Alea iacta est! (*)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Cánh đồng vô danh mà Nasya chọn làm nơi gặp Orson nằm cách kinh đô Macedonica khoảng bảy dặm. Đó có lẽ sẽ là chốn lý tưởng cho một cuộc giao tranh với địa hình bằng phẳng, rộng rãi và trống trải. Derizi nghĩ rằng mình muốn được đấu tay đôi với Orson trên cánh đồng xanh mướt ấy, nếu hắn có đủ can đảm để đối mặt với chàng. Thế nhưng, điều đáng tiếc là chàng không có quyền đưa ra lời thách đấu với hắn, bởi với tư cách hoàng tế thì mọi lời nói lẫn hành động của chàng đều phải được công chúa Nasya chấp thuận. Và chàng biết, nàng sẽ không đời nào đồng ý.

"Nàng nghĩ hắn sẽ đến chứ?" Derizi ghì nhẹ dây cương để con ngựa Tris đi chậm lại, song song với con ngựa của Nasya và nhìn về phía sau. Họ chỉ đem theo chưa đến hai trăm binh lính, theo gợi ý trước lúc lên đường của đại nguyên lão. Quá nhiều phòng bị cho một cuộc gặp mặt và quá ít an toàn nếu giao chiến hoặc bị tập kích.

"Em hiểu anh trai mình, Derizi. Hắn là kẻ tệ hại và ngạo mạn." Nàng đáp, nét mặt mang đầy vẻ đăm chiêu. Kể từ lúc rời điền trang, nàng gần như chẳng hề mở lời với bất cứ ai, dẫu đêm qua thái độ của nàng trái ngược hoàn toàn.

"Ta hi vọng là nàng nói đúng." Trước câu trả lời quả quyết của công chúa, Derizi tỏ ra miễn cưỡng.

"Em dám cược rằng trong đầu chàng nghĩ khác." Nasya kéo lại chiếc mũ trùm và nhướn mày ranh mãnh.

Khi đoàn người đến gần cánh đồng, Lynden Sudo hạ lệnh cho các binh lính thận trọng hơn. Họ chia thành một tốp nhỏ để thăm dò trước và hai tốp khác, gồm những tay kiếm cự phách, hộ tống Nasya. Số còn lại, dưới sự chỉ huy của Basheen sẽ theo ở phía sau, cách ba trăm bước chân kể từ vị trí mà nàng cùng thái tử Orson giáp mặt nhau, theo đúng thoả thuận giữa hai bên. Vào thời điểm lá cờ thêu gia huy hoa hồng của nhà Hamilton hiện lên từ chân trời phía đông cánh đồng, báo hiệu Orson cùng quân đội hoàng gia đã đến, Derizi thận trọng leo xuống ngựa, chàng ra sức dỗ dành con ngựa mà Nasya đang cưỡi để nó không lồng lên vì hoảng sợ trước tiếng vó ngựa nện rầm rập hung hãn đang ngày một tiến lại gần. Đôi lần chàng ngước nhìn công chúa, nét mặt nàng chuyển dần sang tái mét và bối rối khi dáng vẻ cao lớn của Orson hiện ra rõ ràng từ phía đằng xa. Nasya yêu dấu đang sợ hãi, nàng luôn phản ứng như vậy mỗi lần nhìn thấy anh trai mình. Chàng vẫn nhớ những lời thú nhận đêm qua, sau khi họ làm tình và nàng nép mình trong lồng ngực trần của chàng mà thổn thức. Suốt thời gian chàng không có mặt ở Macedonica, đã đôi lần Orson tìm đến nàng để tiếp tục giở trò đồi bại, bất chấp mọi nỗ lực chống cự lẫn nước mắt đau khổ, nhục nhã cùng những lời cầu xin gã đừng làm vậy từ nàng. Nasya đau khổ bởi nàng không thể giữ được lời hứa rằng trái tim lẫn thể xác nàng chỉ thuộc về chàng, và với công chúa thì đấy là một chuyện xấu xa đến nỗi chính bản thân nàng cũng không thể tha thứ cho mình. Khi nghe người vợ yêu quý run rẩy thuật lại nỗi đau nàng phải chịu đựng, suy nghĩ duy nhất hiện diện trong đầu Derizi chẳng có gì hơn ngoài việc được kéo lê xác Orson khắp mọi ngả đường của kinh đô Macedonica. Và lúc này đây, cái khao khát cứ ngỡ đã được Nasya dỗ yên bằng những nụ cười lẫn nụ hôn ngọt ngào lại đang trỗi dậy một cách đầy mãnh liệt. Derizi đưa tay lần tìm đến tay công chúa, chàng nắm chặt lấy nó để trấn an cả hai.

Con ngựa chiến của Orson hí vang một tiếng, nó dừng lại ở giữa cánh đồng. Gã thái tử mang nửa dòng máu du mục ngạo nghễ nhìn em gái mình và chờ đợi nàng tiến lên. Đây sẽ là cơ hội cuối cùng để ngăn một cuộc nội chiến diễn ra. Cặp mắt hung tợn của Orson liếc nhìn Derizi, cái dáng vẻ điềm nhiên cùng nét mặt lộ rõ vẻ xấc xược kia rõ chẳng khác gì lời thách thức ngông cuồng gửi đến gã. Vị thái tử xuống ngựa, một tay giật dây cương, ra hiệu cho con vật đi theo mình. Gã đi về phía công chúa Nasya, ở phía đối diện, nàng cũng trao lại dây cương cho phu quân và thận trọng bước lên. Gió xuân thổi nhè nhẹ, làm xao động cả cánh đồng cỏ, biến nơi nay thành đại dương mênh mông với vô vàn vệt gợn lăn tăn. Thứ không khí tươi mát, đẫm mùi hoa dại cùng nắng ấm khiến Orson nhớ đến mùi vị của thảo nguyên, nơi gã đã từng sinh sống khi còn là một đứa trẻ. Nasya đứng giữa cánh đồng cỏ, chiếc mũ trùm xấu xí mà nàng đội lên đầu đã bị gió giật xuống, để lộ ra mái tóc ánh đỏ bung xõa. Nàng không còn ăn vận diêm dúa như khi còn ở cung điện Esta, thay vào đó là kiểu váy áo đơn giản, mềm mại thuần màu xám tro u ám, nom nàng thật giống với một thiếu phụ nhàn nhã đang trong chuyến dạo chơi mùa xuân hơn là một kẻ phản loạn chuẩn bị đưa ra lời khiêu chiến liều lĩnh. Cái dáng vẻ nền nã, tràn đầy sức sống này của Nasya chẳng rõ vì đâu lại khiến Orson cảm thấy dễ chịu, trong thoáng chốc gã gần như quên đi những điều đáng nguyền rủa mà nàng đã gây ra cho mình.

"Ta mừng vì em đã đến đây, em gái của ta." Orson mở lời một cách tử tế, gã dang tay chờ đợi cái ôm thân tình. Nhưng chẳng có cái ôm nào cả. Nàng công chúa không đáp lời mà chỉ ném về phía gã ánh mắt lạnh lùng.

"Ta đến đây để yêu cầu ngài hãy thả đức vua và ăn năn về tội lỗi của ngài..." Nasya rành rọt, khuôn mặt nàng chẳng còn vương chút sợ hãi yếu ớt nào. "...trước khi ta buộc phải tuyên chiến với ngài."

Orson nghiêng đầu, gã không ngạc nhiên trước những lời lẽ mà em gái mình thốt ra, gã thích thú với nét biểu cảm trên khuôn mặt nàng. Và gã tự hỏi trong cái thân xác mỹ miều của nàng liệu đang chứa đựng bao nhiêu linh hồn để có thể vừa là một con cừu non vô tội vừa là một con sói cái xảo quyệt như vậy. Nhưng lạ lùng sao, ngay lúc này đây, gã kinh hoàng nhận ra rằng mình vẫn yêu nàng nhiều đến mức sẵn sàng tha thứ cho mọi sự lừa dối lẫn phản bội, chỉ cần nàng mở lời cầu xin.

"Nàng đang đòi hỏi một chuyện hoang đường, Nasya ạ." Gã đáp, đôi mắt nhìn nàng dịu dàng. "Làm sao ta có thể trao lá bùa hộ mệnh của mình cho kẻ luôn muốn giết chết ta?"

"Vậy thì chúng ta sẽ gặp nhau trên chiến trường và một trong hai ta sẽ xuống địa ngục." Nàng phớt lờ câu hỏi, môi nàng nhoẻn một nụ cười.

"Tại sao nàng luôn muốn đẩy mọi thứ đến giới hạn?" Đột nhiên, vị thái tử tiến lại gần, gã ghé vào tai em gái mình để thì thầm câu hỏi. Gã muốn cho nàng biết rằng nàng vẫn còn một sự lựa chọn khác, tốt đẹp hơn chiến tranh. Đức vua sẽ sớm lìa đời, và rồi gã kế vị trong khi nàng trở thành hoàng hậu. Không có cảnh nồi da xáo thịt, không ai phải chết. Còn nàng, nàng vẫn sẽ nắm trong tay quyền lực, gã sẵn sàng hài lòng với ngôi báu, làm một ông vua bù nhìn và để hoàng hậu của mình làm bất cứ điều gì nàng muốn mà chẳng cần phải e dè những luật lệ hay giới hạn. "Chỉ cần nàng thỏa hiệp, chúng ta sẽ chia sẻ mọi thứ."

"Sau tất cả những gì ngươi đã gây ra cho ta ư?" Nasya hạ giọng, chẳng phải vì nàng sợ ai khác nghe thấy mà bởi nàng thích biến từng lời của mình thành tiếng rắn rít. Orson khó chịu với cách nói chuyện như vậy, và nàng thì lại ưa chứng kiến vẻ khó chịu của gã.

"Ta yêu nàng, Nasya. Ta đã bảo vệ nàng..." Orson đưa tay ve vuốt gò má mềm mại của nàng, giọng gã trở nên tha thiết như một kẻ si tình đích thực.

"Ngươi làm điều đó bằng cách cưỡng hiếp, nhục mạ và đánh đập ta, Orson." Nàng nghiến răng, cố ngăn cho bản thân không bật khóc khi nhớ lại những nỗi tủi nhục mà mình đã phải chịu đựng từ khi chỉ là một thiếu nữ mười ba tuổi. Nàng yêu thích quyền lực, nhưng nàng càng yêu thích việc được treo cổ anh trai mình hơn. Thế nên cái viễn cảnh trở thành hoàng hậu của gã, tiếp tục phải chia sẻ chút mảy may gì trong cuộc đời mình với gã, dù là chăn gối hay ngôi báu, đều khiến nàng cảm thấy buồn nôn. Không, sẽ không có sự thỏa hiệp nào, nàng nhấn mạnh từng từ để Orson biết rằng giây phút này trong đầu nàng đã định sẵn số mệnh cho cả hai. Hoặc gã bị treo cổ, hoặc nàng sẽ lên đoạn đầu đài.

Sự ương bướng của Nasya không khiến Orson bất ngờ, trái lại, gã thấy thích thú. Nàng chưa từng bày ra vẻ tàn nhẫn như vậy, lần hiếm hoi nàng dám từ chối gã là khi đang mang thai đứa con hoang với tên chăn ngựa Derizi. Gã vẫn còn nhớ niềm vui thích khó tả vào cái giây phút được soi mình trong cặp mắt tràn ngập sự căm thù lẫn nỗi bất lực của nàng, bởi chỉ có khi đó gã mới có cảm giác khuất phục được em gái mình. Orson cười, gã tiếp tục bằng cách đặt ra câu hỏi để nhắc nhở nàng công chúa về tình cảnh khốn khổ hiện tại.

"Nếu nội chiến xảy ra," Gã phả hơi nóng vào khuôn mặt xinh đẹp của nàng trong khi nhìn về phía Derizi đầy thách thức. "Nasya yêu dấu, nàng sẽ chiến thắng bằng cách nào? Đồng minh mà nàng chỉ là một nhúm ít ỏi của những kẻ phản loạn. Giáo triều không ủng hộ cho nàng, còn Musa Norden đứng ngoài cuộc. Thậm chí ngay cả Judas Sudo, kẻ đã xúi giục nàng, cũng sẵn sàng phản bội khi lão thấy cần phải làm vậy. Em gái thân mến, nàng chẳng có lấy một kẻ trung thành..."

"Ta có phu quân của mình." Tức thì nàng cắt lời Orson.

"Nàng tin vào hắn sao?" Vị thái tử hỏi mà chẳng cần câu trả lời. Sự điềm tĩnh và dịu dàng dành cho nàng thoáng chốc hoá thành nỗi giận dữ sôi sục. Gã ghét cái cách nàng nhìn Derizi đầy tin tưởng lẫn dựa dẫm, bởi trong rất nhiều năm đấy là thứ gã luôn muốn có được. Cảm giác ghen tuông xâm chiếm lấy tâm trí gã, biến một kẻ mà gã luôn cho rằng thấp kém ngang hạt bụi dưới chân thánh thần như thằng con hoang của Judas Sudo trở thành hiện thân cho toàn bộ những gì gã căm ghét nhất. Thế rồi bản tính hung hãn, độc ác của Orson được khơi dậy, gã muốn Nasya phải trả giá cho sự phản bội nàng đã gây ra bằng cách đày đoạ linh hồn đáng nguyền rủa của nàng vào cảnh khốn khổ tột cùng. "Trước khi treo cổ nàng, tình yêu của ta, ta sẽ để nàng được chứng kiến ta lột da thằng chăn ngựa ngu ngốc ấy."

Khuôn mặt xinh đẹp của Nasya đanh lại. Nàng dần bước lùi về phía sau và dừng chân ở một khoảng cách mà nàng dám chắc rằng Orson sẽ không thể chạm vào mình. Công chúa rút con dao găm đeo ở bên hông, tay nàng nắm chặt lấy lưỡi thép sắc bén cho đến khi cơn đau nhói râm ran lan khắp thớ thịt còn máu đỏ rịn ra tanh nồng. Nasya thấm máu bằng khăn tay trắng, nàng giơ miếng vải loang lổ màu chết chóc lên để cả anh trai mình lẫn các quý tộc có mặt trên cánh đồng nhìn thấy rõ trước lúc ném nó về phía kẻ đối diện. Đấy là một lời tuyên chiến chính thức mà nàng gửi đến thái tử.

"Alea iacta est!" Nàng công chúa hét lớn, tiếng gào thét lấn át cả tiếng gió vi vu trên cánh đồng, sắc lạnh như mũi kéo xé toạc bức tranh yên bình của mùa xuân.

Sau lời tuyên chiến của Nasya, binh lính cùng các quý tộc ở cả hai phía đều lặp đi lặp lại "Alea iacta est!" như thể khẳng định một lần nữa chiến tranh đã bắt đầu.

Mùa xuân năm 1330, dưới triều hoàng đế Renando đệ tứ, công chúa Nasya châm ngòi Bellum vere rosas - Cuộc nội chiến lật đổ nhiếp chính Orson.

*

* *

Công chúa Nasya là một kẻ phản loạn. Hoặc cũng có thể không. Người dân ở kinh đô Macedonica vẫn còn phải tranh cãi nhiều về điều đó. Tuy nhiên, khi tin tức về cuộc chiến ập đến, từ những mái nhà khu ổ chuột cho đến các quán rượu và cả nhà thổ, tất thảy dân chúng lẫn quý tộc ai cũng như trở nên dễ cáu bẳn hơn. Bầu không khí căng thẳng len lỏi đến từng ngóc ngách của kinh đô đã ngủ vùi trong yên bình suốt hàng trăm năm này. Người ta dè dặt chờ đợi lũ trẻ mục đồng hoặc những kẻ hành khất thuật lại từng trận đánh diễn ra phía bên ngoài bức tường thành cao vót. Quân Bela Rozo, như cách dân chúng gọi những quý tộc chiến đấu dưới ngọn cờ của công chúa Nasya, bị lấn át trong những ngày đầu khi giao chiến với nhà Espanda ở cánh đồng phía tây. Tiếng reo hò trên quảng trường lớn rộ lên mỗi ngày, đã có lúc ai đó vui vẻ đề cập đến một bữa tiệc mừng chiến thắng và băn khoăn cho số phận của nàng công chúa lẫn gia tộc Sudo cũng như tin rằng cuộc binh biến sẽ sớm kết thúc. Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một tuần sau đó, tình thế dần thay đổi theo hướng chẳng ai ngờ tới. Mọi thứ đột ngột trở nên tồi tệ hơn cho cả quân triều đình và dân chúng - những người ủng hộ nhiếp chính Orson. Nhà Espanda phải rút lui vào thành, nhường chỗ cho các gia tộc khác của Algo và một số ít lãnh chúa từ lãnh địa Masian – những người từ chối bắt tay với Judas Sudo. Sự thay thế khó hiểu tiềm ẩn đầy rủi ro ấy được đám bợm nhậu hay lê la ở quán rượu cùng mấy tên thợ kéo sợi trong xưởng len bàn tán hăng hái, dù chính bản thân họ cũng rờn rợn sợ sệt, là vì những cái chết liên tiếp của các quý tộc suốt nhiều ngày qua. Chuỗi bi kịch mang hơi thở của nữ thần Amis bắt đầu bằng việc lãnh chúa Valous già nua qua đời chỉ sau một đêm, dẫu trước đó ông ta còn dạo chơi trong thành đầy khoẻ mạnh, kẻ xấu số thứ hai thì trẻ trung hơn, gã công tử nhà Avendoris, chết vì vỡ tim trên giường của một ả gái điếm và vẫn còn đương trần truồng. Thế rồi liền sau hai đám tang ấy là một loạt những đám tang khác, giới quý tộc bắt đầu lo sợ còn dân thường thì hiếu kỳ, hoặc đặc biệt hơn như với lớp người cùng cực thấp bé ở Macedonica điều đó tựa hồ lại đem đến chút hả hê vui vẻ. Mỗi ngày trôi qua, mũi tên lông quạ từ cây cung gỗ sồi mà nữ thần có khuôn mặt xanh xao đem bên mình lại được bắn ra, lấy mạng từng người bất kể đó là lãnh chúa đánh kính hay phu nhân quyền quý, cũng chẳng màng đến việc họ náu mình nơi dinh thự nguy nga hay trên cỗ xe ngựa hối hả mỗi đêm. Cái chết, giống như những gì người ta miêu tả về nữ thần Amis, đều nhẹ nhàng bước đến bên sinh mạng được lựa chọn. Vậy là Macedonica lẫn nhiếp chính Orson có đến hai cuộc chiến phải đương đầu, một ở phía bên kia bức tường thành, và một ở ngay trong kinh đô này. Khi nỗi sợ hãi của các quý tộc lên đến đỉnh điểm, nó dần trở thành cơn giận dữ. Binh lính bắt đầu tuần tra vào mỗi giờ trong ngày, tua tủa đến mọi ngõ ngách cũng như bắt giam bất cứ kẻ khả nghi nào. Mà thường thì chẳng có ai khả nghi hơn đám dân cùng khổ chen chúc trong mấy khu ổ chuột dơ dáy. Đôi lúc, một vài gã hủi, ăn mày hoặc gái điếm hết thời chẳng may bị bắt gặp đi lang thang trên phố khuya sau giờ cầu nguyện, chúng cũng sẽ được tống thẳng vào ngục.

Tuy nhiên, cái sự bắt bớ này vẫn chưa đủ để xua đi bầu không khí chết chóc bao phủ trong thành. Một buổi sáng mù sương, dân chúng ngơ ngác khi nghe thấy tiếng chuông đeo hông leng keng, khắp những con đường đan cài ngang dọc vương đô đều vang lên tiếng than khóc kỳ quái. Nhiều người quả quyết rằng họ đã nhìn thấy bóng người lướt đi trong màn sương mù đặc quánh. Đó là nữ tư tế Cựu giáo, những cụ già lục lọi lại trí nhớ mơ hồ thốt lên như vậy trước khi lao đến thần điện Mauna để quỳ rạp trước tượng thần và run rẩy cầu xin sự che chở.

Ả đến đây để gieo rắc tai ương.

Thánh thần đang giận dữ.

Sự trừng phạt sẽ giáng xuống đầu lũ tội đồ.

Những lời đồn đại ấy lan nhanh đến chóng mặt khắp mọi nơi, bất chấp các tu sĩ ở Mauna vẫn cố gắng trấn an rằng chẳng có nữ tư tế Cựu giáo hay sự trừng phạt nào ở đây. Thế nhưng, từng đấy không đủ để xoa dịu dân chúng lẫn các quý tộc. Hàng ngày, người ta vẫn lũ lượt kéo đến cửa cung điện, đứng sát bên mặt hồ Balkan để kêu gào nhiếp chính Orson hãy dừng cuộc chiến với công chúa Nasya lại bởi họ tin tiếng than khóc trong màn sương là điềm báo tai ương sẽ ập đến.

"Một lũ người ngây thơ, ngài có nghĩ thế không?" Janeiro nhìn xuống đám đông ồn ào đang đứng phía ngoài cung điện, y hỏi người đi bên cạnh mình – nguyên lão Aesthe Candal, một trong số các cố vấn được Orson tin tưởng. Cả hai đều đang trên đường đến căn phòng nghị sự của tháp Qụa Trắng.

"Họ đang sợ hãi. Và ta cá rằng nhiều người trong cung điện này cũng đang như vậy mà còn chẳng có đủ can đảm để thừa nhận điều đó." Aesthe đáp, giọng ông ta xen lẫn với tiếng thở khò khè của tuổi bảy mươi tư.

"Vậy ngài nghĩ họ sợ điều gì? Công chúa Nasya hay nữ tư tế?" Một cách hiếu kỳ, Janeiro tiếp tục. Y chẳng mấy khi trò chuyện với Aesthe, vì trong phần lớn những buổi nghị sự mà hội đồng nguyên lão triệu tập.

"Tại sao không phải là e sợ nhiếp chính của chúng ta?" Vị nguyên lão đáp, và Janeiro có thể thề trước thánh thần rằng trong thoáng chốc y đã nhìn thấy ông ta nhoẻn cười. "Quân đội cần tiền để chiến đấu, ngài Janeiro thân mến, nhưng ngân khố thì chẳng còn xu nào. Nhiếp chính sẽ sớm tăng thuế."

"Nhiều người sẽ bất bình nếu ngài ấy làm vậy." Y bình phẩm.

"Đôi lúc chúng ta cần những sự đánh đổi. Hẳn là cha ngài, đức ông Methusad, hiểu rõ điều đó." Aesthe tiếp tục. "Dù vậy, ta không phủ nhận rằng ngài Orson thiếu đi một vài đức tính của tổ tiên mình."

"Ví dụ như là...?" Janeiro nghiêng đầu ra vẻ hiếu kỳ hơn.

"Khả năng thuyết phục bằng lời nói chẳng hạn." Vị nguyên lão đáp. "Về điểm này công chúa của chúng ta được thừa hưởng trọn vẹn từ cha nàng, khi ông ấy còn minh mẫn, tất nhiên."

Janeiro nhướn mày. Y lảng tránh ánh mắt thăm dò của Aesthe và cả hai giữ im lặng cho đến khi đến phòng nghị sự. Nguyên lão nhà Candal chọn chỗ ngồi ngay cạnh chỗ ngồi bỏ trống của Judas Sudo trong khi Janeiro miễn cưỡng yên vị ở băng ghế gỗ đằng sau ông ta. Cả điện Justo vẫn còn đương xôn xao trước những tin tức mới về cuộc chiến lẫn mối hiểm nguy mà các quý tộc đang phải đối mặt mỗi ngày. Janeiro miễn cưỡng trả lời câu hỏi của một vài người mà y chẳng buồn để tâm đế tên gọi lẫn gia thế của họ trong lúc vẫn dỏng tai lên nghe những lời Aesthe nói ở phía trước mình. Ông ta đề cập đến những lo ngại khi công chúa Nasya ngày càng lôi kéo thêm được nhiều quý tộc Thrace và trả lời câu hỏi đến nữ tư tế đầy hời hợt. Tuy nhiên, vị nguyên lão không đả động gì đến chiến phí lẫn vấn đề thuế khoá. Thế rồi khi tiếng chuông báo hiệu giờ cầu nguyện buổi sáng kết thúc, cả căn phòng dần im lặng. Các nguyên lão chờ đợi nhiếp chính Orson xuất hiện. Nhưng lạ lùng thay, thời gian cứ thế trôi qua và cách cửa lớn của đại điện Justo vẫn đóng im lìm. Những tiếng thì thào trao đổi lại nổi lên, ban đầu chỉ dè dặt giữa một vài người, sau đó dần lan rộng ra khắp căn phòng. Janeiro nghe thấy ai đó bực bội khi phải đợi chờ quá lâu, còn người khác lại phàn nàn về thái độ bất cần của nhiếp chính đối với cả cuộc chiến lẫn Nguyên Lão Viện.

"Hẳn là ngài ấy vẫn chưa xong việc với ả tình nhân mới." Y can dự vào câu chuyện của người ngồi cạnh, khi vị nguyên lão có khuôn mặt cáu bẳn lẩm bảm tự hỏi rốt cuộc nhiếp chính đang làm cái quái gì để không xuất hiện ở đây vào lúc này. "Nếu ngài muốn biết thêm thì dễ đến ba ngày nay nhiếp chính chưa bước chân ra khỏi phòng ngủ."

"Cầu thánh thần xá tội." Vị nguyên lão thốt lên ngao ngán.

Janeiro nhìn ông ta với cặp mắt thương hại, trong lòng y tự hỏi liệu ông ta sẽ phản ứng ra sao khi biết cô ả tình nhân kia là do chính y dâng tặng cho Orson. Phải, đúng thế. Tay nhiếp chính ấy càng lúc càng nóng nảy và cư xử thô lỗ với kẻ dưới. Lãnh chúa Methusad quả quyết rằng đấy là vì gã thái tử du mục đang thiếu hơi đàn bà. Thế nên Janeiro đã buộc phải đưa đến cung điện Esta một cô nàng mười sáu tuổi, tóc ánh đỏ với đôi mắt tinh quái. Gần giống với công chúa Nasya, y nhớ ấn tượng đầu tiên khi cha nàng - lão chủ quán rượu - dắt con gái đến bán. Và quả thực, lãnh chúa Methusad đã đúng, kể từ lúc con trai ông đưa đến cho Osron một cô nàng có diện mạo lẫn cách ăn mặc giống công chúa, gã nhiếp chính chẳng còn quá nhiều thời gian để bực bội với đám người hầu. Nhưng chuyện này cũng không hẳn là tốt đẹp, bởi cả Methusad lẫn Janeiro đều không ngờ rằng thái tử lại quấn quít bên ả tình nhân bé nhỏ theo cách điên rồ, trụy lạc như bây giờ.

"Đôi lúc ta nghĩ công chúa Nasya sẽ cai trị Vespero tốt hơn cả hoàng đế lẫn anh trai nàng." Nguyên lão Aesthe quay người, ông ta nói với Janeiro theo cách nửa đùa nửa thật như vậy. "Chí ít chúng ta sẽ không phải đợi nàng dứt khỏi vòng tay một ả tình nhân nào đó để đến phòng nghị sự."

Trong thoáng chốc, câu nói của Aesthe khiến các nguyên lão ngồi gần Janeiro lẫn chính ông ta bật cười khùng khục. Câu chuyện đùa cợt đầy bất kính chỉ dừng lại khi những kẻ hầu thông báo nhiếp chính Orson sắp có mặt ở đại điện Justo. Sự chờ đợi lẫn bực bội từ các nguyên lão lập tức bị giấu nhẹm dưới lớp vỏ trang nghiêm, lúc họ hơi nhấc mình ra khỏi ghế ngồi để vuốt lại cho phẳng nếp gấp trên tấm áo chùng cũng như chào đón gã đàn ông có thân hình cao lớn đang nắm giữ quyền lực bậc nhất ở Vespero này. Những phép tắc quý tộc dành cho quân vương được thực hiện tuần tự như vô số lần trước đây. Đối với các nguyên lão, đó chỉ là thói quen lặp đi lặp lại đầy nhàm chán, nhưng đối với Orson thì đó tựa hồ giống sự ve vuốt của quyền lực. Gã tận hưởng cái nghi thức cúi chào chỉ diễn ra vỏn vẹn khoảng ba khắc đồng hồ ngắn ngủi trên quãng đường dẫn từ cánh cửa lớn đến chỗ ngồi trung tâm của đại điện – nơi được gọi là Leo Sella – từng chút một, không để lãng phí đến tích tắc nào. Khi Orson yên vị, các nguyên lão mới nhẹ nhàng ngồi xuống.

Các buổi nghị sự của Nguyên Lão Viện luôn diễn ra theo một trình tự, nghiêm trang ở những khắc đầu tiên, gay gắt ở quãng giữa và kết thúc đầy hằn học. Mọi thứ luôn diễn ra như vậy, không có bất kỳ ngoại lệ nào. Lần này, cuộc tranh cãi nổ ra ngay sau khi viên thị thần thân cận của nhiếp chính Orson dõng dạc nói về yêu cầu tăng thuế khóa lẫn dẹp yên bất ổn trong thành. Janeiro ngồi im lặng, vì y chưa phải thành viên của Nguyên Lão Viện, thế nên y không có quyền phát biểu bất cứ điều gì, trừ phi được đề nghị. Dẫu vậy, đứa con trai đầy tai tiếng của đức ông Methusad cũng không lấy làm buồn phiền, ngược lại y dường như thấy biết ơn cái quy định này. Rõ ràng, không phải ai cũng được chiêm ngưỡng bộ dạng hùng hổ, chực chờ xâu xé hoặc mỉa mai nhau của những nguyên lão vẫn luôn được trọng vọng ở kinh đô Macedonica.

"Thuế khóa? Chúng ta đã nâng thuế sáu lần chỉ trong vòng ba năm. Sẽ chẳng quý tộc hay người dân nào chịu nộp thêm tiền cho một cuộc nội chiến." Nguyên lão Deryas Estonia lên tiếng đầu giận dữ. Lãnh địa Aksaras đã đánh mất phân nửa số chư hầu tại những vùng đất màu mỡ nhất, hơn ai hết Deryas là người muốn chấm dứt cuộc chiến càng nhanh càng tốt, trước khi gia tộc của ông rơi vào tình thế bất lợi hơn. "Tất cả những gì ngài chỉ cần làm, thưa nhiếp chính Orson, là rút lại lời buộc tội dành cho công chúa Nasya và xoa dịu nàng cùng các quý tộc ủng hộ nàng."

"Những lời của ngài nói thật hoang đường, ngài Deryas. Công chúa Nasya là người tuyên chiến trước, nàng ta còn chẳng có sự ủng hộ từ Giáo triều ở Cathage. Imperiestro đứng về phía nhiếp chính Orson, vua chúa trên cả nửa lục địa này cũng sẽ tuân theo ý muốn của ngài ấy. Chúng ta chỉ cần thời gian." Aesthe đáp lại một cách điềm tĩnh. Ông ta không đứng dậy khỏi chỗ ngồi trên băng ghế của mình. Ý kiến của Aesthe khiến Janeiro ngạc nhiên, y cựa người ngồi thẳng, thích thú theo dõi cuộc tranh luận giữa hai nguyên lão. Xung quanh y, quý tộc cùng các thành viên khác trong Nguyên Lão Viện đều xôn xao tỏ ý đồng tình hoặc phản đối. Còn trên Leo Sella, Orson tỏ ra khó chịu trước âm thành ồn ào thái quá trong đại diện, gã vẫn chưa quen được với những cuộc cãi vã như thế này.

"Ồ, thật đơn giản, thưa ngài Aesthe, nếu ngài muốn chết trong tay đám dân đen đang kêu gào trên bờ hồ kia thì quả thực chỉ cần có vậy." Deryas bực dọc, thế nhưng ông ta vẫn cố né tránh việc đề cập đến nỗi bất an đang ngày một lớn dần trong lòng nhiều nhà quý tộc.

"Lũ tư tế Cựu giáo sẽ chẳng làm được gì, Deryas, đơn giản vì chỉ lũ ngốc mới tin rằng chúng dám bén mảng đến đây để thách thức cọc nhọn." Những tiếng cười cợt phụ họa cho Aesthe rộ lên. Các tu sĩ Cựu giáo là một điều gì đó thật khôi hài đối với họ, bởi kể từ thời Patro đại đế, phần lớn chúng đã bị người Rusland tiêu diệt bằng cách xiên cọc.

"Ta không nói đến thứ huyễn hoặc ấy, ngài Aesthe. Ta nói đến việc các quý tộc đang chết vô cớ mỗi ngày." Trước sự chế giễu từ Aesthe, Deryas thẳng thừng. Tuy nhiên, ông ta không ngờ rằng câu nói của mình khiến cho Orson phải quát lên giận dữ. Đây là chủ đề cấm vào lúc này, và rõ ràng gã không hề muốn ai nhắc đến nó.

"Đủ rồi, Deryas." Trước khi nguyên lão Aesthe kịp đối đáp, Orson gằn giọng. Gã không muốn Deryas khơi gợi lại chuyện đáng nguyền rủa này.

"Người chết đủ hay ngài nghe đủ rồi, thưa nhiếp chính?" Vị nguyên lão sẵng giọng. Người đứng đầu gia tộc Estonia có lẽ chẳng mấy khi e ngại trong các cuộc tranh nghị sự, bất kể là với hoàng đế Renando hay con trai ông ta. Một thái độ lấn lướt gần giống với Judas Sudo, như người ta vẫn thường nói luôn có điểm chung thì mới làm đồng minh.

"Bình tĩnh nào ngài Deryas." Janeiro thì thào từ cách đó hai hàng ghế. Y cho rằng Deryas hẳn chưa được chứng kiến thói ngang ngược của Orson mỗi khi lên cơn điên, và để một ông lão đương đầu với nó không phải chuyện tốt lành.

"Hãy cẩn thận lời nói của ngươi và học hỏi lòng trung thành từ ngài Aesthe." Nhiếp chính đáp đầy bình thản, tựa như không bận tâm đến thái độ châm chọc của nguyên lão. Tuy nhiên, người ta có thể thấy hai hàm răng của gã đang nghiến vào nhau. Orson luôn nhạy cảm với bất cứ hành vi lẫn lời nói nào mà gã cho là thiếu đi sự kính trọng, như cái cách mà nguyên lão Deryas vừa thể hiện.

"Với tất cả sự tôn trọng dành cho dòng máu hoàng tộc của ngài, Orson, bịt miệng kẻ khác không giúp các quý tộc cảm thấy an toàn hơn. Gia tộc của chúng thần đã phụng sự cho Vespero hết đời này sang đời khác và chúng thần sẽ tiếp tục truyền thống đó, nếu còn sống." Nguyên lão tức giận, ông đứng bật dậy, cúi chào trước khi toan rời khỏi đại điện như một cách phản kháng lại kẻ đang ngồi trên Leo Sella.

Thế nhưng, dường như Orson đã có cách xử trí với Deryas. Gã nhanh chóng quyết định và thét lên ra lệnh cho binh lính tóm lấy nguyên lão nhà Estonia trước hàng trăm cặp mắt bàng hoàng. Chưa bao giờ quân vương của Vespero có cách hành xử như vậy đối với các thành viên của Nguyên Lão Viện. Deryas cố sức chống lại việc bắt bớ, dù ở cái tuổi tám mươi, đấy là chuyện bất khả thi. Trong lúc tất cả đều đang nín thở quan sát những gì đang diễn ra với nguyên lão nhà Estonia, Janeiro liếc nhìn về phía Orson, gã nhiếp chính đang nở một nụ cười thỏa mãn, gào to và chỉ tay đe dọa ông lão khốn khổ.

"Tống con lừa già này vào ngục và nếu lão còn kêu gào nữa thì cắt lưỡi lão cho ta." Orson trợn mắt, gã rời khỏi Leo Sella, bước đến gần Deryas và giật phăng chiếc khuy được chạm khắc hình chim cú vọ cài trên ngực áo choàng của ông ta – thứ đại diện cho nguyên lão viện. Gã ném chiếc khuy xuống sàn đá, đế giày da thuộc miết lên nó cho đến khi sức nặng từ cả thân hình đồ sộ nghiền vật trang trí trang nhã ấy thành những mảnh nhỏ.

"Có lẽ chúng ta sẽ cần một cuộc biểu quyết theo truyền thống..." Aesthe ngập ngừng.

"Không, ngài Aesthe đáng mến. Chúng ta không cần một cuộc biểu quyết, việc tăng thuế sẽ được áp dụng vào ngay ngày mai và thần dân của ta sẽ phải thấy vinh dự khi những đồng tiền bé nhỏ của họ sẽ giúp lính đánh thuê đánh bại lũ phản loạn." Vị nhiếp chính đáp, gã thảy thông cáo đã được soạn sẵn trên miếng giấy da thuộc cho viên thị thần và ra hiệu đem nó đến chỗ Aesthe. "Treo thưởng bốn mươi đồng vàng cho bất cứ tin tức nào về tên-đồ-tể-quý-tộc, nếu hắn thực sự tồn tại."

Nói rồi, Orson rời khỏi đại điện, để lại sau lưng một bầu không khí đầy căng thẳng.

===

(*) Có nghĩa là "Cái chết đã được ném ra". 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro