Cau1 cac quan diem. vat chat

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1. Các quan điểm. Vật Chất

Các quan điểm.

Chủ nghĩa duy vật cổ đại đã đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất. Thí dụ: nước (quan niệm của Talet); không khí (quan niệm Anaximen); lửa (quan niệm của Hêraclit); nguyên tử (quan niệm của Đêmôcrit); đất, nước, lửa, gió (quan niệm của triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (quan niệm trong Thuyết ngũ hành ở Trung Quốc).

Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tửvà khối lượng. Với quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản sinh ra vũ trụ chứng tỏ các nhà duy vật trước C.Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể. Hạn chế này tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để. Họ chỉ duy vật khi giải quyết những vấn đề của tự nhiên nhưng lại duy tâm thần bí khi giải thích các hiện tượng xã hội.

Vật chất

a. Phạm trù vật chất

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giácTừ định nghĩa vật chất có thể khẳng định:

Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cáichung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, hiện tượng chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển và chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, dù con người có nhận thức được nó hay không.

Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người. Ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Phương pháp định nghĩa mà V.I.Lênin dùng để định nghĩa vật chất là đối lập vật chất với phạm trù ý thức, chỉ ra thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức.

Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:

Một là, với việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được sự hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học cho sự phát triển của triết học và các khoa học khác và là cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử.

Hai là, với việc khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh” V.I Lênin khẳng định vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai đồng thời thừa nhận khả năng của con người có thể nhận thức được thực tại khách quan.

b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất

Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”

Định nghĩa trên của Ph.Ăngghen cho thấy vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự thân vận động và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.

Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất. Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.

Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cảCác hình thức vận động của vật chất:

Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen phân chia vận động thành năm hình thức vận động cơ bản:

Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.

Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh…

Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.

Vận động sinh vật là vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa…

Vận động xã hội là sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…của đời sống xã hội.

Các hình thức vận động cơ bản trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độthấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có. Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp loại, hợp ngành khoa học.

Vận động và đứng im:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn nhưng điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im, cân bằng ; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.

Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy trong một số quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ. Đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động.

Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định, vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật

Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất

Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không tồn tại trong không gian và thời gian.

Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật chất khác.

Những hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian. Mặt khác sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa… những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.

Ph.Ăngghen cho rằng: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”, do đó có thể hiểu:

- Vật chất, không gian và thời gian không tác rời nhau, không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không thể có sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.

c. Tính thống nhất vật chất của thế giới

Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.

Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đị.

Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất và chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của vật chất.

Nhận thức trên có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ định hướng cho con người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho việc tiếp tục nhận thức tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro