Cau 7 THNC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 7: Trình bày nội dung quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX? Ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế ở nước ta hnay?

1. Khái niệm PTSX, LLSX, QHSX

a. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất

Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức và
phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Ngày nay, khoa
học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vật
chất hoá trong tư liệu sản xuất, hoặc thông qua kỹ năng của người lao động có hiệu suất
cao.

Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể, bao giờ
cũng là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.

b. Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu sau:

- Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội (gọi tắt là quan hệ sở hữu).

- Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và
trong trao đổi hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức quản lý).

- Quan hệ giữa người với người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội (gọi tắt là
quan hệ phân phối lưu thông).

Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí,
pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu hiện thành các phạm trù, quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất xã hội.

c. Phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là phương thức khai thác những của cải vật chất (tư liệu sản
xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển xã hội.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo
thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất.

Quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không phải hoàn toàn thụ động, mà có tác động trở lại lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích
của sản xuất, ảnh hưởng đến lợi ích và thái độ của người lao động trong sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì
nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tiêu chuẩn căn bản để xem xét một quan
hệ sản xuất nhất định có phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hay
không là ở chỗ nó có thể thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân
dân và tạo điều kiện thực hiện công bằng xã hội hay không . Trong xã hội có giai cấp,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giữa
các giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, nổ ra cách
mạng xã hội thay thế quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ
hơn, ra đời phương thức sản xuất cao hơn trong lịch sử. Lịch sử loài người đã trải qua
các phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và đang quá độ lên phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội.

2. Mối quan hệ biện chứng LLSX – QHSX (nội dung quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX).

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành CNH và thực tiễn CNH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: CNH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Biểu hiện vận dụng của quy luật kinh tế luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH- HĐH ở nước ta được thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản sau:

2.1 Phát triển quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN – xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần

Công nghiệp hóa ở nước ta nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, công nghiệp hóa không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất mà còn là quá trình thiết lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đối với nước ta, đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: “nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.

ĐH lần thứ VI (1986) ĐCSVN đã tiến hành đổi mới mà trước hết là đổi mới tư duy, từ đổi mới tư duy kinh tế chuyển sang đổi mới cơ cấu kinh tế- chuyển nền kinh tế với cơ cấu một thành phần sang nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần để phù hợp với trình độ thấp và không đồng đều của LLSX. Kết quả là LLSX phát triển, từng bước khắc phục sự tụt hậu, của cải vật chất nhiều hơn, đời sống vật chất của toàn XH được nâng lên rõ rệt: chuyển cơ cấu quản lý hành chính, tập trung quan liêu đối với nền kinh tế sang cơ chế quản lý hạch toán năng động và từng bước chuyển sang cơ chế thị trường. Việc chuyển đổi này đã dần dần khắc phục sự trì trệ, bảo thủ từ trong bản chất nền kinh tế đem lại sự năng động, sáng tạo, hiệu quả trong tổ chức quản lý, điều hành kinh tế xã hội; chuyển phương thức phân phối bình quân, cào bằng triệt tiêu động lực phát triển, huỷ hoại từ bên trong nhân tố kích thích vốn có của người lao động sang phương thức phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, theo năng lực, trình độ. Phương thức phân phối này đã khơi dậy tính năng động sáng tạo, sự say mê công việc, vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội. Đây là phương thức có tác dụng phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người lao động. Nói cách khác, quá trình chuyển đổi này về thực chất là sự thay đổi về chất quan hệ sản xuất; chuyển tư duy về công nghiệp hoá từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, kiểu “công nghiệp quảng canh” kìm hãm sự phát triển của LLXS sang công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Sự chuyển đổi này đã từng bước khắc phục sự tụt hậu của nền kinh tế nói chung và LLSX nói riêng; chuyển tư duy đóng kín nền kinh tế với thế giới bên ngoài trong khi LLSX đã quốc tế hoá, bằng tư duy “mở” để kinh tế VN hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới nói chung. Việc chuyển đổi này là phù hợp với xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá hiện nay, đồng thời đem lại cho VN không chỉ giá trị vật chất- kỹ thuật mà cả kho tàng kinh nghiệm của các nước phát triển và thế giới nói chung.

Sự nghiệp đổi mới hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế nước ta đó liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định. Nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm của nước ta trong giai đoạn 1986-1990 là 5 năm đầu tiên của công cuộc đổi mới cũng đạt được ở mức thấp 4,4% do nền kinh tế nước ta vừa bước ra khỏi cuộc khủng hoảng đó kéo dài suốt cả thời kỳ 10 năm trước khi đổi mới, 1975-1986, thì liên tục từ năm 1991 cho đến nay chúng ta đều duy trì được sự tăng trưởng GDP liên tục với tốc độ khá cao và tương đối ổn định. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, góp phần tạo ra. Vì vậy, Đại hội VIII khẳng định: “tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân trong nước khai thác tiềm năng ra sức đầu tư phát triển...”. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ. Trong khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, một mặt chúng ta cần phải thoát ra khỏi sự trói buộc của tư duy cũ, những nhận thức không đúng trước đây đối với các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân nhà nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó chủ động tháo gỡ những vướng mắc chủ động hướng dẫn các thành phần kinh tế này phát triển đúng hướng.

2.2 Phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN. Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu

Quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “không nắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất’’. Từ đó, Đảng đã rút ra kinh nghiệm vận dụng quy luật bằng cách gắn cách mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa khọc kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bước thích hợp.

Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH thực hiện CNH- HĐH, nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối trong đó nhấn mạnh phân phối theo lao động là hình thức chủ yếu. Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ CNH- HĐH, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả sự xâm nhập giữa chúng.Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động , phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể. Trong các hình thức trên thì phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất nhất của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta . Không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới trong quá trình phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú ý tới các yếu tố còn lại của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để chúng hỗ trợ nhau trở thành một quy luật kinh tế hiệu quả.

Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Quy luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội VI chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất ”, không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần phải cải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể để đưa nền sản xuất từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp”. Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển”.

2.3 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa hợp lý và hiệu quả cao

Qúa trình CNH-HĐH cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến đổi của lực lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là tiến bộ, hợp lý là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.

3. Sự vận động của Đảng ta trong đường lối đổi mới

Ở nước ta, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thông qua cách mạng khoa học và công nghệ và phân công lại lao động với những quy luật vốn có của nó thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã xác định “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh tế công – nông nghiêp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng . Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16-17%; công nghiệp 40-41%; dịch vụ 42-43%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương châm kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn – tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa cho phép phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện ; giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế và các vùng kinh tế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#cau7th