cau hoi on tap TTHCM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cau 1: Nguồn gốc, qua trinh hinh thành tư tưởng hcm.

1- Nguồn gốc hỡnh thành tthcm:

a) Truyền thống văn hóa và tư tưởng tốt đẹp của dtvn: HCM là một trong những người co ưu tú của dt. Trong mấy nghỡn năm phát triển của lịch sử, dân tộc vn đó tạo ra anh hựng thời đại-HCM người anh hùng dân tộc. Tthcm, sự nghiệp và cuộc đời HCM bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc.

Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nựớc. Chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc vn. HCM đó kế thừa và khỏi quỏt lờn một chõn lý: "Dõn ta cú một lũng nồng nàn yờu nước, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thỡ tinh thần ấy lại sụi nổi lờn, nú kết thành 1 làn súng vụ cựng to lớn và mạnh mẽ, nú lướt qua mọi sự khó khăn và nguy hiểm, nú nhấn chỡm mọi bề lũ cướp nước và bán nước".

Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa đoàn kết, tương thân, tương ái trong khó khăn, nguy hiểm. Bác nhấn mạnh 4 chữ: đồng lũng, đồng sức, đồng tỡnh, đồng minh.

Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chớnh mỡnh, tin vào sự tất thắng của chõn lý và chớnh nghĩa dự phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ.

+Truyền thống cần cự, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa bên ngoài làm giàu cho văn hóa vn. Chính nhờ tiếp thu truyền thống của dân tộc mà HCM đó tỡm thấy con đường đi cho dân tộc. "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đó giỳp Tụi tin theo Lenin và đi theo quốc tế 3".

b) Tinh hoa văn hóa nhân loại: Trước khi ra đi tỡm đường cứu nước, HCM đó được trang bị và hấp thụ nền Quốc học và Hán học khá vững vàng, chắc chắn. Trên hành trỡnh cứu nước, Người đó tiếp thu tinh hoa v/hóa nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mỡnh và phục vụ cho cmvn.

+ Văn hóa phương Đông: Người đó tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo;, và tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương đông.

+ Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về 1 xh bỡnh trị. Đặc biệt nho giáo đè cao văn hóa, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại là ngu dân để trị. Tuy nhiên HCM cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ Phong kiến, phân chia đẳng cấp-quân tử và tiểu nhân, chỉ đề cao nghề đọc sách. HCM đó chịu ảnh hưởng của nho giáo rất nhiều và bác dùng nho giáo như là phương tiện để chuyền tải chủ nghĩa M-L vào vn.

+ Phật giáo vào vn từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với vn. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, phật giáo có tư tưởng bỡnh đẳng, dân chủ hơn so với nho giáo. Phật giáo cũng đề cảo nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động. Phật giáo vào vn kết hợp với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với dõn, hũa vào cộng đồng chống kẻ thù chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân.

+ Tư tưởng dân chủ tiến bộ như chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng đến tư tưởng HCM. HCM là nhà mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hóa phương đống để phục vụ cho sự nghiệp của CMVN.

-Văn hóa tây phương:

+ HCM chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương tây. Trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Người đó tỡm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1791, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776. Trước khi ra nước ngoài, Bác đó nghe thấy ba từ Phỏp: tự do, bỡnh đẳng, bác ái. Lần đầu sang Pháp HCM đó thể hiện bản lĩnh, nhõn cỏch phẩm chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đó nhỡn thấy mặt trỏi của "lý tưởng" tự do, bỡnh đẳng, bác ái.

+ Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương tây, HCM quan niệm tôn giáo là văn hóa. Điểm tích cực nhất của Thiên chú giáo là lũng nhõn ỏi. Đôi lúc ta đồng nhất Thiên chúa giáo với mê tín do ấn tượng tông giáo vào vn đi kèm với tư tưởng xâm lược. Bác tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hóa Đông-Tây để phục vụ cho CMVN.

c) Chủ nghĩa M-L là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tthcm: những phạm trù cơ bản của tthcm đều nằm trong phạm trù cơ bản của chủ nghĩa M-L và góp phần làm phong phú thêm CNMLN ở mọi thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do.

+ Khi ra đi tỡm đường cứu nước bác đó cú một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, bác đó phõn tớch, tổng kết cỏc phũng trào yờu nước vn chống pháp cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20; Bác đó hoàn thiện vốn văn hóa, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú. Nhờ đó bác đó tiếp thu chủ nghĩa M-L như 1 lẽ tự nhiên "tất yếu khách quan và hợp với quy luật". Chủ nghĩa M-L là bộ phận văn hóa đặc sắc nhất của nhân loại: tinh túy nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất. Quan điểm của Mác là mọi cái đều có thể trở thành hiện thực trong những điều kiện nhất định. Với tất cả điều kiện tự nhiên và xh của nó qua các thời kỳ đều trở thành khả năng của sự phát triển lịch sử. Mác là nhà tư tưởng của những cái có thể.

+Bác đến với chủ nghĩa M-L là tỡm con đường giải phóng cho dân tộc. Từ chủ nghĩa yêu nước bác đến với CNMLN và tin theo Lênin. Người hồi tưởng, "khi ấy ngồi 1 mỡnh trong phũng mà tụi núi to lờn như đang đứng trước đông đảo quần chúng: hời đồng bào bị đọa đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta".

+HCM đó đến với CNMLN ntn? Nhờ có bản lĩnh vững vàng và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ và sáng tạo ở người, khi tiếp thu CNMLN đó khụng sao chộp, khụng kinh viện, sỏch vở. Thứ hai, bỏc đến với CNMLN nhằm tỡm ra con đường gpdt tức là từ như cầu thực tiễn của cách mạng, chứ không như các học giả phương tây đến với CNMLN là giải quyết vấn đề tư duy hơn hành động. Thứ ba, người tiếp thu CNMLN cốt tỡm ra bản chất, vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của CNMLN chứ không tỡm kết luận cú sẵn.

+Người vận dụng CNMLN theo phương pháp mác-xít và theo tinh thần phương đông, không sách vở, kinh viện, không tỡm kết luận cú sẵn mà tự tỡm ra giải phỏp riờng, cụ thể cho CMVN. CNMLN là cơ sở chủ yếu nhất hỡnh thành tthcm.

d) Nhõn tố chủ quan thuộc về phẩm chất cỏ nhõn của NAQ.

+ Tư duy độc lập và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tỡm hiểu cuộc cỏch mạng tư sản hiện đại.

+ Không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức, vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào gpdt.

+ bác có tâm hồn của 1 người yêu nước vĩ đại, 1 chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương dâ, thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh cao đẹp vỡ độc lập của tổ quốc, vỡ hạnh phỳc của nhõn dõn. Bỏc hồ từ 1 người tỡm đường cứu nước đó trở thành người dẫn đường cho cả dt đi theo.

2-Quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển tthcm.

- Từ 1890-1911: giai đoạn hỡnh thành tư tưởng yêu nước và trí hướng cách mạng. Bác tiếp thu truyền thống dt, hấp thụ vốn văn hóa quốc học và hán học, tiếp xúc với văn hóa tây phương, chứng kiến cuộc sống khổ cực của đồng bào. Bác nảy ý định đi tỡm đường cứu nước.

- Từ 1991-1920: giai đoạn tỡm tũi, khảo nghiệm. Năm 1911, bác sáng pháp, sau đó sang anh, mỹ.Năm 1913, người từ Mỹ qua lại anh tham gia công đoàn thủy thủ anh. Năm 1919, Người từ Anh lại sang Pháp vào lúc nổ ra CMT10 Nga, Pari sôi động tỡm hiểu CMT10. Năm 1919, NAQ ra nhập Đảng xh Pháp. Tháng 8/1920, bác gửi bản yêu sách của nhân dân An-nam đến hội nghị Véc-xay. Đại hội 18 đảng xh pháp thảo luận vấn đề gia nhập quốc tế III, ngày 30/12/1920 HCM biểu quyết tán thành DCS pháp, trở thành người cộng sản.

-Từ 1921-1930: giai đoạn cơ bản hỡnh thành tthcm về con đường CMVN. HCM hoạt động tích cực trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng xh pháp, xuất bản tờ Le parie nhằm truyền bá CNMLN vào vn. Năm 1923, bác sang Nga dự đại hội V quốc tế cộng sản. Năm 1924, bác về quảng châu tổ chức vn thanh niên cách mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ. Năm 1927, bác xuất bản tác phẩm "Đường Kách Mệnh". Tháng 2/1930, NAQ chủ trỡ hội nghị hợp nhất và thành lập ĐCSVN. Người trực tiếp thảo văn kiện "Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng". Ngày 3/2/1930, HCM trở thành nhà tư tưởng theo đúng nghĩa. Lênin viết:"Một người chỉ xứng danh là nhà tư tưởng khi nào họ đi trước phong trào tự phát của quần chúng, chỉ đường cho nó. Họ biết giải quyết trước những vấn đề lý luận, chớnh trị, sỏch lược và tổ chức mà phong trào quần chúng húc vào 1 cách tự phát. Nhà tư tưởng là nhà lónh đạo tự giác, biết nâng thành phong trào tự giác, phải có lý luận và biết tổ chức hoạt động".

- Từ 1930-1941: giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trỡ con đường đó xỏc định cho CMVN. Khẳng định quan điểm của HCM về CMVN. Thời kỳ này HCM và quốc tế cộng sản mâu thuẫn trong nhận thức về liên minh các lực lượng cách mạng. Điều này phản ánh quy luật của CMVN, giá trị và sức sống của tthcm.

- Từ 1941-1960: giai đoạn phát triển và thắng lợi của tthcm. CMT8 là thắng lợi đầu tiên của tthcm về CMVN. Thắng lợi 1954, thắng lợi mùa xuân 1975, bổ xung và phát triển tthcm về CMVN.

Tư tưởng HCM hỡnh thành trờn cơ sở khoa học và cách mạng, có quá trỡnh trưởng thành liên tục trong đấu tranh cách mạng chống kẻ thù, chống nhận thức chưa phù hợp giữa trong nước và quốc tế về CMVN, tthcm là một chân lý, có ý nghĩa lỡn trong những năm đầu thế kỷ này.

*í nghĩa của việc học tập tthcm.

Tư tưởng HCM là CNMLN ở vn, là kết tinh của văn hóa phương đông, phương tây; kết tinh các giá trị tinh thần và truyền thống dtvn; là đạo lý của con người vn trong thời đại mới. Nội dung cốt lừi của tthcm là độc lập dt gắn liền với cnxh. Tư tưởng HCM là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Học tập và vận dụng sáng tạo tthcm là một trong những biện pháp rất quan trọng để nâng cao dân trí và bản lĩnh con người vn trong giai đoạn hiện nay.

Câu 3: TTHCM ve giai phong dan toc

Từ 1911-1920, HCM đã khảo sát các cuộc cách mạng lớn trên TG. Năm 1920, lần đầu tiên NAQ đọc được "Sơ thảo luận cương về các vấn đề dt và thuộc địa" của Lênin, NAQ đã sáng tỏ, tin tưởng và cảm động đến phát khóc "khi ấy ngồi 1 mình trong..." Với việc gia nhập quốc tế cộng sản III, NAQ đã từ CN yêu nước đến với CNMLN, từ giác ngộ dt đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. NAQ đã hoạt động lý luận và thực tiễn trong ĐCS Pháp và quốc tế cộng sản.

Năm 1924, NAQ đến Quảng Châu, sáng lập Hội VN thanh niên CM, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. NAQ xuất bản tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" 1925, "Đường Kách Mệnh" 1927. Tháng 2/1930, HCM soạn thảo Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt. Tất cả điều đó hình thành cơ bản tthcm về con đường cách mạng gpdt của VN.

1- CM gpdt muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS.

Sở dĩ các phong trào yêu nước VN cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Khi CNĐQ đã thành một hệ thống TG, 1 mặt, chúng đấu tranh với nhau để giành giật thuộc địa, mặt khác, chúng thống nhất với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của các dt thuộc địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, giai cấp vô sản chính quốc và nhân dân các dt thuộc địa có chúng 1 kẻ thù. CNĐQ như con đỉa hai vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh thắng CNĐQ, phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi. Vì vậy, CMVS ở chính quốc phải kết hợp với CM gpdt ở thuộc địa. "CM gpdt muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS, tức là phải theo đường lối M-L".

2- CM gpdt muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

NAQ khẳng định, muốn gpdt thằng công "trước hết phải có đảng cách mệnh...đảng có vững cách mệnh mới thành công...đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin".

CM gpdt phải có đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa gpdt, gpgc, giải phóng con người (Bác phê phán các lãnh tụ yêu nước tiền bối chưa nhận thức được tần quan trọng của chính đảng cách mạng và 1 đường lối chính trị đúng đắn).

3-CM gpdt là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông.

CM gpdt là "việc chung của cả dân chúng", phải đoàn kết toàn dân "sỹ, nông, công, thương đều nhất trị chống lại cường quyền". Cốt của liên minh công-nông "công-nông là người chủ cách mạng ..công-nông là gốc của CM".

Mục tiêu của cách mạng gpdt là đánh đổ Đế quốc pháp và đại địa chủ phong kiến giành độc lập dt. Cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân VN đang bị mất nước. Thành lập mặt trận dt thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công-nông của dt. Trong Sách lược vắn tắt, HCM nêu rõ:"Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tân việt...kéo họ đi về phe VS giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chỉ, tư bản An-nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ".

Do nhận thức khác nhau về yêu cầu, mục tiêu của CMVS ở các nước TB phát triển với cách mạng gpdt ở thuộc địa, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của quốc tế cộng sản VI, các đại biểu của quốc tế cộng sản cho rằng NAQ đi theo chủ nghĩa dt mà "quên mất lợi ích đấu tranh giai cấp". HCM vẫn nhấn mạnh: công-nông là gốc của cách mạng; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công-nông; ba hạng người ấy là bầu bạn của công-nông"."Trong khi liên lạc giai cấp, phải cận thận, không khi nào nhựng một chút lợi ích gì của công-nông mà đi vào thỏa hiệp".

4-CM gpdt phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc.

Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc thắng lợi. Luận cương về phong trào CM ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở đại hội VI quốc tế cộng sản 1928: "chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc gpdt các thuộc địa khi giai cấp VS giành được thắng lợi ở các nước TB tiên tiến". Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của CM thuộc địa. Ngay từ đại hội V quốc tế cộng sản (1924), NAQ đã chỉ rõ: vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp VS ở các nước đi xâm lược thuộc địa phải gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa..."

Dựa vào quan điểm của Mác, "sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân". NAQ đi đến kết luận: "công cuộc giải phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em."

NAQ nhận thức thuộc địa là khâu yếu của CNĐQ và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yyn và tinh thần dt, ngày từ năm 1924, Người đã nói: CM thuộc địa không những không phục thuộc vào CMVS ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước"..."họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Đây là cống hiến sáng tạo của HCM vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa M-L. CMVN đã chứng minh luận điểm của HCM là đúng.

5-CM gpdt phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.

- Cuộc khởi nghĩa của quần chúng phải có t/chất 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang chứ không phải là nổi loạn. Do đó phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra ở thành phố, theo kiểu cách mạng châu âu. Phải được nước Nga ủng hộ, phải trùng hợp với cách mạng vô sản pháp, phải gắn mật thiết với sự nghiệp CMVS thế giới. Tháng 5/1941, Hội nghị TW8 khóa 1 nhận định: cuộc cách mạng Đông Dương kết thúc bằng 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là cuộc khởi nghĩa từng phần, từng địa phương...mở đường cho cuộc khởi nghĩa lớn.

Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, HCM chỉ đạo: Phải xây dựng căn cứ địa cách mạng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng tổ chức chính trị của quần chúng, lập đội du kích vũ trang, đón thời cơ, phát động cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 và giành thắng lợi chỉ trong vòng có hơn 10 ngày.

*Vận dụng tthcm về vấn đề dt trong công cuộc đổi mới hiện nay

1-Khởi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dt, nguồn động lực mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hội nghị TW 6(khóa 7) đã xác định rõ nguồn lực và phát huy nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là quan trọng nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con người VN biến thành động lực để chiến thắng kẻ thù, hôm nay xây dựng và phát triển kt.

2-Quán triệt tthcm nhận thức và giải quyết vấn đề dt trên quan điểm giai cấp.

Khẳng định rõ vai trờ, sứ mệnh ls của gcvs, của ĐCS, kết hợp vấn đề dt và giai cấp đưa CMVN từ gpdt lên CNXH. Đại đoàn kết dt rộng rãi trên nền tảng liên minh công-nông và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử dụng bạo lực của quần chúng cách mạng chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì mục tiêu độc lập dt và CNXH.

3-Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dt, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dt anh em trong cộng đồng các dt VN.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng nêu: vấn đề dt và đại đoàn kết dt luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi nhận công lao của các dt miền núi đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lươc. HCM nói: đồng bào miền núi đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt.

Trong công tác đền ơn, đáp nghĩa HCM chỉ thị, các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dt, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dt sao cho đạt mục tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh khỏe hơn. Văn hóa sẽ cao hơn. Giao thông thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng hơn.

Câu 5: Tthcm về đảng cộng sản

Những luận điểm cơ bản của HCM về ĐCSVN

CMVN đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có đường lối được giác ngộ CNMLN giành được thắng lợi to lớn là nhờ có ĐCSVN.

1-ĐCSVN là nhân tố quyết định thắng lợi của CMVN: vận dụng sáng tạo lý luận của CNMLN và kế thừa truyền thống dt, HCM khẳng định CM là sự nghiệp của quần chúng nhưng quần chúng phải được giác ngộ, được tổ chức và được lãnh đạo theo 1 đường lối đúng đắn mới trở thành lực lượng to lớn của CM - như con thuyền có người cầm lái thì vững vàng...thì thuyền mới vượt qua được gió to sóng cả để đi đến bến bờ. Bác nhấn mạnh"cách mạng trước hết phải có gì? Phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dt bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì con thuyền mới chạy".

ĐCSVN là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dt VN, đại diện trung thành cho lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và dt VN. Đại hội 10 khẳng định diễn đạt như thế trong sự phát triển sáng tạo của tthcm, phù hợp với thực tế VN và đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Diễn đạt như thế hoàn toàn không hạ thấp bản chất GCCN của Đảng, mà chính là khẳng định bản chất GCCN của Đảng 1 cách sâu sắc hơn.

ĐCSVN là đội tiên phong dũng cảm và là đội tham mưu sáng suốt, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Mục tiêu phấn đấu của Đảng là đ/lập cho dt, tự do cho nhân dân, h/phúc cho mọi người.

2- ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp CNMLN với p/trào công nhân và phong trào yêu nước.

Đây chính là quy luật hình thành và phát triển ĐCSVN, đồng thời là sự bổ sung sáng tạo vào kho tàng lý luận của CNMLN. Phong trào yêu nước VN là phong trào rộng lớn nhất có trước phong trào công nhân từ nghìn năm ls. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dt đứng lên chống kẻ thù. Phong trào công nhân ngày từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêu nước. Khác với những người cộng sản phương Tây, HCM và những người cộng sản VN đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, từ giác ngộ dt đến giác ngộ gc

Quy luật hình thành ĐCSVN trên cơ sở kết hợp vấn đề dt với giai cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành đảng ở 1 nước thuộc địa. Đảng định hướng đúng đắn và thúc đẩy phong trào cách mạng. HCM tìm cách truyền bá CNMLN vào trong dân, vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân. Bác viết "không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, việc tiếp nhận đường lối của ĐCS là cần thiết để xác định mục tiêu yêu nước đúng đắn. Mỗi người cộng sản trước hết phải là 1 người yêu nước tiêu biểu, phải truyền bá CNMLN vào trong dân, lãnh động công nhân và quần chúng t/hiện thắng lợi đường lối của Đảng".

3- ĐCSVN là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là đảng của cả dân tộc Việt Nam.

Từ quy luật hình thành và phát triển đảng, HCM đã đi đến luận điểm ĐCSVN là đảng của giai cấp công nhân đồng thời là đảng của cả dân tộc việt nam.

Tháng 2/1951, Bác viết: "Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của của dt là một. Chính và đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là đảng của cả dt VN".

Năm 1961, Bác viết: "Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dt không thiên tư, thiên vị".

Đảng mang bản chất giai cấp công nhân thể hiện ở nền tảng tư tưởng của đảng là CNMLN. Mục tiêu và đường lối của đảng là độc lập dt gắn liền với CNXH vì gpdt, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đảng tuân thủ theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin. Đảng kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhâ, nông dân, trí thức và các thành phần khác mà họ đã được rèn luyện, thử thách, giác ngộ về đảng và tự nguyện chiến đấu trong hàng ngũ của đảng. Đảng đặc biệt chú ý giáo dục, rèn luyện đảng viên, giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao hiểu biết CNMLN. Đảng ta là sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dt, lợi ích của giai cấp gắn với lợi ích của dt. "Nhân dân và cả dt thừa nhận đảng là người lãnh đạo duy nhất, đại biểu cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình."

4-ĐCSVN lấy CNMLN"làm cốt"

Theo bác"...chỉ có đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, đảng cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong", "đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải tuân theo chủ nghĩa ấy" "bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin"... CNMLN là học thuyết về giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dt bị áp bức và giải phóng con người nói chung, đồng thời là học thuyết về sự phát triển xh lên một hình thái cao hơn, xóa bỏ hoàn toàn bất công, nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột, áp bức. " CNMLN là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo đảng chúng tôi, làm cho đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dt chúng tôi".

Đảng lấy CNMLN làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh thần của CNMLN, lập trường, quan điểm và phương pháp của CNMLN, đồng thời nắm vững tinh hoa văn hóa dt và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Không máy móc, kinh viện, giáo điều.

5- ĐCSVN x/dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của GCVS: có 5 nguyên tắc xây dựng đảng.

a)Tập trung dân chủ, đây là nguyên tắc cơ bản của t/chức đảng.

Tập trung là thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng "Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như 1 người".

Dân chủ là "của quý báu của nhân dân", là thành quả của cách mạng. Tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Phải phát huy dân chủ nội bộ nếu không sẽ suy yếu từ bên trong.

b) Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Tập thể lãnh đạo, nhiều người thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn đề, có nhiều kiến thức, tránh tệ bao biện, quan liêu, độc đoán, chủ quan.

Cá nhân phụ trách, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng thì phải giao cho 1 người phụ trách (nếu là nhóm người thì có một người phụ trách chính) để tránh bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ dễ hỏng việc.

c) Tự phê bình và phê bình: đầy là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển đảng.

Tự phê bình là mỗi đảng viên phải tự thấy rõ mình để phát huy mặt ưu điểm, khắc phục nhược điểm. Tự phê bình mà tốt thì mới phê bình người khác được "muốn đoàn kết trong đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình". Đó là vũ khí sắc bén để rèn luyện đảng viên.

"Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm đó là 1 đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là 1 đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính".

Thực hiện tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm túc không phải dễ dàng. Nó là vấn đề khoa học và nghệ thuật cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải luôn dùng và khéo dùng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này mọi người cần trung thực chân thành với nhau - với chính mình và với người khác, "phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau". Bác nhắc, tránh lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, đả kích nhau...

d) Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Đây là nguyên tắc đảng kiểu mới do Lênin dề ra, đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ đề giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và CNXH. HCM coi trọng xây dựng kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng.

Nghiêm minh là thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật đối với mọi đảng viên không phân biệt. Mọi đang viên đều bình đẳng trước kỷ luật đảng.

Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ đảng viên đối với đảng. Kỷ luật này do lòng tự giác của họ về nhiệm vụ của họ đối với đảng. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của đảng tuân theo nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoat đảng. "Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật đảng, mà cả kỷ luật của đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng".

e) Đoàn kết thống nhất trong đảng

"Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của đảng ta, của nhân dân ta...phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Cơ sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của đảng, điều lệ của đảng. "Ngày nay, sự đoàn kết trong đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo".

f) ĐCSVN vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ.

g) ĐCSVN phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới làm cho đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.

Câu 6: Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vận dụng tthcm về xây

*Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân.

1- Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong cuốn "Đường Kách Mệnh" bác chỉ rõ: "Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay 1 bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc." Sau khi giành độc lập, Người khẳng định, "nước ta là nước dân chủ, bao nhiều quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân...nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đó là điểm khác nhau giữa Nhà nước ta với nhà nước bóc lột từng tồn tại trong ls.

- Thế nào là nhà nước của dân?

Điều 1 Hiến pháp nước VNDCCH (năm 1946) nói: "Nước VN là 1 nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thế nhân dân VN, không phân biệt giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo."

Điều 32, viết "Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết..."thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.

"Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân".

Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện cho dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.

- Thế nào là nhà nước do dân?

Nà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Bác yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. "Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ" nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó.

- Thế nào là nhà nước vì dân?

Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.

"Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh"

HCM chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa ủy quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. "Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường". Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài...Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.

2- Tthcm về sự thống nhất giữa bản chất GCCN với tính nhân dân và tính dt của nhà nước ta.

Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, "là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do GCCN lãnh đạo." Bản chất GCCN biểu hiện ở chỗ:

- Nhà nước tà do đảng của GCCN lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong quốc hội, chính phủ, các ngành, các cấp của nhà nước; được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của nhà nước.

- Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi lên CNXH. "Bằng cách phát triển và cải tạo nền kt quốc dân theo CNXH, biến nền kt lạc hậu thành 1 nền kt XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến".

- Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ...mới đọng viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng CNXH."

Bên cạnh dân chủ, bác cũng nhắc đến chuyên chính, "chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?" "Dân chủ là của quý báu của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại...dân chủ cũng cần chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ."

Bản chất giai cấp của nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân và tính dt. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:

- Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thể hệ CM.

- Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tính nhân dân và tính dt vì nó lấy lợi ích của dt làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Trong thời gian người lãnh đạo đất nước, nhờ sách lược mềm dẻo, cũng như Người dung nạp nhiều nhân sĩ, trí thưc, quan lại cao cấp của chế độ cũ vào bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng nhà nước tà là nhà của khối đại đoàn kết toàn dt.

- Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân kháng chiến để bảo vệ thành quả của cách mạng.

3- Tư tưởng HCM về 1 nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.

Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là 1 nhà nước hợp hiến. Vì vậy sau khi giành chính quyền, HCM đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước VNDCCH. Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp.

Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật. Xây dựng một nền pháp chế XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm của HCM. Là người sáng lập nhà nước VN dân chủ, có công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp: một mặt, Người chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước ta, mặt khác, Người chăm lo đưa pháp luật và cuộc sống, tạo cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiếm tra, giám sát việc thi hành của các cơ quan nhà nước và của nhân dân.

Để tiến tới 1 nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Bác hồ cho rằng, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý.

Để đảm bảo công bằng dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào nghạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kt, pháp luật, địa lý, ls và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ...của tthcm trong việc xây dựng nền móng cho pháp quyền VN.

4-Tthcm về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả

Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do tập quán của kt tiểu nông, muốn hình thành ngay 1 nhà nước pháp quyền là chưa được, vì vậy một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cương tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là 2 hình thái ý thức xh có thể kết hợp với nhau.

Bên cạnh giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật.

Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu. Sức mạnh và hiệu quả của luật pháp, một mặt dựa vào tính nghiêm minh của thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Bác nói: "tham ô, lãng phí,quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân phong kiến,...tôi lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám." Mác và ăngghen đã từng cảnh tỉnh cán bộ và nhân dân rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các ĐCS cầm quyền đến chỗ "đánh mất 1 lần nữa chính quyền vừa giành được". Lênin cũng viết "...chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó."

Vì vậy không thể nói đến 1 nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh về ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân đã gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.

* Vận dụng tthcm về xây dựng nhà nước VN ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn lịch sử mới.

1-Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

2- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.

3- Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước; gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn đảng với cải cách bộ máy hành chính.

Câu 9: Nội dung tthcm về đoàn kết. Vận dụng tthcm để tăng cường đoàn kết dt, đoàn kết quốc tế hiện nay.

* Nội dung tthcm về đoàn kết

Trong quá trình lãnh đạo CMVN. HCM đã để lại cho chúng ta tư tưởng về đoàn kết, kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đai.

Để đoàn kết dt là nội dung xuyên suốt trong tthcm cũng như trong hoạt động thực tiễn của người. Trong các bài viết, nói, vấn đề đại đoàn kết dt được Bác Hồ đề cập đến chiếm tỷ lệ 40%.

1- Cơ sở hình thành tthcm về đoàn kết dt.

a) Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cố kết cộng đồng dt, đại đoàn kết dt đã hình thành và củng cố trong ls dựng nước và giữ nước của dt, tạo thành truyền thống bền vững thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người VN. Đối với mỗi người VN, yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết trở thành 1 tình cảm tự nhiên, 1 triết lý sống, thành phép tư duy và ứng cử chính trị.

Tất cả đã trở thành dấu ấn trong xh truyền thống VN, tạo thành quan hệ 3 tầng: gia đình, lãng xã, quốc gia. Đây cũng chính là sợi dây liên kết các giai tầng, các dt trong xh VN. Truyền thống đoàn kết, nhân ái được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, được các anh hùng trong ls nâng lên thành phép đánh giặc, trị nước.

Đó là tư tưởng tập hợp lực lượng các dt của các nhà yêu nước trong lịch sử. HCM đã sớm kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dt. Người khẳng định "từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành 1 làn sóng vô cùng to lớn và mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự khó khăn, nguy hiểm, nó nhấn chím tất cả bè lũ cướp nước..." HCM còn nhấn mạnh phải phát huy truyền thống ấy trong giai đoạn cách mạng mới "phải giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến."

b) Từ quan điểm của CNMLN: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra ls, GCVS là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dt. Mác nêu khẩu hiệu "VS toàn TG liên hiệp lại". Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước tiền TB, lực lượng công-nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết dt, đại đòan kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác được mở rộng "VS toàn thế giới và các dt bị áp bức đoàn kết lại". CNMLN là cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tthcm về đại đoàn kết dt. HCM đến với CNMLN vì người đã tìm thấy con đường giải phóng các dt bị áp bức khỏi ách nô lệ, tìm thấy sự cần thiết và con đường tập hợp lực lượng CM trong phạm vị từng nước và trên phạm vi toàn TG.

c) Từ thực tiễn đấu tranh CM.

HCM tổng kết, đánh giá các di sản truyền thống về tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước VN tiền bối và các phong trào cách mạng ở nhiều nước trên TG, nhất là các phong trào gpdt thuộc địa, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng về đại đoàn kết của mình. Các phong trào CMVN thực tế vừa hào hùng, vừa bị tráng đã chứng tỏ nếu chỉ có yêu nước thôi thì không đủ để đánh thắng giặc. "Sử ta đã dạy cho ta rằng, khi nào dân ta biết đoàn kết thì khi đó dân ta giành thắng lợi".

Yêu cầu của thời đại mới là phải có lực lượng lãnh đạo đủ sức qui tụ cả dt vào đấu tranh cách mạng, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, xây dựng khối đại đoàn kết dt bền vững thì mới giành thắng lợi. HCM đã thấy hạn chế trong phương pháp tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, bác đã tìm cách sáng Pháp để tìm hiểu và trở về giúp đồng bào mình.

Khi ở nước ngoài, HCM khảo sát tình hình các nước TBCN và các nước thuộc địa, bác nhìn thấy tiềm ẩn to lớn của họ và cũng thấy hạn chế là các dt thuộc địa chưa có tổ chức, chưa biết đoàn kết, chưa có sự lãnh đạo đúng đắn. Trong các phong trào cách mạng thuộc địa và phục thuộc, HCM đặc biệt chú ý đến cách mạng của TQ và Ấn độ, với tư tưởng là đoàn kết các giai tầng, các đảng phái, các tôn giáo... nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng.

Thắng lợi của CMT10 Nga, người đã tìm hiểu thấu đáo con đường CMT10 Nga, bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là bài học huy động lực lượng quần chúng công-nông giành và giữ chính quyền xô-viết non trẻ. Người cho rằng đây là cuộc cách mạng đến nơi, đến chốn.

2-Quan điểm cơ bản của HCM đại đoàn kết dt.

a) Đại đoàn kết dt là vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dt nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình CMVN. Đó là chiến lược tập hợp lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dt chống kẻ thù của dt, của giai cấp.

Trong từng thời kỳ của cách mạng, có thể phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối tượng, nhưng đại đoàn kết dt phải là vấn đề sống còn của cách mạng. HCM đã nêu:

"Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi..., đoàn kết là then chốt của thành công"."đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt". "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công ".

b) Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Tư tưởng đại đoàn kết dt được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của CMVN. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng lao động VN năm 1951, HCM nêu mục đích của Đảng lao động VN gồm 8 chữ: "đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc". Trước CMT8 và trong kháng chiến nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao cho đông bảo hiểu được mấy điều: một là, đoàn kết, hai là, làm cách mạng đòi độc lập dt. Sau kháng chiến Bác lại nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân hiểu: 1 là, đoàn kết, 2 là, xây dựng CNXH, 3 là, đấu tranh thống nhất nước nhà.

Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dt phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành. Đại đoàn kết dt là 1 chính sách chứ không thể là 1 thủ đoạn chính trị. Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập cho dt, hạnh phúc cho nhân dân

c) Đại đoàn kết dt là đại đoàn kết toàn dân.

Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng, chỉ toàn bộ con dân nước Việt, "con Lạc, cháu Hồng", "con Rồng, cháu Tiên". Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân là đoàn kết với tất cả nhân dân không phân biệt: dt thiểu số hay đã số, tín ngưỡng, già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo...Đoàn kết với mỗi người dân cụ thể, với toàn thể đông đảo quần chúng và cả 2 đối tượng trên đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dt.

Bác hồ nêu "Ta đoàn kết là vấn đề đấu tranh thống nhất và độc lập tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Vậy ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đều đoàn kết với họ". Trong khi xây dựng khối đại đoàn kết dt phải tin vào dân, dựa vào dân và phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Mỗi người "ai cũng ít hay nhiều có tấm lòng yêu nước" tiềm ẩn. Cần thức tỉnh lương tri của mỗi con người thì lòng yêu nước sẽ bộc lộ. Điểm chung để quy tụ khối đại đoàn kết dt là nên độc lập dt, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Đại đoàn kết dt là nên tảng là gốc rễ là nguồn sức mạnh vô địch, quyết định thắng lợi của CMVN. Trong khi tập hợp khối đại đoàn kết thì "lực lượng chủ yếu của khối đại đoàn kết dt là liên minh công nông, cho nên liên minh công-nông là nền tảng của mặt trận dt thống nhất". "Đại đoàn kết trước hết là đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác". Về sau HCM mở rộng, "liên minh công-nông và lao động trí óc làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân". "Trong bầu trời không có gì quý bằng dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng l/lượng đ/kết của nhân dân".

Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân là: phải kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa, đoàn kết, phẩi có tầm lòng khoan dung, độ lượng. Người mà có lầm lạc, mà biết lỗi thì đoàn kết với họ, tránh khoét sâu cách biệt. "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dt thì dù người đó trước đây chống lại chúng ta bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ". "Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần thật thà đoàn kết với nhau, giúp nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân ".

d) Đại đoàn kết phải trở thành sức mạnh vất chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dt là mặt trận dt thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Khối đại đoàn kết dt phải được giác ngộ về mục tiêu, tổ chức thành khối vững chắc và hoạt động theo 1 đường lối chính trị đúng đắn. Và đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp với từng giai tầng, từng lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, tôn giáo, phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Ví dụ có hội hữu ái, hội công, hội nông, hội phụ nữ...

Mặt trận dt thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước. Trong từng thời kỳ mặt trận có tên gọi khác nhau nhưng đó phải là mặt trận chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các lực lượng phấn đấu vì hòa bình, vì mục tiêu của dt.

2- Nội dung tthcm về đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại.

a) Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, đặt CMVN trong sự gắn bó với cách mạng thế giới. Theo Lênin phải "nhận thức rõ thời đại mà ta đang sống"..."giai cấp nào đang là giai cấp trung tâm của thời đại"..."xây dựng nội dung căn bản của thời đại, phương hướng phát triển chính của thời đại, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh ls thời đại ấy".

Thời đại mà HCM hoạt động chính trị đã có nhiều đổi thay nổi bật 2 sự kiện quan trọng:

Một là, CNTB từ tự do cạnh tranh bước sang độc quyền đã phát triển thành hệ thống và làm xuất hiện hệ thống thuộc địa.

Hai là, thắng lợi của CMT10 Nga đã mở ra kỷ nguyên mới, thời đại mở ra mối quan hệ quốc tế giữa các dt làm cho vận mệnh của mỗi dt không tách rời vận mệnh chung của TG. Thời đại mà 1 nhóm nước lớn do bộn TB tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc. Bởi vậy mà công cuộc giải phóng các nước và các dt bị áp bức là bộ phận khăng khít của CMVS. Tất yếu khách quan phải liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các nước thuộc địa với GCVS ở các nước đế quốc để chiến thắng kẻ thù chung.

"Cách mạng An-nam là bộ phận của cách mạng TG. Ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An-nam cả". Tại Đại hội Tua năm 1920, HCM đã phát biểu: "Hôm nay tôi đến đây góp phần cùng các đồng chí vào cách mạng thế giới".

Bác chú ý mối quan hệ giữa cách mạng phương đông và phương tây. Người chỉ ra sự cách biệt của các dt phương đông, do "họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, thiếu sự phối hợp hành động và cả sự cổ vũ lẫn nhau". HCM kiến nghị ban phương đông của của Quốc tế cộng sản "làm cho các dt hiểu biết nhau hơn là đoàn kết lại để đặt cơ sở cho 1 liên minh phương đông tương lai, khối liên minh này chắc chắn sẽ là 1 trong những cái cánh của CMVS". Tại đại hội V quốc tế cộng sản, HCM đã phê phán gay gắt giai cấp công nhân và đảng cộng sản ở chính quốc thờ ơ với cách mạng thuộc địa. "Tôi rất buồn vì điều này, giai cấp tư sản đã tiến hơn 1 bước so với GCVS. Có thể nói Đảng cộng sản Pháp làm rất ít cho thuộc địa". Do đánh giá thập vị trí của cách mạng thuộc địa ĐCS chưa làm gì để giáo dục GCCN nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính, HCM nói "tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí..."HCM cho rằng nền tảng sức mạnh là ở nhân dân thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc tập trung nọc độc ở thuộc địa, nhân dân thuộc địa là người thủ tiêu chủ nghĩa thực dân. HCM đã phát triển và vượt xa so với Mác. Nhờ nắm bắt đặc điểm và xu thế của thời đại NAQ đã xác định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, gpdt VN theo con đường vô sản.

b) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dt gắn liền với CNXH.

Để kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại, các ĐCS kiên trì đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng sai lầm làm suy yêu khối đại đoàn kết để thống nhất các lực lượng CMTG. Các ĐCS phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân lao động nước mình, làm cho tinh thần yêu nước là 1 bộ phận của tinh thần quốc tế. NAQ kêu gọi "vì hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức".

Sau cách mạng gpdt giành độc lập, các dt thuộc địa tất yếu đi theo cách mạng XHCN. HCM viết: "trong thời đại ngày nay, cách mạng gpdt là bộ phận khăng khít của CMVS trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng gpdt phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn". Phải biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước XHCN, yêu tổ quốc gắn liền với yêu CNXH, nhờ đó chủ nghĩa yêu nước có thêm sức mạnh và phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới

c) Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.

HCM nêu cao tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính", "muốn người ta giúp cho, thì trước hết phải tự giúp mình đã", "1 dt không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chơ dt khác giúp đỡ thì không xứng đanhgs được hưởng độc lập". Với tư tưởng này khi Người gửi lời kêu gọi tới anh em ở thuộc địa có viết: "Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dùng công thức của Mác, chúng tôi xin với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em." Người con nói "đem sức ta mà giải phóng cho ta,... họ còn giúp đỡ những người anh em mình ở phương tây trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn".

Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có 2 đường lối độc lập tự đúng đán. Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập dt mình với bốn mục tiêu của thời đại: hòa bình, độc lập dt, dân chủ, CNXH.

Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, nhân dân ta không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả. Bác thường nói: "phải coi cuộc đấu tranh của bạn như cuộc đấu tranh của ta".

d) Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng "làm bạn với tất cả các nước dân chủ ".

Trong quá trình tìm đường cứu nước Bác là người đầu tiên đặt nền móng cho tình hữu nghị giữa nhân dân VN với nhân dân các nước trên TG. Bác sớm có tư tưởng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại "tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường."

HCM dành ưu tiên cho quan hệ với các nước láng giềng Châu á, láng giềng gần (TQ, lào, campuchia), láng giềng xa và các nước ĐNA.

Với trí tuệ thiên tài, với tư tưởng quốc tế trong sáng, với đức độ khiêm nhường và thái độ thiện trí, HCM vượt qua mọi trở ngại, từ trong mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp ứng xử sáng tạo phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng phát huy tối đa sức mạnh thời đại và sức mạnh dt đưa cách mạng VN đến thắng lợi trọn vẹn.

* Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại trong bối cảnh quốc tế hiện nay.

1- Sự nghiệp đổi mới với xu hướng phát triển của thời đại.

2- Vận dụng sáng tạo quan điểm của HCM, phấn đấu vì hòa bình-độc lập -phát triển

3- Trong hợp tác chú ý giữ gìn độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc văn hóa dt; giữ vững định hướng XHCN...

Cau 9: TT HCM ve dai doan ket dan toc.Van dung

1)Cơ sở hình thành TT HCM về đại đoàn kết Dtộc

a)Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cố kết cộng đồng Dtộc,đại đoàn kết Dtộc đã hình thành và củng cố trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Dtộc,tạo thành truyền thống bền vững thấm sâu vào TT,tình cảm,tâm hồn của mỗi con người VN.Đối với mỗi người VN,yêu nước,nhân nghĩa và đoàn kết trở thành 1 tình cảm tự nhiên,1 triết lý sống,thành phép tư duy và ứng sử chính trị.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương...

1 cây làm chẳng nên non...

Tất cả đã trở thành dấu ấn trong cấu trúc XH truyền thống VN,tạo thành quan hệ 3 tầng: gia đình,làng xã,quốc gia.(Nhà- làng- nước).Đây cũng chính là sợi dây liên kết các giai tầng,các Dtộc trong XH VN.Truyền thống đoàn kết,nhân ái được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian,được các anh hùng trong lịch sử nâng lên thành phép đánh giặc,trị nước.

Tập hợp bốn phương manh lệ,

Trên,dưới đồng lòng,cả nước trung sức,

Tướng,sỹ 1 lòng phụ tử,

Chở thuyền là dân,lật thuyền cũng là dân...

Đó là TT tập hợp lực lượng các Dtộc của các nhà yêu nước trong lịch sử.HCM đã sớm kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của Dtộc. Người khẳng định "từ xưa đến nay,mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi,nó kết thành 1 làn sóng vô cùng to lớn và mạnh mẽ,nó lướt qua mọi sự khó khăn và nguy hiểm,nó nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước..." HCM còn nhấn mạnh phải phát huy truyền thống ấy trong giai đoạn cách mạng mới "phải giải thích,tuyên truyền,tổ chức,lãnh đạo,làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước,công việc kháng chiến".

b)Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử,giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp Dtộc.Mác nêu khẩu hiệu "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại".Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước tiền tư bản,lực lượng công-nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng,xây dựng khối đại đoàn kết Dtộc,đại đoàn kết quốc tế.Khẩu hiệu của Mác được mở rộng "Vô sản toàn thế giới và các Dtộc bị áp bức đoàn kết lại".Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận qtrọng nhất đối với quá trình hình thành TT HCM về đại đoàn kết Dtộc.HCM đến với chủ nghĩa Mác-Lênin vì Người đã tìm thấy con đường giải phóng các Dtộc bị áp bức khỏi ách nô lệ,tìm thấy sự cần thiết và con đường tập hợp lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn thế giới.

c) Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng

HCM tổng kết,đánh giá các di sản truyền thống về TT tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước VN tiền bối và các phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới,nhất là các phong trào giải phóng Dtộc thuộc địa,từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hoàn chỉnh TT về đại đoàn kết của mình.Các phong trào cách mạng VN thực tế vừa hào hùng,vừa bi tráng đã chứng tỏ nếu chỉ có yêu nước thôi thì không đủ để đánh thắng giặc."Sử ta đã dạy cho ta rằng,khi nào dân ta biết đoàn kết thì khi đó dân ta dành thắng lợi."

Yêu cầu của thời đại mới là phải có lực lượng lãnh đạo đủ sức qui tụ cả Dtộc vào đấu tranh cách mạng,đề ra đường lối cách mạng đúng đắn,xây dựng khối đại đoàn kết Dtộc bền vững thì mới giành thắng lợi.HCM đã thấy hạn chế trong phương pháp tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối,Bác đã tìm cách sang Pháp để tìm hiểu và trở về giúp đồng bào mình.

Khi ở nước ngoài,HCM khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa,Bác nhìn thấy tiềm ẩn to lớn của họ và cũng thấy hạn chế là các Dtộc thuộc địa chưa có tổ chức,chưa biết đoàn kết,chưa có sự lãnh đạo đúng đắn.Trong các phong trào cách mạng thuộc địa và phụ thuộc,HCM đặc biệt chú ý đến cách mạng của Trung quốc và Ấn độ,với TT là đoàn kết các giai tầng,các đảng phái,các tôn giáo... nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng.

Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga,Người đã tìm hiểu thấu đáo con đường cách mạng tháng Mười,bài học kinh nghiệm quý báu,đặc biệt là bài học huy động lực lượng quần chúng công - nông giành và giữ chính quyền xô-viết non trẻ.Người cho rằng đây là cuộc cách mạng đến nơi,đến chốn.

2)Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh đại đoàn kết Dtộc

a) Đại đoàn kết Dtộc là vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược,quyết định thành công của cách mạng.TT HCM về đại đoàn kết Dtộc nhất quán,xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng VN.Đó là chiến lược tập hợp lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn của Dtộc chống kẻ thù của Dtộc,của giai cấp.

Trong từng thời kỳ của cách mạng,có thể phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối tượng,nhưng đại đoàn kết Dtộc phải là vấn đề sống còn của cách mạng.HCM đã nêu:

"Đoàn kết là sức mạnh,đoàn kết là thắng lợi...,đoàn kết là then chốt của thành công"."Đoàn kết là điểm mẹ,điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt"."Đoàn kết,đoàn kết,đại đoàn kết,Thành công,thành công,đại thành công."

b) Đại đoàn kết là mục tiêu,là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

TT đại đoàn kết Dtộc được quán triệt trong mọi đường lối,chính sách của Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng VN.Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động VN năm 1951,HCM nêu mục đích của Đảng Lao động VN gồm 8 chữ: "đoàn kết toàn dân,phụng sự tổ quốc".Trước Cách mạng tháng 8 và trong kháng chiến nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao cho đồng bào hiểu được mấy điều: 1 là,đoàn kết,hai là,làm cách mạng đòi độc lập Dtộc.Sau kháng chiến Bác lại nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân hiểu: 1 là,đoàn kết,hai là,xây dựng chủ nghĩa XH,ba là,đấu tranh thống nhất nước nhà.

Như vậy đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng,mà đó là mục tiêu,nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.Vì vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc.Vấn đề đại đoàn kết Dtộc phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành.Đại đoàn kết Dtộc là 1 chính sách chứ không thể là 1 thủ đoạn chính trị.Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh,tập hợp,hướng dẫn,chuyển ~ đòi hỏi khách quan,tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức,thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập cho Dtộc,hạnh phúc cho nhân dân.

c) Đại đoàn kết Dtộc là đại đoàn kết toàn dân

Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng,chỉ toàn bộ con dân nước Việt,"con Lạc,cháu Hồng","con Rồng,cháu Tiên".TT đại đoàn kết toàn dân là đoàn kết với tất cả nhân dân không phân biệt: Dtộc thiểu số hay đa số,tín ngưỡng,già,trẻ,gái,trai,giàu,nghèo... Đoàn kết với mỗi người dân cụ thể,với toàn thể đông đảo quần chúng và cả hai đối tượng trên đều là chủ thể của khối đại đoàn kết Dtộc.

Bác Hồ nêu "Ta đoàn kết là để đấu tranh thống nhất và độc lập Tổ quốc,ta còn phải đoàn kết là để xây dựng nước nhà.Vậy ai có tài,có đức,có sức,có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đều đoàn kết với họ".Trong khi xây dựng khối đại đoàn kết Dtộc phải tin vào dân,dựa vào dân và phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân.Mỗi người "ai cũng ít hay nhiều có tấm lòng yêu nước" tiềm ẩn.Cần thức tỉnh lương tri của mỗi con người thì lòng yêu nước sẽ bộc lộ.Điểm chung để quy tụ khối đại đoàn kết Dtộc là nền độc Dtộc,là cuộc sống ấm no,hạnh phúc của nhân dân.

Đại đoàn kết Dtộc là nền tảng là gốc rễ là nguồn sức mạnh vô địch,quyết định thắng lợi của cách mạng VN.Trong khi tập hợp khối đại đoàn kết thì "lực lượng chủ yếu của khối đại đoàn kết Dtộc là liên minh công-nông,cho nên liên minh công-nông là nền tảng của mặt trận Dtộc thống nhất"."đại đoàn kết trước hết là đoàn kết đại đa số nhân dân,mà đa số nhân dân ta là công nhân,nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác".Về sau HCM mở rộng,"liên minh công-nông và lao động trí óc làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân"."trong bầu trời không có gì quý = dân,trong thế giới không có gì mạnh = lực lượng đoàn kết của nhân dân".

Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân là: phải kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa,đoàn kết,phải có tấm lòng khoan dung,độ lượng.Người mà có lầm lạc,mà biết lỗi thì đoàn kết với họ,tránh khoét sâu cách biệt."bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình,thống nhất,độc lập Dtộc thì dù người đó trước đây chống lại chúng ta bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ." "cần xoá bỏ hết mọi thành kiến,cần thật thà đoàn kết với nhau,giúp nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân".

d) Đại đoàn kết phải trở thành sức mạnh vật chất,thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết Dtộc là mặt trận Dtộc thống nhất dưới sụ lãnh đạo của Đảng

Khối đại đoàn kết Dtộc phải được giác ngộ về mục tiêu,tổ chức thành khối vững chắc và hoạt đọng theo 1 đường lối chính trị đúng đắn.Và đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp với từng giai tầng,từng lứa tuổi,giới tính,ngành nghề,tôn giáo,phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng.Ví dụ có hội hữu ái,hội công,hội nông,hội phụ nữ,...

Mặt trận Dtộc thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước.Trong từng thời kỳ mặt trận có tên gọi khác nhau nhưng đó phải là mặt trận chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các lực lượng phấn đấu vì hoà bình,vì mục tiêu của Dtộc.

3 Nội dung TT HCM về kết hợp sức mạnh Dtộc với sức mạnh thời đại

a) Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại,đặt cách mạng VN trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới.Theo Lênin phải "nhận thức rõ thời đại mà ta đang sống"... "giai cấp nào đang là giai cấp trung tâm của thời đại"... "xây dựng nội dung căn bản của thời đại,phương hướng phát triển chính của thời đại,~ đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử thời đại ấy".

Thời đại mà HCM hoạt động chính trị đã có nhiều đổi thay nổi bật hai sự kiện qtrọng là:

1 là,CNTBtừ tự do cạnh tranh bước sang độc quyền đã phát triển thành hệ thống và làm xuất hiện hệ thống thuộc địa.

Hai là,thắng lợi của Cách mạng tháng mười Nga đã mở ra kỷ nguyên mới,kỷ nguyên quá độ lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới.Thời đại mở ra mối quan hệ quốc tế giữa các Dtộc làm cho vận mệnh của mỗi Dtộc không tách rời vận mệnh chung của thế giới.Thời đại mà 1 nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc.Bởi vậy mà công cuộc giải phóng các nước và các Dtộc bị áp bức là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản.Tất yếu khách quan phải liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các nước thuộc địa với giai cấp vô sản ở các nước đế quốc để chiến thắng kẻ thù chung.

"Cách mạng An-nam là bộ phận của cách mạng thế giới.Ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An-nam cả".Tại Đại hội Tua năm 1920,HCM đã phát biểu: "Hôm nay tôi đến đây góp phần cùng các đồng chí vào cách mạng thế giới".

Bác chú ý mối quan hệ giữa cách mạng phương Đông và phương Tây.Người chỉ ra sự cách biệt của các Dtộc phương Đông,do "họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau,thiếu sự phối hợp hành động và cả sự cổ vũ lẫn nhau".HCM kiến nghị ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản "làm cho các Dtộc hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho 1 liên minh phương Đông tương lai,khối liên minh này chắc chắn sẽ là 1 trong ~ cái cánh của cách mạng vô sản".Tại đại hội V Quốc tế cộng sản,HCM đã phê phán gay gắt giai cấp công nhân và đảng cộng sản ở chính quốc thờ ơ với cách mạng thuộc địa."Tôi rất buồn vì điều này,giai cấp tư sản đã tiến hơn 1 bước so với giai cấp vô sản.Có thể nói Đảng cộng sản Pháp làm rất ít cho thuộc địa".Do đánh giá thấp vị trí của cách mạng thuộc địa và Đảng cộng sản chưa làm gì để giáo dục giai cấp công nhân nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính,HCM nói "Tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí..." HCM cho rằng nền tảng sức mạnh là ở nhân dân thuộc địa,chủ nghĩa đế quốc tập trung nọc độc ở thuộc địa,nhân dân thuộc địa là người thủ tiêu chủ nghĩa thực dân.HCM đã phát triển và vượt xa so với Mác.Nhờ nắm bắt đặc điểm và xu thế của thời đại Nguyễn Ái Quốc đã xác định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước,giải phóng Dtộc VN theo con đường vô sản.

b) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản,độc lập Dtộc gắn liền với chủ nghĩa XH

Để kết hợp sức mạnh Dtộc với sức mạnh thời đại,các Đảng Cộng sản kiên trì đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng sai lầm làm suy yếu khối đại đoàn kết để thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới.Các đảng cộng sản phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân lao động nước mình,làm cho tinh thần yêu nước là 1 bộ phận của tinh thần quốc tế.Nguyễn Ái Quốc kêu gọi "vì nền hoà bình thế giới,vì tự do và ấm no,~ người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức".

Sau cách mạng giải phóng Dtộc giành độc lập,các Dtộc thuộc địa tất yếu đi theo cách mạng XH chủ nghĩa.HCM viết: "trong thời đại ngày nay,cách mạng giải phóng Dtộc là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng Dtộc phải phát triển thành cách mạng XH chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn." Phải biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa nghĩa yêu nước XH chủ nghĩa,yêu Tổ quốc gắn liền với yêu chủ nghĩa XH,nhờ đó chủ nghĩa yêu nước có thêm sức mạnh và phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới.

Hệ thống XH chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh,lực lượng hoà bình hơn hẳn lực lượng chiến tranh thì chủ nghĩa XH là nhân tố quyết định đời sống XH loài người.Các Đảng Cộng sản dù lớn hay nhỏ đều bình đẳng và độc lập.

c) Giữ vững độc lập tự chủ,dựa vào sức mình là chính,tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN,sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ,đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.

HCM nêu cao tinh thần "tự lực cánh sinh,dựa vào sức mình là chính","muốn người ta giúp cho,thì trước hết phải tự giúp mình đã","1 Dtộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ Dtộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được hưởng độc lập".Với TT này khi Người gửi lời kêu gọi tới anh em ở thuộc địa có viết; "Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Mác,chúng tôi xin nói với anh em rằng,công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được = sự nỗ lực của bản thân anh em".Người còn nói "đem sức ta mà giải phóng cho ta,... họ còn giúp đỡ ~ người anh em mình ở phương Tây trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn"

Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có 1 đường lối độc lập tự chủ đúng đắn.Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập Dtộc mình với bốn mục tiêu của thời đại: hoà bình,độc lập Dtộc,dân chủ,chủ nghĩa XH.(liên hệ thực tiễn của VN.)

Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ,nhân dân ta không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả.Bác thường nói: "phải coi cuộc đấu tranh của bạn như cuộc đấu tranh của ta".

d) Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị,hợp tác,sẵn sàng "làm bạn với tất cả các nước dân chủ".

Trong qúa trình tìm đường cứu nước Bác là người đầu tiên đặt nền móng cho tình hữu nghị giữa nhân dân VN với nhân dân các nước trên thế giới.Bác nói "chính sách ngoại giao của chính phủ VN thì chỉ có 1 điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình" "thái độ của VN đối với ~ nước Á châu là thái độ anh em,đối với ngũ cường là thái độ bạn bè".Bác sớm có TT đa phương hoá,đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại "tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường".

HCM dành ưu tiên cho quan hệ với các nước láng giềng châu Á.Láng giềng gần (Trung quốc,Lào,Campuchia),láng giềng xa và các nước Đông Nam Á.

Với trí tuệ thiên tài,với tinh thần quốc tế trong sáng,với đức độ khiêm nhường và thái độ thiện trí,HCM vượt qua mọi trở ngại,từ trong mối quan hệ chồng chéo,phức tạp của thời đại đề ra đường lối cách mạng đúng đắn,phương pháp ứng xử sáng tạo phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng phát huy tối đa sức mạnh thời đại và sức mạnh Dtộc đưa cách mạng VN đến thắng lợi trọn vẹn.

PHÁT HUY BÀI HỌC KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG BỐI CẢNH QUỐC TẾ HIỆN NAY

1.Sự nghiệp đổi mới phù hợp với xu hướng thời đại.

2.Vận dụng sáng tạo quan điểm của HCM,phấn đấu vì hoà bình- độc lập- phát triển.

3.Trong hợp tác chú ý giữ gìn bản sắc VH Dtộc; giữ vững định hướng XHCN.

Câu 11: Nguồn gốc hình thành tư tưởng nhân văn-đạo đức HCM?

1- Truyền thống nhân văn của dt: "Thương người như thể thương thân", "Người trong 1 nước phải thương nhau cùng";

2- Truyền thống văn hóa Phương đông và phương tây: Sống có nhân nghĩa, luân lý, coi trọng đạo lý làm người. Đó là lòng từ bi của Phật giáo; đó là lòng báo ái của Thiên Chúa giáo; đó là tư tưởng nhân đạo của CMTS, nhất là CMTS pháp 1789, muốn tự do, bình đẳng, bác ái trong quan hệ giữa con người với con người...

3- Cơ sở hoạt động thực tiễn của người: Quan hệ với nhiều tầng lớp nhân dân trong nước, nhất là nhân dân lao động; Đi nhiều nước trên thế giới, cả nước ĐQTB, cả các nước thuộc địa; Thấu hiểu cuộc sống, tình cảnh, ước vọng của các tầng lớp nhân dân trong xh; Bản thân người cũng đã trải qua nhiều cảnh thăng trầm, vất vả, tủi nhục trong cảnh nước mắt, nhà tan...

4- Chủ nghĩa nhân văn mác-xít: nhất là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, khát khao giải phóng cho toàn xh, cho mọi người, nhất là người lao động bị áp bức, bóc lột...

Câu 12: Nội dung tư tưởng nhân văn HCM?

Tư tưởng nhân văn HCM có những nội dung nội dung cơ bản sau đây:

1- Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng:

HCM bao giờ cũng nói đến con người cụ thể, lịch sử. Trước khi là người cộng sản Bác nói đến con người trong phạm vi dt: con lạc, cháu hồng; con rồng, cháu tiên. Hai chữ đồng bào là khái niệm yêu thương con người, giống noi. Khi có ánh sáng của CNMLN, nhận thức về con người đã mở rộng "biên độ". Con người mà Bác nói là nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột. Trong quan hệ xh Bác chia làm hai giống người: những người làm điều thiện và những người làm điều ác, bác đề cập tình hữu ái vô sản.

Con người với ba nội dung thể hiện cốt lõi tư tưởng nhân văn HCM:

- Một là, sự cảm thông sâu sắc mọi đau khổ của con người nô lệ và con người cùng khổ.

- Hai là, quyết tâm hy sinh chiến đấu để g/phóng con người và đem lại tự do h/phúc cho con người.

- Ba là, tin tưởng tuyệt đối vào khả năng tự giải phóng con người và không ngừng rèn luyện, phát huy khả năng ấy.

HCM đề cập đến con người theo nhiều phạm vi khác nhau và nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Nghĩa hẹp, con người chỉ phạm vi gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng, trong phạm vi quốc gia là đồng bào cả nước. Nghĩa rộng, trong phạm vi quốc tế là nhân loại. HCM đặt con người trong quan hệ gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dt, nhưng không phải là 1 khối đồng nhất mà bao gồm nhiều dt, nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, có lợi ích riêng và chung, có thái độ và vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xh. Vì vậy, nói đến con người trước hết là nói đến dân, tuyệt đại đa số nhân dân bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, vừa là lực lượng đông đảo trực tiếp tham gia lao động sx, vừa là lực lượng có tinh thần, tiềm lực cách mạng to lớn nhất. Theo bác con đường có ba hạng: tích cực, bình thường, kém.

HCM có tình yêu thương vô hạn đối với con người. Thương nước, thương dân, thương nhân loại bị áp bức và bác ham muốn tột bậc là "nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Tình yêu thương của bác luôn đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, nhận thức và hành động theo nguyên tắc của CNMLN, đồng cảm với các dt bị áp bức, HCM có khát vọng giải phóng không chỉ riêng cho dt mình mà cho các dt bị áp bức trên TG.

HCM yêu dân còn thể hiện ở niềm tin vào dân. CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, phải tin dân, dựa vào dân. Tình yêu thương vĩ đại của HCM còn thể hiện ở chỗ suốt đời đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của mọi người. Lo cho thiên hạ trước, lo cho mình sau.

HCM yêu thương con người, quí trọng con người, kinh trọng nhân dân, chăm lo cho dân. Con người là vốn quí nhất, quí trọng sinh mạng của dân, trong đấu tranh cố gắng ít hy sinh tính mạng. Quý dân, tiết kiệm sức dân, tôn trọng sức và tài của dân, lắng nghe ý kiến của dân. Chăm lo đời sống của dân: "việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm dù nhỏ mấy. Việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh." Mọi chủ trương chính sách pháp luật phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của dân.

2- Con người vừa là mục tiêu của giải phóng, vừa là động lực của cách mạng:

Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người; nhưng sự nghiệp giải phóng là do chính con người thực hiện. Với tư cách là mục tiêu của cách mạng, mọi chủ trương đường lối, chính sách của đảng phải vì dân, vì lợi ích của dân. Bao nhiêu lợi ích cũng vì dân. Dân trước hết là GCCN, liên minh với nông dân, trí thức cũng là một tầng lớp cần coi trọng. Với tư cách là động lực của cách mạng, cần phải tổ chức và thức tỉnh hàng chục triệu nông dân, phải thức tỉnh và tổ chức toàn thể GCCN. Có như vậy mới tạo ra sức mạnh to lớn để có thể làm cách mạng thành công. Lịch sử đã chứng minh, quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo cơ bản, có dân là có tất cả. Phải có chiến lược trồng người. "Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". Xuất phát từ sự đánh giá đúng con người và hiểu biết con người, theo bác cần khơi dậy tính cách tốt, thiện của con người. Phương đông, con người ngưỡng mộ đạo là gương "1 tấm gương sống còn hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền".

3- "Trồng người" là chiến lược hàng đầu của cách mạng:

HCM có quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Con người có ý nghĩa chiến lược của sự nghiệp cách mạng ở VN.

Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có con người XHCN. Con người trong thời đại mới phải có học thức, chiếm lĩnh đỉnh cao của KHKT. Vì vậy CNXH mới đủ tiềm lực vật chất để chiến thắng CNTB, mới làm cách mạng thắng lợi.

Xây dựng con người mới phải toàn diện: có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chính kiến. Xây dựng con người có ý thức làm chủ, tự lực, tự cường, gắn quyền lợi và nghĩa vụ. Luôn phấn đấu cho độc lập dt và CNXH. Con người có niềm tin và lạc quan cách mạng. Con người có trí tuệ, trình độ học vấn cao, ngày càng tiến bộ. Con người có sức khỏe. Con người có lòng khoan dung, độ lượng. Dân tộc ta "chỉ đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại". Để trồng người, xây dựng con người vừa có cá tính vừa có thể phát triển mọi mặt phải có nhiều biện pháp. Theo HCM, giáo dục là biện pháp quan trọng nhất. Cần hiểu mối quan hệ giữa "tính người " và giáo dục.

Tính người vốn thiện và ác, và đây là phạm trù được nho giáo quan tâm. HCM cho rằng "tính người " do giáo dục và nó gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người.

"Óc của trẻ em trong sạch như tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên".

Nghị quyết Trung ương II, khóa VIII (1996) có nêu định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 và 2020. Cần đưa nghị quyết đi vào cuộc sống.

HCM coi trọng việc nâng cao dân trí cho toàn dt. Người hướng mọi hoạt động văn hóa, giáo dục, tư tưởng vào việc rèn luyện dt ta thành dt cách mạng và văn minh. HCM nêu khẩu hiệu: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Bác đi đầu trong việc khai dân trí. Mở các lớp xóa mù chữ, các lớp bình dân học vụ. Người nói: "một dân tộc dốt là 1 dân tộc yếu".

Câu 13: Tthcm về đạo đức? Vận dụng tư tưởng nhân văn - đạo đức HCM trong điều kiện đất nước hiện tại?

1. Vị trí, vai trò, sức mạnh của đạo đức:

Đạo đức là 1 trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của HCM trong sự nghiệp CMVN.

- Đánh giá của đảng ta về tư tưởng đạo đức của HCM:

Năm 1951, Đại hội 2, tư tưởng của HCM là đường lối chính trị của đảng ta; đạo đức của HCM là đạo đức của đảng; tác phong của HCM là nền nếp làm việc của đảng ta.

Năm 1960, đại hội 3, toàn đảng ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM.

Năm 1982, Đại hội 5 toàn đảng học tập 1 cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM.

Năm 2001, đại hội 9 phát động phong trào học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM. Tư tưởng của Chủ tịch HCM nói chung là nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam cho hành động của đảng ta. Tư tưởng đạo đức là bộ phận kết tinh của tư tưởng HCM nói chung.

- Các thế hệ người vn phấn đấu cho độc lập dt đến với HCM trước hết là đến với tư tưởng đạo đức của người. "Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gường Bác hồ vĩ đại" là khẩu hiệu chung của người VN.

- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của HCM là kết tinh đạo đức của dt, của nhân loại. HCM là điểm sáng về đạo đức đối với TG và đối với VN. Bác nói: "Đối với phương đông, một tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền."

- Bác hồ luôn kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục lý tưởng cách mạng.

- Vấn đề đạo đức của HCM được quan tâm toàn diện: đối tượng, phạm vi, tất cả các lĩnh vực hoạt động người.

HCM coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dt và CNXH là con đường dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xh ta.

Theo Lênin, "đạo đức là những gì góp phần phá hủy xh cũ của bọc bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xh mới của những người cộng sản."

HCM cho rằng, đảng "là đạo đức, là văn minh", thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của minh. Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dt mình và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn VN và TG, những quy luật phát triển của CMVN, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dt và CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người cần có tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với GCCN, nhân dân lao động, với cả dt. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối q/hệ xh hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh mình. Phải có tâm có đức mới giữ được CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.

HCM cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao động. Tùy theo từng thời kỳ cách mạng mà người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách mệnh. HCM đã nêu 1 quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có trí thì cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, hồng và chuyên phải kết hợp. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dt và CNXH.

2- Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người VN trong thời đại mới.

+ Trung với nước, hiếu với dân.

Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dt là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng, đạo đức truyền thống VN và phương đông. HCM vận dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia trung là trung với vua, vì vua và nước là một, nước là của vua. Con hiếu chỉ trong phạm vi gia đình là con cái có hiếu với cha mẹ. HCM đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân".

Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn hy sinh độc lập tự do của tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người VN.

Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết long. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đát nước.

+ Yêu thương con người.

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, HCM đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. HCM chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.

Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo. Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lâm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.

+ Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suát cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; "không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi".

Liêm là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân". Phải trong sạch, không tham lam. Không tham địa vị, không tham tiền, không tham sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với liêm là: ...cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy lạo. Cụ không nói: người mà không liêm, không bằng súc vất. Cụ mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.

Chính là thẳng thắng, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.

Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.

Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đ/kết, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc, để công việc lên trên việc tư, làm việc gì cho đến noiư, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.

Chí công vô tư, làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì nên đi sau. "Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách: "Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục".

+ Tinh thần quốc tế trong sáng.

Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dt bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân VN với tất cả những người tiến bộ trên TG vì hòa bình, công lý và tiến bộ xh. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hòa bình, độc lập dt, dân chủ và tiến bộ xh.

3- Những nguyên tắc xh đạo đực mới:

+ Nói đi đôi với làm. Nói và làm luôn đi đôi với nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho chính mình và cho người khác. Nói mà không làm gọi là đạo đức giả. Từ đó Bác trong giáo dục đạo đức vấn đề nêu gương được đặt ra. "Trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà tà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức".

+ Xây đi đôi với chống. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức từ gia đình, nhà trường, xh. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, vô đạo đức. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào rộng rãi, phải chống lại chủ nghĩa cá nhân.

+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức đó là công việc kiên trì bền bỉ, không thể chủ quan tự mãn. "Một dt, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đãi, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Mỗi người ai cũng có điều tốt và dở, thiện và ác. Phải đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong thực tiễn hoạt động hằng ngày, trong lao động sx, chiến đấu, sinh hoạt...và thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày.

Câu 14: Tthcm về văn hóa?

1. Những quan điểm chung của HCM về văn hóa.

+ Văn hóa là toàn những sáng tạo và phát minh. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nói mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.

Văn hóa là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần của xh. Chính trị, xh được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển. HCM đã vạch ra đường lối: phải tiến hành cách mạng chính trị trước, cụ thể là cách mạng gpdt để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. "Xã hội thể nào thì văn hóa thế ấy. Văn nghệ của ta rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được."

Xây dựng kt để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. "Văn hóa là kiên trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xh có kiết thiết rồi thì văn hóa mới được kiến thiết và có đủ điều kiện phát triển được". Như vậy, văn hóa phải ở trong kt và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.

Trong kháng chiến, Người định hướng hoạt động văn hóa, thực hiện khẩu hiệu: "văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", những người hoạt động văn hóa cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.

+ Chức năng của văn hóa.

- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Người thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đó là chức năng cao quý của văn hóa. HCM nói phải làm cho văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng tình cảm cho con người.

- Hai là, nâng cao dân trí, "mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình...phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ". Khi miền bắc quá độ lên CNXH, người nói "chúng ta phải một nước dốt nát, cực khổ thành 1 nước văn hóa cao và đời sống vui tươi hạnh phúc".

- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.

+ Tính chất của văn hóa:

Tính dân tộc

Tính khoa học

Tính đại chúng

2- Tthcm về 1 số lĩnh vực chính của văn hóa

+ Văn hóa giáo dục: Trong nền giáo dục phong kiến, kinh viện xa rời thực tiễn, coi kinh sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Giáo dục phong kiến hướng tới kẻ sĩ, người quân tử, bậc trượng phu, phụ nữ bị tước quyền học. Trong nền giáo dục thực dân, không mở mang trí tuệ, thực hiện ngu dân. Đó là nền văn hóa đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát.

Nền giáo dục của nước VN sau khi được độc lập là nền giáo dục mới.

- Mục tiêu của giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người mới có đức có tài. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Cải tạo tri thức cũ, đào tạo tri thức mới. Đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng x/dựng đất nước giàu mạnh và văn minh. Mở mang dân trí từ việc xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt, kết hợp phổ cập và nâng cao.

- Phải cải cách giáo dục, xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta. Phải luôn gắn giáo dục với thực tiễn VN, học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động sản xuất. Giáo dục phải có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.

- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. "Học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học"

- Phải không ngừng nâng cao dân trí. Học tập văn hóa gắn với học tập khoa học kỹ thuật.

+ Văn hóa văn nghệ:

- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xh mới, con người mới. "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà". "Cũng như các chiến sỹ khác, chiến sỹ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự tổ quốc, phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng...đặt lợi ích của kháng chiến, của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết."

- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. "Thật là 1 thế giới thần tiên. Nhưng tôi nhớ mường tượng như Lỗ Tấn, nhà đại văn hào của cách mạng Trung Hoa đã nói 1 câu đại ý như thế này: Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật. Nhưng nhìn mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán, thấy nhật nhẽo và mới biết rằng muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật thì phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con người." Thực tại đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn nghê. Chiến sỹ văn nghệ phải thật hòa mình với quần chúng và không được quên rằng "...chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó-thì nhân dân cũng sẽ quên anh ta." Thực tiễn không chỉ là nguồn nuôi dưỡng những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nhân dân cũng sáng tác văn hóa văn nghệ và hưởng thụ văn nghệ, chúng ta thường gọi là sáng tác dân gian. Những sáng tác ấy là "những hòn ngọc quý".

- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp của cách mạng của nhân dân. "Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích". "Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn 1 món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy nhiều loại hoa đẹp." Như vậy văn nghệ phản ánh chân thực những gì đã có trong đời sống của nhân dân, mà còn hướng dẫn nhân dân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không đúng, để vươn tới cái lý tưởng, đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Chính điều đó mở đường cho sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ.

+ Văn hóa đời sống

Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm độc đáo của HCM về văn hóa. Khái niệm đời sống mới bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới, ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.

- Đạo đức mới. Theo HCM là thực hành đời sống mới cần, kiệm, liêm chính.

- Lối sống mới. Đó là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dt và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cần phải "sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc". Năm cách phải sửa đổi...có nghĩa là nói về mặt văn hóa của ăn, mặc, ở...Mặt văn hóa của ăn, mặc, ở...phụ thuộc vào lối sống có văn hóa hay không có văn hóa của con người.

- Nếp sống mới. Quá trình xây dựng lối sống mới làm cho nó dần dần trở thành thói quen ở mỗi người, thành phong tục tập quán của cả cộng đồng trong phạm vi địa phương hay cả nước gọi là nếp sống mới. Nếp sống mới phải kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu đời của nhân dân ta. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ. Cái gì cũ mà không xấu thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm.

Câu 15: Tthcm về xây dựng nền văn hóa mới, con người mới? Vận dụng tthcm trong việc xây dựng nền văn hóa mới hiện nay?

1- Tthcm về xây dựng nền văn hóa mới, con người mới:

- Tthcm về xây dựng nền văn hóa mới bao gồm nhiều lĩnh vực, trong đó có 3 lĩnh vực chính là văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật và văn hóa đời sống mới. Người nói: Xã hội XHCN mà chúng ta sẽ xây dựng là 1 xh có một trình độ phát triển kt rất mạnh và ngày càng hiện đại, đồng thời còn có 1 trình độ văn hóa rất cao, rất toàn diện và rất sâu sắc. Nền văn hóa mới đó thể hiện sự văn minh và tính ưu việt của CNXH. Nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo và cũng là chủ thể hưởng thụ nền văn hóa XHCN đó.

- Tthcm rất coi trọng vấn đề xây dựng con người mới tương ứng với 1 chế độ xh mới. Người đã nhiều lần chỉ rõ: Muốn xây dựng CNXH phải có con người mới XHCN. Người coi việc xây dựng con người mới XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của CNXH.

Con người mới XHCN có các đặc trưng cơ bản sau đây:

+ Có ý thức và trình độ, năng lực làm chủ.

+ Là người lao động mới, có tri thức, có năng lực thực hành, có sức khỏe, làm việc có hiệu quả và chất lượng.

+ Là người sống có văn hóa, có tình nghĩa, đạo lý, có kỷ luật và trách nhiệm;

+ Là người có tinh thần yêu nước trong sáng và tinh thần quốc tế chân chính;

2-Vận dụng tthcm trong việc xây dựng nền văn hóa mới hiện nay:

Vận dụng tthcm về văn hóa, trong nhiều nghị quyết của Đảng và nhà nước, nhiều lần đã chỉ rõ: phải chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dt và xây dựng con người mới XHCN.

Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới theo tthcm tron giai đoạn hiện nay là:

a) Giáo dục tinh thần yêu nước và yêu CNXH, có ý chí phấn đấu vươn lên làm cho đất nước thoát khỏi tình trạng kt nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất nước VN trở thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xh công bằng dân chủ và văn minh, sánh vai cùng các quốc gia tiên tiến trên TG.

b) Bồi dưỡng TG quan, phương pháp luận của CNMLN và tthcm.

c) Giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cao đẹp, có nhân phẩm, lương tâm, danh dự, giản dị, tiết kiệm. Sống và làm việc theo p/luật.

d) Về nhân văn: bồi dưỡng tinh thần nhân ái, khoan dung, đoàn kết, tương thân tương ái, chân thành giúp đỡ lẫn nhau.

e) Về văn hóa: có thói quen tự học chủ động sáng tạo; biết tự rèn luyện mình, nâng cao trình độ dân trí về mọi mặt, phù hợp với tri thức thời đại; vươn lên chiếm lĩnh các thành tựu về khoa học kỹ thuật tiên tiến trên TG; biết giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dt trong quá trình hội nhập.

f) Dũng cảm đấu tranh chống và xóa bỏ từng bước các tệ nạn và tiêu cực xh, làm cho môi tường xh ngày càng trong sạch lành mạnh...

Cau 16 TT HCM ve van trong nguoi

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn, sâu sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), di sản tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng đầy ắp những giá trị nhân văn cao cả, mà một trong những biểu hiện lớn lao, đó là tư tưởng về con người và chiến lược "trồng người".

1. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho chúng ta một định nghĩa về "con người": "Chữ người nghĩa là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có con người trừu tượng. Con người ở bất cứ đâu và bao giờ cũng vậy, không tồn tại ở một bình diện, một chiều, mà ở nhiều bình diện nhiều chiều, bởi vì nó được đặt vào những mối quan hệ khác nhau:

- Về quan hệ: Đó là quan hệ vũ trụ - tự nhiên, với tộc loại, cộng đồng, với nhóm xã hội và với chính bản thân mình.

- Về vị trí: Đó là vị trí chủ động hay thụ động, quản lí hay bị quản lí, chủ thể hay khách thể...

Ngoŕi ra cňn những quan hệ vô cůng quan trọng khác như: Giữ được mình hay đánh mất mình (độc lập tự chủ hay tha hóa?)... Bản thân mỗi con người cũng từ mối quan hệ riêng và từ vị trí riêng của mình mà có những cách nhìn nhận và cảm nhận khác nhau.

Suốt quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, vấn đề giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho con người và xây dựng, rèn luyện con người bao giờ cũng là trung tâm của tư duy, mục tiêu của mọi hoạt động yêu nước và cách mạng của Hồ Chí Minh. Con người, tự do và hạnh phúc của con người, đó là mục tiêu cao nhất và thường xuyên mà vì nó Hồ Chí Minh đã cống hiến toàn bộ cuộc đời của Người. Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người, luôn quan tâm tạo mọi điều kiện để con người phát huy mặt tốt, sửa chữa mặt xấu. Người không tán thành việc hạ nhục con người, mà rất trân trọng và nâng niu. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng.

Tóm lại: Xem xét con người trong các mối quan hệ xă hội - lịch sử cụ thể mŕ nhân ái, tin tưởng vững chắc, khoan dung rộng lớn đối với con người; tất cả vì con người và do con người; thực hiện giải phóng con người bắt đầu từ giải phóng dân tộc; con người vừa là mục tiêu phục vụ, vừa là động lực cách mạng... đó là bản chất và cũng là đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.

2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trồng người lŕ một sự nghiệp có tính chiến lược. Người mong muốn biến khát vọng vŕ chủ trương của các thế hệ cha anh về "khai dân trí" thŕnh hiện thực. Do đó từ khi có chính quyền, Hồ Chí Minh đã thực hiện một sự nghiệp "khai dân trí" rộng lớn chưa từng có trong lịch sử nước ta và thu được những thành công hết sức to lớn, mặc dù sự nghiệp ấy được tiến hành trong điều kiện chiến tranh khốc liệt. Người đã xác định "chống giặc dốt" là nhiệm vụ thứ tư trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của đất nước lúc bấy giờ, là bước khởi đầu và cũng là nhiệm vụ thường xuyên của sự nghiệp mở mang dân trí. Người chỉ rõ: "Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vŕo nơi mů quáng... Một dân tộc dốt lŕ một dân tộc yếu". Từ đó, sự nghiệp GD trở thành sự nghiệp của toàn thể dân tộc, và đối tượng của GD cũng là toàn thể dân tộc. Người chắt chiu, rèn luyện từng con người, mở những lớp huấn luyện cho từng tốp nhỏ học trò với cả tấm lòng nhiệt thành, kiên trì, nhẫn nại. Người thường xuyên tổng kết kinh nghiệm của các phong trào quần chúng, kiên trì lắng nghe và tìm đọc, suy ngẫm về những gương tốt, những ý hay của nhân dân. Người viết "Dân rất thông minh, quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều, chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà thôi". Người căn dặn: Phải học, học ở nhà trường, học trong sách vở, học ở quần chúng nhân dân, không học quần chúng là một sai lầm lớn.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đề cao, nêu cao, nêu bật vai trò của GD-ĐT, xây dựng con người mới XHCN vŕ coi đó là một chiến lược lâu dài. Với câu nói nổi tiếng: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Hồ Chí Minh luôn đặt lòng tin vào khả năng của GD. Người chỉ rõ: Tiền đồ của dân tộc chúng ta sẽ ra sao, một phần quan trọng lŕ do sự nghiệp GD trực tiếp quyết định: "Ngủ thì ai cũng như lương thiện/ Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền/Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn/ Phần nhiều do GD mà nên".

Hồ Chí Minh khẳng định: "...có gì vẻ vang hơn là nghề giáo dục đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng CNXH và CNCS. Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất". Theo Hồ Chí Minh "óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy, sự học tập ở nhà trường, ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà".

Với người học, người được GD, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người phải : "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại" . Đặc biệt, Người coi việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược to lớn và lâu dài. Người coi thanh niên là lực lượng có ý chí và nghị lực vượt mọi khó khăn, luôn xung phong đi đầu trong sự nghiệp chiến đấu và xây dựng CNXH; coi thiếu niên nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà.

3. Tư tưởng "trồng người" của Hồ Chí Minh rất khoa học và toàn diện, cả về nội dung và phương pháp. Người chỉ rõ: "Việc xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc". Hiểu sâu sắc thuyết cách mạng không ngừng, nhìn thấu quá khứ và tương lai, Hồ Chí Minh luôn có một lòng yêu thương, tin tưởng mãnh liệt ở thanh niên, ở thế hệ trẻ, thấy trước những đỉnh cao mà con người Việt Nam sẽ phải đạt tới: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em".

Trong việc "trồng người", Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng nền tảng đạo đức. Người thường xuyên bồi đắp cái nền tảng ấy cho con người. Người khẳng định: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Vì vậy, Người đòi hỏi tất cả mọi người không trừ một ai, không trừ một cấp nào đều phải thường xuyên trau đồi đạo đức cách mạng cho bền vững. Hồ Chí Minh hết sức coi trọng đạo đức. Song cũng rất mực coi trọng tài năng. Người trân trọng đón mời, ưu đãi và trao thực chức, thực quyền cho những người có tài năng. Mặt khác, Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải tinh thông nghiệp vụ của mình, ai cũng đều phải có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Làm bất cứ việc gì, làm bất cứ ở đâu mà không thành thạo sẽ gây ra tác hại. Đặc biệt là trong bộ máy Nhà nước, hoạt động của nó liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, sự không thành thạo công việc sẽ dẫn đến tác hại khôn lường. Bởi vậy, Hồ Chí Minh rất quan tâm, coi trọng và khuyến khích việc "chiêu hiền đãi sĩ", "cầu người hiền tài" và luôn nhắc nhở phải "khéo dùng cán bộ", phải "hiểu và đánh giá đúng cán bộ", "có gan cất nhắc cán bộ", "dụng nhân như dụng mộc" vě "muôn việc thŕnh công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".

4. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp "trồng người" cňn lŕ sự quy tụ ở mẫu người hoặc các mẫu người, được xây dựng về mặt lí thuyết và trong thực tế. Hồ Chí Minh không nói đến mẫu người siêu việt, đứng trên tất cả mọi người. Người từng chỉ ra rằng: trong xã hội không có áp bức, bóc lột thì "thánh hiền" là hàng triệu con người có thật trong nhân dân. Vì thế sẽ là thiếu sót nếu không chú ý tới một điểm độc đáo của Hồ Chí Minh trong việc "trồng người" và nó liên quan đến mẫu người. Đó là tư tưởng và sự quan tâm của Người đến vấn đề "người tốt, việc tốt". Một vấn đề thật đơn giản, dễ nhớ, dễ làm, nhưng thật sâu sắc, sáng tạo bởi tính quần chúng và chiều sâu triết học, tầm cao của lòng yêu thương, trân trọng, khoan dung, đại lượng đối với con người và sự nghiệp "trồng người", đó là "người tốt", mẫu người mà ai cũng có thể trở thành. Nhưng để trở thành "người tốt", tuy dễ nhớ, dễ làm phải tự đòi hỏi mình, tự chế ngự và tự nâng mình lên mới có thể vượt qua được thói quen làm những "việc tốt" bình thường nhất, để từ triệu người tốt, việc tốt sẽ ươm mầm, chở che, nâng niu cái thiện, đẩy lùi cái ác mở mọi nơi, mọi lúc.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, nêu gương là một phương pháp GD quan trọng. Người dạy: "Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người... Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày GD lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vŕ chiến lược "trồng người" chính lŕ sự kết tinh những tinh hoa cao đẹp của truyền thống dân tộc, nhân loại và tư tưởng của thời đại: Tư tưởng nhân đạo cộng sản. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, những tác động tiêu cực đang xói mòn đạo đức, đời sống văn hóa của nhân dân ta. Song, Đảng ta nhất quán cho rằng: Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và "phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước... Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta.

Câu 16: Mục tiêu, động lực, phương pháp tiến hành XDXHCN.

Mục tiêu:

+ Mục tiêu chung đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. "Tôi chỉ có một ham muốn...". Chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Hoặc "không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân". Đây là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của HCM đã khẳng định tính ưu việt của CNXH so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện.

Quá trình xây dựng CNXH là lâu dài, HCM cho rằng: "chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta..." đề cập đến các mục tiêu cụ thể:

+ Mục tiêu chính trị: là chế độ nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân.

+ Mục tiêu kinh tế: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống. Kết hợp các lợi ích.

+ Mục tiêu tiêu văn hoá- xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, xoá mù chữ, phát triển nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí....

Động lực:

+ Phát huy các nguồn động lực về vật chất và tư tưởng cho việc xây dựng CNXH: vốn, khoa học công nghệ, con người (năng lực của con người); trong đó lấy con người làm động lực quan trọng và quyết đinh. "CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người". Nòng cốt là công - nông - trí thức.

+ Phát huy động lực con người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân. Phát huy động lực của cộng đồng là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn liền với lợi ích vật chất chính đáng của người lao động; "phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở, việc làm của nhân dân". " Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nừu dân rét, Đảng và chính phủ có lỗi".

HCM coi trọng động lực về kinh tế, phát triển sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích lợi quốc dân, gắn liền với phát triển kinh tế - kỹ thuật, kinh tế -xã hội. Tác động về cả chính trị và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động và ý thức làm chủ, HCM cũng quan tâm đến văn hoá, khoa học, giáo dục. Đó là những động lực bên trong, tiềm tàng của sự phát triển. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhất là trong vấn đề thực hiện công bằng xã hội phải theo nguyên tắc: "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng". Tránh bình quân, Bác nêu khẩu hiệu 3 khoán và 1 thưởng. Thưởng phạt công minh. "Khoán là một điều kiện của CNXH...". Sử dụng vai trò điều chỉnh các nhân tố tinh thần khác như: văn hoá, đạo đức, pháp luật đối với hoạt động của con người. Đó là những động lực bên trong quan trọng.

Ngoài ra HCM còn nêu các động lực bên ngoài như kết hợp với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả khoa học kỹ thuật thế giới.

+ Nét độc đáo trong phong cách tư duy HCM là chỉ ra yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH. Đó là lực cản:

Căn bệnh thoái hoá, biến chất cán bộ.

Chống chủ nghĩa cá nhân, bác coi đó là kẻ thù hung ác của CNXH.

Chống tham ô lãng phí, bác coi đó là bạn đồng minh của thực dân phong kiến.

Chống bè phái mất đoàn kết nội bộ, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, chống lười biếng...Theo Bác các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy giảm uy tín và ngăn trở sự nghiệp cách mạng của Đảng, Bác gọi đó là giặc nội xâm.

Phương pháp tiến hành:

HCM đã nêu 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận:

-Xây dựng CNXH mang tính quốc tế, cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác lênin về xây dựng chế độ mới. Phải học tập kinh nghiệm cơ bản của các nước anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có đặc điểm riêng của ta."Ta không thể giống Liên xô..."

"Tất cả các dân tộc đều tiến tới CNXH không phải là một cách hoàn toàn giống nhau"

-Xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Hai nguyên tắc có tính phương pháp luận:

-(1) Xây dựng chủ nghĩa xã hội là khách quan mang tính quốc tế.

-(2) Xác định bước đi, biện pháp xuất phát từ điều kiện cụ thể, đặc điểm của dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của dân tộc. Cụ thể:

Về bước đi: phải qua nhiều bước, "bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh, ...chớ ham làm mau, ham rầm rộ...Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần". Bác sớm ngăn ngừa xu hướng chủ quan, nóng vội, "Chớ thấy Liên Xô, Trung Quốc đã có nông trường quốc doanh, tổ chức hợp tác xã thì ta vội tổ chức ngay hợp tác xã"

Bước đi nông nghiệp: từ cải cách ruộng đất sau tiến lên tổ đổi công cho tốt cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng,...

Về bước đi công nghiệp: "...ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng", "làm trái với Liên Xô cũng là mác -xít".

Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành: Người nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn phải tìm tòi cách riêng cho phù hợp với thực tiễn của VN. "Muốn đỡ bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm thì phải học kinh nghiệm của các nước anh em" nhưng "áp dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo", "ta không thể giống Liên -xô vì Liên -xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử khác...". Ví dụ: miền Bắc phải kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam; miền Bắc "vừa sản xuất, vừa chiến đấu", "vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH"; "CNXH là của dân do dân và vì dân". Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp "Là 2 bộ phận chính, 2 ngành cơ bản của nền kinh tế, có quan hệ khăng khít, không thể thiếu bộ phận nào, phát triển vững chắc cả hai".

Phương pháp xây dựng CNXH là "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm", như vậy "CNXH không đồng nhất với đói nghèo, không bình quân, mà từng bước tiến lên cuộc sống sung túc, dồi dào".

Cách làm, là đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân. Chính phủ chỉ giúp đỡ kế hoạch, cổ động. CNXH là do dân và vì dân. Người đề ra 4 chính sách: Công - tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công - nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài. Chỉ tiêu 1, biện pháp 10, chính sách 20...có như thế mới hoàn thành kế hoạch. Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể sau:

-Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, xây dựng làm chính.

-Kết hợp xây dựng với bảo vệ, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau trong phạm vi một quốc gia.

-Xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch.

HCM cho rằng phải huy động hết tiềm năng nguồn lực có trong dân để làm lợi cho dân.

Cau 17:Tư tưởng HCM về đạo đức

+ Trung với nước, hiếu với dân.

Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống VN và phương Đông có nội dung hạn hẹp. "Trung với vua, hiếu với cha mẹ", phản ánh bổn phận của người dân với vua, con đối với cha mẹ. HCM vận dụng và đưa vào nội dung mới. HCM đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân". Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người VN.

Đối với cán bộ Đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với Đảng với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tìnhm hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.

Nội dung chủ yếu của trung với nước là:

-Đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của Cách mạng lên trên hết.

-Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.

-Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nội dung của hiếu với dân là:

-Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.

-Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

-Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao đông có kế hoạch, sáng tạo năng suât cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.

Kiệm kà tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; "Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi,"

Liêm là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân". Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là: ... cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.

Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.

Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.

Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc, để công việc lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.

Cần, kiêm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. HCM viết:

"Trời có bốn mùa":Xuân, hạ, thu, đông

Đất có bốn phương: Đông, tây, nam, bắc

Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một mùa thì không thành trời

Thiếu một phương thì không thành đất

Thiếu một đức thì không thành người"

Cần, kiêm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu Đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiêm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. "Nó"là cái cần để "làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại".

Chí công vô tư là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. "Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ,( tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc)". Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn "mọi người vì mình". Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. HCM viết: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". HCM cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách: "Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục".

+ yêu thương con người.

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, HCM đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. HCM chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm an áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.

Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.

Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa với người lãnh đạo.

+ Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung.

Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoangnam