Cau 4 THNC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 4:

1. Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật

1.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

a, Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

            Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất. Các mối liên hệ giữa chúng có tính khách quan, phổ biến và đa dạng. Chúng nắm những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Chỉ có thể giải thích được tính vô hạn của thế giới khách quan và tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó trong mối liên hệ phổ biến với các mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.

           Từ nguyên lý này, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể. Theo đó, không nên tuyệt đối hóa bất cứ mối liên hệ nào hay tách nó ra khỏi các mối liên hệ khác. Mặc dù vậy, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.

b, Nguyên lý về sự phát triển

           Phát triển là thuật ngữ dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi; sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường xoáy ốc, cái mới dường như lặp lại một số đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.

           Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động. Phát triển có tính khách quan, phổ biến, đa dạng, thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có sự thụt lùi tương đối trong sự phát triển. Từ nguyên lý này, ta rút ra những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

           Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

2. Vai trò của 2 nguyên lý phép BCDV đối với nhận thức khoa học và thực tiễn CM hiện nay.

         - Khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại.

         - Khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản, chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.

         - Đưa phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.

         - Khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết học.

         - Làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để.

         - Là thế giới quan: Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Có thể ví thế giới quan như "thấu kính", qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự nhận xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.

Triết học Mác - Lênin với tư cách là hạt nhân lý luận khoa học của thế giới quan đúng đắn, làm cho thế giới quan phát triển một chách tự giác dựa trên sự tổng kết  thực thực tiễn và tri thức khoa học đưa lại.

         -Là phương pháp luận:đây là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Với tư cách là hệ thống chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, Triết học Mácxít thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp và lý luận về phương pháp. Trong triết học Mác - Lênin, Lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả thế giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.

          Như vậy, nắm vũng triết học Mác -Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan khoa học và còn xác định một phương pháp luận đúng đắn và nó xứng đáng được vinh danh là "chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị", đồng thời là "công cụ nhận thức vĩ đại".

3. Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.

Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện  thực.

          bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng.

           Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội. 

           Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.

          Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.

         Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.

          Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

           Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. Sinh viên là những người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.

          Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội.

          Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hoá học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .

Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.

4. Ý nghĩa của nó đối với nhận thức và thực tiễn:

          Với bản chất khoa học cách mạng và phê phán, phép biện chứng duy vật, như Mác và Engen đã khẳng định: "không chịu khuất phục trước một cái gì cả”. Trên một ý nghĩa nào đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối lập với phép biện chứng duy tâm , mà nó còn là phương tiện chủ yếu để khắc phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội. 

Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động thực tiễn của con người và làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát triển, do đó, chúng được coi là những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy của phép biện chứng duy vật, việc đề cao vai trò của nó đối với việc khắc phục những sai lầm trong tư duy càng trở nên có ý nghĩa hết sức to lớn. 

         Về bệnh chủ quan duy ý chí “Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy vừa mắc phải chủ nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ nghĩa chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể trong quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần nào bản chất và tính quy luật của thế giới vật chất, của hiện thực khách quan". 

         Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, người ta tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách quan, coi thường các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển. 

         Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để xem xét thì rõ ràng, bệnh chủ quan duy ý chí là kết quả nếu không nói là tất cả của những điều kiện sinh hoạt vật chất - xã hội, cụ thể là của trình độ phát triển thấp kém về kinh tế. Đó chính là nguyên nhân của những nguyên nhân sau đây: 

Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa học của chủ thể nhận thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta không thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ văn hoá, khoa học chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí. 

          Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc thường xuyên chủ động nâng cạo năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này, Engen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta. Năng lực ấy cần phái được phát triển hoàn thiện... Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém đó, cách trước tiên và chủ yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận. của chủ nghĩa duy vật biện chứng. 

          Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song là một loại bệnh "ấu trĩ tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ. 

            Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược cách mạng và sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính sách và pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ làm nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng như lâu dài, hậu quả của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vô sản, không sai lầm nào nguy là nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan. Định ra một sách lược vô sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị thất bại". 

          Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây nên, những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) không nhận thức được nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được nguồn gốc sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.

Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai lầm, theo chúng tôi, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo thủ hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm chủ quan, tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách đổ lỗi cho người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan... Trong tình hình đó, thay cho việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ, chờ đợi sự may rủi... và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng. 

Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí còn dẫn đến tệ mệnh lệnh hành chính, hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc đoán chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ô, lãng phí, coi thường người lao động... 

          Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng đã mắc phải căn bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật. 

Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý luận mà còn là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt nó, bệnh chủ quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân làm cho nền kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí phải là sự kết hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý luận, trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật với việc đẩy mạnh đổi mới và phát triển kinh tế. 

Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc phục triệt để thì nó sẽ còn gắn kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển đất nước. 

          Về bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa:Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến những sai lầm trong phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn. Thực chất của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một cách máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh nghiệm đó ở đâu? Về đại thể, đó là sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của địa phương này hay địa phương nọ, kinh nghiệm của nước này hay nước khác, kinh nghiệm của các thế hệ trước… Tuy nhiên, trong số nguồn kinh nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá kinh nghiệm bản thân. Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng: 

          Thứ nhất, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục bộ, chứ không phải là cái phổ biến và càng không phải là tri thức kinh nghiệm phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. 

          Thứ hai, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc của quá khứ chưa hẳn đã là những kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển theo "quan điểm chọn lọc". Hơn nữa, những tri thức kinh nghiệm mới chỉ là sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cục bộ, riêng biệt, và trong nhiều trường hợp, chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên, nhưng trong thực tế cụ thể, sự việc đã diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không thể (và bất cứ ai cũng không có thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách độc đáo hơn và phức tạp hơn nhiều. 

           Thứ ba, "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. 

          Con người Việt Nam vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Vì vậy, mặc dù đã được trang bị chủ nghĩa Mác -Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật, nhưng ở một số nhà quản lý của chúng ta ít nhiều vẫn mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Với căn bệnh này, trong hoạt động thực tiễn, họ đã rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ,tuỳ tiện, tự ti, không nhất quán trong việc thi hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, lạc hậu và trì trệ bởi phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí. 

           Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật, phải thấy được mối quan hệ qua lại và sự thống nhất biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận. Phải bám sát thực tiễn, khái quát thực tiễn, khái quát lý luận, xây dựng được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Vê bệnh giáo điều Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể ( tính máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo), mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn. Thực chất của bệnh giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc những tri thức đó vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không tính đến tính lịch sử - cụ thể của những hoạt động đó. 

          Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của CNDV biện chứng, do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện chứng của quá trình nhận thức cũng như biện chứng của lịch sử xã hội. 

          Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái chung vào cái riêng một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng, cái đặc thù, hoặc áp. dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm nghiệm thực sự bởi thực tiễn. Sai lấm đó chính là ở chỗ, như Lênin nói: "Nêu chỉ biết bắt chước, không có tinh thần phê phán mà đem rập khuôn kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác, như thế là sai lầm nghiêm trọng". 

        Ở nước ta, ngay sau khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình, trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Lời căn dặn đó đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong việc học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế và quản lý kinh tế của các nước phát triển trên thế giới. 

        Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của Việt Nam. Rất tiếc, khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục, sửa chữa, nên căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước . Để căn bản khắc phục căn bệnh này theo tinh thần của phép biện chứng duy vật, chúng ta phải triệt để phân tích mọi vấn đề trong tính lịch sử - cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những giải pháp phù hợp , tránh rập khuôn, máy móc, tránh tuyệt đối hoá các tri thức đã có. 

         Những căn bệnh trên đây thường gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng là một trong những nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế, xã hội những năm 80. Với tinh thần cách mạng khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó đến nay, chúng ta đã có những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các khuynh hướng tư duy sai lẩm, vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. 

           Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy sinh ra chúng chưa hoàn toàn mất đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở mức độ nào đó, những căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới của chúng ta. 

           Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là quá trình xoá bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải xoá bỏ tình trạng yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình độ cao. Muốn vậy, trước hết phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật và thông qua đó, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. 

Như vậy, nắm vững phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho chủ thể vừa ngăn ngừa, khắc phục những khuynh hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiên đặt ra. 

5. Tính chất của mối liên hệ thể hiện ở 4 mặt sau:

Tính khách quan:

      Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Sở dĩ như vậy là vì cơ sở của các mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau được hình thành nên đều là do quá trình vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất, do đó mà xét cho cùng về nguồn gốc thì tất cả các sự vật, hiện tượng đều là nhân, là quả của nhau. Vì thế, giữa chúng luôn tồn tại các mối liên hệ. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình cho phù hợp nhằm phục vụ lợi ích của xã hội và bản thân con người.

Tính phổ biến:

     Bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong thế giới khách quan cũng có mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Không những thế, mà bản thân các yếu tố, bộ phận của chúng cũng có mối liên hệ qua lại với nhau chẳng hạn như mối quan hệ chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nội bộ một phương thức sản xuất. Ngoài ra, trong quá trình tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, giữa quá khứ, hiện tại, tương lai của chúng cũng có quan hệ biện chứng với nhau; trong đó hiện tại là kết quả của quá khứ và là xu hướng của tương lai.

     Trong mỗi điều kiện nhất định, mối liên hệ lại được biểu hiện dưới hình thức riêng biệt, cụ thể.Song, dù dưới hình thức nào, thì chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Bởi thế, Ph.Ăngghen đã viết:"Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến" (1). Cũng vì thế, triết học gọi mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến.

Tính đa dạng:

     Chính tính đa dạng nhiều vẻ trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đã qui định tính đa dạng của mối liên hệ giữa chúng. Mỗi mối liên

hệ lại có vai trò khác nhau trong việc qui định sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như mối liên hệ bên trong luôn giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng hơn là mối liên hệ bên ngoài. Song trong những điều kiện nhất định, mối liên hệ bên ngoài cũng có thể giữ vai trò quyết định.

     Tính đa dạng của các mối liên hệ là cơ sở để phân chia các cặp mối liên hệ như mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối

liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên,...

    Sự phân chia các cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, mỗi mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá cho nhau tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể tác động đến sự vật, hiện tượng.Ví dụ như nếu xem xét tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai vấn đề khác nhau của đời sống xã hội thì mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài nhưng nếu nhìn chúng ở góc độ là hai tiêu chí cơ bản của sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia thì mối liên hệ giữa chúng lại là mối liên hệ bên trong.Song sự phân chia ấy là hết sức cần thiết vì nó giúp cho con người nhìn nhận đầy đủ các mối liên hệ, xác định rõ được vai trò của từng mối liên hệ trong điều kiện cụ thể để có tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn.

Quan điểm toàn diện:

      Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến, có thể rút ra nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thực tại khách quan. Vì mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và mỗi mối liên hệ lại tác động khác nhau tới quá trình tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng nên khi xem xét chúng phải có quan điểm toàn diện.

     Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ giữa nó với các sự vật, hiện tượng khác, giữa các yếu tố, bộ phận trong bản thân nó, kể cả mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.Chẳng hạn, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, không chỉ tìm hiểu những qui luật vận động và những mâu thuẫn nội tại trong bản thân nó mà còn phải xem xét cả đến hình thái kinh tế-xã hội đã sản sinh ra nó là chế độ phong kiến để thấy được tuy còn nhiều hạn chế nhưng sự xuất hiện của nó là tất yếu khách quan, tuân theo quy luật của sự phát triển hình thái kinh tế-xã hội; để từ đó khắc phục những hạn chế, thúc đẩy sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội cao hơn : đó là hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ.

6. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước:

Đảng Cộng sản ViệtNamluôn luôn vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật, và do đó, đã góp phần xây dựng một cách đúng đắn các đường lối, nghị quyết phát triển đất nước. Thực tiễn những thành quả vĩ đại của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đã có lúc Đảng ta chưa thực sự quán triệt phép biện chứng duy vật, gây hậu quả cho sự phát triển của đất nước. Đã có lúc Đảng ta mắc phải bệnh giáo điều, kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong quá trình hoạch định cũng như chỉ đạo đường lối phát triển đất nước.

Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang diễn ra trong những điều kiện mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang thực sự phải nhận thức và giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nhất trong lịch sử không chỉ ở nước ta, mà mang tính quốc tế của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thật vậy, đường lối cách mạng của nước ta trước hết phải xuất phát từ hiện thực đất nước và thời đại; mặt khác, phải dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những kinh nghiệm thành công của chúng ta và của thế giới...

Xét từ phương diện thứ nhất, hiện thực khách quan mà chúng ta lấy đó làm điểm xuất phát để đề ra đường lối đổi mới, hoàn thiện và triển khai thực hiện tự chúng đã hết sức biện chứng, đầy mâu thuẫn. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là cái mới tiêu biểu cho xu thế phát triển khách quan của nhân loại lại đang trong cơn khủng hoảng và thoái trào. Chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời trong lịch sử phát triển của nhân loại thì lại đang đứng ở tầm cao về kinh tế, về khoa học - công nghệ, về thị trường và còn nhiều tiềm năng thích nghi để phát triển. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vừa mang lại cho con người nhiều yếu tố thuận lợi cho việc nhận thức tự nhiên, cải tạo xã hội để ngày càng có được sự phát triển bền vững, xét cả từ phương diện quan hệ con người với tự nhiên lẫn quan hệ giữa con người với con người - thì mặt trái của nó cũng mang lại không ít nguy cơ cho sự tồn tại của tự nhiên lẫn bản thân con người. Toàn cầu hóa khiến cho cả thế giới ngày càng trở thành một thị trường, một chỉnh thể mà trong môi trường đó, mỗi quốc gia riêng biệt chỉ có thể phát triển được, khi tự đặt mình là một yếu tố của cộng đồng thế giới, do vậy, sự xích lại gần nhau ngày càng gia tăng. Mặt khác, xét từ nhiều phương diện, toàn cầu hóa hiện nay đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối, nên mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, sự phân cực giàu nghèo ngày càng gia tăng dẫn tới sự phân ly và phân cực chưa từng thấy trong lịch sử. Còn tình hình đất nước như chúng ta đã biết: Hơn 15 năm đổi mới, chúng ta đã có nhiều thành tựu đáng kể: kinh tế có bước tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có những khởi sắc nhất định; an ninh - quốc phòng được tăng cường và củng cố, độc lập - chủ quyền quốc gia được bảo đảm; đối ngoại không ngừng được rộng mở... Mặt khác, như Đại hội IX của Đảng đã nhận định bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu ra đang có nhiều diễn biến phức tạp. Công cuộc đổi mới càng được triển khai sâu sắc bao nhiêu, chúng ta càng phải giải quyết nhiều vấn đề mới và phức tạp bấy nhiêu: bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là tiền đề chính trị tất yếu để xác lập, củng cố, tăng cường nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại đang dựa trên nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ cấu giai cấp - xã hội, cơ cấu lợi ích ngày càng đa dạng, phong phú, trong đó không chỉ có khác nhau, có cả mâu thuẫn, thậm chí mâu thuẫn đối kháng. Mục tiêu cuộc cách mạng mà chúng ta đang thực hiện là hình thành một xã hội có đầy đủ những nhân tố bảo đảm thực hiện trong thực tế lý tưởng: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", thì hiện thực đất nước vẫn thuộc nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới; sự phân cực xã hội ngày một gia tăng; tình trạng quan liêu - tham nhũng còn quá nặng nề; một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, phai nhạt lý tưởng, cơ hội về chính trị. Trong khi xem nội lực là chính thì chất lượng đào tạo con người đang xuống cấp đến mức báo động, nguồn lực con người chưa có điều kiện thuận lợi để phát huy...

Xét từ phương diện thứ hai, mặc dù nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng đúng đắn hơn, nhưng không chỉ khuynh hướng phủ nhận một số giá trị của di sản kinh điển đó, mà cả sự xa rời, cả sự giáo điều hóa cũng chưa bị đẩy lùi; năng lực nhận thức và vận dụng sáng tạo di sản đó còn xa so với nhu cầu thực tiễn đổi mới. Hơn nữa, ngày nay chúng ta đang phải giải quyết nhiều vấn đề mà đương thời các nhà kinh điển mácxít chưa gặp phải.

Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm vừa qua lại làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận mà không có sẵn lời giải đáp từ di sản lý luận của các nhà kinh điển. Phải xây dựng chế độ công hữu như thế nào; với những hình thức và bước đi thế nào để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân người lao động? Hoặc vấn đề nhà nước phải thực hiện kế hoạch hóa như thế nào để ngăn ngừa tình trạng tập trung quan liêu đang có xu thế quay trở lại? ...

Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong những năm qua, sự vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng đã có bước trưởng thành quan trọng, đã đóng góp to lớn việc hoạch định những vấn đề hệ trọng của dân tộc.

Tuy nhiên, như thực tiễn đã chứng tỏ, bệnh chủ quan, duy ý chí không những chưa được loại bỏ mà ngược lại, đôi lúc nơi này, nơi khác nổi trội bởi những quyết sách và những giải pháp còn mang tính nóng vội, thiếu cơ sở khoa học và lại được triển khai một cách vội vàng, thiếu cân nhắc, gây hậu quả nghiêm trọng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những khuyết điểm đó là hậu quả của bệnh chủ quan nhưng trong đó chủ yếu là sự yếu kém về lý luận của Đảng. Chúng ta biết rằng, bệnh chủ quan trong tư duy chính trị và bệnh giáo điều trong công tác lý luận là trở ngại trực tiếp và chủ yếu đối với việc hoạch định và chỉ đạo những quyết định kinh tế, chính trị xã hội của Đảng. Đến lượt mình, hoạt động hoạch định và chỉ đạo các quyết định chính trị của Đảng trở thành một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, yếu kém về phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian đổi mới vừa qua.

Thực tiễn đổi mới thời gian qua cũng cho thấy sự cần thiết phải kiên quyết đấu tranh khắc phục bệnh giáo điều. Cần nhấn mạnh rằng, trong lĩnh vực tư tưởng, khi chúng ta chưa khắc phục triệt để được giáo điều cũ thì, lại phải đối mặt với khuynh hướng giáo điều mới. "Trong Đảng vừa có những biểu hiện bảo thủ, không chịu đổi mới, vừa có khuynh hướng đổi mới nóng vội, rập khuôn cách làm của các nước...". Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu rời xa lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rơi vào chủ nghĩa xét lại, bệnh giáo điều...

Như vậy, có thể nói, những vấn đề kinh tế, chính trị... nảy sinh trong quá trình của đổi mới không thể giải quyết chỉ bằng triết học, nhưng cũng không thể giải quyết thành công nếu thiếu tư duy biện chứng mácxít. Vì vậy, quán triệt phép biện chứng duy vật, là một trong những điều kiện quan trọng góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới.

Từ trình bày trên cho thấy, việc vận dụng có hiệu quả phép biện chứng duy vật để nhận thức đúng hiện thực khách quan vốn đã biện chứng lại đang ở giai đoạn tính biện chứng đó bộc lộ ở mức phức tạp chưa từng có trong lịch sử trở thành rất bức thiết. Việc nhận thức và phát triển sáng tạo di sản kinh điển mácxít, làm giàu có thêm tiềm năng của phép biện chứng duy vật - một bộ phận cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo phương pháp luận đó nhằm đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên trở thành một vấn đề bức xúc hơn lúc nào hết.

Thực tiễn đã xác nhận, khi nào Đảng ta nâng cao hiệu quả vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng thì khi đó cách mạng nước ta giành được thắng lợi to lớn. Ngược lại, khi nào phép biện chứng duy vật không được vận dụng triệt để, sáng tạo trong việc đề ra các quyết định chính trị và trong chỉ đạo thực hiện các quyết định đó thì thành quả của cách mạng bị hạn chế.

Thực tiễn đang tiếp tục đặt ra cho giới lý luận vấn đề hết sức cấp bách, đó là đi sâu hơn nữa trong việc tìm tòi, tiếp thu di sản các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật, đồng thời phát triển sáng tạo nó trong điều kiện mới của thời đại nói chung và của Việt Nam nói riêng, nhằm làm luận cứ cho Đảng ta trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Do đó, việc nhận thức sâu sắc phép biện chứng duy vật cũng như hoạt động vận dụng sáng tạo phép biện chứng đó là một trong những điều kiện quan trọng để Đảng lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#cau4th