cau4:Khái niệm, vị trí, cơ cấu và nội dung của Quy phạm pháp luật? Quan hệ pháp luật, Vi phạm pháp l

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 4: Khái niệm, vị trí, cơ cấu và nội dung của Quy phạm pháp luật? Quan hệ pháp luật, Vi phạm pháp luật, Trách nhiệm pháp lý ?

*Quy phạm pháp luật:

a-Khái niệm: Quy phạm PL là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước dặt ra hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước.

QPPL QPXH khác

Do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận Do tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo quy định hoặc tự hình thành trong xã hội

Được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước Được thực hiện do uy tín, lực lượng của tổ chức chính trị, XH, tôn giáo hoặc dư luận XH, niềm tin

Có tính bắt buộc đối với tất cả mọi người Chỉ có hiệu lực đối với thành viên của tổ chức

b-Vị trí: Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc của pháp luật.

c-Cơ cấu:

Một QPPL thông thường gồm 3 bộ phận: giả định, quy định và chế tài.

● Giả định:

- Khái niệm: Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật, mô tả những tình huống thực tế, những hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống mà cá nhân hay tổ chức ở vào điều kiện, hoàn cảnh đó phải xử sự theo quy định của quy phạm pháp luật đó.

- Vai trò: Giả định là một bộ phận rất quan trọng của QPPL. Để áp dụng QPPL một cách chính xác, nhất quán thì phần giả định phải mô tả rõ ràng, sát với thực tế.

● Quy định:Quy định là bộ phận của QPPL nêu lên cách xử sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào điều kiện, hoàn cảnh trong phần giả định được phép thực hiện hoặc phải tuân theo.

- Vai trò: Quy định là bộ phận không thể thiếu được trong tất cả các quy phạm pháp luật.

●Chế tài:

- Khái niệm: Chế tài là bộ phận nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với tổ chức hay cá nhân khi ở vào hoàn cảnh như phần giả định mà không thực hiện đúng yêu cầu đã nêu ở phần quy định.

- Vai trò: Đây là phương tiện đảm bảo để phần quy định của quy phạm PL được thực hiện.

- Phân loại: Chế tài gồm nhiều loại khác nhau như:

+ Chế tài hình sự

+ Chế tài hành chính

+ Chế tài kỷ luật

+ Chế tài dân sự

● Lưu ý: Không phải quy phạm pháp luật nào cũng chứa đựng đầy đủ ba bộ phận và không phải các bộ phận luôn sắp xếp theo một trật tự.

*Quan hệ pháp luật:

a-Khái niệm: Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.

- Lưu ý:

+ Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội chứ không phải khi nó trở thành một quy phạm pháp luật thì không còn là quan hệ xã hội nữa.

+ Các quan hệ xã hội là quan hệ pháp luật (được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật) vẫn có thể được điều chỉnh bằng các quy phạm xã hội khác. Ví dụ: quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình được điều chỉnh bởi quy pháp pháp luật hôn nhân và gia đình; đồng thời vẫn được điều chỉnh bởi phong tục tập quán (tục cưới hỏi) hoặc tín điều tôn giáo (làm lễ kết hôn tại nhà thờ)...v.v

● Đặc điểm:

- Quan hệ pháp luật là quan hệ tư tưởng, quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng. Pháp luật là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội. Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật nên nó cững thuộc về kiến trúc thượng tầng

- Quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí:

+ Quan hệ pháp luật phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật mà nội dung quy phạm pháp luật phản ánh ý chí của nhà nước.

+ Trong đa số các trường hợp thì quan hệ pháp luật phát sinh , thay đổi, chấm dứt do ý chí của các bên tham gia qua hệ pháp luật. Ví dụ: do quyết định của nhà nước, do cá nhân muốn tham gia các quan hệ dân sự như mua bán, hợp đòng, lao động, sản xuất...

-Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật, có quy phạm pháp luật mới có quan hệ pháp luật → quan hệ pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc.

b-Cấu trúc:

- Chủ thể của quan hệ pháp luật: Là các bên tham gia quan hệ pháp luật. Có quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Gồm: Cá nhân hoặc tổ chức. Để được tham gia các quan hệ pháp luật thì điều kiện đối với các chủ thể trong từng loại quan hệ pháp luật là khác nhau.

- Khách thể của quan hệ pháp luật: Là cái mà chủ thể hướng tới khi tham gia quan hệ pháp luật như: lợi ích vật chất, giá trị tinh thần, lợi ích chính trị...

c-Nội dung của quan hệ pháp luật: là quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật

d- Những điều kiện phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật:

● Quy phạm pháp luật: là cơ sở của quan hệ pháp luật. Phải có QPPL thì mới có quan hệ pháp luật. Sở dĩ như vậy là vì một quan hệ xã hội chỉ trở thành quan hệ pháp luật khi nó được điều chỉnh bởi QPPL.

● Năng lực của chủ thể: Chủ thể là một yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật. Vậy quan hệ pháp luật không thể nảy sinh nếu không có chủ thể. Trong khi đó chủ thể chỉ được tham gia quan hệ pháp luật khi có năng lực chủ thể. Vậy năng lực của chủ thể cũng là một điều kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật

● Sự kiện pháp lý:

Sự kiện pháp lý là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế đã được chỉ ra trong phần giả định của QPPL. Sự tồn tại, thay đổi của nó gắn liền với sự phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ pháp luật

*Vi phạm pháp luật:

a-Khái niệm: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp luật thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

*Vi phạm pháp luật có những dấu hiệu cơ bản sau:

-Thứ nhất, vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi (hành động hoặc không hành động) xác định của con người. Hành vi ấy được thể hiện dưới dạng hành động hay không hành động.

- Thứ hai, hành vi đó phải trái với những quy định (yêu cầu) của pháp luật. Tính trái pháp luật được thể hiện:

+Chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện.

+Chủ thể thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm.

+Chủ thể sử dụng quyền hạn của mình vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép.

-Thứ ba, hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng yếu tố lỗi (cố ý hoặc vô ý).

Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của mình cũng như đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.

-Thứ tư, năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể hành vi trái pháp luật

Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự và có tự do ý chí, nghĩa là người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển được việc làm của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

b- Phân loại vi phạm pháp luật.

*Vi phạm hình sự (tội phạm):

-Chủ thể của vi phạm hình sự chỉ là những cá nhân cụ thể.

-Dấu hiệu vi phạm hình sự gồm: tính nguy hiểm cho xã hội; tính có lỗi; tính trái pháp luật hình sự; tính chịu hình phạt.

* Vi phạm hành chính:

-Chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân, có thể là tổ chức.

-Vi phạm hành chính có những dấu hiệu: hành vi có tính xâm phạm trật tự quản lý nhà nước, có lỗi, trái pháp luật hành chính, bị xử phạt hành chính.

*Vi phạm dân sự:

- Chủ thể vi phạm dân sự là cá nhân hoặc tổ chức.

- Dấu hiệu của vi phạm dân sự: hành vi có tính xâm phạm các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, có lỗi, trái pháp luật dân sự, chịu trách nhiệm dân sự. Xuất pháp từ tính chất của vi phạm pháp luật dân sự, Luật Dân sự quy định trách nhiệm dân sự, nhằm phục hồi lại những quan hệ đã bị vi phạm cũng như để thực hiện các nghĩa vụ chưa được thực hiện.

● Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi của cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên... trái với quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học... gây thiệt hại cho hoạt động bình thường của các cơ quan, xí nghiệp, trường học đó, phải chịu trách nhiệm kỷ luật.

- Chủ thể của vi phạm kỷ luật chỉ có thể là cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước, học sinh, sinh viên - những người lao động, học tập, phục vụ trong cơ quan mình công tác.

- Dấu hiệu của vi phạm kỷ luật: có hành vi xâm hại tới chế độ kỷ luật lao động, học tập, có lỗi, trái với quy chế, quy tắc trong cơ quan đó, phải chịu trách nhiệm kỷ luật

* Trách nhiệm pháp lý:

a-Khái niệm, đặc điểm, phân loại

● Khái niệm:

Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (về quyền, về tự do, về tài sản...) mà cá nhân hoặc tổ chức vi phạm pháp luật phải gánh chịu trước nhà nước.

● Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý:

- Cơ sở thực tế của sự hình thành trách nhiệm pháp lý là phải có vi phạm pháp luật.

- Trách nhiệm pháp lý thể hiện sự lên án của nhà nước và xã hội đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện sự phản ứng của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật. Mức độ của thái độ phản ứng trên tương ứng với mức độ gây thiệt hại của hành vi vi phạm và được biểu hiện ở các mức cưỡng chế của nhà nước

- Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết đến cưỡng chế nhà nước.

- Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có nghĩa là chỉ cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền mới được truy cứu trách nhiệm pháp lý (cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tòa án,...)

b-Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý

*Khái niệm: Truy cứu trách nhiệm pháp lý là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước đã được quy định trong chế tài của các quy phạm pháp luật.

Để tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý đòi hỏi phải xác định được cấu thành vi phạm pháp luật.

*Các yếu tố của cấu thành vi phạm pháp luật - cơ sở để truy cứu trách nhiệm PL :

Mặt khách quan: là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Bao gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại của xã hội (hậu quả nguy hiểm cho xã hội), mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra.

Ngoài ra trong mặt khách quan này còn có những dấu hiệu khác như địa điểm, thời gian xảy ra vi phạm, công cụ, phương tiện được sử dụng để vi phạm... Đây là những dấu hiệu phụ, việc xem xét nó tùy thuộc vào từng vi phạm pháp luật cụ thể

Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: là những yếu tố bên trong của người vi phạm. Chúng có mối quan hệ hữu cơ với hành vi và các dấu hiệu khác trong mặt khách quan, bao gồm lỗi, động cơ, mục đích.

- Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong mặt chủ quan và bắt buộc phải có trong mọi loại vi phạm pháp luật.

+ Lỗi cố ý là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra (cố ý trực tiếp) hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp).

+ Lỗi vô ý là lỗi của một chủ thể thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được những hậu quả lại xảy ra (vô ý vì quá tự tin); hoặc do cẩu thả mà không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù có thể xảy ra và phải thấy trước (vô ý do cẩu thả).

- Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật.

- Mục đích là cái đích đặt ra từ trước mà trong suy nghĩ chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật mong muốn đạt được.

Động cơ, mục đích tuy là những yếu tố thuộc mặt chủ quan, song việc xác định nó hay không phải căn cứ vào từng vi phạm pháp luật cụ thể. Có như vậy việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế mới chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lý và đạt hiệu quả cao trong cải tạo, giáo dục người vi phạm pháp luật.

Khách thể của vi phạm pháp luật: Là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ như quan hệ về quền sở hữu; quan hệ về trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia... Những quan hệ xã hội này bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới, làm thay đổi, làm lệch lạc đi nội dung của quan hệ xã hội mà nhà nước đã quy định.

Chủ thể của vi phạm pháp luật: Là những cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

- Nếu là cá nhân, phải xác định xem người đó đã đạt đến độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý hay chưa? Trạng thái tâm lý (thần kinh) của họ như thế nào ở vào thời điểm họ thực hiện hành vi trái pháp luật đó.

- Nếu là tổ chức, phải xác định xem tổ chức đó có năng lực chủ thể hay không.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro