ lâu rồi. Cô ta có nước da tai tái, trán và cổ nổi gân xanh, mồ hôi tuôn đầm đìa, hai tay trầy xước hết cả, chắc là bị con ma nhập hành dữ lắm nên thân thể mới ra như vậy. ĐHC thử hỏi mấy người xung quanh “cô ta bị làm sao vậy…?” – một bà sồn sồn cũng đứng xem nãy giờ nói “con nhỏ này bị ma nhập hoài hà, nghe nói cách đây mấy năm nó có lên SG làm mướn ở cầu Bình Triệu với một đứa nữa, con nhỏ kia vì sao đó nhảy cầu tự tử….con này từ khi trở về lâu lâu lại lên cơn như vầy” – “thế họ đưa cô ta đi đâu…?” – “họ đưa nó đến nhà Cậu Tư để Cậu làm phép trục con ma”. Bà ta nói tiếp “Cậu Tư pháp thuật rất cao mà trục mấy lần con ma này vẫn chưa chịu đi hẳn, chắc là do nhà con nhỏ này nghèo nên cúng lễ không đủ…” 

Mấy người dìu cô gái lên một chiếc xe ba gác, họ ngồi xung quanh để giữ cô ta, trong đó có một người hình như là mẹ cô ta thì phải…bà ta khóc thảm thiết, luôn miệng nói “cho mẹ xin…cho mẹ xin…”. ĐHC và Ba Già liền thuê xe ôm chạy theo tiện thể để biết thêm Cậu Tư và tình hình vùng này như thế nào. Cô gái lúc thì nói lảm nhảm, có lúc bỗng dưng lại dẫy dụa rồi gào lên mấy tiếng to như tiếng gào của mấy bà đau đẻ làm người đi đường nhiều phen hoảng vía, ĐHC cố gắng lắng nghe nhưng không xác định được cô ta gào lên cái gì. Chiếc ba gác chạy qua mấy con đường nhựa rồi quẹo vô một con đường đất đỏ, chạy tuốt vô sâu, quanh quẹo qua mấy con đường đất nữa, đến một cây cầu, đi xuống nữa thì tới một nơi giống như một khu vườn. Lúc đó chiếc ba gác mới dừng lại, mọi người dìu cô gái vào trong sân, ĐHC thấy bà sồn sồn cũng có mặt, té ra bà ta cũng tò mò nên chạy xe theo xem. Trong sân lúc này có khá đông người, họ trải chiếu, mắc võng nằm ngồi la liệt, chắc là đang chờ đến lượt vào gặp Cậu Tư. Cô gái do bị ma nhập nên được ưu tiên trước, được đưa vào một căn nhà lá bài trí giống như một cái điện thờ, trên điện thờ để đầy tượng Phật, to có, nhỏ có, phật ông có, phật bà có….chính giữa là một cái vòng đèn bảy màu chói sáng lấp lánh. Trên điện đốt khá nhiều đèn cầy, còn phía dưới bày la liệt đủ loại trái cây, lại có thêm tượng hai đồng tử quì gối dâng hương cho phật tổ. Hai bên tường treo đầy các loại phù chú vàng đỏ bằng chữ Tàu, chữ Phạn nhìn chóng cả mặt. 

Cậu Tư té ra lại là một người đàn bà ăn mặc diêm dúa, ngồi vắt chân chữ ngũ, hút thuốc phì phèo phun ra những vòng tròn nom rất điệu nghệ. Bà ta nhuộm tóc màu hung hung đỏ, uốn xoăn tít, đôi môi tô son đỏ chót, cả mười ngón tay cũng vậy. Chắc trước đây bà ta cũng đi cắt lúa, vác lúa nên bàn tay to mập gân guốc, tút lại nhiều lần cũng không giấu nổi. Trên người đeo đầy những vòng, chuỗi vàng, đen, đỏ đủ kiểu. Khi mang cô gái vào, đang nói giọng đàn bà eo éo, Cậu Tư bỗng chuyển qua nói giọng ồm ồm, bỗng Cậu quát “con kia, mau quỳ xuống” – hai người thanh niên ráng ấn cho cô gái quỳ xuống, cô ta hình như muốn kháng cự. Cậu Tư thắp một bó nhang to nhảy lòng vòng xung quanh cô gái, vừa nhảy vừa đọc thần chú, sau đó lấy ly rượu trên điện thờ uống một hớp rồi phun vào mặt cô.…con ma tự nhiên nổi giận hất văng hai người thanh niên ra tận vách nhà, đồng thời nhảy lên phóng một cước ngay ngực Cậu Tư khiến cậu văng tuốt ra xa, con ma thừa thắng xông lên, nhảy tuốt lên cái bàn thờ, hai tay dang rộng ra như cánh chim, người quay tít như chong chóng. Cậu Tư bị ăn một đá ná thở nói giọng đàn ông hết nổi, chuyển qua nói giọng éo éo “…mau bắt nó…mau bắt nó….nó phá…phá…bàn thờ….”. Bốn năm thanh niên nhảy vào đều bị con ma đá văng ra cả, có người còn xịt cả máu mũi. Đèn cầy, trái cây trên điện thờ văng ra tứ tung, một cây nến bắt lửa vào vách nhà phực cháy làm Cậu Tư càng thêm hoảng vía la lớn “cháy….cháy….mau dập….mau dập….”. Từ trên bàn thờ, con ma lại nhảy phóc xuống đất, phóng luôn ra cửa, chạy tuốt ra ngoài sân làm mọi người bỏ chạy tán loạn, sau đó nó phi luôn lên con đường đất đỏ, chạy vùn vụt….. 

ĐHC, Ba Già và mấy thanh niên nữa lật đật chạy theo….đúng như suy đoán, con ma chạy đến giữa cầu thì nó leo lên lan can và nhảy tùm xuống. Có điều cây cầu này không phải là cầu Bình Triệu, còn con sông cũng không phải là sông SG mà chỉ là con mương nhỏ, nước chỉ ngập tới cổ nên cô gái chỉ lóp ngóp vùng vẫy ở dưới nước. Tất cả cùng lội xuống kéo cô ta lên, có lẽ con ma chỉ quậy đến đây là đủ nên nó đã tách ra đi mất, cô gái được đưa về sân, cô ta nằm thiếm thiếp một hồi rồi mới tỉnh dậy, khi tỉnh thì cô ta chẳng còn nhớ gì cả, bà mẹ liền dẫn cô ta ra nhà sau để thay đồ. Trong lúc đó mấy người làm và Cậu Tư lo dọn dẹp hậu quả. Có điều lạ là tuy trái cây, đèn, nến văng tứ tung nhưng tượng phật trên điện lại không hề hấn gì. Ba Già móc tiền đưa cho Cậu Tư để đền bù và nhờ Cậu mua thêm lễ vật cúng giải vong nhập cho cô gái, Cậu Tư không còn cằn nhằn nữa mà trở nên vui vẻ, nói “mấy lần trước tôi làm phép là vong nó chịu nghe liền…không dè lần này nó quậy dữ quá…có rất nhiều cô gái đã nhảy cầu Bình Triệu tự tử nên mỗi một lần nhập lại là một vong khác…cứ vài tháng là cô này lại bị nhập, chưa có cách gì trị dứt được. Lần trước tôi có cho cô ta một chuỗi hạt và một tấm bùa đeo ở cổ nhưng hiện giờ lại không thấy?”. 

……………………………………… 

Cô gái khi tỉnh lại bình thường thì nói chuyện lại rất nhỏ nhẹ, đâu thể tưởng được là mới lúc nãy đây cô ta gào còn to hơn cả người rừng và phi thân còn hơn mấy diễn viên xiếc. Căn nhà cô ta ở với mẹ già và mấy đứa em sâu tít trong hẻm, căn nhà trống trải, không có một đồ vật gì đáng giá, cô ta nói “cháu thật là xấu số, tính cùng với nhỏ bạn lên SG làm một thời gian kiếm tiền gởi về cho gia đình, nào ngờ….gặp chuyện này còn làm khổ mẹ nhiều hơn nữa” cô ta nói đến đó thì sụt sịt khóc. Nước mắt đàn bà quả thật là vi diệu, có thể làm một kẻ lạnh lùng như Ba Già mà cũng phải cảm động, điều đó cũng có cái lý của nó…. Ba Già đâu phải là một tên ma cô chuyên sống dựa vào thân xác phụ nữ, y từng là một tướng cướp thực sự, từng có thời sống bằng dao búa và súng đạn, bây giờ về già, trái tim y bắt đầu có nhịp đập gần như một người bình thường… “thế cô bạn của cháu vì sao mà tự tử, có thể cho biết được không ?” – “cháu cũng không rõ lắm, ban đầu hai đứa đi phụ rửa chén và bưng đồ ăn ở một tiệm phở, sau đó vì nó đẹp hơn nên nó bỏ, chuyển qua làm ở một cái quán bia…..có tiền nhiều nó còn cho cháu nữa, nó còn rủ cháu đi làm nhưng vì cháu quá xấu nên chủ họ không nhận…” – Cô gái này không được đẹp, nên đã may mắn không trở thành con mồi của những tên ma cô săn gái, cô ngập ngừng một hồi rồi nói tiếp “khi nhỏ bạn cháu tự tử thì nó đang có thai mấy tháng..” – Nghe nói những người đàn bà có thai mà chết thì linh hồn họ không siêu thoát, họ cứ vất vưởng ở trên trần gian…cầu Bình Triệu là nơi có khá nhiều phụ nữ tìm đến đó để chấm dứt cuộc sống, những linh hồn đó đã tìm đến cô gái này…..Cô gái thật là đáng thương, nhưng cô ta cũng quá yếu đuối, vì thế mà trở thành mồi ngon cho quỷ dữ, ma quỷ thường tìm đến những người mềm yếu, những người dễ bị sai khiến để hòa nhập vào họ…. những người có khả năng thông linh, tiếp xúc với người cõi âm đều là những người tinh thần có vấn đề, có thể nói năng, hành động theo một ý chí khác, theo một trạng thái khác, đâu có gì chắc chắn để khẳng định hồn ma nhập vào họ là một linh hồn tốt…trên dương thế rõ như ban ngày dưới ánh sáng mặt trời mà chuyện chân giả còn không phân biệt được huống hồ là ở dưới cõi âm ty tối thui như hũ thì có ai dám chắc nó như thế nào…? Lại mang chuyện đó ra để dương danh với thiên hạ thì vô tình trở thành quân bài của những nhà chính khách, trở thành thanh kiếm bén trong tay họ….và Ba Già cũng rút kiếm ra rồi, y thì thầm vào tai ĐHC “lần sau ra đảo mang con nhỏ này theo…biết đâu sẽ có được kỳ tích…”. Đâu phải ngẫu nhiên mà Ba Già tự nhiên quan tâm đến cô gái như thế, đâu phải ngẫu nhiên mà y trở nên hào sảng như thế…?! 

Về đến SG, vừa tính ghé thăm Hòa Râu thì y đã tự tới, thần sắc xem ra hãy còn bạc nhược lắm. Không cần phải rào đón gì cả, Hòa Râu đi ngay vào việc chính “chú có còn ít “đạn dược” nào không, dạo này anh kẹt quá, chắc phải biến đi một thời gian chứ vụ này chắc trắng tay rồi” – “anh chọc vào ổ kiến lửa thì phen này chạy đâu cho thoát” – “ý chú nói gì anh không hiểu ?” – “Ông già “Đương liều” ra tận đảo để tìm y đó, anh chưa nghe vụ này hay sao” – nghe nói như vậy Hòa Râu buông phịch người xuống ghế, xem ra y cũng còn biết sợ, suy nghĩ một hồi y mới nói tiếp “hôm đó anh chạy gấp quá nên cũng không kịp nhìn thấy “Đương liều” ra sao, có điều nó bùa phép dữ lắm, chắc cũng không đến nỗi chết” – ĐHC bèn nhá thử y một đòn “hổm bửa gặp ông già trên núi, nghe nói “Đương liều” lấy cái gì đó nên ổng phải tìm theo…” – Hòa Râu hơi đổi sắc mặt một cái, nhưng y vẫn nói cứng “anh cũng khuyên “Đương liều” suốt, nói nó có gì thì cứ cố gắng theo anh mà làm ăn, đừng có táy máy của ông già này nọ mà nó vẫn không nghe lời, thôi để anh ra đảo lần nữa tìm nó dẫn về cho ông già” – Hòa Râu chắc vẫn chưa biết vụ trung úy Tâm tử nạn nên y mới nói đại như vậy – “thế sao anh không ghé Hải thọt” – Hòa Râu lắc đầu nói “xài béng hết tiền của y rồi mà vẫn chưa được việc gì cả nên thấy ghé cũng kỳ…’ – Vụ này Hòa Râu chắc cũng kiếm được rất khá, vậy mà y nhẵn túi như vậy thì không biết bị thủng chỗ nào, y không đánh bài thì chắc là một cô vợ “siêu sao” nào đó đã làm ra chuyện – “trung úy Tâm bị chết ở trên đảo Ma rồi anh chưa biết sao ?” – Nghe nói điều này Hòa Râu mới thật sự hoảng vía, y xanh cả mặt “bên buôn hàng trước giờ vẫn tránh đụng độ với biên phòng…” – “chính vì thế nên chưa chắc anh ta chết vì đụng độ với băng đánh hàng….” - ĐHC thử y thêm một chiêu nữa vì nhớ đến Thích Kỳ Lân có nói ban đầu bọn Hòa Râu lên đảo là ba chứ không phải hai người,….biết đâu kẻ thứ ba lại đang ở đảo Ma không chừng…” 

Lời nói vu vơ nhiều khi không trúng chỗ này lại trúng chỗ khác, kẻ có tịch thì tất phải rục rịch…hơn nữa Hòa Râu đang đến để mượn tiền, y đã vào thế bí rồi, tiền của Hải thọt đâu phải là tiền chùa ? Hơn nữa cái “ổ kiến lửa” mà biết việc “Đương liều” mất tích tất sẽ tìm đến Hòa Râu cho bằng được ? muốn trốn thì cũng phải có chút đỉnh “đạn dược” chứ chẳng lẽ lại đi bằng cái mình không ? vì thế mà Hòa Râu cuối cùng cũng phải nói ra nhiều chuyện…. 

………………………………….. 

Trong lần về Miền Tây săn đồ “bờ”, y vô tình quen được “Đương liều”. Đúng ra là không phải vô tình, Hòa Râu nghe tiếng “Đương liều” lâu rồi nên tìm mọi cách để tiếp cận. Hòa Râu được trời phú cho cái nhân tướng hơn người, nên sau vài độ nhậu mát trời cộng với cái tài ăn nói và phong cách “dân chơi SG” chính hiệu nên “Đương liều” đâm ra phục đàn anh Hòa Râu sát đất. Hòa Râu biết “Đương liều” con nhà giàu có, lại là con một, được bà già ruột cưng như trứng mỏng nên tìm cách khai thác. Nhà đại gia vùng quê thường hay có nhiều món đồ cổ quý giá mà nhiều khi chính họ cũng không biết, huống hồ gia đình “Đương liều” có ông già là trưởng giáo của một xứ, suốt mấy chế độ, mấy thời kỳ ông ta vẫn vượt qua, gia sản vẫn giữ được mà không mất mát gì nhiều. Có điều do “Đương liều” quậy quá nên sau này ông già không còn tin tưởng mà giao cho bất cứ việc gì nữa, chỉ còn bà già lâu lâu bòn rút xin xỏ được chút đỉnh thì cũng chỉ đủ xài lặt vặt chứ đâu đủ để ăn chơi với thiên hạ. Vì thế trong một cuộc nhậu, vô tình y kể cho Hòa Râu nghe trong những đồ gia bảo của dòng họ có một cuốn gia phả trong đó có một cái bản đồ không biết là gì mà ông già giữ kỹ lắm….. Hòa Râu nghe “Đương liều” nói trong cuộc nhậu cũng đông người nên cứ vờ như không nghe thấy gì cả, nhưng trong bụng đã thầm lên kế hoạch…. 

“Anh hùng nan quá mỹ nhân quan”, “Đương liều” chưa là anh hùng nên miếng mồi để câu y cũng không cần phải là mỹ nhân cho lắm, Hòa Râu bồ bịch cũng nhiều nên y kéo luôn cô bồ của mình vào cuộc. Cô ta tên Kiều My, cô Kiều này có bản lãnh quyến rũ đàn ông vào tầm siêu hạng, “Đương liều” tuy cũng ăn chơi nhiều đấy nhưng cũng chỉ là tay “giang hồ tỉnh lẻ”, làm sao thoát khỏi những tuyệt chiêu của con yêu nhền nhện lúc nào cũng ngước đôi mắt nai lên nhìn chàng tha thiết…..Trước “cô Tấm” Kiều My, “Đương liều” cảm thấy mình đúng là một anh hùng thực sự, vì thế “người anh hùng” mới lấy tấm bản đồ, tiện tay nẫng luôn viên ngọc gia bảo mà ông già vẫn gìn giữ để cùng Hòa Râu và nàng Kiều mưu đồ đại sự. 

Có đồ trong tay, Hòa Râu nghĩ ngay đến Hải thọt…Còn Hải thọt trước giờ cũng nghe nói về loại ngọc quý này nhưng cũng chưa bao giờ được thấy tận mắt…Bây giờ vừa có ngọc, vừa có bản đồ, y múc ngay cho Hòa Râu “mấy cân thóc” liền…..Một đại gia ở SG đang cay cú vì mấy quả lừa của một nhóm nào đó bay hết mấy kông hàng, nghi là băng Sông Đông nên đang nhờ Hải thọt lo vụ này….Đúng là một công đôi việc, tiền thì đã có người chi, mối mua ngọc cũng đã có sẵn, Nghĩa Cổ bắt tay vào việc, bùa phép ra thêm một số ngọc nữa rồi tổ chức công việc đi tìm, nếu có thêm ngọc thật nữa thì càng tốt, còn không thì với kịch bản đã dàn dựng công phu như vậy thì phần thắng cũng là cầm chắc rồi…. 

Phải chi “Đương liều” đừng có nổi máu anh hùng, thà y ôm cục tiền dẫn quách người đẹp đi du hý ở đâu đó…đằng này y lại đi theo Hòa Râu để bây giờ mất tích…cái “ổ kiến lửa” đó mà tràn ra thì…, Người thứ ba đi chung với Hòa Râu chắc là Nghĩa Cổ rồi, có điều y đâu có điên mà bắn hạ trung úy Tâm, nếu anh ta không phải vì bị tai nạn, té ngã….mà là bị bắn thì có thể đã có một thế lực nữa xen vào vụ này….muốn xé vụ này ra thật to cho các phía triệt hạ nhau để đứng ngoài hưởng lợi rồi….

Hải thọt vẫn ngồi hút thuốc thật thong thả, y vẫn ung dung như ngày nào, có cảm tưởng như đất SG hay cả thế giới có nổ tung thì y vẫn ngồi nguyên như vậy. Y nói “không lẽ từ trước đến giờ chú chưa từng hút thuốc ?” – “hồi còn ở trên Đăknông tôi có hút bồ-đà, buổi tối trên đó rất lạnh, hút thứ đó có cảm giác lâng lâng ấm áp” – Hải thọt lấy ra một cái hộp với những điếu xì-gà viền vàng óng mời ĐHC, loại xì-gà này ngon thật, nghe nói giá nó cả trăm đô một điếu, so với bồ-đà tất nhiên nó phê hơn nhiều. Có điều nó đắt tiền quá, chỉ đại gia mới dám đốt loại này, hút nó giống như là đốt tiền vậy. Hải thọt nói tiếp “chú sắp xếp qua thăm ông già với anh…” – “ông ta hiện giờ ở đâu ?” – “biên phòng họ phong tỏa mấy hòn đảo rồi nên tạm thời ông ta đã trở về nhà…” – “vụ “Đương liều” ông ta biết chưa ?” – “Hòa Râu đã trốn mất nên hiện giờ cũng không rõ số phận nó như thế nào…ông ta cũng không tin “Đương liều” đã chết mà chỉ nghi nó trốn ra nước ngoài…”

Trong vụ này kẻ thiệt hại nặng nhất có lẽ là Trịnh Cao Nhân, y bắt buộc phải bỏ của chạy lấy người, mớ hàng giấu trên đảo bị phong tỏa không lấy được có nguy cơ mất trắng, công việc buôn bán bị ngưng trệ, cái chết của trung úy Tâm làm y lo sợ nên đã tẩu luôn qua Nga, không quên dẫn theo cả “Ngọc Ruby”. Kẻ giấu mặt ra tay thật thâm độc, quả là một viên đạn trúng hai con chim một lúc. Hải thọt chắc là định mang tấm bản đồ và viên ngọc trả về cho ông già, vừa tránh chuyện đụng chạm sẽ dẫn đến đổ bể dây chuyền, vừa được tiếng là nhân nghĩa, Y đâu có thiệt hại gì, tiền bạc là của người khác bỏ ra, màn kịch cũng đã gần xong, chỉ cần có thêm thời gian…..

Thời gian…thời gian…. Người ta chỉ cảm thấy quý nó khi đã về cuối cuộc đời, cảm thấy tiếc từng giây, từng phút….vì thế mà người già lại chăm tập thể dục, tập dưỡng sinh để mong kéo dài tuổi thọ, còn người trẻ thì cảm thấy quỹ thời gian còn quá dư thừa nên tha hồ phung phí…..thậm chí nhiều người khi bị thất bại, bị thất tình còn có thể tự sát….Tuổi trẻ là tuổi dám hy sinh, tuổi già là tuổi dám chấp nhận bởi vì họ hiểu rằng chấp nhận là con đường duy nhất để tồn tại. Hải thọt và Ba Già là những kẻ như vậy, họ biết lúc nào sẽ phải chiến đấu, lúc nào thì phải chấp nhận, chấp nhận thương đau, chấp nhận mất mát, hơn nữa thời thế đã như vậy rồi nếu không chấp nhận thì cũng làm được gì ? Thà chấp nhận để rồi đến một lúc nào đó khi thời vận tới sẽ lấy lại tất cả - Vì thế nên lần đầu tiên ĐHC mới thấy Hải thọt nhếch môi lên cười nhạt “Trịnh Cao Nhân tưởng tiền bạc nhiều là có thể “ăn đằng sống, nói đằng gió” được à, nó còn phải học nhiều lắm…phen này e rằng nó một đi không trở lại…”

Chỉ cần biết kiên nhẫn chờ đợi…đó là đại kế để thành công, vậy mà không phải ai cũng làm được điều đó, nhiều người chỉ vì nóng vội một chút mà hư cả công việc hoặc chạy xe nôn nóng một chút mà nhiều khi trả giá bằng cả tính mạng. Hải thọt là kẻ có thể kiên nhẫn chờ đợi, y có cái phong thái của một con cáo già, rất chậm chạp, rất đa nghi và sâu hiểm khó lường. Hôm đó, ngồi ngay trong căn nhà cổ, Hải thọt mở ra tấm bản đồ và viên ngọc làm ông già nhìn sửng….Ông đâu có ngờ là báu vật gia truyền lại có thể trở về nhanh như vậy. Hải thọt đúng là có những cách hành xử đặc biệt, y đâu chịu nhận một sự đền trả vật chất nào từ phía ông già, y muốn ông ta phải nợ y một món, đó là nợ tình nghĩa…y đã có đủ tiền rồi, có thêm nữa thì cũng đâu là gì….

Kẻ đứng sau lưng Hải thọt nếu không có bản lãnh hơn người thì chắc phải có tiền bạc, thế lực hơn người…cái thế lực có thể làm biển xanh phải dậy sóng,…làm cho ĐHC, Ba Già phải khăn gói ra đảo tới lần thứ ba…lần này lại có thêm một cô gái, một cô gái quê mùa sống ở một ngôi làng ven bờ biển có cái tên nghe rất mộc mạc là Nguyễn thị Muồng. Cô ta là người có khả năng thông linh, dễ bị ma quỷ nhập, biết đâu sẽ có một linh hồn nào đó mượn xác của cô ta để nói ra một điều gì cần thiết…..hơn nữa Thích Kỳ Lân khoe rằng có thể chữa được tà nhập, thử nhờ ông ta cúng bái, đốt bùa đọc chú biết đâu cô gái may mắn trở lại cuộc sống của một người bình thường, có thể đi làm kiếm tiền nuôi mẹ và mấy đứa em nhỏ dại. Biển khơi thật là êm đềm phẳng lặng, phóng tầm mắt ra ngút ngát thấy đường chân trời xa vời vợi. Làn gió biển thổi lồng lộng làm mái tóc của cô gái bay phất phới…biển khơi bao la đã biến một cô gái xấu xí trở nên đẹp đẽ, có lẽ đó chính là điều huyền diệu của biển cả….Trong vòng tay của nữ thần biển, mọi người đàn bà đều trở nên lộng lẫy và duyên dáng. Từng đợt sóng biển lăn tăn, từng đàn cá trích đua nhau khoe vảy lấp la lấp lánh. Biển cả chất chứa biết bao bí mật, hôm nay nó thật là êm đềm, sau cái êm đềm đó như là muốn báo trước dông tố sắp nổi lên rồi… dường như chuyến đi này sẽ là chuyến đi cuối cùng, mọi việc sắp trở nên rõ ràng, chẳng phải nữ thần biển khơi đã muốn như thế sao ? Quyền lực vĩ đại của thần đã làm biển khơi trở nên tươi đẹp, trong xanh cho một sự khởi đầu thật là tốt đẹp.

Lên đến bờ thì Tư Gồng đã chờ sẵn, lại vào cái quán nhỏ để ngồi nghỉ…bà già lại mang chai rượu bào ngư, dĩa khô cá mối và tô cháo hào ra, bà ta nói “mấy chú đi tới đi lui suốt, có thu mua được gì chưa ?” – “tụi tôi bận quá, chắc lần này nhờ bà mua giùm vài chục ký khô mực, đỉa biển mang về làm quà…” – Không lẽ lại móc tiền ra cho bà cụ, e rằng bà ta không nhận, nhờ bà ta thu mua giùm thì bà cũng có được chút đỉnh. Thằng cháu nhỏ đang ngồi ngịch cát trước cửa, nó đen nhem nhẻm, toát lên vẻ mạnh khỏe của một đứa trẻ miền biển luôn được hít thở bầu không khí trong lành và tình người nồng hậu…đây là nơi mà con người chưa tuyệt vọng, tình người chưa suy đồi và sự xa cách giống như một bài ca….sự dỗi hờn giống như một bản nhạc.

Tư Gồng nói nhỏ “ Tìm được xác “Đương liều” rồi” – “y bị làm sao ?” – “Ông già “Đương liều” và hơn chục người nữa đang ở làng chài bên kia, ông ta đã xin được biên phòng cho thuê 5 dân chài lặn xuống mấy cái hang dưới biển tìm được xác “Đương liều” bị kẹt ở dưới đó, hiện giờ xác đang để ở bên biên phòng để họ khám nghiệm sau đó mới cho mang về” – “có dò được y vì sao mà chết không ?” – Tư Gồng thì thầm “nghe nói bị trúng một phát duy nhất ngay cổ, chết trước khi bị rớt xuống biển, kẻ bắn đúng là một thiện xạ, họ đang xét xem phát đạn bắn “Đương liều” và phát đạn bắn trung úy Tâm có phải là một….” - “trung úy Tâm cũng bị bắn à” – Tư Gồng gật đầu nói “ anh ta bị trúng một phát ngay thái dương, chết ngay lập tức, hang hốc trên đảo nhiều qua nên tìm chưa ra thủ phạm, có thể kẻ bắn mang theo đồ lặn, sau khi bắn xong lặn luôn ra biển có ghe nhỏ chờ sẵn đón đi…Kẻ đó không bắn Hòa Râu chết có lẽ là để y chạy về dẫn dụ trung úy Tâm ra…mưu kế thật là sâu độc.” – “biên phòng họ có mời anh qua lấy lời khai không” – “có chứ, nhưng tôi đúng là không biết gì nhiều, họ đang tìm Hòa Râu, thằng này phải gọi nó là Hòa điên mới đúng…phen này chắc nó tiêu rồi, nó là đầu mối mọi chuyện” – ĐHC nhớ lại hôm Hòa Râu đến mượn tiền, thần sắc hớt hãi, có được chút tiền là y vội biến ngay, khả năng duy nhất của y là qua TQ…hoặc Miên” – “anh biết nhiều quá rồi, lần này có lẽ cũng không nên ở lại” – Tư Gồng than thở “nơi này tuyệt quá, định ở lại lập nghiệp ai dè gặp vụ này, chắc là phải trở về đất liền một thời gian, vài năm sau mới quay trở lại…” - “có xác định được kẻ thứ ba đi với Hòa Râu là ai không ?” – Tư Gồng không nói gì, y nhìn Ba Già, Ba Già vẫn ngồi lạnh lùng, y móc xì-gà ra thong thả hút, nhả ra từng làn khói trắng, khi y đang hút thuốc thì không bao giờ nói gì cả….

Mấy hôm sau tình hình có vẻ tạm lắng, xác “Đương liều” đã được đưa về, ĐHC và Ba Già mới dẫn cô gái lên ngôi chùa của Thích Kỳ Lân. Cô ta mấy hôm nay phụ với bà chủ quán dọn dẹp, buôn bán rất vui vẻ. Ma quỷ xem ra khôn ngoan thật, chờ mãi mà chẳng thấy nhập vào cô gái gì cả…đúng là mong ngóng thì không bao giờ được, còn chẳng mong gì thì lại thấy cao nhân lù lù hiện tới. Cao nhân ở đây chính là thiếu tá Hà, phải thay một trung úy bằng một thiếu tá thì chứng tỏ nơi đây đã bắt đầu được quan tâm đặc biệt. Thiếu tá Hà đã trạc hàng băm rồi, mới tới chưa đầy tháng mà dân trên đảo đã gọi là “Hà bá” thì cũng đủ hiểu y khó chịu đến mức nào. Khác hẳn với trung úy Tâm hình vóc to lớn, tính tình hào sảng, thiếu tá Hà ốm tong ốm teo, mũi khoằm khoằm, môi mỏng quẹt, khi nói chuyện hai hàm răng khít rịt. Y lại nói giọng Nghệ Tĩnh thành ra cả ĐHC lẫn Ba Già dỏng cả bốn lỗ tai lên mà nghe cũng không rõ….Hầu như chiều nào y cũng ghé vào quán, ngồi ăn một tô cháo, uống vài ly rượu, nói chuyện thời tiết bâng quơ với ông già Hai Lẹ. Có lúc Tư Gồng rủ y đánh cờ tướng vài ván, về khoản này Thiếu tá Hà đúng là một cao thủ, y đánh cờ thật hay, đến Ba Già cũng phải chịu thua “xa gia đình suốt nên buồn, nhiều khi đánh cờ cả đêm thành ra nó khá thôi các bác ạ….”. Có lần Ba Già ghé tai ĐHC nói nhỏ “anh thấy chú còn sáng giá hơn Tư Gồng đó…” – “sáng cái gì chứ…” – “chú là người đưa Hòa Râu về, suốt dọc đường chắc nó thế nào cũng có nói gì đó…?” – “vậy thì sao….?” – “thế mà họ làm như không biết gì cả, cũng không mời chú lên…..” – “thì mồi câu đã mắc vào lưỡi rồi, còn thoát đi đâu được nữa, bây giờ chỉ là chờ con cá lớn….”

Con cá lớn chờ mãi cũng chưa thấy, thành ra hôm đó ngồi với Thích Kỳ Lân, ông ta có dịp nổ văng tới tới “….đm…lần gặp thằng đó tôi đã nói rồi, dáng đi thì xiên xiên, cái mặt lại hóc hóc, đúng là cái tướng chết yểu…đm…vậy mà nói để tôi cúng giải hạn cho mà nó đâu có nghe…thành ra chết cũng đáng kiếp…chỉ tội nghiệp cho ông già, con người đạo đức như thế…”. Hôm đó Thích Kỳ Lân có vẻ rất vui, mà không vui sao được khi Ba Già lại hào phóng cúng dường cả hàng mấy chai, lại mua thêm mấy thúng trái cây để cô Muồng mang lên làm lễ cúng. Chiều đã xuống rồi, mặt trời đã bắt đầu lặn, to như cái thúng và ánh sáng tràn ngập khắp nơi một màu vàng nhàn nhạt như mỡ gà, chắc ngày mai sẽ có mưa to….Đang ngồi với Thích Kỳ Lân và Ba Già, bỗng thấy cô Muồng từ trong chùa đi ra, cô ta và mấy người nữa chắc đã sắp trái cây và cúng xong….có điều sao thấy dáng đi của cô ta có phần hơi kỳ kỳ, nó lệnh khệnh lạng khạng, cô ta đi rảo rảo vòng vòng sau đó đến ngồi cạnh Thích Kỳ Lân, với tay lấy điếu thuốc Vinataba, đưa lên môi sau đó từ từ bật quẹt châm lửa hút… Thích Kỳ Lân chưa nhận ra điều đó, ông ta còn mải văng tục với mấy chú tiểu cái tội bẻ mấy nải chuối còn non, còn ĐHC thì đã sợ cứng cả người….dáng điệu của cô ta giống trung úy Tâm như hệt. Đến khi cô gái cất cái giọng…đàn ông khào khào nói “hũ rượu rít của ông hay thật, hôm đó mang về cho mấy anh em bị sưng trật do đốn cây làm nhà xoa bóp mấy bữa là hết liền..” thì Thích Kỳ Lân mới giật bắn người, từ trên ghế ông ta té lăn luôn xuống đất. Có vẻ như trung úy Tâm chưa biết mình đã chết thì phải, cử chỉ còn kín kẽ lắm, cặp mắt ngó tới ngó lui dò xét làm Ba Già đang hút điếu xì-gà phải ngưng cả thở sau đó y chuyển qua ho sặc sụa….Trung úy Tâm lại nói “sắp tới tụi tôi sẽ tổ chức mấy lớp dạy chữ xóa mù cho trẻ em, ông cho mấy chú tiểu qua đó học, tụi tôi sẽ cho toàn bộ giấy viết…”. Nói tới đó thì “anh ta” đứng lên, đi rảo một vòng nữa, lườm lườm nhìn mọi người rồi từ từ đi xuống núi….. ĐHC, Ba Già và Thích Kỳ Lân cũng lẽo đẽo theo sau. Xuống tới chân núi thì bỗng cô gái dừng lại, đứng một lúc rồi bất ngờ cô ta lại quay ngược trở lên…. Thích Kỳ Lân từng khoe là có tài trục ma trừ quỷ vậy mà thấy bộ dạng đi lên của cô gái thì ông ta bỗng dạt qua một bên, sau đó lủi đi đâu mất…..nhìn cách đi của cô ta thì hình như người này không còn là trung úy Tâm nữa….

Cô gái đi thật nhanh, từ dưới chân núi đi lên mà thoáng chốc đã gần tới, bình thường gương mặt cô ta xanh xanh nhợt nhợt, bây giờ nó lại đỏ phừng như người say rượu. Cô ta đi lướt qua nhẹ như gió thoảng, chân dường như không chạm đất, thoáng chốc đã gần đến đỉnh núi làm ĐHC và Ba Già chạy theo mệt nghỉ. Đến gần chùa đột nhiên cô ta dừng lại, đi men theo một con đường nhỏ vòng tuốt ra sau, con đường này là con đường mòn chạy ven theo sườn núi, hai bên cây cối um tùm rậm rạp. Cô ta đi nhanh quá, ĐHC và Ba Già lúc thì chạy, lúc thì bò, quần áo te tua hết cả. Đến một dòng suối nhỏ, hai bên là cả một rừng chuối mênh mông thì cô ta phóng luôn xuống, đi theo lòng suối ngược lên, đến một cái thác cao khoảng hơn hai mét thì đi xuyên luôn vào trong. Đi vào theo thì đâu thể ngờ được trong lòng thác lại có một cái hang động nở to ra như thế, nếu không có cô gái này dẫn đường thì chắc chắn không thể biết đến sự tồn tại của cái hang này….Hang này chắc chắn phải có nhiều khe hở vì gió thổi bên trong lồng lộng, du dương như tiếng sáo, lòng hang không ẩm thấp, hôi hám mà lại khô ráo, phảng phất mùi thơm…chẳng còn thấy bóng cô ta đâu, ĐHC và Ba Già cứ tiến sâu vào đại…nhũ đá hai bên vách hang chảy xuống tạo ra những hình thù kỳ dị, đủ màu đủ sắc, có những nhũ đá non hồng hồng, có mùi thơm phảng phất…đã từng nghe vài người nói về mùi thơm của nhũ đá bây giờ mới cảm thấy thật sự là điều này có thật. Lúc nãy ở bên ngoài trời đã sập tối rồi, vậy mà trong hang lại có ánh sáng mờ mờ lung linh kỳ lạ, chưa biết là từ đâu….khung cảnh thật là tuyệt đẹp. Những linh hồn thực ra rất ưa chuộng sự sạch sẽ, thơm tho như người sống vậy…ĐHC đã từng chứng kiến trong một ngày rằm tháng bảy, trên một con đường, lúc người ta đang cúng cô hồn thì bất ngờ có một chiếc xe rác từ đâu đi ngang trờ tới, cái mùi hôi nồng nặc của cái xe chở rác làm cho cô hồn, ngạ quỷ bỏ chạy tán loạn, có bóng quýnh quáng lao thẳng vào ĐHC lúc đó đang ngồi trong cái quán ven đường, làm lúc đó giật bắn mình, né qua một bên, té ngang làm cả quán cũng ngạc nhiên, không hiểu sao tự nhiên lại ngã như vậy. Vì thế những hang hốc dơ dáy, tối tăm, hôi hám thực ra ít khi có hồn ma trú ngụ. Đâu phải ngẫu nhiên mà người sống phải năng dọn dẹp mồ mả ông bà cha mẹ, những nơi đó phải sạch sẽ thơm tho thì linh hồn mới yên nghỉ được, có trồng cây cỏ hoa lá thì phải chăm sóc cho nó tươi tốt, đừng để cỏ dại, rêu phong đeo bám thì con cháu mới có đường phát đạt.

Thích Kỳ Lân chắc là phải rất quen thân với linh hồn này nên ông ta thoáng thấy từ xa đã nhận ra được, sau đó lại trốn mất biệt thì chắc là phải có chuyện gì đó hồi lúc trước….Đi khắp hết cả hang mà cũng chẳng thấy cô gái đâu, cái hang này không hề ăn thông đi đâu cả, chỉ hơi có nhiều ngách, tìm mãi không được , đành phải quay trở ra ngoài…Bên ngoài trời đã tối hù mà không hiểu sao trong hang lại có ánh sáng mới lạ….Lần mò trở về chùa thì nghe nói Thích Kỳ Lân cũng chưa thấy về, đi xuống làng chài thì nhà nhà đều đã lên đèn, tiếng thuyền chài cập bến, tiếng va chạm của những sợi dây chão, tiếng nước vỗ ràn rạt, tiếng người gọi nhau í ới…không gian thanh bình như chưa từng xảy ra chuyện gì, tất cả như chìm vào một biển khơi vô cùng vô tận….

Trong quán, cô gái đang phụ làm bếp cho bà cụ già, nom cô ta thản nhiên như chưa hề biết gì cả…cô ta đi về đây bằng con đường nào vậy cà ? Quán có thêm mấy người lạ nên cũng chưa tiện hỏi. Có hai người đang ngồi, một người to mập, tròn như quả bóng, dễ chừng nặng cả trăm ký…mặc cái áo hoa lòe lọet, nhìn ông ta giống y như hình mấy ông đầu bếp trong mấy gói bột cà-ry của Ấn, có bộ ria mép nom rất oách. Còn người bên cạnh thì lại còm nhom, hai mắt vàng khè, nhìn là biết ngay là bị bệnh đau bao tử kinh niên hành hạ. Theo như ông già Hai Lẹ thì chắc ông này chính là ông Hùng, còn gọi là “Hùng Mập”, ông ta mới chính là người thu mua vi cá, đỉa biển, bào ngư thực thụ….Bàn tay của ông ta to bè bè, những ngón tay hồng hào nần nẫn, núc thịt mà lại sát rịt…bàn tay của một người giàu có thực sự. Thấy ĐHC và Ba Già, ông ta gật đầu chào, nở nụ cười tươi roi rói, đúng là một con người dễ gần gũi thân thiện “nghe bà cụ nói mấy ông ở đây…hê hê hê….lần này tôi đi ghe riêng nên ở trển luôn. Buổi tối có rảnh mấy ông qua chơi, ông bạn tôi không nhậu được chứ tôi nhậu là khỏi nói….”

Bà chủ quán thấy ĐHC và Ba Già thì la lên “trời ơi sao hai ông đi đâu mà quần áo te tua thế…mau tắm giặt thay đồ rồi hãy đi đâu thì đi”. Cũng may là vừa thay đồ xong thì thiếu tá Hà tới, chứ không thì thấy mặc bộ đồ dính đầy sình đất như vậy chắc chắn y sẽ nghi ngờ. Lần này thiếu tá Hà không đi một mình mà đi cùng với hai người lính nữa, kéo ghế ngồi xong xuôi, y quay qua nói với Ba Già “sao hôm nay ông có ý định phục thù chứ…?” – Ba Già đáp “được thôi, hôm nay tôi với ông đánh 3 ván party, ai thua phải đãi một chầu nhé…” – Ba Già chủ yếu đánh cờ theo kinh nghiệm, quanh đi quẩn lại chỉ có vài chiêu, vài thế, khó có thể thắng được thiếu tá Hà, y chắc có đọc sách về cờ tướng nhiều nên ra quân rất bài bản, thiên biến vạn hóa, nước cờ chặt chẽ vô cùng. Hùng Mập cũng lại gần ngồi, ông ta phải xách riêng theo một cái ghế bằng thép to tổ chảng chứ không dám ngồi ghế của quán, với cái tấm thân trên trăm ký của ông ta thì ghế gỗ nào chịu cho nổi. Xem được một lúc thì ông ta nói “hay là mấy ông lên ghe tôi chơi tiếp đi, vừa uống lai rai vừa chơi…chắc mấy ông ăn đồ biển mãi cũng ngán, hôm nay tôi đãi mấy ông 2 món gà rô-ty mật ong và gà nấu đậu, tôi có mang theo cả chục con gà ướp trong hầm đá”. Chắc Hùng Mập tính chủ động làm quen sếp mới của đảo nên ông ta tỏ ra nhiệt tình vồn vã, còn thiếu tá Hà vì là người mới nên cũng muốn thị sát tình hình, ông ta đồng ý qua liền. Ghe của Hùng Mập neo cũng gần, đi khoảng trăm mét, sau đó qua cái cầu gỗ dài chừng ba chục mét là tới…so với ghe ở đảo thì ghe của ông ta to hơn nhiều, nom khang trang hơn hẳn. Cả bọn kéo ra mũi ghe ngồi cho mát, trong lúc chờ người làm món “gà rô-ty và gà nấu đậu”, Hùng Mập lấy ra một can rượu thơm phức, một đĩa mực ống thái mỏng với mù tạt để lai rai trước. Khi thiếu tá Hà và Ba Già đang căng thẳng trong cuộc đấu party ba ván thì Hùng Mập thao thao kể về đủ các món ăn đặc sản miền biển và các cách chế biến cầu kỳ phức tạp, chủ nhân xem ra có vẻ là người sành ăn có hạng. Hết món mực ống tái, Hùng Mập bắt ra mấy con cua lửa hấp rượu ngay tại chỗ, ông ta nói món “cua lửa hấp rượu” này là bổ dương bậc nhất “các chú lính trẻ ăn vào tối nay tha hồ mà bắn máy bay nhá…”

ĐHC giả bộ có việc quay lại quán, thấy cô ta đang dọn dẹp cũng không hỏi vì thật ra có hỏi thì chắc chắn cô ta cũng chẳng nhớ gì, trong hang phải có một con đường ra nữa thì cô mới có thể về quán nhanh như vậy, ngày mai chắc là phải trở lại dò cái hang kỹ hơn nữa. Lại đảo lên trên chùa, ban đêm đường đi hơi khó, phải dùng đèn pin soi kỹ vì ở đây có khá nhiều rít độc, có khi cón có cả trăn nữa. Đến nơi thì thấy Thích Kỳ Lân đã về, thấy ĐHC mặt ông ta sa sầm xuống “mấy ông mang theo con nhỏ đó làm gì vậy…?” – “thì nghe sư thầy nói có thể trừ ma được nên tụi tôi mang cô ta lên tính nhờ giúp” – “Sao không nói trước…” – “cũng tính nói nhưng không hiểu sao mấy ngày nay thấy cô ta cũng bình thường…thầy biết lúc nãy ai nhập vào cô ta không ?” – Thích Kỳ Lân nghe hỏi thì xua tay đáp “không biết, không biết…đm…lúc nãy tự dưng tôi đau bụng quá nên phải chạy đi thôi…con nhỏ đó bây giờ sao rồi ?” – “cô ta tỉnh lại rồi nhưng không còn nhớ gì hết” – “mai ông dắt nó lên đây, tôi sẽ làm phép để ma quỷ không còn dám nhập vào nó nữa”. 

Quay lại ghe thì cuộc cờ đã xong, tất nhiên phần thắng phải thuộc về thiếu tá Hà rồi. Là người chiến thắng nên y tỏ ra rất vui vẻ, uống rượu thiệt tình, khi ngà ngà thì kể chuyện về những tháng ngày làm trên tàu cứu hộ của hải quân cũng vào sinh ra tử như cơm bữa. Có giao tiếp mới thấy y cũng tình cảm lắm, chỉ có cái vẻ bề ngoài đăm đăm khiến người khác cảm thấy sợ. 

Ở miền biển ăn hải sản hoài nên cũng ngán, hôm nay ăn món “gà rô ty mật ong” của Hùng Mập đâm ra ngon tuyệt, còn món gà nấu đậu thì quá béo, hầu như không ai ăn, một mình Hùng Mập xơi hết nguyên con gà, thêm một tô đậu to đùng…thảo nào mà ông ta không có một thân hình phì nhiêu như vậy. Người bạn của Hùng Mập không tham gia, y đã đi ngủ từ lúc nào, đúng là căn bệnh đau bao tử làm con người ta muốn vui cũng không nổi. Trời bắt đầu chuyển gió mạnh, hơi nước nồng thêm vị mặn, thiếu tá Hà và hai người lính ra về trước. Nhớ lại đám mây màu mỡ gà hồi chiều, ĐHC và Ba Già cũng lật đật cáo từ, quả nhiên về đến quán thì mưa xuống ầm ầm, mưa miền biển bao giờ cũng kèm theo sét đánh sáng rực cả bầu trời, giờ này quán không còn ai, xung quanh là cả một màu đen như mực. Mưa là một điềm tốt, cầu trời cho ngày mai mưa lớn hơn nữa để dễ bề hành sự. Ba Già chưa chịu ngủ ngay, y trầm ngâm một hồi rồi nói “Thích Kỳ Lân tỏ ra rất sợ hãi thì người đó có thể là ông sư đã mất chôn ở sau chùa. Linh hồn ông ta chắc là đã siêu thoát từ lâu nhưng còn lại một ít thể phách ở quanh quẩn bên mộ, khi cô Muồng mang trái cây ra cúng thì vô tình đã gặp được cái thể phách còn sót đó…hồi tôi còn ở Côn Đảo cũng đã từng chứng kiến một việc tương tự. Nhưng trường hợp như cô gái này là cực kỳ hiếm, tinh thần bị khủng hoảng nghiêm trọng bỗng phát lộ khả năng thông linh, lại may mắn gặp được thể phách khi thăm mộ của sư thầy thì còn hiếm có hơn nữa. Khi trung úy Tâm nhập vào cô ta đi xuống đã dừng ở chân núi khá lâu, định đi tiếp để làm gì đó nên cái phách này mới đẩy vong y ra, sau đó khi quay lại thì thấy Thích Kỳ Lân thì nổi giận nên mặt cô gái mới đỏ phừng lên như vậy.” – “ông ta dẫn chúng ta đến cái hang làm gì ?” – “cũng không rõ, có điều đây là điềm may cho cô gái, cũng là phải thôi vì cô ta đã phải chịu biết bao đau khổ. Cái thể phách còn sót lại này ở trong người cô ta thì ma quỷ nào còn có thể nhập vào được nữa, cô ta chẳng những trở lại bình thường mà lại có thêm khả năng thông linh không chừng” – “nếu vậy thì không cần phải dẫn cô ta lên chùa cho Thích Kỳ Lân làm phép nữa” – “giao cô ta cho y thì chẳng khác nào giao trứng cho ác, nếu y chỉ nói dóc thì cũng còn là may. Còn nếu y có bản lãnh thực sự, cái khả năng đó sẽ gây thêm nhiều điều ác. Có điều cũng đừng nói cho cô ta biết gì hết vì nếu cô ta lại tận dụng cái khả năng phi thường của mình để làm những chuyện như lên đồng nhập cốt để thu lợi thì đến một lúc nào đó cái thể phách thần thông tan biến, lúc đó ma quỷ trở lại sẽ vô phương cứu chữa” - Ba Già suy luận hay thật, đâu phải ngẫu nhiên mà y với Hải thọt là tay mặt, tay trái…sở dĩ y thất bại trong cuộc đời chẳng qua là do số mệnh, số mệnh thì không thể biến cải được, cần phải học cách để chấp nhận nó. 

Ba Già còn nói lảm nhảm thêm một lúc nữa thì mới chịu ngủ, lúc nãy y uống cũng khá nhiều. Thiếu tá Hà một ly thì y cũng một ly, Hùng Mập một ly thì y cũng một ly, uống đúp như vậy thì say cũng phải… Hình như y rất vui vẻ, y vui vì điều gì nhỉ ? ĐHC trở dậy đi xuống nhà dưới, mưa vẫn còn nặng hạt, gió biển thổi ào ào, mưa gió kiểu này sẽ làm cho những người mệt mỏi ngủ thật say…bà già và đứa nhỏ, cô gái cũng không nằm ngoài qui luật đó. Bà cụ ngủ ngồi bên chiếc võng nom thật tội, cái dáng co ro oằn xuống trước sức nặng của cô đơn và tuổi già, đứa nhỏ cũng ngủ say sưa, nó chưa hiểu thế nào là nỗi khổ của sự mồ côi không cha không mẹ, không biết mơ thấy cái gì mà trên môi như phảng phất nụ cười. Còn cô gái sau buổi chiều bị ma nhập chắc bây giờ bắt đầu thấm mệt nên đã ngủ say trên chiếc chõng dưới ánh đèn dầu leo lét, cô ta thậm chí còn không kịp mắc mùng. Cái ánh đèn mờ ảo chiếu lên thân thể nủa kín nửa hở, tuy mệt mỏi vì công việc nhưng vẫn tràn trề sức sống, vẫn toát lên vẻ quyến rũ đầy nữ tính, bờ vai tròn trịa và vòng eo gợi cảm toát lên vẻ đẹp thánh thiện như một nữ thần.

Mưa càng lúc càng to, trời tối đen như mực, ĐHC men theo con đường nhỏ lần mò trên những vũng lầy trơn trợt, phải lấy tấm ni lon vàng bọc cái đèn pin lại soi đường thì mới lò dò đi được. Nhờ có men rượu trong người nên chưa cảm thấy lạnh, đi được khoảng ba trăm mét thì tới cây cầu nhỏ, nơi ghe Tư Gồng và mấy người bạn của y vẫn đậu…trời mưa gió như thế mà chiếc ghe đã đi đâu mất. Đứng sát vào vách một cái phên nhà, bây giờ mới bắt đầu cảm thấy lạnh giá. Thỉnh thoảng lại có chớp làm cả không gian sáng rực, phải đứng thật lâu trong cơn mưa lạnh buốt như vậy mới làm cho đầu óc thật tỉnh táo, giờ phút này mà không tỉnh thì tất phải trả giá rất đắt…Ba Già nói hư hư thực thực, dương đông kích tây như vậy chắc là để làm nhiễu sự suy đoán của người khác. Mục đích của y đưa cô gái lên đảo là muốn cô ta bị ma nhập quậy tưng bừng, sẽ làm cả làng chài rối loạn, kéo theo một kẻ ranh ma quỷ quyệt như Thích Kỳ Lân đâm ra phải chùn bước. Mưu kế này xem ra tạm thành công một nửa vì con ma nhập lại có vẻ hiền, hơn nữa ma quỷ đâu có tuân theo ý chí của con người, mình muốn một đằng thì nó sẽ làm một nẻo. 

Bàn cờ của Hải thọt đã dần dần hiện rõ….hai con chốt tả hữu đã làm xong việc. Con chốt “Đương liều” và con chốt “Hòa Râu” đã được thí với con mã là trung úy Tâm, con mã mà đã xanh cỏ thì con xe Trịnh Cao Nhân tất phải gãy đổ, họ Trịnh không chết nhưng phải cao bay xa chạy, bỏ hàng bỏ của. Hòa Râu may không tử nhưng cũng bại tẩu. Trong lúc đó thì cặp pháo mã đi đầu đã tung hoành xuất trận. Con pháo “Tư Gồng” thoắt ẩn thoắt hiện, bay qua bay lại, đã làm những việc có lẽ là quan trọng bậc nhất…con pháo này hay thật, đến ĐHC là kẻ thân cận mà cũng chủ quan không nhận ra, hiển nhiên đã qua mặt được tất cả mọi người. Còn con mã Ba Già đưa lên là để giữ con chốt giữa, con chốt giữa là ai vậy nhỉ…con chốt này nếu không được thí đầu tiên thì sẽ để dành thí cuối cùng, nó có nhiệm vụ che mặt tướng, nó chẳng là gì cả nhưng vì nó lại nằm ở trung tâm nên thiên hạ phải chú ý….nó làm một con xe mới xuất hiện trên bàn cờ là thiếu tá Hà bị nhiễu, con chốt đó không phải là ĐHC thì còn là ai nữa…? Còn một con xe “Nghĩa Cổ” thì đã được cài sâu vào trận địa từ lâu, đã xuống tận cuối bàn cờ mai phục và cũng như Tư Gồng, đã hoàn thành những việc vô cùng quan trọng. Hùng Mập và một người nữa mới xuất hiện sau, họ xuất hiện rất đúng lúc, họ đang là những quân gì trên bàn cờ của Hải thọt ? 

Mưa đã hơi tạm ngừng, gió cũng đã bớt mạnh, cái lạnh cũng đã bớt thấm như để chuẩn bị cho một trận nữa lớn hơn. Hai ngày nữa là đến ngày 9/9, ngày trùng cửu, ngày này dân chài trên đảo sẽ làm một cái lễ rất long trọng theo phong tục hàng năm rước Đông Hải Long Vương để cầu bình an biển lặng. Một ngày duy nhất nhộn nhịp trên đảo, tiệc rượu tưng bừng, Thích Kỳ Lân và vài bô lão như ông già Hai Lẹ…sẽ chủ trì cúng tế, ghe thuyền sẽ chạy lòng vòng, mọi người sẽ vui như tết đến…Lúc đó thì chắc con xe cuối cùng cũng sẽ xuất trận…. 

Đến lúc này thì đã hiểu được “Ngọc Ruby” là quân gì trên bàn cờ. Thì ra cô ta cũng là một con chốt, một con chốt của các “đàn anh” bên Nga. Một con chốt giữa nguy hiểm và có thể nói là xinh đẹp bậc nhất trên thế giới này. Cô ta theo sát Trịnh Cao Nhân, lên giường cùng với y mặc dù hẳn là cô ta biết tỏng kẻ đã ra lệnh bắn hạ “Hoàng mọi” là người nào. Cô ta đã được huấn luyện để làm những việc đó, có thể chiến thắng trên mọi đấu trường, từ những nơi hung hiểm nhất như thương trường hay nơi ngọt ngào nhất là chiếc giường ngủ êm ái. Sau những cuộc ái ân ngọt ngào, đến một lúc nào đó tự tay cô ta sẽ bắn hạ họ Trịnh….cô ta có thể làm được việc đó, và nó chắc cũng gần tới rồi. Một mỹ nhân như “Ngọc Ruby” mà để mắt đến người đàn ông nào mà người đó không vì cô ta mà chết thì mới là chuyện lạ kỳ, Trịnh Cao Nhân cũng không thoát khỏi điều đó, y chấp nhận để kẻ thù ở bên cạnh chỉ để được mỗi ngày ngắm nhìn cái thân hình tuyệt mỹ, được ngửi mùi hương tóc ngất ngây và được nghe giọng nói khàn khàn quyến rũ, để được một người đẹp tuyệt vời mỗi ngày thán phục và tuân lệnh. Tiền bạc và của cải nhiều để làm gì nếu không có mỹ nữ ở bên cạnh ? ĐHC cũng không là ngoại lệ, có điều may mắn là chưa được cô ta chú ý đến nhiều, cô ta chỉ đang thăm dò xem ĐHC đã biết được những gì, nếu lần gặp trước mà sơ hở thì chắc là đã đi theo “Đương liều” xuống địa ngục rồi. Cô ta chắc cũng đã giẫm lên xác nhiều người đàn ông….trở thành một trong số họ thì cũng thê thảm quá. 

Mưa bắt đầu to trở lại, gió thổi càng lúc càng mạnh, biển khơi trước mặt tối đen mù mịt, tiếng sóng ầm ào hòa lẫn trong tiếng mưa, tiếng gió, chiếc cầu trước mặt bỗng xuất hiện một cái bóng đen sì. Cái bóng này hẳn là đi từ dưới nước lên nên mới xuất hiện thình lình như vậy, kẻ này chắc là cũng đến tìm Tư Gồng, nhưng đi một cách im lìm theo đường nước như vậy thì chắc là có dã tâm hơn là đến để nói chuyện. Cái bóng cũng đã nhìn thấy ĐHC, nó hơi khựng lại, trong màn đêm như thế này thì cả hai chỉ nhìn thấy nhau mờ mờ. Bỗng một ánh chớp sáng rực cả bầu trời…thì ra kẻ trước mặt không hề xa lạ, cái mặt gầy gầy, đôi mắt vàng khè bệnh hoạn, bộ đồ da đen bóng, trên tay lấp loáng ánh của một con dao mỏng lét…cái cách cầm dao thật là chuyên nghiệp, nó lỏng lẻo và nhẹ nhàng, mũi và lưỡi dao hơi hướng lên, tay buông thõng. Cách cầm dao kiểu này phù hợp với những người chân ngắn mà tay dài, đối phương rất dễ ngộ nhận về khoảng cách dẫn đến bị trúng đòn. Dao này nếu đâm xốc từ dưới lên cái lưỡi mỏng sẽ xuyên qua sườn thấu đến tận tim, còn lệch qua bụng thì sẽ thủng gan hay bao tử, cách nào cũng chết là cái chắc. Nhưng nguy hiểm không phải là ở chỗ đó…cũng có người né qua được, khi đó cánh tay dài sẽ vắt qua vai hoặc hông đối thủ, mũi dao sẽ trở ngược lại đâm thốc từ bên lưng trổ ra trước ngực không cách nào đỡ được. Đã từng có một võ sư tài năng nhưng thiếu một chút kinh nghiệm trên đấu trường giang hồ đã bị chết vì chiêu này. Khi nằm gục chết vì bị đâm từ lưng trổ ra ngực làm thủng tim, mọi người đều nghĩ là bị đâm lén, đâu thể nghĩ là đó là một cú ra đòn trực diện. Đấu trường giang hồ đâu phải là cuộc chiến công bằng trên võ đài nhiều màn, nhiều hiệp, nó chỉ diễn ra trong một tích tắc, sai lầm là phải trả giá ngay lập tức. Kẻ này tiến lên thật chậm chạp, y hơi bị mất lợi thế vì từ ngoài nhìn vào không rõ bằng từ trong nhìn ra. Hơn nữa ĐHC lại đứng tựa lưng sát vào vách lá, nếu đâm không trúng để dao dính vào vách thì là đổ nợ. Nếu giết chết được ĐHC thì đúng là họa lớn đối với bọn Hải thọt, vì chỗ này ngay sát chỗ đậu thuyền của Tư Gồng, y sẽ phải giải thích với CA đêm nay cho thuyền đi đâu và làm gì…Kẻ này chắc cũng nghĩ đến điều đó nên y ngày càng tiến sát, càng sát thì nhìn càng rõ, đâm càng chính xác và càng khó đỡ. Một cú đâm ở khoảng cách bốn tấc thì cầm chắc là sẽ thắng. 

Lại một ánh chớp nữa lóe sáng, kẻ đó đã nhận ra ĐHC, y hơi bất ngờ nên vụt nói “thì ra là mày…mày cũng hay lắm, đến rất đúng lúc…”, trong cái ánh lóe sáng, kẻ đó cũng đã nhìn thấy ánh dao lấp lánh trong tay ĐHC nên y cũng hơi thu mình lại, cuộc so cựa sắt này đâu phải là không công bằng….

Thời gian dường như ngừng lại, không khí thật là khó thở, tất cả tinh thần bây giờ đều tập trung vào kẻ trước mặt. Y vẫn nhích lên từ từ, khoảng cách ngày càng thu hẹp lại. Mưa ngày càng nặng hạt, gió thổi càng mạnh, từ bên trong nhìn ra mà chỉ còn thấy mờ mịt thì bên ngoài nhìn vào chắc là không còn thấy gì. Lợi thế đã nghiêng hẳn về phía ĐHC, lúc này mà co chân đạp mạnh thì tất phải trúng, nhưng đất dưới chân rất trơn trợt có thể té ngã hoặc vô tình tay dao lại đưa lên trúng ngay đùi thì cũng nguy hiểm, đưa cả hai vào thế “lưỡng bại câu thương” thì cũng không hay. Màn kịch sắp đến hồi kết mà về hưu sớm thì cũng uổng. Thế nên giải pháp tốt nhất là cứ đứng yên bất động, bóng đen mà nhích tới vừa tầm thì ra tay cũng còn kịp. Thêm một ánh chớp nữa thì không còn thấy bóng dáng áo đen đâu cả, đúng là “không chắc thắng thì không hành động”, người đến đã nhanh rồi mà đi còn nhanh hơn nữa. Chờ cho không khí tạm lắng xuống một lúc, ĐHC lại men theo con đường nhỏ trở về, trong cái bóng đêm mù mịt mới cảm thấy thấm thía sự cô đơn lẻ loi là như thế nào…cái chết đến chỉ cách trong gang tấc…thật là lặng lẽ, thật là đáng sợ. Về đến nơi thì người ướt sũng, cả quán vẫn chìm trong giấc ngủ, lên lầu thay bộ đồ xong thấy Ba Già vẫn còn say ngủ, hơi thở vẫn điều hòa…chắc là y giả vờ, có điều bàn cờ đã vào tàn cuộc rồi, thế cờ đã có phần rõ ràng, có đầu tư suy nghĩ thì cũng không còn thời gian nữa. Cảm thấy rất mệt mỏi nhưng nằm mãi mà vẫn không ngủ được, cứ chập chờn nửa tỉnh nửa mê, nghe mưa đến gần sáng thì mới tạnh. Sau cơn mưa trời ửng lên thật là đẹp, một cái cầu vồng bảy màu rực rỡ vắt ngang bầu trời, cầu vồng xuất hiện chắc là ngày hôm nay sẽ rất may mắn. Làng chài đã thức dậy sau giấc ngủ thanh bình trong một đêm mưa gió ồn ào, không khí bắt đầu tấp nập, những chiếc lưới cá bắt đầu được mang ra phơi, đội thuyền thúng cũng được kéo ra trên những bãi cát. Khi cầu vồng mờ đi thì cũng là lúc mặt trời ló rạng chiếu cái ánh sáng tinh khôi của nó khắp mọi nhà, cả làng chài bừng lên rực rỡ. Hai người lính trẻ đã đứng trước cửa quán từ hồi nào, một người nói “thiếu tá mời anh Ba qua bển có chút chuyện cần bàn” - anh Ba đây hẳn là Ba Già, không hiểu có việc quan trọng gì mà bên biên phòng mời y sớm như vậy. Ba Già đi rồi thì đây quả là dịp tốt nhất để lên thăm dò cái hang một lần nữa. ĐHC lại men theo con đường hôm qua, đi lên đến lưng chừng núi thì đã thấy Thích Kỳ Lân đứng chờ sẵn, đúng là con cáo tinh ranh thật. Y thật to lớn dị thường, sừng sững như quả núi, đường lầy lội cát sỏi như vậy mà y đi đất, hai bàn chân trùi trụi to bè bè đạp muốn bẹp cả mấy tảng đá. Trên người khoác cái áo màu nâu sậm, vai đeo một cái túi vải, y chẳng úp mở gì cả, vào đề ngay “hôm qua ông theo con nhỏ đó đi những đâu ?” – “cô ta đi vòng ra sau xuống suối, đến một cái thác thì đi xuyên vào bên trong có một cái hang ở đó” – Thích Kỳ Lân hơi tái mặt – “thế ông có đi vào theo cô ta không ?” – “có nhưng hang trống rỗng, không thấy gì lạ nên hôm nay tôi tính lên xem lại một lần nữa” – “con nhỏ bây giờ sao rồi ?” – “cũng bình thường, đang phụ bà già bán quán..” – “để tôi đi với ông, đi một mình nguy hiểm lắm”. 

Thích Kỳ Lân nói rất đúng, thám hiểm hang động mà đi một mình thì rất dễ bị tai nạn, chỉ cần trợt chân té hay bước hụt xuống một chỗ trũng nào đó là có thể bị thương ngay. Chưa kể còn gặp những con thú như trăn, rắn hay các loài kịch độc như rít, bò cạp, nhện…..tốt nhất là đi từ hai người trở lên để có thể hỗ trợ nhau được – “bộ tối hôm qua mất ngủ hay sao mà nom ông phờ phạc thế ?” – “thức cả đêm, sáng nay còn bò dậy nổi là may rồi…”. Đi một hồi thì tới con suối, trận mưa lớn hôm qua làm nước hôm nay cao thêm hàng nửa thước, lội theo lòng suối đến cái thác thì thấy đó chỉ là một cái thác bình thường, bên trong không hề có cái hang động nào cả. Lòng vòng tìm kiếm một hồi cũng không thấy, Thích Kỳ Lân leo lên một vỉa đá, y nói “đm….tôi ở đây tính ra trên nữa thế kỷ, phải nói là hòn đảo này tôi thuộc còn hơn lòng bàn tay nữa, nhưng chưa hề biết đến cái hang này…..bởi vì chắc chắn là nó không có” – “không lẽ tôi và Ba Già cùng bị ảo giác…mới hôm qua đây thôi ?” – Thích Kỳ Lân không nói gì, y móc trong túi ra một cái bản đồ nhỏ xíu, giống hệt cái bản đồ của Hòa Râu “hòn đảo này có mười một cái hang cả thảy, theo như ông tả thì cái hang mà mấy ông đi vào có thể chính là cái hang này…nó ở sát biển nên gió thổi trong lòng hang rất mạnh và du dương như tiếng nhạc, dân trên đảo còn gọi nó là hang gió”. – “không lẽ tôi và Ba Già đi đến đây thì lại quay xuống đi ra biển ?” – “đúng….đm….tôi có thể nói chưa chắc đã là người tốt…nhưng cả đời tôi chưa hề giết người, trộm cắp hay lừa đảo gì cả….từ khi có mấy ông, cái hòn đảo thanh bình này trở nên lộn xộn, có mấy người đã chết. Tôi cũng chẳng cần biết mấy ông đi tìm cái gì, có điều cái hòn đảo này nó linh thiêng lắm, e rằng mấy ông sẽ còn phải trả giá vì dám khuấy động đến những linh hồn đang yên nghỉ trên đảo”. Y lấy trong túi ra một cái gói nhỏ, rắc ra xung quanh rồi nói tiếp “ đây là muối và gạo tôi cúng trên bàn thờ, nó là những phẩm vật trời phật ban cho con người, những linh hồn lương thiện cũng cần đến nó, còn ma quỷ luôn luôn tránh xa những thứ này”. Y lại lấy ra một thanh kiếm nhỏ sơn đỏ, tay bắt ấn chỉ bốn phương tám hướng và niệm chú “….nam mô lục ta xá bút tha…….”. Các nhà sư tu theo phái Cổ Sơn Môn hầu như đều biết bùa chú và phép thuật, các cách thức trì tụng, cách lập đàn lễ bái v.v….họ coi đó là một nghề nghiệp trong đời hơn là một sứ mệnh mà trời phật ban cho để cứu nhân độ thế, trong số đó có những người rất giàu có và cưới nhiều vợ, Thích Kỳ Lân là một ví dụ. Y có vẻ đã lấy lại tự tin như mọi ngày nên bắt đầu lại nói huyên thuyên đủ thứ trong lúc đi ra hang Gió. Cái hang đúng là hệt như lần đi theo sau cô gái, không thể hiểu nổi tại sao lúc đó ĐHC và Ba Già lại bị nhầm lẫn về không gian như vậy ? khi ánh trăng chiếu xuống biển thì phản quang của nó hắt vào trong hang nên mới có cái ánh sáng mờ mờ ảo ảo, lung linh tuyệt đẹp, có điều không ngửi thấy mùi thơm như lúc trước. Tìm mãi cũng không thấy gì lạ trong hang, đành phải trở về, từ hang có một con đường nhỏ đi trở về quán rất gần, cô gái đã đi theo con đường này nên về trước, còn ĐHC và Ba Già thì lại trở ngược lên trên suối sau đó mới xuống núi nên về sau cả giờ, đúng là đã bị ma quỷ dẫn dắt thật. “trên chùa sao tôi thấy đông đúc thế ?” – “mấy người họ đang phụ tôi làm một cái hoa đăng hình Long vương thật lớn…ngày mốt là tới lễ cúng Thần rồi ông không biết sao?”. Dân tứ xứ đổ về hòn đảo này, nên tục thờ Đông hải Long vương hẳn cũng du nhập từ đất liền, đó là dịp để Thích Kỳ Lân thể hiện mình nên y tỏ ra rất tích cực, đêm ngày cùng mấy đệ tử chuẩn bị đủ thứ nên cũng chẳng nhắc gì đến chuyện cô gái nữa. 

Trở lại quán thì Ba Già vẫn chưa về, gặp Tư Gồng đang ở đó, nom y cũng rất phờ phạc chắc cả đêm qua cũng không ngủ, y nói nhỏ “trong đất liền mới nhắn tin anh Hai sẽ đưa một vị khách rất đặc biệt ra đảo để dự lễ cúng thần ngày trùng cửu” - y hạ giọng thì thầm “dịp này cũng là để thỉnh ngọc luôn đó…chú chuẩn bị tinh thần hôm đó canh chừng cẩn thận…” 

Suy cho cùng thì ở cái nơi đèo heo hút gió này đến cỏ còn không đủ cho bò nó gặm thì Giáo hội đâu có rỗi hơi mà ngó ngàng đến làm gì, vì thế nên Thích Kỳ Lân tha hồ tự tung tự tác, muốn xưng danh gì cũng được. Có điều nơi này có chưa đến hai trăm nóc nhà, mà lại toàn là nhà nghèo cả nên ông ta có làm gì đi nữa thì cũng là “gà què ăn quẩn cối xay” lượm lặt được chút đỉnh cũng không đáng là bao nên bao lâu nay cũng chẳng có ai tranh giành với ông ta làm gì. Hôm đó Thích Kỳ Lân mặc cái áo đạo màu đỏ có viền kim tuyến lấp lánh, đầu đội cái mão giống y như Đường Tam Tạng, phải nói là thật oai phong lẫm liệt…nhất là cái giọng rổn rảng như tiếng trống chầu giữa đám đông nghe vẫn rõ mồn một làm ông ta nổi bật lên hết thảy. Mấy bô lão cũng lên đồ lễ áo dài đen, chít khăn vàng, ông già Hai Lẹ còn ráng để kịp bộ râu bay phấp phới nom rất là “tiên phong đạo cốt”. Tới đúng ngọ mới cử hành đại lễ mà mới sáu giờ sáng bờ biển đã ồn ào náo nhiệt. Con rồng bằng gỗ bọc vải đã được khiêng xuống, to sừng sững, sơn vàng sơn đỏ nom cũng hoành tráng lắm. Thiếu tá Hà cũng đã có mặt, ông ta còn bày ra cuộc cờ có giải thưởng để cho không khí thêm phần sôi động. Cái lối đánh cờ này chắc là ở quê ông ta, gọi là “cờ bơi”, thay vì dùng quân cờ thì sẽ dùng một tấm bảng gắn trên một cái cọc, cắm xuống lỗ, khi chơi có người xê dịch và lĩnh xướng rất trang trọng. Ông ta còn tổ chức cả thi đi cà kheo và nhảy bao bố cho sắp nhỏ, xem ra thiếu tá Hà cũng cố gắng “hòa đồng với nhân dân” thật.

Khoảng tám giờ thì tàu chở Hải thọt đến, dùng tàu cứu hộ để đi thì hẳn trên tàu phải có một nhân vật tầm cỡ và chắc là phải đi từ hồi khuya thì mới đến sớm được như vậy. Nhưng Hải thọt không phải là chủ xị, y đã biến thành kẻ tháp tùng, vị khách đặc biệt như Ba Già nói mới là nhân vật chính…..kẻ đó đâu phải ai xa lạ, chính là Thiếu gia X, một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trên mọi chiến trường, từ thương trường cho đến những chốn ăn chơi vào tầm bậc nhất. Bản thân Hải thọt đã là một đại gia, một quả núi rồi, thế mà y còn dựa vào Thiếu gia X, thế lực và tiền bạc còn to hơn núi nữa, tạo thành cái thế “núi dựa vào núi” thì có ai còn là đối thủ nữa, bố bảo thằng nào còn dám vuốt râu hùm, Trịnh Cao Nhân cao bay xa chạy là phải rồi, không chạy mà ở lại cho phơi xác à ? chạy nhanh như thế mà còn chưa chắc đã thoát ấy chứ…

Thiếu gia X từ trên tàu bước xuống là đã thấy khác người rồi, phần hậu thiếu gia mặc quần soọc tây, mang giày tây đàng hoàng….nhưng phần mặt tiền phía trên lại chơi cái áo xá-sẩu bằng gấm Thượng Hải màu xanh sẫm dài gần tới gối nom rất đểu. Đã thế lại có mấy em người mẫu thơm nưng nức đẹp còn hơn cả “tiên giáng thế” đi theo nữa, trong đó có hai em ca sĩ mắt xanh mỏ đỏ hẳn hòi, oách như thế thì còn ai mà bì được…vì thế nên đại ca Hải thọt chân thấp chân cao bước theo thiếu gia nhìn cứ như là con khỉ mắc phong vậy. Hải thọt ở đây thì chắc Nghĩa Cổ ở nhà rồi, con xe cuối cùng là ai vậy nhỉ ? Thích Kỳ Lân to cao là thế nhưng khi đứng bên Thiếu gia thì cố gắng cúi cúi cho thấp xuống bớt sợ che khuất mất nhân vật quan trọng, nom ông ta bây giờ giống y như là con sâu đo vậy. Còn thiếu tá Hà thì hẳn cũng đã biết đến cái quyền lực kinh người đằng sau và cái núi tiền đằng trước có thể khuynh đảo cả thiên hạ hôm nay hạ cố ghé thăm nên tỏ ra sum sum lạ, nở toét nụ cười nom rất là hiền hậu….Thảo nào mà Hải thọt không đầu tư đánh lớn, đánh dữ, sẵn sàng thí chốt thí xe. Cái thế lực mà Hải thọt bước một chân vào được đâu phải là chuyện dễ…nó vĩ đại còn hơn những gì vĩ đại, nó hùng mạnh còn hơn những gì hùng mạnh, nó tàn bạo còn hơn những gì tàn bạo. Cả một dân tộc có một lịch sử dài dằng dặc còn phải quỵ lụy trước nó huống hồ một đại ca Hải thọt, một Ba Già hết thời, một Tư Gồng nghèo kiết xác….Hùng mập cũng đã xuất hiện, y cũng cố gắng thu mình nhỏ lại, nhưng cái tấm thân bồ tượng trăm ký của y dường như phản lại, nó cứ phô phang lồ lộ, được cái Thiếu gia cũng chẳng thèm để mắt đến, y chẳng thèm để mắt đến ai cả…có ai đáng được Thiếu gia nhìn tới cơ chứ…? Dân đảo quanh năm lao động quần quật, có được một ngày để xả hơi, nhất là Thiếu gia lại cho chở xuống mấy thùng rượu vang, vài chục két bia, bánh kẹo, đồ khô phát thoải mái nên đã vui lại càng vui hơn nữa. Ba Già từ lúc đi gặp thiếu tá Hà đến giờ thần sắc có phần hơi trầm trọng, ngoài cái việc thiếu tá mời y qua để bàn cái việc tổ chức đánh cờ bơi chắc là còn nhiều việc nữa cũng chưa tiện hỏi. Ở cái nơi đầu sóng ngọn gió này kín miệng là điều tốt nhất, bép xép chỉ tổ thiệt thân. Tuy là tay mặt tay trái nhưng tầm quan hệ của Ba Già so với đại ca Hải thọt thua xa lắc, âu cũng là số mệnh, ai cũng làm được như Hải thọt thì còn có ai làm lính, làm hầu nữa…?

Thiếu gia X đi đứng cứ như chỗ không người, oai phong lẫm lẫm, tiền hô hậu ủng…y nhìn loanh quanh thấy ĐHC thì đưa tay ngoắc lại “..đm…chú cũng có mặt ở đây à….lát nữa có việc này hay lắm…đi theo anh cho chú mở rộng tầm mắt….”. Trình độ văn hóa tuy ở tầm cao….tận cái lai quần nhưng ở cái đất SG ăn chơi trụy lạc dân có máu mặt một chút có ai còn lạ gì Thiếu gia nữa. Sang trọng là thế, lịch sự là thế nhưng đến chốn ăn chơi thì ai cũng như ai, ai cũng là một thằng đực rựa trần trụi…chỉ có cái khác là do lắm tiền nhiều của nên y nghĩ ra lắm trò quái đản, thế thôi. Nơi nhầy nhụa là nơi đã nhất, có lần y bắt tất cả các tiếp viên không mảnh vải lần lượt đứng xếp hàng làm bia bắn đạn, đạn ở đây là những tờ “xanh” được vo lại, lấy dây thun bắn, em nào chịu được một viên thì lấy một viên, chịu được hai viên thì lấy hai viên…em nào mê tiền lắm thì cũng chỉ chịu nổi hai mươi mấy viên là năn nỉ xin tha, cả cái làn da trắng nõn mịn màng lúc đó đỏ còn hơn con tôm luộc. Tiền thì xài cả cọc, không bao giờ đếm, các em cứ đến trước mặt cúi chào là y phát cho một tờ lớn, em nào coi đã mắt thì vỗ mông hay vuốt tóc một cái là cho thêm một tờ nữa, chỉ là động tác mào đầu thôi đó, vì thế nên y đến quán nào là cả quán đứng dậy chào, các em tíu ta tíu tít, má mì, chủ quán thì ra lệnh đóng cửa không cần tiếp thêm khách nữa. Xài bạt mạng như thế mà vẫn không hết tiền mới lạ chứ….Còn cái chuyện cầm vài trăm chai đi đánh bạc với các đàn anh đàn chị rồi giả bộ thua là chuyện bình thường….Lần mới đây y còn xách cả va-li tiền đến để mua một cô hoa hậu có tiếng miền K, nhưng vì cô ta hơi bị thiếu thước tấc nên đành xách tiền về “thà đốt bỏ còn hơn chơi hàng kém chất lượng…”. Thảo nào mà mấy cô người mẫu bên cạnh y cô nào cũng cao vời vợi, vóc ngọc da ngà, chân dài tới nách…

Không cần phải đợi đến lúc cử hành lễ rước thần, cả bọn cùng lên tàu kéo ra đảo “ma”, ghe của Tư Gồng đã chờ sẵn. Đích thân Thiếu gia mặc đồ lặn cùng vài dân chài nữa nhảy xuống nước…trong vài tiếng đồng hồ căng thẳng vớt lên được mấy chục con ốc to như cái chảo, đó là loại ốc tai tượng nổi tiếng, nghe nói nó đã tuyệt chủng rồi không dè vẫn còn ở chốn này. Trong vài chục con như thế có được hơn năm con có ngọc, những viên ngọc vàng lung linh ánh lửa…thực ra đối với Thiếu gia thì nó cũng chẳng đáng gì, nhưng nó được chính Thiếu gia “liều mình” lặn xuống biển mới có được, đó không phải là báu vật vô giá ư ? không phải là minh chứng cho cái bản lĩnh dám đi đến tận chân trời góc bể để tìm kiếm báu vật, cái sức mạnh đàn ông của thời sơ khai ? nó có cái thú còn hơn lên rừng săn hổ, săn voi ấy chứ….phen này các em cứ thế mà thán phục, mà ngưỡng mộ nhé…Nhìn Hải thọt và Thiếu gia bên nhau thân thiết bất giác nhớ đến cái thế cờ “pháo lồng xe lệch”, thì ra con xe cuối cùng lại chính là đại ca Hải thọt, một con xe lệch bánh nhưng một khi đã ra trận thì luôn luôn nắm chắc phần thắng. Trong khi tất cả mọi người cùng xúm lại chiêm ngưỡng những viên “ngọc mắt rồng” vàng lộng lẫy thì ĐHC kéo Tư Gồng ra nói nhỏ “không dè anh cũng tài năng thật đấy…” - Tư Gồng đảo cặp mắt nhìn ra xung quanh, hạ giọng “thì đã lỡ ăn cơm của thiên rồi thì cũng phải kéo cày trả cho địa chứ…”

Cuối cùng thì ván cờ cũng đã kết thúc, phiên chợ rồi cũng tan hàng….cô gái nói với ĐHC “từ khi đến đây, hình như có cái gì đó ở bên trong cháu…nó kỳ lạ lắm..” – “cái đó nó giúp chống lại quỷ dữ, hãy cố gắng tập cho quen với điều đó, nó còn cho nhiều khả năng kỳ lạ khác, sẽ giúp mở ra một trang đời mới, từ từ rồi cháu sẽ cảm nhận thấy” – “đôi khi nhìn thấy những hình ảnh kỳ lạ, những vùng đất xa lạ trong giấc mơ. Nhiều khi còn gặp cả những người không hề quen biết, họ muốn nói rất nhiều điều mà không thể nghe hết được, không thể hiểu hết được” – “cứ bình tĩnh, đừng có cố chống lại họ…họ cũng sẽ không làm hại đến, họ chỉ là một quá khứ, bản thân họ cũng không hiểu là họ đang ở đâu và muốn gì…”.

Hàng trăm năm trước đã từng có những đội thuyền của Vương triều nhà Nguyễn đến nơi đây để tìm kiếm những viên “ngọc mắt rồng” tuyệt đẹp, biển khơi đầy nguy hiểm và bất trắc, một số người mang ngọc về được, nhưng cũng có một số khác phải bỏ mình trên hoang đảo hay giữa biển, linh hồn của họ không siêu thoát được mà cứ lẩn khuất từ năm này qua năm khác, thế kỷ này qua thế kỷ khác…cái tên đảo “Vương” chắc là ra đời vào lúc này. Quay lại “Hang Gió” tìm hiểu xem ở đó có điều gì đặc biệt mà cái linh hồn đó dẫn dắt đến. ĐHC ngồi yên lặng hàng giờ…cảm nhận cái không gian tĩnh lặng, lắng nghe điệu nhạc du dương của gió…ngồi mãi như thế cho đến khi tinh thần hoàn toàn rơi vào hư ảo, lúc đó lại ngửi thấy cái mùi thơm thoang thoảng của nhũ đá, cảm giác như có bóng hình ẩn hiện, một bóng hình thong thả mà trầm mặc. Chắc phải có điều gì đó nên người chí sĩ phải từ bỏ tất cả, phải ra ngoài hoang đảo mà ẩn dật. Lúc đó trên đảo còn hoang sơ lắm, vắng vẻ chỉ vài ba con người . Có lẽ mỗi buổi chiều vắng lặng ông ta lại đến nơi này, ngồi tại đây, mắt nhìn ra biển rộng mênh mông giữa trời và nước, thả hồn theo điệu nhạc vi vu của gió, lòng luôn hướng về đất liền, nơi có người yêu dấu, nơi quê cha đất tổ. Người Ẩn sĩ đi rồi, chỉ còn nắm xương tàn để lại và một bài thơ về nỗi nhớ nhà da diết…..pho tượng đã được con người mang tới thì cũng con người lại mang đi, có gì đâu là quan trọng ? Việc thay một pho tượng nhỏ bé đen sì bằng nhiều pho tượng to lớn sơn vàng sơn đỏ hào nhoáng cũng là do con người…Báu vật chẳng là cái gì cả, khi anh chết đi anh có thể mang theo được cái gì ngoài mảnh linh hồn rách nát và niềm hối hận muộn màng……

Nhiều năm sau đó, ĐHC có gặp lại “Ngọc Ruby”, cô vẫn đẹp như ngày nào, thậm chí còn đằm thắm hơn nhiều. Cô ta hẳn đã hiểu được sắc đẹp có thể là một lợi thế để dọn ra một đại lộ thênh thang đi thẳng đến tương lai…nhưng nhiều khi nó không dẫn đến thiên đường mà lại là cánh cửa đi xuống địa ngục. Cô ta cũng có cái huông, hai lần trở về lần nào cũng mang theo một hũ tro, lần này là của Trịnh Cao Nhân, trong một lần đi Berlin để thu tô sòng bạc và nhà hàng, bốn khẩu tiểu liên đã kê vào con “Alfa Romeo” mới cáu của y mà nổ giòn giã còn hơn cả tiếng pháo giao thừa. Đời là thế, có vay thì có trả, Mafia VN về mặt tài năng thì không biết có bằng các đàn anh Nga không chứ về mặt tàn bạo thì không hề thua kém. Họ Trịnh đã làm các bố già thất vọng, họ phải cử một người thay vào chỗ của y để về lại VN làm tiếp những phi vụ còn đang dang dở, mảnh đất này còn béo bở lắm đâu thể dễ dàng từ bỏ được. Lần này bên cạnh “Ngọc Ruby” còn có thêm một đứa trẻ khoảng hơn ba tuổi, nó không giống họ Trịnh mà lại có vẻ giống “Hoàng mọi”, âu cũng là cái số trời.…hy vọng nó còn giống cả cái tính cách can đảm và phóng khoáng, dám làm dám chịu của người bác, đối với một đứa trẻ thì tương lai còn rộng mở ở phía trước

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro