câu 2: quan điểm cua hcm về vấn đề dân tộc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 2: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc? Hãy cho biết trong quan điểm đó, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vấn đề dân tộc nào?

Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được thể hiện tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

1.      Vấn đề dân tộc thuộc địa:

a)      Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa:

-          Đấu tranh chống CN thực dân, giải phóng dân tộc.

-          Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc: trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN, HCM viết: “Làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH Cộng sản” con đường đó kết hợp trong đó cả nội dung dân tộc, dân chủ và CNXH xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

b)      Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa:

-          Cách tiếp cận từ quyền con người: từ quyền con người, HCM đã khái quát nâng cao thành quyền dân tộc: “ tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

-          Nội dung của độc lập dân tộc: Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là trả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

c)      Chủ nghĩa dân tộc – 1 động lực lớn của đất nước:

-          HCM khẳng định: đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”

-          Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong XH thuộc địa, từ truyền thống dân tộc VN, HCM đã đánh giá cao sức mạnh của CN dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy và Người cho đó là “chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.

-          Trong tư tưởng HCm, CNDT chân chính “là 1 bộ phận của tinh thần quốc tế”, khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động.

2.      Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp:

a)      Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau:

HCM rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc.

b)      Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH:

Con đường cứu nước của HCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tư tưởng của Người phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp GPDT trong thời đại của CN đế quốc.

c)      Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng dân tộc:

HCM giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời, đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc.

Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của CN thực dân là điều kiện để GP giai cấp.

ð     Lợi ích giai cấp phục tùng lợi ích dân tộc.

d)     Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác:

Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, HCM không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc VN, mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức.

Người nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực tiễn.

Theo bạn Thảo nghĩ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến độc lập dân tộc ^^ là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa ak :P để bạn Th coi lại oy bổ sung sau heng :D còn cái đống dưới này mấy bạn đọc thêm cho zui ak :D haha

    Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải không ai có thể chối cãi được: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.

    Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn toàn. Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân, đế quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu một cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do.”

     Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hoà bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.

      Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20”

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.

     Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin. Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản,  khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.

     Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

     Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là  tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòasắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro