Câu 9: Ý thức xa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

    

Câu 11: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận? Liên hệ bản thân?

 Khái niệm và kết cấu: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Khái niệm tồn tại xã hội là phạmtrù dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

Các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội gồm: phương thức sản xuất vật chất, các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là quan trọng nhất.

Khái niệm ý thức xã hội là phạm trù dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

Ý thức xã hội và ý thức cá nhân có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất với nhau.

Cấu trúc của ý thức xã hội: Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp và có thể tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau.

+ Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học.

+ Theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội thì ý thức xã hội được chia thành:

·        Ý thức xã hội thông thường: là toàn bộ những tri thức, những quan niệm của con người trong một cộng đồng nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động trực tiếp hàng ngày, chưa được hệ thống, khái quát thành lý luận.

·        Ý thức lý luận: là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.

Nếu căn cứ theo hai trình độ và hai phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội có thể phân thành tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội:

Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí... của những cộng đồng người nhất định, phản ánh trực tiếp và tự phát hoàn cảnh sống của họ.

Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo... là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.

Trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp.

Mỗi giai cấp đều có đời sống sinh hoạt tinh thần đặc thù của nó, nhưng hệ tư tưởng thống trị xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội,nó có ảnh hưởng đến ý thức của các giai cấp khác trong xã hội.

 Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

Tồn tại xã hội quyết định tới ý thức xã hội: nhìn chung, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy.

Khi tồn tại xã hội thay đổi ( nhất là khi phương thức sản xuất ) thì những tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... ( ý thức xã hội ) cũng thay đổi theo.

Tồn tại xã hội quyết định nội dung, đặc điểm, xu hướng phát triển của ý thức xã hội; nội dung của ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế ấy, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, do đó không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm trong hiện thực vật chất.

Khi tồn tại xã hội mang tính giai cấp thì tương ứng ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

Tồn tại xã hội quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội, tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy. C.Mác và Ănghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tương, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản án tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá nghệ thuật sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.Bởi vậy,khi xã hội phong kiến mất đi thì tư tưởng “vua bảo bề tôi chết bề tôi phải chết”,ý thức phục tùng cũng không còn nữa.

Quan điểm duy vật lịch sử còn chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Nghĩa là không phải bất cứ tư tưởng,quan điểm,lý luận hình thái ý thưc xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời dại,mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.

Như vậy,triết học Mác-Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội.

 

 Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định?

Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện đời sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật... tất yếu sẽ biến đổi theo.

Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện đời sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật... tất yếu sẽ biến đổi theo.

Tồn tại xã hội quyết định sự biến đổi của ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo; sự biến đổi của ý thức xã hội là sự phản ánh đối với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Theo C.Mác: “ ...không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cư vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”

 Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tưtưởng, quan niệm, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, nhưng nếu xét đến cùng thì các mối quan hệ kinh tế bao giờ cũng được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.

Ý nghĩa phương pháp luận: việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có vai trò quan trọng để xây dựng phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

 

 Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội?

Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội không chỉ khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội mà còn làm sáng tỏ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hộiđều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Trong nhiều trường hợp, ý thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội đã thay đổi. Điều đó là do:

- Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

- Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

- Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ cố tình duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận trong điều kiện nhất định tư tưởng con người có thể vượt trước tồn tại xã hội, nhất là các dự báo khoa học. Tuy nhiên, suy đến cùng khả năng phản ánh vượt trước của ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội cho thấy ý thức xã hội của một xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội trước đó.Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển nên không thể giải thích một tư tưởng nào đó chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có mà cần phải dựa vào cả những quan hệ kinh tế trước đó.

Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.

Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, nhất là ý thức tư tưởng tiến bộ góp phần to lớn vào thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại ý thức xã hội lạc hậu, phản tiến bộ có thể kìm hãm sự pháttriển của tồn tại xã hội.

Nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra động thái phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

 

Ý nghĩa phương pháp luận? Liên hệ bản thân?

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Theo nguyên lý này, một mặt, nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội phải căn cứ vào tồn tại xã hội nhưng mặt khác cũng phải thấy được sự độc lập tương đối giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Do đó, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội; đồng thời, cũng cần phải thấy rằng những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

Trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta, một mặt chúng ta phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

ANH TỰ LIÊN HỆ BẢN THÂN NHÉ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro