Cau 3 THNC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CÂU 3: Trình bày khái quát những nội dung cơ bản của phép biện chúng duy vật. Vai trò của nó đối với nhận thức khoa học và thực tiễn Cách mạng hiện nay.

I/ Khái niệm phép biện chứng và phép biện chứng duy vật

1. Phép biện chứng:

“phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

2. Phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

II/ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1/ 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

1.1.1. Khái quát về mối liên hệ phổ biến

Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn giới vô cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với nhau, tồn tại độc lập không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản của những con người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không vận động...

Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người không chỉ trong một nước mà trên toàn thế giới và ngược lại, hoạt động của con người cũng tác động, ảnh hưởng làm biến đổi môi trường.

Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.

Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .

Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ, sự tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội và tự nhiên thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con người.

1.1.2. Các tính chất của mối liên hệ

- Tính khách quan:

Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngoài sự tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .

- Tính phổ biến:

Thứ nhất , bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội.

Thứ hai , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể, được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những mối quan hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế, Ph.Ănghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”.

- Tính đa dạng của mối liên hệ:

Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới còn nhìn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên;.v.v. Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.

1.2. Nguyên lý về sự phát triển

1.2.1. Khai niệm về sự phát triển

Phát triển là quá trình biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện

1.2.2 Tính chất của sự phát triển

- Tính khách quan:

Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới vật chất.

- Tính phổ biến:

Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển.

- Tính đa dạng phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng của phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.

2 / 6 Cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

2.1. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất

2.1.1 Khái niệm “cái riêng”, “cái chung”, và “cái đơn nhất

 - Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.

- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.

- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất nhất định, không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.

2.1.2. Quan hệ biện chứng giữa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”.

Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.

Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung..

Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng.

Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.

2.1.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận

Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng.

 Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. 2.2. Nguyên nhân và kết quả

2.2.1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả

a) Định nghĩa

Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.

- Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.

- Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sư vật với nhau gây ra.

b) Tính chất của mối liên hệ nhân quả

Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu.

- Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu mình.

- Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.

- Tính tất yếu thể hiện ở chỗ: Nguyên nhân tác động trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.

2.2.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

a) Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện

Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả.

b) Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân

Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: Thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực).

c) Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau

Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại.

2.2.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận

Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân.

Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả.Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.

- Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.

3/ MỘT SỐ QUY LUẬT CƠ BẢN

3.1. QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT

 Khái niệm về chất và khái niệm về lượng

Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó chứ không phải là cái khác.

Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.

Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất

* Lượng đổi dẫn đến chất đổi: Lượng không ngừng biến đổi do đấu tranh của các mặt đối lập trong sự vật.

Cách thức: Lượng biến đổi dần dần, tuần tự nhưng có xu hướng tích lũy. Khi lượng đổi vượt quá” Độ” sẽ tác động đến chất. Tại điểm nút, hiện tượng “ Nhảy vọt “ diễn ra làm chất đổi.

* Chất đổi thì lượng đổi: Chất mới ra đời >>> Lượng xuất hiện phù hợp, đồng thời “ Độ” mới ra đời tiếp tục quá trình biến đổi của Lượng.

Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật, trong đó sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác.

Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên..

Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, muốn thay đổi chất phải tích lũy về lượng.

- Khi tích lũy đủ lượng phải kiên quyết thực hiện bước nhảy

- Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy

3.2. Quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập ( quy luật mâu thuẫn)

Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính khác nhau và vận động theo khuynh hướng trái ngược nhau trong một sự vật-hiện tượng.

Mâu thuẫn là mặt đối lập liên hệ, hai mặt đối lập tác động qua lại nhau trong một thể thống nhất .

Sự tồn tại thống nhất của mặt đối lập là các mặt đối lập nương tựa, tương tác, qua lại, cùng chuyển hóa.

Đấu tranh của mặt đối lập là bài trừ, gạt bỏ, phủ định của 2 mặt đối lập.

Vai trò của mâu thuẫn đối với sự phát triển:

- Thống nhất và đấu tranh của mặt đối lập là hai xu hướng khác nhau của mâu thuẫn biện chứng. Thống nhất gắn liền với sự đứng im, ổn định tạm thời của sự vật là điều kiện của đấu tranh.

- Đấu tranh của mặt đối lập gắn liền với tính tuyệt đối của vận động phát triển

Sự khác biệt của mặt đối lập ( về xu hướng) → Mâu thuẫn(MĐL xung đột gay gắt)→MT giải quyết ( MĐL chuyển hóa)

- Mâu thuẫn được giải quyết →thể thống nhất bị phá vỡ→sự vật mới ra đời( mâu thuẫn mới hình thành)=> Đấu tranh giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của vận động và phát triển.

Ý nghĩa phương pháp luận

Phát hiện ra các mâu thuẫn bên trong sự vật

Phải tạo điều kiện thúc đẩy đấu tranh giải quyết mâu thuẫn

Giải quyết mâu thuẫn phải linh hoạt.

3.3. Quy luật phủ định của phủ định

Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng

Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản sau: Tính khách quan và tính kế thừa.

Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật

- Tính kế thừa:

Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo nhữnh mặt còn thích hợp, những mặt tích cực bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thức.

Điều đó nói nên rằng, phủ định biện chứng mang tính kế thừa.

Nội dung của quy luật phủ định của phủ định

Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật- xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy ốc”.

Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy ốc”.

Ý nghĩa phương pháp luận

- Phủ định cái cũ, tạo l

III/ Vai trò của phép biện chứng duy vật đối với nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng hiện nay.

PBC duy vật trong triết học Mác chứa đựng bản chất CM&KH , bản chất CM&KH là hai thuộc tính nội tại của PBC và nó gắn bó chặt chẽ với nhau không tách rời CM&KH và ngược lại bởi đã CM thì là KH và ngược lại.

 Bản chất CM&KH biểu hiện trong những nội dung sau:

+ PBC duy vật không thừa nhận sự nhất thành bất biến của sự vật hiện tượng mà mọi cái đều tồn tại trong Vận động, biến đổi và phát triển một cách phổ biến.

+ Nguyên nhân nguồn gốc của sự vận động, biến đổi nằm ở bên trong sự vật đó là sự thống nhất giữa nhân tố khẳng định và nhân tố phổ định, nhân tố phủ định có xu hướng duy trì cái hiện có, nhân tố khẳng định có xu hướng phủ định chuyển sang cái mới cao hơn, những tư tưởng bảo thủ, sơ cứng đề trái với bản chất này.

+ PBC duy vật mang tính phê phán cách mạng thông qua đấu tranh với những yếu tố lạc hậu, bảo thủ đối lập và phát triển tiến lên.

+ PBC duy vật là cơ sở xây dựng niềm tin ý chí quyết tâm cải tạo thế giới, cải tạo xã hội trong quá trình ngiên cứu KH, PBC duy vật là vũ khí lý luận sắc bén để chiến thắng trong cuộc đấu tranh ý thức hệ.

* Vận dụng xem xét tình hình thế giới và công cuộc đổi mới ở Việt Nam:

+ Vận dụng PBC để nhậN thức đúng CNTB cả mặt hạn chế và tiến bộ.

+ Đánh giá những thành tựu và sai lầm của CNXH.

+ Mặt dù CM XHCN đang ở thoái trào CNTB thực hiện một số chiến lượt trong âm mưu chiến lược toàn cầu của chúng nhưng đó chỉ là những bước biến đổi tạm thời có giới hạn, CNXH sẽ lấy lại sức sống của nó và CNXH là tất yếu KQ.

+ Ở việt Nam chúng ta hiện nay đảng ta chủ trương thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần xuất hiện một mâu thuẩn nổi bật phản ánh hai xu hướng phát triển CNTB đó là phát triển kinh tế TBCN theo định hướng XHCN và phát triển nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn TBCN, nếu xu hướng 1 thắng lợi ta giữ vững XHCN, nếu xu hướng hai thắng lợi ta sẽ chệch hướng XHCN.

+ Kinh tế nhiều thành phần chứa đựng nhiều mâu thuẩn, thậm chí có mâu thuẩn gay gắt, nhưng chính sách của chúng ta là phát triển tiềm năng của mỗi thành phần kinh tế, nhưng có điều chỉnh và hạn chế những lợi ích đối lập nhau.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#cau3th