cấy(tt)-leghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi yêu ti

ếng nước tôi

Saturday, March 3, 2012 2:06:28 PM

S

ư

u t

m

Tôi tình c

quen m

t anh b

n M

, ng

ườ

i M

chính c

ng, m

t xanh mũi lõ, tên Johnson William, quê

bang Ohio c

a x

C

Hoa nh

ư

ng Johnson đã sinh s

ng

Vi

t Nam h

ơ

n m

ườ

i m

y năm, nói ti

ế

ng Vi

t thông th

o, phát âm theo gi

ng Hà N

i khá rõ, h

n h

c ti

ế

ng n

ướ

c tôi

Đ

i h

c Ngo

i ng

Hà N

i r

i làm Th

c sĩ nghiên c

u v

dân t

c h

c Đông Nam Á, và h

c Khoa h

c T

nhiên Sài Gòn, rành l

ch s

Vi

t Nam, thu

c nhi

u câu th

ơ

l

c bát trong truy

n Ki

u c

a thi hào Nguy

n Du, L

c Vân Tiên c

a c

Đ

Chi

u

.

Johnson ăn m

c x

c x

ế

ch, cái đ

u r

i bù, chân mang m

t đôi giày bata cũ mèm, l

ư

ng qu

y m

t ba lô l

ế

ch th

ế

ch, s

n sàng ăn u

ng nh

m nhoàm ngoài v

a hè. Johnson có th

quanh năm su

t tháng ăn c

ơ

m v

i chu

i thay cho bánh mì và phô-mát, x

t n

ướ

c t

ươ

ng vào chén r

i c

th

ế

mà khua đũa lùa c

ơ

m vào mi

ng. Đ

i v

i Johnson, th

t rùa, r

n,

ế

ch, nhái, chu

t đ

ng,... h

n x

ơ

i ngon lành. Bún riêu là món khoái kh

u c

a Johnson, h

n còn bi

ế

t thèm h

t v

t l

n ăn v

i rau răm ch

m mu

i tiêu chanh. Ai có m

i đi chén th

t c

y v

i m

m tôm, J

ohnson ch

ng ng

n ng

i mà còn bi

ế

t v

đùi đánh cái phét, khen r

ượ

u đ

ế

nh

m v

i th

t chó ngon "th

n s

u qu

kh

c" !! Ch

ng bi

ế

t Johnson khéo tán t

nh th

ế

nào (ho

c b

tán) mà v

đ

ượ

c m

t cô bé Hà thành tóc "đ

-mi gác-xông", sinh viên ngành văn ch

ươ

ng h

n ho

i. Ngày c

ướ

i, Johnson m

c áo dài khăn đóng, dâng tr

u cau và quỳ l

y bàn th

t

tiên nhà gái thành th

o làm đám thanh niên, thi

ế

u n

, c

lũ con nít và m

y ông c

ông, c

bà trong làng suýt xoa, kinh ng

c, xúm l

i coi mu

n s

p nhà.

Chúng tôi g

ặp nhau trên chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Huế. Tôi về thăm quê, còn Johnson thì sau mấy tháng nghiên cứu phong tục Tây nguyên rồi xuống Nha Trang, tiếp đó lại đi dự Festival Huế. Đường dài, tàu chạy dằn xóc, chung quanh ồn ào, lao nhao chẳng ai ngủ được. Johnson rủ tôi xuống toa ăn uống, kêu mỗi người một ly cà phê đen, một bình trà nóng rồi trao đổi đủ thứ chuyện trên đời. Tôi cũng thầm thán phục sự hiểu biết và thành thạo văn hóa Việt Nam của Johnson khi nghe hắn thỉnh thoảng chêm vô câu chuyện mấy câu ca dao, thành ngữ tiếng Việt. Thật thú vị khi nói chuyện với một người Mỹ bằng tiếng Việt về đề tài ngôn ngữ Việt Nam (dễ chịu hơn nhiều khi phải nói chuyện với một người Mỹ bằng... tiếng Anh). Vậy mà Johnson vẫn lắc đầu than:

- Ti

ế

ng Vi

t c

a m

y ông r

c r

i quá! Tôi

h

c đã lâu mà v

n còn lúng túng, nhi

u lúc vi

ế

t sai, nói sai lung tung c

lên. Này nhé, t

x

ư

ng hô, ăn u

ng, giao ti

ế

p,... th

t l

m t

khác nhau ch

ng đ

ơ

n gi

n nh

ư

ti

ế

ng M

c

a t

, ch

m

t t

you là đ

nói v

i t

t c

ng

ườ

i đ

i tho

i, còn ti

ế

ng Vi

t thì phâ

n bi

t ông, bà, anh, ch

, em, con, cháu, ngài, mày, th

y, th

ng,... rành m

ch. Ti

ế

ng M

thì dùng m

t ch

black đ

ch

t

t c

nh

ng v

t gì, con gì có màu đen trong khi đó ti

ế

ng Vi

t thì khác, ng

a đen thì g

i là ng

a ô, chó đen thì kêu là chó m

c, mèo đen t

hì g

i là mèo mun, bò đen là bò hóng, m

c đen là m

c tàu, tóc đen thì hóa thành tóc nhung ho

c tóc huy

n. Đã là màu đen r

i mà ng

ườ

i Vi

t còn nh

n m

nh thêm m

c đ

đen nh

ư

: đen th

i đen thui, r

i đen tuy

n, tím đen, đen ng

t, đen bóng, đen sì, đen đ

i, đen

óng, đen thùi lùi, đen k

t, đen ngòm,... Còn đ

ch

màu th

t đen h

ơ

n thì ng

ườ

i Vi

t dùng ch

đen hai l

n: đen đen.

Tôi c

ườ

i c

ườ

i:

- Thì ti

ế

ng M

c

a ông nhi

u lúc cũng r

c r

i kia mà. Này nhé, ng

ườ

i Vi

t nói: "Hôm qua, tôi đi đ

ế

n ti

m" thì ng

ườ

i M

l

i

nói: "Yesterday, I went to the shop". Ti

ế

ng Anh, đi là go, nh

ư

ng đã đi (quá kh

) thì ph

i vi

ế

t là went. B

n thân ch

hôm qua (yesterday) đã là quá kh

r

i thì ai cũng bi

ế

t mà c

n gì ph

i đ

i go thành went chi cho r

i m

y ng

ườ

i h

c Anh văn? N

i chuy

n h

c t

hu

c lòng 154 đ

ng t

b

t qui t

c c

a m

y ông cũng đ

làm nhi

u ng

ườ

i trên th

ế

gi

i ph

i thi r

t lên r

t xu

ng.. Ng

ườ

i Vi

t nói hai con chó mà ch

ng c

n thêm s ho

c es thành hai con chó "s

" (two dogs) nh

ư

ti

ế

ng M

. M

t đ

a con nít thì nói là one chid là đ

ượ

c r

i, v

y mà thêm m

t đ

a n

a thì b

t đ

u r

i, ch

ng ph

i là two childs mà thành two children. M

t con ng

ng là one goose, hai con ng

ng thì thành two geese. V

y mà vi

ế

t m

t con c

u là one sheep nh

ư

ng hai con c

u thì cũng là two sheep, ch

ng ch

u đ

i gì

c

?!.

Johnson v

ẫn không chịu thua: - Văn phạm của xứ ông cũng rắc rối bỏ xừ ! Xem nè, thắng và thua là hai chữ phản nghĩa chứ gì?Thua = bạilà hai chữ đồng nghĩa, đúng hông? Vậy mà, hai câu nói:"Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán"đồng nghĩa với câu"Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán?"Không thể viết là"Ngô Quyền đánh thua quân Nam Hán!!!Còn nữaLễ động thổthì không thể sửa lại làLễ động đấtmặc dầuchữ thổ cũng là đất?

Tôi ti

ế

p t

c "ăn mi

ế

ng tr

mi

ế

ng":

- Ti

ế

ng M

cũng đâu có tránh kh

i. See và look cũng đ

u là đ

ng t

đ

cùng ch

hành đ

ng xem, nhìn, ng

m, dòm nh

ư

ng oversee (quan sát, trông nom) l

i ng

ượ

c nghĩa overlook (b

sót, không nhìn th

y). Wise man là ng

ườ

i thông thái, uyên bác, v

y mà thay ch

ma

n (đàn ông) thành woman (đàn bà) thì ch

wise woman thành bà phù th

y, bà lang, bà th

y bói, bà đ

ng bóng,... !!! R

i ch

man và guy (anh chàng, gã) g

n g

n nh

ư

nhau thì ch

wise guy thành m

t k

h

m hĩnh, khoác lác...

Johnson ôm b

ng c

ườ

i:

- Tên món ăn Vi

ệt Nam cũng lạ, miền Nam cóbánh da lợn, tưởng làm bằng thịt lợnnhưng thực chất là bằng bột, có lẽ giống như các lớp da lợn, nhưng sao không gọi là bánh da heo theo từ miền Nam mà gọi theo chữ lợn miền Bắc?Bánh bò cũng chắng có miếng thịt bò nào.Bánh tiêu thì không rắc tiêu mà lại rắc mè.Gọi rau má mà chẳng liên quan đến má hay mẹ gì cả. Bánh tét mà gói thật chặt, chẳng thể nào tét được. Bánh dày thì lại mỏng hơn bánh chưng. Bánh chưng thì phải nấu thật lâu mới chín chứ không phải dùng cách chưng hơi hay chưng hấp. Nước lèo trong nồi hủ tíu thì chẳng phải theo kiểu nước Lào (hay Lèo). Trái sầu riêng thì ăn vô chẳng thấy sầu riêng hay sầu chung chi cả. Bưởi Năm roi rất tuyệt nhưng sao đặt lànăm roi? Trái vú sữa, Cây dái ngựathì thật là tượng hình. Hi hi hi... Còn dùng từ cò đất, cò nhà,... thì chẳng dính dáng gì đến "con cò, cò bay lả, lả bay la..." cả.

Tôi cũng ch

ng v

a:

- Th

ế

cái

món hot dog c

a m

y ông có liên quan gì đ

ế

n con chó không?

Món bánh mì k

p th

t bò băm Hamburger c

a Mc Donald thì đâu

có th

t heo (ham).

Trái th

ơ

m, trái khóm "pineapple"

thì ch

ng có gì liên quan đ

ế

n

pine (cây thông)

apple (trái táo)

c

? Vào phòng thí nghi

m sinh h

c, ông Giáo s

ư

b

o b

t m

t con "Guinea pig", nghe qua t

ưở

ng đâu là con heo x

Guinea (

Tây Phi Châu, giá

p v

i Senegal, Mali, Liberia, Sierra Leone và bi

n B

c Đ

i Tây D

ươ

ng) nh

ư

ng ng

đâu là m

t gi

ng chu

t.

Johnson g

t gù:

-

Ừ, cũng đúng. Nhưng lúc đầu học tiếng Việt, tôi thấy khó quá, đã lấy 24 chữ cái A, B, C của vần La tinh rồi mà bày ra thêm a, â, ă, u, ư, ơ, d, đ,... nữa. Lại thêm kèm 5 dấu: dấu sắc ('), huyền ('), hỏi (?), ngã (~), nặng (.) và không dấu ( ) nữa. Như le, lé, lê, lẹ, lẻ, lẽ, mỗi chữ mang một nghĩa khác nhau. Rồi phải học cách bỏ dấu ở đâu trong từ cho chính xác nữa chứ. Sửa hay là sữa. Li hay là ly?

Trong ngôn ng

Vi

t Nam, tôi th

y nhi

u ch

khác ghép vào t

ăn, d

u nó ch

ng ăn nh

p đ

ế

n chuy

n b

th

c ph

m vào mi

ng, nhai và nu

t xu

ng gì c

. Nói ăn nh

u, ăn ti

c, án m

ng, ăn c

ướ

i, ăn gi

,... thì có lý, nh

ư

ng sao l

i là ăn n

m, ăn hút

, ăn ti

n, ăn l

ươ

ng, ăn c

p, ăn mày, ăn ch

n, ăn qu

t, ăn di

n, ăn đòn, ăn công, ăn hi

ế

p, ăn khách, ăn m

c, ăn

nh,...

Tôi b

t c

ườ

i ch

n ngang khi Johnson ti

ế

p t

c ghép ch

v

i t

ăn:

- Thì nh

ư tiếng Mỹ của ông cũng vậy thôi. Chữ to get không dịch gì ra hồn cả. Tôi cũng cứ nghĩ là khi mình chưa tìm ra động từ nào thích hợp thì dùng tạm luôn chữ to get ! Khi quân đội Mỹ bắt sống được Saddam Hussen ở Iraq thì tuyên bố "We got him !" sao không dùng động từ to catch, to caught, to force, to find, to pick up,... cho rõ nghĩa? Rồi động từ to get đi kèm các giới từ in, into, on, out, up, at-able,... thành một loạt động từ mới. Các động từ to take, to put, to be,... cũng vậy.

Johnson chuy

n qua ph

n khác:

- Chuy

n m

o t

ti

ế

ng Vi

t cũng làm r

c r

i ng

ườ

i n

ướ

c ngo

ài. Ng

ườ

i Vi

t nói: cái bàn, cái nhà, cái g

ươ

ng, cái nón,... nh

ư

ng không th

nói cái chó, cái mèo mà ph

i là con chó, con mèo, con ng

ườ

i,... Đ

v

t là cái, đ

ng v

t là con. Bây gi

nhi

u cô c

u thanh niên Hà N

i thay vì nói cái xe Honda Dream thì l

i dùng

t

con Đ

-rim, r

i con Su (Suzuki), con a còng (@), con Tô (Toyota), con M

c (Mercedes),...

V

ch

ng tôi có chuy

n vui th

ế

này: Tôi quen v

tôi, m

t ph

n vì yêu các cô gái Vi

t Nam, m

t ph

n cũng đ

trau d

i thêm ti

ế

ng Vi

t. Hôm

y chúng tôi ra H

G

ươ

m d

o ch

ơ

i, tôi khen: "Con h

này đ

p quá !". V

tôi "ch

nh" li

n: "Không, anh ph

i nói là cái h

này đ

p quá !". V

y mà đi ngang sông Tô L

ch th

y n

ướ

c đen ngòm, tôi nói: "Cái sông này b

n quá !" thì v

tôi "s

a" ngay: "

y, anh ph

i nói là con sông này b

n qu

á ch

không nói là cái sông !". Tôi la lên: "

, sao l

i th

ế

, khi là cái, khi là con, làm sao phân bi

t?". V

tôi ôn t

n gi

i thích: "Cái gì đ

ng d

y, nhúc nhích thì g

i là con, nh

ư

con sông có n

ướ

c ch

y, còn cái gì n

m im nh

ư

cái h

n

ướ

c tĩnh m

ch thì ph

i

là cái h

. Con chó, con mèo nó ch

y đ

ượ

c nên ph

i là con. Cái nhà, cái bàn, cái c

t đèn đâu có di chuy

n đ

ượ

c nên ph

i là cái. Rõ ch

a?" - "À, anh hi

u r

i ! Ti

ế

ng Vi

t th

t hay.

Tôi th

ấy tức cười vô cùng với anh bạn Mỹ này:

- Tôi cũng có chuy

n hi

u l

m trong phát âm ti

ế

ng M

nh

ư

th

ế

này.

Trong m

t b

a ti

c v

i các sinh viên qu

c t

ế

, tôi nh

n ph

n ph

c v

n

ướ

c u

ng. G

p bà giáo ng

ườ

i M

đ

ng tu

i, tôi đ

ế

n chào l

ch s

và nói ki

u cách phát âm theo ki

u c

a ng

ườ

i Vi

t: "Good evening, Madam. May I have a

honour to serve you? Do you like my Coke?" (Chào bà, Tôi có th

hân h

nh ph

c v

quý bà. Bà có mu

n món Coke (Coca Cola)?). Bà này tr

n m

t nhìn tôi, ra v

ng

c nhiên, r

i l

c đ

u b

đi. Tôi băn khoăn ch

ng hi

u chuy

n gì? Hôm sau, tôi đánh b

o đ

ế

n h

i bà

: " I am sorry, yesterday I have found your strange look when hearing my invitation. Was there a wrong? " (Xin l

i, hôm qua tôi th

y bà nhìn tôi kỳ l

khi nghe l

i m

i c

a tôi. Có đi

u gì không

n v

y?). Bà giáo m

m c

ườ

i đ

l

ượ

ng: "Yes, I had misunderstood

yours. Today I just find out that your pronunciation is not correct. You said "Coke" not sound like "Coke" but "Cock". "Cock is a male chicken but it also has a dirty meaning else. You should be careful when saying this word to a lady". Vâng, tôi đã hi

u

l

m anh. Hôm nay, tôi m

i hi

u ra là anh phát âm không đúng. Anh nói ch

"Coke" mà không gi

ng "Coke" mà thành "Cock". Cock là con gà tr

ng nh

ư

ng nó cũng có m

t nghĩa khác x

u. Anh ph

i c

n th

n khi nói t

này v

i m

t ph

n

).

Johnson "g

g

t":

- Hi hi hi... Anh b

ạn người Việt dẫn tôi đến thăm nhà,đến trước ngôi nhà của mìnhanh nói:"Đây là nhà tôi, mời ông vào chơi",gặp vợ anh ta ra đón trước cửa, anh ta giới thiệu:"Đây là nhà tôi, mời ông vào chơi". Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi và bước vào nhà, nhà anh ta thật đẹp (vợ anh ta cũng vậy !). Tôi tỏ ra lịch sự nên khen chủ nhà và nói: "Nhà anh và nhà anh thật đẹp". Hai vợ chồng nhìn nhau cười. Vì đi lâu ngoài đường, lại không có WC công cộng, nên tôi hỏi anh chủ nhà "Xin anh cho tôi vào cái chỗ đi toilet của nhà ông được không?" Hi hi hi... lúc đó tôi không nghĩ đến cái sự buồn cười của câu này, hôm sau nghĩ lại tôi mới thấy.

Tôi c

ườ

i to k

ti

ế

p:

- L

n đ

u tiên sang Châu Âu cách đây 10 năm, tôi quen m

t cô sinh viên Hà Lan. Chúng tôi

nói chuy

n v

i nhau b

ng ti

ế

ng Anh. Cô r

tôi ra bãi bi

n n

m ph

ơ

i n

ng và nói chuy

n. Hôm đó, tôi ch

ng đem theo cái gì đ

tr

i xu

ng bãi cát đ

n

m c

. Ng

i ph

ơ

i n

ng nh

ư

th

ế

m

t h

i, thì cô m

m c

ườ

i: "Oh, never mind. You can lie down at my top" (

, khôn

g sao. Anh có th

n

m trên cái t

op c

a tôi). Ti

ế

ng Anh c

a tôi cũng ch

ng gi

i gì nên ch

ng hi

u là n

m trên top là n

m

đâu? Tôi ch

bi

ế

t top có nghĩa là đ

nh, là

trên. V

y n

m

trên là n

m đâu? N

m trên đ

u thì ch

c là không đúng r

i, ai l

i n

m trên

đ

u mà nói chuy

n v

i ph

n

. Ch

ng l

n

m trên... mình cô này? H

i lúc tr

ướ

c đi Tây, tôi nghe nhi

u th

ng b

n nói nhau r

ng: ph

n

Tây nó... Tây l

m, thích thì s

n sàng... chi

u! "Tình cho không bi

ế

u không" mà. V

y là... l

nào ??? Nghĩ t

i đây, thì th

y cô này c

i áo khoác ra, tr

i d

ướ

i bãi cát và ch

tôi n

m trên đó. T

i đó, v

đ

ế

n nhà, tôi l

ng l

l

t t

đi

n Anh - Vi

t ra xem, m

i bi

ế

t thêm là top còn có nghĩa là cái áo khoác ngoài c

a ph

n

. Tr

i

ơ

i !

Johnson v

vai tôi:

- Chút xíu n

ữa bạn bị.... hố to rồi. Ha ha ha... Năm ngoái, tôi có đến thăm miệt vườn Nam bộ, tôi có nghe một câu thế này mà lúc đó chẳng thế nào hiểu được: "Hôm qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Hôm nay, qua hổng nói qua mà qua lại qua".......

Câu chuy

n c

a chúng tôi còn d

ài. Chia tay v

i Johnson t

i nhà ga Hu

ế

. L

ng th

ng d

c sát theo con đ

ườ

ng v

ch

Đông Ba, trong đ

u còn v

ươ

ng v

n nh

ng câu chuy

n r

c r

i ti

ế

ng Vi

t v

i Johnson, ông già ch

y xích lô l

o đ

o theo sau:

- "Ôn đi v

mô khôn hè?"

Tôi g

ật đầu bước lên chiếc xe cũ rích, buộc miệng hỏi:

- Có ti

m sách nào g

n đây nh

t không Bác? Tôi mu

n mua m

t quy

n T

đi

n Ti

ế

ng Vi

t. Tôi b

t ch

t nh

ra r

ng trong t

sách gia đình c

a tôi, có đ

lo

i t

đi

n các n

ướ

c, nh

ư

ng ch

ư

a h

có m

t quy

n T

đi

n Ti

ế

ng Vi

t nào

.

Những đứa con tật nguyền

Hắn vắt chân chữ ngũ nhìn ra dòng nước đục ngầu nghẹn tắc bởi những chai lọ, bao ni lông trôi nổi phập phều. Nước ói, mọi thứ rác rưởi mà con người thải ra trôi về dưới hói Hạ, duềnh lên bám lấy các chân cột chòi. Cái chòi của hắn như một vọng gác tiền tiêu, giám sát thuyền bè qua lại trước khi xuôi về phố thị. Hai nhánh sông chảy qua làng hắn tạo nên cồn bãi. Làng hắn nằm trong diện "vùng bãi ngang đặc biệt khó khăn". Một cái làng mà có đến những ba cồn, chín xóm. Không ít các loại gỗ mun, gỗ sưa được các đầu nậu cất giấu ở ba cồn trước khi về thị trấn để vượt biển sang Trung Quốc. Thị trấn như một cái dạ dày khổng lồ chứa đủ các loại hàng hóa trong Nam, ngoài Bắc.

Với tay lấy chai rượu Bàu Đá dựng ở chân giường, hắn tợp một ngụm rồi ăn ngấu nghiến cơm nguội chan với nước thịt chó. Lúc đói, hắn nghiệm ra chỉ có cơm nguội ăn với thịt chó là ngon nhất. Hắn lại tợp một ngụm nữa. Uống để "xối bùn". Hắn thấy lâng lâng. Lúc phê thuốc, hắn trở thành thi sĩ. Hắn ngật ngà, ngâm nga: "Ta ước sông Nan biến thành dòng sông rượu. Minh Trạch, Hòa Giang thành trang trại nuôi cầy. Minh Thủy, Cồn Ngâm thành nông trường trồng mơ, riềng, sã. Ta hóa thành thơ. Nghĩa địa. Say!". Vâng! Hắn đang say. Hắn đang lơ mơ bay trên chín tầng mây.

Lại một con đò nữa đi qua. Có lẽ đò của người làng Văn Phú lên lấy nước. Ổ! Làm gì người đi lấy nước mà đông đến thế. Có đến những sáu người. 

Từ ngày người ta cố tình đuổi khéo hắn đi ra khỏi cánh đồng Miệu, hắn về đây trở thành ông chủ nghĩa địa. Hắn vùng vẫy giữa một vùng sông nước. Hắn chọn nơi đắc địa này để làm thủ lĩnh một băng trộm. Dù băng trộm không lớn nhưng cả huyện này ai cũng biết tên hắn.

                       *

Hắn vào tù vì tội hiếp dâm một người đàn bà câm. Hồi đó, hắn mới hai mươi lăm. Người đàn bà câm bằng tuổi của mẹ hắn. Trời sập tối. Hắn lượn lờ qua trước cửa nhà bà câm hai vòng. Không một bóng người qua lại. Mới đầu hôm mà bà câm đã khóa cổng. Bà sống lặng lẽ một mình. Bà chẳng biết trò chuyện cùng ai. Hồi trước, bà là một người phụ nữ đẹp nhất xóm. Bà gặp phải chuyện tình duyên trắc trở. Vì câm nên bị oan trái nhưng bà không tài nào thanh minh được. Hôn nhân đổ vỡ, bà đóng chặt luôn cánh cửa cuộc đời. Ban đầu, hắn định bụng vào bắt trộm mấy con gà Tam hoàng về bán cho quán cơm gà ở trên ga. Leo qua bờ tường trước cổng, hắn ung dung đi thẳng về phía nhà bếp. Vừa bước đến góc sân, hắn nghe tiếng dội nước ào ào. Bà câm đang tắm. Qua khe cửa, một vệt ánh sáng điện trong nhà tắm hắt ra vườn ổi. Trong vườn ổi là khu chuồng trại chăn nuôi nối liền với chái bếp. Hắn rón rén đi theo vệt sáng ra phía sau vườn. Vườn ổi có hàng rào xây bao quanh cẩn thận. Đây rồi. Hắn yên chí bật đèn chiếc điện thoại di động, mở chốt cánh cổng làm bằng tấm liếp tre.

Hắn giật mình. Một tàu cau rơi. Vườn cây xao xác gió. Bầy vịt vỗ cánh loạn xạ, có tiếng con ngan đực kêu khào khào, tiếng gà cắn nhau quang quác. Nhấc được tấm phên tre lên, hắn lao thẳng về dãy chuồng. Bỗng khắp vườn cây vang động. Tiếng loảng xoảng, leng keng, loong coong vang lên rộn rã. Hoảng quá, hắn chạy vòng quanh. Nhưng chạy đến đâu tiếng báo động của những lon bia, thùng sắt tây càng chạy theo, cấp tập. Những âm thanh náo nức báo hiệu kẻ trộm đã vào vườn cây. Các sợi dây báo động quấn lấy chân cẳng hắn. Hắn càng giãy tiếng động càng to. Bà câm đã cẩn thận chăng các sợi dây cước từ gốc cây này sang gốc cây khác.

Cửa nhà tắm bật mở. Bà câm trân trối ngó ra vườn ổi. Dưới ánh điện sáng rờ rỡ. nước chảy long tong theo mái tóc dài xuống tấm thân trần trắng toát. Ở cái tuổi bốn nhăm, bà như một bông hồng đang bung cánh ra hết cỡ. Hai bầu ngực căng đầy, đôi vai trần hơi xuôi, tròn lẳn, eo người "thắt đáy lưng ong". Hắn chết lặng đi. Đôi chân giò thon dài của bà câm doãi thẳng trên nền gạch hoa mềm mại. Từ cha sinh mẹ đẻ hắn chưa bao giờ thấy một bức tranh khỏa thân nào đẹp mê hồn đến thế. Nỗi khát khao thèm thuồng chiếm đoạt cồn cào. Hắn xộc về phía nhà tắm.

Bà câm nhưng không điếc. Bà đã nghe tiếng báo động. Bà ú ớ la không thành tiếng. Nhanh như sóc, hắn lao tới, lấy bàn tay bịt chặt mồm bà. Bà vùng vẫy nhưng không tài nào thoát ra khỏi hai cánh tay cứng như sắt thành hai gọng kìm thít lấy lưng bà. Thằng này mặt xoắt lưỡi cày, người nhỏ thó, thấp lùn như cái nấm. Hắn đứng chỉ mới chấm ngang vai bà nhưng không hiểu sao nhanh và khỏe đến thế. Đã có lần hắn nhận cả hai người đàn ông xóm Tây xuống Bàu nước rồi xách lồng gà chạy trốn. Hai người theo dõi hắn suốt đêm nhưng không tài nào chộp được. Họ chỉ còn nước đến báo với Công an xã. Chẳng có tang chứng, vật chứng - Hòa cả làng - Hắn thoát. Bây giờ thì hắn đã nhớ ra là bà câm không thể nào la được. Hắn chụp lấy hai cánh tay bà giang rộng ra giữa nền nhà tắm. Hắn cào, hắn cấu, hắn cắn, mút chùn chụt. Hắn hùng hục như một con trâu điên. Xong việc, hắn hả hê bước ra vườn ổi. Trước lúc đi hắn còn ngoảnh mặt lại nhìn bà, cười ranh mãnh.

Bà câm nằm thở dài thườn thượt. Cuộc vật lộn khiến bà mệt nhoài. Bà đau rát mình mẩy. Bà sực tỉnh khi nghe tiếng gà kêu quang quác. Hắn đang ung dung xách bì gà vịt ra cổng như ở chỗ không người. Bà lồm cồm bò dậy, vớ ngay lấy cái chổi dùng để kì cọ nhà tắm rượt theo. Cái cán chổi của bà làm bằng thanh inốc dài hơn một mét. Hắn vừa mới nhoài người lên bờ tường để bay ra ngoài đường là bà phang tới tấp. Hắn buông tay thả cái bì trở lại rồi ôm đầu chạy. Sáng hôm sau bà câm cầm chiếc chìa khóa xe máy hắn đánh rơi trong nhà tắm đến trình với Ban Công an xã. Bà dắt tay trưởng Công an xã đến chỉ vào nhà hắn. Họ tra chìa khóa vào xe, máy nổ. Đúng. Hắn nhận, nhưng vẫn cứ bù lu bù loa là kẻ nào đó đã ăn trộm của hắn đến vứt ở nhà bà câm để vu oan giá họa. Mấy Công an viên bắt hắn cởi trần ra. Hai cán chổi còn in tím bầm trên lưng, ăn sang cả bả vai. Một cái bướu to bằng trái ổi dưới đầu tóc bờm xờm của hắn. Chẳng cần tra hỏi nhiều, hắn xin khai hết. Hắn vào trại giam bóc lịch mất năm năm vì tội hiếp dâm.

Ra tù, hắn lấy vợ. Vợ hắn là em thằng bạn tù ân xá cùng đợt. Cha mẹ hắn cho ra ở riêng trên mảnh đất trồng rau sau cánh đồng Miệu. Phương châm sống của hắn là tiền. Hắn đã ngửi thấy mùi tiền trên cánh đồng hợp tác. Hai vợ chồng hắn chẳng chịu đi  làm. Hắn tập cho con vợ ban ngày ra đồng quan sát những thửa ruộng tốt để ban đêm ăn trộm. Mùa nào hắn cũng tìm ra những thứ để ăn, để bán. Khi thì mấy bì ngô, một gánh su hào, bắp cải hay vài ba bì ớt. Có khi chúng ra đồng bứt dây lang rồi gánh xuống chợ bán cho người ta nuôi lợn. Vợ chồng hắn còn đến ăn trộm cả ở những đồng đất xa xôi của các xã khác. Hắn luôn mồm nói với vợ con: "Ba năm làm mùa không bằng một đêm ăn trộm. Mình mà chỉ ăn trộm những thứ dưới năm trăm ngàn đồng thôi là không bị truy tố". Trong một đêm mà chưa ăn trộm được thứ gì thì hắn bứt rứt không sao chịu được. Hắn bắt trâu người ta ra buộc ngoài cánh đồng Miệu chờ đêm đến dắt đi lò mổ thì bị phát hiện. Công an bắt giam hắn như bắt cóc bỏ đĩa. Hết đợt này đến đợt khác, xong tù giam lại cho hưởng án treo.   

Từ ngày tụ tập được những thanh niên bất hảo, băng nhóm hắn mở rộng phạm vi hoạt động ra các xã ngoài. Cái khát vọng ăn không ngồi rồi mà có tiền có bạc của hắn không chỉ dừng lại trên đồng ruộng. Hắn đã tổ chức cho đồng bọn ăn trộm những dụng cụ đắt tiền, từ tivi, tủ lạnh đến xe máy. Có khi hắn tháo cả đòn tay, rầm tra (rầm tra là các tấm ván lát trên sàn nhà gỗ miền Trung để tránh lũ) của những ngôi nhà vắng chủ về ngâm dưới ao, chờ gỗ đổi màu thì kéo lên bán rẻ cho các xưởng mộc.

Trong xóm hắn đêm nào cũng có nhà bị mất trộm, đặc biệt là những ngày giáp Tết. Ai mất cái gì cứ đến nhà hắn tìm là có. Công an huyện lấy xóm hắn tổ chức "Hội nghị toàn dân tố giác tội phạm". Nhiều người muốn tố giác lắm nhưng lại sợ bị trả thù. Cả Công an viên trong xóm cũng phải "kiêng nể" hắn. Băng của hắn có bao nhiêu thằng ai mà biết được. Từ nhà ga đến các bãi chợ, bến đò... Hầu hết các quán thịt chó trong vùng đều do hắn cung cấp. Chúng mà nghỉ trộm, có nhiều kẻ bị sập tiệm. Ban ngày chúng phóng xe đi khắp nơi trinh sát, đêm đến kéo nhau thành từng bầy. Xe máy chúng đục thủng ống pô để tiếng nổ to hơn. Tiếng rú rít của động cơ như tiếng máy bay "thần sấm" Mỹ. Nghe tiếng rú của động cơ, con chó nhà nào vô phúc xông ra sủa là thằng ngồi sau xe tung lên sợi dây phanh tròng lấy cổ, thằng đằng trước kéo hết ga lôi chó đến chỗ vắng vẻ cho vào trong rọ sắt. Cho đến một ngày hắn được Ủy ban nhân dân xã đem sang coi sóc khu nghĩa địa Đồng Xoài bên kia sông. "Nhất cử lưỡng tiện". Lăng mộ không bị trâu bò của làng Cồn Ngâm mài phá mà xã loại bớt được một phần tử ung nhọt, thêm được một tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Nhưng họ đã nhầm to. Nơi vắng vẻ này là nơi an toàn nhất. Hắn trang bị kìm cộng lực, súng bắn chó bằng xung điện cho đàn em.

                         *

Hắn vừa đi vừa nghĩ cho đến khi đứng sát con đò cắm bên giếng Vọt. Chiều hè, những sợi nắng vàng lung linh trên bến nước. Chiếc đò được buộc vào gốc cây bứa nằm thẻo lẻo bên bờ sông dập dềnh theo ngọn sóng. Hắn ngó vào trong. "Mới đến đó đã đi đâu mất tiêu rồi. Sao trên đò không thấy một cái thùng phuy nước nào thế nhỉ? Nếu người đến chở nước đi bán thì họ có cả chục thùng phuy" - Hắn nhìn con đò phân vân. "Đây không phải là đò chở nước. Chẳng nhẽ người ta thuê đò này đến đây để tham quan hay sao. Hay người ta đến bốc mộ bảy liệt sĩ trên đồi thông về nghĩa trang của xã".

Hắn nhảy xuống. Đây là một con đò dùng để chở đá sỏi của dân xóm Nam. Hắn thấy chẳng có thứ gì đáng giá ngoại trừ tháo cái máy đẩy Đông Phong. Hắn biết rất rõ con đò này trước đây là của cha con thằng cu Chạt. Từ ngày cu Chạt đi học vắng, bố nó bán đi để mua máy cày làm đất. Hai năm không thi đỗ đại học, Chạt với thằng con trai hắn dùng chiếc đò này chở lũ học sinh bỏ học trộm gà vịt về đây ăn nhậu. Thằng con trai của hắn đã tập hợp được những đứa con mồ côi hay gia đình cha mẹ bất hòa, li dị lại để hắn huấn luyện thành những "anh hùng hảo hớn". Chúng học đòi 108 anh hùng Lương Sơn Bạc cắt máu ăn thề. Hắn sai con trai hắn với thằng Chạt lên xóm Hà ăn trộm một con dê về xẻ thịt làm lễ tế trời.

Trầy trật hai năm con hắn cũng thi đỗ trung cấp, thằng cu Chạt đỗ cao đẳng. Rời dòng sông cáu bẩn, tật nguyền, hai đứa vào thành phố. Chúng vẫn không thể nào quên được mùi thịt chó nấu với lá sả, lá tắt ở cái chòi nghĩa địa. Chạt trở thành trợ thủ đắc lực của hắn trong xóm trọ sinh viên. Hai đứa chỉ huy đồng bọn ban đêm lấy đồ đạc bạn bè đưa ra ngoài phòng trọ để chuyền đi nơi khác. Đồ ăn trộm chủ yếu là máy vi tính xách tay hay các xe máy chúng lấy được chìa khóa. Có khi hắn đích thân vào thành phố "thăm con" rồi lấy về bán ở làng. Hàng tháng hắn cho Chạt ứng tiền tiêu xài nhưng về hè, về Tết phải lo đi ăn trộm chó để bù lại.

Hè năm ngoái, Chạt và thằng con hắn đi nhập chó trong thành phố. Đến một khu nhà ba tầng, có mấy chậu hoa bài trí rất đẹp trước tiền sảnh, chúng thèm thuồng nhìn những chậu hoa. Có lẽ đây là một khu chung cư hay một cơ quan nào đó trong thành phố. Ánh sáng màu vàng dìu dịu buông xuống từ ngọn đèn cao áp trước cổng càng tôn thêm vẻ đẹp của khu nhà. Thấy một thằng bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng nói chuyện với một đứa bé gái phía trong cổng sắt, thằng Chạt vỗ vai con trai hắn chỉ vào thằng bé. Nhìn quanh quất chẳng thấy ai, thằng Chạt nhảy xuống  bịt mồm thằng bé bốc lên xe. Đứa con gái la thất thanh. Mấy người trong khu nhà luống cuống trở tay không kịp. Đến khi họ mở được cổng lên xe máy thì không biết bọn chúng chạy hướng nào nữa. Chúng chở thằng bé đến một ngôi nhà hoang trong cánh rừng ở ngoại ô. Nhận được tin báo, Công an thành phố và bố mẹ thằng bé cho người đi tìm khắp nơi.

Suốt đêm thằng bé gào thét khản cổ họng trong căn nhà hoang vắng. Gào thét chán, nó quờ quạng được một que sắt cạy dây đồng buộc cửa phía bên ngoài. Thằng bé chạy đến chợ Ga thì gặp được một bà cụ. Bà đem nó đến Công an thành phố. Đứa bé đã chỉ cho Công an biết nơi bị nhốt. Kế hoạch tống tiền bị thất bại. Đứa bé gái đã nhận được biển số xe máy của thằng Chạt. Chúng bị rượt đuổi phải chạy ra rừng phi lao ngoài biển vùi biển số xuống bãi cát. May mà biển giả. Hắn hú vía. Người ta mà bắt được thì chắc chắn thằng con hắn sẽ bị đánh chết. Hồi đó có tin đồn là bọn xấu bắt cóc trẻ con bán nội tạng cho người nước ngoài. Ít nhất là thầy trò, cha con hắn một lần tránh được trại giam.

…Vượt qua khu nghĩa địa Đồng Xoài, hắn trèo lên rừng thông. Rừng thông trên mười năm tuổi đã khép tán xanh um. Tiếng gió reo vi vút như tiếng sáo. Dàn đồng ca mùa hạ với giai âm êm ái ngọt ngào. Từ ngày hợp tác xã chuyển đổi thành thôn, rừng thông được giao khoán cho cá nhân, không một người nào được phép vào rừng thông hái củi. Một lớp lá thông khô rơi xuống mềm như lụa, như nhung phủ kín lối đi. Hôm nay thế nào hắn cũng có một khoản kha khá thu được từ những "khách du lịch" không vé. Từ nay ai mà đã bước qua nghĩa địa Đồng Xoài là phải cống tiền cho hắn.

Lên đến ngôi mộ chôn chung 7 liệt sĩ, hắn vẫn không thấy sáu người lúc nãy ở đâu. Hay mấy người vào tham quan vực suối Bụt. Vực suối Bụt là một thắng cảnh có một không hai của xã hắn. Vực nằm trên sườn núi. Phía trên có đền thờ Cao Các Mạc Sơn. Con suối Bụt chảy róc rách suốt ngày đêm cung cấp nước cho vực không bao giờ cạn. Ai cũng nói vực này không đáy. Mùa hè, trời nắng chang chang nhưng ngồi trên các dàn đá, nép mình dưới tán cây mát lạnh người. Có khi, có cả những con cá chình nặng hơn chục kí theo dòng suối lóc khỏi mặt nước lên trên khô tìm chỗ phơi mình dưới ánh nắng mặt trời. Hàng năm, về mùa hè học sinh cuối cấp thường chèo đò kéo nhau vào đây để tham quan, nghỉ mát. Từ ngày có một học sinh lớp mười chết đuối  dưới vực không ai đến nữa.

- Dô! Một hai ba dô dô dô! Hai ba… dô dô dô… - Tiếng "dô dô" vang lên uôm uôm trong hang Đá Đứng làm hắn đứng khựng lại. Hắn không lên suối Bụt nữa. Họ đang ở trong hang hòn Đá Đứng. Đến sát cửa hang hắn mới nghe rõ tiếng phụ nữ nói cười ngặt nghẽo. Trong hang có sáu ngọn nến thắp sáng trên mấy hòn đá to. Bóng họ lắt lay, chập chờn trên vách đá như ma quái. Ba cặp tình nhân trần truồng như nhộng đang ôm eo nhau uốn éo theo tiếng nhạc xập xình phát ra từ một băng cát sét. Hắn thích chí lắm. Hắn đã chộp được một pha "nóng hết sảy" cho vào điện thoại di động. Nhìn kĩ, hắn biết chắc chắn là ba người phụ nữ trong xóm hắn. Mấy phụ nữ đang khát tiền, khát cả tình khi chồng con đi vắng.

Thời gian nông nhàn, đàn bà, con gái làng này không có việc làm kéo nhau vào Nam hái cà phê hay làm ôsin cho những gia đình giàu có trong thành phố. Một số người có nhan sắc thì kinh doanh "vốn tự có". Đêm đêm có những bạn tình đến tận nhà rước đi "hát karaoke". Ngày nay việc làm nông khỏe như ru. Cả mùa chỉ tất bật mất khoảng chục ngày. Những người đàn ông lam lũ quê mùa, hết mùa cày bừa gieo vãi là lao vào rú tìm trầm. Sốt rét, bệnh tật làm cho họ đen điu, nhếch nhác. Họ làm sao địch nổi những người đàn ông béo tốt mỡ màng kia. Hắn quay camera cho đến khi điện thoại hết pin.

Trời sẫm tối. Hắn chặn mấy người đàn ông lại trước bến xin tiền. Một người tóc xoăn, da ngăm đen nhe cái hàm răng trắng nhỡn, hô như cái chái bếp lợp bằng mấy tấm phibrô xi măng không đều ra cười hô hố:

- Mày đến trấn lột bọn tao chắc. Đi giữ nghĩa địa mà cũng vênh váo giở trò xin đểu.

Hắn chìa chiếc điện thoại di động ra:

- Này! Đừng khinh thằng này nhé. Các người làm gì trong hang thằng này biết cả. Thu cả vào đây rồi này. Có âm thanh hẳn hoi - Hắn lại cười toe toét.

Người đàn ông nhìn cái thằng nhỏ loắt choắt như con chuột nhắt đang trêu ngươi mình thì không chịu được. Ông ta vung nắm đấm lên nhưng hắn nhanh hơn tránh được. Hắn ra miếng đòn thấp, lao đầu vào giữa bụng ông ta rồi co tay thoi cho một chưởng, trúng bộ hạ. Người đàn ông la lên oai oái. Ông ta bị mất đà ngã sấp xuống trước bến. Người đàn ông to béo thấp lùn thấy thế liền xông lại co chân đá hắn. Hắn lách người ôm lấy chân ông ta giật mạnh. Người đàn ông thứ hai cũng bị ngã nhào. Tức tối, ông ta lồm cồm bò dậy, lao vào thì trúng ngay hai quả song phi giữa mặt. Ông ta hự lên một tiếng rồi ngã gục.

Người đàn bà mập mạp, trắng trẻo nói với người đàn ông có bộ râu quai nón (có lẽ đó là "sếp"):

- Nhà hắn ở cách nhà em hơn trăm mét. Người ta gọi hắn là thằng Chuột. Thằng này khỏe lắm. Thôi thì các anh cho hắn vài ba triệu lấy lại cái điện thoại. Hắn mà tung ra mấy tấm hình này thì thật rắc rối với mấy thằng chồng của bọn em.

- Vài ba triệu bạc mà được à. Cái này bạc tỷ - Được đà, mặt hắn vênh lên.

Cuối cùng hắn cũng đòi cho được hai chục triệu. Mấy ông "sếp" ở thị trấn về làm đường bê tông ở làng hắn muốn "đổi gió", không biết ra đi bước chân nào trước mà bị hắn "ám" xui đến thế. Mấy ông thèm của lạ muốn hưởng chút hương sắc đồng quê. 

Ngày hôm sau về làng, nghe bọn đàn em báo có Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuân Sang về làm đường xây dựng nông thôn mới. Hắn phóng xe máy đi một lượt trên các trục đường mới ủi đất xong. Thì ra đây là công ty của mấy gã bị hắn trấn lột hôm trước.

Đến đoạn đường đang thi công, công nhân đã về nhà trọ ăn cơm trưa hết. Hai đống xi măng phủ bạt bên đường. Thấy một thanh niên dáng cao gầy, lẻo khoẻo trông coi vật liệu, hắn hất hàm:

- Này chú em. Cho anh xin mấy bao nhé.

Hắn gọi điện kéo cả bọn đàn em tới. Mỗi đứa ngang nhiên vác một bao. Cậu thanh niên la lớn:

- Sếp ơi! Cướp! Cướp! Cướp…! 

Hắn mắm môi, mắm lợi đến giật phắt chiếc điện thoại rồi xô cậu ta một cái. Cậu thanh niên tội nghiệp lăn đùng ra đường. Hắn giơ cao nắm đấm:

- Báo với sếp mày là ông đến giật nợ đấy.

Gã đàn ông da đen, tóc xoăn phóng xe máy đến. Gã đắng họng đứng như trời trồng khi thấy thằng Chuột hai tay chống nạnh nhìn gã chằm chằm. Gã không dám làm to chuyện. Gã là thằng em rể của giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuân Sang.

                       *

Một mùa xuân nữa lại đến. Trong mấy năm "mở cửa", cái làng của hắn ngật ngà say. Cuộc sống bình yên đã bị xáo trộn. Cơn lốc của nền kinh tế thị trường tác động sâu sắc đến làng quê bé nhỏ. Nhiều người trong làng giàu có lên nhanh chóng nhờ việc kinh doanh bất động sản. Hàng hóa, ngoại tệ của những gia đình có con em lao động xuất khẩu ở Hàn Quốc, Đài Loan… tấp nập gửi về. Người ta đua nhau mua đất đai trong thị trấn. Sòng bạc, nhà hàng nổi lên như nấm. Có nhà, tầng dưới hát karaoke còn tầng trên tổ chức đánh bạc. Những tệ nạn xã hội cũng đã kịp thời len lỏi đến những vùng nông thôn xa xôi. Nhà thằng Chuột phất lên chóng mặt. Cái chòi canh của nó là tụ điểm cung cấp ma túy cho cả vùng. Con trai hắn và thằng cu Chạt đã đem cái chất chết trắng về bán cho lũ thanh niên choai choai trong làng. Kim tiêm chúng vứt đầy nghĩa địa.

Đêm hai mươi tám Tết, hắn nhận được một cú điện thoại từ số máy con hắn gọi về. Người ta báo, con trai hắn với thằng cu Chạt bị tai nạn. Hai đứa đi xe máy bị phê thuốc. Con hắn đập đầu xuống thanh chắn giữa hai làn xe. Hắn tức tốc bắt tắc xi vào bệnh viện thành phố. Đến sáng hôm sau thì con hắn chết. Bệnh viện cho biết nồng độ ma túy trong máu quá cao. Họ hỏi ý kiến hắn để mổ tử thi. Chị họ của hắn bán thịt chó ở trên ga bàn: "Trước sau nó cũng đã chết rồi, mổ xẻ làm gì nữa cho tốn kém. Tôi chỉ tiếc nó chết đi, tôi mất đi những con chó béo".

Tối đến, khi khâm liệm, người ta phát hiện đằng sau lưng con hắn có hai vết tím bầm to bằng hai ống tuýp xe đạp đập vào. Bố thằng Chạt thầm thì: "Có lẽ hai đứa đi ăn trộm, bị người ta đánh".  Hắn mừng rỡ reo lên:

- Đúng! Phải chụp ảnh lại ngay. Làm gì ngã xe mà sau lưng có vết sẹo nằm ngang. Đây là vết thương bị người ta đánh. Phải làm cho ra vụ này. Thế nào bọn mình cũng kiếm thêm được dăm ba chục triệu bạc

Một trăm một chén nước trà

Trà nóng một trăm đồng một chén, trà đá thì hai trăm đồng.

Lúc ấy trời còn đang trong mùa lạnh, chỉ có trà nóng là bán được. Mẹ cứ gặp gió lạnh là nôn khan, hắn ngồi bán hàng thay cho mẹ. Giờ nhà chỉ còn hai mẹ con và quán nước chè của mẹ là kế sinh nhai.

Hắn mới ra tù, sau nhiều năm trong trại cải tạo trở về cuộc sống bên ngoài còn nhiều bỡ ngỡ. Hôm đầu tiên hắn nhìn đường phố kêu sao chật thế. Mẹ cười bảo anh đi đến anh về nhà vẫn từng ấy mét, phố xá vẫn từng ấy thước, mất đi đâu mà kêu bé. Hắn phì cười, ừ nhỉ, chẳng qua mấy năm ở trên ruộng đồng, núi non rộng rãi sải bước chân quen rồi. Giờ đi mấy bước là đụng người, đụng vật bé là phải thôi. Còn nữa lúc ngủ chiều nghe tiếng kẻng đổ rác, hắn vùng dậy lao xuống giường, mẹ hỏi làm sao, hắn mới nhớ ra ở nhà mà cứ nghĩ tiếng kẻng báo thức ở trại giam. Tiếng kẻng mà bọn tù gọi là kẻng gọi hồn.

Mẹ đưa 5 nghìn bảo đi chợ, dặn 2 nghìn mua gạo, 2 nghìn mua thịt ba chỉ, 1 nghìn mua rau cải. Thịt ba chỉ luộc lấy nước để nấu rau cải, xong đem thịt rim cháy cạnh. Hắn nấu cơm xong ăn trước rồi ra trông hàng cho mẹ ăn, mẹ dặn:

- Trà nóng một trăm một chén, trà đá thì hai trăm, thuốc lá hai trăm một điếu con nhé.

Tối mẹ con ngồi ăn cơm, mẹ nói:

- Thôi anh mới về, cứ bán hàng với mẹ, rồi tìm công việc gì sau.

Hắn bán hàng cho mẹ, mua báo Rao Vặt đọc mục tìm việc, chỗ đòi có xe máy, chỗ đòi có tay nghề. Hắn chỉ tìm được mục bảo vệ, đưa hàng (không cần có xe). Sáng mẹ cho hai nghìn ăn sáng, uống nước hắn mượn xe đạp hàng xóm đạp xe đến nơi xin việc. Hóa ra đều là văn phòng giới thiệu việc làm. Họ nói phải nộp 50 nghìn lệ phí.

8 tờ năm nghìn, 5 tờ 2 nghìn, mẹ vuốt từng tờ thật phẳng kẹp gáy thành từng chục nghìn một. Hai tờ năm nghìn tờ nọ kẹp gáy tờ kia, một tờ 2 nghìn kẹp gáy 4 tờ còn lại. Đếm trong xong rồi đếm gáy, đủ 5 gáy tiền là đủ năm chục nghìn. Mẹ bảo cầm cẩn thận, anh là hay ẩu lắm, từng này là bao nhiêu chén nước trà của mẹ đấy anh biết không?

Hắn làm bảo vệ cho một công ty THHH, hắn chỉ nghe nói vậy, cái công ty ấy có cái xác nhà không, chả thấy ai làm việc. Hàng ngày hắn đến ngồi ở cái phòng có đúng cái ghế và bàn cũ mèm. Trưa mua cơm hàng ăn, chiều khóa cửa về. Mỗi sáng hắn đi làm, mẹ nhìn thương mến lắm, mẹ khoe mấy bà hàng xóm cháu nó có việc làm, nét mặt mẹ rạng ngời niềm vui. Được bốn ngày thì người chủ công ty dẫn một người đàn ông khác đến, bảo hắn trao chìa khóa, ông ấy nói hắn làm không hợp, cứ về rồi mai kia công ty hoạt động sẽ gọi đến làm chân đi đưa hàng.

Nghỉ nhà mãi cả tuần không ai gọi, mẹ bảo có khi họ không muốn anh làm họ đuổi khéo. Hắn mò đến chỗ nhà ấy, thấy có người ở, vào hỏi thi họ nói nhà này tôi mới mua được hai hôm, đang dọn đồ đến. Hắn hỏi công ty ấy người ta đi đâu, chủ nhà nói làm gì có công ty nào ở đây, nhà này tôi mua hai tháng nay, nhưng mới đặt tiền, hôm kia trao hết thì nhận chìa khóa người ta trao nhà là hoàn tất mua bán. Hắn quay lại văn phòng môi giới việc làm, hỏi sao lại thế, bên môi giới đưa nói họ chỉ biết giới thiệu việc làm và lấy phí,nào công đưa đi, công giới thiệu còn, đã có người nhận làm rồi, còn làm được hay không làm được thì là người làm với chủ thuê, làm sao họ biết được.

Hắn lại ở nhà bán nước chè giúp mẹ, một hôm có hai người khách vào nói chuyện, họ nói về mở văn phòng môi giới việc làm, nhà đất là ăn nhất. Khách mua nhà cứ đưa đến chỉ nhà là lấy 50 nghìn, mua hay không mặc kệ chủ nhà với nhau, ngày 3 khách là cũng có 150 nghìn. Rồi họ còn nói là ông kiếm nhà nào quen cứ giả vờ là muốn bán, khách dẫn đến đòi giá cao không mua được, những cứ có 50 nghìn dẫn đi chia cho nhà kia mấy chục là ngon. Ồ thì ra là lừa đảo à, hắn chợt nghĩ đến việc mình đi làm, hỏi ông khách. Ông khách bảo môi giới việc làm thì cứ côn ti nhê với đứa nào đó, giả vờ nhận thử việc vài ngày đến 1 tuần rồi bảo không hợp. Mình có tiền thu phí, còn đứa kia được có kẻ làm thuê dăm hôm không bị mất tiền trả lương là được. Đứa nào cãi được mình cơ chứ, mình làm chặt chẽ, đúng luật, ông mua nhà được hay không việc của ông, tôi chỉ lấy công 50 nghìn dẫn đi, mua cái nhà thì 50 nghìn bõ bèn gì. Phần xin việc thì tôi chỉ giới thiệu, đưa đi, bảo đảm đúng công việc thỏa thuận môi giới. Ông làm được không với người ta là do khả năng của ông, tôi sao mà biết được.

Hai ông khách trả 1 nghìn cho hai chén nước và hai điếu thuốc, không lấy tiền trả lại. Hắn cầm tờ một nghìn máu sôi sùng sục, răng nghiến chặt. Hắn từng chém người thuê, đòi nợ thuê được hàng trăm nghìn, miễn là đối tượng phải vào viện, có phải khâu thế là ngon tiền. Hắn biết chém vào đâu để đối tượng không chết, không di chứng hậu quả, nhát chém sâu từng nào đủ phải khâu, cứa dao thế nào để đủ khâu bao nhiêu mũi. Chém ở thời điểm nào, thoát thân ra sao…

Ề chề, cay đắng, hôm nay hắn bị người ta chém, chém bằng luật lệ chặt chẽ. Chém đúng vào cái lúc hắn muốn tìm công việc lao động chân tay, sống bằng mồ hôi, sức lực sau bao năm vác đá, trồng rau nắng mưa ở trại tù. Lúc mà hắn và mẹ bưng từng chén nước trà lấy được 100 đồng có cả vốn lẫn lãi, công sức vào đó. 50 nghìn là bao chén nước trè của mẹ. Lúc mà bao thằng bạn giang hồ đảo qua thì thầm rủ rê mối nọ, mối kia bị hắn bỏ ngoài tai…Hắn cay cái con ranh ở phòng môi giới việc. Địt mẹ con chó con, bố mày chém người lấy tiền, từng phạm pháp đi tù, giờ về thương mẹ muốn làm người lành cho mẹ già vui những ngày còn lại trong đời. Không phải túi nhỏ, to lỉnh kỉnh đi tiếp tế cho con những ngày hè đổ lửa hay mùa đông mua gió. Giờ những con chó như chúng mày lại chém cả tao lẫn mẹ tao lúc này. Cả đêm hắn không ngủ, chỉ mong sáng dắt dao đến hỏi tội con ranh xem chúng nó trả tiền lại không. Hắn nhớ lúc mẹ vuốt tiền đưa, lời mẹ như gửi hết hy vọng vào đó, một trăm một chén nước trà con ạ.

Mờ sáng hắn dậy đánh răng, rửa mặt. Phải đợi thêm chút nữa mới mượn được xe đạp, hắn bọc con dao vào mấy lượt giấy báo nhìn đồng hồ chờ. Tiếng đồng hồ tích tắc, trong khi nghe tiếng tíc tắc ấy hắn nghe thấy thấy tiếng mõ của mẹ trên gác. Hắn lên đứng ở cầu thang nghe tiếng mẹ lần cuối thế nào. Hắn xử xong bọn này sẽ đi theo bọn thằng Thắng, biết bao giờ còn nghe tiếng mẹ. Tiếng mẹ rì rầm…

- Nam mô quan thế âm Bồ Tát, Nam mô…con xin cho nam tử con là…tuổi Tân…năm nay sớm có được công ăn việc làm, sớm yên bề gia thất, con Nam Mô…phù hộ độ trì, con lạy Thánh…con lạy Mẫu…con lạy chín phương trời, mười phương Phật, con lạy…

Hắn gục đầu vào bậc thang, đi lên các bậc thang kia là mẹ già đang cầu nguyện, đi xuống là đến chỗ con ranh ở văn phòng môi giới việc làm. Một lúc sau hắn bừng tỉnh khi nghe tiếng động mẹ cất mõ, chuông. Hắn đi lên xin mẹ tiền mua báo Rao Vặt.

Mẹ cho 4 nghìn, bảo con ăn gì đó nhé, lâu rồi mấy khi anh dậy sớm để ăn sáng đâu.

Mùa xuân năm đó hắn xin được việc làm không mất phí. Người đàn ông tuyển người gắt với hắn:

- Tôi đăng báo là tuyển người có tay nghề cơ mà.

Hắn nhìn sâu vào đôi mắt của ông. Nói chậm từng tiếng:

- Em hứa với anh em sẽ biết nghề nhanh nhất, xin anh cho em được thử việc.

Không biết người đàn ông khó tính ấy đọc được gì trong mắt hắn, ông thở dài:

- Thôi tao cho mày thử một tuần.

Được 3 ngày, ông gọi hắn bảo:

- Giờ tháng đầu lương mày là 300 nghìn.

Ba tháng sau lương hắn được 800 nghìn. Lúc đưa tiền lương cho mẹ, mẹ bảo để dành rồi mẹ vay bát họ mua cho cái xe máy mà đi làm con ạ. Anh đi làm thế này là mẹ yên tâm, không lo còn dại dột như xưa nữa.

Bây giờ mẹ hắn không còn bán nước chè nữa, nhưng thứ nước mà hắn thích uống nhất trên đời này vẫn là trà mạn, thích nhất cái thứ uống rẻ tiền lúc đầu chan chát sau vị ngọt đọng trên miệng lâm râm.

Lần nọ trên đường phố của Châu Âu, hắn đi tìm mãi thứ nước ấy, sau người bạn đi cùng phải đưa hắn vào một quán ăn sang trọng. Hai thằng ăn hết gần 200 euro để được ấm trà tráng miệng nhạt toẹt. Hắn bảo bạn rằng:

- Tôi không xa quê hương được đâu ông ạ, tôi nghiện trà.

Bạn nói:

- Ở đây cũng có, tại ông muốn ngay, chứ mình tìm mua siêu thị thì cái gì bên Việt Nam có bên này cũng có, ở khu bán cho người Việt mình có hết, rau muống cũng có mà.

Hắn lắc đầu:

- Không, tôi thích quán trà ở vỉa hè, hay đầu ngõ, nơi có những chiếc ghế dài bằng gỗ bóng loáng vì ngồi nhiều, có mặt bàn gỗ xước tróc, có những chiếc cốc Bát Tràng, có một bà cụ già áo nâu bán hàng cơ, ở đây không có được như thế. Ngày xưa mẹ tôi cũng bán nước trà mạn đấy, hồi ấy có một trăm đồng một chén thôi. Tôi còn làm thơ về điều ấy là:

Một trăm một chén nước trà

Mẹ đong từng chén để mà nuôi con

Mừng thượng thọ

Đ

ế

n ngã Ba Đình làng, mùi th

t chó mang theo h

ươ

ng m

m tôm thoang tho

ng theo gió xuân làm át c

mùi n

ướ

c hoa Pháp trên c

áo c

T

ư

và nách bà B

n. Cái h

n h

p mùi quy

ế

n rũ này khi

ế

n tâm trí c

T

ư

không ngh

ng

i thêm đi

u gì xa h

ơ

n đ

ượ

c n

a. C

T

ư

bèn hân h

nh m

i bà B

n ghé vào quán th

t chó c

a th

ng con nhà c

Doanh đ

làm m

t ch

u đánh chén, cho quên b

t đi cái s

đ

i

.

- Chào C

!

- Con chào C

!

B

ước vào quán, cụ Tư đã thấy thằng Trí và con Thức mau mồm; hắn mời cụ Tư và bà Bản ngồi vào bàn cùng xơi các món thịt chó.

 Thi tho

ng, tên Doanh l

i đ

o m

t và d

nh tai

nghe lén chuy

n. C

T

ư

ch

t tr

m ngâm nh

ư

đ

c v

 th

ng Trí, r

ng trong lòng h

n đang thích con Camry đ

i 3.5, r

i c

nhìn sang con Th

c nói nh

ng l

i c

nh khóe

.

- Nhà Chung c

ư

giá ch

ng h

ơ

n 3 t

trên Th

đô đang đóng băng. C

ướ

i ch

ng nhanh nhanh lên, mua n

hà đi, k

o băng tan, là… đ

i héo đ

y, cháu

!

- D

…, chúng cháu b

m

y cái răng sâu, bán đ

ượ

c m

y ti

n ? – Con Th

c nói

.

C

ụ Tư liếc ngang, cố ý ghé tai thằng Trí nói khẽ những lời đủ cho cả con Thức cùng nghe. Cụ Đảng nhà mày đất rộng, đông con, nhiều cháu, không sẻ đất bán nhanh kẻo lúc xuống lỗ, con cháu lại tranh phần, kiện tụng liên miên, phiền hà, mất đoàn kết, rách việc lắm…

***

Đêm th

t khuya

Kim đ

ng h

ch

qua gi

Tý đ

ượ

c ba kh

c b

m phân, th

ng Trí v

n c

phá l

th

c tr

n tr

c m

ãi. H

n nghĩ mông

lung:

 - Quái l

ạ…, 82 tuổi rồi sao vẫn chưa thấy cha mình có biểu hiện chống gậy. Da dẻ vẫn hồng hào. Thường ngày, cụ Đảng không cần đeo kính lão vẫn say sưa đọc báo Đội Quân và Dân Nhân, nghiện thông tin nhồi sọ như thằng xì ke không bỏ bữa hút, hít ma túy nào.

Có hôm, th

ng Trí l

i th

y c

Đ

ng nhà mình ng

i trên gi

ườ

ng chong đèn c

nh

ư

m

t nhà tri

ế

t h

c, h

ế

t th

i m

t cách chân chính! C

c

m bút chì ngó nghiêng m

t cách tr

nh tr

ng, r

i g

ch g

ch, xóa xóa cái gì đó trên t

gi

y đã cũ

.

- Hay c

nhà mình đa

ng tính s

 lô, đ

? Hay c

nhà mình vi

ế

t di chúc ? Hay c

nhà mình làm th

ơ

? Hay c

nhà mình đang b

túc lý lu

n…

?

- Không th

là chuy

n b

nh ho

n đ

ượ

c

!

- …

- B

kh

…, đ

i oái oăm th

t

!

Cu Sướng ở Lục Đầu Giang

Nguyễn Văn Hoa

Rét Đại Hàn .

Ngoài đê Lục Đầu Giang, trên các ngọn cỏ may , cỏ cao thế mà cũng  còn dày đặc sương muối , Ai mà đụng chân vào thì tê buốt cả khớp chân . Tưởng như rụng từ mắt cá chân trở xuống bàn chân.

Mùa này cau đắt lắm. Cưới xin đang rộ . Lại sắp Tết Nguyên Đán. Cánh buôn trầu cau đi lùng sục từng vườn để tích trữ cau cho Tết. Họ thuộc  lòng từng cây cau của mỗi gia đình Xóm Bờ Sông này.

Nhưng quái cái là giống cau ở đây thì cao ngồng lên vượt nóc nhà , nóc bếp và bờ đê.Chỉ có trẻ con gan lỳ mới dám trèo lên bẻ cau.

Năm trước có đứa trẻ con nhà họ Vũ trèo lên hái cau, ngã lộn cổ xuống, mưay phúc cho nhà này, ngã đúng vào đống rơm. Thằng bé chỉ ngất đi rồi tỉnh.

Thế là năm sau cả cái Xóm Bến Sông này chết khiếp để cau chín vàng rụng đầy gốc. Mỗi cây cau là đống tiền đấy , cây thấp thì còn buộc liềm vào cái sào tre , rồi giật buồng cau xuống , còn cây cao vút , nghĩ thằng cu họ Vũ ngã . Ai chẳng rùng mình.Người sống là đống vàng.

Hôm nay rét quá , cu Sướng vẫn nằm co ro trong cái ổ rơm ở góc Nhà Bia của Đình làng. Nhà Bia có mái che . Phía Đông là hai cây đa cổ thụ. Quanh Đình là những hàng nhãn cổ thụ . Nên cũng khuất gió .

Cu Sướng , tên của Hắn. Đúng ra nó chẳng có tên tuổi gì cả. Nó một thằng điên , mất trí lạc đến xóm Bờ Sông này. Dân nghèo khổ quen mồm quen miệng rồi đặt cho nó cái tên là Cu Sướng.

Cô Lái Cau mồm nhai trầu , tay còn xỉa thuốc lào vào tận răng hàm, hàm răng ăn trầu thuốc của Cô , đen nhức. Cô tay chống nạnh đá chân trái , đúng ra là dùng ngón chân cái cù vào người của Sướng , Cu Sướng ngọ nguậy:

- Dậy đi nào, hôm nay trèo hái cau cho Cô , Cô cho tiền đây này!

Rồi Cô chìa cho Cu Sướng nắm xôi lạc còn bốc hơi nóng hổi.

Cu Sướng dụi mắt , hau háu nhìn vào gói xôi bốc khói, đón lấy gói xôi nóng hổi.Cu ngồi xổm dậy trong ổ rơm của mình.

Đón nắm xôi từ tay Cô, như­ giật lấy. Nó như nuốt chửng gói xôi, phồng mưang trợn mắt. Loáng một cái đã nuốt hết nắm xôi của Cô Buôn Cau. Liếm mép , xem chừng ch­ả thấm tháp gì. Đêm qua lạnh thế , ngấm vào da thịt Cu Sướng , nên thấy đói cào cấu cả ruột gan.

Cô lái Cau ngon ngọt:

- Nào ngoan nào , trèo cau cho Cô , trưa nay , Cô lại cho ăn cơm ...

Nói đến ăn, Cu Sướng tỉnh táo hẳn.

Nó vươn vai đứng dậy. 17 tuổi rồi , so với lứa tuổi nó thì nó hơi gầy gò . Nhưng nhờ trời ở cái tuồi

" bẻ gẫy sừng trâu", nên gân cơ của nó cũng vững chắc lắm.

Nó thất thểu theo Cô Lái Cau đi vào vườn nhà Cụ Đỗ . Nay là vườn nhiều cau nhất Xóm Bờ Sông. Hàng chục cây cau quả sai chíu chít. Nhà cụ neo người, con cháu đều đi thuyền đò dọc. Tiền nong bán cau với nhà cụ không bức thiết lắm . Thuyền bè qua đây nhìn hàng cau vút lên mặt đê , như những hàng lính tiêu binh nghiêm trang thẳng hàng tăm tắp.

Cô Lái Cau mau mắn:

- Thưa hai cụ , cháu đến xin mua cau của hai cụ đây ạ!

- Nhưng tôi già cả thế này thì trèo làm sao được - Cụ Đỗ chống gậy đi ra sân đón khách, nhẹ nhàng trả lời.

- Cháu đã nhờ thằng Cu Sướng trèo giúp đây ạ!

- Trời ơi, nó dở người như thế, nhỡ nó ngã xuống như thằng cu họ Vũ thì tội nghiệp!

Những cây thấp với Cu Sướng thì dễ ăn quá, loáng một cái những cây cau thấp đã bị Cu Sướng vặt xong.

- Thôi cho nó thở đã. Cụ bà b­ưng rổ khoai luộc ra mời Cô Lái Cau và Cu Sướng .

Cu Sướng ăn liền cả vỏ, ăn cả những sợi tơ ở vỏ. Chú ăn ngon lành không khách sáo.

Cụ ông rót mấy bát nước vối:

-  Này ăn từ từ thôi không nghẹn, uống nước đi đã.

Cu Sướng ngoan ngoãn nâng bát nước vối uống ừng ực. Nước vối bốc khói thế mà nó nuống  như uống nước mư­a. "Mồm miệng răng lợi của nó không chín nhũn ra à",Cụ Đỗ nghĩ mà th­ương.

Các cây cao, Cu Sướng cứ leo thoăn thoắt , dùng liềm cắt cả buồng , rồi buộc vào dây thừng ,nó quặt hai chân thật chặt vào cây cau , thả buồng cau xuống cho Cô Lái Cau .

Vườn cau Cụ Đỗ, nhờ Cu Sướng trèo giúp nên đã tận thu.

Hai cụ thở phào nhẹ nhõm, sau khi Cu Sướng chạm gốc cây cau cuối cùng ở gần bể nước mưa ở phía Bắc nhà.

Sau khi nhận tiền cau, ông bà còn trút cả rổ khoai luộc vào vạt áo cho Cu Sướng. Thế là cái đói cồn cào của nó ngày hôm nay đã hết.

Cô Lái Cau nhờ Cu Sướng, nên cả cái vùng Lục Đầu Giang này, cây cau nào cao nhất đều có bóng dáng hai người cập kè bên nhau.

Suốt dọc bờ đê này, nếu thấy Cô Lái Cau đi kèm với Cu Sướng, lúc kẻ trước, lúc người sau, lúc sớm, lúc khuya , là dân vùng này biết ngay đôi này lại đi mua cau ở những nhà có những cây cau cao ngồng vượt nóc nhà, vượt nóc bếp và vượt cả bờ đê.

+

+  +

Cu Sướng cần cho những nhà trồng cau và cũng cần cho những người buôn cau. Và Cu Sướng còn cần cho mọi nhà. Có con chuột chết , có con chó chết , có con mèo chết thậm chí có con lợn bị bệnh nghệ chết, nhà nhà đều nhờ Cu Sướng cầm tay không

" thuỷ táng

" chúng sinh tội nghiệp , hoá kiếp cho chúng sinh này, Cu Sướng ném tõm xuống sông Lục Đầu.

Việc gì bẩn thỉu nhất ở xóm Bờ Sông này, đều có mặt của Cu Sướng.

Thậm chí việc thiêng liêng như bốc mộ , người ta cũng nhờ Cu S­ướng. Được cái khoản bốc mộ thì Cu Sướng làm cẩn thận nhất vùng. Gia chủ nhờ không sợ sót chiếc răng nào hoặc đốt ngón chân ngón tay nào. Hoặc giả gia chủ sợ mang tiếng với làng xóm tự bốc mả lấy , như­ng dù xong rồi , trước khi lấp đất hoàn thổ chỗ mộ cũ , gia chủ vẫn nhờ Cu Sướng xuống " lần mò" xem còn sót cái gì không. Có hôm Cu Sướng còn mò đựơc cả cái rằng vàng , chủ nhà hàm ơn lắm. Nếu không các cụ đau răng  báo mộng về lại đòi răng thì biết đâu mà tìm .

Do vậy Cu Sướng lại nổi tiếng ở vùng Lục Đầu Giang về khoản bốc mộ.

Và thế là cái ăn của Cu Sướng đâu có thiếu, nhất là vào mùa khô giáp Tết, rét như cắt gân, Cu S­ướng cũng không quản ngại từ gà gáy đã bì bõm lội bốc mộ . Rét "

co cả vòi

" lại . rét quá Cu Sướng cũng chỉ dám xin chập 2-3 miếng trầu vào nhai , nuốt ực cả nước vôi , nóng rực hoa cả mắt, lại bì bõm mò từng đốt x­ương tay ...

Cũng lạ tiếp xúc với bẩn thỉu thế, cả "thuỷ táng

"chuột chết thế ,mà nó vẫn cứ khoẻ như thư­ờng. Ai cũng sợ nhiếm dịch hạch, nó thì chẳng biết sợ là gì.

Nó thì không bị đói , vì khẩu truyền Xóm Bờ Sông này phái có người ngớ ngẩn l­ưu trú thì nó gánh cho cả Xóm mọi tai ách bệnh tật. Do vậy cả Xóm cứ nhòm nhau mà nuôi nó . Nhà này nuôi hôm nay thì nhà khác nuôi ngày mai. Nhưng nhìn cảnh nó bới đống lá bánh chư­ng ở chợ nó liếm, nó mút mát. Thì ai cũng rùng mình. Nhưng nó bụng dạ chẳng làm sao cả. Người th­ường mà ăn rác chợ thì " Tào Tháo " đuổi cho không kịp ngáp.

Cu Sướng đúng là mình đồng da sắt !

+

+ +

Nhiều đêm Cu Sướng thất thểu đầu làng cuối xóm. Bọm trộm vặt con gà con qué thấy bóng Cu Sướng từ xa là mất vía. Chó cả làng quen mùi của Cu S­ướng , đêm mà thấy bóng Cu Sướng chỉ ­ ử nhè nhẹ rồi vẫy đuôi. Nhờ thế dù Xóm Bờ Sông  thuận lợi cho bọm trộm cắp , thế mà nhờ vía Cu S­ướng, trộm cắp bạt hết sang các xóm khác.

Xóm này, một năm có hàng chục cái giỗ, đám ma , đám cư­ới . Cu Sướng  đều là khách danh dự. Nếu hôm ấy mà có nhiều đám, Cu Sướng cũng hóm ra phết, nó đi ăn cỗ đám ma, chứ không đi dự cỗ đám cư­ới. Không biết ai dạy nó , hay từ trong tiềm thức nhắc nó "

nghĩa tử là nghĩa tận".

Nhưng gia chủ có đám c­ưới vẫn không quên mang phần đến cho nó . Nhà nó ngủ là  Nhà Bia ở Đình. Nếu sợ chó ăn mất , ai cũng biết ý phần cỗ của Cu Sướng cứ để lên đỉnh cái bia cao nhất.

+

+ +

Đêm nay sau Đại Hàn vẫn lạnh lắm .

Cu Sướng chui vào cái bao tải đay rộng thùng thình, ổ  rơm mới dày dặn  thơm tho .

Chả là chiều qua Cô Lái Cau đã bốc hết ổ rơm đầy chấy rận của Cu Sướng ra giữa sân đình đốt đi, cô đốt hết quần áo tả tơi của nó. Nhờ ông cắt tóc ở gốc cây găng ở phía bờ sông cạo tóc đầu nhẵn thín cho sạch chấy. Tắm xong sạch sẽ ,Cô còn mua cho Cu Sướng bộ quần áo mới.

Mùa cau năm sau không thấy , Cô Lái Cau đến mua ,mà là một bà lão Lái Cau lư­ng đã hơi còng. Bà vẫn lại  phải nhờ đến Cu Sướng đến vườn cau nhà Cụ Đỗ.

Nghe đâu Cô Lái Cau bận  sinh  con trai ở trên mạn ngư­ợc. Cánh chân sào nói như đinh đóng cột rằng gặp cô ấy ở mạn th­ượng nguồn Sông Minh Đức.  Tay đò ngang ở Xóm Bến Sông  ác khẩu ghen với Sướng còn đặt điều tung tin với khách qua sông : "

Con trai cô Lái Cau trông giống Cu Sướng lắm".

Xóm Bờ Sông nếu thiếu Cu Sướng và Cô Lái Cau thì buồn xiết bao!

Món đặc sản

Ngô Phan Lưu

Xóm tôi, có thím Xanh, hễ đi dặm lúa hoặc nhổ cỏ, thậm chí cả thăm nước ruộng, tiện thể thím cũng tranh thủ bắt sâu nhốt vào lưng quần, đem về sổ ra cho vịt ăn...

Thím vẫn bảo mọi người rằng : “Việc ấy, tốt cho lúa, lại có món ăn đặc sản cho vịt. Thế là rất tốt cho người!”. Các bà, các chị thấy thế, nghe thế, đều nhất loại thè lưỡi, trợn mắt, rùng mình, nổi da gà, dựng tóc gáy...

Vụ ba năm nay, do thời tiết quá âm u, lúa con gái xuất hiện sâu phao tràn lan. Chúng ăn phá lúa hàng loạt như thể bò ăn. Thửa ruộng thím Xanh không ngoại lệ, thậm chí nhiều sâu nhất đồng.

Biết phun thuốc chẳng diệt trừ tận gốc, lại làm mất sức tăng trưởng lúa, nên thím quyết định phải bắt sâu trước, kiếm món đặc sản cho vịt. Bắt chán, hãy phun thuốc cũng không muộn.

Tinh sương hôm ấy, khi cảnh vật đã nhìn rõ, sợi dây thừng không nhầm là con rắn được, thím thoăn thoắt ra đồng. Ngày quan trọng, thím mặt chiếc quần bà ba đặc biệt, vải rất dày, màu xanh lá cây, dây lưng làm bằng cao su ruột xe Honda cắt to bản. Thím mặt chiếc quần này dùng để nhốt sâu.

Nhân nói đến chiếc quần của thím Xanh, tiện thể cũng nhắc đến chiếc quần của chú Xanh. Chú Xanh đã tự tay may một chiếc quần đùi đặc biệt để đi núi. Nhưng ở quê tôi, muốn đi núi phải lội qua nhiều đoạn sông, nên chính xác hơn, chiếc quần đùi đặc biệt ấy chuyên dùng để lội sông, chứ không nhốt sâu như quần của vợ. Chiếc quần đùi này, đặc biệt rất cơ động : Nếu nước lội ngang thắt lưng, quần đùi sẽ di chuyển lên tới ngực. Nếu nước lội tới ngực, quần đùi liền cao lên tới cổ, còn nếu nước tới cổ, quần đùi tiến lên thành cái khăn trùm đầu ! Sự thần kỳ ấy cũng dễ hiểu . Chú Xanh đã thiết kế chiếc quần đùi ấy không có đáy! Hoá ra, hình thức quả thực quần đùi, nhưng cốt cách váy ngắn! Thật là cơ động! Nước lội đột ngột thấp xuống ư? Quần đùi chú liền theo xuống...Thế nên, chú Xanh lúc nào cũng đàng hoàng có quần đùi khô ráo trên người, cho dù lội sông! Trông văn hoá ra phết, lại còn hiện đại nữa vì di động! Cụ Thạt láng giềng cứ nằng nặc khuyên chú Xanh xin đăng ký “bản quyền”, để tiến lên bảo vệ “thương hiệu”!

Giờ, xin nói tiếp chuyện thím Xanh…

Lúc này thím cẩn thận kéo sợi dây lưng quần vòng ra bên ngoài, ấn sâu xuống gần bắp vế, mục đích tạo cái ruột nghé rỗng

quanh bụng để đựng sâu, đoạn thím lội xuống ruộng...

Thím chăm chú bắt sâu phao. Bắt được con nào, thím đều lận vào cái ruột nghé ấy, đố con nào bò ra thoát! Thím bắt sâu bằng cả hai tay. Thím say mê bắt quên cả đói khát. Khi ruột nghé lưng quần căng phồng, nặng lên vì nhốt quá nhiều sâu, đã kéo xách ngược hai ống quần cao đến gối, thím Xanh mới ý thức được rằng, mình tồn tại với cái bụng cồn cào, cái miệng khô khốc, cái lưng đau nhừ và cái tay tê cóng! Thím khệnh khạng níu cỏ trèo lên bờ, bộ dạng quái dị, kệch cợm như Rôbốt thế hệ đầu tiên! Giờ phút này, quả là thím Xanh khó mà đứng gần với ai được, bởi quanh bụng thím đang có hàng ngàn con sâu Phao to bằng ngón út, cựa quậy rối loạn, tìm lối thoát thân!

Với chiếc áo bà ba rộng đặc biệt, phủ dài xuống cái bụng to vượt mặt, trông thím như người có mang mười năm chưa đẻ! Và cứ thế thím cuối gầm mặt khệnh khạng đi về nhà! Nói phải tội, cả xe cộ cũng phải tránh thím, tránh mà không dám bóp còi, nhỡ sâu nó nghe trào ra thì khốn!

Về đến nhà, nhìn lên phên che chuồng bò, không thấy chiếc quần đùi di động của chồng, thím biết chồng đã đi hái củi! Bọn trẻ cũng cắp sách đến trường cả! Nhà cửa vắng hoe! Thím biết mình đã làm việc phá trưa!

Thím Xanh bước vào trung tâm vòng mành nhốt vịt. Thím dùng sức lực cả hai tay kéo căng dây cao su ba ga lưng quần, rồi rung giũ thật mạnh...Sâu Phao cứ thế rơi xuống như mưa đá! Đàn vịt rối loạn tranh nhau xơi sạch, có con phóng lên áp ngay nơi gối thím! Cứ thế ba mươi con vịt tơ mắt lim dim mãn nguyện vì no bụng! Cái ruột nghé sâu đã xẹp hoàn toàn. Niềm sung sướng long lanh trong mắt thím…

Nhìn quanh quất chẳng thấy ai, thím bèn cởi quần giũ kỹ, xem sót con sâu nào dính vào da thịt mình không, để thím bắt quăng cho vịt xơi nốt! Xong, tay vẫn xách chiếc quần, thím thong thả bước khỏi mành nhốt vịt, để đến nhà tắm...

Vừa đi được vài bước, thím vấp phải bà Bảy và té nhào!...

Số là, bà Bảy đang cắt rau heo trộm vườn thím, khi nom thấy chủ nhà giũ trút từ lưng quần ra hàng loạt sâu Phao, bà ta hoảng quá, té ngất xỉu! Nhưng khi vừa hồi dương sanh mạch, lại thấy thím Xanh đè lên người, bà Bảy lại hoảng vía

 lần hai, bật dậy chạy biến, bỏ lại thúng rau heo cùng cái liềm! Hai món này bà Bảy bỏ luôn, không đến lấy! Bà Bảy bình sinh sức yếu, thế mà lúc bung chạy lại mạnh mẽ cực kỳ! Bằng chứng là thím Xanh ban nãy vấp té sấp, bây giờ lại té ngửa!

Kính thưa quý độc giả, nhan đề truyện ngắn này là : “Món đặc sản”, nghĩa chính thức là món sâu Phao cho vịt ăn, nhưng nếu phóng túng hơn, hẳn sẽ có một nghĩa bóng nữa...Nghĩa bóng ấy nằm ngay trong tiếng cười kỳ quái của chú Kỳ láng giềng, đột nhiên thức giấc trưa vì tiếng thét của bà Bảy, chú ấy vô tình đã thấy “món đặc sản” của thím Xanh di chuyển vào nhà tắm!

Vâng, không trách chú ấy được! mọi việc cũng chẳng quan trọng gì...Cũng chỉ gây cười...là chính! Thế thôi!...

Người coi bản mệnh

Th

y l

m r

m kh

n. Ánh sáng vàng hoe c

a hai ng

n n

ế

n ch

đ

nhìn rõ m

t ng

ườ

i lúc m

, lúc t

. Khói h

ươ

ng cu

n t

ng s

i m

ng m

nh, li

ng lên hòa cùng h

ươ

ng ho

a hu

ngan ngát lan t

a kh

p phòng. Th

i gian ch

m ch

m trôi v

cõi vô đ

nh nh

ư

s

i dây vô hình trói chân tay h

n l

i. B

c b

i, tù túng, h

n đang đ

nh thoát ra ngoài thì đ

t nhiên th

y đánh b

p hai bàn tay vào nhau, thét lên m

t ti

ế

ng đ

ế

n r

n gáy. Ba nén h

ươ

ng tr

ướ

c m

t bùng cháy.

.

Hắn, kẻ cứng đầu!

Thầy hỏi: "Anh xem gì?"

"Bản mệnh!" - Hắn trả lời cộc lốc, giọng điệu chợ búa.

Bản tính hắn chai lỳ, không thích nghe thuyết lý dài dòng. Hồi nhỏ đi học, thầy giảng một lúc hắn đã díp mắt lại. Lớn lên hắn dị ứng với ai cầm giấy đứng trước ống nói. Việc gì phải lắm lời. Cấp trên của hắn chỉ nói một câu hắn làm cả ngày, thậm chí cả tháng không hết việc. Nhìn vẻ ngổ ngáo của hắn thầy lên giọng, ngôn ngữ không kém cạnh dân chợ búa:

- Anh đến đây đâu có xem mệnh mình? Định soi mói tôi phải không? Tôi chưa từng thấy ai hỗn vậy!

Khách không mời mà đến tự nhủ: "A! Thầy cao tay quá đấy!". Mặt hắn nóng ran, cái cục tự ái trong ngực hắn phình to theo mỗi hơi thở. Hắn định sấn tới túm tóc thầy như đã từng túm tóc mấy con mẹ bán hàng ở chợ lẩn như trạch mỗi khi hắn thu tiền. Nhưng hắn kịp dừng lại khi lời thầy vừa đủ lọt tai hắn: "Ngồi yên đi, đến đây sinh chuyện là hỏng việc. Việc là việc của anh". Sau mấy câu ấy, bốn bề lại tĩnh lặng. Giờ hắn mới cảm nhận có gì đang rình rập. Ngước lên cái ngai trên điện thờ quàng bởi vuông lụa đỏ như rung rinh một bóng hình người đạo mạo, uy nghi, có quyền phán xét tất cả, không ai xui khiến, hắn chắp tay vái ba vái. Vậy là, hắn cũng biết sợ, sợ cái vô hình.

Thầy bật thêm ngọn đèn bàn, lật giở tập sách từng tờ mỏng tang. Hắn xét nét đảo mắt qua, thấy thế ngồi của thầy rất động: phần vai nghiêng về phía hắn thấp hẳn, khi nhìn tinh lực hai mắt thầy lia theo một đường thẳng chéo, sắc lẻm. Đôi mắt ấy có lẽ nhìn thấu tận cái bí ẩn bên trong của người đời. Thầy nhận dạng về hắn: Mặt trũng, hình thái đứng quá. Các giác quan co sát lại, khép kín. Miệng ngậm chặt. Mũi gãy. Lỗ mũi kéo về hai bên. Mắt nhỏ và sâu. Trên da mặt mọc dày nốt ruồi lớn nhỏ - đấy là đặc điểm mọi người dễ nhận ở hắn ngay từ lần gặp đầu. Có thằng bạn cùng làng hồi nhỏ từng trêu trọc: "Mặt mày như bãi tha ma thời chết đói, mộ chôn lung tung". Gom từ tất cả những dữ kiện ấy, thầy xướng lên một câu như điểm huyệt: "Sau lưng phía phải anh, dưới bả vai chừng hai mươi phân có một nốt ruồi đỏ". Không chệch một chút nào, hắn nín lặng, giấu đi cái lạnh toát toàn thân.

Khi yêu, vợ bây giờ của hắn linh ứng điều gì, đã bắt hắn cởi áo ra kiểm tra, phát hiện nốt ruồi này. "Nốt son sinh quý tử". Mừng quá, được đà tát nước theo mưa, hắn cũng bắt người tình cởi áo ra rà soát. Trên người thị chỉ có hai nốt son bằng hai quả nho chín mọng đậu phía trước ngực. Thế là họ im lặng, tự nguyện đi trước hôn nhân vài ba bước. Hắn chưa hết bất ngờ về cú điểm huyệt ấy, thầy lại hạ một đòn hiểm: "Anh là kẻ rắn mặt, bất phục tùng; nếu bị cưỡng ép dễ phản kháng bằng bạo lực, đôi khi bộc lộ tính cách tàn nhẫn". Thầy nhìn qua thăm dò, sắc diện hắn không đổi, xuống giọng: "Tình cảm thì mạnh mẽ đấy, nhưng ẩn kín, chỉ cởi mở với một vài người đánh thức được thiện tâm". Rồi vừa cầm bàn tay hắn thầy vừa nói thêm: "Tôi có trong số một vài người đó không?". Hắn im lặng, nhếch mép, hàng ria túm lại rung rung. Không khí trong điện thờ có vẻ dịu xuống.

Bây giờ thì bàn tay hắn đã xòe ra trước mặt thầy. Bàn tay lạnh và khô. Đường vân tay biệt dạng, đôi chỗ đứt đoạn hoặc mờ nhạt… Thầy nói nước đôi: "Hình như anh đã đến đây một lần, và lần ấy anh không tĩnh tâm để gặp được tôi". Hắn tâm phục ngay: Khi vừa gặp, thầy đã đọc được suy nghĩ trong đầu hắn, còn bây giờ, không cần đối diện, thầy cũng biết hắn từng có mặt ở nhà thầy từ mấy hôm trước.

Hôm ấy đúng là hắn chưa muốn gặp thầy. Nhưng đôi chân cứ đưa hắn đến, y như ma đưa lối quỷ dẫn đường vậy. Người đầu tiên trong nhà hắn gặp là vợ hai của thầy. Bà có nhiệm vụ tiếp khách và điều hành mọi công việc ở tầng dưới. Mới gặp lần đầu, không hiểu sao bà đã ngại tiếp xúc với hắn. Tại đôi mắt ti hí hay cái tính lầm lỳ của hắn? Không đoán định được. Hay là… mệnh của hai người xung khắc chăng? Trước đây, bà dắt mối cho thầy hành nghề, lâu ngày, thầy buộc luôn cái mối ấy vào mình. Tuổi thầy hơn bà một giáp. Nhưng bù lại, thầy có tiền "bo" cho bà quần là, áo lượt, lên xe, xuống ngựa. Không chân lấm tay bùn, với bộ bà ba vải thun đen đang mặc, bà bước vào tuổi hồi xuân tự tin và có chút kiêu hãnh nữa.

Chặp chín, mười giờ, trời bất chợt mưa. Người đang đứng ngồi ngoài sân túa cả vào, phòng khách bỗng dưng chật cứng. Mùi mồ hôi, mùi son phấn, mùi rượu bia, thuốc lá trộn vào nhau khiến không khí quánh lại, đến ngột thở. Ngay lập tức bản tính láu cá của hắn được phát huy, hắn lẻn sang phòng bên, ngồi tiếp chuyện với cụ thân sinh ra thầy. Cụ mừng ra mặt. Khách ngày nào cũng túm năm, tụm ba tính đường tiền vận, hậu vận chứ ai muốn ngồi buôn gió vu vơ với ông già cổ tích này. Trước tiên phải công nhận cụ có bộ râu đẹp. Chòm dưới vồng ra, chảy xuống chấm tận chiếc khuy áo thứ năm cụ đang khoác. Hai ria mép cong vút ôm gọn lấy khẩu môn như hai dấu ngoặc đơn bằng bạc. Tóc cụ trắng như hoa roi, vuốt ngược lên cũng làm thành một dáng cong điệu nghệ. Ngồi chưa nóng chỗ, hắn đã lôi từ trong chiếc túi vải một chai rượu trắng, đặt giữa bàn trà, gật đầu cung kính hỏi: "Cụ dùng được chứ ạ?". Cụ nheo mắt cười, đưa ngón trỏ và ngón cái bàn tay phải lên vê ria mép, vẻ háo hức không hề giấu giếm. Cạch một cái xong, cụ nâng cốc lên nhấp một ngụm rượu, chính là lúc miệng cốc được đưa xuống dưới hàng râu môi trên dày và trắng, uống mà như tưới cho râu.

"Ngày xưa tôi đi lính nhảy dù cho Pháp" - Sau tiếng khà, cụ chậm rãi bắt chuyện. Hắn vỗ tay cười, kéo theo một tràng khẩu ngữ khích lệ: "Phờ răng xe! Phờ răng xe!...". Cụ hào hứng tột độ, nói líu ríu: "Ngày xưa tôi nhảy dù xuống Kim Phát. Cái đận ấy các anh chưa đẻ đâu. Tôi sợ đến vãi đái ra quần. Những ngọn tháp nhà thờ cao chọc trời có khác gì những mũi đao, mũi mác. Nhảy vào đó có mà toi đời. Nhưng rồi thầy quan ba Pháp nhắc: "Ở dưới đất đã quét vôi: vôi trên mái ngói, trên đường làng, ngoài nghĩa địa, thậm chí trên cả thân cây, tán cây… Cứ thấy có dấu vôi trắng thì nhảy vào". Nói như vậy có nghĩa là: Nếu nhảy ra ngoài vạch vôi sẽ làm mồi cho "bố cu" Việt Minh".

Cụ tợp một ngụm rượu nữa như tự thưởng cho mình: "Các anh ạ, nhảy dù khi trông được dù mình mở thì sướng lắm lắm. Sướng như tiên như Phật. Cái quan trọng bậc nhất là trước đó lòng phải rỗng, dẹp tạp niệm mới đạt đến cái vi diệu của nhảy dù. Thầy đấy (cụ nhắc tới con trai), cũng nhiễm cái máu của tôi: thích nhảy! Năm lên bảy tuổi thầy nhảy từ mình trâu xuống ruộng nước, không may vấp phải chiếc dây thừng vắt qua lưng trâu, ngã xuống chân đường, gãy xương bả vai, tật đến bây giờ" (mãi sau này hắn mới biết cái thế ngồi của thầy ở trên điện không phải do cố tình tạo dị dáng mà do dị tật - vì cụ kể đoạn này không được rành rẽ, chắc do hơi men).

Ở đời mỗi con người, có việc làm chỉ xảy ra trong tích tắc mà ám ảnh đến suốt thời gian còn lại. Cụ cởi áo lính về làng khi quân đội Pháp lên tàu Hải Phòng về Mẫu quốc. Vì không có nợ máu nên chính quyền cho cụ tại ngoại. Ấy vậy, cụ vẫn giữ đôi giày săng đá, có cắm đinh dưới đế hẳn hoi, đi cộp cộp trên đường làng, vẫn thấy còn oai. Không hết ám ảnh, đêm đêm trong những giấc mơ quá khứ lại hiện về, rõ như sờ thấy được: Những mảng trắng mờ mờ phía thấp, những đường cong của cú nhảy ngoạn mục, đường cong như chiếc ô của những tán dù trắng, dù khoang sặc mùi viễn chinh bung kín một khoảng trời lưa thưa mây bạc. Có lần ám ảnh đến mức mộng du. Đang đêm cụ mò đi khắp nhà rồi đâm sầm vào chiếc giường quây màn trắng của vợ hai thầy, thế là cụ nhảy luôn vào "vùng trắng". Sáng sớm, bà hai khen nức nở một câu: "Râu cụ trắng hơn da con gái". Thì ra, bà ta cũng là của thiên hạ, của chung chạ, chằng bắt vạ được cụ. Ấy rồi, thành thói quen, cứ mỗi lần cầm lược chải râu, cụ lại vuốt ngược lên tận mắt để chiêm nghiệm cái màu trắng mê hồn.

Thầy rất bực khi mỗi lần nghe cụ nhắc đến "nhảy". "Nhảy! Lúc nào ông cũng nhảy. Có nhảy xuống lỗ!". Nghe con trai bẳn hắt, có lần cụ lặng im, cam chịu; có lần cụ cự lại: "Tôi nhảy xuống thân xác người, còn anh, anh nhảy vào hồn vía người. Bản mệnh người ta anh xăm xui, anh chọc ngoáy, anh khen, anh chê, có khi anh chửi; xong anh lấy tiền, còn vận hạn họ ra sao anh đâu cần biết". Lúc tức lên thì nói thế, chứ cụ thương thầy lắm, nước mắt chảy xuôi mà. Tật nguyền từ nhỏ, cụ chẳng nâng đỡ được gì bởi cái tội xỏ nhầm giầy Tây của mình, bằng ấy tuổi đầu vẫn chỉ quanh quẩn sau lũy tre làng. Mười năm nay thầy làm ăn phát đạt là do mấy cuốn sách tướng số rót lộc vào. Càng có của ăn của để, tiếng nói của thầy càng có trọng lượng. Thật đúng với câu: "Vai đeo túi bạc kè kè/ Nói phét nói lác người nghe ầm ầm". Cụ còn hãnh diện về con nữa: Học hành không đến nơi đến chốn thế mà ối kẻ học đến tiến sỹ cũng phải gọi bằng thầy. Con hơn cha, phúc ở đấy chứ đâu nữa.

*

Hôm nay gặp trực tiếp thầy, hắn có chủ định rõ ràng. Và thầy cũng không cần rào trước đón sau, nói chẻ hoe luôn: "Anh muốn qua tôi để tìm nhân chứng cho hành vi bất lương của một người, người đó lại là người đẻ ra anh mà không một ngày dưỡng dục". Hắn gật đầu rồi lại lắc đầu quầy quậy. Bố hắn vô lương là rõ rồi, nhiều người cùng thời với ông đều nói vậy, không cần thêm nhân chứng nào nữa. Còn "không một ngày dưỡng dục" - Hắn phản đối cực lực, vì điều này không ai hiểu bằng hắn. Hơn hai mươi năm bố con hắn sống bên nhau như hình với bóng, như răng với môi. Vậy, lời thầy chỉ đúng một nửa.

Hắn không phản kháng gì khi thầy nói mà như chửi bố con nhà hắn. Hắn ngồi im, chỉ cái đầu lắc lư như có vong nhập vào thân xác hắn. Thầy đã nhìn thấy đường Thổ tinh của hắn xuất phát từ cườm tay và bị đường Trí đạo chấm dứt. Cập nhật một thông tin nhanh: Hắn có thể giết người - thầy toát cả mồ hôi.

Xem sang bàn tay phải thầy phán tiếp: "Anh vào đời sớm, không nhờ cậy được hai bên nội ngoại, ít nhiều thành đạt ở tuổi 40 là nhờ vào bàn tay phải này".

Bố hắn chết sớm để lại cho hắn "cái bóng Trương tuần" chạy đầu làng đến cuối làng, ám ảnh dân cư bởi những đòn đánh người tàn ác. Bỏ học từ lớp 4, lặn lội với mưu sinh, không đủ điều kiện đi bộ đội, hắn đi buôn cá tôm, cua ghẹ từ biển lên, nhiều lần bị thuế vụ tịch thu trắng tay. Hắn căm lắm, quyết chí phục thù. Một lần hắn bắt quả tang thuế vụ đưa hải sản thu được của hắn lên mâm tiêu thụ. Cánh thuế vụ phải thỏa hiệp với hắn bằng cách trưng dụng hắn vào các phi vụ bắt buôn lậu - nghĩa là lấy độc trị độc. Không ngờ chỉ sau ba năm hành nghề, cả phòng tài chính đều phục sát đất tài xuất quỷ nhập thần của hắn. Hắn đã chộp vụ nào, đứt cước vụ đó. Rồi, hắn có tầm, có vóc, có tấm, có miếng, rạng rỡ với thiên hạ sau đấy với chức danh cán bộ quản lý chợ, một cái chợ to nhất huyện. Thầy bảo: "Đấy là anh có quý nhân phù trợ". Cứ cho là thế, ý đẹp lời hay ai dễ chối từ.

Rời khỏi chiếu chầu, hắn như quên một điều gì mà nhớ chưa nổi. À thì ra, hắn quên đặt lễ vào đĩa. Đáng lẽ việc này phải làm trước khi thắp hương. Thầy nhìn mấy tờ mười đồng đỏ au nằm cong queo như con tôm nướng trên đĩa, nói như để cho hết nhẽ: "Ông bố nuôi của anh ở dưới Hoàng tuyền đã làm bạn với bà hàng xóm cách nhà anh cái ao về phía Đông Nam". Bố đẻ chứ, sao lại là bố nuôi. Thầy có nhầm không đấy. Còn cái bà kia tên là Dự. Bố hắn sao lại có thể lấy bà Dự được. Bà Dự là cái bà đi cắt trộm lúa ngoài đồng vào ngày giáp hạt đói lăn, đói lóc bị bố hắn dùng đòn càn quật đến ngất xỉu. Nhà bà nuôi được con chó gầy giơ xương bố hắn cũng bắt, bảo là để nộp phạt cho làng. Bà ta không dám hé răng nửa câu. Tình nghĩa gì nữa mà đến với nhau. Hiểu điều hắn thắc mắc, thầy nhủ: "Ở thế giới bên kia không có hận thù!".

*

Xong mọi thủ tục ở nhà thầy, hắn đẩy xe ra ngõ nổ máy bật đèn, rồ ga vù đi như ma đuổi. Đúng là một cực hình với hắn về cả thể xác lẫn tinh thần. Nhưng ấn tượng như vừa được lột xác. Giờ thì hắn đang đói, đói cồn cào. Vượt khỏi lũy tre làng, hắn ghé vào quán thịt chó Đầm Xồm - cầy tơ bảy món. Chưa nhìn thấy bóng dáng người, chỉ phát hiện ánh đèn pha xe máy của hắn, chủ quán đã chạy ra, đon đả chào mời: "A đây rồi, may quá! Bác Chộp thiêng ghê! Em vừa nhắc tới bác thì bác hiện".

Cánh thương lái, chợ búa đặt cho hắn cái biệt danh Chộp, gọi mãi thành quen, nhiều lúc gọi để mà cảnh tỉnh. Hắn hỏi: "Chuyện gì đấy?". "Thì bác cứ vào nhà cái đã". Chủ quán có biệt danh là Xồm vừa bán thịt chó vừa thầu cái đầm nuôi cá nên gọi ghép là quán Đầm Xồm. Phòng ăn bên trong đèn sáng trưng rọi từng vũng sáng lớn xuống mặt nước đầm, rồi từ đầm phản quang lại làm con người và cảnh vật trở nên huyền ảo. Khoảng mười người ngồi trên hai chiếc chiếu trải trên sàn tre. Trong đó có hai người là phụ nữ. Hắn cáo lui, nói phải về ngay vì nhà có việc. Khách của Xồm là cánh buôn chó sống từ Thanh Hóa ra bằng xe tải rồi đổ cho các mối dọc mấy tỉnh Ninh Bình, Hà Nam, Hà Tây… muốn gặp hắn để làm giá khi qua "cửa khẩu" này. Việc đó tính sau. Hắn đỡ túi thức ăn từ tay Xồm, miệng hỏi: "Bao tiền?". "Thôi bác cứ mang về…". Giữa hai người đã từng biết ăn, biết chơi với nhau từ lâu, chả đi đâu mà thiệt.

Về nhà hắn giục vợ đưa thức ăn lên bàn thờ thắp hương ngay. Vợ ca cẩm: "Đi gì mà đi kỹ thế. Con chờ cơm không được, đã ăn trước rồi đi". Thằng con quý tử của vợ chồng hắn đã đi gác chợ đêm. Tiền công hai suất chợ của bố con hắn trong vòng mấy năm đã chồng lên ngôi nhà hai tầng to nhất xóm. Hắn không nói gì, chỉ trợn mắt quát: "Đưa bát xương xuống, cụ còn răng đâu mà xơi!". Ngày còn sống bố hắn nghiện thịt chó lắm, lúc hấp hối dặn lại các con chỉ một điều: "Cứ cúng thịt chó cho bố, dương sao âm vậy; cõi âm lạnh lẽo có lẽ ăn thịt chó lại hợp". Nghĩ mà xót bố, cả đời cụ lận đận chỉ vì miếng ăn. Biết là miếng ăn quá khẩu thành tàn. Nhưng không ăn làm sao mà sống được.

Trên ban thờ đèn đã sáng, hương đã tỏa. Trước bức di ảnh người đàn ông hưởng dương chừng ngũ tuần, những bát thịt chó đủ món đầy tú ụ khuất đi nửa bức chân dung phía dưới. Hắn thành tâm khấn, nào là: Bố sống khôn, chết thiêng về phù hộ cho nhà con tai qua nạn khỏi, dù có trời nghiêng đất sập thì con vẫn là con của bố, công sinh không bằng công dưỡng. Nào là, sao bố nỡ hắt hủi mẹ con để đi lấy bà Dự, mẹ con chẳng có tội tình gì, có chăng là do giặc giã gây nên. Bố ơi, có phải ở dưới âm con người sống với nhau thật là tử tế? Đang cúng, vợ hắn sốt ruột nói chen vào: "Nhà đi xem thầy bảo sao?". Hắn vái tạ ba cái rồi quay ra trả lời vẻ lo lắng làm lớp da mặt chùng xuống, đen sạm: "Thầy phán cuối năm nhà ta có tang". Vừa nghe xong, vợ hắn đã òa lên nức nở rồi quỳ sụp dưới chân bàn thờ vái như lạy cụ Trương tuần tha cho con đòn chết.

Thị đã phải chịu khổ quá nhiều từ khi gặp hắn. Vì chửa hoang nên người ta mang ra hội nghị kiểm điểm. Cái "chân" đoàn viên và "chân" dân quân trực chiến của thị bị treo giò vô thời hạn. Hắn phải ra xã đổi năm cân cá biển lấy tờ giấy kết hôn, coi như một chuyến đi buôn lỗ vốn. Sau đám cưới chạy, hợp tác xã nông nghiệp cắt cử vợ hắn ra phục vụ trại chăn nuôi lợn, giữa đồng không mông quạnh, biệt lập với dân cư. Tưởng thế là êm mọi chuyện, ai ngờ thuế vụ luôn rình rập quanh trại để bắt buôn lậu. Họ nghi hắn mang hàng về đây cất giấu. Vợ hắn không đêm nào ngủ yên giấc, khi cái thai trong bụng đang to dần, cần tâm tĩnh ở người mẹ. Cũng từ ngày ấy thị mắc một chứng bệnh: Trong giấc ngủ thường mơ có ai đó từ trên trời nhảy xuống bụng mình, cười hô hố, nhe cả hàm răng trắng ởn. Từ khi đứa con trai ra đời thì bệnh ấy tự khỏi. Nhưng hơn ba năm sau, khi mẹ chồng thị chết đuối trong vụ đắm đò ngang qua sông Vạc thì những giấc mộng cũ tái hiện. Chẳng ai giải thích được hiện tượng này. Chỉ có mấy cụ trong làng nhắc lại chuyện cũ, có kể: Năm ấy Pháp nhảy dù xuống Kim Phát. Nó quây phụ nữ giữa cánh đồng bằng vải dù và dây dù rồi làm bậy. Các chị em thoát về, không ai có chút bùn đất lấm lưng, coi như không có chuyện gì xảy ra. Sau này, ai nỡ có thai thì chỉ gia đình đó biết và tìm cách giải quyết êm thấm, tránh mang tai mang tiếng. Ông ngoại hắn là lý trưởng, đã gả con gái bị lính dù quây cho anh Trương tuần, người sau này hắn gọi là bố. Đám cưới được cả làng tán dương không phải vì môn đăng hộ đối mà vì bữa tiệc chiêu đãi làng rất to.

Thế nên, việc của hắn bây giờ là phải tìm bằng được người lính dù kia. Và hắn đã xông đất nhà thầy.

*

Cả tuần nay, hắn mất hút con mẹ hàng lươn, đâu đó. Vợ con không hề hay biết. Trước đây, vắng một vài ngày hắn dặn đi dặn lại vợ hoặc con, công việc nhà, công việc chợ… Lần này tuyệt nhiên không (!) Thế nên, vợ hắn mới lo. Tháng cuối năm đang xích dần. Cái đại hạn kia không biết ập đến lúc nào. Thị ráo riết theo dõi tin giao thông trên truyền hình từng ngày. Một việc trước đây thị cho là vô bổ. Đợi đến ngày thứ ba thứ tư, chồng vẫn bặt vô âm tín, ruột gan thị mới như có lửa đốt, đứng ngồi không yên. Đông chí đã qua, rét đậm theo gió mùa tràn về. Bầu trời xám ngắt như cái vung đúc bằng chì, không có lấy một vẩy mây trắng, một tia nắng vàng, một cánh chim nhỏ. Hai chú chó mực một già một trẻ cũng buồn thiu, nằm gác mõm ngoài hiên, có ý chờ túi xương ông chủ mang từ chợ về như hàng ngày ông vẫn có thói quen ấy. Bất chợt, chúng hực lên một tiếng rồi lao thẳng ra ngõ. Tưởng chúng mừng chủ về, ai dè chúng sủa khách đến. Thị bước vội ra cửa với tâm trạng mừng, lo lẫn lộn. Rồi khi nhận ra người đứng trước nhà mình là Đầm Xồm thì chân tay thị bỗng rụng rời. Xồm đi tới đâu, chó sủa đến đó, như mồi lửa bén đến đâu pháo dây nổ đến đó. Chó trong làng sủa ran. Nghề sát sinh, ám mùi tử khí, hắn mang họa đến rồi. Xồm nói to hết cỡ vẫn không át được tiếng chó sủa và tiếng động cơ xe máy: "Chị mặc thêm chiếc áo rét vào - đi với em". "Đi đâu?" - Thị cũng nói như gắt. "Chị cứ lên xe, em vừa đi vừa nói, kẻo không kịp". Thị mất bình tĩnh đến mức không làm chủ được bản thân, hoảng hốt vơ vội chiếc áo vắt ở đầu giường rồi chồm lên xe máy. Đến nửa tiếng sau, xóm làng mới yên ắng trở lại.

Thì ra họ tổ chức đi viếng đám tang ở xã bên. Người qua đời là cụ thân sinh ra thầy Vạn, cái ông thầy mà chồng thị đã đến bốc quẻ, nổi tiếng cao tay một vùng. Thị chất vấn Xồm: "Mình đi đám này nghĩa là thế nào?". Xồm nhấm nhẳn: "Anh bảo đi!". Câu trả lời như một mệnh lệnh, thị đã quen những câu nói cửa miệng cộc lốc của chồng và cũng quen không bao giờ dám hỏi lại. Nhưng bây giờ với Xồm thì: "Thế anh chú đâu?". "Anh điện về phải đón chị đi bằng được, anh chưa xong việc, mà có về cũng không kịp". Thị mừng ra mặt, đi viếng đám ma mà lại mừng, mừng vì chồng thị không gặp rủi ro trong bằng ấy ngày mất tích.

Cụ ra đi đúng vào tiết đại hàn. Có ai ngờ đại hàn năm ấy lại thành đại hạn với cụ. Sợ cụ chết cóng, con cháu quây kín căn phòng cụ ở rồi đốt than sưởi. Có khác gì tử tù, cụ bức bối, tù túng đến không chịu nổi. Đôi chân run rẩy, cụ bước hụt một bước xuống sân. Chỉ còn một chút hào quang lóe sáng trong đầu cụ ở giây phút cuối cùng: Cụ thấy mình nhảy từ trên trời xuống. Nhưng rất tiếc: Lần nhảy này, dù không mở (!). Mọi người túm vào đỡ cụ. Thầy bảo: "Mệnh kịch rồi, cụ đã về với tổ tiên đúng giờ gọi bản mệnh". Chỉ tiếc một điều, chén rượu đã hâm nóng đặt trên bàn, cụ chưa kịp uống.

*

Qua thất thất lai tuần, có một người đàn ông đầu đội khăn trắng đứng như trời trồng trước ngôi mộ, chắc là con cháu cụ ở xa bây giờ mới về được. Hết tuần hương, người ấy quỳ xuống cởi bỏ chiếc khăn tang trên đầu, vắt ngang qua nấm đất. Lại rút từ trong túi vải ra, đặt trước mộ một chai rượu trắng, hai chiếc cốc sứ, một bát hương có in hình hai con rồng châu đầu vào một quả cầu lửa và, cuối cùng là một gói nhỏ bọc ni lông. Người ấy chậm rãi rót rượu. Hai cốc rượu đầy tràn ra ngoài. Đất dưới chân cốc ngấm rượu bỗng đỏ lịm như tiết. Người ấy từ từ nâng cốc rượu lên quá đầu rồi hạ xuống rất nhanh. Sau cái tế đầu tiên, người ấy đổ cốc rượu xuống mộ. Sau cái tế thứ hai, người ấy đổ cốc rượu còn lại vào miệng mình. Rồi cứ thế, hai hàng nước mắt người ấy mặc nhiên tuôn chảy, mặn chát nơi miệng, rân rân nơi huyết quản - rượu đã ngấm vào máu.

Lễ dâng rượu xong, người ấy vốc đất trên mộ, chỗ những giọt nước mắt và rượu vừa ngấm, chôn cái gói nhỏ kia vào bát hương. Cái gói nhỏ! - Đó là mẫu tách chiết ADN mà người ấy đã tách ra từ bộ râu của cụ khi ngồi uống rượu với cụ lần trước. Cái rạp mình cuối cùng trước ngôi mộ chính là lúc người ấy khom lưng xuống rút ba chân nhang còn ấm hơi lửa, cắm vào bát hương của mình.

Người đàn ông ấy đã đứng dậy, ôm bát hương đi, đầu không ngoái lại.

Chuyển kiếp

Truyện ngắn

Hắn vào nghề này hoàn toàn bởi sự tình cờ. Hồi ấy hắn mất việc thậm chí xuýt nữa phải" nhập kho" (1) vì bị gã đồng sự phản thùng sau lần tổ hắn biển thủ cả một xe điện thoại di động bắt được của bọn buôn lậu ở dốc Đá Trắng. Hắn thoát khỏi bộ quần áo sòng sọc không phải do thế mạnh của dây rợ hay ô dù gì, mà đơn giản chỉ vì, ông giám đốc vốn là thường vụ tỉnh uỷ, đang ngấp nghé ghế phó chủ tịch, nên đã ỉm chuyện đi. Hắn chỉ bị xử lý nội bộ rồi lặng lẽ cuốn gói không kèn không trống.

Trên đường về, qua thị trấn Đông Ký, một phố huyện mới phất lên từ thời mở cửa, hắn bước vào quán thịt chó. Trước khi hoàn dân, hắn muốn đập phá lần cuối cùng để đưa ma cho sự nghiệp mười sáu năm tận tụy với nghề bây giờ bỗng chốc trắng tay. Tại đây, hắn nhận lời chạy hàng cho bà chủ quán tên là Trần Thị Vinh nhưng khách vẫn quen gọi là "mụ Béo". Bà chủ quán, bốn mươi hai tuổi, mặt rỗ hoa, giống như một cây thịt với bộ ngực đồ sộ và cặp mông núng nính tuy nhiên dáng đi lại khá nhẹ nhàng uyển chuyển. "Hàng" đây là các chú cầy tơ với đủ các thứ gam màu đen, vàng, vằn, vện… để ngày ngày các tay đầu bếp chuyên nghiệp chế tạo ra thứ "mộc tồn" (2) bảy món nổi tiếng phục vụ các "thượng đế" có nguồn thu nhập mờ ám nhưng khá ổn định từ các dự án xoá đói giảm nghèo.

Lúc hắn đang ăn có một người đàn ông béo tốt bước vào. Nhìn thấy chủ quán, ông ta nói ngay:

- Chị làm gấp cho hai mâm. Nhớ là loại cầy tơ…

Bà chủ đang thái bánh phở, quẳng dao, nhìn khách nhăn nhó:

- Gay lắm, từ sáng đến giờ chẳng mua được con nào cả ông ạ.

- Chị nói thật hay đùa đấy? - Người đàn ông chợt nghiêm giọng - Hôm nay lãnh đạo uỷ ban làm việc với các sếp tài chính và ngân hàng tỉnh xin kinh phí. Quan trọng lắm. chị cố thu xếp cho.

- Tôi không đùa đâu. Chú có biết các quán khác đã đóng cửa từ cả tháng nay chỉ vì cái lệnh "cấm" của ông chủ tịch nhà chú không? Chung quanh đây hết chó rồi, mà đi xa thì không có người. Thà dẹp tiệm cho khoẻ.

Nghe câu chuyện nhấm nhẳng giữa hai người, hắn chợt nảy ra một ý. Chờ ông khách ra khỏi quán, hắn bước lại gần bà chủ khẽ bảo :

- Tôi có thể cung cấp …chó cho bà.

- Chú ở đâu ta?

- Bên Nam Thành, cũng gần đây thôi. Huyện tôi chưa thấy có lệnh cấm.

Bà chủ bưng ra một đĩa dồi hấp, một bát nhựa mận, một chai 65 (3) rượu ngang đặt trước mặt hắn:

- Coi như tôi đãi chú. Buổi sơ giao, tuy chưa biết rõ lai lịch nhưng tôi quý chú ở tính hào hiệp.

Hắn rót rượu, và nhấm nháp các món đặc sản vừa hỏi nhỏ:

- Cái ông béo vừa rồi là ai thế ?

- Ông chánh văn phòng uỷ ban vừa đi nghỉ mát Đà Lạt bằng tiền "chùa" (4) về. - Bà chủ quán hất hàm - Mới về nên ông ta chưa biết cái lệnh cấm nuôi chó. Với lại văn phòng đã ghi nợ ở quán tôi hơn chục triệu rồi, bây giờ cho ký nữa thì hết vốn.

- Ra thế…

- Vậy cứ hai ngày một lần chú mang đến cho tôi.

- Mấy con thì vừa ?

- Được ba bốn thì càng tốt nhưng ít nhất cũng phải có hai. - Bà chủ hướng cặp mắt lá răm lúng liếng dưới hai hàng lông mày rậm xoăn tít, nặng sùm sụp, nói chẳng biết thật hay bỡn - Dù sao đây cũng là một hợp đồng làm ăn, tôi sẽ sửa cái lễ vào cửa "Cô" để "Cô" phù hộ cho.

Hắn nheo mắt cười, giọng chớt nhả :

- Thế nhỡ tôi phá hợp đồng thì sao ?

- Chú cứ đùa. - Bà chủ lấy ngón tay vuốt quết trầu hai khoé miệng, thản nhiên bảo- Đã làm ăn với nhau thì phải lấy chữ tín làm đầu. Trên đời, hay gì những quân lừa lọc, tráo trở…

Hắn gật đầu cảm ơn rồi bước ra với bộ mặt tái nhợt, thong thả dắt xe đạp. Bà chủ quán như chợt nhớ ra điều gì, gọi khẽ :

- Này, chú gì ơi !

Hắn quay lại :

- Chết, quên , tôi chưa thanh toán…

- Không, đã bảo tôi đãi chú kia mà. Chú tên là gì?

Hắn nói, tất nhiên là một cái tên giả.

- Cầm trước lấy trăm nghìn làm vốn.

- Chị không sợ tôi cầm tiền rồi "phắn" (5) à ?

- Đã bảo làm ăn bây giờ phải lấy chữ tín làm đầu. Tôi tin chú vì trông chú có vẻ lương thiện.

Trên đường về hắn phác ra một kế hoạch. Dù sao thì cũng rất ít người biết hắn là viên cảnh sát bị "tuột xích" trong một vụ án mập mờ do ăn chia không đều. Hắn chỉ là gã tốt đen, thấp cổ bé họng làm vật hy sinh cho các sếp sòng, sau đó những "đại ca" đểu giả và tham ăn như chó này trở mặt làm cho hắn thân bại danh liệt.

Quê hắn là xứ đồng chiêm trũng, xa tỉnh, xa huyện, lại chậm phát triển, ít thông tin. Trừ mấy thằng bạn khác ngành ở các xã loanh quanh đã được dặn trước, còn nói chung bà con dân làng vẫn yên trí hắn là cán bộ nhà nước. Hắn lại có mối quan hệ khá tốt với ông chủ tịch nên mọi bí mật về đời tư đều được giữ kín.

Việc làm đầu tiên là hắn thuê đan lồng sắt và tự tay làm chiếc thòng lọng bằng dây dù, cán tre. Với bộ đồ nghề đó, hắn dọc ngang khắp các làng gần làng xa (tất nhiên trừ làng hắn) trong bộ quần áo bò tàng tàng, cái mũ lá rộng vành và cặp kính đen gọng to bằng ngón tay, tìm cái thứ đặc sản mà bà chủ quán phố huyện Đông Ký hợp đồng. Xong việc, hắn gửi bộ đồ nghề trong nhà một thằng bạn mới quen làm nghề lái công nông, lên thị trấn tá túc ở cái nhà bẹp của thằng bạn độc thân vừa đi trại Vân Lĩnh về. Vài tuần một lần, hắn đảo qua nhà đưa tiền cho vợ nuôi con. Phần còn lại, hắn không tiêu pha phung phí mà tích cóp lại, cho vay lãi qua bà chủ quán làm trung gian. Công việc của hắn khá thuận lợi, có những hôm gom được cả chục con. Hắn nhốt lại ở nhà thằng bạn, bán dần từng cặp hoặc ba con một. Bà chủ là người rộng rãi và sòng phẳng. Có lần, hàng mang đến không phải cầy tơ, bà ta vẫn trả đến hai mươi nghìn một ký, và lần nào cũng vậy, đều đãi hắn một bát phở bốc khói. Còn rượu thì tuỳ thích, uống bao nhiêu cũng được.

Điều làm hắn suy nghĩ đôi chút có lẽ là ở hai việc đáng buồn sau đây. Vào một hôm trời mưa, hắn đến làng Bía ở phía nam đường 183 tìm hàng. Người ta mách ông Vấn có con chó hay ăn gà muốn bán. Hắn dựa xe ở cổng rồi vào nhà. Ông Vấn là phó chính uỷ trung đoàn hồi hưu hơn chục năm, trình độ học vấn chưa hết lớp ba nhưng thuộc nằm lòng tất cả các nghị quyết từ trung ương đến địa phương của Đảng, thấy một thanh niên sức dài vai rộng, tướng mạo xem ra cũng khá mà lại làm nghề buôn chó, ngứa mắt bảo :

- Anh không kiếm đựoc nghề nào đỡ nhếch nhác hơn à ?

Hắn điên tiết quát vào mặt lão già kiêu binh :

- Ông về hưu, ngồi mát ăn bát vàng, cứ ngồi đấy có Đảng nuôi, cần đếch gì đến ai. Còn tôi, bị mất việc, nhục như con chó nên mới phải buôn chó nuôi vợ con. Đề nghị ông đậy cái miệng lại cho.

Chuyện thứ hai. Hôm hắn sang sông vào làng Giành. Gần trưa, hắn đã mua được hai con, định kiếm thên con nữa, chiều đi luôn, sáng mai về. Đến cổng ngôi nhà có giàn thiên lý trước cửa, hắn đánh tiếng. Nhà chủ đang ăn cơm. Chẳng ngờ, người ra mở cửa lại là cô trung uý phụ trách hộ khẩu phòng Quản lý hồ sơ đang kỳ nghỉ phép. Thế là chẳng kịp nói câu nào, hắn nhảy phốc lên xe co cẳng đạp như bị ma đuổi.

Được hơn một năm, thị trường "mộc tồn" bắt đầu biến động. Mặt hàng đặc sản này vốn hấp dẫn khách nên số lượng quán nhậu đột nhiên nở rộ như nấm mùa xuân. Đội ngũ "di vu cho" (6) phát triển theo cấp số nhân, đông đảo đến mức đi đâu cũng chạm nhau. Hơn nữa, lệnh cấm đã bắt đầu được ban bố ở một số vùng trong huyện của hắn. Chó hiếm dần mà yêu cầu của bà chủ ngày cang cao, hắn đâm lo. Sau tết âm lịch, nghĩa là vào đúng thời kỳ các quán nhậu bắt đầu mở cửa cho một năm mới thì "cầy" (7) các loại ở địa bàn hắn gần như cạn kiệt. Đây là thứ dịch vụ tạm thời kiếm ra tiền. Vợ con trông cậy vào chiếc thòng lọng, hắn không thể giải nghệ. Làm cách nào đây?

Sau một đêm vắt óc suy nghĩ, hắn bỗng nhớ ra đàn "cầy" đông đúc ở làng, vốn là vùng hẻo lánh nên chưa bị lệnh cấm đe doạ. Tuy nhiên phải hợp lý hoá bằng cách nào để không lộ tẩy? Mấy con đầu có thể nói phứa mua cho cơ quan liên hoan tổng kết chiến dịch truy quét tội phạm hoặc hội nghị an ninh khu vực, nhưng còn những con tiếp theo? Bài toán dù hóc búa dến đâu cũng có lời giải. Hồi trước, một thằng bạn làm quản giáo bên trại Ba Lăng có truyền cho hắn chút ít về nghiệp vụ chó, hơn bao giờ hết, đây chính là lúc hoạ vô đơn chí, hắn quyết định tận dụng nó như một thứ cẩm nang trời cho.

Làng Chòi rộng, nhà tranh vách đất tuềnh toàng, nhiều đường ngang ngõ dọc. Cả một cộng đồng đông đúc từ chó đen, chó vàng, chó vá đến chó vện, chó lai cứ theo nhau biến mất không để lại dấu vết làm dân chúng nháo nhào. Ông trưởng công an, sau hôm mất con chó vàng "tứ túc mai hoa" (8) nói với bố vợ hắn :

- Bọn này chủ trương diệt hết chó làng ta rồi mới chuyển sang bước thứ hai là gây án có tổ chức đây. Đểu nhất là nó lại nhè đúng nhà mình…

Ông bố vợ hắn, tuy chưa bị mất nhưng xem ra đã nổi cơn điên, giọng hậm hực:

- Các ông làm ăn chán bỏ mẹ, chưa tối đã rúc váy vợ, nó xỏ mũi là phải. Tôi đã thuê phó Viện rèn một ngọn mác, thằng nào lớ ngớ mò vào là xiên luôn cho hết giống trộm cắp. Mà cũng lạ, nếu bảo bị đánh bả thì cũng có những con không mang đi được, đằng này hầu như con nào cũng mất tăm, tựa như có phép tàng hình.

Hắn cười thầm. Trừ những trường hợp nhốt cũi để trong nhà, còn nói chung, không mấy con thoát khỏi bàn tay như có phép màu của hắn. Hắn có thứ thuốc khá hiệu nghiệm giống như chất ma tuý đặc biệt hấp dẫn đối với chó. Ngửi thấy mùi "ma dược" ấy, bất cứ con nào, dù khôn ngoan đến mấy cũng bị thôi miên. Nó sẽ tự động bỏ vị trí canh gác, chúi mũi tìm đến nơi có mồi. Hắn chỉ việc dùng thòng lọng chẹt cổ, xoa thuốc vào mõm rồi mang đến căn hầm bí mật cho vào lồng sắt. Chừng vài giờ sau, thuốc mê hết tác dụng, lũ chó tỉnh lại, khoẻ mạnh như thường. Đến lúc ấy thì hắn đã ung dung đạp xe trên quốc lộ 183, đàng hoang, lương thiện như bất cứ "di vu cho" nào khác.

Hết chó bên ngoài, hắn bắt đầu "tỉa" chó của của họ hàng. Đầu tiên là ông chú ruột, một con xám tro nặng mười bảy ký rưỡi, được ba trăm năm mươi ngàn. Bà thím tiếc đứt ruột, đắp mả hờ, trồng cây chuối ngược, thắp hương chửi đúng bốn mươi chín ngày đêm. Nhưng rồi chó của các ông chú, bà thím, ông cậu, bà cô cũng dần dần biến sạch. Bà chủ quán thấy ngày càng hiếm, tăng lên hai mươi mốt ngàn một ký và yêu cầu hắn vẫn duy trì hợp đồng. Hắn, sau khi làm xong chén rượu với bát phở nhựa mận, mặt nóng bừng, nhưng giọng vẫn tỉnh, bảo :

- Bà cảm phiền cho. Dạo này họ cấm ngặt. Hết chó rồi. Hôm qua tôi phải lạy van mãi bà dì mới

 được con này…

Bà chủ tỏ ra thông cảm, giọng năn nỉ :

- Bây giờ tôi chỉ còn trông cậy vào mánh của chú. Hôm rằm vừa rồi, tôi đã đến điện Trầm bốc hai bát hương và xin với "cô" phù hộ cho chị em mình ăn nên làm ra, không phản lại nhau.

Sau vụ chết hụt do bị ông chủ nhà xóm Giữa lao mũi mác vào chân, hắn đâm tin vào trò đồng cốt, bói toán. Nghe bà chủ nói, hắn thoáng thấy sợ. Trên đường về, hắn tự nhủ, cũng chỉ còn hơn chục ngày nữa, thôi đành cố vậy, rồi sau sẽ liệu.

Con thứ nhất và con thứ hai của ông chủ tịch. "Ông thông cảm. Chẳng còn cách nào khác. Xong việc. tôi sẽ mang toàn bộ số tiền bán hai con chó đặt vào khe cửa nhà ông". Con thứ ba của chính ông bố vợ hắn. Đối với hắn, xích sắt, khoá và lưỡi mác sáng loáng của phó Viện không là gì. Hắn mang đi con chó đen "huyền đề" (9) và để lại cửa buồng một bọc tiền. Ông trưởng công an biết chuyện, sang chia buồn. Cả hai nhìn nhau lắc đầu, không biết nói thế nào về vụ trộm lạ đời.

Nhà hắn có một con chó trắng. Hắn tự bào chữa, mang chó nhà đi không phải là ăn trộm. Hắn sẽ cầm tiền về cho vợ. Tuy nhiên, quyết định rồi nhưng trong thâm tâm vẫn có điều lấn cấn. Hắn bán chó, chẳng may trộm mò vào nẫng sạch đồ đạc trong nhà thì biết tính sao? Mà hắn lại thường xuyên đi vắng. Nghĩ thế nhưng rồi hắn lại tặc lưỡi: "Cứ biết thế đã, ở đây lệnh cấm chỉ có tính tượng trưng, nay mai mua con khác". Vậy là đêm ấy chính nhà hắn mất chó.

Còn hai ngày nữa mới hết hội. Hắn phải kiếm bằng được con cuối cùng cho đủ số lượng giao kèo. Làng hắn gần như đã hết, trừ vài con chó ghẻ, trụi sạch lông, gầy giơ xương chẳng bõ động tay. Hắn chợt nghĩ đến làng Trụ bên kia sông. Tình cờ, chiều ấy từ xóm Trại về, hắn nghe ngoài đê có tiếng chó sủa. Đó là nhà bà Tảo goá chồng, ngôi nhà duy nhất ngoài bãi mà hắn chưa mò đến. Bà Tảo gần bảy mươi, mắt kém, có con chó vện mới đẻ chừng già nửa tháng. Chó mẹ tuy nuôi con nhưng khá béo và cái chính là rất khôn.

Chung quanh nhà có vườn chuối tây tốt như rừng. Đêm ấy, hắn huýt sáo nhẹ rồi vứt miếng mồi có tẩm "ma dược" vào góc vườn. Con chó khịt mũi đánh hơi nhưng nhất định không ra. Hắn chờ đến nửa tiếng, con Vện vẫn đứng nép dưới gốc chuối cảnh giác, thỉnh thoảng lại rít lên khe khẽ. Nóng ruột, hắn xoa thuốc làm mất hơi người vào mặt và chân tay, sau đó lách cổng chui vào ném miếng bả thứ hai. Con vật hình như chưa hoàn toàn tê liệt mọi giác quan. Cặp mắt nó mở trừng trừng, lóng lánh như mắt ma. Biết rõ trong nhà chỉ có một người đàn bà hoàn toàn không còn khả năng tự vệ, cùng với máu liều của một gã lưu manh từng được đào luyện trong bộ máy công quyền, hắn càng thêm vững tâm trong phi vụ cuối cùng. Lúc này con chó vừa nhìn xoáy vào hắn vừa lấy hai chân cào cào xuống đất rồi quay đầu chạy vào vườn chuối. Hắn cảm thấy lạnh và thất vọng. Bỗng nhiên có tiếng chó con gọi mẹ khe khẽ. Hắn áp tai vào đầu nhà và bất ngờ phát hiện ra đàn chó ở trong gian bếp nhỏ, cửa không khoá, nằm đối đầu với ngôi nhà chính. Lặng lẽ như một tên kẻ trộm chính cống, hẳn lẻn vào bếp lần đến ổ chó bắt hai con. Quả nhiên, hắn vừa ra đến cổng, con chó mẹ lại xuất hiện. Nó rên ư ử, nhe răng lao vào hắn. Hắn nhanh tay vứt miếng mồi thứ ba. Con Vện vội lùi lại nhưng "ma dược" đã làm nó mất mọi phản ứng. Hắn quẳng lũ chó con vào vườn chuối, rút thòng lọng tròng vào cổ con chó mẹ…

Sáng hôm sau, đúng vào ngày cuối cùng của mùa hội, hắn đạp xe vượt chặng đường mười bảy cây số đến thị trấn Đông Ký. Bà chủ quán đang sốt ruột, thấy hắn, mắt sáng lên:

- Hôm nay chú không đến thì tôi sập tiệm. Và mới có một đoàn khách của huyện uỷ đặt ba mươi tám suất mà chưa biết trông vào đâu.

Hắn đỡ chén nước nóng uống một ngụm rồi bắt đầu mở cửa lồng. Con chó bị trói hai chân trước quặt ra đằng sau, nằm bẹp một góc. Bị quăng xuống đất, nó giãy giụa, quằn quại, nhớt dãi chảy lòng thòng, một bên mõm dĩnh đấy cát. Như có luồng điện khá mạnh xuyên qua người, hắn không dám nhìn vào mắt nó nhưng linh tính báo cho hắn biết có chuyện chẳng lành. Con chó thở hồng hộc và bỗng nhiên tru lên một hồi dài thê thảm như tiếng loài sói bị thương hú gọi đàn. Tiếng hú âm âm, ghê rợn làm bà Béo phát hoảng, chắp hai tay vái lấy vái để lên bàn thờ Thổ công. Hắn cười gằn, vớ cây gậy ở gầm giường vụt vô tội vạ. Nhưng có lẽ do tâm thần bắt đầu hoảng loạn nên hắn toàn đập trượt. Con chó cố sức vùng vẫy, và, chẳng biết trong lúc hiểm nguy, nó làm cách nào giựt tung được dây trói, nép vào góc tường tránh đòn. Hắn quyết định trừng phạt đến cùng con chó láo lếu liền cầm gậy bằng cả hai tay vung lên quá đầu. Trong khoảnh khắc, con chó ngẩng lên, hai cánh múi phập phồng, run run. Từ cặp mắt thất thần của nó lăn ra những giọt nước trong suốt như thủy tinh pha lê. Lần đầu trong đời nhìn thấy sự lạ, hắn tái mặt, quẳng gậy, lùi dần về phía sau. Được tự do, con chó lưỡng lự vài giây rồi mới cúp đuôi rông thẳng ra đường.

Hắn ngồi xệp xuống, mắt trợn ngược, toàn lòng trắng. Mọi phản xạ lúc này có vẻ không theo quy luật tự nhiên nữa. Hắn tựa như kẻ mất hết khả năng suy nghĩ mà lần mò trong thế giới vô thức. Và rồi, chẳng biết thứ ma quỷ nào ốp vào, thốt nhiên, hắn bỏ quán bà Béo, bỏ cả xe đạp với chiếc lồng sắt chạy bổ ra đường đuổi theo con chó khốn khổ. Đầu hắn lao về phía trước, hai tay chới với, miệng sùi bọt, sủa váng lên :

- Gâu ! Gâu !

Bức thêu Quan Âm

Lựa nổi tiếng trong nghề thêu nhờ mũi kim cô luôn đều tay và tỉ mỉ.  Mắt cô vừa tỏ vừa lanh. Lướt qua như chớp cô đã biết mũi kim cần phải trổ tại can chỉ nào.  Cô thêu rất mau và thuần thục hầu hết  các mẫu thêu. Từ  ngày Út Lim chết, cô làm biếng nhận hàng. Có cảm giác không còn gì để cô phải nỗ lực nữa.  Nhưng khi có người đặt thêu  một bức Quan Âm  để trị bệnh cô gật đầu liền. Ơ bức này cô thêu thật chậm, thành kính rút từng mũi chỉ. Lần đầu thêu tranh Phật, cô gởi vào từng đường kim mũi chỉ những lời cầu nguyện trong lành. Chú Tám  trước cửa nhà cũng khuyến  khích “thêu tranh Phật ráng thêu cho đẹp, vừa kiếm tiền mua gạo vừa được phước”.

Ngày đã trôi một nửa, đời cũng đã qua gần dốc bên kia. Hai Lựa vừa tạm quên  mình sẽ cả đời neo đơn, xóa được phần  nào  ám ảnh  đỏ  nhức nhối  ngày Út  Lim chết. Hắn lù lù xách bọc ni lông bước vô nhà. Hắn vô nhà hắn nhưng Hai Lựa lại muốn châm lửa đốt nhà mình. Nhẹ nhàng lắm cũng là đóng cửa nhà mình  rồi biệt xứ.  Hai Lựa cầm chắc những ngày kế đó cô sẽ nhai  nuốt những hột cơm hiền lành như nuốt sạn, cắn miếng tàu hủ mềm xèo sẽ thấy cứng như bê tông. Chắc chắn vùng đỏ lòm ngày nào lại hiện về, gương mặt Út Lim thoi thóp  nói “Hai ơi, em…”  rồi tắt thở sẽ  đáo lại y nguyên. Hắn  đã được ân xá trước hạn. Thời gian tệ hết biết, chưa làm tròn bổn phận xóa nhòa quá khứ lại để hắn nhong nhỏng trước mũi  Lựa. Ngay bữa đầu tiên đã hắn tuyên bố với mấy thằng bạn nhậu. “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại.  Chưa có nơi nào yên lành hơn nhà mình dù nó chỉ là cái  chòi. Xa nó hơn mười năm... Nhứt định  không  khi nào  tao xa nó lần nữa". Ôi nhà mình.  Nằm trong nhà mình,  Lựa nghe rõ từng lời của hắn.

Nhà Lựa cách vách nhà hắn một khoảng lớn cỡ… bề ngang sợi tóc. Đêm  nằm cô nghe rõ tiếng ngáy, tiếng mớ nặng nề đầy lo sợ, thù hằn của tên giết người…  Có bận đi nhậu xóm nào về,  hắn  đi huốt  nhà mình sừng sừng trước cửa nhà Lựa, gục gặc... Khi ở nhà hay đi đâu cô đều phải đóng kín cửa. Ngột ngạt bực  dọc  muốn  nổi điên, muốn ra giữa trời gào la cho  trời đất rùng mình một  trận nhưng không làm được.  Lựa kêu bán  nhà.   Vài người   dòm tới dòm  lui cái nền  của Lựa lắc đầu.  Nhà  gì mà như cái bụm tay, vừa không thông thoáng vừa  sát nách một thằng bán trời không mời thiên lôi, chỉ có cô  dám ở.

Chú Tám nói “Lỡ  rồi, con ráng chịu đi. Đừng khi nào đôi co với  thằng đó, ai biết được nó lại nổi khùng lúc nào” . Nghe chú nói  Lựa muốn khóc vì ức. Cô ra chợ mua mấy thước lưới kẽm rào bọc quanh cửa nhà cô.

Đi nhậu về hắn vịn  hàng rào nhà Lựa lắc lắc, cười hịt hịt  bằng giọng mũi như chế giễu “rào kiểu này cũng  bày đặt rào..."

Lúc đó nhìn  cái mặt  hất  hất, hai  hàng mày nhướng nháy của hắn, Lựa  muốn đạp bừa lên đám lưới kẽm vặn cổ hắn lọi ngược ra sau.

  Ngày đó hắn  chụp  hai chân con chó quật  tới tấp vào cột điện, mặt của hắn cũng nghinh ngang y như  bữa nay. Con chó mất mạng cũng chỉ vì lẻn vô nhà hắn ăn vụng mấy con cá ươn. Hắn nhởn nhơ thọc huyết con chó, vừa hát vừa bắt nồi nước sôi, múc từng giá xối lên mình, cạo lông nó ngay trước mặt  chị em Lựa. Út Lim bườn qua cửa vừa rủa vừa khóc. Út Lim chửi càng quyết  liệt  hắn càng nuốt nước  miếng ừng ực… Nồi thịt chó đã sôi. Mùi sả, mùi dừa, mùi tương tẩm đều mùi thịt xộc vô mũi hắn. Hắn háo hức. Út Lim  nổi khùng, chửi  nghe nhức óc.

Lựa đã cản em mấy lần nhưng làm sao cản được. Mẹ đã chết khi mới sanh nó. Cha đi cưới vợ khác. Nhà chỉ có hai chị em. Lựa chúi mũi may vá mới đủ chén cơm, đủ quần áo mặc nên ít trò chuyện với em. Người chơi với nó thường  nhất chỉ có con chó. Trong mắt Út con chó là một người. Nó vừa gan góc vừa trung thành. Hễ thấy ai hung dữ hay ăn hiếp Út Lim là nó nhào ra vừa cắn vừa gừ, mặc kệ đối phương là người lớn kẻ nhỏ. Vậy mà thằng chó đẻ đó dám ăn thịt  nó. Đồ chó, đồ ác đức sát nhân. Quân ăn thịt người. Cao trào của những câu nguyền  rủa  vừa  rớt ngay cơn say  đạt đỉnh. Nghĩa là hắn không đủ tỉnh để kìm mình, không đủ mê để vùi đầu  trên chõng tre ngáy ầm  bên mâm nhậu dở dang. Ngọn mác để thọc cổ chó giờ xuyên yết hầu Út Lim.

Lựa chay trường đã  mười tám năm, máu con cá màu gì cô muốn quên rồi  vậy mà một   tích tắt  nhà  đẫm máu đứa em trai duy nhất. Nếu hắn không đi tù Lựa không biết mình có  dằn nổi cơn uất hận, có thể là hắn giết  phức  cô, hoặc là hắn chết.

Hắn đi tù, hai ngôi nhà  chỉ còn mình  Lựa.  Cô có đủ yên tĩnh để tụng niệm,  dằn xuống  những cơn chấn động của tình cảm. Những lúc yếu trong mình, Lựa nghĩ nhiều tới tuổi già.  Lim chết  rồi, con đường chay lạt đã làm cô  lắc đầu  chuyện chồng con. Ngôi nhà này  vĩnh viễn  sẽ không có trẻ con. Nếu cô  nằm xuống sẽ kết thúc ngôi nhà này giữa thế gian. Ai sẽ vào đây ở. Ai sẽ thờ  cúng mẹ  cầu siêu  cho cô, cho Lim. Lòng cô  rũ rục  như  sắp rã tan các thứ. Rồi  cô tự an ủi mình. Bận tâm làm gì, cả thân xác này cũng  không phải là của  ta  thì bận lòng chi chuyện còn mất. Cô  nhắm nghiền mắt chìm tâm trạng vào  vùng thành kính với đức Như Lai.

Khi quên được, lòng nhẹ  như chưa có sự hiện diện của chính mình. Nhưng  không phải lúc nào Lựa cũng tìm được an lạc. Chẳng hạn như lúc nghiêng  mặt   đụng  thấy ngôi nhà của hắn, lúc nhìn thấy ánh mắt Lim trên bàn thờ, lúc quét dọn nền nhà… Máu người  là dòng chảy linh hồn, nó lẩn quẩn như dòng gió dày đặc, có thể quơ tay đụng, lành lạnh, gờn gợn, bò vào lòng người ngậm nhấm, kéo dai dẳng từng cơn đau. 

Hắn đã trở về. Nhà tù không khiến hắn nhìn thấy dòng chảy đang lẩn quẩn quanh hắn, dù hắn có sợ nỗi túng quẩn của tù ngục. Chuyện ở  trại giam cũng thành  nơi đào sâu chôn chặc. Hắn chỉ có hay gục gặc cái đầu nhìn về phía nhà Lựa, như còn ẩn ức lắm. Có bữa Lựa nhón người phơi cái áo bà ba màu chàm  trên  sào quần cặp ngõ, hắn  ngồi bên kia nhà vừa nhâm nhi vừa nhướng nháy. 

- Dị thường, cả đời nó chỉ  tàu hủ với rau luộc mà hai  cái vú lúc nào cũng nẩy ngược. Thằng chó chết, mầy chổng ngồng vầy hoài sao tao sống nổi hả trời.

Lựa chỉ hiểu được một nửa câu nói, nghĩa là khi cô nhìn xuống, thấy hai khối tròn cứ muốn xé lần áo bà ba chui tọt ra ngoài. Như có điện, cô cụp hai tay xuống  quay phắt người  vô nhà, ngồi thụp khuất vào vách. Cô trách mình tiếc chi cái  áo cũ, trách  sao bước vào  tuổi  ngoài ba mươi người cứ ngày một căng tròn.  Trách ba má ngày xưa đất đai minh mông thiên địa lại chui vô cái xó này tìm chỗ ở, rồi mạnh ai nấy đi. Để bây giờ cô đứng ngồi bên nách hắn, một hơi thở cũng sợ hắn  dệt  ra cả một câu chuyện thô thiển, tục tằng.

Và nửa câu  sau của hắn cô cũng hiểu tường tận sau đó không lâu. Thoạt đầu cô tưởng hắn nói chuyện với mấy con cá sình. Lúc  chiều cô thấy hắn vớt được dưới sông đem lên.

- Đồ chết bầm, đừng có dựng đứng lên như vậy. Nằm xuống, không được  ý kiến gì hết mày biết không. Không chịu hả, để tao vuốt ve mày nghe.  Chỉ có bàn tay tao mới dám tới gần mày thôi, biết chưa thằng khốn kiếp.

Hắn thì thào, thì thào một lúc lâu...  Khi Lựa đội nón đi mua rau  nấu  cơm chiều, cô thấy hắn đi ra  cái lu kê sát cửa nhà Lựa, múc nước  rửa  tay, miệng láp dáp:

- Thứ này vô bụng  đàn bà là thành con nít đây.

Dường như hắn biết Lựa nghe hết nên cố tình  diễn tả thật tỉ mỉ. Cũng có thể do biến thái, hắn thích mô tả những điều chỉ mình hắn biết.

 Lựa nói với chú Tám sao mà con khổ quá chú ơi, chắc con chết quá. Chú  vỗ nhẹ vai Lựa. “Không sao đâu con, nó bị tù một lần cũng sợ lắm rồi, không dám làm gì bậy bạ đâu. Ở đây còn bà con, còn chú.  Lúc khuya chú hay thức giấc đi một vòng qua bên này".

Chú Tám là một người nhiều tuổi, cường tráng lại hiểu chuyện.  Có gì khó khăn là Lựa chạy qua hỏi ý chú. Trò chuyện với chú cũng  là cách làm  giảm áp lực đè cứng Lựa. Cô ước mình là con của chú, được ở bên chú mỗi ngày.

  Lần nào nói chuyện với chú Lựa cũng yên tâm về ngủ ngon hơn.

Trời âm u. Bóng tối  lạnh tanh đông cứng người Lựa. Cô cựa mình một cái coi có cử động được không. Tay chân cứng ngắt, mắt Lựa cũng không mở  lên được. Nhà bên cạnh có âm thanh như  bàn tay đang vẹt lá, như có tiếng người chui qua kẽ lá. Hắn đang làm điều đó. Ý nghĩ đầu tiên xuất hiện khi Lựa trấn tỉnh được mình. Cô muốn mở miệng  la lớn nhưng không biết kêu thế nào.  Cô  muốn kêu chú Tám nhưng miệng cũng đóng kín. Nỗi hoảng sợ làm cô  muốn bật khóc  thì có một giọng thì thầm bên tai.

- Đừng  sợ, có chú  nằm kế bên nè.

Lựa thấy một hơi ấm.  Trời rất tối nhưng sao nụ cười chú sáng lạ lùng. Người chú tỏa ra một mùi lạ nhưng khiến cô vững vàng. Cô quay mũi qua người chú hít một hơi, thấy luồng không khí  đi sâu vào lòng ngực nở  bùng ra ấm rực. Chú  choàng tay qua người Lựa nhè nhẹ  xiết cô vào lòng. Mơ hồ cô  thấy mình kháng cự, mơ hồ cô thấy mình ngất ngây.  Hơi ấm từ môi chú chạm vào má  cô… lần xuống cổ. Bàn  tay chú  lòn sâu vào  lưng  áo, lần ra phía trước, lướt nhẹ qua bầu vú.

     - Nó căng tròn hà.

Tiếng chú thì thầm ngọt hơn cả tiếng an ủi lúc chiều.

Bàn tay ấm  xoay  nhẹ đầu vú…

- Ôi đã quá.

             Lựa choàng tỉnh dậy. Tiếng  nói vừa rồi là của hắn. Thì ra là chiêm bao. Ở  nhà bên cạnh hắn vẫn không ngừng dòng âm thanh mơn trớn. Giống như là hắn đang lần mò chỗ kín một người đàn bà nào đó đang nằm dưới hắn.  Có lẽ hắn đang tưởng tượng, bởi vì Lựa biết ngay cả những cô gái điếm cũng chưa từng dám bước vô nhà hắn. Lựa biết cái thứ lạ tai đó đã làm nên giấc chiêm bao tội lỗi của cô.                                    

Lựa  chợt rùng mình nhận ra cái hoa con gái  đã nở,  bầu ngực căng cứng lên, cái nút bóp bật tách một cái.  Cô thoáng nóng mặt, bịt kín tai lăn mình sát vách bên kia. Tại sao mình  lại đĩ thỏa như vậy được chớ? Mình là thứ gì, ôi tội lỗi. Nam mô...  Lựa niệm tới đó lại không dám  niệm nữa. Hình như mình làm ô uế  chốn thanh bạch của tâm linh… 

Bức thêu Quan Âm vẫn chưa có mặt. Mỗi lần cầm kim cô lại nghe tiếng nhừa nhựa chửi thề,  phô diễn chuỗi động từ  thô tục. Lựa nghiến răng, cắn môi.  Chỉ có khi hắn  đi phức chỗ này hoặc khi hắn chết cô mới đủ bình yên tu tĩnh.  Cô nhắm mắt niệm Phật.  Trong đầu, những dòng  ý nghĩ cuộn  xà quần, những câu từ tục tằng thối tha của hắn xen lẫn tiếng tụng niệm như đang rượt đuổi, như giành giật nhau.  Cô  đâm kim vào mặt vải hậm hực bỏ đi ra đường, lang thang một lúc.

Một hôm, hắn trèo lên xe lôi đi đâu đó, Lựa thở ra một cái, cầm kim thêu  riết riết. Đói cô không ăn vì cô  biết chẳng mấy khi được thanh thản làm  cho rồi  bức thêu. Khi mũi kim vừa chạm dứt viền môi tươi hồng của Ngài  thì…

- Trời, hình  Phật gì mà con mắt láu liên như  đang rình...

Lựa nhìn lên thấy nụ cười nham nhở  man dại, hai con mắt đục ngầu như  mắt cá chết. Lựa thấy như mình sa xuống địa ngục và quỷ sứ có bầy đang vây  quanh. Cô cầm khung thêu lùi lại tự vệ.  Hắn cười ắc ắc  rồi lúc lắc người bỏ đi.

Cô ngồi nhìn lại bức thêu. Ui trời, cô thêu đôi mắt  Quan Âm nhìn vừa lãnh đạm, vừa quạu quọ, như đang soi mói ai đó. Mắt của Ngài trong lòng Lựa không phải như vầy. Cô tỉ mẩn tháo từng mũi chỉ. Thật bối rối.  Đúng ra ngay từ đầu cô nên từ chối lãnh bức thêu này. Giờ đây cô giống vừa thêu vừa  chui kẹt hóc trốn bọn  thú ăn thịt người. Từng mũi thêu nhập nhằng  chằng chịch như đám chỉ rối.

Hơn một ngày Lựa đóng cửa nhà kín mít, tập trung tâm trí thêu. Nhưng khi thêu được  hết vầng trán, chạm vào đôi mắt Ngài là tai Lựa lại vang lời nói trong đêm. Lựa nghiến răng lắc đầu nhiều lần. Mọi thứ tưởng như tan rồi cô mới cầm kim. Khi mũi kim nhú khỏi mặt vải tai cô lại cuộn lên mấy lời gợi dục, những hình ảnh của đêm… bàn tay ấm áp…  Cô cắn môi  chạy ào tới bàn thờ, lấy mấy chung nước cúng nghiêng đầu đổ vào tai, đổ hết tai này lại đổ qua tai kia rồi nghiêng ngược lại cho nước trút ra, hy vọng nó sẽ rửa  sạch thứ rác rưởi. Tai Lựa đã bít chịch màng nước, có cảm giác bóng đêm trộn nước, đóng cứng trước cửa tai. Lựa  phải ra lu nước múc một ca nước lạnh đổ vào tai để dẫn nó ra.

   Cô bước tới bức thêu, không dám  cầm kim vì  cô sợ lại đụng phải  dòng âm thanh lúc nãy. Lựa hoảng loạn thực sự. Điều tồi tệ nhất là nỗi lo sợ này  cô không dám nói cùng  ai thậm chí người cô tin tưởng nhất là chú Tám. Cô  ngồi xuống xếp bằng, hít thở, gạt mọi ý nghĩ ra khỏi đầu óc. Lòng cô  hạ dần xuống cho tới khi:

-         Má mày, sao nứng không có giờ giấc vậy hả…

           Âm  vang tụng  niệm của Lựa  bắt đầu trộn lẫn mấy lời trần trụi nhớt lầy của gã cuộn thành một  dòng  kì quái, ầm ập, ngoằng ngèo đổ ụp vào đầu Lựa, lớn từ từ rồi  nổ bùng ra. Lựa lơ mơ không biết  mình đang ở cõi nào. Mình mẩy bức rức như người nghiện ma túy đang tới cơn ghiền, ruột gan cồn cào  như đang chờ đợi cái gì đó và không đủ sức chờ nữa. Đầu  óc đầy cứng mà trống rỗng, đảo đi đảo lại một câu nói, ta phải đi khỏi  chỗ này, ta phải đi khỏi chỗ này…

  Cái ý nghĩ đó cứ đáo đi đáo lại ngay cả khi Lựa đã rời khỏi nhà mình thật. Trầm cảm cấp tính. Bác  sĩ nói  có phải cô đang sợ cái gì đó? Hay là cô  lo  mất cái gì đó dữ lắm. Chuyện  chiêm bao thấy chú Tám không phải cô yêu ông ấy mà do cô đang  chới với lại được chú động viên nên vương vấn. Bỏ hết, thay đổi môi trường,  ví dụ  như đổi chỗ ở. Khi hết bệnh những tình cảm vụng dại cũng từ từ  dẹp bỏ được.

Đổi chỗ ở? Đi đâu? Bỏ Lim cho ai? Vô chùa? Lựa đang có ý nghĩ đó hoặc là  hắn  chết hoặc là Lựa vô chùa. Tại sao một người ác như hắn không bị trừng trị, một người cả đời không tranh chấp giành giật với ai như Lựa phải mang bệnh trầm kha, phải bỏ chạy, bỏ trốn. Phật ơi con có tội gì đâu mà phải trốn. Đáng lẽ người biến mất khỏi  miếng đất gọn ghẽ này là hắn. Hắn hãy chết đi, càng sớm càng tốt. Sau đêm này, sau đêm Lựa mở trừng mắt nhìn lên nóc mùng thì  hắn  đã biến mất khỏi  thế gian này là tốt nhất. Cô muốn bật khóc vì cô biết chắc ngày mai đây hắn vẫn  còn ở y đó, tẩm đầy rượu cái đầu man rợ  rồi  ém  đầy tai Lựa mấy lời lầy lụa. Lựa bật khóc hức, đấm xuống vạt  rầm rầm  như đang giẫy chết.

                                                  *

Tản  sáng, người trong xóm  bu  đen kịn nhà hắn y như bữa Lựa phát bệnh. Gã đang gồng mình  rên  vì một cơn đau đâu đó ở bụng.

 Tiếng  xe cấp cứu của hội chữ thập đỏ xa dần.

Người trong xóm nói  hắn đang hấp hối, nãy giờ  chết rồi cũng không chừng. Lựa nằm nhà nghe không khí im ắng một cách rợn người. Hình  như nhà bên cạnh có tiếng gió.  Có khi hắn đã chết chỗ  bệnh viện  và… vong hồn hắn  đã về bên nhà đó. Hắn chết rồi? Sao cô không thấy  nhẹ như trong tưởng tượng của mình? Đáng lẽ cô phải ngồi dậy nhảy nhót cười hí hửng, thậm chí mở tiệc ăn mừng. Tại sao vẫn như có  tảng đá thật lớn đè  nặng đâu đó trong lòng, trong đầu hay trong linh hồn. Hắn đã chết  rồi phải không? Đầu óc cô lại căng ra. Cô biết nếu  để những câu hỏi đầy thêm đầu óc cô sẽ nổ tung lần nữa. Phải làm cái gì đó…Lựa  vói lấy bó nhang để vô bọc, bước lên xe, đạp về hướng chùa. Cô  muốn hít một ít mùi nhang ở chùa, nghe một ông sư nào đó giảng đạo.

Không phải ngày lễ ngày rằm nên chùa rất vắng, mấy sư cũng đang  tìm chỗ yên tĩnh  tụng niệm. Lựa  quỳ gối bên tượng đức Như Lai nhắm mắt niệm Phật. Cô ngồi rất im, nghe được tiếng trái tim gõ từng nhịp rối bời. Đừng sợ, hãy thành tâm. Cô tự trấn tĩnh mình. Vẳng  phía ngoài vườn tiếng  gió vi vút. Trong  điện không có âm thanh nào. Một lúc sau cô nghe  tiếng một con muỗi  vo vo bên tai. Nó lượn xuống  khuỷu tay Lựa kiếm chỗ ghim. Cô mở mắt ra phủi phủi đuổi nó đi. Nó lại bay tới, cô lại phủi phủi đuổi nó đi. Cô đủ từ tâm làm điều đó.  Mười mấy năm nay, một con kiến lỡ cắn Lựa cũng chỉ đuổi nó đi  chớ không giết… Nghĩ tới đó dòng nghĩ  ngừng lại, máu trong tim cuộn lên cơn chấn động. Lựa ơi,  hôm nay cô nguyện cho chết một con người. Tội này tu tới kiếp nào mới giải cho xong? Linh hồn hắn sẽ  vất vưởng  đâu đó. Lựa tin  chắc người chết để lại dòng tâm linh. Tại sao cô có thể  cầu chết một mạng người? Cô ác có thua gì hắn  đâu? Xin đức Phật từ bi tha thứ cho con,  tại lúc đó con ức lòng quá, tại hắn  ác đức với con quá. Xin ngài hãy chứng  giám mà tha cho con, phù hộ cho tâm trí con  minh mẫn an lành.  Lựa niệm tới đó thì lại nghe một tiếng thở của hắn bên tai. Có phải hắn  đã chết rồi không?  Hắn đã về trú ẩn ngôi nhà  quen thuộc của hắn. Nơi đó giờ này lạnh như a tỳ. Lựa đã đem a tỳ đến sát vách nhà mình. Cô tu hành làm chi, cô tu được cái gì rồi? Nam mô A Di Đà Phật. Con phải làm sao, Ngài hãy cứu con. Lựa ngồi bệt xuống  nền nhà chùa mắt không rời khỏi  bức tượng. Cô như nghe tiếng nói chính mình. Mình  gieo nhân thì hãy gặt quả, không ai gặt thế được đâu…

Lựa trở về nhà bụng trống không. Cô với tay lấy chung nước cúng  xối một ít vào lòng tay rồi vuốt đều mặt. Lòng cô nhẹ hơn một chút.  Trước mặt cô bức thêu vẫn chưa có mặt. Cô nhớ lại tiếng nói của người đặt bức thêu:

- Con gái tôi bệnh gì không biết nữa, sao nó  cứ buồn buồn hoài.  Một bữa tôi nghe người ta khuyên tìm một hình Phật  cho nó nhìn mỗi ngày từ từ  tâm trí sẽ  an lành. Nhà tôi treo nhiều tranh Phật rồi  nên muốn  tìm một bức thêu. Thấy cô chay lạt hiền lành  lại  khéo tay nên nhờ cô thêu  để lấy đức.

Bức thêu đã ố vàng. Người thuê cô đã hết hy vọng sau lần cô ngã bệnh.  Thêu tranh Phật để trị bệnh, điều cao đẹp như thế sao cô không làm được?  Cô  chay lạt làm gì mà điều đơn giản thế không làm được? Có phải cô chỉ giống  một  con bò, không ăn được thịt nên ăn cỏ rồi khi người ta đâm một nhát vào mông thì quay sừng  móc lòi ruột họ. Mấy năm nay cô  đã làm gì? Mất thời gian cho cái gì? Tại sao không để thời gian đó vào trong từng đường thêu. Dường  như  căn bệnh trầm cảm của cô không phải vô cớ, dường như  ông trời đã muốn cô bệnh để cô cảm nhận được những thống khổ của người bệnh…

Lựa  tháo bỏ bức thêu cũ, cô thay tấm vải mới, trắng tinh. Tay cô thoăn thoắt múa lượn theo từng  đường chỉ. Bức thêu  hiện dáng dần dần mau hơn cô  dự định.

Khi cô thêu đến  gương mặt Ngài thì hắn xuất viện.  Bác sĩ biểu về thèm gì ăn nấy, vô phương rồi. Từng đêm hắn rên rỉ chửi rủa cơn đau. Lựa có cảm giác cô đem cơn đau tới cho hắn . Rõ ràng đang thử thách Lựa. Cô  ngồi im, hít thở chậm, để  đầu óc hoàn toàn trống…Lựa  bỏ khung thêu ngồi niệm bài chú Đại bi, tâm hướng về tên và gương mặt đang đau đớn của hắn.  Lựa niệm  như thế gần một ngày rồi lại ngồi vào khung thêu. Mỗi bữa cô chỉ  ăn một chén rưỡi cơm  với ít muối hột, niệm chú và thêu. Đôi mắt Ngài  dần hiện ra gần gụi như chính đôi mắt mình những khi  tràn ngập thương yêu ai đó. Lựa thêu thật mau, viền môi hồng tươi thuần khiết. Cô vừa thêu vừa say sưa ngắm. Mải miết  với công việc, mệt quá cô thiếp đi. Khi tỉnh  dậy  Lựa không tin đó là bức thêu của mình. Cô đi tới đi lui, đổi từng  góc nhìn, lòng phơi phới một niềm hạnh phúc. Cô nhìn thấy nụ cười của người mẹ, nụ cười trẻ hơn của đứa con bệnh hoạn của bà. Một thoáng cô cười một mình với bức thêu.

- Oa… sao mà giống y như thiệt vậy?

           Lựa  giật mình nhìn lại, gương mặt đen đúa hì hà của hắn  sát bên  cô. Lo thêu Lựa quên không đóng cửa nhà. Hắn ốm kinh khủng.  Cô  chợt nhớ mấy hôm nay cô bỏ quên mất hắn trong trí nhớ  dù ngày nào cô cũng  hình dung về gương mặt về tên của hắn để  cầu chúc phước lành.  Vẫn gương mặt đó nhưng  cô không có phản  ứng gì trừ một cái cười. Mắc cười chớ. Hắn nói  bức thêu giống y như thật.  Làm như hắn đã  từng nhìn thấy gương mặt thật sự của Quan  Thế Âm rồi vậy.

          Hắn  đứng nhìn bức thêu thật lâu, chăm chú thành kính. Gương mặt  tự nhiên hiền như  đứa con nít đang ngắm nghía một công trình  rực rỡ  lần đầu tiên  nó được gặp.  Lựa kệ cho hắn nhìn… Lúc  đó có  chiếc xe tải  chạy ào qua làm hắn giật mình. Nghĩ ngợi một chút hắn  bỏ  đi  vô nhà.  Khi trở ra hắn  đưa cho Lựa một nắm tiền.

         - Hổm rày bệnh quá, chú Tám quyên cho tôi một  mớ tiền. Tôi muốn có một bức thêu y như vậy. Cô  hai... thêu cho tôi một cái nghe. Lúc bệnh tật  như vầy sao thấy thèm nhìn một tượng Quan Âm.

           Lựa nhìn hắn trân trân rồi nhìn bức thêu. Cô lắc đầu.  Chắc chắn cô không thể  thêu được một bức giống y như bức này rồi.  Nhưng cô thầm hứa sẽ thêu cho hắn một bức khác thiệt đẹp. 

Bữa rượu cao hổ cốt cuối năm

14:37 | 10/02/2010

ĐỖ XUÂN THU      Truyện vui thành ngữ Chiều cuối năm. “Rét như cắt da cắt thịt”. Quán thịt chó bà Ba béo đông hơn mọi ngày. Bước vào quán, Chõe bò em gặp ngay một toán nhậu đã nhừa nhựa, mặt người nào người nấy “đỏ đinh căng”, ai cũng “hùng hùng hổ hổ” như muốn “ăn sống nuốt tươi” người khác.

Em thoáng rùng mình rồi tặc lưỡi: “Thây kệ họ. Cơm ai nấy ăn, bàn ai nấy ngồi. Mi không động đến ta thì ta cũng không đụng đến mi. Đừng có làm ảnh hưởng đến hoà bình thế giới là được”.

“Tránh voi chẳng xấu mặt nào”, em chọn cái bàn góc quán có thế “rồng chầu, hổ phục’ để ngồi. Đối với bọn bợm rượu đang cơn “hổ ngôn loạn ngữ” này thì không nên “vuốt râu hùm, sờ dái ngựa” làm gì, chúng “dữ như beo” sẵn sàng khẩu chiến rồi ẩu đả với mình ngay. Bề ngoài, trông em có tướng “râu hùm, hàm én, mày ngài” ra dáng phết nhưng thực ra thì… em rất sợ chốn “hang hùm, miệng sói” nên toàn “dựa hơi hùm vểnh râu cáo” thôi.

“Ngồi chưa ấm chỗ” thì mấy em tiếp viên “đẹp như trong mộng” đến chìa bảng “me nìu” ỏn ẻn: “Mời anh chọn món”. Ra vẻ tay chơi sành điệu, em chỉ đại vào mấy món gia truyền của quán. Thì cũng tổng kết một năm viết lách của mình, tự thưởng tươi tươi một tí có sao. Cả năm “nhịn mồm nhịn miệng” “nam thực như hổ, nữ thực như miu” mà mình thì “miu” mới yếu lính chứ. “Loáng một cái” “cầy tơ bảy món” nghi ngút khói đã được bê ra. Em nuốt nước miếng ừng ực. Chưa kịp lên đũa thì một giọng lè nhè ngay sau lưng:

- Chào bác Chõe! Sành điệu gớm nhỉ? Sao lại chỉ có một mình thế này? Cho thằng em ngồi ghé cho vui nhé!.

Chết tiệt cái thằng “Tư 

híp” “cọp tha ma bắt”, “khách không mời mà đến” này. Lại “ấm ớ hội tề” gạ ăn đây. Hắn mặc bộ quần áo “loang lổ như da cọp” trông đã ghê ghê. Xóm Cổ Cò em xếp hắn vào dạng “lục lâm thảo khấu”, “ăn vi chủ, ngủ vi tiên”, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện đánh chén. Suốt ngày hắn lê la quán bà Ba béo này để chầu hẫu, gạ gẫm đám nọ, đám kia ăn uống “say bét nhè” rồi huyên thuyên “ba hoa chích choè” đủ thứ chuyện. Đúng là “tránh ông cả lại ngã phải ông ba mươi”. Định “toạ sơn quan hổ đấu” thế mà nó lại vác mặt sang với mình.

- Bác Chõe sướng thật. Tuổi thân, sinh giờ dần, tuy không quan chức nhưng giời cho bác cái đường viết lách, làm thơ. Tha hồ nhuận bút mà tiêu xài, bác nhẩy?

Hắn đưa chuyện và nhúp miếng dồi chó đút vô mồm. Vừa nhai hắn vừa nghêu ngao hát:

“Tuổi thân thì mặc tuổi thân/ Sinh phải giờ Dần thì vưỡn làm thơ”.

Em bực quá. Ăn nói bỗ bã lại còn ví với von, học đòi nhại theo các cụ. Tuy nhiên, theo phép lịch sự, em cũng bắt nhời:

- Trời sinh hùm chẳng có vây/ Hùm mà có cánh hùm bay lên giời.

- Hay! Hay quá! Đúng là nhà thơ có khác. Thưởng bác một chén.

Hắn cầm chén rượu dí vào mặt em. Rượu của em mà hắn lại thưởng cho em mới tức chứ.

Tay

hắn run run làm rượu sóng sánh cả ra ngoài. Đón chén rượu, em dốc tuột vào miệng định uống cho xong rồi tống khứ hắn, nào ngờ hắn lại nghêu ngao hát tiếp:

- Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu/ Đến khi hùm dậy đầu lâu chẳng còn.

Ái chà, đối đáp ra phết. Cứ đà này hắn chén “âm ti củ tịt” túi tiền của em mất. Cả 

năm “com cóp cho cọp nó xơi”. Đúng là “không cái dại nào giống cái dại nào”. Em bèn cạnh khóe hắn:

- Hổ dữ còn ẩn bóng cây. Huống chi anh chẳng chờ ngày lập thân?

Rồi chẳng hiểu sao hắn tu tu khóc. Em hoảng quá. Có bao giờ hắn thế này đâu? Em chống đũa trân trân nhìn hắn:

- Bác văn thơ chữ nghĩa nhưng có hiểu gì em đâu. Lên bãi vàng tưởng “thả hổ về rừng” tha hồ vùng vẫy, “anh hùng nhất khoảnh” bốc giời ngay được thế mà bọn bưởng trưởng, lũ đầu gấu “miệng hùm, nọc rắn”, chúng “mài nanh, giũa vuốt” “ác như hổ như báo” đã làm cho bọn em “thân tàn ma dại” “tay trắng vẫn hoàn trắng tay”. Bác bảo “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” huống hồ bọn em “cáo giả oai hùm”. Làm được bao nhiêu chúng trấn lột hết. “Cọp về đồng bằng bị chó ăn hiếp” bác ạ.

Cứ thế hắn tồng tộc kể hết chuyện trên bãi đào vàng. Nào là: “Hùm thiêng mắc bẫy mọi”, trông em hầm hố thế thôi nhưng thực chất cũng chỉ hạng “miệng hùm gan sứa”, nói thì mạnh mồm nhưng nhát lắm”. Nào là: “Hổ dữ không ăn thịt con” thế mà bọn chúng đâm chém nhau như ngoé. Bác phải thâm nhập thực tế trên đó mà viết bài “kêu thay lạy đỡ” cho bọn em với”. Em lựa lời an ủi hắn:

- Thân tớ “hoạ hổ bất thành hổ”, dăm bài thơ vườn phỏng có ích gì? Biết chú “miệng hùm không sợ, vảy rồng chớ ghê” song ở vào hoàn cảnh “mãnh hổ bất như quần hổ”, con hổ mạnh không bằng một đàn chồn cáo thế thì phải chịu vậy. “Nợ mười hùm chưa đủ đâm một thỏ thấm chi”. Thôi, đừng thâm thù chúng nữa. Và cũng đừng “hùm mất hươu hơn mèo mất thịt nữa” về quê mà cày cấy giúp vợ giúp con. “Dĩ nông vi bản” không chết đói đâu mà sợ chú à. “Cọp chết để da, người chết để tiếng” đừng lao vào con đường ấy nữa mà khổ.

- Bác nói chí phải - Hắn quệt nước mắt nói - Nhưng mà “cọp chết để da ma chết mất miệng” nữa cơ bác ạ. Thôi, kệ cha nó. Em sẽ không bao giờ vào chốn “hang hùm miệng sói” ấy nữa. Không đâu bằng quê ta bác nhỉ? Người ta bảo “Mèo theo thịt mỡ ồn ào/ Cọp tha con lợn thì nào thấy chi”. Em tiếng thế thôi cũng chỉ phận mèo, phận chó chứ làm sao bì được với hổ với hùm.

Hắn vẫn tu tu khóc, khiến bọn say rượu mâm bên cũng phải giương cặp mắt “là đà lờ đờ” ngó sang. Phải dùng kế “điệu hổ ly sơn” với hắn, lôi hắn ra khỏi miền ký ức u buồn của hắn thôi. Em chủ động rót rượu và mời hắn:

- Ăn đi chú! Năm mới sắp tới rồi kìa, khóc lóc làm gì cho ngao ngán mất dông ra. Năm con hổ đấy. Anh em ta phải “cưỡi trên lưng hổ”, như “Võ Tòng đả hổ” để chiến đấu chứ.

- Bác Chõe nói phải đấy - Chủ quán lên tiếng - Em xin chiêu đãi tất cả các bác bình rượu cao hổ cốt này để các bác “mạnh gân, khoẻ cốt” bước vào năm mới cho khí thế. Riêng chú Tư, tôi chúc chú năm Dần sinh con hổ mới, “hổ phụ sinh hổ tử” làm ăn tấn tới, phát lộc phát tài. Mọi người đồng ý chứ?

Em tròn mắt ngạc nhiên trước câu nói hay như thơ và ý tưởng độc đáo của tay chủ quán.

Tay em run run đón chén rượu đặc sản gia truyền của hắn và cũng cất cao giọng tây tây:

- Hoan hô ông chủ quán! Nào anh em! Ta nâng chén chúc tất cả năm mới “dũng mãnh như hổ” “kiến công lập nghiệp” “công thành danh toại” cùng “cưỡi trên lưng hổ” nào!

Tất cả cầm chén đứng dậy hô “dô dô” rất khí thế. “Tư híp” xăng xái hẳn lên. Em cũng lâng lâng thả hồn trên chín tầng mây. Rượu cao hổ cốt có khác. Hứng chí, em xua tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi ông ổng ngâm bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.

Trong mơ màng của cơn say, em và mọi người đều trông thấy nàng Xuân đang cưỡi hổ phi về trước ngõ. Phải rồi, mùa Xuân đã về!

NHỮNG

NHÁNH RONG XANH TRÊN DÒNG SÔNG TUỔI NHỎ

Bài đọc sưu tầm của Yên Sơn

Buổi sáng, khi mặt trời chưa thức dậy, hắn đã ở ngoài vườn, tỉa cành tưới nước, vuốt ve những cụm hoa đang khoe sắc. Mấy chậu hoa sứ nở ngào ngạt hương. Hương hoa sứ thơm dịu dàng như một thiếu nữ trang đài đứng trên lầu mộng. Hắn lượm mấy nụ hoa mới rụng dưới cội đưa lên mũi hít thở nhẹ nhàng. Mùi thơm dịu ngọt cho hắn một cảm giác thật dễ chịu và lấy làm tiếc là nó không giữ được lâu như những loại hoa khác. Hắn bỗng mỉm cười nghĩ tới câu “hồng nhan bạc mệnh”! Hương hoa sứ thanh khiết nhưng mong manh như một người con gái trang đài xinh đẹp.

Hôm nay đã là ngày thứ Sáu trong tuần! Hắn có cảm tưởng như hắn chỉ vừa chào ai đó trong ngày thứ Sáu… một hai hôm trước! Thứ Sáu đâu mà rộn rịp thế nhỉ? Thứ Sáu đại diện cho một tuần lễ sắp hết mà càng lúc thấy nó tới nhanh hơn mình tưởng! Tâm lý con người cũng vẫn quanh quẩn như vòng trầm luân của đời sống, như bánh xe nước ở mấy chặng sông Trà, sông Vệ năm xưa: con nít vô tư, hồn nhiên mong chóng lớn, người lớn sợ thời gian, người già thích trở lại cái thuở hồn nhiên vô tư lự! Nghĩ tới cái thời “vô tư lự” lòng hắn bồi hồi chạnh nhớ những kỷ niệm xưa dù có nhiều vết tích cũng đã lờ mờ sương khói.

Nhà hắn bên bờ xe nước sông Vệ, nơi hắn thường bơi lội với lũ bạn sau những buổi tan trường. Học mới lớp một, lớp hai mà hắn đã “bơi lội như rái” – theo lời kể của Mẹ hắn mỗi lần cùng Mẹ ôn lại chuyện xưa. Dưới chân bờ xe nước thường có nhiều tôm càng, cua xanh và cá bống mú. Cá bống sông Trà, sông Vệ mà kho rim tiêu, ăn với cơm nóng thì tuyệt cú mèo. Dòng sông này đã cho hắn khá nhiều kỷ niệm thuở thiếu thời. Một lần vô ý bị cua kẹp dưới đáy nước, hắn hét tướng lên làm nước tràn vô miệng, uống cành hông, từ dưới đáy ngoi được lên mặt nước tưởng như thời gian ngưng lại, may mà không bị chết đuối! Cũng dòng sông này đã cướp mất của hắn một người cô yêu quý! Đó là dịp kỵ giỗ hàng năm của đại gia đình bên Nội. Cô hắn cũng còn rất trẻ, thích bơi lội, biết anh em hắn bơi giỏi nên mỗi lần về là rủ đi tắm sông. Sự tin tưởng của cô đã bị phản bội khi dòng nước nhận chìm cô vì chân cô bị vọp bẻ, và anh em hắn cũng suýt chết đuối theo bà cô giã từ cuộc đời đầy bi lụy! Cũng dòng sông này anh em hắn đã từng nhặt những trứng vịt rơi rải rác nằm sâu dưới dòng nước, trên mặt cát mỗi buổi sáng khi những đàn vịt nuôi, hàng ngàn con được lùa qua; hay những đêm trăng thanh gió mát mang chiếu ra trải trên bải cát trắng phau, nghe người lớn hò đối đáp rồi cùng ngủ qua đêm với các anh chị hàng xóm. Hắn cũng nhớ Mùa Vu Lan năm nào đó rất xa trong ký ức, giọng ca cao vút của một chị huynh trưởng, trong đoàn Phật tử, hát trong đêm văn nghệ trên khán đài lộ thiên nằm trên mặt cát trắng bên dòng sông Vệ. Hắn nhớ hoài giọng hát và gương mặt đó với bài hát Mục Kiền Liên… Đìu hiu gió bóng chiều rơi theo lá thu, có đàn chim bay vấn vơ, chuông chùa xa đưa huyền mơ! Mục Kiền Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan, nhớ Mẹ xót xa tâm hồn, bóng Mẹ biết bây giờ đâu… Không biết là vì vóc dáng của chị đoàn trưởng, hay là vì ánh sáng huyền hoặc của đêm trăng rằm hôm đó mà từng lời ca, từng dáng điệu in hằn lên tâm khảm hắn như một tỳ vết dễ yêu mỗi khi nghĩ đến, nhớ về! Dòng sông này cũng còn một kỷ niệm nguyên xi những lần hướng dẫn gia đình chạy nấp máy bay oanh kích của giặc Pháp, hoặc các trận đụng độ giữa Việt Minh và Pháp trước ngày đất nước chia đôi, trong các hầm cát bên bờ sông gần nhà hắn mà phía trên của hầm cát là những cụm xương rồng và cây lưỡng long tua tủa gai nhọn. Những hầm cát này đã được lũ trẻ con hàng xóm, bạn bè của anh em hắn cùng đào móc chơi đùa với nhau sau những giờ tan học, hoặc để tránh những cơn nắng hạ khắc nghiệt một thời. Dòng sông này cũng là nguồn thực phẩm nuôi sống cho anh em hắn và biết bao nhiêu gia đình ở hai bên ven sông…

Khi Ba Mẹ hắn quyết định đưa đàn con đi tìm vùng đất hứa ở miền Nam trong chiến dịch khẩn hoang lập ấp của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, anh em hắn đã bỏ ra mấy ngày, ngồi hàng giờ nơi chốn ấy để thì thầm những lời ly biệt, để gửi lại những tiếc nuối khôn nguôi! Cái quyết định rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, xa lìa gốc gác, mồ mả tổ tiên đã bao đời gầy dựng để xuôi Nam “vì tương lai con cháu” của Ba hắn là một biến cố trọng đại cho gia đình và giòng họ. Cái quyết định đã gây sững sờ không những cho giòng họ mà còn cho cả xóm làng. Ba hắn đã thuyết phục một số bà con và những bạn bè thân cận cùng “đi lập nghiệp” ở một nơi chốn chỉ biết qua giấy tờ và lời thuyết phục từ các cấp chính quyền. Người ta xầm xì, bàn qua tán lại cho là “đi về chốn rừng thiêng nước độc” khiến một số gia đình thay đổi ý định, kẻ ở người đi! Cho tới lúc này, ngồi đây viết những dòng này, hắn cũng cảm nhận cái quyết định của Ba hắn thời đó là một quyết định “dữ dội”, là một sự can đảm phi thường, là một sự liều lĩnh có tính toán! Hắn chợt nhớ nghĩ đến người cha thân yêu, hắn càng cảm phục sự nhìn xa thấy rộng của Người, cái quyết tâm dũng cảm của Người, và càng biết ơn Người!

Nói đến thời kỳ khẩn hoang lập ấp, hắn nhớ ngay đến hai dãy nhà tiền chế nằm hai bên con lộ đất đỏ mù trời duy nhất được ủi vội để chào đón những gia đình mới tới! Lúc đoàn xe vận tải nối đuôi đổ người xuống, sau mấy ngày di chuyển vô cùng vất vả trên đoạn đường dài từ miền Trung mịt mù xa lơ xa lắc, hắn không biết là khoảng thời khắc nào, chỉ nhớ mặt trời đã nằm sâu dưới những tàng cây đầy kỳ bí mà chung quanh là núi rừng dày đặc hoang vu! Có tiếng khóc bất an của một vài người đàn bà và em nhỏ hòa cùng tiếng côn trùng và chim muôn kêu rả rích tạo nên những khúc nhạc thê lương ảm đạm! Những gốc cây trơ trụi còn sót lại chỏi lên khắp nơi, những đống cây khô khổng lồ được xe ủi gom vào từng hàng dài càng làm cho cảnh vật thêm phần u tịch! Hắn nhớ như in vẻ mặt chịu đựng của Mẹ hắn, dấu vội đi những giọt nước mắt lăn dài khi vừa đẩy cửa bước vào một trong hai căn nhà dành cho gia đình hắn. Căn nhà khá rộng nhưng mái lợp bằng tranh, vách ngăn bằng lá. Mẹ nghẹn ngào nói với đàn con “các con ráng chịu khổ một thời gian, chắc chắn mình sẽ được chính phủ giúp đỡ để tạo dựng một đời sống ổn định hơn cho tương lai của các con”! Hắn nhớ quá thời gian tân khổ nơi này… những cánh đồng hoang vu mênh mông mầu mỡ, những khu rừng bát ngát vô tận, những rừng mai bạt ngàn mỗi khi xuân về tết đến. Những hồ ao, đồng lầy đầy ắp cua cá, con sông La Ngà lặng lờ chứa đựng dư thừa thủy sản… rồi những ruộng lúa mênh mông, những rẫy bắp, nương đậu xanh mướt một màu, rộng bao la cũng theo thời gian cùng với sức người hiên hữu khắp nơi. Rừng rậm và thú dữ càng ngày càng bị đẩy xa, xa tận tầm nhìn… Đặc biệt mỗi khi lên mùa nào đậu, nào bắp, nào lúa tràn ngập khắp nhà từ trước tới sau, từ trong ra ngoài, vun tràn từng đống lớn. Thế mới thấy cái quyết định của Ba hắn là đúng đắn chứ không như những ngày đầu đầy ân hận! Tuy nhiên, hắn vẫn thấy khổ ơi là khổ cho những nhà nông! Trong thâm tâm hắn đã có ý nghĩ “một ngày nào đó mình sẽ lìa xa”… Nhớ ơi là nhớ Cánh đồng lớn, khu rừng Mai, con sông La Ngà, ngọn Đồi Bảo Đại với những hàng cây vú sữa rợp bóng dọc theo con đường trôn ốc từ dưới lên tận đồi cao nhưng nay đã không còn chủ…

Hắn chợt nhớ ngày đầu tiên khai trương khu trường Trung Học Công Lập đệ nhất cấp Võ Đắt. Anh em hắn là một thành phần trong loạt học sinh Trung học đầu tiên vào học trường này. Ngày cắt băng khánh thành, anh em hắn được mặc đồng phục toàn trắng, trông rất oai nghiêm đứng hàng giờ dưới trời nắng chang chang để chờ sự xuất hiện của Cụ Ngô Tổng thống! Mặc bộ đồ đặc biệt này lòng hắn sung sướng xiết bao, hắn thấy như mình lớn hẳn ra, đi đứng trang nghiêm, nói năng chững chạc. Ở nhà, hắn đã phải đứng xoay qua xoay lại “cho Mẹ nhìn ngắm thanh niên của Mẹ một lúc”. Hắn chợt nhớ quá những khuôn mặt thân thương cùng hắn chia sẻ những nỗi vui niềm buồn của một đời học sinh trên cái xứ đất đỏ buồn tênh xa cách thị thành! Nào Tươi, nào Thành, nào Hiền, nào Tư, nào Ánh, nào Thu, nào Hạnh… nay kẻ còn người mất… người phương này kẻ tận mờ xa!

Chó sói về Quỳnh Nhai

Bản Hé giữa rừng

Tùng là bạn học hồi phổ thông của tôi ở phố thị Sơn Tây. 4 năm nay, hắn tham gia mở đường vào huyện cụt lối xa xôi của huyện Quỳnh Nhai, tỉnh

Sơn La

. Tình cờ gặp nhau ở cái huyện lỵ hắt hiu nghèo nằm chờ ngập nước ấy, mắt Tùng sáng rực hiến cho tôi một đề tài mà tự hắn bảo rằng "đứng ở góc độ báo chí thì rất hay": Chó sói về, cả một đàn

chó sói

ăn thịt cả một đàn bò!

Tôi vượt núi vào bản Hé tìm

chó sói

theo lời chỉ dẫn của anh Cầm Ngọc Minh - Bí thư Huyện ủy Quỳnh Nhai. Sự thật còn hơn cả lời đồn: Hơn ba chục con bò đã bị

chó sói

moi ruột đánh chén; 11 con

chó sói

đã bị giết, bị thui rơm xẻ thịt ngay tại sân kho của bản!

Cả bản ăn thịt

chó sói

Nhất - một cán bộ tuyên giáo huyện - đưa tôi vào bản Bo, xã Mường Chiên. Sự kiện sốt dẻo pha chút hốt hoảng vừa mới diễn ra: Một con bò nhà anh Lò Văn Phúng bị

chó sói

ăn thịt. Vẫn theo lối tấn công cũ: Đàn

chó sói

đã quật ngã rồi xé đít con bò lôi bộ lòng nóng sốt ra đánh chén trước.

Trên một đỉnh núi vòi vọi, trong lều nương của một nhóm thanh niên bản Bo, anh Phính - người vừa cầm vũ khí theo anh Phúng đi cướp xác con bò cái về - kể: "Đàn sói này chắc không đông lắm, vì chúng mới chỉ ăn hết bộ lòng và một bên đùi con bò. Chứ đàn nào độ hơn chục con thì nó ăn loáng cái hết 3 con bò".

Chuyện về

chó sói

nổ ran: Có người còn bảo

chó sói

có nước đái rất độc. Nó cứ đái vào lá cây rừng, con trâu, con bò đi qua chớp mắt dính một tẹo là mù mắt, chúng xông ra chén thịt tươi! Cô nữ cán bộ tuyên giáo sợ xanh mắt, hỏi: Chó sói ăn thịt người thì làm sao?

Trong khi đám thợ săn tiếc rẻ chưa tóm được đàn

chó sói

thoắt ẩn thoắt hiện trong rừng Mường Chiên, thì tại nhà ông Lò Văn Niện - Bí thư Chi bộ bản Hé, câu chuyện về 11 con

chó sói

bị thui rơm lại được các lực điền tường thuật đầy tự hào. Mấy chục năm làm công an, trong đó có ngót chục năm làm Trưởng Công an Quỳnh Nhai, nên công tác tư liệu của ông Niện cực tốt.

Vợ ông Niện đem ra một chai nhựa đựng tiết

chó sói

khoe với khách. Hôm nay, trai tráng - thợ săn trong bản vừa đi rừng về, họ đi chặt cây gỗ sâng thật lớn để chuẩn bị cho gia đình bí thư bản dựng nhà mới tít ngoài nơi ở mới trong cuộc di dân tái định cư xây dựng thủy điện

Sơn La

. Nhà cửa, ao vườn, rừng rú chỗ này sẽ để lại cho lòng hồ mênh mông. Cùng kể chuyện, ngoài ông Niện, có cả toán thợ săn trực tiếp nổ súng giết một lúc chết 7 con

chó sói

, gồm các anh Điêu Chính Huyến, Điêu Chính Huân, Lò Văn Văn...

Lúc đầu, câu chuyện của họ có vẻ dè dặt, bởi họ biết, bắn và ăn thịt

chó sói

là không đúng pháp luật. Như chính lời ông Niện - người từng nhiều năm tham gia "cầm cán cân công lý": Bản Hé có 320 khẩu, có 110 con trâu bò, chủ yếu là thả bán hoang dã quanh các lều nương trong rừng. Đàn

chó sói

mà chúng tôi săn được một số hôm ấy, chúng đã ăn mất mấy chục triệu tiền thịt bò của bản chúng tôi.

Hôm ấy, quá uất ức với bọn

chó sói

liên tục bắt mất bò của bản (có ngày chúng ăn thịt liền 5 con), bà con đã tập hợp nhau lại, xách khoảng ba chục khẩu súng tự chế tổ chức săn

chó sói

(mới đây, số súng này đã được bà con giao nộp cho công an cả rồi). Đó là một cuộc đi săn quy mô chưa từng thấy. Các thợ săn lão luyện đã kỳ công tìm được một con đường độc đạo với rừng rậm và hai bên vách đá cao 7-8m để bố trí mai phục. Đi ròng rã đến gần trưa thì tới khu rừng bị

chó sói

hoành hành. 4 con bò đang bị đàn sói móc mông ăn "rôm rả". Đúng là một bãi chiến trường nhuộm máu (theo đúng nghĩa đen). Đàn sói nhận ra hơi người liền tru lên, bỏ chạy.

Truyền lệnh: Tiền quân đổi làm hậu quân: Những người cầm dao, gậy, chiêng, trống tiến lên gây tiếng ồn phô trương thanh thế. Người cầm súng phục kích ở bên kia hẻm núi có giao thông hào vách cao 7-8m. Đàn

chó sói

bị lùa vào độc đạo. Từ trong bụi rậm đón lõng, súng kíp nổ vang rền. Đạn ghém bắn theo đường ria, một tiếng nổ vãi ra cả bát loa đạn. Bắn trượt thì cũng thành bắn trúng! 7 con

chó sói

chết ngay tại chỗ.

Những con sói hùng dũng có tài "khinh công", biết giả tiếng người lừa bắt

trẻ em

, biết nuôi cô bé quàng khăn đỏ, những con sói đi vào huyền thoại ấy nay đi vào giàn hỏa thiêu rơm rạ ở bản Hé rất thảm thương. Lông loài chó dữ ấy dày, màu hung hung đỏ pha vàng. Con nặng nhất 30kg, con nhẹ nhất 8kg (chắc đó là một chú sói con). Rơm thui

chó sói

bốc ngùn ngụt ở sân kho. Bản vui như ngày hội.

Họ vừa ăn vừa bàn luận. Thịt

chó sói

tanh quá, mà lại nhạt thịt - tóm lại là không bằng chó dé ở quê mình. Mà cái răng con này sắc thật. Thì thịt con trâu nái nhà ông Niện, dao đi rừng cắt không đứt, thế mà

chó sói

nó xé tan tành. Trời ơi, cái dạ dày con

chó sói

cái: Trong đó từng tảng thịt bò còn đỏ au, mỗi tảng to bằng vốc tay.

Anh Thắng - công an huyện - cũng vào kiểm tra. Bà Viên - chủ quán hàng thịt rừng có tiếng ngoài huyện lỵ - cũng nghe thơm hương rơm chả tìm vào tận nơi đòi mua vài cân thịt

chó sói

về ăn thử. Nhưng bản đã quyết không bán. Hôm sau, bản lại bắn được 2 con sói nữa. Hôm sau nữa, bản bên, người ta dùng bẫy được thêm 2 con. "Thế là 11 thằng

chó sói

bị giết. Dạo này nó về bản Bo, không thấy nó về bản Hé, chắc nó hãi!" - anh Điêu Chính Huyến hào hứng.

Bài toán bảo tồn

chó sói

Cho đến giờ phút này, hình như chưa có ai để mắt đến những câu chuyện về đàn

chó sói

ở Quỳnh Nhai. Lãnh đạo huyện, lãnh đạo Hạt kiểm lâm

trao đổi

với chúng tôi, đều cho rằng

chó sói

về một số bản làng bắt bò là sự thực. Tại bản Púm, xã Pha Khinh, thậm chí bà con còn nhìn thấy cả đàn

chó sói

đi lại trên núi cao. Liên tục trong mấy năm qua, đàn bò của bà con bị

chó sói

moi lòng, xé xác đánh chén.

Ông Lò Văn Định - người Thái, Phó trưởng Hạt Kiểm lâm Quỳnh Nhai - là người sát những

thông tin

về đàn

chó sói

về bắt bò của dân hơn cả. Ông cho rằng cần vận động bà con từ bỏ dần

thói quen

chăn thả trâu bò bán hoang dã trong rừng sâu, để vừa bảo tồn loài

chó sói

, vừa tránh được "nanh trắng" của loài vật hung dữ.

Giữa bối cảnh ấy, tiếc thay, cũng chưa một ai nghiên cứu tường tận loài vật hung dữ họ chó kia là

chó sói

hay con gì? Nhưng, qua tham khảo các nguồn tư liệu, ý kiến, chúng tôi phỏng đoán: Phải chăng những con vật họ chó bị giết ở bản Hé là loài sói đỏ?

Bởi theo các chuyên gia, ở Việt Nam có hai loài

chó sói

chính, đó là: Sói đỏ (tên khoa học: Cuon Alpinus); với đặc điểm: Dài thân, mõm ngắn. Tai tròn, vểnh. Bộ lông màu da hoẵng (vàng đỏ). Gốc đuôi thắt nhỏ, xù ở phần cuối. Chúng sống từng đôi hoặc nhập đàn 5-7 con, khi đi săn có thể "bài binh bố trận" thành đàn 10-15 con. Chúng sinh sản hầu như quanh năm, mỗi lứa đẻ 4-6 con, có thể tới 10-11 con. Theo các tài liệu, vùng

Sơn La

mà bài viết này đang đề cập có sự phân bố của sói đỏ. Loài thứ hai là sói xám, tên khoa học là Canis Aurreus Linnaeus; chỉ mới phát hiện ở vùng rừng khộp Đắk Lắk.

Một vấn đề cấp thiết đặt ra: Nếu đàn chó vẫn quẩn quanh bắt bò của dân bản kia là

chó sói

, thì ngoài việc hung dữ phá phách ra, nó còn là nguồn gene quý, là niềm tự hào của những cánh rừng nguyên sinh ở Quỳnh Nhai, chúng ta sẽ bảo tồn loài

chó sói

này ra sao? Theo nhiều người ở Quỳnh Nhai phỏng đoán, có thể tình trạng phá rừng ở bên kia dãy Huổi Luông, bên các huyện Tủa Chùa, Sìn Hồ (Lai

Châu

), Than Uyên (

Lào Cai

) quá nhiều, đàn

chó sói

mấy năm nay đã tràn sang tàn phá bên Quỳnh Nhai.

Nay mai, cả vùng rừng mênh mông của Quỳnh Nhai sẽ ngập trong lòng hồ thủy điện

Sơn La

, không biết đàn

chó sói

sẽ đi về đâu? Những ngày này, đang là mùa

chó sói

về bắt bò của dân, mong các nhà khoa học sớm vào cuộc nghiên cứu, bảo tồn - trước khi quá muộn!

Mưa và chó

Trời bỗng tối sầm lại, gió lạnh từ đâu thổi về và những hạt mưa bắt đầu lác đác rơi. Mưa mỗi lúc một nặng hạt rồi ào ào như trút nước, ngoài kia nước lênh láng những bong bóng nước xuất hiện và vỡ tan trên dòng nước chảy tràn trên sân. Tiếng mưa tạo những âm thanh ồn ào trên mái tôn át đi âm thanh của chiếc TV đang mở to. Hắn ngồi trong nhà, nhìn ra ngoài trời chợt nghĩ

“Trời này mà có đĩa thịt chó chén thì hợp lý biết mấy”.

Thế là đã hai tháng kể từ ngày hắn nghỉ hưu, không còn phải, ngày ngày xách đít tới cơ quan, ngồi uống trà tám những chuyện linh tinh không liên quan gì tới công việc cả. Ấy là nhờ có cô vợ làm bên chính quyền, nên hắn được các bác nâng đỡ lên cái chức trưởng phòng nho nhỏ, để khi giao lưu với anh Hai, anh Ba, chú Tư, chị Năm… cũng thấy đỡ tủi nhục cho cái chức Phu quân.

Mưa! Mưa vẫn rơi…

Hắn chợt nhìn chiếc điện thoại di động trên bàn đã lâu rồi nó không còn đổ chuông nữa, trước đây cứ trời bắt đầu kéo mây đen là nó cứ kêu liên tục, mấy chú em đệ tử của vợ hắn, rồi mấy thằng quân trong phòng đều biết hắn khoái món cầy tơ. Chỉ đợi trời mưa là có cớ để hầu hạ hắn. Sướng thiệt. Rồi lại chú em kết nghĩa tuy không ăn được nhưng lại hay chở hắn đi. Nghĩ đến đây hắn nuốt nước bọt cái ực, cái mùi thịt chó, riềng, mẻ, mắm tôm từ trong ký ức lùa về.

Hắn bốc điện thoại gọi cho chú em kết nghĩa, điện thoại đổ chuông từng hồi dài nhưng không bốc máy. Tức thiệt!

Hắn đi xuống kho rượu, nhưng khi đặt tay lên nắm cửa hắn tần ngần như nghĩ ra một điều gì rồi buông tay xuống, thở dài và quay lên nhà. Trước đây cái kho này toàn là rượu tây của mấy chú A, chị B… đối tác của vợ hắn tặng nhân dịp lễ, tết. Từ khi cả hai vợ chồng về hưu, vợ hắn đã bán sạch sẽ rồi còn đâu. Trước đây, khi mụ Béo chủ tiệm rượu vào thu mua đã loại ra vài chai rượu đểu. Không biết thằng cha

Hai Lúa

nào mà lại biếu những chai này. Nhiều người quá không kiểm soát nổi. Thế là mỗi lần đi ăn thịt chó là hắn lại mang đi một chai đã được vợ đánh dấu sẵn. Mang đi vừa được tiếng là sếp chịu chơi, vừa tống được mấy cái của nợ mà bán không ai mua cho không ai lấy. Mấy chú em trong phòng nhìn thấy rượu tây là mắt sáng như đèn pha ô tô. Bọn này có biết gì về rượu đâu nên cứ uống lấy uống để còn khen ngon nữa chứ. Cho chết! Còn hắn chỉ cần một em quốc lủi là xong. Khôn! Nghĩ lại, mấy chú em trong phòng cũng tình nghĩa lắm, biết con Ky nhà hắn cũng thích thịt chó mới chết chứ, thế là mỗi khi nhậu xong là lại có phần cho con Ky. Có lần gọi hẳn mấy đĩa thịt còn nguyên cho Ky. Con Ky nhà hắn thật đặc biệt không những biết ăn thịt đồng loại mà còn ăn kèm với rau húng, mắm tôm. Kinh thật!

A! Như chợt nghĩ ra, hắn gọi tới nơi trước đây mà hắn từng làm việc, cái tay trưởng phòng mới lên thay hắn bốc máy giọng lả giả:

“Anh đó hả? bọn em nhớ anh quá… Thịt chó hả?... Hay quá!... Ấy chết em xin lỗi hôm nay em bận rồi, con vợ em dạo này nó ghê quá, cứ làm xong là bắt phải về nhà ngay… Còn anh em hả?... Thôi chết, hôm nay bọn nó bận đi đá bóng  rồi anh ạ, thôi để dịp khác nhé!”.

Hắn thừa biết trời mưa thế này thế nào bọn chúng cũng tụ tập tại quán thịt chó cho mà xem. Thế mà mình rủ bọn nó lại chối. Láo thật!

Trời đã hết mưa chỉ còn những vũng nước loang lổ trên mặt sân, con Ky già trốn mưa ở đâu, bây giờ mới lò mặt ra vẫy đuôi mừng ríu rít. Như tưởng rằng khi xưa. Sau mỗi trận mưa thì được ăn thịt chó. Hắn co chân đá vào con Ky  miệng quát lớn:

“Mừng cái nỗi gì? Khi trời mưa mà tao không được đi ăn thịt chó”!

Báo hiếu

Hắn năm nay dễ khoảng ba mươi tuổi. Người ta nhìn mặt mà đoán thế, chứ kì thực gặp mặt hắn, người già không nỡ gọi hắn bằng cháu, người trẻ lại chẳng dám gọi hắn bằng anh. Thành ra, không ai lạ khi thấy hắn bàn chuyện với mấy bác cao niên, cũng chẳng ai thấy bất bình thường khi thấy hắn chén chú chén anh cùng đám lau nhau mới lớn. Giá như ông trời ban cho người như hắn một cái danh xưng. Như thằng ăn cướp có danh là thằng ăn cướp, kẻ giết người có danh là kẻ giết người, … thì hẳn hắn sẽ hạnh phúc và biết ơn ông trời lắm. Đến kẻ ăn mày còn có tên mà hắn thì lại không có thì đúng là ông trời ăn ở với hắn bất nhẫn thật.

Trời phú cho hắn một cái dáng người nửa quê mùa nửa thành thị, nửa anh dân cày nửa gã thư sinh. Thế là với cái dáng người ấy hắn sẵn sàng nhường cho vợ chiếc tay ga kiêu kì, còn hắn thì đóng thùng rồi cưỡi lên chiếc xe còn xưa hơn thời ông Diệm lượn nhong nhong khắp phố.

Hắn biết đeo kính cận nữa.

Cặp kiếng toen hoen ngự trên cái mặt toen hoẻn, mà vốn người ta nói giống cái thớt hàng thịt của hắn làm cho khối kẻ gật đầu chào. Đi đâu hắn cũng dắt cây bút vào túi áo. Thường thì nó chẳng có tác dụng gì vì không viết được.

May mà hắn còn biết đọc.

Nhà hắn nuôi một con chó bẹc-giê. Nó oai phong đến nỗi chẳng ai dám bén mảng tới cổng nhà hắn. Tên trộm lân cư đã mấy lần tìm cách thuốc nó mà không được. Gã trộm chó không biết hắn đã huấn luyện chó Tây thành chó Ta giống đến độ nó trọc hết cả lông. Ngoài việc dọn vệ sinh cho thằng bé nhà hắn còn sạch hơn cả loài chó cỏ thì con bec-giê chỉ biết với cái chân sau lên gãi bành bạch …

Ngoài chừng ấy nhân khẩu, hắn còn nuôi thêm bố mẹ hắn nữa. Hắn đón bố mẹ về từ ngày cô Út chết, đã gần một năm nay, nhưng so với con bẹc-giê thì muộn hơn nhiều.

Không biết hẳn thỉnh ở đâu về được một bức hoành phi, trên ấy uy nghi ngự một cái đại tự bằng chữ Tàu. Cũng vì cái đại tự ấy mà hắn được ngẩng cao đầu mỗi khi ra đường.

Bằng vẻ uyên thâm không thua vị cao đồ nho học nào, hắn giảng: Đấy bao gồm hai chữ. Nhìn nhé gồm chữ Lão ở trên, Lão nghĩa là ông già. Chữ Tử, nghĩa là người con, ở dưới. Tử cõng Lão cho nên đây là chữ Hiếu.

Đúng là người Tàu thâm thuý thật.

Chữ Hiếu được hắn thờ giữa nhà với tua rua vàng đỏ. Hắn còn tỏ ra là người hiện đại khi viền quanh đấy dàn đèn nhấp nháy. Đêm đến, ánh sáng lập loè của dàn đèn khiến hắn ngây người nhìn. Đêm nay cũng vậy, hắn vẫn ngây người mà nhìn. Cái lão già đang lơ ngơ đeo lưng còng kia là bố hắn. Còn thằng con mập mạp đang gò người cõng kia thì còn ai ngoài hắn nữa? Hắn hể hả thưởng cho cái miệng đang ngoác ra của hắn ly rượu tướng vì đã có liên tưởng diệu kỳ.

Ngoài sân, một cặp vợ chồng già cứ lúi húi mãi ở nách cổng. Ông già vớ ở đâu được cái đùi gà vàng ươm. Lão kê cái đùi gà lên cái thớt dùng để chặt xương cho con bẹc-giê ăn rồi hươi tay chặt.

Bập!

Miếng đùi gà kia bắn tót đi đâu mất, chỉ còn có một nửa. Dưới ánh đèn cổng vàng vọt, miếng đùi gà gỉ ra một thứ nước đỏ như máu. Con bẹc-giê từ đâu bỗng hẩy hẩy cái mũi đẩy trả vợ chồng lão miếng đùi gà tưởng đã mất.

Nó ngồi chồm hỗm nhìn hai người đã sinh ra chủ nó. Nó không với cái chân lên gãi bành bạch … mà cứ thế ngồi chồm hỗm ngây nhìn, mặc cho đám ve rận lúc nhúc ở lỗ tai cắn râm ran.

Từ lúc hắn đón bố mẹ về, con bẹc-giê gầy hẳn vì thiếu ăn.

Nó cứ ngồi chồm hỗm như thế ngây nhìn, như chủ nó chồm hỗm trên sa lông nhìn vào thằng con cõng ông già … . Cho đến khi hai người già nhấm nháp chiếc đùi gà, nó mới lắc mạnh đầu rồi với chân lên gãi bành bạch … .

Hắn mải mê chiêm ngưỡng tác phẩm đại tự diệu kỳ. Hắn ngồi chồm hỗm lắc lư cái đầu. Đột nhiên hắn thấy cái chữ sưng lên, lắc lư chao đảo. Ngoài cổng có tiếng xủng xoảng, tiếng vợ hắn la lên kinh hãi. Sau đấy, mọi sự lại yên lặng. Chỉ có tiếng âm âm … u u … cựa quậy của cái chữ và tiếng bành bạch … bành bạch...

Hắn mơ mơ bước ra sân ngó nghiêng. Hai người già như hai cái cây cỗi rụng lá nằm đấy.

Lay mạnh.

Không nhúc nhích.

Sững người.

Bố mẹ hắn đã chết từ bao giờ.

Vợ hắn là Loan, một bác sĩ thú y. Mọi ngày Loan thường đi làm về trước khi trời tối. Hôm nay cô có việc và về không đúng giờ.

Hắn tưng hửng.

Vẫn sững sờ.

Hình như hắn lẩm bẩm. Mẹ bà chúng mày, ông báo hiếu mà cũng không cho

102-THỊT LUỘC CẶP THỊT LUỘC

            Ông nội và ông ngoại ngồi chung mâm. Ông bên ngoại phàm ăn, ông bên nội nóng ruột bèn kiếm chuyện để giảm tốc độ:

            - Tui hỏi ông, thịt luộc ăn với cấy chi ngon nhứt?

            - Lộc quế! Nói rồi lại gắp ngay.

            - Không phải, thằng cha lộc quế hăng mà độc đó.

            - Kinh giới!

            - Nỏ đúng, kinh giới là phải ăn với mít luộc!

            - Chịu! Ông lại gắp tích cực.

            - Thịt luộc là phải cặp với thịt luộc như ông mới ngon. Chỉ có cấy là hơi tốn, mất phần người khác!

103- HỎI CHI MÀ HỎI LẮM?

            Làng nọ, cả làng hay nói chuyện trạng. Hôm ấy có một đoàn công tác vào nhà cụ Đặng tìm hiểu gốc tích xem có phải xuất phát từ chi họ nhà ông không. Mấy người tìm cách tiếp cận mãi mà ông vẫn ngủng ngẳng, không chịu bắt chuyện. Gần trưa, nóng ruột, ông trưởng đoàn - đã đứng tuổi, lễ phép:

            - Thưa cụ, chúng tôi là đoàn công tác nghiên cứu văn hóa dân gian. Biết làng ta hay nói trạng. Tiếng cười không chỉ có giá trị quá khứ mà cả hiện nay và sau này...Cụ là người cao tuổi, có thể giúp anh em cháu tìm hiểu gốc tích tại sao làng ta lại nổi tiếng với những chuyện trạng như vậy không?

            Bấy giờ cụ mới thủng thẳng:

            - Tui lớp sau cụng nỏ biết. Nghe ông nội tui kể lại: Cái ông mà đẻ ra ông của ông nội tui hay nói trạng. Nghe nói cụ có hơn 100 chuyện trạng, hay lắm, có người nghe cười đấy cả quần. Khi nớ cụ hấp hối, cụng có một đoàn ở mô đến như các anh bựa ni, đến gạn hỏi đi, hỏi lại, cụ nỏ nói chi cả. Sau có ông trưởng đoàn năn nỉ, cụ chỉ nói có một câu...Cả đoàn lắng nghe, nóng ruột, dục...

            - Thưa cụ, ông cụ khi đó nói câu chi ạ?

            Hút xong nửa điếu "cò mềm", cụ Đặng mới xúc động, nghẹn ngào, thủng thẳng tiết lộ:

            -Cụ nói: Tổ cha bay, hỏi chi mà hỏi lắm rứa?

104- RỬA KHOAI

            Cu Toại mê bóng đá, khuya có trận bán kết Cúp C1. Cu Toại nói với vợ:

            - Bay ngủ đi, túi ni để tau sang cu Đại coi bóng đá với hắn.

            Vợ bàn:

            -Ti vi đầu giường, nằm ở nhà mà coi, đi mô nữa. Bên cu Đại ti vi lòe nhòe, coi chi.

            - Không được, tau sang coi với hắn. Tau nỏ nhởi bài cả coi bóng cả rửa khoai!

105 - BỐ MI THẬT RƯỢU

            Bữa mô đi họp về cu Na cũng "nhể". Vợ trách:

            -Cha mi bựa mô cụng say là do thật rượu. Dại rứa thì rồi có bữa chết!

            Cu Na cãi:

            -Bay biết chi! Thật thì chỉ có thiệt! Tau ngồi với mấy "xếp". Rót ra, các cha cứ lo đi các mâm chúc tụng. Tau ngồi một chắc một mâm, tau cụng rót tau uống, nỏ thằng đếch mô biết cả!

106 - ĐỂ HẮN DỪNG LẠI CẤY ĐẠ!

            Cu Na đi uống rượu về, chân xéo khoai, đi không được, vô nhà cũng cố gượng, vịn lấy cột nhà. Vợ ra trách:

            -Tọoc cho lắm, lại say rồi!

            -Mần chi mà say? Tau mần có vài chén.

            -Không say mà mặt như "l...kiến cắm". Không say thì đếm thử nhà ta có mấy hàng gạch?

            -Để tý nữa hắn dừng lại tau đếm. Dừ hắn xoay ra ri cha thằng mô đếm cho được?

107- TÔN TRỌNG TƯ DUY...

            Cô giáo hỏi học sinh:

            -Các em thấy trên tường của lớp ta, có cái gì hình chữ nhật?

Một học sinh:

            - Thưa cô, cái đồng hồ ạ!

Ý của cô giáo là muốn để học sinh nói cái bản đồ để "vào đề". Nhưng cô chữa khéo:

            - Không phải, cô muốn nói với các em là cái bản đồ! Nhưng cô rất tôn trọng tư duy của em.

            Thằng bé ngồi đầu bàn xăng xái:

            - Em muốn hỏi cô: Cái gì tròn tròn mà ngày nào cô cũng cầm?

Cô có vẻ nghi ngờ, nhắc khéo:

            - Em lại nghĩ bậy phải không?

            - Không, đó là viên phấn ạ. Nhưng em cũng rất tôn trọng tư duy của cô!

Thằng bé bên cạnh lại hứng lên:

            - Vậy em đố cô: Cái gì hình trụ, có đầu trơn bóng, màu hồng mà ngày nào cô cũng cầm?

Cô đỏ mặt vì ngượng nhưng cũng đoán:

            - Cái … "ấy" phải không?

            - Không phải, đó là cái bút chì có tẩy. Nhưng mà em cũng tôn trọng tư duy của cô!

108 - PHONG BÌ HAI NGHÌN

            Cu Na hay uống rượu, nhà nghèo, không mấy khi được bữa cho chán. Bữa nọ, có thằng bạn doanh nghiệp về mời đi nhà hàng. Cu Na khôn ngoan, gói một phong bì bỏ túi trên.

            Cô bé phục vụ rót rượu, đến bên cu Na, cu Na cầm cái phong bì lỳ xỳ cho nó và nói nhỏ:

            - Anh bị dạ dày, huyết áp, lại dị ứng, ngứa, rót cho anh ít thôi nhé.

Nghĩ thương tình, lại có cái phong bì, cô bé chỉ rót cho cu Na lấy lệ. Lát sau, cô bé vô toilet, mở phong bì ra xem: 2.000 bạc rách. Nó điên tiết, từ đó chén nào của cu Na nó cũng cho "màn hình phẳng", vừa rót, trong lòng còn hậm hực "dạ dày, này, huyết áp này, dị ứng này,...đồ bủn xỉn, cho mi đứt luôn"!

            Thì ra, cả đời cu Na cũng chỉ bữa ấy mới được bữa no rượu, đã thèm!

109 - RĂNG GIÁ CẮT CỔ RỨA?

            Con gái lần đầu đi xa, mẹ ở nhà nhớ quá, bèn ra Bưu điện văn hóa xã để điện, gặp cho đỡ nhớ.

            - Con à?

            -Dạ, mẹ! Con nhớ mẹ quá!...

            ...

            Cô bưu điện vô tính tiền, hết 30.000 đồng. Bà giãy nảy lên:

            - Răng mà giá cắt cổ rứa?

            - Hai mẹ con nói chuyện mãi hơn 30 phút rồi mà, tui dòm đồng hồ trên máy tính đây, có tính gian cho bà mô?

            - Lâu thì đúng rồi, mà mẹ con choa lâu ngay gặp chắc, nhớ rồi khóc chớ có nói chi mô mà tính tiền?

110 - CHÂN HAY 6 CHÂN?

            Cu Na đi uống rượu về, hơi xỉn nên sợ vợ nhằn. Lão rụt rè ghé nằm một bên vợ, vén chăn đắp. Chợt lão hỏi:

            - Mụ chắt, có thằng mô nằm đây nựa mà tau đếm được 6 cẳng?

            Mụ chắt bình tĩnh nhưng nghiêm giọng:

            - Tọoc rượu vô cho lắm! Lại say rồi, xuống dưới giường đếm cho cẩn thận coi thử mấy cẳng? Lão loạng quạng làm theo rồi nói:

            - Mẹ nó, tau say rồi, 4 cẳng!

111 - ĐÒI Đ.VOI!

            Con chuẩn bị làm hồ sơ thi Đại học, hỏi cha nên thi vô trường nào cho hợp lý. Cha nói:

- Sức ung thì nên thi vô Cao đẳng là vừa. Đại học nghe khó với!

Thằng con không nghe, bàn:

- Năm đầu ta cứ mần một keo cha ạ. Không được thì năm sau ta thi vô Cao đẳng? Ông phán một câu:

- Thì tùy ung!

Khi có giấy báo thi, thiếu 1 điểm thì đậu, về nói:

- Bựa nớ nghe cha thì được rồi, lại đợ một năm ở nhà!

Ông cũng chỉ phán một câu nhẹ nhàng:

- Thì ta đạ nói rồi, c. ngắn cứ đòi đ. voi mần răng mà được!

112- MẦN MỤ MỌN...

            Thời ấy đang khó khăn, giáo viên mà được chia miếng đất tăng gia là quý hóa lắm. Hết kỳ 1, ông được chuyển từ trường xa về trường nhà. Vì về sau, nhà trường cũng chắp vá, dồn mỗi người một ít cho ông có đủ vài vồng sắn. Chủ nhật, hai vợ chồng đi làm cỏ sắn. Bà phàn nàn:

            -Của ta nằm ngoài ra ri thì cụng che mồm tru, mồm bò cho họ, nỏ ăn thua ông ạ.

            Nhả hết khói thuốc lào, ông thong thả, nhắc bà:

            -Bà không nghe các cụ trước nhắc à?

            -Nhắc chi ông?

            -Mần mụ mọn cứ muốn đ. đầu hôm, mô được!

113 - CẦM C. CHO HẮN ĐẤY!

            Ông giỏi chuyên môn, làm Hiệu phó nhưng phòng Giáo dục hay điều ông đi thanh tra, kiểm tra chuyên môn các trường. Tính ông rất nghiêm túc nhưng rất hài hước. Một hôm đi thanh tra về, mấy giáo viên trong trường nói như để chọc ông:

            -Thầy ta thì cụng như cán bộ phòng, đi suốt!

            Nhả khói thuốc lào xong, ông nhẹ nhàng:

            -Các ông cứ trêu tui mần chi, chẳng qua cụng cầm c. cho hắn đấy!

114 - ĐẺ CON TRO

            5O tuổi có lẻ, ông được cán bộ cấp trên về nắm tình hình, làm tư tưởng để bố trí ông làm Hiệu trưởng. Sau khi trao đổi xong, hỏi ý ông thế nào? Ông lẳng lặng trả lời:

            -Có lẹ ta thôi cụng được. "70 tuổi đẻ con tro, ăn thua chi nựa"?

115 - ĐUI CẢ MÂM

            Nhà hoe Tân có giỗ nhưng không mời hoe Thái đi giỗ. Lão bực lắm, cứ đi đi, lại lại, lấy chổi quét, bụi mù trời. Nghe chừng cũng không ai nhắc nhở chi cả (vì nghe nói lão tham ăn, tục uống).

Buổi trưa, mọi người ngồi mâm, hoe Thái lại dạo qua, dạo lại. Có người trong mâm định mời xã giao, nhưng nghe nói mời xã giao lão cũng vô nên lại thôi.

            "Gợi ý " mãi không xong, lão nổi khùng:

            - Tưởng đui một thằng, hóa ra mấy mâm đui cả!

116- KHÔNG CHÁY LEO!

            Lại có bựa chắt Doạn có giỗ, cũng không mời hoe Thái. Lão điên tiết! Gần đến bữa ăn, lão làm một bếp nhấm thật to, cạnh cây rơm nhà chắt Doạn, châm lửa đốt. Mọi người hốt hoảng nhắc:

            - Mần cho khéo, hắn cháy lây sang cơn rơm bên ni thì nguy to!

            Hoe Thái bèn phán một câu:

            - Táp thì cứ lo mà táp đi! Dổ bên nhà nỏ lây, mần chi mà cháy lây sang rơm nhà bay!

117 - TAU CẢ NÓNG CẢ RÉT!

            Cu Na mần nghề thịt lợn. Tính luộm thuộm. Bữa đó không mần thịt lợn. Trời nóng, ngủ với vợ xong, "quên" mặc quần, lão "thoát y", trần như nhộng cho mát.

            Sáng mai, lão ngủ ngon quá, vợ đi chợ sớm, để cho lão ngủ bù mấy bữa mần thịt lợn. Đứa con gái dậy, dọn cơm, vào gọi lão dậy ăn, lão mới bừng tỉnh! Lão vội vơ cái chăn tủ lên mình, giả vờ:

            - Bay ăn đi, cha bị sốt.

            Đứa con gái hoảng:

            - Cha sốt răng lại đắp chăn?

            Con hỏi nhì nhằng, cu Na điên tiết:

- Ăn đi mà đi học, hỏi chi hỏi lắm? Tau cả nóng, cả rét!

118 - MÔ! ĐÂY LÀ CHA HẮN ÔNG Ạ!

Hoe Vơn thuộc dạng chân dài, nhưng lại lấy cu Luận ngắn ngủn, người lủn củn… Nhà cửa còn rất tuềnh toàng nhưng cũng đã có hai quý tử. Bựa nọ, ông nội đột ngột đến thăm, hoe Vơn đang nằm ngửa, trần truồng…mắt ông kèm nhèm nhìn không rõ.

Ông cụng rầy, nhưng cũng hỏi lấy lệ:

      - Gồi! Thằng ni mà đang bú na bây? (Ông tưởng thằng cháu đã học lớp 4).

Nghe hỏi, hoe Vơn giật mình:

      - Mô, hắn mô bú nựa ông, đây là cha hắn ông ạ!

Ngọc thực

Nhà ta có bảy khẩu tất cả ! - Con bé chống đũa xuống mâm, nhìn cả nhà, dõng dạc tuyên bố.

     - Bốn chứ ! - Hắn bỏ miếng bánh trưng rán vào bát, nhìn đứa con gái nhỏ qua mục kỉnh, ngạc nhiên chữa lại.

    Con bé thủng thẳng xoè bàn tay trái ra, bấm đốt liệt kê:

     - Bố là một, mẹ là hai, anh Thảo là ba, con là bốn, con Vàng là năm, với... hai con mèo là bảy !

     - Vậy ư? - Hắn trố mắt, nhìn sang phía vợ, chờ đợi một ý kiến.

    - Chuyện trẻ con ấy mà ! - Vợ gã mỉm cười, cái cười bao dung của một mái mẹ khi có mấy chú gà con vàng ươm, lũn tũn, ngốc nghếch nhảy cả lên lưng mẹ bới loạn lên tìm mồi.

    - Bố mẹ không thấy à, trong phim ấy - Thằng anh có vẻ hơi bất mãn vì câu nói của mẹ, bênh con em - người ta còn có cả bệnh viện với mỹ viện cho cả chó mèo ! Trong siêu thị Đông Tây, con còn thấy có cả một khu bán thức ăn và đồ chơi cho pets đấy.

    - Pet là con gì?

    - Tiếng Anh ấy mà... - Con em nhanh nhảu giải thích - Là những con vật nuôi trong nhà, được chủ cưng chiều ấy mẹ ạ. Ví dụ như chó, mèo, chim, cá... Bây giờ thì có cả lợn nữa.

    - Khiếp, của nỡm, ai lại ở chung với cả lợn bao giờ ! - Vợ hắn nhăn mặt, phẩy tay.

    - Kiến thức cũng không xoàng - Hắn véo vào má con bé âu yếm diễu cợt rồi quay sang thằng anh - Thức ăn của pets trông nó thế nào?

    - Con cũng không biết. Người ta đóng hộp kín mít, đẹp như đồ hộp Hạ Long ấy.

    - Còn đồ chơi... là những gì? - Vợ hắn tò mò.

    - Những khúc xương, những con chuột, những quả bóng nhỏ... làm bằng thứ nhựa gì ấy, tha hồ gặm mà chẳng bị sứt mẻ tẹo nào - Con em gái nhí nháu chêm vào.

    - Dởm ! - Vợ hắn đã có vẻ bức xúc - Dư dả thì đem tiền ấy mà đi làm phúc. Bao người bị lụt lội, bị mưa bão đầy ra kia kìa... ! Về thôn quê mà xem, nhà trẻ hốc hoác trống trơn, có cái gì cho trẻ con chơi đâu !

    Vợ hắn bỏ bát, đứng dậy đi vào buồng, đóng sầm cửa lại. Nhận thấy sự việc có vẻ nghiêm trọng, hai đứa hãi quá, lơ láo nhìn nhau rồi ngồi im thin thít. Hắn trấn an: "Không có vấn đề gì đâu, chậc... tính mẹ vẫn thế, các con ăn tiếp cho xong đi". Nhìn hai đứa rón rén gắp thức ăn, lặng lẽ lùa cơm... hắn phì cười: "Đây là vấn đề nhậy cảm và tế nhị trong nhà ta. Từ rày, các con phải tinh ý, tránh, không nói về đề tài này nữa mới được !".

    Quả có thế. Tuần trước, thằng anh lấy ruốc thịt trộn cơm cho chó mèo đã bị mẹ nó mắng cho một trận: "Mẹ cấm ! Từ rày không được lấy ruốc cho chó mèo ăn nữa. Không phải là mẹ tiếc... Ngày trước, Bố mẹ thì chả nói làm gì, nhưng Ông bà... quanh năm cũng chỉ những rau với rau... có ruốc thịt đâu ra mà ăn - thị ngừng lại, nghẹn ngào - các con làm như vậy, mẹ thấy không phải tý nào... !". Chà ! Rất có đạo, rất có lý mà cũng rất có tình - gã ngậm ngùi - nhưng vợ gã phải cái cố chấp quá. Cuộc sống ngày càng tiến lên, cơ chế ngày càng cởi mở. Vậy thì cũng phải mở cả lọ ruốc thịt ra cho cả chó mèo nữa chứ ! Tội nghiệp cho chúng. Nào có phải chúng ăn không của ta: chúng trông nhà, đuổi chuột không chê vào đâu được, lại làm cho các con ta vui thích nữa.

    Hai đứa con hắn, tuy là kính sợ mẹ, nhưng cái điều "không phải" ấy thì chúng không sao hiểu được. Còn hắn thì hắn hiểu. Bởi vợ chồng hắn đã từng sống qua nửa đời người trong cảnh thiếu đói, so dụi. Nhà hắn vốn đông anh em. Đến bữa ăn nghe cứ rào rào như tằm ăn rỗi. Hắn là đứa ăn chậm nhất nhà nên thường bị đói. Vì thế, mẹ hắn đã nghĩ ra cách xới riêng cho hắn ra một cái bát to cùng với thức ăn để hắn tha hồ ăn chậm mà không bị thiệt thòi.

    Hồi còn học trong trường chuyên nghiệp, cái đói luỹ kế triền miên đã từng, không dưới một lần, khiến hắn chỉ ước ao được đánh một bữa cơm đến căng rốn, thức ăn là gì không quan trọng. Cũng may, ngày ấy hắn gặp được mẹ sắp trẻ bây giờ và tình trạng cấp dưỡng của hắn lập tức được cải thiện rõ rệt. Bây giờ, tuy là đầu óc có thoáng hơn vợ, nhưng nhiều lúc nhìn đồ ăn thừa thãi trên mâm, hắn vẫn không sao quên được cái thời nhìn thức gì cũng thèm khát ấy và thường bất giác buông ra một cái thở dài ảo não.

    Thằng anh đã ăn xong, đi vào toilet đánh răng. Còn con em ý tứ ngồi lại cho bố vui, cũng là để chờ bưng cho bố chén nước và dọn dẹp khi bố ăn xong. Hắn cảm thấy no, bèn buông đũa. Thấy còn lại một ít bánh chưng rán, hắn bảo con gái: "Con đem cho chó mèo". Con bé cười: "Chúng không ăn đâu bố ạ". "Bậy nào, chó mèo thì cho gì mà chẳng ăn?". Nói rồi hắn đứng dậy, cầm lấy cái đĩa bánh, toan đem trút vào cái bát để ở góc nhà. Nhưng con bé đã kịp túm lấy tay áo ngăn lại, dí dỏm: "Phải thử phản ứng trước khi chính thức tiêm thuốc cho bệnh nhân bố ạ !". Nói, rồi nó gắp một miếng nhỏ và gọi lũ chó mèo. Hai con mèo chạy xấn lại, nhưng chỉ ngửi ngửi rồi thũng thẵng bỏ đi. Gã lắc đầu. Con Vàng đã quen nhường cho mèo ăn trước, bấy giờ mới tiến lại, nó cũng đưa mũi ngửi ngửi, liếm thử, chóp chép rồi, cũng như bọn mèo, chả đoái hoài gì đến miếng bánh rán vàng ươm đang nằm chỏng trơ trong bát, quay mình thủng thẳng bước ra phía cửa, từ từ nằm xuống và tiếp tục lơ đãng dõi theo mấy con bướm vàng đang chấp chới ngoài sân.

    Hắn sững người. Giống chó bây giờ cũng khác xưa rồi ! Có một cảm giác gì đó, không rõ rệt, đang dâng lên trong hắn: Một chút thất vọng, một chút tủi hổ, và, có cái gì đấy, mơ hồ, na ná như sự xúc phạm... nhưng không hoàn toàn như vậy !

    - Bố ơi, bố làm sao thế? - Con bé hoảng sợ túm lấy tay bố.

    - Những thức nuôi sống con người, ngày xưa các cụ gọi là Ngọc thực ! - Không hiểu hắn nói với con gái hay đang lẩm bẩm với chính mình - Bỏ đi thì sẽ phải tội. Thôi, để bố !

    Rồi gã ngồi xuống, kéo chiếc đĩa bánh trưng rán vàng ươm thơm ngậy về phía mình, gắp một miếng bỏ vào miệng và bắt đầu nhai … chậm chạp, trệu trạo, ai oán nhưng đầy ý chí.

Những viên gạch nhà Văn miếu

Dương Ðình Hùng

Hắn ném bao bố nặng trịch nơi gốc cây đa,trên cao nghe có tiếng chim hót . Dựng chiếc xe đạp,hắn lảo đảo bước vào căn quán hẹp , uể oải ngồi dựa tường,bàn tay vỗ mạnh trên mặt bàn . Quán nước chìm trong âm thanh ồn ào từ cái đài phát to tiếng vang động cả một góc phố xưa . Chủ quán lim dim đôi mắt đang lặng hồn ép lỗ tai sát cái đài,cái radio sang trọng một băng . để trên chiếc ghế bố nhầu nát bốc mùi 

. Quán nhỏ chỉ đủ cho vài người uống cà phê , ngồi dựa vào bức ván mục trước vài chiếc bàn nhỏ , không gian còn lại là lối nhỏ đi ăn sâu tận bếp . Quán hẹp và tăm tối,không đủ chỗ để cho hai người muốn ngồi đối diện nhau .

Bước lại ghế bố, lắc mạnh vai người chủ đang say ngủ , hắn hét lớn :

-Cho tớ một cốc nào

Quay về chỗ , hắn ném đít xuống chiếc ghế nhỏ thân quen mỗi ngày . Hắn thọc tay vào áo lông dày cộm , đôi môi tím tái , hắn run cầm cập vì trời rét . Bên ngoài , rễ cây đa thả dài như những vòi con bạch tuộc cuốn tròn quanh thân cây loang lổ,đong đưa buông chấm xuống đất , như chiếc màn nâu muốn che hết căn quán , ngăn cách với thế sự bên ngoài.Đôi mắt hắn hững hờ nhìn phố lạnh kín 

sương mờ , không xa là thành quách cũ , rồi rung đùi liếc nhìn cốc cà phê đặt dưới cái nồi quen thuộc rỉ sét 

.

Có tiếng bước chân đi vào quán .Hắn nhìn lên, thằng Tuấn ốm cao,mang trên vai cái bao bố,bên trong hẳn là có con chó nào vô phúc bị nó tóm được đêm qua . Tuấn để góc quán , ngồi xuống cái ghế nhỏ phía ngoài la to :

-          

Nào , cà phê sữa 

.

Hôm nay nó uống sữa có lẽ đã " trúng qủa "lớn . Quán 

cà phê buổi sáng lát nữa đây còn có thêm nhiều khách quen : thằng buôn đường,buôn thuốc lá ,kẻ buôn bột ngọt , hàng nhu yếu phẩm … Thời buổi này uống cà phê sáng là xa xỉ ,ở đây người ta thường có thói quen uống trà và trà . Hắn là người sung sướng ,may mắn nhất thành phố này vì hàng ngày uống cà phê khỏi phải trả tiền , nhờ mấy viên gạch đem đến cúng cho chủ quán hắn vừa ném ngoài gốc cây đa già . Mỗi hừng sáng lúc chưa có tiếng gà gáy là hắn ra khỏi nhà , chở mấy bao rau cải nhập trong đoàn nghìn chiếc xe đạp âm thầm vào phố chợ , trong nội thành kéo dài cả vài chục cây số . Xong việc bỏ thêm chút thời gian , 

hắn tạt ngang Văn Miếu , gỡ thêm mấy cục gạch nhét vào bao bố , chở đến trao đổi với người chủ quán cà phê .

Gạch gì mà nặng chình chịch hoen ố rêu phong , to bằng 

cái bắp đùi người ta . Gạch rơi rớt trong đám cỏ mọc cao quá đầu gối , quanh gốc cây sứ , quanh cây nhãn , lăn lóc quanh bia đá , dưới chân tượng đá , dưới tàn cây bóng mát . Khu đất một thời im vắng ít người coi ngó . Dù sao gạch là cái đầu mối bí mật giúp hắn được uống cà phê . Một cốc cà phê đổi bằng bốn cục gạch thu gom .

Quán liêu xiêu , gió lạnh lùa xuyên suốt từ trước ra sau . Người chủ giờ chắn gió bằng gạch Văn miếu hắn mang tới, gạch đồng thời làm được cái bếp nhỏ nấu cà phê . Gió lạnh làm lung lay vách cót chia cắt nhà bên cạnh . Có bốn căn nhà giống nhau đều ngăn chia bằng vách cót được xây dựng sau cây đa gìa , trên nền cái Miếu Ba Cô bị phá bỏ gần đây .Thờ ba cô gái nghe đâu chết thời Tây tiến chiếm thành phố này .

Bốn căn nhà cùng diện tích , được ưu đãi cấp phát cho bốn hộ trả gía rẻ nhờ họ quen biết lắm thứ . Nhà cũng lợp tôle nóng hừng hực khi hè về , lạnh cóng người 

khi đông tới , có thêm một nhà vệ sinh chung cho vui , sáng sáng người người xếp hàng đứng đợi phiên mình . Từng nhà , hình như có thể nghe và thấy rõ mồn một đời sống riêng ở các căn hộ láng giềng kề cận . Tiếng cười đùa , rên la sung sướng khi động tình , tiếng chửi mắng , tiếng thầm thì yêu nhau trong đêm khuya … của đôi vợ chồng trẻ . Dù sao có được một mái nhà trong thành phố là tốt phúc rồi . Hơn nữa khi Xuân về , có bầy chim ríu rít trên cao trong bóng mát cây cổ thụ trước nhà .

&

Đời chậm qua , nhưng chỉ mấy năm sau người chủ quán lại phất nhanh . Ông khá 

lên không phải do kiếm được tiền từ bán cà phê mà nhờ làm trung gian cho mấy tay buôn đồ nhu yếu phẩm như gạo ,đường 

, nước mắm , thuốc lá … Rồi chắt chiu dành dụm tiền , ông tậu luôn căn nhà kế bên mở rộng thêm quán nước 

Một ngày hè nóng nực oi bức , có người khách lạ đi vào quán 

. Ông ta thấp lùn , mập béo , mái tóc râm bạc vui tính , đến trú tại cái khách sạn cách quán nước không xa . Ngày ngày , uống cà phê chỉ nhìn ra phố buồn , nhìn nắng chập chờn len qua khe lá đong đưa , len qua hàng rễ cây buông thả … Chiều tối ông còn bày tỏ nhã ý mời chủ quán đi ăn tối nhiều lần , có hôm ngồi uống rượu qúa nửa đêm , hai người như muốn kết thành tri kỷ . Ngày cuối , khi biết người bạn mới quen sẽ từ biệt thành phố , người chủ quán cảm động ngỏ lời khi đặt ly cà phê xuống bàn :

- Tôi có thể tặng ông bạn món quà nào đó làm kỷ niệm nơi đây chăng ?                                                                

Ông khách cười nhìn quanh quán im lặng . Vài phút sau , ông ta nhìn ra ngoài quán 

, chỉ gốc cây đa như tỏ bày :

- Tôi ước gì có được 

cái hũ 

đựng nhang treo trên cây kia kìa .

Người chủ tưởng người bạn mới ao ước chuyện gì to tát , chứ cái bình sứ nâu đen dưới nắng mưa đó chả là quái gì , nên hả hê 

xoa tay cười to :

- Chuyện đó vô tư , vô tư ...

Rồi chạy nhanh ra gốc đa , tự mình 

trèo lên cây , gỡ hũ 

nhang xuống , đổ hết tro tàn và bụi . Chưa kịp trao , người khách đã mở túi xách lấy một bát đựng nhang khác , bằng sứ còn mới 

để thay thế . 

Họ sung sướng hạnh phúc tay bắt mặt mừng . Người khách còn ân cần niềm nở :

- Sáng mai tớ chia tay , 

muốn rủ cậu ăn cơm tối để kết tình huynh đệ .

Chủ quán có vẻ hơi sửng sốt , gật đầu đồng ý , thốt lên 

"Sướng thế - sướng thế ''. Người khách lấy chiếc khăn lông , nhẹ nhàng cuốn tròn cái hũ , để nhẹ vào trong túi xách da . Ôi ! Cái điều đơn giản nhất mà chủ quán không hay !  

Đêm hôm đó , trong cơn lơ mơ men rượu , người khách tâm sự là ông ta muốn nghiên cứu đồ xưa . Hiện có lắm tiền muốn kiếm thêm nhiều món nữa như cái bình , cái bát , cái đĩa xưa , thanh kiếm cổ , 

kể luôn cái đầu của tượng ngài Thiền sư , của mấy ông La Hán cất giữ trong ngôi chùa ở bên kia đường . Ráng kiếm thêm cái hũ cốt xưa ….chúng nó nằm sâu trong cổ mộ quanh quanh thành phố . Chia tay , nguời khách nhỏ nhẹ : 

" Cho tớ gởi một lượng vàng nhờ ông bạn kiếm dùm mấy thứ đó ".

Lượng vàng có hai miếng dài một miếng ngắn bọc trong tờ giấy vàng nhạt , màu giống da người . Họ nâng chén cụng ly khi bóng tối bên ngoài không còn ai , 

đến khi bóng sáng của quán trà bên đường cuối phố tắt lịm , chỉ còn nghe tiếng vỗ cánh xào xạc của bầy dơi đêm . Từ dạo ấy , nguời chủ quán có thêm một nghề mới xem ra ít người biết đến .

*

Cũng từ dạo ấy , hắn nhận được lệnh từ chủ quán , thôi không lấy gạch trong nhà Văn miếu nữa nhưng phải đi truy tìm đồ xưa cổ như cái bình , cái bát , cái lọ …còn tồn tại trước 

tro bụi thời gian .

Thời gian đầu , hắn rủ rê thằng bắt chó đi cùng , đi đến nhiều vùng đất . Đất một thời có đền 

Vua dựng nước , đất nguồn cội sinh ra Vua xây nên thành phố này , đến vùng đất có nhiều truyền thống lâu đời làm men sứ … Có khi hai đứa giả dạng nguời đi tìm mộ cha ông thất lạc , len lỏi trong những nghĩa trang . Đợi đến đêm khuya , hắn cùng thằng bắt chó hì hục đào bới , tìm kiếm những lọ sành sứ một thời chất chứa tro than nguời quá cố . Hắn tìm thấy nhiều lọ nâu , xanh , lục trắng …, nhiều thứ khác chôn cùng dưới tháp như mục nát theo thời gian . Những chiếc hũ đựng cốt hắn tìm thấy trong những ngăn tủ 

nơi những ngôi chùa thiêng , lắm người đến hương khói .

Cái khổ nhất làm hắn bực mình là đám chó thi nhau sủa , phá đám khi thấy bóng dáng bọn hắn , làm vang động ồn ào một góc làng . Hắn hiểu nguyên nhân chính là do hơi hám của thằng bắt chó . Thế là hắn đành phải 

không cho thằng bắt chó đi theo cùng và cũng từ đó hắn không dám ăn thịt cầy để công việc được trôi chảy . Có lúc hắn giả làm người làm thuê trong sân phơi rơm rạ của hợp tác xã . Hắn đào bới mọi xó xỉnh vì nơi đây là Hành cung của Vua Chúa xa xưa , giờ là hoang tàn đổ nát .Có ngày hắn đóng vai khách mộ đạo từ phương xa tới , lân la vào chùa có nhiều tháp cao to nhỏ , thắp một nén nhang như là thành tâm cầu nguyện sám hối , trò chuyện với thầy trụ trì , đôi mắt lim dim như muốn xuống tóc quy y ... Một hôm hắn trở lại chùa , trên chiếc xe tải với vài người bà con cùng xóm , mang theo nhiều lễ vật cúng dường Tam bảo . Họ làm một bữa cơm chay thết đãi mọi người trong chùa . Đêm đó Thầy và đệ tử ngủ mê mệt vì thuốc mê trong thức ăn nước uống . Hắn cùng đồng bọn ung dung dọn sạch mấy tượng ông Phật , La Hán ..bát nhang , chén dĩa xưa của chùa chất đầy trên chiếc xe tải quay về phố thị , mang theo luôn mấy chục hủ chứa tro than của mấy chục đời cao tăng từng trụ trì ngôi chùa này chôn dưới chân các bảo tháp xưa cổ .

Hắn mỉm cười nhìn những hũ sành màu lục trắng không chút hoa văn phát ra những tia sáng êm dịu dưới ánh trăng khuya . Người khách lạ hôm nào đó có lần giải thích : đây là những cái hũ đời Lý , kia là chén đời Hồ , cái đĩa kia có lẽ đời nhà Mạc , đầu tượng Phật kia đời Tiền Lê …

Với thời gian , công việc làm ăn này phát triển tốt , riêng hắn kiếm thêm khá nhiều tiền mua được ngôi nhà mặt tiền quận ven hồ , còn người chủ quán mua tuốt tuột mấy gian nhà hàng xóm 

kế cận mình sau gốc đa già . Chim vẫn hót trên cao .

*

Chỉ cần một thập niên , sau những màng rễ cây đong đưa đã xuất hiện một bộ mặt mới . Người chủ quán hôm nào đã xây dựng một tiệm nước khác lạ và lắm khách hàng tụ đến . Độc đáo nhất là quày rượu , vách ngăn , tường chắn quanh nhà hàng làm bằng những viên gạch lớn lâu đời , những viên gạch một thời được hắn thâu lượm từ Văn miếu . Màu vàng , màu nâu nhạt rêu phong cuốn hút nhiều người nhìn ngắm , chưa kể khá nhiều hiện vật cổ trưng bày trang điểm quanh đó dưới chùm ánh sáng pha lê sang trọng mờ ảo , đắt tiền .Chùm đèn pha lê may mắn lưu lạc sót lại trong biệt thự Tây một thời .

 Nắng sáng chiếu qua tán lá cây 

, soi 

sáng luôn cái món ăn điểm tâm đặc biệt nơi đây bày biện dưới hàng hiên râm mát bên ngoài - món lòng lợn - lòng thả .

Người đàn bà răng đen xếp một chồng lòng trắng long lánh , lòng tươi từ bụng đám lợn , bị làm thịt lúc mờ sáng nay 

. Khói trắng cuốn trên nồi cháo . Thực khách tụ kín từ ngoài vào trong quán 

, chờ đợi đến bát cháo của mình . Lòng lợn trắng tươi giờ đây được bà ta nhúng vào nước sôi sùng sục , vớt lên thái nhỏ . Bàn tay thô kệch nhưng nhanh nhẹn thả từ từ từng miếng lòng trắng nóng còn vương chút khói rơi xuống bát cháo . Họ ăn khoái khẩu , bàn tay nâng cốc rượu trắng , xị này qua xị nọ . Đây có thể là quán nhậu huyên náo " giao ban" sớm nhất 

trong ngày của một vùng đất . Nhậu khi hừng sáng , bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông , bất kể mưa nắng . Nhậu có mùi mắm tôm , mắm tôm phải sủi bọt , phải có vị thơm nồng nặc bốc tỏa tứ phương , lôi kéo đám ruồi đen hội tụ về dày đặc . Ruồi to mập nhấp nhô hạ cánh rồi vụt bay 

lên cao phát 

ra âm thanh riêng trong bản nhạc sáng êm ả . 

Sau vài xị rượu , bọn họ quay cuồng quanh chiếc bàn chạm cổ đặc biệt , bàn dành riêng cho thượng khách của chủ 

quán .Không thiếu những khuôn mặt một thời trong đờicó nhau .Nào là thằng bạn lâu đời từng đào bới , bốc mộ với hắn . Nào là chàng trai trẻ , bà con cùng chặt đầu tượng Phật với hắn . Nào là nhiều người bạn mới trong cùng giai cấp mau giàu có thông minh biết sống với đời , họ có khi là cai đầu dài , đôi khi là đám rách việt . Có thằng Tuấn loong - toong chuyên cung cấp bằng giả để người người mau lên chức . Có người bạn lên chức vùn vụt , nhờ đánh cờ tướng và uống trà với thủ trưởng . Có thêm vài quan chức ham vui gia nhập hội này , có khá nhiều em gái trẻ ghé chơi , đùa vui đêm ngày -

 Ngày ngày , họ vui sướng tán phét đến nửa khuya . Hội này còn tự đặc tên là Hội 5 T - vì chỉ nói chuyện Túy , Trà , Tiền , Tình và 

Tục .

Hắn nhờ có một thời gian đi lấy gạch Văn miếu , xâm nhập vào miếu đền chùa tháp , nên giờ đây cũng thành chuyên viên khảo cổ có tiếng tăm , làm tham vấn cho những ai muốn nghiên cứu đồ xưa . Thằng bắt chó giờ cũng thành chủ bự nhiều nhà hàng trên bờ đê huyên náo , dù sao món thịt cầy cũng lắm người yêu qúy ! Chủ quán trở thành vị mạnh thường quân ra tay giúp đỡ biết bao người nguy khốn . Họ bàn chuyện mua quan bán tước , chuyện dòng đời trôi chảy bên ngoài ...Ngoài kia chim vẫn hót trên cao .

Rồi có một đêm , người chủ quán thức giấc , lòng cảm thấy khó chịu khi nhìn tán cây đa quá lớn phủ kín ngôi nhà , ngăn cản ngôi nhà rộng của mình cao lên 

, giăng kín che mất ánh trăng trên cao , còn ngăn cản dòng người ngoài phố thấy bóng hình ta… thế là ông quyết định là phải hạ cây đa già xấu xí kia .

*

Những ngày kế , đêm đêm ông ta cho người đào sâu vào dưới gốc cây , rót nhẹ những chất lỏng trắng bốc khói, có khi thêm chút nước vàng nâu 

. Mùa thu năm ấy , lá cây đổi màu rơi rụng , cây cổ thụ cũng héo úa 

trơ vơ , hiện hình 

một thân cây vô duyên trần trụi khó coi giữa đời .

Công ty cây xanh cho người hạ xuống trong một ngày cuối thu ,xong một đời cây ! Công việc hoàn tất tốt đẹp như dự đoán .

Rồi có một ngày lành tháng tốt , chọn làm ngày động thổ lên lầu cao , hôm đó người chủ quán bày tiệc ăn mừng thắng lợi 

với nhiều đặc sản thú rừng , vui cười quanh ché rượu cần lớn , có đủ mặt những nguời bạn cùng lớn dậy với ông ta .

Tiệc không có thịt cầy vì hắn chỉ vì câu tuyên bố của người lấy gạch Văn miếu :

- Tớ 

nhất quyết không thèm nhậu thịt cầy nữa vì con chó ăn đồ dơ bẩn 

. Vì con người đôi khi bất nhân bất nghĩa bất trung , còn con chó nó trung thành có nghĩa .

Những ly nước trong nối tiếp nhẹ nhàng rót vào ché rượu cho từng người qua một lần uống . Đôi môi họ ngậm chặt ống hút khi đôi mắt liếc quanh nhìn đời . Họ cất lên tiếng cười khoan khoái với vô số lời chúc tụng , pha thêm nhiều tiếng dung tục . Họ ăn nhậu , nước trong cứ tiếp tục rót chảy vào ché rượu , nhất trong đêm se lạnh càng hâm nóng tình người . Bỗng giữa khuya , dăm ba người như mê mệt , có người ói mửa , có người bị tiêu chảy . Chủ quán cũng thế như bị rơi vào trạng thái hôn mê , nhịp thở khó khăn chậm lại . Bi kịch làm cô con gái hoảng hốt gọi điện thoại vào bệnh viện cầu cứu . Chiếc xe hồng thập tự đến , hú còi inh ỏi góc phố , làm thức giấc ngủ cả phố xưa . Tất cả được đưa vào nhà thương .

Ngày hôm sau , hình như có người tắt thở , có người vẫn trong trạng thái mê sâu . .. không chịu tỉnh với đời . Người quanh xóm biết chuyện , xấu mồm thầm thì to nhỏ . Tại vì , tại vì 

bóng ma của Ba Cô ngày xưa đó , vì hồn thiêng mấy đầu tượng Phật 

, La hán , đầu tượng Bà Chúa linh thiêng phá quấy , vì âm khí của những viên gạch nhà Văn Miếu 

tỏa ra … Cơ quan phòng dịch tới khám xét nhà , đổ lỗi cho chất độc trong lòng đất thấm trong ống dẫn nước máy vào nhà khi uống ruợu cần , do chất độc tích tụ khá nhiều dưới gốc cây già . .v..v

Buổi sáng , bầu trời xám xịt , gió bấc lạnh cóng . Mấy xác người nhậu hôm đó được hỏa thiêu ở ngoại ô thành phố trong ngày đại cát . Không gian rất vui nhộn vì có tiếng kinh kệ cầu siêu vang vọng ở cửa lò hỏa táng số 1 , có tiếng phèng la , tiếng trống kèn rống to của ban nhạc tấu bài " cầu sông Kwai " từ lò số 2 , có tiếng đọc kinh của linh mục nguyện cầu người về với Chúa 

ở lò số 3 , văng vẳng tiếng tụng niệm êm ả của ni cô cho vong linh siêu thoát ở lò số 4 

. Tất cả hòa lộn trong chợ đời nghiệt ngã 

. Trên cao không còn tiếng chim hót 

./. 

Dương Ðình Hùng

Skandal: "Cầy tơ 7 món" sẽ được người Việt khai trương vào tháng Tư ở Warszawa!

Ở các màn hình điện tử trên các tàu điện ngầm, bến xe liên tục có  bản tin về bức tranh "ẩm thực mới" gây chấn động tâm lý người dân. Trong các trường học, đề tài thịt chó luôn được đưa ra đàm tiếu với học sinh gốc Việt.

Nhật báo có ấn bản hàng đầu Gazeta Wyborcza ngày 21/ 2 cũng có bài viết của tác giả Ewa Siedlecka về kế hoạch ra mắt tại Warszawa quán nhậu thịt chó và mèo của người thanh niên gốc Việt, sinh ra tại Ba Lan này.

Nhật báo Gazeta Wyborcza bình luận lại cuộc phỏng vấn giữa Przemek Stupiał và Jakub Pham, tên người thanh niên có bố mẹ từ Việt Nam, nơi mà người Việt này khẳng định người ta ăn chó và mèo giống dân Ba Lan ăn bò và lợn. Bố mẹ người này đến Ba Lan sinh sống từ những năm 80, thế kỷ trước. Jakub Pham đã thổ lộ trên tuần báo Tygodnik Internetowy MY 21 về dự định mở một hàng thịt chó nửa kín, nửa công khai dành cho người quen.

Người Việt này cũng khẳng định công khai đã ăn thịt chó và mèo ở Ba Lan, nhưng là được nhập khẩu từ nước ngoài vào. Anh ta cũng có đến trại nuôi chó vô chủ, dắt một con về ban đầu với ý định xơi, nhưng tự nhiên thấy thích nó và đã để lại nuôi làm bạn.

Thanh niên cho rằng, người Ba Lan sẵn sàng thử những món thịt lạ mà chưa bao giờ họ nếm. Anh ta nghĩ đến một nhà hàng bí mật dành cho những người có sở thích. Nhà hàng này sẽ không có bảng hiệu, quảng cáo, sẽ là một nhà hàng không mang tên đầy đủ phản ánh „nội dung” bên trong. Đơn giản đây là địa điểm để những người quen, bạn bè có thể gặp gỡ, tìm kiếm một điều gì đó mới lạ.

Tác giả bài báo cũng đưa ra nhận định, thực tế với sáng kiến của thanh niên trẻ này, ai đó có thể đập chết anh ta một phát ăn ngay bởi sự nổi giận. Trên TV, người ta vẫn cho thấy những hình ảnh phẫn nộ, căm phẫn của mọi người đối với kẻ hành hạ súc vật. Người bạn trẻ này còn bị xem là tội tệ hơn bởi không muốn chỉ hành hạ súc vật mà còn xơi tái chúng.

Bảo vệ quan điểm của mình, thanh niên đã đưa ra lập luận, luật pháp Ba Lan chỉ cấm đánh đập, hành hạ chó mèo, điều mà có thể khiến người ta đi tù chứ không ngăn cấm giết chúng cho mục đích làm thực phẩm. Không có một điều luật nào qui định về việc cấm giết chó mèo!

Theo quan điểm của thanh niên, việc ăn thịt chó và mèo có thể giải quyết được vấn đề chó mèo hoang vô chủ; có thể xóa bỏ nhiều trại nuôi tốn kém. Thanh niên đưa ra dẫn chứng, về cuộc tranh cãi ầm ĩ, làm thế nào với 600 con chó ở Celestynów, hay vụ ở Starachowice người ta ra quyết định „tử hình” gần 400 con chó con. Chàng trai Việt đã suýt xoa, nếu như đây là sự giết thịt làm nguồn thực phẩm thì tuyệt, đỡ phí! Thế nhưng Jakub khẳng định không có ý định đánh nhau với cối xay gió, cụ thể là sẽ không tổ chức lò mổ chó mèo ở Ba Lan, mà sẽ nhập khẩu từ nơi khác về.

Tác giả bài bào mặc dù đồng tình với quan điểm là ăn thịt chó mèo ở Ba Lan không bị cấm, nhưng vấn đề là liệu anh bạn gốc Việt có lí hay không khi mà không biết ở Ba Lan có được phép giết chó và mèo với mục đích làm thực phẩm, hoặc lấy da và mỡ!

Liệu người Việt Nam có biết chó và mèo đối với người Ba Lan vô cùng thân thiết, gần gũi như là thành viên trong gia đình. Tác giả bài báo cũng liệt ra con số hàng năm có vài chục vụ người dân Ba Lan phải ra tòa, đi tù  vì ngược đãi các con vật nuôi.

Tác giả trên báo Gazeta đã tìm hiểu và đưa ra hàng loạt điều luật về bảo vệ động vật, trong đó động vật được chia thành nhiều nhóm khác nhau. Riêng chó và mèo có lẽ ở Ba Lan, hay bất cứ quốc gia phương Tây nào khác đều được nhìn nhận một mối quan hệ đặc biệt với con người. Với văn hóa, truyền thống tình cảm thì chó và mèo không còn thuộc phạm vi luật động vật!

Ngoài ra, theo nguồn tin riêng của Vietinfo, đài truyền hình TVN đang muốn vào cuộc với dự định sẽ làm phim phóng sự mà nội dung chính là về người „anh hùng” gốc Việt  cùng kế hoạch khai trương quán thịt chó của mình trong tháng Tư này.

Thiết nghĩ, trong bối cảnh này những người có trách nhiệm, những tổ chức động cộng đồng nên có những sự chuẩn bị nhất định nhằm „giải độc” dư luận, cũng như ứng phó nếu như truyền thông nhân cơ hội lợi dụng nhận thức ngờ nghệch, lệch lạc, hoang tưởng của một cá nhân như Jakub Pham để làm điêu đứng cả cộng động Việt  như năm nào!

C

Ơ

M B

N - Nguy

n Khôi

C

ơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm bản

N

ế

p xôi th

ơ

m, bên b

ế

p l

a em ch

“C

ơ

m Thái, gái Kinh” câu nói ch

ơ

i c

a mi

ng c

a cán b

Tây B

c m

t th

i (cán b

Kinh thì thèm c

ơ

m b

n Thái, cán b

Thái thì khoái l

y gái Kinh). “ăn” u

ng là đi

u ki

n hàng đ

u đ

t

n

t

i s

s

ng. C

ơ

m Thái c

đi

n là ăn n

ế

p xôi truy

n th

ng. Đó là các lo

i g

o n

ế

p tan, kh

u ma t

n (g

o chó d

y: C

ơ

m xôi th

ơ

m quá đ

ế

n con chó đang ng

đánh h

ơ

i th

y cũng ph

i vùng d

y). G

o n

ế

p ngâm qua đêm, v

i bàn tay c

a các m

, các ch

vo s

ch, đ

ráo n

ướ

c, r

i đ

vào m

t cái Hày” (chõ g

: m

t khúc thân cây khoét r

ng). Ng

ườ

i Thái không có t

c “lu

c” nh

ư

ng

ườ

i Kinh (c

ơ

m b

ng  g

o lu

c, rau lu

c, th

t lu

c, mà th

ườ

ng là “xôi” (đ

) b

ng nhi

u lo

i “hày” khác nhau (g

cây sung co c

ng, co đ

a), ph

n d

ướ

i c

a d

ng c

đ

xôi là cái “ninh” (bi

ế

ng m

n

ng) b

ng đ

ng đúc… nh

“xôi” nên th

c ăn đ

m (không b

nh

t). T

g

o n

ế

p, ng

ườ

i Thái còn ch

ế

bi

ế

n ra các lo

i bánh nh

ư

“kh

u t

m” (bánh tét) Kh

u t

m năm lãng (bánh giò), kh

u c

m (xôi màu), kh

u hang, kh

u lam, k

h

u chí (xôi n

ướ

ng). Kh

u lam tr

n sâu măng là đ

c s

n ngon đ

c bi

t

.

Nhân lo

i có các n

n “văn minh thìa dĩa” (Âu M

), “văn minh đũa tre” (Trung Qu

c, Tri

u Tiên, Nh

t, Vi

t Nam) và “văn minh ăn b

c”… ng

ườ

i Thái đen Vi

t Nam

S

ơ

n La thì trong mâm c

ơ

m: M

i ng

ườ

i bao gi

cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn c

ơ

m n

ế

p xôi thì “b

c” (tay đã r

a s

ch); ch

khi ăn c

ơ

m t

thì x

i ra bát, l

y ăn thì xúc, ch

không quen “và” nh

ư

ng

ườ

i Kinh. Ăn canh th

ườ

ng không “chan” mà dùng thìa múc đ

ư

a th

ng vào

mi

ng. Bát ch

m m

n th

ườ

ng là mu

i

t c

ng m

c khén (h

t tiêu r

ng) ho

c bát n

ướ

c ch

m pha ch

ế

(n

m p

a khi ăn th

t trâu, bò, dê)

.

Các món rau trong mâm c

ơm Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,… có tới 80  loại), số rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí, mướp, cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món “măng đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món “xổm” ghém, rau sống, rau hoa chuối nộm…

T

c kin x

m (món chua) đ

c

“kin x

m, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ng

t, chín, s

ng) r

i món “t

ươ

ng th

i”. V

i ng

ườ

i Thái “c

ơ

m tr

ng, khúc cá b

c” là bi

u t

ượ

ng c

a no đ

h

nh phúc. Các món ngon là “pa p

nh” (cá n

ướ

ng k

p), pa d

ng là cá s

y trên dàn b

ế

p, pa m

c (vùi tro), cùng v

i “pho pa”: Các lo

i cá tép, tr

ch, ru

t cá l

n gói cùng húng chó, hành s

vùi tro nóng ăn r

t th

ơ

m ngon, pa óm (cá n

u), pa t

m (cá

lu

c)… v

i các lo

i cá nheo (pa cao), cá qu

(pa con), cá trê (pa đúc)… pa c

i (lên men chua) món g

i (c

i h

n) v

i quan ni

m “xép nh

a kin nh

a ma, xép pa kin pa c

i” (thèm th

t ăn th

t chó, thèm cá ăn cá g

i).

Các món m

m cá (m

m pa) m

m tôm (m

n c

ng),

m

m t

nh

ng con b

n

ướ

c (m

n pa dí), m

m t

c ten (châu ch

u)

Các món th

t: Nh

ư

nh

a đ

ng (hong  khói) p

nh chí (n

ướ

ng), m

n (n

ướ

ng b

ng xiên); th

t con ho

ng (tô phan) làm “l

p” tr

n v

i măng chua, ch

m n

m p

a (đo

n n

ướ

c b

t phèo, m

t th

c đ

c s

n “nh

a

quai t

m n

m p

a, thu

i l

p têm chem” (th

t trâu lu

c, n

m p

a, bát l

p đ

y

p).

Mâm c

th

ườ

ng khoái món ti

ế

t canh, ti

ế

t lu

c… ngoài ra có món “nh

a min” (th

t th

i): tr

n gia v

cho vào

ng, đ

t chín thành m

t th

th

t nhuy

n n

ng mùi r

t h

p kh

u v

.

Các món gia v

th

ườ

ng nh

t là

t, m

c khén (h

t tiêu r

ng) c

s

, g

ng, ri

ng, hành t

i, rau th

ơ

m… đi

n hình là món “chéo” đ

ch

m

.

Món canh Thái:

Ư

a dùng b

t g

o đ

n

u canh, t

o cho canh ng

t sánh

.

C

ơ

m b

n Thái: Th

ườ

ng ngày ăn b

a chính vào bu

i t

i. Sáng

ra ăn lót d

(b

c ít xôi, ch

m mu

i

t) b

a tr

ư

a th

ườ

ng ăn

n

ơ

i làm vi

c (ngoài đ

ng, trên n

ươ

ng. Ăn đ

ơ

n gi

n g

n nh

g

m xôi, ít rau ch

m mu

i

t, ít th

t cá khô, n

ướ

ng…)

.

B

ữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ  nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…

Có khách: U

ng r

ượ

u c

t (l

u xiêu) theo ông ch

: 1 chén r

ượ

u húp m

t thìa canh măng chua… Nói chung b

a c

ơ

m b

n là b

a c

ơ

m bình dân, đ

m b

c.

Ch

l

c v

n là món c

ơ

m xôi n

ế

p, măng và rau r

ng là món hàng ngày, th

c ăn ch

là đ

ư

a đà đ

ăn đ

ượ

c nhi

u c

ơ

m (no). Tháng 3 ngày tám, thi

ế

u g

o th

ườ

ng đ

n thêm s

n (n

o) ngô ho

c ăn thêm c

mài đào trên r

ng. Mùa n

ướ

c lên có thêm món cá, sang xuân săn đ

ượ

c con chim, con don, con dím… b

sung cho món ăn

Th

t l

n, th

t trâu ph

i là có ma chay, c

ướ

i xin, t

ế

t nh

t, cúng nhà m

i…

D

u sao thì b

a c

ơ

n b

n Thái th

i 1960

S

ơ

n La v

n là b

a ăn no đ

, ngon h

ơ

n h

n b

a ăn th

i HTXNN c

a ng

ườ

i Kinh d

ướ

i xuôi m

t th

i ăn công đi

m là chính

.

Feb 12, 2012; 11:37pm

ÔNG GIÁO VÀ CON CHÓ BECGIE

ề đến nhà ông Giáo bỏ chiếc cặp sách xuống, lòng nặng chĩu, nhắp một chén trà nguội lạnh chát pha từ sáng sớm mà lòng cũng lạnh chát theo. Vừa lúc đó bà Quang bưng mâm cơm lên.

- Ông xuống mời cơm!

- Thôi tiếc làm gì, của đi thay người ông ạ!

Ông Giáo ngồi xuống mâm cơm mà cứ thẫn thờ suy nghĩ, đúng là bọn kẻ cướp ngay trên tay mà không làm gì nổi, nó cướp đi của ông niềm vui, sự đam mê mà cả mấy năm ông dồn vào đó. Bà Quang cắt ngang dòng suy nghĩ của ông.

- Tháng trước người ta trả ông hai mấy triệu mà ông không thèm bán, ông quý nó để bây giờ…!

- Tôi mất bằng ấy tiền cũng không tiếc bằng nó bà ạ!

- Bốn tháng lương của ông đấy!

- Bốn tháng lương cũng không tiếc bằng!

- Thôi ông mời cơm đi, đằng nào cũng mất rồi mà !

Ông giáo đưa bát cơm lên miệng ăn mà không có cảm giác gì, ông cố ăn hết bát cơm rồi đứng dậy, ông treo mấy lồng chim ra hiên nhà rồi vào nhà uống nước.

    Sáng nay cũng như mọi ngày ông dậy sớm đi tập thể dục và dắt chó đi vệ sinh “thằng Bi” - tên con chó mà ông thường gọi – cũng ngoan ngoãn đi theo ông, chờ con Bi đi vệ sinh song ông khoan thai đi bộ từng bước trên đường làng quen thuộc tay ông dắt theo con Bi, Con Bi cứ đi một đoạn lại ngửi và đánh hơi những chỗ nó đi qua.

Bỗng có tiếng xe máy rồ ga vượt qua ông, tên ngồi său chộp lấy cái dây dắt chó từ tay ông, khiến ông ngã chúi về phía trước. Con chó bị kéo lê trên đường vẫn ngoái lại nhìn chủ, kêu oẵng .. oẵng .. mấy câu rồi nó vụt lên cắn vào tên ngồi sau, như đã chuẩn bị trước hắn dí súng điện bắn vào con chó khiến con chó ngất lịm rồi chúng ôm đi mất hút. Ông giáo chỉ kịp ngồi dậy, sau cơn choáng váng thì chúng đã đi xa.

Cả đời nhà giáo ông không tham vọng gì, chỉ miệt mài làm việc, hết giờ làm ông lại về nhà vui với những cây cảnh và những con chim cảnh đủ loại mà ông đã lâu năm sưu tầm. Vườn nhà ông có rất nhiều cây cảnh có giá trị của ông và của anh em chơi cùng gửi ông sửa sang, chăm sóc và lúc nào cũng rộn tiếng các loại chim; cu gáy, chích choè, hoạ mi…… đua nhau hót.

Được cái ông có con mắt thẩm mỹ vào dạng cao nên cây cảnh do ông chỉnh sửa thường rất đẹp, thân phàp, tay bông cây nào cung chuẩn chỉ. Còn chim thì ông chỉ lựa nhưng con hót hay, dáng đẹp chứ không chơi chim đá, chim chọi, ông chăm chúng như con vì vậy mà con nào cũng mượt mà, căng sức hót. Nhiều khi mải vui với cây cảnh và nghe chim hót ông nói vui với bạn bè rằng “ Thiên đường là đây chứ còn đâu”. Nhờ tính tình vui vẻ, hoà đồng đôi khi hào phóng với những người bạn cùng sở thích, đam mê mà ông có rất nhiều bạn, từ những người cán bộ cao cấp, giàu sang, hay trí thức như ông, tất cả đều chơi thân với ông không vì cái gì cả mà vì cung sở thích, cùng nỗi đam mê và sự trân tình của ông.

Hai năm trước có ông bạn mãi ở Hà Nội về chơi, sau bữa cơm sơ, rượu nhạt ông ấy nói với ông rằng.

- Nhà anh phải nuôi lấy một con chó khôn để coi nhà, chứ nhà toàn cây cảnh có giá trị, chim cảnh hay thế này, mỗi khi anh chị đi vắng trộm vào hốt hết thì sao?

- Ờ tôi cũng tính thế, từ ngày các cháu lấy chồng, lấy vợ rồi ở xa hết chỉ có tôi với chị chú ở nhà mà cả hai đi làm có khi cả ngày không ai về nhà… nhưng mà thôi sang năm chị ấy nghỉ hưu rồi.

- Anh nói vậy chứ nếu nó vào lấy đi mấy cây của anh thì không sao, nhỡ nó lấy đi cây của những anh em gửi ở đây thì anh ăn nói làm sao. Thôi để em cho con chó của em xuống cho anh nuôi, nhà em có mấy con nhiều lúc chăm sóc cũng mệt.

- Thôi chú nghĩ thế cũng được. Lại thêm một sự đam mê nữa cái tâm lại phải chia ra một phần rồi.

Thế là hai ngày sau một chiếc xe sáu chỗ ngồi chở về cho ông một con chó Becgie vừa to vừa đẹp có giá tri cả chục triêu đồng.

Từ ngày có con chó về gia đình ông như thêm một người, cơm nấu cũng nhiều hơn, thức ăn cũng phải khác, ông nói “ Giống chó này khẩu phần ăn phải khác chó thường, phải có thịt có cá cho nó ăn nó mới coi nhà được”, mỗi khi lĩnh lương ông lại bồi dưỡng cho nó một quả trứng vịt lộn.

Cứ vậy ngày tháng trôi qua ông lại có thêm niềm đam mê mới, nuôi chó Becgie, ông luôn điện cho ông bạn ở Hà Nội hỏi thăm sức khoẻ và cách chăm sóc cũng như cách phòng bệnh và thuốc thang cho con chó. Ông coi con chó như con mình bù lại con chó cũng rất khôn và nghe lời chủ. Có con chuột, con mèo nào lân la đến cạnh lồng chim cảnh là nó đuổi đi hết, con gà nào bới vào gốc cây cảnh là phải trả giá cho nó ngay.

Mỗi sáng ông dắt nó đi vệ sinh và tập thể dục nó cũng làm theo chủ, chạy nhảy quanh ông, khi ông dắt xe đi làm nó xủa nhẹ mấy câu như chào ông, lúc ông  bà về nó mừng xoắn xít ôm lấy chân ông, dụi đầu vào chân ông như đứa nhỏ đón cha về.

Khi vợ chồng ông vắng nhà “thằng Bi” coi nhà như một vệ sĩ, không người lạ, vật lạ nào mà vào được khỏi cổng, làm cho vợ chồng ông rất yên tâm. Không biết từ lúc nào ông coi con chó như một phần trong gia đình ông, ông cảm thấy không thể thiếu “ thằng Bi” trong cuộc sống của vợ chồng ông.

Quán thịt chó nhà anh Sáng vào những ngày cuối năm, lúc nào cũng nhộn nhịp người ra vào. Như những công ty khác công ty của ông Cường cũng có buổi họp tất niên, sau buổi họp ông Cường cùng một số anh em trong ban quản trị rủ nhau đi ăn thịt chó tất niên.

Sáu anh em ngồi vào mâm, quan sát một chút ông Cường nói:

- Chú Minh đi hái cho anh mấy quả sung tươi!

- Dạ em đi ngay!

Său vài phút Minh cầm mấy chùm sung vào và nói:

- Sếp ơi em tí chết, không ngờ anh Sáng mới nuôi con chó quá khủng!

- Chó gì mà khủng?

- Vừa to, vừa dữ anh ạ!

- Thế à! Chú đưa anh ra xem sao?

Đi theo Minh ra đằng sau trợt ông Cường thốt lên:

- Trời con Bi của anh Quang!

- Con Bi nghe thấy người gọi đúng tên minh sủa lên mừng xoắn xít.

Ông Cường vào bàn ăn gọi;

- Sáng ơi lên đây anh bảo!

- Dạ thưa anh thịt hôm nay có vấn đề gì sao? – Sáng vừa nói vừa đi lên -

- Không tôi không hỏi anh chuyện đó!

- Dạ thế thì có việc gì ạ!

- Con chó đằng sau chú kiếm ở đâu đấy?

- À! Tháng trước em đang làm hàng thì thằng đổ chó cho em nó gọi em và bảo;

Ông  giúp tôi sử lý con chó này với, em đi theo về nhà nó thì thấy con chó đang được xích trước cửa, gầm gừ giữ tợn lắm. Em hỏi nó, nó bảo rằng

Tôi mua lại của mấy thằng trộm chó, lúc nó đang mê tôi không biết xích nó ngay trước cửa làm bây giờ nó không cho ai vào nhà được, gay quá ông ạ!

- May mà em có mấy bài khuyển chó mới làm lành được với con này, sau đó nó phải bán lại cho em, may mà về nhà em nó lại ngoan và chịu nghe lời anh ạ!... nhưng có mỗi tội đêm nào nó cũng nhớ chủ khóc ư ứ ấy, thảm lắm!

- Thế chú có biết được con chó này là của ai không?

- Làm sao mà em biết được?

- Của anh Quang giáo viên đấy, nó của anh Hải Hà Nội cho anh Quang hai năm rồi.

- Ôi vậy mà em không biết, năm ngoái nghe anh Quang có con Choè hay em xuống mua nhất định anh ấy không bán và tặng lại em con Chòe non bây giờ hót cực hay anh ạ!

- Ừ thế chú mua con chó nay bao nhiêu để anh chuộc lại cho anh Quang?

- Hai triệu anh ạ!...Thôi anh ạ, ai chứ anh Quang thì để mai em trở hẳn xuống nhà anh ấy em gửi cho.

- Thôi chú mày làm ăn thì cứ cầm lấy! – Nói rồi ông Cường rút ra ba triệu trả cho Sáng, và nói; chú cứ bảo rằng con chó bị bọn trộm đánh sổng, đi lang thang được mọi người nuôi sau đó chú biết được và xin để trả cho anh ấy nhé, đừng nói là anh chuộc cho anh ấy.

- Vâng anh yên tâm. Mai là chủ và chó được hội ngộ.

Buổi chiều cuối đông lạnh giá, ông Giáo ngồi bên tách trà nóng, mắt nhìn xa xa, đôi chim khuyên treo trước nhà nhảy nhót líu ríu cũng không làm cho ông chú ý đến, cả tháng nay ông cứ bần thần như người mất hồn, sự trống vắng như cứ lan toả trong tâm hồn ông. Ông xin nghỉ ốm cả tháng nay, ông bảo “Đi dạy học mà tâm không tĩnh thì không dạy được, làm khổ học sinh thôi”, đang miên man suy nghĩ bỗng có tiếng chó sủa Gâu…Gâu.. ông giật mình kêu lên “Bi”, “thằng Bi”. Ông lao ra sân nhà.

- Chào anh Quang em mang chó về cho anh đây!

- Trời ơi! Bi.. mày lại về với ông rồi! lạy trời!

- Sáng mở cửa chiếc cũi trở chó ra. Con chó lao thẳng đến ông Quang ôm trầm lấy hông ông kêu ứ…ứ..!, ông Quang ngồi xuống ôm lấy đầu con chó vuốt ve, hai hàng nước mắt trào ra.

- Bi! cứ tưởng rằng ông con mình chẳng bao giờ gặp nhau nữa… thế mà!... ơn trời…con lại về coi nhà cho ông rồi!

Ông Quang nhìn xuống đầu con chó ông ngạc nhiên thấy con chó cũng khóc, nước mắt nó làm ướt một phần tay áo ông.

- Trời! mày cũng khóc à con! Đúng là chó ngoan… từ nay…cu Bi lại được sống cùng ông rồi!

Từ nãy Sáng cứ đứng ngẩn ra, anh không ngờ cả đời anh đã giết thịt bao nhiêu con chó rồi, mà đến giờ gặp cảnh này anh nghĩ đến phải giải nghệ mất, anh thốt lên;

- Trời! chưa từng thấy con chó nào như vậy!

Mãi vui vì gặp lại chó giờ ông Quang với để ý ngước lên nhìn Sáng.

- Cảm ơn chú, chú đã cho chúng tôi hội ngộ! mời chú vào nhà cho tôi tạ ơn chú!

- Không có gì đâu anh ạ! Anh em cả mà! - Từ nãy cũng xúc động nên Sáng nghẹn ngào nói.

Ông Quang đứng dậy kéo Sáng vào nhà con chó cũng chạy theo tới cửa và ngồi bên mé cửa.

- Hôm nay phải mời chú uống rượu thôi, đây là chai rượu Tây mà chú Hải, chủ cũ của con chó cho tôi từ tết đến giờ đấy! vừa nói ông Quang vừa lấy chai rượu từ trong tủ ra.

Ông rót ra hai chén rượu nâng lên cho Sáng một chén.

- Mời chú! Trăm phần trăm nhé! Nói rồi ông uống hết luôn.

- Dạ! mời anh! Sáng cũng uống hết chén rượu.

- Lúc nãy vì mừng quá mà anh vô phép với chú, có gì chú bỏ lỗi cho anh nhé!

- Không! Không sao đâu anh ạ, em cũng cảm động theo anh mà.

- Ừ! Nhưng mà chú mang chó về cho anh, hết bao nhiêu tiền chuộc cho anh gửi chú.

- Không! Không anh ơi! Con chó này bị bọn trộm đánh sổng nó chạy quanh phố nhà em, ai cũng sợ chó dại đem gậy gộc ra đánh, biết là chó khôn nên em ngăn rồi dử nó về nhà nuôi, hôm qua mấy anh ăn thịt chó ở nhà em nhận ra đây là chó của anh nên em trở ngay xuống trả kẻo anh buồn.

- Thế thì tôi xin chú! Nhưng công chú nuôi nó cả tháng trời, rồi công trở xuống cho tôi, thì chú cho tôi gửi ít tiền xăng xe! Nói rồi ông quang đưa ra tệp tiền dúi vào tay Sáng.

- Không! Không !.... biết ở lại xẽ không ổn, Sáng vừa đặt tiền xuống bàn vừa chạy vội ra xe nổ máy chạy luôn. Con chó chạy theo ra cùng ông Quang sủa nhẹ gâu…gâu..!

Ông Quang ôm con chó trong lòng nhìn ra những cánh hoa đào nở hồng nhẹ thanh tao, rung rung trước gió, tiếng chim ca rộn rã, mùa xuân đã về, trong lòng ông ấm lại cái ấm của mùa xuân, tình thương, tình bằng hữu bạn bè.

Thấm thoát đã hai năm kể từ khi chủ và chó hội ngộ, ông bà Quang đều đã về hưu, vì điều kiện mà buộc ông bà phải vào TP.Hồ Chí Minh ở với anh con cả, ông không muốn đi nhưng bất khả kháng ông phải chia tay anh em bằng hữu cùng họ hàng để ra đi. Năm gian nhà gỗ ông tiến cúng cho họ tộc để làm nhà thờ họ, phần đất còn lại ông để cho anh cháu họ làm nhà để sau này lấy chỗ đi về.

Mấy ngày hôm nay nhà bác Quang lúc nào cũng đông khách, xa gần đến chia tay bác, người thì đến trở cây về, người thì đến chơi chia tay ông. Mấy cây cảnh của ông, cây thì ông tặng, cây thì ông mang theo, còn chim cảnh ông đem tặng hết nhưng vẫn không quên tặng cho anh Sáng con choè mà anh thích.

Sáng nay ông Cường đến chia tay ông và xin về mấy cây cảnh ông gửi ông Quang chăm hộ, ông cũng được ông Quang tặng cho cây Tùng mà ông thích nhất. Sau thời gian truyện trò ông Cường nhờ người gọi xích lô đến.

- Chiếc xích lô máy dừng trước cổng anh lái xe vừa bước xuống thì con Bi từ trong sân lao thẳng ra cắn vào đùi anh lái xe, khiến anh này ngã xuống, tiếp đó nó cắn vào cánh tay lôi anh này kéo lê trên sân. Bị bất ngờ anh chỉ kịp kêu chó…chó…và giẫy giụa khỏi con chó.

- Thấy ồn ở bên ngoài mọi người trong nhà chạy ùa ra vừa nhìn thấy cảnh đó ông Quang đã hô lên Bi..Bi.. không được vô lễ..Bi..i. thả người ra.

- Con lạy bác! bác bảo nó tha cho con đi, con biết tội rồi mà... con lạy bác!!!- nhận ra con chó và ông Quang nên người lái xe nói thế-.  

- Ông Quang chạy vội đến ôm lấy cổ con chó giật ra rồi vỗ vỗ nhẹ vào chán nó nói,

- Mày hư rồi con ơi! Mày hư rồi con ơi! Con chó vẫn nhe răng gầm gừ nhìn anh lái xe.

- Anh lái xe mặt mày tái mét, chân tay be bét máu được mọi người dìu vào nhà băng bó và bôi dầu.

Trấn an con chó xong ông Quang  cho nó vào chuồng và đóng cửa lại, rồi ông đi lên nhà nhìn anh lái xe ông nói.

- Chắc chú mày làm việc gì quá đáng với nó rồi, chứ từ khi tôi nuôi nó đến bây giờ nó chưa cắn ai bao giờ, và chưa bao giờ nó đối sử dữ tợn đến thế.

- Cháu xin bác! Cháu biết cháu có tội rồi mong bác và mọi người tha thứ cho cháu. Cách đây hai năm cháu chính là kẻ giật trộm con chó trên tay bác, đưa về đến nhà cháu và thằng bạn chờ nó tỉnh dậy rồi đem bán, không ngờ khi nó tỉnh dậy nó giật đứt xích và cắn cho hai thằng cháu một trận thằng nào cũng đầy thương tích may mà có khẩu súng điện mới làm nó ngất đi, và chúng cháu đem bán lại cho anh Thuân “chó”. Vừa nói anh này vừa kéo quần bên kia lên những vết sẹo do chó cắn vẫn còn hằn nguyên trên bắp đùi. Anh nói tiếp:

- Từ đó cháu không giám đi bắt chó nữa và mua xích lô để chạy, không ngờ hôm nay lại gặp lại bác và con chó. Cháu xin bác tha cho cháu.

- Thôi! Đằng nào thì tôi cũng không mất được con chó, và chú mày cũng biết cải tà quy chính là tốt rồi. Mấy  hôm nữa gia đình tôi và nó cũng vào nam ở rồi, chú mày cũng không lo phải gặp nó lần nữa đâu.

- Từ nãy ông Cường không ngờ mình lại là người chứng kiến câu truyện kỳ lạ đến vậy, chính ông là người phát hiện ra con chó, chuộc nó về, và cũng chính ông là người vô tình đưa kẻ trộm chó đến cho ông Quang biết mặt. Ông nói.

- Thôi! mọi việc đã qua rồi thì cho qua, mong rằng chú mày hãy sống sao cho tốt hơn nữa, không có chuyện này sảy ra nữa, và chú mày cũng tốt lên là được rồi. Bác Quang không để tâm tới việc cũ nữa đâu. Chú an tâm đi!

Ngày chia tay bác Quang mọi người đứng nhìn theo chiếc xe trở gia đình bác và con Bi nó ngồi ghế cuối, cùng bác Quang, nó cứ nhìn mọi người và sủa nhẹ gâu…gâu… như gửi lời tạm biệt. Tôi nhìn theo bác mà cứ vang trong đầu lời bác dạy “ Chơi cái gì thì cũng phải giữ lấy cái đạo chơi, đừng làm trái đạo mà mất hết anh em bạn hữu”.

Lão Hạc Reproduction 2011

Lão Hạc vê vê ít cần sa mà lão mới chắt chiu mua được vào cái điếu cày, lão cầm cái bật lửa zippo đánh cái tạch 1 cái, cái bật lửa mà thằng con lão ở nước ngoài gửi về cho lão đã khá lâu rồi, mà đệch hiểu thế nào lão xài mãi không hết xăng trong đó.

Lão đưa cái điếu cày cho tôi.

- Thần Gió bắn trước đi. (Tôi được lão đặt cho cái nick name là Thần Gió cũng chỉ vì hay chém gió lão )

Tôi gạt tay đưa điếu lại cho lão:

- Thôi ông bắn trước đi, thử xem cái loại này có đạt chuẩn 100% không, hay lại thuốc lào Tiên Lãng pha với lông lách Bảo Thy thì bỏ mẹ.

Lão đưa cái điếu lên mồm, dí cái bật lửa vào lõ điếu, rít soành soạch, cảm tưởng như lão vác tiểu liên bắn tỉa đàn chim Ngói đang cố gắng nhặt nhạnh từng hạt thóc còn sót lại sau mùa gặt. Lão nhả ra 1 làn khói mờ mờ, ảo ảo. Lão nói:

- Được ! Phê lắm Thần Gió ạ.

Tôi chợt thoáng tiếc nuối vì đã không dám test thử để giờ đây lão rít sạch sẽ không còn 1 tí gì cho tôi. Thôi thì tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Lão nằm ngửa ra đằng sau, tay vắt lên trán:

- Sướng quá Thần Gió ạ. Đây đúng là loại cần sa mà dân chơi ở chốn thành thị phồn hoa hay xài đó. Rít xong mà thân xác nó cứ lơ lửng, như là mới học được bí kíp võ công Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn Dự ấy. Phiêu, phiêu lắm ..keke..

Rồi mắt lão chơt nheo lại như có điều gì đó muốn nói với tôi..

- Có lẽ tôi bán con chó nhà tôi đi thôi Thần Gió ạ.

- Cái gì? Lão điên à, dở hơi à, thần kinh à. Đang nuôi sao lại bán. Mà lão có thiếu tiền đâu mà phải bán, thằng Toàn (con trai lão Hạc) không gửi tiền về cho lão nữa à.

- không, không. Tiền thì thằng Toàn nó vẫn gửi về cho tôi. Từ ngày cả cái làng Vũ Đại này đổ xô sang Iraq nhặt vỏ đạn với mảnh bom để buôn đồng nát thì nhà nào chả lên 2 tầng, 2 tầng rưỡi. Rồi thì SH 150i, Liberty phóng ầm ầm đầy đường làng. Nhưng dạo này hình như bên đó ít đánh nhau nên vỏ đạn ít lắm, nó làm ăn cũng không được khá nên gửi về cho tôi chả được bao nhiêu, quất con lô, ra Đồ Sơn đóng gạch vài phát là lại hết, chả được bao nhiêu, có lẽ tôi bán con chó nhà tôi đi thôi.

- Nhưng con chó nhà lão khôn lắm mà, với lại lão nuôi nó từ bé còn gì. Hồi thằng Toàn còn bé, mỗi lần nó đi nặng là con chó lại lon ton theo sau để dọn dẹp và liếm đít cho thằng Toàn, hồi đó lão chả tiết kiệm được ối giấy vệ sinh còn gì?

- Đúng là con chó nhà tôi nó khôn thật, đó là giống chó Vệ, tôi xuống tận Tổ 1, Tây Mỗ mua về mà. Nhưng dạo nào nó chỉ ăn rồi nằm, béo như con lợn, chả biết bắt chuột bắt gián gì cả. Có mỗi miếng thịt mồi vừa thắp hương xong đang định bụng để nhắm với chai rượu, quay đi, quay lại nó đã liếm bố nó hết rồi. Mà các cụ ta vẫn có câu "khôn ăn l** chấm muối" mà.

- Nhưng bán thì có được bao nhiêu?

- Không được bao nhiêu nhưng tôi cứ bán, đc đồng nào hay đồng ấy. Mai tôi ra đầu làng gọi thằng Minh thịt chó vào xích cổ nó lại, tiễn nó lên đường.

Hôm sau, lão Minh thịt chó ở đầu làng cầm cái thòng lọng vào nhà lão Hạc. Hắn nổi tiếng là 1 tay chuyên thịt chó, xử lý được các loại chó bằng skill "Đả Cẩu Bổng Pháp". Hắn dồn con Vệ vào góc nhà, 1 tay cầm cái gậy, 1 tay cầm cái thòng lọng. Con Vệ của lão Hạc dường như cũng biết ngày tận của mình đã tới, nó lùi về sau mỗi lần tay Minh thịt chó tiến lên 1 bước, rồi nó chợt nhận ra là đít nó đã dính vào tường nhà, không thể lùi thêm được nữa. Nó chậm rãi, nhe hàm răng vàng xỉn của nó ra dường như để de dọa lão Minh thịt chó, nhưng đối với 1 tay chuyên xử lý các loại chó như lão Minh này thì con Vệ chả là cái đinh gì. Lão Minh thịt chó lẩm bẩm:

- Mẹ mày, nhe răng dọa ông à, xem đây con.

Nói đoạn lão cầm cái gậy gỗ, vả 1 phát mạnh vào mồm con Vệ, khiến con chó kêu ăng ẳng. Lão Minh thịt chó tiếp lời:

- Con mẹ mày, biết điều thì chui ngay vào cái bao này, đừng để ông dùng biện pháp mạnh, quay đầu là bờ con ạ.

Đôi mắt con chó rơm rớm nước mắt, nó từ từ chui vào cá bao tải mà lão Minh thịt chó đã mở ra sẵn cho nó. Và rồi cái gì đến cũng phải đến, con Vệ của lão Hạc đã lên đường, về với ông bà ông vải nó.

Bỗng nhiên có người đưa thư khẩn đến cho lão, lão mở phong thư ra thì là giấy báo tử của HTX Xuất Khẩu Lao Động làng Vũ Đại, nói thằng Toàn con trai lão trong lúc đi nhặt vỏ đạn thì bị một số cao bồi làng ở Iraq ném gạch vỡ đầu rồi sinh tật mà chết. Thật là bi thương quá đi, lão thì không còn sức lao động, hàng tháng chỉ trông chờ vào đồng tiền mà thằng Toàn con lão gửi về để ăn chơi, thác loạn. Giờ đây nó chết rồi thì lão biết lấy tiền đâu mà ăn, mà chơi. Đúng là cảnh "chó cắn áo rách", giờ thì việc lão bán con Vệ đi có lẽ cũng đúng khi mà lão còn không lo nổi cho bản thân lão, huống chi 1 con chó chỉ biết ăn rồi nằm.

Thịt chó - Khoai lang!!! Sướng quá xá là sướng...

Đăng ngày: 23:20 11-09-2008

Thư mục:Tổng hợp

Sau 3 tuần ăn chơi, phá phách ở VN, hắn quay lại Nhật. Hành trang lần này khá nhẹ nhàng, nhưng hắn lại được giao 1 trọng trách vô cùng thiêng liêng và cao cả:

mang thịt chó!

Không phụ lòng kì vọng của các huynh đệ, hắn lặn lội xuống tận Hưng Thịnh, quán thịt chó lớn nhất Thế Giới, thuộc địa bàn tỉnh Nam Định, vác về nửa con chó, 1 chai mắm tôm, và vô vàn những chuối xanh, sung, khế, và ko thể thiếu được xả, cộng thêm giềng!

Tiếp theo, bằng tuyệt chiêu "vải màn che mắt hải quan", hắn đã mang chót lọt đống báu vật ấy sang đến nơi, huynh đệ osaka bày binh bố trận chào đón hắn từ đầu cửa cho đến bếp. Và tiếp theo là:

ây Đa Thôn Vĩ Hậu

Đúng ra thôn Vĩ Hậu là tên trước đây, từ khi huyện được nâng thành quận, xã thành phường thì nó được đổi thành Tổ dân phố số 25 phường DV. Được vài ba năm, người ta vẽ lại địa giới phường, nó lại mang tên tổ khác của phường khác. Chỉ khổ mấy người thích thăm viếng các sếp phường, chưa kịp đủ mặn mà thì lại phải đi tìm cửa khác.

    Cũng giống như các thôn làng Bắc Bộ, Vĩ Hậu có cây đa. Cây đa có tự bao giờ không ai biết, nó được ai đó trồng lên hay chim tha hạt về thả xuống đó - không ai hay. Bây giờ nó đã là một cây với rất nhiều thân, tán lá xum xuê vươn ra mọi hướng.

    Chuyện tôi muốn kể có liên quan đến tán lá cây đa.

    Số là người dân ngoại thành có một cách đô thị hóa rất nhanh và hữu hiệu: bán bớt một phần đất, lấy tiền xây nhà đúc, mua TV, xe máy tủ chè sập gụ. Mọi thứ đều mới cả, tủ chè sập gụ cũng mới nhưng giả cổ. Thoắt một cái, sau mấy tháng ông bà trồng rau đã biến thành người Kẻ Chợ, bóng bẩy không kém ai. Thằng con trai học mãi không hết Phổ thông cưỡi @ phóng vè vè, tóc vàng rơm, nay không đứng bán “Kết quả đêêêê…!” đầu ngõ nữa mà hình như bán cái bột trắng mịn hơn mì chính…

    Một tay trung niên tên là Thảo mua lại miếng đất bên cạnh cây đa. Chuyện đó cũng bình thường thôi, 70% hộ dân ở Vĩ Hậu là đám mới tậu đất xây nhà, ngày xưa gọi là dân ngụ cư. Anh mua đất? Anh hãy lên Phường chạy con dấu xác nhận mua bán rồi thì cứ việc xây. Đội quy tắc quy téo đến hò hét một chốc, anh hãy xì cái phong bì ra, chúng nó sẽ cười tươi và lễ độ như muốn làm con rể anh, anh cứ tự nhiên xây tiếp! Thiết kế nhà, khỏi cần! Kiểu nhà hình ống ở Việt nam đã được hoàn thiện đến mức mấy anh thợ xây thuộc nằm lòng, nói sơ sơ mấy câu là họ làm được tất. Với lại thử tính xem có mấy cái nhà dân xây mà bị sập? Hầu như không có, tuyền nhà của công thì mới hay sập thôi. Hôm rồi ở Băc Ninh có cái tượng đài gì đó, khánh thành chưa được 2 giờ thì sập bố nó tường. Rõ là vừa buồn vừa cười!

    Nhưng cái tay trung niên Thảo này lại gặp rắc rối ngay từ khi bắt đầu động thổ. Có mấy cành đa thò sang không gian đất nhà hắn, thường thì chỉ cần nói với hàng xóm một câu rồi cho thợ chặt đi. Khổ nỗi cây đa lại là của chung, nằm trên đất của Trụ sở Tổ dân phố. Phàm đã là của chung thì làm gì có chủ? Bởi vậy hắn cứ cho thợ chặt mấy cái cành đã lâu nay đung đưa trên đất nhà hắn theo quy luật tự tìm ánh sáng của loài cây.

    Trong thôn, à quên tổ, có lão Đại, người bé tý, cao không hơn thước rưỡi, nặng không quá 40 ký. Chắc bố mẹ lão có cái tính hài hước nên mới đặt lão tên là Đại. Ngoài cái tên Đại ra, ở lão toàn tiểu cả, đặc trưng nhất là cái tính tiểu nhân.

    Lão Đại mò sang nhà ông Tổ trưởng dân phố, hấp háy con mắt:

    - Bác Tổ trưởng ơi, thằng cha Thảo nó chặt cây đa làng mình rồi!

    Ông Vạn Tổ trưởng người Nghệ an, chẳng biết vì lẽ gì mà bỏ quê cha đất tổ ra đây làm Tổ trưởng, có người xấu bụng nói ông cố kiết làm Tổ trưởng để vợ ông chiếm được chỗ bán hàng thơm nhất đầu ngõ, còn con ông thì buôn bán vật tư xây dựng, xe chở cát sỏi chạy rầm rầm trong ngõ không ai dám kêu.

    Dù sao thì ông cũng là Tổ trưởng, là quan dân chứ không phải kẻ tầm thường như lão Đại, nên ông thủng thẳng ra trụ sở xem thực hư thế nào. Trung niên Thảo vừa thấy quan đầu tổ, vội vàng chạy sang trụ sở (cũng là “hàng xóm” của hắn), móc bao Vina mời sếp:

    - Chào bác, sáng em sang bác nhưng bác đi vắng, báo cáo bác hôm nay chọn được ngày lành tháng tốt, em làm cái thủ tục động thổ ạ. Mời bác ăn điếu thuốc.

    Ông Tổ trưởng nói giọng Nghệ pha một vài từ bắc, nặng như hòn đá tảng:

    - Đáng ra ông phải nói với Tổ một câu về việc chặt cành đa.

    Thảo gãi tai:

    - Đúng là nhà em có khuyết điểm, em muốn làm cho kịp giờ. Mý lại em nghĩ chặt vài cái cành không có ảnh hưởng gì cả.

    - Thôi ông đã trót làm thì làm đi, ông tổ trưởng nói ậm ừ rồi bỏ về nhà.

    Lão Đại không theo ông Tổ trưởng mà chạy sang nhà đồng chí Bí thư:

    - Bác Bí thư ơi, thằng cha Thảo nó chặt cây đa làng mình rồi! Nhưng cái nhà ông Tổ trưởng không xử lý gì hết, thế có chết không chứ?!

    Ông Hảo Bí thư là dân Vĩ Hậu gốc, mấy đời sống ở đây, nghe nói thế mặt ông tái đi. Tôi nói mặt ông tái đi là nói cho có chuyện, chứ mặt ông lúc nào cũng tái, không thể tái hơn được nữa. Đó là do nhiều năm sốt rét rừng, những cái năm ông làm bên Địa chất, len lỏi khắp các xó xỉnh rừng núi Tây bắc. Bây giờ đã nghỉ hưu, chi bộ có hơn chục người, toàn dân hưu trí, đùn đẩy bắt ông làm bí thư, chứ thực tình ông không rành công tác đảng lắm.

    May là công tác đảng ở địa bàn cũng không phức tạp, ngoài việc phổ biến nghị quyết, thu đảng phí, tham gia các cuộc họp của dân phố thì cũng chẳng có việc gì nhiều.

    Vứt cái điếu cày chưa kịp châm lửa hút, ông Hảo chạy vội ra Trụ sở, lão Đại lon ton bám theo.

    - Ai cho phép anh chặt cây đa làng này? Anh có biết cây đa này có đã bao nhiêu đời nay rồi không? Anh có biết cây đa là thần phù hộ cho cái làng này ăn nên làm ra, mở mày mở mặt hay không mà anh dám chặt nó?

    Ông Hảo nói liền một dây rồi hụt hơi không nói được nữa. Lão Đại nói đế vào như kiểu lên chùa tụng kinh, khi sư ông đuối hơi thì các con nhang phật tử phải tụng to thêm lên:

    - Cái này là gay lắm, đụng đến long mạch làng này rồi trời đất ơi.

    Chắc chắn lão Đại không hề biết cái long mạch có liên quan gì đến cây đa hay không, nhưng cứ nói cho được việc thì cần gì phải đúng mới nói?

    Trung niên Thảo hơi bị bất ngờ trước thái độ của ông Bí thư, hắn nói rất dịu:

    - Thưa bác Bí thư, như vậy là em sai rồi, bây giờ các bác có phạt thế nào em cũng xin chịu.

    - Phạt hả, phạt bao nhiêu cho bù lại những thiệt hại to lớn mà anh mang lại? Trước mắt tôi quyết định, ông Hảo ưỡn ngực, phạt anh ba mươi triệu. Trong vòng 3 ngày phải nộp đầy đủ.

    Trung niên Thảo vâng vâng dạ dạ, hẹn sẽ chồng tiền nghiêm chỉnh. Nhưng quá 3 ngày, không thấy hắn động tĩnh gì, ông Hảo lại ra trụ sở:

    - Nhà Thảo kia, hôm nay là ngày thứ mấy rồi?

    - Bác ơi, em biết hôm nay là quá hạn nộp phạt rồi, nhưng cảnh xây nhà phải đi vay xuôi mượn ngược, em lấy đâu tiền nộp các bác bây giờ?

    - Ông nói đùa đấy à, có tiền làm nhà thì phải có tiền nộp phạt.

    - Hay các bác cho em khất đến khi xây xong em nộp cả thể? Trung niên Thảo gãi tai.

    - Bốn năm tháng nũa ông mới xây xong nhà, bấy giờ mức phạt sẽ là 50 triệu, không phải là 30 mươi triệu như bây giờ đâu!.

    - Vâng em xin chấp nhận ạ.

    - Không nói xuông, ông phải làm giấy cam kết nộp phạt.

    Trung niên Thảo vào xé một tờ trong quyển sổ theo rõi công trình, viết rõ ràng:

    Hà nội ngày … tháng … năm …

    Tôi Nguyễn văn Thảo, làm nhà trên đất hợp pháp của tôi, có trót dại chặt một số cành đa vươn sang không gian đất nhà tôi. Nay theo ý kiến ông Bí thư tổ dân phố, tôi xin cam kết nộp đầy đủ số tiền phạt theo pháp luật hiện hành.

    Ký tên – Nguyễn văn Thảo

    Rồi nộp cho ông Hảo Bí thư. Ông này cất kỹ vào túi, quay về nhà ngồi hút thuốc lào.

    X

    X X

    Mấy tháng sau, nhà trung niên Thảo đã xây xong, 4 tầng một tum, sơn phết lòe loẹt đúng kiểu model đời mới. Thảo mời tất cả bà con hàng xóm, các vị chức sắc của tổ dân phố đến dự lễ tân gia. Ông Vạn Tổ trưởng và ông Hảo Bí thư cũng có mặt.

    Mượn dịp đã ngà ngà say, ông Hảo nhắc chủ nhà về việc nộp phạt. Trung niên Thảo cười tươi tắn:

    - Ấy chết, về việc đó em phải mời hai bác với bác Đại một bữa đặc biệt, không thể lẫn lộn vào ngày hôm nay được.

    Ông Vạn với ông Hảo không muốn dây dưa kéo dài, riêng lão Đại nghe nói được chén thêm bữa nữa thì vui mừng ra mặt:

    - Ông cứ làm bữa thịt chó cho nó dân dã, nhé?

    Mấy hôm sau, Trung niên Thảo sai con ra quán Cây Cọ mua đủ các món chó, bày đầy một mâm. Thảo sang tận nhà ba vị chức sắc của tổ mời sang nhắm rượu (đúng ra thì lão Đại chả có chức vụ gì, nhưng người đời thường hay sợ những thằng đâm bị thóc chọc bị gạo, tôn trọng nó một tý đỡ hại về sau).

    Thịt chó ngon, miếng riềng ngon, bát mắm tôm thơm phưng phức, rượu nếp sủi tăm, mấy thứ đó đi với nhau như các bè trong dàn hợp xướng, nâng lên hạ xuống đan quyện vào nhau, làm nên bữa tiệc vô cùng khóai khẩu.

    Khi môi đã mềm, không khí đã thân mật dễ chịu, Thảo mới từ từ mở cánh cửa tủ chè giả cổ, trân trọng lôi ra một cục gói giấy báo mà thoạt nhìn ai cũng biết ngay là gói tiền:

    - Em đã chuẩn bị số tiền nộp phạt như đã hứa. Dưng cơ mà em đề nghị các bác cho em xem cái văn bản pháp luật hiện hành quy định về phạt việc chặt cành đa vươn sang đất nhà em. Có văn bản thì em mới nộp ạ.

    Ông Hảo vội moi trong túi ra tờ cam kết của trung niên Thảo, đọc đi đọc lại đoạn “tôi xin cam kết nộp đầy đủ số tiền phạt theo pháp luật hiện hành”, rồi đớ người ra không biết nói gì.

    Lão Đại lầu bầu cái gì không rõ, còn ông Vạn Tổ trưởng thì lắp bắp rặc giọng Nghệ an (mỗi khi cáu lên, ông Vạn không nói pha giọng bắc được):

    - Mi chượi cha bầy choa, mi ịa lên trốc bầy choa!

    Chuyện cây đa chỉ có thế. Cây đa vẫn to cao xanh tốt. Thôn Vĩ Hậu vẫn ngày càng to đẹp hơn nhờ có thêm nhiều nhà mới rất modern như nhà trung niên Thảo.

Gieo ước mơ từ những đọt măng

Để theo được ước mơ con chữ, học sinh nơi đây sẵn sàng “cháo bẹ măng rừng” tới lớp.

Lầu A Say thả mạnh mớ măng trên tay xuống nền đất, mấy đứa cùng xúm lại bóc vỏ măng. Bên cạnh cái kiềng đặt gần cửa, Và Thị Vừ (lớp 7) khom mình thổi phù phù vào mấy thanh củi ẩm bẻ vội do mưa mấy hôm nay. Khói mù lên trong túp lán dựng bằng phên tre đầy kẽ hở lọt sáng. Gió lùa qua các kẽ hở ấy khiến đám khói nhanh chóng thoát qua cửa, lửa nhen nhen rồi bùng lên.

Vừ A Sò đặt soong nước lên bếp, chuẩn bị luộc măng. Bữa tối của các em chỉ có thế, măng và cơm trắng. Gần hai mươi em học sinh ở chung một lán như vậy. Hầu hết các em ở bản Cò Dề 1 và 2, cách Trường THCS Phì Nhừ chừng 4km đường núi.

Trường tạm trú nhưng chỉ đủ ký túc cho những em ở xa hơn, còn lại đều ở trong những lán dựng quanh trường do gia đình các em dựng lên cho con em theo con chữ. Mỗi tháng 7kg gạo và khoảng 20.000 đồng, các em không đói nhưng bữa ăn có thịt, cá, thậm chí lạc rang đối với các em là chuyện... không tưởng.

Lo cho các em như vậy đã là nỗ lực rất lớn của người dân ở cái xã nghèo, huyện miền núi heo hút này. Biết vậy nên hầu hết các em đều học khá, cậu bé Và A Cha luôn dẫn đầu lớp với điểm phảy trung bình 9,0, ước mơ của em sau này trở thành bác sĩ.

Cậu bé Vừ A Sò muốn làm chiến sĩ công an, Lầu A Sùng muốn trở thành kỹ sư công trình, Lầu A Say muốn là thầy giáo, cậu bé Lầu A Dụa người bé nhỏ, nheo cặp mắt tinh nghịch nói muốn làm nhà báo như chú để đi chụp ảnh khắp nơi.

Mùa đi hái măng rừng

Thứ hai, 21 Tháng 8 2006 15:54

1. Chị Bríu Trơ ở thôn Pàdĩ, xã Ating, huyện Đông Giang “khoe”: Mấy tháng qua, mỗi ngày nhà chị hái được 10-20 ký măng rừng. Sau khi luộc  xong, mỗi ký bán 2.000 đồng. Nhờ những mùa hái măng rừng như thế mà chị có thêm khoản tiền lo cho 2 con ăn học. Hỏi chuyện mới biết, nghề hái măng rừng có đồng ra đồng vào, cái ăn của gia đình chị khá hơn những tháng khác trong năm. Nhưng không phải là không vất vả.

Mỗi sớm, Bríu Trơ cùng những phụ nữ đi hái măng trong làng đã phải cơm đùm cơm vắt mang gùi trên vai đi vào rừng, đến chiều tối mới trở về nhà. Đầu mùa, măng rừng còn nhiều nên không phải đi xa. Lấy mãi cũng hết, những phụ nữ đi hái măng phải lặn lội vào sâu trong các khe suối, lên những cánh rừng cao. Đôi chân trần nhiều lúc vấp phải đá tóe máu. Tre rừng có loại đầy gai nhọn, gai tre cào rách da thịt là chuyện thường. Vì miếng cơm manh áo hay vì thói quen hay làm, hằng ngày những phụ nữ vẫn miệt mài vào rừng hái măng.

Măng hái về, nếu đem bán tươi thì mỗi ký không quá 1.000 đồng. Còn nếu qua chế biến sẽ được giá hơn. Cách “chế biến” đơn giản nhất là luộc. Măng được lột sạch vỏ, dùng cây nhọn đâm thủng các “mắt” bên trong rồi bỏ vào nồi bắc lên bếp lửa. Làm như vậy nước sẽ ngấm đều vào cây măng nên dễ chín hơn. Luộc măng vừa chín tới, vớt ra, để ráo nước thì đem ra chợ bán. Có thêm thời gian và trời nắng tốt thì đem phơi khô. Măng luộc chín rồi, phụ nữ Cơtu dùng dao chẻ theo chiều dọc của cây măng thành những mảnh nhỏ, sau đó phơi dưới nắng. Mỗi ký măng khô có thể bán được 40 nghìn đồng!

2.

Abăng crơng, tiếng Cơtu là măng rừng. Trên rừng có nhiều loại họ tre cho măng (abăng) như: nứa (cơrơđê), trúc (ateh), giang (hrtuôl), mai (p'o)... Tùy theo mỗi loại trong số đó mà thời gian mọc măng khác nhau. Nhưng thường là từ đầu tháng 5 đến tháng 9 trong năm là mùa măng rừng mọc nhiều nhất.

Đi từ Trung Mang lên thị trấn Prao (Đông Giang) rồi theo đường Hồ Chí Minh qua Adich, rẽ trái về trung tâm huyện Tây Giang, đâu đâu cũng thấy những rừng tre, nứa, trúc, lồ ô, mai, giang... ken dày. Họ tre rừng chịu được nắng hạn, không cần đất tốt cũng mọc được. Mùa nắng lá úa vàng xơ xác, nhưng mưa xuống lại um tùm xanh tươi. Khi những cơn dông đầu mùa kéo đến, mưa bất chợt trút xuống những cánh rừng, những thân tre già quằn quại trong dông gió để rồi gốc rễ cựa mình uống nhựa đất mà nảy những chồi măng nhú lên đầy sức sống. Măng rừng như thứ lộc của trời, là niềm an ủi những người con núi rừng qua cơn đói, là nguồn thu nhập ngoài nương rẫy, ruộng vườn của những gia đình đồng bào dân tộc vùng cao, là món quà tặng, là thứ hàng hóa được xếp vào loại... “lâm sản” được nhiều người vùng xuôi ưa thích. Chắc mỗi người, trong suốt cuộc đời không ít lần được thưởng thức măng rừng, dù cho nó nằm ở những cánh rừng Việt Bắc xa xôi hay những cánh rừng Tây Nguyên nắng cháy, dù nó ở phía tây Quảng Nam hay những cánh rừng nào đó trên dải đất miền Trung...

3.

Với những người có “văn hóa ẩm thực”, gọi nôm na là “sành ăn” thì măng rừng là một thứ đặc sản, nếu như biết chế biến đúng cách. Thật ra, chế biến món ăn từ măng rừng không cần phụ gia gì nhiều. Măng rừng mua về, luộc chín rồi xắt mỏng, ép cho ráo nước. Sau đó phi dầu thơm, trộn đều lên, cho đậu phụng hay mè vào, nếm muối vừa ăn, rắc thêm ít tiêu và rau răm, húng quế... sẽ có món trộn (nộm) rất hấp dẫn. Món này xúc bánh tráng nướng thì ngon tuyệt. 

Có một món ăn được chế tác từ măng rừng mà ai cũng thèm ăn (nhưng cũng không thường xuyên ăn), đó là măng nấu hầm với vịt xiêm hay với gà. Măng rừng tươi hay măng rừng khô đều nấu được. Mỗi loại có hương vị riêng. Măng tươi thì thời gian chế biến nhanh hơn. Cách chế biến như sau, măng rửa sạch đem ngâm nước cho bớt hăng. Thịt gà, thịt vịt làm xong ướp gia vị cho ngấm. Tiếp đến bắc nồi lên bếp đun nước sôi, cho măng vào trước, cho thịt vào sau. Hầm cho thịt và măng mềm thì bê xuống, nếm gia vị vừa dùng. Món này ăn nóng với bún hoặc bánh tráng nướng, như món xáo. Nếu kho với thịt gà, thịt vịt thì dùng làm  thức ăn với cơm.

Có một “món ngon nhớ lâu” mà người làng quê Quảng Nam nào cũng biết, đó là măng dầm mắm cái. Măng rừng (măng tre) tươi xắt khúc cỡ bằng lóng tay cho vào hũ rồi đổ mắm vào.  Sau một tuần, múc ra ăn với cơm nóng. Măng dầm trong mắm cái vừa “chín” vừa giòn sừn sựt. Con mắm vẫn chưa tan hết nên “quấn quýt” cùng với măng. Trái ớt xanh dằm vào chén mắm hòa quyện mùi thơm của biển cả, hương vị của sơn khê. Nhìn chén mắm ngon mà nồi cơm mau vơi đi.

... Mùa măng rừng trên núi rừng Quảng Nam lại gợi nhớ miên man chốn quê nhà lam lũ. Những bữa cơm mùa lụt có chén mắm dầm măng từ ngọn tre non bị gió đánh gẫy. Lại hình dung đôi vai của những phụ nữ vùng cao oằn hơn mỗi buổi hoàng hôn trên rẫy về. Lại như thấy niềm vui ánh lên trong mắt người mẹ trẻ Cơtu ở làng Pàdĩ, khi có người dừng xe trước hiên nhà để vào mua măng. Những đồng tiền chắt chiu từ mồ hôi, công sức sau những ngày lội suối băng ngàn liệu có giúp cho những đứa con của chị học thành tài ?

Nhọc nhằn nhà bán trú ở Mường Nhé

10:01:16 19/01/2012

ĐBP - Tận mắt chứng kiến

những ngôi nhà bán trú của học sinh một số trường vùng cao xã Nà Bủng, Nà Khoa, Nậm Kè…(huyện Mường Nhé) được dựng tạm bợ bằng cây rừng, mùa đông thì gió lùa bốn phía, rét như cắt thịt, mùa hè các học sinh phải chống chọi với những trận mưa như trút nước. Nơi ở đã tạm bợ, nhưng cuộc sống sinh hoạt của các em còn thiếu thốn, khó khăn  gấp nhiều lần...

Khu “nhà bán trú” dân nuôi của học sinh Trường PTDT bán trú Nà Bủng nằm sát đường lên trung tâm huyện Mường Nhé. Mỗi gian nhà chỉ rộng từ 6 – 8m2,nhưng là nơi ăn ở của 4 - 6 học sinh. Gọi là nhà vậy thôi chứ đó chỉ là những túp lều lụp xụp, mọi sinh hoạt đời thường của các em từ ăn uống, ngủ, nghỉ đến việc học bài đều ở trong những túp lều ấy. Để nấu được bữa cơm, các em phải đi lấy nước xa hơn 300m. Bữa ăn chỉ có cơm và muối trắng đã là thịnh soạn lắm rồi. Thỉnh thoảng về nhà mang được ít cá khô, măng rừng, rau rừng để cải thiện, nhưng những bữa ăn như vậy chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nhìn các em đánh vật với cái bếp ngoài trời để nấu cơm, chúng tôi mới hiểu được vì sao các em quyết tâm học lấy cái chữ ở nơi này.

Dẫn chúng tôi đi thăm khu nhà bán trú nằm trong trường, thầy giáo Dương Duy Dần, Hiệu trưởng Trường PTDT bán trú Nà Bủng, cho biết: “Năm học 2011 – 2012, nhà trường có hơn 500 học sinh, trường có 22 phòng bán trú, trong đó có 10 phòng bán trú do Báo Hà Nội Mới và Bộ đội Biên phòng tỉnh hỗ trợ xây dựng, đáp ứng chỗ ăn ở cho 184 học sinh (trung bình mỗi phòng có từ 8 – 12 học sinh). Hiện nhà trường đang được đầu tư xây dựng 20 phòng bán trú (đáp ứng chỗ ăn ở cho khoảng 160 học sinh), dự kiến hoàn thành vào đầu năm học tới. Dù được xây dựng thêm, nhưng chúng tôi vẫn còn gần 200 học sinh không được ở nhà bán trú. Mỗi khi vào mùa đông, đêm đến gió lạnh hay những cơn mưa mùa hè chúng tôi lại ăn không ngon, ngủ không yên vì những học trò của mình lại phải chống chọi với thời tiết”.

Chúng tôi đến thăm Trường PTDT bán trú Nậm Kè vào những ngày cuối năm. Hiện toàn trường có 144/267 học sinh được ở bán trú (gồm 18 phòng), còn 123 học sinh phải ở những túp lều tạm bợ theo kiểu “Nắng nhìn thấy trời, mưa hứng nước”, điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, việc học tập của các em. Mỗi “căn nhà” rộng từ 6 – 7m2, chỉ đủ kê chiếc giường và gian bếp nhỏ bên cạnh. Mọi học hành, sinh hoạt của các em đều trên chiếc giường ọp ẹp được kê bằng những thanh gỗ rừng, bên trên trải tấm lứa. Vào ngày nắng, những kẽ hở trên mái xuyên thấu vào phòng, còn trời mưa những kẽ hở đó lại trút nước xuống, đặc biệt những cơn gió mùa đông mang đến cho các em cái lạnh thấu xương. Em Lý A Chỉnh, học sinh lớp 6A1, tâm sự: “Trời mưa chúng em phải cuộn chăn, màn, chiếu, sách, vở ra chỗ khác khỏi ướt, còn mùa đông thì gió lùa qua những kẽ hở, chúng em đắp chăn bao nhiêu cũng chẳng đủ ấm”. 

Thầy giáo Lò Văn Thanh, Hiệu phó Trường PTDT bán trú Nậm Kè, cho biết: “Do học sinh nhiều, nhà bán trú không đủ nên gần một nửa học sinh phải ra ở tạm những túp lều nhỏ do nhà trường và phụ huynh học sinh cùng làm cho các em. Mỗi khi bị gió lốc hay hỏng hóc chúng tôi lại cùng các cán bộ, chiến sỹ Đồn biên phòng Nậm Kè sửa chữa lại. Nhà trường cũng có dự án xây dựng một dãy nhà bán trú đủ để học sinh ở nhưng lại chưa có kinh phí để san ủi mặt bằng, do vậy các em học sinh vẫn chịu nhiều thiệt thòi và gặp nhiều khó khăn trong đời sống sinh hoạt và học tập”.

Cùng ăn với các em bữa cơm đạm bạc chỉ có cơm không với muối chúng tôi mới thấu hiểu được sự cực nhọc của các em. Mớ rau, miếng thịt đối với các em quả là thứ xa lạ, xa xỉ. Các em ở nhà bán trú dân nuôi phần lớn do nhà quá xa trường, có những em nhà cách trường hơn 30 cây số đường rừng. Để tới được trường các em phải trải qua bao khó khăn, vất vả.

Được chứng kiến cuộc sống sinh hoạt và học tập của các em học sinh bán trú ở Mường Nhé, chúng tôi thầm mong sớm có một ngày nào đó, các nhà hảo tâm, những tấm lòng từ thiện ở khắp mọi miền đất nước cùng chung tay giúp đỡ xây dựng những phòng học, nhà bán trú dân nuôi cho học sinh Mường Nhé nói riêng, tỉnh Điện Biên nói chung để các em bớt đi những nhọc nhằn, yên tâm học tập.

Nằm lọt thỏm giữa bốn bề núi đá ở độ cao xấp xỉ 1000 mét, khuất sau dãy núi Phà Hé lừng lững, ngút ngát trong mây là một Cao Sơn trầm mặc, vớI 3 bản người Thái đang đối mặt với đói nghèo, với sự hà khắc của tự nhiên và ngày đêm trông ngóng một con đường…

Bài 1: Biệt khu sau đỉnh Phà Hé 

Đó là biệt khu Son Bá Mười (xã Lũng Cao, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá) - nơi sinh sống của gần 1000 đồng bào dân tộc Thái ở Cao Sơn. Nơi mà mấy chục năm nay không điện-đường-trường-trạm. Nơi cái đói, cái nghèo cứ đeo đẳng hết năm này qua năm khác. Sáng mở mắt ra đã thấy núi đồi cao chất ngất và bạc trắng một màu sương; tối co tròn bên bếp mà ngủ; nửa đêm thức giấc lo trâu bò chết rét.

Quả vậy! Nếu tính theo đường chim bay thì đoạn đường từ trung tâm xã Lũng Cao lên đến Son-Bá-Mười chỉ khoảng 1 km, nhưng đường bộ thì dài khoảng 9-10 cây số và vô cùng hiểm trở. Để vượt qua đỉnh Phà Hé, bắt buộc phải đi xuyên qua Pu Pa Háng, qua bản Trình rồi Tàng Khoang với những dốc đá cao rợn người, những cánh rừng thâm u và những lối mòn nhỏ như chân thú.

Đường đi của thú rừng

Chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình lên Son Bá Mười với những lời cảnh báo rất thật thà của Ngân Văn Tiến, bí thư đoàn xã: Ây dà! Gian nan đấy, nguy hiểm lắm đấy! Sảy chân là mất mạng đấy, nhà báo à!” Qua hết địa phận Lũng Cao, chúng tôi bắt đầu tiến vào con đường mòn đèo dốc quanh co, heo hút, nham nhở dấu chân trâu bò, dê ngựa và muông thú. Khoảng 1km đầu, đường đi còn bằng phẳng, dễ dàng, nhưng đến dốc Piêng Thồng Tống thì đột ngột dựng đứng trên vách núi đá vôi-trơn truồi, sắc lẹm, hun hút mây mù và bóng tối. Con đường mà anh bí thư đoàn xã đã không ít lần tếu táo: “Đường đi của thú rừng”. Đỉnh cao nhất và cũng nguy hiểm nhất là Phà Hé - trên dưới 2000m so với mặt biển. Con đèo chính là trở ngại lớn nhất khiến Son Bá Mười không thể giao thương với thế giới bên ngoài. Chúng tôi, tay bíu vào đá, mắt căng ra, chân dò dẫm, mặt và mũi gần như chạm gót chân người đi trước. Mệt thở ra đằng tai!

Sau gần 6 giờ đánh vật với Phà Hé, cuối cùng chúng tôi cũng đặt chân lên mảnh đất “địa đầu” của huyện vùng cao Bá Thước. Son Bá Mười hiện ra dịu dàng với những thửa ruộng bậc thang đang mùa xếp ải, những cánh rừng xa ngút ngát chân trời. Và mây mù bảng lảng. Một cảm giác tê lạnh trên má, trên tay, trên những cung đường và trên những nếp nhà tranh bé tẹo nằm chênh vênh bên bờ núi.

Đón chúng tôi không gì khác ngoài bóng chiều buông chầm chậm, sương xuống ken dầy, mấy nóc nhà xam xám mờ mờ sương khói. Hỏi thăm mãi mới đến được nhà cụ Ngân Hoàng Nhi, nguyên già làng của 3 bản Son Bá Mười. Bên bếp lửa chập chờn, già Nhi bắt đầu kể về lịch sử hình thành của thung lũng Cao Sơn…

Biệt khu sau đỉnh Phà Hé

Nằm lọt thỏm giữa bốn bề rừng núi, một bên là ngọn Phá Chiến (1080m), một bên là đỉnh Phà Hé (xấp xỉ 2000m), đáng lẽ Son Bá Mười là chiếc cầu nối liền Lũng Vân của Hòa Bình với Lũng Cao của Thanh Hóa. Nhưng trớ trêu thay, đó lại là một thung lũng cô độc. Không điện-đường-trường-trạm và cái đói, cái nghèo thì đeo đẳng quanh năm. Sáng mở mắt ra đã thấy núi đồi cao chất ngất và bạc trắng một màu sương; tối co tròn bên bếp mà ngủ; nửa đêm thức giấc lo trâu bò chết rét.

Ngay từ lúc hình thành, Son Bá Mười đã là một thế giới cô độc, hoang vắng, không kẻ vãng lai. Theo lời kể của già Nhi: Thủy Tổ của Cao Sơn là 4 hộ người Mường từ Hòa Bình vượt rừng sang định cư ven bờ suối Nậm Bá từ hơn 400 năm trước. Sau đó ít lâu, do không chịu được cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch và cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, 1 hộ đã rời bản đi nơi khác sinh sống, chỉ còn lại 3 nóc nhà với một nhúm người sống lủi thủi giữa rừng. Phải rất lâu sau đó mới có thêm nhiều hộ dân (chủ yếu là người Thái ở Hòa Bình và Thanh Hóa) đến phát rừng làm nương, dần dần hình thành 3 thôn bên dòng Nậm Bá, Nậm Mười… Cuộc sống của họ chủ yếu là săn bắt và làm nương làm rẫy. 

Cũng theo lời già bản Ngân Hoàng Nhi, mảnh đất hoang vu này rất hay có thú dữ đến viếng thăm. Ký ức ấu thơ của già vẫn in đậm hình ảnh nửa đêm đầu làng đánh trống, hàng đoàn người vác đuốc, khua chiêng đi xua gấu về phá nương ngô, xua hổ mò sang từ rừng Cúc Phương bắt bò, bắt lợn. Năm 1954, hổ về liên tục bắt trâu bò, khi ấy làng Son chỉ 8 khẩu, sẩm tối phải cài cửa, đốt lửa cả đêm, xua thú dữ. Gấu vào bản thường xuyên hơn, chui vào các nương ngô ăn rồi ngủ luôn tại chỗ… Ngày đó nhiều người thiệt mạng, ông Ngân Văn Bếnh bị gấu vả vỡ cả hàm khi đang bẻ ngô. Mới chỉ một người bị hổ vồ, vào năm 1947, đó là bà Ngân Thị Nhúng. Bà bị hổ tha vào rừng ăn thịt, dân bản đi tìm còn lại mỗi cái chân. Nhiều năm nay, hổ vẫn về lai vãng khu vực bản Son khoảng tháng Chạp, tháng Giêng, nhưng chỉ đến đầu núi rồi bỏ đi. Sáng ra thấy dấu chân hổ in trên đất ướt to cỡ bàn tay. Năm ngoái, hổ về bắt đi một con bò chăn ngoài núi.

Trước kia, cư dân Son Bá Mười muốn ra đến thị trấn Cành Nàng, trung tâm huyện lỵ Bá Thước phải ròng rã xuyên rừng mất trọn một ngày đường. Phương tiện vận chuyển hàng duy nhất chỉ là những chiếc gùi trên vai, oằn người leo dốc. Mỗi phiên chợ phải mất ít nhất hai ngày đường mới quay về đến bản, mang theo vài gói muối, thực phẩm, hàng hóa đổi được. Cư dân Son Bá Mười ít xuống thị trấn là vì vậy. Vài năm trở lại đây, chợ phố Đoàn - Cổ Lũng (giáp ngay Lũng Cao) trở nên sầm uất, người dân thường xuyên đi chợ theo phiên vào thứ hai đầu tuần, thứ năm thì gùi hàng đi chợ Lũng Vân bên Tân Lạc, Hòa Bình.

Đất canh tác chưa đến 1 sào/đầu người, bình quân lương thực theo đầu người chỉ 220kg. Bản Mười chỉ vỏn vẹn 35 ha đất canh tác, diện tích lúa chỉ gần 9 ha, còn lại chỉ trồng ngô, sắn, rong riềng. Đặc thù nơi đây không trồng được lúa lai, chỉ có giống lúa nương mới chịu nổi giá rét, nhưng năng suất rất thấp. Hai sào lúa gia đình anh Thiện may mắn thì chỉ được 150 kg mỗi vụ, đủ ăn trong 3 tháng. Ngô thành cây chủ lực. Hết gạo, mang ngô, sắn sang Hòa Bình đổi gạo, 22kg ngô đổi ngang 10 cân gạo. Bởi vậy, hầu hết các gia đình Son Bá Mười thường xuyên lâm vào túng thiếu, đói nghèo 100%. Một chuyện xảy ra tưởng như đùa, năm 2006, gia đình các ông Vi Văn Kiêm, Bùi Văn Điện, Ngân Văn Thái (thuộc bản Mười) “đi đầu” trong phong trào xóa nghèo, được vận động rút sổ, nhưng đến cuối năm phải chạy đôn đáo vay sắn, ngô trừ bữa… Cuối cùng, xã phải giải quyết cấp sổ... “tái nghèo” cho các hộ này.

Bài 2: Cái chữ trên đỉnh mù sương

Do không có đường và cuộc sống gần như biệt lập, nên sự học ở Son Bá Mười cũng là nỗi ám ảnh thường trực đối với người dân nơi đây. Cả 3 bản chỉ có 2 trường, một Tiểu học và một THCS nằm chơi vơi trên sườn đồi bản Mười ngút ngàn mây gió. 

Lớp học trong sương mù

Do không có đường và cuộc sống gần như biệt lập, nên sự học ở Son Bá Mười cũng là nỗi ám ảnh thường trực đối với người dân nơi đây. Cả 3 bản chỉ có 2 trường, một Tiểu học và một THCS nằm chơi vơi trên sườn đồi bản Mười ngút ngàn mây gió.

“Trước đây, các em vẫn phải sang học nhờ mãi tận Tân Lạc, Ngổ Luông (Hòa Bình) với quãng đường khoảng 10 cây số. Nhiều em cố gắng lắm nhưng cũng chỉ hết lớp 9 là bỏ học rồi vào Nam kiếm sống. Những học sinh theo học THPT ở đây chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí, với gần 800 nhân khẩu nhưng Tiểu khu cũng chỉ có duy nhất một sinh viên đại học. 

Điều kiện cơ sở vật chất ở đây cũng thiếu thốn đủ thứ. Trường chỉ toàn tranh tre nứa lá, tạm bợ, tường vách sơ sài, trống huơ trống hoác. Những hôm trời mưa, nền nhà bùn nhão chẳng em nào dám thò chân xuống dưới, đấy là chưa nói đến bàn ghế cũ kỹ không đảm bảo. Học sinh bản Son, bản Bá ngày nào cũng phải đi từ rất sớm mới kịp giờ. Vào ngày đông giá, từng tốp học sinh dò dẫm xách đèn, đốt đuốc dắt nhau đi. Bốn năm em chung một bộ SGK, quần áo chẳng đủ lành lặn. Ngày mưa, nhiều em vào lớp bùn bết kín từ đầu đến chân vì té suối, nhìn mà quặn lòng, nhưng ấm áp vì các em hiếu học...” thầy Hà Văn Nô, trưởng Tiểu khu bùi ngùi kể lại.

Vì đây là “xứ sở của sương mù” nên ngay cả trong mùa hè, quần áo phơi mãi cũng không khô, đất trời lúc nào cũng ẩm ướt. Mỗi buổi sáng, khi đến lớp, học sinh phải lau chùi bàn ghế mới có thể ngồi học. Mùa đông, lắm hôm cả thầy lẫn trò phải đốt lửa hong bàn ghế để xua đi cái lạnh tái tê. Hết buổi học, bàn ghế đều được úp ngược xuống đất. 

Thầy Nguyễn Trọng Luân, giáo viên THCS Lũng Cao cho biết: “Do thời tiết ẩm ướt nên chỉ qua một đêm, bàn ghế dù khô đến mấy cũng trở nên nhớp nhúa, không thể dùng được”. 

Tiểu khu Cao Sơn thành lập từ 1966. Khối THCS ở đây đã có từ 1978, nhưng tồn tại không lâu vì không có giáo viên nào dám “cắm bản”. Đến năm 2003 mới mở lại và năm học 2008- 2009 này mới có lứa học sinh lớp 9 đầu tiên. Hết tiểu học, học sinh Son Bá muốn học tiếp phải xin học nhờ mãi bên Ngổ Luông, Nam Sơn (Tân Lạc – Hòa Bình). Học tại bản đã vất vả, học bên Hòa Bình còn khó khăn gấp bội. Học sinh bản Mười, bản Bá đi học từ lúc còn tờ mờ đất, đốt đuốc, xách đèn vượt dãy Pha Chiến, đi bộ 7 – 8 km. 

Chuyện xin học được bên Hòa Bình quả là kỳ tích đối với người dân Son, Bá vì lúc đầu người ta không nhận học sinh khác tỉnh. Các trưởng bản phải đích thân sang “thương thuyết”, chấp nhận điều kiện học sinh bản mình không có bất cứ chế độ phụ cấp ưu tiên nào, dù các em có hộ khẩu thuộc vùng cao đặc biệt khó khăn. Năm 2006, Son – Bá - Mười có tới 50 học sinh THCS và 10 học sinh THPT học bên Hòa Bình. Nhưng rồi cái nghèo, cái khó cứ quấn lấy, hàng loạt gia đình đành để con bỏ học giữa chừng. Hiện chỉ còn 7 em theo học THPT. Duy nhất một trường hợp trở thành niềm tự hào của Son - Bá - Mười là em Hà Văn Hậu (bản Son), hiện đang học năm thứ 2 Đại học Hồng Đức.

Người làm “khô” con chữ

Giáo viên ở Lũng Cao đi “nghĩa vụ” thường kiêm luôn nghề “hong khô con chữ” là một cách nói vui của các thầy cô giáo nơi đây. Thầy Hà Văn Nô cho biết, anh đã gắn bó với địa danh “đá nhiều hơn đất” này đã 5 năm và đây là lần “nghĩa vụ” thứ hai (cứ 3 năm một lần, các giáo viên phải lên “cắm bản”). Cả hai vợ chồng thầy Nô đều là giáo viên tiểu học. Vợ thầy mới hết đợt “cắm bản” thì thầy lại được điều lên “trực chiến”. Hai tháng một lần, thầy Nô khăn gói về thăm gia đình và cũng không quá hai ngày đã phải chia tay. “Mười mấy năm trời sau ngày cưới, vợ chồng tôi chẳng khác nào Ngưu Lang - Chức Nữ, không mấy khi được gần nhau. Cái nghề “trồng người” vùng cao nó thiệt thòi như thế đấy” thầy Nô thổ lộ.

Tiểu khu Cao Sơn có tất cả 10 lớp học với 140 học sinh, do 7 giáo viên phụ trách. Ba giáo viên tiểu học dạy 6 lớp với 44 học sinh, lớp đông nhất có 11 em, lớp ít nhất có 7 em. Cấp THCS có 4 lớp do 4 giáo viên phụ trách. Trong số các giáo viên nữ, duy nhất cô giáo Lê Thị Thanh là người miền xuôi (quê Hoằng Đạt, Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Cả thầy và trò đều phải “tác nghiệp” trong những ngôi trường tạm bợ, rách nát, vẹo xiêu. Ngay cạnh đó, văn phòng của trường cũng đồng thời là nhà ở giáo viên, vẫn lúp xúp mái tranh, vách gỗ, chẳng đủ ngăn mưa nắng, chứ nói gì cái lạnh thấu sương.

Nhiều lúc hết lương thực, các thầy cô phải gửi tiền nhờ bà con trong bản đi chợ phiên mua giúp. Thực phẩm trong các bữa ăn hầu như chỉ có măng rừng và rau luộc chấm muối. Thời gian cơn bão số 5 (hồi tháng 10 năm ngoái) quét qua đây, Son Bá Mười bị biệt lập hàng tuần trời vì đường lầy lội. Mỳ tôm dự trữ cũng không còn lấy một gói, cánh giáo viên phải vào rừng cùng dân bản, hái bất cứ thứ rau gì ăn được để qua ngày.

Ngoài thầy Nô, nhiều thầy cô giáo khác cũng đã có thời gian 15 – 20 năm “gieo chữ” ở nơi “thâm sơn cùng cốc” này. Có người quê miền biển, cứ mải mê với bản làng mà quên cả tuổi xuân. Có người quê đồng bằng nhưng lấy vợ Cổ Lũng và định cư luôn với người Thái. Cách giáo viên gọi đùa khi lên cắm bản là “đi biệt phái”, nếm mùi “lao ải” xứ sương mù. Người có sức trẻ thì mỗi tháng “hạ sơn” một lần, già thì 2 – 3 tháng. Mỗi chuyến hành trình như thế được chuẩn bị chu đáo, thuốc men, dầu bóp đề phòng rắn rết không khác gì nhà thám hiểm, cứ thế xuyên rừng. Lúc quay lên mới thực sự ngao ngán, lưng cõng theo ít nhất 40 - 50 cân gạo, thực phẩm, đồ dùng (của chung cả nhóm), tay chống gậy, gồng mình trên dốc tai mèo dựng ngược.

Thầy giáo trẻ Lê Văn Dương (SN 1981) tâm sự: “Ngày em mới lên đây, thấy nhớ nhà kinh khủng. Sau giờ dạy, cứ nhìn học sinh lầm lụi đi khuất trong sương mù, trường lớp vắng teo, chỉ muốn khóc!”. Nhiều người về thăm nhà, nghe giục chuyện lập gia đình mà chẳng biết trả lời thế nào, đành nấn ná: “để thời gian nữa hẵng hay”! 

Còn rất nhiều những câu chuyện cảm động về các giáo viên tiểu khu Cao Sơn mà chúng tôi không thể kể ra hết. Chỉ biết, họ đang âm thầm làm một việc cao cả theo đúng nghĩa thực của nó: Trồng người. Tin rằng rồi đây, sẽ có những học sinh thành đạt, bay cao, bay xa với giấc mơ được nuôi dưỡng ngay từ chính mái trường đơn sơ nhưng thấm đẫm tình người.

Bài 3: Giấc mơ Son Bá Mười

Đất nước giải phóng từ lâu lắm mà Son Bá Mười (xã Lũng Cao, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa) vẫn chưa có nổi một con đường tử tế cho người đi bộ, nói gì đến đường cho ôtô, xe máy đi vào. Hơn 8 vạn đồng bào phía sau Phà Hé vẫn chìm trong đói nghèo, lạc hậu… 

Nghèo nơi đất “giàu”

Son - Bá - Mười có hơn 100 hộ với tổng diện tích tự nhiên khoảng 1.000 ha, nằm trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông. Nhiệt độ trung bình năm từ 22 đến 25 độ C. Rau củ quả, đặc biệt là các loại cây trồng vụ đông phát triển rất tốt và ít bị sâu bệnh. Đàn trâu bò, đàn lợn, đàn gà cũng khá sinh sôi. Mỗi tháng, dân bản vẫn đón chừng 40 - 50 khách du lịch nước ngoài đi theo “tuor mạo hiểm” từ Thanh Hóa sang Hòa Bình, trọ qua đêm trên nhà sàn với giá từ 30.000 đến 40.000 đồng.

Trong khi, đàn gia xúc gia cầm tăng khá ổn định thì cây lương thực chủ yếu như sắn, lúa lại gặp khó khăn trong việc thích nghi thời tiết. Trung bình, 9 tháng 1 vụ lúa, 2 năm 1 vụ sắn, 1 năm 3 vụ ngô. Cam chỉ thu hoạch được 2-3 vụ đầu là chết khô chết héo, do thời tiết quá khắc nghiệt, giá lạnh và sương muối quanh năm. Lương thực làm ra đấy, nhưng không bán đi đâu được, đành cất lại trong nhà. Phép tính đơn giản của người dân Son Bá là trồng susu, trồng sắn, nuôi bò làm cứu cánh. “Nhưng susu trồng nhiều cũng không bán được bao nhiêu, vì không ai gánh được một lúc 50 cân đi bộ qua 10 cây số đường núi. Lúa 9 tháng một vụ, nhưng “120m2 lúa mà không thu nổi một gánh rơm”. Sắn trồng 3 năm mà củ chỉ bé bằng ngón tay, bán chẳng ai mua, đành để nuôi lợn. Nhưng lợn cũng chỉ dám nuôi theo kiểu “đóng cọc” - tự ăn tự lớn, nhưng không để to quá, nếu to quá không biết làm cách nào vận chuyển qua đèo. Do vậy, thương lái tha hồ ép giá: Lợn hơi chỉ 24-28 000/kg, gà: 18-20.000 đ/kg,… Những thứ khác có bán cũng rẻ ngang của ôi thiu. Chung quy cũng chỉ tại không có đường!” - anh Ngân Văn Thiện (45 tuổi) Phó thôn; Công an viên thôn Mười, lắc đầu ngao ngán.

Đi một vòng thăm bản, ghé những ngôi nhà lá tuềnh toàng bám đen khói bếp, mạng nhện, chúng tôi mới cảm nhận được cuộc sống của người dân nơi đây thiếu thốn trăm bề. Hàng hóa đến bản hiếm hoi như trẻ đậu đại học. Tất cả nhu yếu phẩm đều được vận chuyển bằng gùi và bằng đôi chân cuốc bộ. Thế nên ở bản rất ít người cất nổi nhà mới. Vì với giá nguyên vật liệu và phương thức vận chuyển khó khăn như vậy, để dựng một căn nhà cấp 4 cũng tốn tới cả trăm triệu. Cho nên người nào sang cũng chỉ dám làm nhà gỗ tạp, lợp ngói pờ-rô-xi-măng, mà phải liều mạng lội bộ mấy chục cây số sang Hòa Bình để vác về.

Nhiều dự án đưa điện lưới quốc gia về bản được đưa ra bàn bạc, nhưng cuối cùng vẫn chỉ ấp ủ trên... giấy. Máy phát điện tua-bin nước mini trở thành giải pháp trong sinh hoạt. Vài gia đình chung nhau một máy phát, đặt nơi đầu suối. Nhưng cũng chỉ xem được tivi trắng đen, màn hình hết co lại giãn vì điện yếu. Nhiều hộ tự bỏ tiền ra mua điện mãi tận Hòa Bình. Cả ba bản chỉ có một chiếc xe máy của anh Ngân Đức Thuận, y tá bản Mười, thuê người khênh vào, rốt cục chỉ để treo lên cho mấy đứa trẻ con sờ ngắm. Bản nào cũng có vài chiếc xe đạp, nhưng thời gian vác trên vai qua núi xuống phố huyện nhiều hơn thời gian cưỡi. Cuối cùng chuyển tuốt thành xe thồ hoặc vứt dưới gầm nhà sàn, mặc nắng mưa han gỉ. Phương tiện ngựa thồ xem ra hữu dụng, tiếc rằng chỉ nuôi được dăm bảy con ngựa còi, tất cả vẫn dựa vào sức người là chính. Bởi vậy, Cao Sơn “nghèo vẫn hoàn nghèo”!

Và con đường mơ ước…

“Bà con nơi đây mong muốn nhiều thứ lắm: Có điện thắp sáng, trạm xá, trường học; có điện thoại kết nối thông tin; có nước sạch để sinh hoạt; có thư báo để trao đổi giao lưu văn hóa… Nhưng, cần nhất vẫn là một con đường. Phía nào cũng được. Từ Lũng Cao lên Son Bá Mười, hay từ Son Bá Mười sang Hòa Bình cũng tốt, để bà con đỡ khổ!”. - Đấy là lời tâm huyết của rất nhiều bà con dân bản khi tiễn chúng tôi ra tận sườn dốc về xuôi. Thì ra trăn trở duy nhất và cũng là nỗi khổ tâm duy nhất của họ chính là một con đường!

Anh Vi Văn Nhất - Trưởng thôn Mười, cười buồn: “Chúng tôi chỉ ao ước có một con đường, dù chỉ đi được xe máy thôi cũng được. Có đường, hàng hóa bà con làm ra mới có thể đem trao đổi, trẻ con mới được học hành tử tế. Nhà nước mới có cái để vận chuyển nguyên vật liệu, 135 mới lên được với thôn bản, còn những cán bộ thôn chúng tôi đi họp cũng đỡ vất vả. Có đường là có tất cả, phải không nhà báo?”

Nhưng mơ ước con đường thì “như tiếng nhạc ngựa giữa đêm sương, như tiếng mõ trâu cuối rừng chiều”, càng trông càng mờ mịt. Thấm thía sự thật đáng buồn đó, ông già Ngân Văn Anh (bản Mười), năm nay đã 73 tuổi, nói gần như khóc: “Sống gần đến cuối đời, ước mơ nhỏ nhoi của một kiếp người là thoát khỏi đói nghèo, song càng mong con đường càng vắng bóng. Cán bộ tỉnh, cán bộ huyện cũng có lên vài lần, an ủi động viên và hứa, nhưng dân càng chờ càng chẳng thấy tăm hơi. Liệu trước khi về với tổ tiên, tôi có kịp nhìn thấy con đường qua bản nữa không?”

Chung tâm sự như cụ Ngân Văn Anh, nhiều người dân ở Cao Sơn xúm vào than thở: “Đây là vùng giáp ranh giữa Thanh Hóa và Hòa Bình. Gần ra khu tự trị. Thiếu thốn mọi thứ. Dân tình khổ sở lắm nhưng biết kêu ai. Chính quyền ở xa, giao thông cách trở. Thế nên dân Son Bá Mười vẫn khổ. Bây giờ đã có dự án làm đường rồi nhưng nghe bảo mới khởi công giai đoạn 1 ở tận đẩu tận đâu ấy, người dân chắc phải đợi thêm nhiều vụ sắn nữa quá!”

Biết thế, nhưng ông Ngân Đức Thuận cán bộ y tế thôn Mười vẫn lạc quan: “Nhà Nước đã hứa thì sẽ làm thôi, nhưng vì nhiều lý do mà con đường sẽ đến chậm, bà con ta phải kiên nhẫn chờ thôi !”

Nhưng người dân Son Bá Mười đã đợi lâu lắm rồi. Hàng chục năm nay, cả mấy trăm con người chỉ trông chờ vào mấy con đường mòn dẫn sang Hòa Bình làm cứu cánh. Các con đường này cũng do người dân tự mở. “Nó vốn là đường đi của trâu bò, ngựa, dê, chúng tôi cải tạo lại, bạt núi san đá mà thành. Nhưng cũng chỉ đi bộ, bám theo đuôi ngựa mà đi. Ngày nắng còn đỡ, chứ ngày mưa thì trơn tuột, ngã gãy cổ như chơi!” - Anh Ngân Văn Thiện còn cho biết thêm. 

Bởi thế, mỗi ngày, người dân Son Bá Mười vẫn hàng ngày phải sống trong cảnh “sáng nhìn ra thấy núi, chiều ngẩng lên thấy trời”. Đìu hiu, cô tịch! Cuộc sống của họ gắn liền với núi, rừng, từ cái măng tre, con chồn con thú, cái tranh, cái gỗ làm nhà…. Họ yêu rừng như yêu chính sinh mạng mình. Nhưng rồi chính họ lại ngày ngày xách ná vào rừng, đốn cây, săn thú mưu sinh. Vẫn biết: "Mỗi ngày làm bằng mẹt, rừng cũng hết / Mỗi ngày làm bằng mâm, rừng già cũng không còn", nhưng họ đâu có sự lựa chọn nào khác, khi con đường - giải pháp duy nhất để đưa Son Bá Mười “hòa nhập” với thế giới - hãy còn xa.

Từ "cơn khát" rau xanh

Do điều kiện thời tiết lạnh giá, tuyết bao phủ đến gần nửa năm nên rau xanh ở Nga rất khó phát triển. Vì vậy được ăn rau là giấc mơ của không ít du học sinh Việt.

“Trước khi sang đây (Mát-xcơ-va) mình thích rau và thịt ngang nhau nhưng giờ thì chỉ thèm rau thôi”, Hoàng Thị Dung, sinh viên Học viện Tiếng Nga Puskin chia sẻ.

Giá một cân thịt gà tây quy ra tiền Việt chỉ có 70 nghìn nhưng một cân rau muống lên đến 150 nghìn. Vì thế, cô bạn tuy sang Nga đã 4 tháng nhưng chưa một lần dám ăn rau muống.

Rau ở Nga chủ yếu là bắp cải, cải thảo, khoai tây nên những thứ như rau muống, rau ngót trở thành hàng độc.

Cùng chung nỗi niềm với Dung, Triệu Hải - một Amser đang du học Mỹ thì ước ao: "Chẳng nơi nào nhiều rau muống bằng Việt Nam. Nhiều lúc chỉ ước về quê thật nhanh để ăn một đĩa rau luộc".

Ấy vậy mà trong một lần về nước, mẹ cậu lại làm thịt gà đãi con làm cậu chỉ biết lắc đầu: “Ngày trước ở nhà thì thích ăn thịt lắm, nhưng giờ thì rau mới là số một”.

Ở Việt thì cứ thích món Tây nhưng sang Tây rồi suốt ngày ăn thịt gà, thịt bò, bơ, sữa, bánh pizza đến phát ớn.

“Nói thế này chắc mọi người bảo mình nói quá nhưng thực lòng, ở Hungary nhìn thấy cơm như thấy bóng hình Tổ quốc. Ăn được miếng rau mà nước mắt chực tuôn rơi”, Phạm Phương Ly, du học sinh ngành Báo chí chia sẻ.

ữa cơm thịnh soạn của Phạm Phương Ly ở Hungary khi có cả cơm và rau, mặc dù không phải là rau muống.

Không thèm rau như các du học sinh ở bắc bán cầu nhưng Nguyễn Thị Trang, đang du học tại Úc lại thiếu ớt cay. Ở đây người ta ít trồng ớt và cũng cấm nhập khẩu ớt nên du học sinh chẳng mấy khi được trở lại với hương vị quê nhà.

Đến bán rau qua mạng

Trong "ốp" (kí túc xá) của Học viện Tiếng Nga Puskin có đến 60 người Việt và hầu như ai cũng thèm rau. Nắm được nhu cầu ấy, Du Miên đã mở cửa hàng bán rau qua mạng. Cậu nhận đơn đặt hàng của các thành viên trong "ốp" rồi tổng hợp lại. Mỗi tuần hai lần cậu đi chợ Việt và giao hàng đến từng phòng.

Phở gà pha thịt lợn và rau muống do du học sinh tự làm. Tuy không đúng vị lắm nhưng chỉ cần là có phở, có rau là vui rồi. Giá phở ở Hungary khoảng 70 nghìn/bát.

“Rau ở đây chủ yếu do các trang trại của người Việt tại Nga trồng. Tuy không được ngon bằng ở Việt Nam nhưng như thế cũng là quý lắm rồi”, Du Miên chia sẻ.

Không chỉ mua rau ở chợ, đến mùa hè, các du học sinh còn rủ nhau ra các bãi hoang, đi dọc các con đường để hái ngải cứu hay rau muối. “Ngải cứu không thơm bằng ở nhà nhưng đem nấu lẩu gà cũng tuyệt” - Hoàng Dung xuýt xoa.

Thịt chó khó hội nhập

Hội nhập là nhu cầu được người Việt tại Ba Lan lưu tâm, thậm chí đặt vị trí ưu tiên gửi gắm vào con cháu mình.

Tuy vậy, hội nhập ra sao, theo phương pháp nào vẫn còn là điều mơ hồ.

Một số phụ huynh an tâm khi thấy trẻ em Việt Nam tới trường, là học sinh bình thường trong môi trường sư phạm. Nhiều em dành vị trí nhất định nhờ sức học khá hơn người Ba Lan gốc. Nhiều khi nỗ lực của các em học sinh được dùng làm phù sa bù đắp cho những thiếu thốn khác của cha mẹ và cả cộng đồng.

Dĩ nhiên thành tựu của thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam tại Ba Lan là rất đáng tự hào. Nhưng hắn sẽ là ngộ nhận nếu mãi mãi dùng chúng để an ủi hay tự bịt mắt.

Một mất?

Trong cộng đồng người Việt tại Ba Lan đang tồn tại các tập thể những nhà hoạt động ít nhiều hô hào khẩu hiệu hội nhập.

Có nhóm chú tâm tới các vấn đề chính trị, xã hội và chủ chương lôi kéo cộng đồng vào dòng chính của xã hội qua các hoạt động tiếp cận chính giới, tham gia vào các tổ chức xã hội của Ba Lan.

Có nhóm đồng ý hội nhập nhưng với điều kiện không gây ảnh hưởng tới văn hóa gốc. Trong nhóm này, có xu hướng xem thường, đôi khi mỉa mai các em nhỏ kém cỏi trong sử dụng Việt ngữ, bảo chúng "không có gốc" hay "không biết mình là ai". Cũng trong nhóm này, vấn đề hội nhập - giữ gìn bản gốc được đặt vào tình thế gay cấn của thuyết Một mất Một còn - đừng hội nhập quá mức kẻo mất gốc Việt Nam, bỏ rơi cha mẹ.

Vẫn nhóm này thường hay tổ chức các buổi văn hóa được gọi là "đậm đà hương vị quê hương" để rao giảng về văn hóa Việt Nam, tiện thể tự an ủi lẫn nhau rằng chúng ta "còn gốc".

Văn hóa nước sở tại có khi chỉ được thể hiện qua các màn diễn hiếm hoi của các em nhỏ. Ngoài đó ra thì văn hóa Ba Lan vẫn là điều mơ hồ, có khi đáng gườm với một bộ phận phụ huynh quen dựa vào sự chỉ dẫn của những người cũng mù mờ về hội nhập.

Chó kém hội nhập

Thí dụ điển hình có lẽ phải kể tới sự xuất hiện ngoạn mục của sáng lập viên Hội Người Việt tại Ba Lan "Đoàn Kết và Hữu Nghị", ông Nguyễn Văn Thái, trong chương trình truyền hình Polsat. Trong không khí Tết đến, giữa lúc Ba Lan tràn ngập tin mừng về việc Tổng thống B.Komorowski trao quốc tịch cho Tôn Vân Anh thì người giữ chức đại diện cộng đồng lại rao giảng rằng tinh thần hội nhập của cô Vân Anh là điều xa lạ với "phần lớn người Việt tại Ba Lan".

Là cán bộ cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam, người của Mặt Trận Tổ Quốc, dĩ nhiên ông Nguyễn Văn Thái ở thế đối lập với Tôn Vân Anh là nhà hoạt động dân chủ. Phát biểu của ông Thái là nghĩa vụ cá nhân của riêng ông nhưng cũng mở ra câu hỏi cho cộng đồng người Việt điều gì là xa lạ, điều gì là gần gũi và điều gì là cần thiết cho công cuộc hội nhập khi tha hương.

Một sự tình cờ khác khi trên báo Ba Lan xuất hiện bài phỏng vấn với thanh niên gốc Việt tên Pham Jakub, nói muốn mở quán thịt chó cho người Ba Lan. Jakub Pham, như lời tự chuyện, sinh ra tại Ba Lan, có cha mẹ là người Việt sang Ba Lan du học những năm 80, nhận đã từng lấy chó từ các trại giữ chó vô chủ. Jakub có để lại 2 chú chó làm bạn còn các chú chó khác không đáng mến đã bị làm thịt ăn.

Dĩ nhiên một làn sóng dư luận ồn ào nổi lên gây thách thức lớn với đề tài đang bàn: liệu có đúng là người Việt Nam, tới thế hệ thứ 2 sống trên đất Ba Lan vẫn không thể hội nhập hoặc ít nhất tôn trọng tập tục, giá trị văn hóa của Ba Lan?

Theo dõi dư luận Ba Lan, có thể dễ dàng nhận thấy sự thống nhất trong quan điểm rằng nếu muốn ăn thịt chó, người Việt hãy về Việt Nam mà ăn.

Tương tự như vậy, nếu muốn bảo phần lớn người Việt không thích dân chủ, các đảng viên không nên chọn Ba Lan làm nơi giảng bài thô thiển đó, gây ảnh hưởng tới cuộc sống và công cuộc hội nhập của người Việt tại Ba Lan.

Mách nước

Một trong những điều người Ba Lan tự hào nhất về tổ quốc họ là thành tựu chống độc tài dành dân chủ dù phải trả giá.

Người Việt, nếu muốn sống tại Ba Lan nên tôn trọng, thậm chí nâng niu và bảo vệ các giá trị nhân bản, nhân quyền vốn là nền tảng chung cho mọi quốc gia. Nhân quyền, tự do, độc lập cũng là các giá trị dễ tìm thấy trong mỗi gia đình, mỗi công dân và là công cụ hội nhập hiệu quả nhất mà không làm phía nào của cuộc hội nhập thiệt thòi.

Cần khuyếch trương tinh thần dân chủ, bảo vệ nhân quyền ra sao, người Việt có thể dễ dàng tìm hiểu và hấp thụ từ những mẫu hình hội nhập đã được người Ba Lan công nhận. Bài học đầu tiên cần tiếp thu: chúng ta nên xa lánh thịt chó và không nên ủng hộ đảng cộng sản Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro