CCCC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tương Dương Công Phòng

Lương Tiêu thấy cách tính của Lan Á thập phần cổ quái, khác xa với các phương pháp của Trung Thổ, nhưng các bước tính toán lại rất ngắn gọn chứ không hề phức tạp như cách tính Trung Thổ, nên không khỏi gật đầu khen ngợi:

- Đây là phương pháp tính của người Hồi phải không? Quả nhiên có chút phương pháp riêng.

Lòng nghĩ dù trước đây mình đã giận dữ với nàng, nhưng giờ cũng nên gạt bỏ thành kiến, thành tâm thỉnh giáo sự tinh diệu của số thuật Hồi Hồi. Nghĩ vậy, hắn nhất thời bỏ qua cơn giận, thở dài, cùng với A Tuyết kể lại tình hình gần đây. A Tuyết khi nghe hắn kể việc những ngày qua thì lòng biến đổi không ngừng. Khi hắn nói đến tính hung hãn của bọn quân Khâm Sát, bất giác nàng không còn cười nổi; khi nghe đến đọan đại chiến Tống Nguyên thì nàng trở nên khẩn trương, nắm chặt tay hắn; đến lúc hắn nói đến việc đã được thống lĩnh quân Khâm Sát, thì trong lòng nàng nhất thời cảm thấy mơ hồ như đang ở trong giấc mộng.

Lan Á vùi đầu tính toán một vài thời thần, giải đề thứ nhất đến bước thứ hai mươi vẫn không ra, nhìn chằm chằm đề toán đến ngây ngốc. Lương Tiêu lúc này đã nguôi cơn giận, nhớ lại hồi niên thiếu hắn cũng đã nhức đầu, khổ ải vì các đề toán, nay nhìn bộ dạng sầu khổ của nàng thì sinh đồng cảm, hạ giọng nói:

- Tính không ra phải không?

Lan Á nghiến răng, nói nhỏ:

- Ngươi... ngươi đưa ra cái đề quỷ không thể giải ra này để hại người mà!

Lương Tiêu cười cười, một tay nắm tay A Tuyết, tay kia cầm kiếm, soạt soạt soạt một lèo giải ra. Hắn biết Lan Á cũng không tầm thường, cho nên chỉ giải một cách vắn tắt, đồng thời cũng chỉ cho nàng chỗ quan trọng. Trong khoảnh khắc, đề thứ nhất đã được giải xong; rồi hắn lại đưa ra cách giải đề thứ hai. Lan Á thấy cách giải tinh diệu, vừa mừng vừa sợ, mày động mắt chớp, gật đầu liên tục. Đến khi Lương Tiêu giải đến đề thứ ba, Lan Á nói gấp:

- Thế nào cũng có cách giải khác! Thế nào cũng có cách giải khác!

Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Sao? Nàng cũng tính ra à?

Lan Á đỏ mặt nói:

- Bây giờ tính chưa ra, ta nghĩ từ từ, cuối cùng cũng ra thôi.

Lương Tiêu nghe nói vậy, lòng mừng cảm thấy như gặp tri kỉ, nghiêm mặt nói:

-Tốt, nếu tính không ra, ta sẽ nói với nàng.

Thấy vậy, A Tuyết cười nói:

- Ca ca không mắng chửi người ta à? A Tuyết cũng tính không ra, nhưng mà bị mắng chửi không ngừng.

Lương Tiêu liếc mắt nhìn nàng nói:

- Ta giải chỉ vài bước người ta đã hiểu. Còn muội, thiệt là đầu đá, cho dù ta có giải đến trăm lần cũng chưa chắc đã hiểu.

A Tuyết cong môi đáp:

- A Tuyết vốn ngu ngốc mà!

Lương Tiêu trừng mắt:

- Ngu ngốc thì có gì ghê gớm lắm à?

A Tuyết dựa vào vai hắn cười hì hì.

Lan Á thấy huynh muội họ tình thâm, trong lòng thấy ấm áp, thở dài nói:

-Lương Tiêu, ta nên trở về rồi, không thì cha ta sẽ lo lắng.

Lương Tiêu đứng dậy nói:

- Ta đưa nàng về.

Đoạn quay hắn qua nói với A Tuyết:

- Ngoan ngoãn ở lại dưỡng thương, ngày mai ta quay trở lại gặp muội.

A Tuyết gật đầu:

- Muội đợi ca ca.

Lương Tiêu và Lan Á rời khỏi đại doanh, tới trước trại của Trát Mã Lỗ Đinh. Lan Á dừng ngựa, trù trừ cả nửa ngày trời, đột nhiên nàng hỏi:

- Lương Tiêu, ngươi là có phải là toán giả vĩ đại nhất Trung Thổ không?

Lương Tiêu lắc đầu nói:

- Không thể nói như thế! Tuy nhiên, thật sự đến giờ ta vẫn chưa gặp ai hơn được ta.

Lan Á hai mắt ngời sáng cười nói:

- Lương Tiêu, ngươi làm khó được ta nhưng chưa chắc đã làm khó được sư phụ ta đâu.

Lương Tiêu bình thản nói:

- Nạp Tốc Lạp Đinh? Ông ta ở đâu?

Lan Á nói:

- Người ở Hồi Hồi, trong đài thiên văn của Mã Lạp Gia. Đó là đài thiên văn tráng lệ nhất thế giới, tàng trữ không biết bao nhiêu đồ thư, có những khí cụ thiên văn tốt nhất. Sư phụ ta mỗi ngày đều ở đó, lắng nghe âm thanh của sao trời.

Nói đến đây, mặt nàng lộ lên vẻ tôn kính vô vàn.

Lương Tiêu im lặng một lúc rồi hạ giọng nói:

- Lan Á, cô quay về Hãn quốc, nói với Nạp Tốc Lạp Đinh rằng một khi xong việc ở Trung thổ, ta nhất định sẽ đến Mã Lạp Gia (Malaga - ND) thỉnh giáo người. Lúc đó mới biết ai là tinh học giả vĩ đại nhất, ai mới là minh giả chi vương.

Lan Á nghe hắn nói thế, trong lòng chấn động, vội nói:

- Ngươi nói nghiêm túc chứ?

Lương Tiêu mỉm cười đáp:

- Tuyệt không hư ngôn.

Lan Á nhìn hắn chằm chằm, rồi đột nhiên cười lộ hai núm đồng tiền, giống như giọt thủy ngân sóng sánh long lanh, lẩm nhẩm:

- Thật muốn ngươi đi ngay bây giờ!

Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Sao cô lại cao hứng thế? Không sợ ta đánh bại sư phụ cô à?

Lan Á cười đáp:

- Sư phụ ta không màng thắng bại, chỉ mong gặp các bậc trí giả mà thôi.

Rồi nàng kín đáo thở dài, trong mắt toát ra vẻ thần bí, nói tiếp:

- Thật muốn thấy ngươi gặp mặt sư phụ. Bậc trí tuệ siêu việt nhất thế giới Hồi giáo gặp gỡ người có học vấn sâu rộng nhất Trung Thổ, khi đó có thể tạo ra những cảnh tượng kinh hãi thế tục như thế nào đây?

Lương Tiêu quay đầu lại, nhìn ánh đèn rực rỡ từ thành Tương Dương, thần sắc buồn bã, thở dài nói:

- Bây giờ thì không thích hợp!

Lan Á cũng nhìn theo hắn, cười khổ, rồi quay người thúc ngựa đi vào doanh trại, nhưng được vài bước, vội quay đầu lại, ngây ra nhìn Lương Tiêu. Lương Tiêu nói:

- Có việc gì nữa à?

Lan Á chợt run lên, hoảng hốt trả lời:

- Không có gì, không có gì.

Vội vàng chạy vào doanh trại, hai má nóng bừng, nàng tự nói với lòng:

- Lan Á, ngươi làm sao thế? Không phải trinh tiết và tính mạng ngươi đã phó thác cho tinh tú rồi sao? Ngươi sao lại có thể như thế được?

Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng trong nàng, tâm trạng vẫn dao động không ngừng, không sao ổn định được.

Ngày hôm sau, Lương Tiêu nhận chức Đại Thống Soái Khâm Sát Quân, rồi trong suốt mười ngày sau đó hắn chuyên tâm thao luyện binh sĩ. Những lúc rảnh, hắn cũng không ngừng trao dồi tướng sóai chi pháp và học tiếng Khâm Sát với Thổ Thổ Cáp để tiện bề thống lãnh ba quân.

Kể từ ngày hôm ấy, mỗi chiều Lan Á đều đến chỗ A Tuyết, cùng Lương Tiêu nghiên cứu số học. Lương Tiêu si mê toán học, không giữ kiến thức làm của riêng, nên mỗi khi Lan Á không hiểu hắn đều giảng giải tận tình. Lan Á thấy hắn sử dụng số học vô cùng tinh diệu, nên lại càng kinh phục khả năng của hắn, thầm than toán học Trung Thổ thật tinh tế, có thể hơn cả thuật toán của người Hồi. Nhưng rồi lại tự nhủ, sư phụ Nạp Tốc Lạp Đinh trí tuệ bao la, lớn rộng như biển thì sao có thể thua người này được.

Một lần nói đến toán học, Lương Tiêu không nhịn được hỏi Lan Á về số học của người Hồi. Qua lời Lan Á, hắn biết được rằng số học của người Hồi vốn xuất phát từ nơi xa nhất về phía Tây, gọi là Hy Lạp. Hàng ngàn năm trước nơi đó đã có vô số những nhà tóan học lớn với hình học Euclide, đại số học Pythagoras, thiên văn học Thales, Archimedes vĩ đại, tinh anh tụ hội, phát triển vô cùng. Nhưng chiến tranh triền miên không dứt, Archimedes bị người La Mã chém đầu, Hy Lạp cũng bị ngọn lửa chiến tranh tiêu diệt, nền học vấn quý giá bị xem là tà thuyết dị đoan, bị đốt, bị mất, đến giờ lưu lại cũng chẳng còn bao nhiêu. Sau đó, người Hồi trở nên hùng mạnh, thảo phạt La Mã chiếm lấy Hy Lạp, khiến những kiến thức bị thất lạc đã rơi vào tay các vị học giả Hồi giáo. Người Hồi nghiên cứu học vấn Hy Lạp, đến giờ phát dương quang đại, xuất hiện các hiền triết vĩ đại, và người vĩ đại nhất hiện nay là Nạp Tốc Lạp Đinh, là đại thành giả về học vấn của người Hồi.

Đến đây, Lan Á im lặng hồi lâu rồi nói tiếp:

- Nhưng sau đó, người Mông Cổ trở nên cường đại, vương triều A Bạt Tư của chúng ta bị Húc Liệt Ngột Hãn tiêu diệt. Sư phụ để lưu truyền học vấn, trong cảnh chiến tranh cửu tử nhất sinh, đã chỉ dạy thuật luyện kim và thuật chiêm tinh cho giới quyền quý người Mông Cổ, mong được sự che chở. Tuy nhiên, Húc Liệt Ngột Đại Hãn mặc dù tôn trọng lão sư, hắn lập đài thiên văn, không phải để lão sư nghiên cứu học vấn, mà để hắn dùng thuật chiêm tinh mà xem tương lai của mình là họa hay phúc; đừng tưởng rằng hắn sẽ chế tạo ra các dụng cụ tinh xảo để xem sao trời, hắn chủ yếu chỉ tạo ra lợi khí công thành, nhằm phục vụ cho việc chinh phạt các quốc gia không phục tùng mà thôi.

Nói đến đây, hai mắt chợt đỏ, nàng thở dài:

- Kì thật người khác thấy sư phụ ta địa vị tôn quý, nào biết đâu rằng ngài thật sự rất đau khổ trong lòng.

Bất chợt Lương Tiêu nhớ tới lúc khó khăn ở Thiên Cơ Cung, trong lòng cảm thấy xót xa, nhưng rồi lại chợt vui. Phải biết sáu năm gian khổ đó, hắn đã học đến tận cùng của toán thuật Trung Thổ, đến không còn gì để học nữa, giờ phút này biết được ngoài Trung Thổ vẫn còn môn toán học bác đại tinh thâm như thế, hỏi sao lại không vui. Hắn lập tức nhờ Lan Á chỉ dẫn. Lan Á dĩ nhiên đáp ứng hắn, nhưng toán học của người Hồi đúng là rất độc đáo. Để hiểu biết học vấn tinh thâm của người Hồi, trước tiên Lương Tiêu phải học chữ Hồi. Hắn tuy thông minh, nhưng học một ngôn ngữ của dân tộc khác cũng rất khó, nên chỉ có thể từ từ học mà thôi.

Một ngày nọ, Lan Á dạy toán, ngồi bên sa bàn viết đề bằng chữ Hồi; bên tả nàng ra đề "Kim tự tháp bút toán", còn bên hữu là đề "Ni la hà (sông Nile – ND) điền mẫu trượng lượng". Đề trước hỏi đến thể tích của đất và đá xây kim tự tháp (tính bằng hình học không gian - TG), đề sau lại hỏi về diện tích khai khẩn bên sông Nile. Hai đề này vốn có nguồn gốc từ hình học cổ điển Euclid. Lan Á để Lương Tiêu dịch đề rồi đưa ra cách giải.

Lương Tiêu nếu theo toán thuật Trung Thổ vốn có thể dễ dàng giải ra, chỉ là thông dịch thập phần gian khổ; nhưng hắn lại muốn dùng toán pháp của Hy Lạp nên nghĩ đến nhức cả đầu. Cách giải của Hy Lạp thật ra thì rất khác với Trung Thổ. Cách giải của Trung Thổ thì khá nhũng tạp, trong khi cách giải của Hy Lạp thì hướng đến sự đơn giản, tinh tế, lí luận chuẩn mật. Cho nên Lan Á nhận xét rằng:

- Phương pháp của Trung Thổ, tựa như minh châu chuỗi ngọc, làm cho người ta thấy hoa mắt; còn phương pháp của Hy Lạp không có vẻ châu ngọc, có thể không đẹp đẽ như của Trung Thổ, nhưng từng hạt, từng hạt đều được đặt ở những vị trí thích đáng nhất.

Nàng nói thì dễ, nhưng Lương Tiêu đã phải bỏ hơn mười ngày, mới có thể nắm được yếu quyết của toán học Hy Lạp. Đó là hắn thông minh tuyệt đỉnh mà còn gian nan như thế, chứ nếu gặp phải người khác, chỉ sợ còn gian nan hơn nhiều.

Lương Tiêu ước tính và giải bài "Kim Tự Tháp bút toán", cả kinh nói:

- Cái tháp này to lớn vô cùng, nó dùng để làm gì thế?

Lan Á nói:

- Nó là lăng mộ của vua Ai Cập.

Rồi nhân tiện nàng kể về phong thổ cũng như con người Ai Cập. A Tuyết đang ngồi bên cạnh vẻ chán nản, đột nhiên nghe Lan Á nói đến thú sự (sự việc hấp dẫn – BT) liền trở nên hoan hỉ. Những khi Lan Á ngừng nói, nàng hỏi liên thanh: "Còn gì nữa không? Còn gì nữa không?"

Đợi cho Lan Á nói xong, Lương Tiêu tưởng tượng ra phong cảnh, con người của nước ấy, không khỏi than rằng:

- Dùng hết ngàn vạn nhân công, chỉ để xây dựng mộ phần cho một người. Thật vua Ai Cập so với Tần Thủy Hoàng Đế của Trung Thổ chúng ta cũng chẳng khác gì!

A Tuyết cười nói:

- Ca ca, đợi ca ca đánh trận, báo thù xong, chúng ta qua Ai Cập được không? Đến Kim Tự Tháp mà Lan Á tỉ tỉ nói, rồi có thể đứng trên Đại Hải Đăng bên bờ biển nữa. (Chú thích: tức ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại ở Ai Cập, bị phá hủy vào thế kỷ 13 - TG)

Lương Tiêu cười nói:

- Được thì được, nhưng đi Khâm Sát xong, lại đi Ai Cập, đợi khi đến Kim Tự Tháp thì chúng ta cũng trở thành lão đầu với lão thái bà rồi!

A Tuyết mỉm cười không nói, thầm nghĩ:

- Nếu được đi với ca ca cả đời, A Tuyết sống cũng đáng mà!

Lan Á liếc trộm A Tuyết, rồi dùng tiếng Hồi hỏi:

- Lương Tiêu, muội tử của ngươi thật khả ái, nhưng sao nàng lại có vết sẹo kia vậy?

Nàng kiềm chế câu hỏi này đã lâu rồi, cuối cùng cũng không nhịn được mà hỏi như vậy. Lương Tiêu cười khổ, cũng dùng tiếng Hồi đáp lại, lắp bắp mãi cũng trả lời xong. A Tuyết nghe hai người nói lại tưởng họ trao đổi về toán học nên cũng không nghi ngờ. Lan Á nghe thế trầm ngâm nói:

- Nàng ấy chỉ là một nữ hài, trên người lại có vết sẹo, tương lai khó mà tốt được.

Nàng nói động đến nỗi khổ trong lòng của Lương Tiêu, hắn đỏ mặt không thể nói gì. Lan Á khẽ nhướn đôi mày, cười nói:

- Ở đây ta có một phương thuốc, nếu tuân thủ đúng theo thì trong vài tháng, vết sẹo đó có thể biến mất được.

Lương Tiêu kinh hỉ nói:

- Lan Á, Lan Á, điều này, điều này...

Thật lòng hắn muốn cầu khẩn, nhưng có quả chút khó mở miệng. Lan Á hé miệng cười, đưa tay viết ra phương thuốc, chợt nhíu mày nói:

- Thứ này trước đây sư phụ luyện kim mới có được, nguyên liệu vô cùng đắt tiền, nếu không giàu có tuyệt không thể mua được, lại khó chế biến. Để ta đi cầu khẩn cha ta, xem có thể có được số tiền này không.

Lương Tiêu cẩn thận xem phương thuốc, thấy đều là xích kim mĩ ngọc, trân châu bảo thạch, báo thai linh chi, không khỏi câm lặng. Nhưng hắn bản tính vốn kiêu ngạo, không chịu nhận ân huệ của người khác, liền nói:

- Có được phương thuốc này, ta đã nhận tấm chân tình của cô, còn đối với dược vật, ta tự có cách lo liệu được.

Lan Á nhìn hắn vẻ dò xét, bán tín bán nghi, đang muốn khuyên hắn thì bỗng nghe bên ngoài có tiếng chân ngựa đi đến, một tên thân binh của A Thuật tiến vào. Lương Tiêu ngồi dựa vào sa bàn hỏi:

- Chiến sự thế nào?

Tên thân binh nói:

- Tối nay A Lý Hải Nha đại nhân đột tập Phù Kiều, mời đại nhân đến xem.

Lương tiêu gật đầu đứng dậy. Lan Á nói:

- Ta cũng đi.

Ba người cưỡi ngựa dọc theo bờ sông, sớm có một con thuyền nhỏ bên bờ tiếp dẫn. Khi họ vừa bước lên thì thấy lĩnh quân đại tướng đều đã ở trên truyền, thoáng thấy Bá Nhan sắc mặt ngưng trọng nhìn về phía trước. Lúc này bầu trời mây đen mù mịt, che lấp trăng sao, một chút ánh sáng cũng không có. Đột nhiên, trên chiến thuyền phía xa chợt truyền lại một hiệu lệnh nghe như tiếng nước rì rầm, hai trăm tử sĩ quân Nguyên ôm túi da lớn nhảy xuống nước, yên lặng bơi về phía Phù Kiều nằm giữa hai thành Tương - Phàn.

Lương Tiêu biết túi da này tên gọi “Hồn Thoát”, cũng gọi là “Hốt Luân Thoát”, được làm bằng kĩ thuật độc đáo: lột da dê từ trên xuống dưới, sau khi lột như vậy, bộ da dê chỉ có sáu lỗ: ở cổ, ở bốn chân và ở đuôi; sau khi may lại các lỗ, có thể đựng rượu và nước. Loại Hồn Thoát này, kỵ binh Mông Cổ trên đường viễn chinh mang theo rất nhiều, bình thường thì đựng rượu, nếu gặp dòng sông có sức chảy lớn, thổi hơi vào rồi tập trung lại, kết thành cái bè da dê rồi bơi qua. Năm ấy đại quân của Thành Cát Tư Hãn, một người với hai Hồn Thoát, đã đánh Nam dẹp Bắc, không ai có thể ngăn cản, tiêu diệt vô số quốc gia. Nguyên hoàng đế Hốt Tất Liệt chinh thảo Đại Lý, cũng là nhờ Hồn Thoát mà vượt qua đoạn có dòng nước chảy siết vô cùng của sông Lan Thương để đột tập Đại Lý.

Lần tập kích này, mỗi tử sĩ quân Nguyên đều mang đến ba cái Hồn Thoát, hai cái chứa đầy khí, một cái chứa đầy dầu hỏa. Không mất đến một thời thần, họ đã yên lặng vượt qua đám dây sắt mà quân Tống giăng trên sông. Trên thuyền, quân Nguyên mỗi người đều im lặng, không khí trở nên căng thẳng tột cùng. Mắt thấy quân Tống trên cảnh giới thuyền cũng không phát hiện ra, khi chỉ còn cách Phù Kiều chưa tới hai mươi trượng, nhiều thủy binh đã lên tiếng hoan hô nho nhỏ. Ngay lúc này, bỗng nghe tiếng chuông treo bên cầu vang to. Bá Nhãn khẽ thốt: "Không tốt!" Các tướng lĩnh khác đều biến sắc.

Trong nháy mắt, tử sĩ quân Nguyên phát giác bản thân đã nằm trong lưới, tiến thoái đều không được. Trên lưới nhô ra rất nhiều lưỡi câu, hai bên trên mép lưới đánh cá còn treo đầy chuông, một khi vướng vào là lập tức kêu lên không ngừng.

Trong thành nghe tin, cả hai bờ hỏa quang đều phát sáng, quân Tống thấy quân Nguyên trong lưới cố sức thoát ra, liền cười lớn, rồi bắn loạn tiễn. Chỉ trong khoảnh khắc, hai trăm người đã chết thảm. Nhưng các tử sĩ được tuyển chọn này thật vô cùng dũng cảm, tuy rơi vào thế bất lợi, nhưng hơn năm mươi người mạo hiểm, liều mạng vượt qua lưới, bò lên trên Phù Kiều, rút ra bội đao cắt bỏ Hồn Thoát, đổ dầu hỏa lên cầu rồi đốt lửa, Phù Kiều bắt lửa cháy mạnh.

Lập tức cửa thành Tương Phàn mở rộng, 110 quân Tống từ hai bên chạy lên Phù Kiều, một nhóm giơ thương múa đao chiến đấu với quân Nguyên, một nhóm quay ra lấy thùng gỗ cứu hỏa. Quân Nguyên cũng chia thành ba nhóm nhỏ, một nhóm nghênh tiếp quân Tống, giơ đao giết địch, họ thân thủ nhanh nhẹn phi thường, trong khoảnh khắc đã giết mười mạng quân Tống; một nhóm khác mở rộng túi da để ngăn cản cung tên; còn lại một đội cởi bỏ đại chùy trên lưng xuống, hết sức đập phá những cây cọc gỗ chống giữ Phù Kiều, chỉ giây lát đã chặt gãy mấy cây, chỉ nghe một tiếng kêu thật lớn, Phù Kiều đã đổ sụp một đoạn.

Lúc này gió sông bắt đầu thổi, trên cầu, lửa cháy mạnh hơn, thiêu rụi mọi thứ. Thủy sư quân Nguyên hoan hô vang dội, thừa dịp tấn công, hai thành Tương - Phàn cũng bắn đạn đá vào, âm thanh náo động cả một vùng trời.

Đột nhiên, trong ánh lửa, một đạo bạch ảnh phóng ra, tấn công lên Phù Kiều, kiếm quang sáng chói, đâm ngã một số tử sĩ. Lương Tiêu nhận ra đúng là Vân Thù, bất giác lòng thấy phẫn nộ. Các tướng lĩnh cũng nhận thấy thế, A Thuật kêu lên:

- Hảo gia hỏa, đúng là hắn!

Vân Thù tay múa kiếm như gió quét lá, tiến lùi hai lần, lập tức Nguyên quân 10 người dù không chết cũng bị thương. Quân Tống phi thân xông lên, xuống sông lấy nước dập lửa, lần lượt dựng lên các cọc gỗ, rồi lại lấy các mảnh gỗ gắn vào thay thế những chỗ bị hư hại. Lưu Chỉnh đánh giá tình hình, thấy rằng hôm nay khó mà đánh thắng được nên chỉ thị cho lui quân.

Vân Thù máu dính đầy áo, quay về thành. Lữ Đức tiếp đón cười nói:

- May là Vân công tử thần cơ diệu toán, đoán trước người Nguyên có thứ này, thiết lập ngư võng trận, không cho một tên chạy thoát, ha ha, quả thật là có đi mà không có về!

Vân Thù chắp tay nói:

- Thái Thú nói đùa rồi. Quân Nguyên dùng túi da đó vô thanh vô tức tấn công, cũng chẳng thể nào phòng thủ được đâu, chẳng qua bọn chúng không gặp may mà thôi. Gia sư hôm đó ngẫu nhiên từng nói với ta phương pháp đó, và nói cách phòng ngự tốt nhất tuyệt không thể hay hơn Kim Câu Ngư Võng trận. Vân Thù bất quá chỉ là nghe lệnh thực hiện thôi!

Hắn nói tới đây, chau mày buồn bã, thở dài:

- Gia sư học cứu thiên nhân, Thủy Cầm Ngư Long trận này cũng là sở truyền của người. Trong sáu năm, người truyền thụ cho ta nhiều cách tiến công. Hồi đó Vân thù chẳng biết thâm ý, toàn chú ý học võ, chẳng chịu dụng công. Giờ mới biết lão nhân gia người đã biết kết cục hôm nay, hao phí tâm tư thuyết giáo ta, mới được thành công như vầy.

Lữ Đức kinh hãi nói:

- Lệnh sư mưu lược thâm sâu như thế, thật là cao nhân! Nhưng người vì chuyện gì mà không tự mình đến? Nếu có người tương trợ, bọn quân Nguyên đó ắt sẽ trở nên khốn đốn vô cùng.

Vân Thù cười khổ nói:

- Điều này thì thật thứ cho, Vân Thù cũng không biết.

Lữ Đức thở dài, trầm ngâm nói:

- Vân công tử đã lập công lớn, Lữ mỗ muốn để ngươi làm Thống Chế, ý ngươi thế nào?

Vân Thù lắc đầu:

- Gia sư đã có nói, không được làm quan Đại Tống. Vân Thù quyết không dám trái lệnh. Tại hạ làm một chức Mạc Liêu nhỏ cũng đã mãn ý rồi.

Lữ Đức nghe hắn nói với khẩu khí quyết liệt, đành bỏ không nói nữa.

Trên phù kiều (1) hỏa quang dần tắt, hai thành Tương Phiền trở về tĩnh mịch. Bá Nhan nghe tiếng nước sông rì rào, trầm ngâm không thốt một câu, rất lâu sau mới nói :

- Ai có thể hủy được tòa phù kiều này, sẽ được trọng thưởng!

Trên thuyền chợt lặng lại, chúng tướng đối mặt nhìn nhau. Chợt nghe Lương Tiêu hỏi:

- Lời này có là sự thật?

Bá Nhan ngẩn người, hỏi lại:

- Lẽ nào ngươi có phương pháp?

Lương Tiêu nói:

- Ta mới nghĩ đến một cách, tuy rất hao nhân lực vật lực, nhưng lại có thể không tổn hại một binh sĩ nào. Chẳng những hủy được phù kiều, còn khiến nó không thể trùng tu được nữa.

- Hao phí nhân lực thì không thành vấn đề. Người mệt còn có thể nghỉ lấy sức, chứ người chết thì không thể hồi sinh lại. Chỉ cần ngươi làm được, ngươi muốn gì, miễn là trong khả năng của ta, ta sẽ cho ngươi cái đó.

Lương Tiêu gật đầu :

- Được lắm. Quan trọng nhất, chính là chặn dòng Hán giang, tích nước thượng lưu.

Mọi người nghe vậy không ai không kinh ngạc.

Sử Thiên Trạch cau mày:

- Ngươi muốn tích nước để đẩy phù kiều ư? Thế thì rất khó. Một là người Tống khi kiến tạo phù kiều, đem mấy trượng gỗ lớn đóng xuống đáy nước, rất kiên cố. Hai là vì Hán thủy chậm rãi, mặt sông rộng lớn, không dễ tích thế nước hủy được phù kiều đâu.

Hắn thân là lão thần danh tướng, suy nghĩ chu đáo, hơn nữa lại là người chuyên dẫn dắt thủy quân, thông hiểu thủy tính, những lời này nói ra ai nấy đều gật đầu.

Lương Tiêu lắc đầu:

- Ta không phải dùng nước đẩy cầu, cùng lắm là mượn đỡ thế nước mà thôi!

Bá Nhan hỏi:

- Mượn thế bằng cách nào?

Lương Tiêu cười:

- Khoan, bây giờ ta chưa nói ra vội. Trước hết để ta quan sát thế nước, rồi sẽ gặp và báo cáo với các vị sau.

Lại hướng qua Bá Nhan nói:

- Nhưng không biết Giang Tâm thạch đài là ai xây dựng?

Bá Nhan cau mày:

- Ngươi hỏi cái này làm gì?

Lương Tiêu nói:

- Ngay giữa chỗ nước xoáy mà dựng nên được thạch đài như vậy, nhất định phải có cách riêng ngăn cản dòng nước.

Bá Nhan bảo:

- Người đó ở Đại Đô chứ không ở đây.

Lương Tiêu cau mày, lại nghe Lan Á nói:

- Ta cũng biết chút ít về thủy lợi, có thể đến giúp ngươi!

Lương Tiêu hoan hỉ:

- Được cô tương trợ, hơn hẳn thiên quân vạn mã.

Lan Á không ngờ Lương Tiêu tán thưởng mình trước mặt mọi người như vậy, xấu hổ không chịu nổi, mặt đỏ rần rần, cúi đầu xuống.

Bá Nhan nghĩ ngợi:

- Việc này mất sức quá. Nếu không thành công thì sao?

Lương Tiêu thuận miệng nói:

- Vậy thì chặt đầu ta.

Mọi người đều kinh ngạc, Lương Tiêu nói câu này ra, không nghi ngờ gì đã lập quân lệnh trạng.

A Thuật hơi mấp máy môi, định lên tiếng thì Bá Nhan đã nói:

- Được lắm. Việc quân chẳng thể nói chơi, nếu không thành công, ta cũng không thể lưu tình. Từ hôm nay về sau, binh hay sĩ giỏi thợ thuyền tất cả tùy ngươi điều động. Ngươi cần bao nhiêu thời gian?

Lương Tiêu nhẩm tính rồi nói:

- Hai tháng là đủ.

Bá Nhan sang sảng giọng:

- Được, nội trong hai tháng, ta đợi tin ngươi. - Nói rồi lập tức quay mình đi thẳng lên bờ, không hề ngoảnh lại.

Chúng tướng thi nhau đưa mắt nhìn Lương Tiêu, nhiều phần là hạnh tai lạc họa (2). Họ thấy Bá Nhan luôn nâng đỡ người này, sớm đã bất mãn, lại chứng kiến Lương Tiêu vì háo hức lập đại công mà dám nhận một việc như vậy, thảy đều mừng thầm:

- Ngăn sông cách dòng, thời gian hai tháng làm sao mà đủ? Tiểu tử này quá mong lập được công danh, có chết cũng đáng.

A Thuật nhìn hắn một cái, thở dài, cũng phất tay áo bỏ đi.

A Lí Hải Nha và Lương Tiêu đi cùng đường lên bờ, cả hai đều không nói gì, sóng vai đi một lúc. Hồi lâu sau, A Lí Hải Nha nhịn không được hỏi:

- Lương Tiêu, ngươi có mấy phần thành công?

Lương Tiêu nói:

- Bảy tám phần!

A Lý Hải Nha nói:

- Ta tưởng ngươi chắc chắn mười phần, mới dám đại ngôn như thế.

Lương Tiêu cười:

- Thiên hạ đâu có việc thập toàn thập mỹ.

A Lí Hải Nha gật đầu:

- Nói cũng đúng. Nếu cần ta giúp, cứ lên tiếng.

Lương Tiêu nói: “Đa tạ!”, rồi trở về Khâm Sát doanh.

Hôm sau, Lương Tiêu chế tạo được thiết bị đo sóng động, cùng Lan Á đi ra Hán Thủy kiểm tra, ước lượng độ sâu của từng khúc sông. Quả không uổng công, ba ngày sau, hai người đã tìm thấy nơi thích hợp để đắp đê. Hôm đó quay về đại doanh, Lương Tiêu suy nghĩ mất một đêm, vẽ ra đồ họa thủy khố và các loại cơ giới, lại cùng với Lan Á thương nghị định đoạt.

Thương nghị qua hai ngày thì chính thức dùng bản vẽ con đê. Lan Á chiêu tập thợ, theo đồ bản chế tạo cơ giới, cải tạo hạm thuyền.

Lương Tiêu không lo không hoảng, ban ngày vẫn thao luyện binh mã, đêm xuống học Hồi Hồi số thuật, sau đó mới nghe Lan Á thuật lại tình hình công trình. Lan Á nghĩ hắn đã lập quân lệnh trạng, trong lòng lo lắng vạn phần, nhưng Lương Tiêu đã dặn nàng trước mặt A Tuyết đừng đề cập đến chuyện quân lệnh trạng, nên nàng cũng không tiện nói nhiều. Nhưng khi truyền thụ Hồi Hồi số thuật, trong lòng nàng vẫn thấp thỏm không yên, thường tính sai đề mục. Lương Tiêu vừa nhìn qua đã biết, không nhịn được trêu ghẹo mấy câu khiến Lan Á dở khóc dở cười.

Thời gian như tên bay, chớp mắt đã mười ngày. Hôm nay, Lương Tiêu ở doanh trại thao luyện kỵ binh, lệnh cho ba quân chơi mã cầu chi hí. Mã cầu hí vốn là trò chơi của giới quý tộc Hán, có tác dụng khảo sát kỵ thuật của người tham gia. Sau khi người Mông Cổ học được, lấy làm phép luyện kỵ binh. Làm một quả mã cầu và sáu cái cầu môn, kỵ giả phân làm đội thi đấu. Trên lưng ngựa mỗi người cầm một cây gậy màu, bên nào đánh cầu vào cầu môn nhiều hơn là thắng. Trò chơi này vốn là hai đội đấu nhau, Lương Tiêu lại có ý muốn khảo nghiệm trận hình của quân lính, chỉ đặt bốn cầu môn, đem hơn hai ngàn người phân thành ba trăm bảy mươi đội, mỗi đội sáu người, dùng Lục hoa chi trận, tranh đánh ba quả mã cầu.

Lương Tiêu đứng trên soái đài, phát hiệu lệnh. Trên thao trường, hơn hai ngàn người vây quanh ba quả mã cầu màu đỏ bắt đầu tranh đoạt, cứ sáu người một đội, ai nấy đều lo giữ trận thế không dám loạn chút nào. Trận thế hễ bị loạn, là tính như thua. Nhất thời, chỉ thấy trên giáo trường hơn ba trăm đội nhân mã xuyên qua xẹt lại, ai nấy biến hóa trận thế, bao vây ngăn chặn, kéo bắn ngáng trở. Tình hình đó thực giống như thi nhân từng nói:

“Bán không thải trượng phiên tàn nguyệt

Nhất điểm phi cầu bính lạc tinh

Thúy liễu tiểu đình huyên cổ xuy

Ngọc tiên kiêu mã túc lôi đình.”

Tạm dịch nghĩa :

Giữa bầu trời treo mảnh trăng khuyết vằng vặc

Một đốm sáng bay vụt qua như sao băng

Liễu xanh nơi tiểu đình lả lơi theo làn gió thổi

Roi ngọc thúc ngựa như sấm sét

Tạm dịch thơ :

Nửa vầng trăng treo lờ lững giữa đêm

Chợt sáng chói một tinh cầu vụt mất

Bên tiểu đình liễu vờn theo gió hát

Tiếng vung roi thúc ngựa động càn khôn

(@BT)

Hoặc :

Nửa vầng trăng giữa đêm sâu

Sáng soi một bóng tinh cầu vút qua

Tiểu đình liễu gió hát ca

Tiếng roi giục ngựa như là lôi giăng

(@Kiếp Nô)

Nói ra thì tiêu sái khôn tả. Nhưng đó vốn là trò chơi của mười mấy người, mà lúc này lại có hơn hai ngàn người tranh đoạt. Kỹ thuật cưỡi ngựa tinh thông cố nhiên không thể thiếu, nhưng nếu không đem Lục hoa trận biến hóa ra kỳ lạ, cũng rất khó để đoạt được giải nhất, tức là dùng công phu của sự khéo léo hơn là dùng sự kỳ diệu của tài phi ngựa.

Lương Tiêu đứng xa quan sát, chỉ thấy ba chấm mã cầu vào ra không thể đoán trước được ở bốn cầu môn. Nếu là người bình thường, chắc khó mà nhớ được chỉ trong sát na quả cầu vào ra bao nhiêu lần. Nhưng khả năng tính toán của Lương Tiêu là thiên hạ hiếm có, mã cầu đến đến đi đi tuy nhiễu loạn mất trật tự, hắn vẫn nhìn thấy rõ, tính rõ, không hề để lọt một quả nào. Vì thế tuy đây là phép luyện binh thiên hạ vô song, nhưng khắp thiên hạ này e rằng cũng chỉ có mình Lương Tiêu dùng được. Nếu không, các đội tự mình nhớ được bóng vào bao nhiêu quả, người xem cầu mà tính thiếu, nhất định có thể gây oán giận, vốn là việc tốt, nhưng lại biến thành việc xấu rồi.

Một lát sau, hơn hai trăm đội nhân mã đều phải nhận thua, lui sang một bên. Còn một trăm đội vẫn đang giao chiến. Lương Tiêu ghi lại rất rõ, hai đội vào cầu nhiều nhất là đội của Thổ Thổ Cáp và Lý Đình, cơ hồ không phân trên dưới. Nang Cổ Ngạt, Dương Giác, Vương Khả ba người đều ở trong những đội đó. Chỉ vì năm người này theo Lương Tiêu đã lâu, về Lục Hoa trận lĩnh ngộ tương đối sâu sắc, vì thế trận thế biến hóa vượt xa quân sĩ Khâm Sát về sự lợi hại. Lại thêm ba khắc công phu, tại trường đấu chỉ còn mười đội. Lương Tiêu ra lệnh lấy đi một quả cầu, chỉ lưu lại hai quả cầu để tranh đoạt.

Trong khoảnh khắc, năm đội kia đều bị đội ngũ của mấy người Thổ Thổ Cáp đánh tan. Lúc này tính ra, Thổ Thổ Cáp là đội có cầu vào nhiều nhất, Lý Đình thì ít hơn ba quả cầu. Chỉ một lúc sau, ba đội của Nang Cổ Ngạt, Dương Giác, Vương Khả lục tục rời đi, trên trường biến thành trận quyết đấu của hai đội Thổ Thổ Cáp và Lý Đình. Lương Tiêu lại ra lệnh lấy một quả cầu, trên trường đấu chỉ còn lại một quả mã cầu.

Cả đội Thổ Thổ Cáp có ba bách phu trưởng, kỵ thuật rất tinh thâm. Đội của Lý Đình tuy là quân sĩ bình thường, nhưng Lý Đình cơ trí thiện biến, chỉ huy đúng đắn, trận hình biến hóa đa đoan, rất khó để đánh tan. Nhất thời, hai đội đều chiếm lấy các cứ điểm, đấu đến khó phân cao thấp, người đến kẻ đi, chỉ một quả mã cầu mà đánh cho bay như phi tiễn.

Lúc này, sĩ tốt Khâm Sát thấy hai đội đấu mãi mà không phân thắng bại thì hết sức vô vị. Khi luyện binh, Lương Tiêu nghiêm túc ít ai bằng, nhưng thời gian còn thừa thì mặc cho lười biếng. Cho nên quân sĩ Khâm Sát lúc này thấy tẻ nhạt quá, bắt đầu bày trò cá độ xem đội nào thắng đội nào thua. Có người còn chè chén ca hát, đại tiện tiểu tiện. Trường đấu một phen trở nên náo loạn.

Lương Tiêu chú mục rất lâu, thấy Thổ Thổ Cáp hơi thắng hơn một bậc, Lý Đình cũng không phải loại dễ dàng đối phó, bất giác hơi gật đầu, cảm thấy rất được an ủi: “Quả không uổng công ta hao tâm tổn khí, hai người này nếu luyện tập nhiều hơn, sau này nhất định sẽ có thể trở thành đại tướng chi tài.” Nghĩ tới đây, chợt hơi có cảm giác bèn liếc mắt nhìn, chỉ thấy Bá Nhan và A Thuật dẫn thân binh ngồi trên mình ngựa đứng ở đằng xa nhìn lại. Sau lưng hai người có một vị văn quan người Hán, râu đen dài tới ngực, khuôn mặt thanh tú, đôi con ngươi nhìn chăm chăm vào trường đấu, lấp lánh tỏa sáng.

Lương Tiêu đứng dậy, roi ngựa lăng không giật một cái, một tiếng lanh lảnh vang khắp toàn trường, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp vội lùi sang bên; lại giật một nhát roi nữa, Khâm Sát quân hạ xuống những việc trong tay, ngay cả đi đại tiện cũng không kịp chùi đít, nhấc quần nhảy lên ngựa, cùng chạy điên cuồng về trước soái đài. Lương Tiêu giật nhát roi thứ ba xong, Khâm Sát quân đã tập trung ở dưới đài, xếp hàng tăm tắp, một chút cũng không loạn.

Bọn Bá Nhan phi ngựa vào, Lương Tiêu tiến lên nghênh tiếp. Bá Nhan cười điềm đạm:

- Mã cầu hí hay lắm, thật là sôi động! –

Hắn chăm chú nhìn chúng quân, nói:

- Vừa rồi rối bời bời, mà đã đến đủ rồi à?

Lương Tiêu nghe nói giương mắt nhìn, chợt thốt lên một tiếng kinh ngạc nói:

- Tại sao thiếu mất hai người rồi?

Một bách phu trưởng đứng ra khỏi hàng tâu:

- Ngạt Vật Lão bụng đau, Tiết Tư Đà theo hắn đến khám đại phu, vừa rồi cùng với ta nói qua. Ta không kịp báo, ngươi đã chiêu binh rồi!.

Lương Tiêu gật đầu:

- Ngươi đi xem hắn có trở ngại gì không? Ta lát nữa sẽ đến thăm hắn.

Bách phu trưởng lĩnh mệnh vội vã đi.

Bá Nhan ngạc nhiên nói:

- Ngươi chưa điểm binh, làm sao biết thiếu người?

Lương Tiêu định nói, văn quan người Hán đã đột nhiên cười ha ha:

- “Tam nhân đồng hành thất thập hi

ngũ thụ mai hoa nhập nhất chi

thất tử đoàn viên chỉnh bán nguyệt

trừ bách linh ngũ tiện đắc tri”! (3)

Lương Tiêu tâm niệm chợt động, cung tay cười:

- Dám hỏi tiên sinh đại danh?

A Thuật cười :

- Vị này là Quách Thủ Kính Quách đại nhân, Đô thủy thiểu giám của triều đình, là người thông minh hiếm có trong số Hán nhân. Lần này ngài phụng chỉ đến đây, kiến tạo thủy trạm cho đại quân.

Lương Tiêu biết quân Nguyên đông đến hai mươi vạn người, không chỉ lương thảo vận tải hết sức gian nan, nước uống cũng thế. nếu uống phải nước không tinh khiết, dịch bệnh lây nhiễm, sẽ chết hàng ngàn hàng vạn người, tổn thất không thể tính được. Vì thế việc kiến lập thủy trạm là một việc khá lớn, không tinh thông thủy lợi không làm được.

A Thuật giơ roi chuyển thân, hướng về Khâm Sát quân ra lệnh:

- Các ngươi đi đi!

Nào ngờ chúng quân hoàn toàn không động đậy. A Thuật cau mặt định nói, chỉ thấy Lương Tiêu huy roi giật nhẹ, cười bảo:

- Giải tán đi!

Chúng quân mới hô một tiếng rồi giải tán dần. A Thuật sững người, đấm Lương Tiêu một quyền, mắng:

- Giỏi cho ngươi Lương Tiêu, đã dạy dỗ cái lũ lưu manh này ngoan thế? Đến lời của ta mà họ cũng không nghe.

Lương Tiêu cười:

- Họ nghe lời ta, ta nghe lời huynh vậy!

A Thuật khẽ vỗ một cái lên vai hắn, cười ha hả.

Bá Nhan ho khẽ, hỏi Quách Thủ Kính:

- Bài thơ mới rồi có ý nghĩa gì?

Quách Thủ Kính mỉm cười:

- Bài thơ này là một khẩu quyết toán đề. Đề bài tên là Vật bất tri số, lại là Tôn Tử toán đề, do Binh thánh Tôn Vũ Tử lưu lại. Toán đề ra rằng: “Vật bất chi số, ba nhân ba thừa hai, năm nhân năm thừa ba, bảy nhân bảy thừa hai, hỏi vật này có bao nhiêu?” Bài thơ mới rồi, chính là bí quyết giải đề, cứ theo đó mà giải, cuối cùng khai triển theo nó, ta được vật là hai ba.

A Thuật nói:

- Ngươi nói bóng bẩy ta cũng không hiểu. Nhưng Tôn Vũ Tử đại danh ta lại có nghe. Chỉ bất quá, đề mục này với điểm binh có quan hệ gì?

Quách Thủ Kính nhìn Lương Tiêu, cười bảo:

- Lương tướng quân, ta thật là “múa búa trước cửa Lỗ Ban” (4) rồi!

Lương Tiêu phẩy tay:

- Ngài nói đi đâu thế!

Quách Thủ Kính tiếp tục:

- Đề này là di pháp của Tôn Vũ, tự nó cũng có ám hợp binh pháp bên trong. Nói ra, đây vốn là phép tính toán rất xảo diệu, chỉ cần binh tốt căn cứ theo ba ba, năm năm, bảy bảy trận thế xếp hàng, là có thể suy ngược lại tổng số binh viên. Hán đại danh tướng Hàn Tín, Đường thái tông Lý thế dân các vị nhất định phải biết. Hai người đó sở trường dụng binh không ai bằng, cũng đều là cao thủ về phép này. Vì thế điểm binh thuật lại tên là Hàn tín điểm binh hoặc Tần vương ám điểm binh, chính là cho dù có bao nhiêu binh mã, chỉ cần theo đúng trận xếp ra, đại tướng lặng lẽ quan sát trận thế, chỉ trong sát na là biết được số mục.

Nói tới đây, hắn chăm chú nhìn Lương Tiêu, nói.

- Đạo lý đó nói ra tưởng dễ, nhưng vận dụng vào thì lại khó càng thêm khó. Nếu không phải trong lòng tính toán đến xuất thần nhập hóa, rất khó vừa nhìn một cái là ra. Từ Đường Thái Tông và Lý Tịnh tới nay, kỳ thuật điểm binh này cơ hồ đã thất truyền, cận đại chỉ nghe nói có Nhạc Phi thông hiểu, nhưng cũng chỉ là nghe nói. Nhạc Vũ Mục chết oan trong ngục, không có binh pháp truyền ra hậu thế, phép này cũng chính là không có người dùng. Không ngờ ở chỗ Lương tướng quân, Quách mỗ lại được nhìn thấy Tôn Vũ diệu thuật!

Bá Nhan thần sắc nghiêm túc, gật đầu, hướng Lương Tiêu nói:

- Ngươi viết phép này thành chương trình, gủi đến chỗ ta để truyền ra toàn quân, khiến đại tướng nào cũng biết được. Cái gọi là binh quý thần tốc, điểm binh chi pháp này rất có tác dụng.

Lương Tiêu đáp ứng. Quách Thủ Kính nghĩ thầm:

- Sợ rằng đại tướng khác cho dù biết cách cũng không thể dùng tốt được.

Mọi người vừa nói chuyện vừa tiến vào trướng. Lương Tiêu cho người dâng lên rượu pha sữa ngựa, Bá Nhan uống một hớp, nói:

- Ngươi lúc trước không phải từng hỏi ta ai xây Giang Tâm thạch đài ư?

Lương Tiêu mục quang khẽ chuyển, nhìn Quách Thủ Kính, cười nói:

- Nghĩ chắc là Quách đại nhân rồi.

Bá Nhan thở dài:

- Việc quân không thể nói chơi được. Ngươi là tiểu tử mà gan to bằng trời, trước mặt chúng tướng dám lập quân lệnh trạng với ta, không cần mạng nữa sao? May mà trời còn thương cho Quách đại nhân kịp thời đến nơi.

Lương Tiêu lại cười, nói:

- Thật là trùng hợp.

Quách Thủ Kính cau mày:

- Lương tướng quân chỉ cần hai tháng kỳ hạn. Bây giờ tính ra chỉ còn chưa đến một tháng rưỡi, tướng quân chắc đã có chuẩn bị rồi?

Lương Tiêu nói:

- Cái này ta cũng không mười phần chắc chắn, đều là Lan Á đang làm.

Ba người còn lại nhìn nhau. Bá Nhan cau mày:

- Đến lúc đó ta sẽ chặt đầu ngươi chứ Lan Á không có liên quan gì cả.

Lương Tiêu khe khẽ lắc đầu, nghiêm sắc mặt:

- Ta tin Lan Á.

A Thuật có vẻ không vui:

- Cô ta là một nữ nhân mà cũng có thể tin ư?

Lương Tiêu trông ra xa, điềm đạm nói:

- Cô ấy là nữ nhân, nhưng cũng là học trò của Nạp Tốc Lạp Đinh.

Bá Nhan, A Thuật nghe lời này, mặt đều trầm xuống. Chưa kịp trách móc, Quách Thủ Kính đã cười nói:

- Bây giờ đã gặp Lương tướng quân rồi, đại nguyên soái việc quân bận rộn, xin cứ về trướng đi!

Bá Nhan nghe vậy, trong lòng hồ nghi nhưng đành đứng dậy. Lương Tiêu tiễn hắn ra khỏi lều, chợt thấp giọng nói.

- Cám ơn.

Bá Nhan hừ lạnh, cũng không đáp lời, nhảy lên ngựa, cùng A Thuật ra khỏi viên môn.

A Thuật cười:

- Hai người đúng là cùng một nhà mà ra. Ngươi thì nói một đằng nghĩ một nẻo, rõ ràng là việc công, lại âm thầm chiếu cố gã sư điệt ấy rất cẩn thận. Hắc, với cái danh tu sửa thủy trạm, dùng mấy mươi khoái mã đi suốt ngày đêm, từ đại đô đem Quách đại nhân đưa tới quân trung. Còn tiểu tử này? Miệng không nói, nhưng trong lòng thì rõ hết.

Bá Nhan cau mày, thở dài:

- A Thuật, hài tử này tài hoa cái thế, ngươi và ta đều không bằng. Nhưng hắn hay tỏ ra sắc sảo quá mức, ta sợ hắn bị người khác đố kỵ.

A Thuật cười lạnh:

- Kẻ nào muốn động đến hắn, trước tiên phải vượt qua cửa ta đây.

Bá Nhan lắc đầu:

- Nếu trong hai tháng hắn không phá được phù kiều, ai cũng cứu không được hắn!

A Thuật cười:

- Ngươi yên tâm, ta biết tính Lương Tiêu. Đúng là hắn luôn đặt mắt trên đỉnh đầu, nhưng xưa nay chưa từng nói láo.

Bá Nhan ngậm miệng không nói, ngoảnh nhìn Khâm Sát đại doanh, thở một hơi dài.

-----------------------

(1) Phù kiều : cầu nổi.

(2) Hạnh tai lạc họa : vui mừng trước tai họa của người khác.

(3) Bài thơ này bao hàm lối chơi chữ của người Hoa cổ, dùng những từ vừa có nghĩa cũng vừa là số, nếu dịch số thì mất nghĩa mà dịch nghĩa thì mất số. Do tiếng Việt không có những từ chức năng tương tự, nên chúng tôi đành để nguyên.

(4) Nguyên văn : “ban môn lộng phủ”. Ban: Tên Ban, họ Công Thâu, người nước Lỗ thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên thường được gọi là Lỗ Ban, làm mộc rất giỏi, về sau được tôn là Ông Tổ nghề thợ mộc. Môn: Cửa. Lộng: Múa. Phủ: Cái búa. Câu này nghĩa tương tự như “múa rìu qua mắt thợ”.

Lương Tiêu ra lệnh cho người mời Lan Á nhập doanh, đưa bản thủy khố ra cùng xem với Quách Thủ Kính. Quách Thủ Kính cẩn thận xem một lúc lâu, chợt thở ra một hơi, chậm chậm hạ bản thủy khố xuống, Lan Á vội hỏi:

- Quách đại nhân, lẽ nào không tốt ư?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Đâu có, bản vẽ này thật toàn thiện toàn mỹ, ngay cả chính lão sư ngươi Nạp Tốc Lap Đinh cũng vị tất đã moi được khuyết điểm nào. Cái ta thở dài là, ta chuyến này là đến không được việc gì rồi. Chẳng làm được việc gì nữa.

Lan Á vui mừng nói:

- Vậy thì tốt quá rồi, ta ngày đêm lo lắng, chỉ sợ bản thủy khố này không ổn.

Nàng lại liếc Lương Tiêu, trách:

– Hắn thì im hơi lặng tiếng, chỉ biết nói không có vấn đề gì, không có vấn đề gì, đúng là khiến người ta lo muốn chết đi!

Quách Thủ Kính cười:

- Lương tướng quân trong lòng đã có dự tính rồi, tất nhiên không phải sợ gì rồi.

Lương Tiêu phẩy tay nói:

- Nói không sợ là nói dối, nhưng thay vì kinh sợ lo lắng, đứng ngồi không yên, chi bằng cứ phóng tay thử một trận. Lan Á là tinh học gia Hồi Hồi, thuật thủy lợi giỏi hơn ta. Bây giờ lại có Quách tiên sinh ngài, một đại gia thủy lợi tương trợ, tin rằng không hết một tháng là có thể thành công..

Quách Thủ Kính mỉm cười:

- Lương đại nhân quá lời rồi, Quách mỗ gắng sức là được.

Sau đó, Lương Tiêu cáo từ đi ra ngoài, tự mình xử lý các quân vụ, để lại hai người thương lượng cụ thể.

Lương Tiêu biết tin tàu bè đã làm xong, bèn đem quân vụ ủy thác cho A Thuật, đích thân ra bờ Hán Thủy cùng Quách Thủ Kính chỉ huy việc lắp sườn thuyền, lắp đặt các loại cơ quan. Sau đó hắn cho đào một hố to dưới mười chiếc thuyền, khiến cự hạm dần dần bị treo lơ lửng, ở bên dưới đặt những cọc gỗ dài ngắn; xong rồi mới từng bước chặt bỏ cọc gỗ, làm cho cự hạm rơi xuống hố, bằng với mặt đất; lại đem mấy ngàn vạn cân đất đã đào chia làm ba tầng, đẩy vào ba tầng khoang thuyền của cự hạm.

Lan Á thì dẫn người dựng những hàng rào gỗ dọc bờ sông, trong vòng ba ngày ngắn ngủi, đã phát động đến gần một vạn sĩ tốt, dùng những cơ quan gỗ tròn, đem đất đá từ trên núi hai bên bờ sông lăn xuống đến trước hàng rào. Còn Quách Thủ Kính thì ở bên hàng rào, dùng những đất đá này đắp thành đê sông.

Đất đá đắp xong, Lương Tiêu dẫn người trước các cự hạm đều đào một dòng kênh ngắn, đào sơ một đoạn mương ngắn trước thuyền, dẫn thông ra dòng Hán Thủy. Nước sông từ con kênh ngắn chảy vào hố sâu, cự hạm tức thì nổi lên. Sĩ tốt thuận theo thế nước mà đẩy thuyền đi. Tám chiếc cự hạm rộng trước sau lần lượt được hạ thủy. (1) Đến chỗ đắp đê, chỗ này so với những chỗ chỗ khác thì rất hẹp, Lương Tiêu đã sớm ở trên sông đặt tám cái phao để nhận rõ địa điểm.

Đến gần phao, Quách Thủ Kính thả neo, neo dừng thuyền lại. Lan Á thì chỉ huy thủy quân chuyển động máy móc, đẩy tấm ván di động dưới đáy thuyền trượt ra khiến nước sông tràn vào rất mạnh. Tám chiếc cự hạm mang theo đất đá, từ những vị trí đã được đánh dấu bằng phao, chìm xuống dưới sông; bốn trên bốn dưới, cao đến mười trượng, cắt ngang dòng sông, cấu thành một cơ sở cho con đê. Còn hai chiếc cự hạm hẹp dài, đặt ở hai bờ đê, Lương Tiêu cũng lệnh cho đào kênh thẳng, thông với sông, rồi cùng Quách Thủ Kính, mỗi người dẫn một con thuyền dài tiến ngang ra sông rồi cũng lại rút ván cho nước sông tràn vào. Một trái, một phải từ từ chìm sâu xuống móng. Hai chiếc thuyền này cách nhau chỉ khỏang mười trượng, ván lát sàn thuyền thì cao hơn mặt nước mấy trượng. Đến đây, ở giữa hai thuyền, dòng nước có xu hướng xoáy hơn.

Sau đó, Lan Á dẫn mọi người đắp lại mười con kênh, lấp hết những khe hở của con đê. Lương Tiêu thì cùng Quách Thủ Kính chia nhau đứng ở hai đầu thuyền, dùng hai mươi dây sắt to đem một cái lồng chu vi mười trượng xếp đầy đá lớn treo vào giữa hai con thuyền. Lúc này dòng nước bị cản trở, thượng lưu dâng lên mạnh, cao hơn mười trượng nữa, vị trí nước vượt qua chiếc lồng khổng lồ, xoáy mạnh vô cùng. May có con đê ngăn dòng nước, khiến nó không đến nỗi vỡ tung.

Trên mặt thành, người Tống thấy quân Nguyên cả ngày bận rộn, chỉ cảm thấy bất diệu, nhưng bất diệu chỗ nào thì lại không nói được. Cho đến khi con đê hợp long, mới biết quân Nguyên muốn cắt đứt Hán Thủy, nhất thời đều không hiểu ra sao. Lữ Đức nói:

- Người Nguyên cắt dòng làm gì? Muốn dìm thành à? Nếu chặn hạ lưu, làm nước sông chảy vào Tương - Phàn, nhưng thành môn Tương - Phàn cách nước rất cao, dìm thành e rằng còn khó hơn cả lên trời. Muốn thả nước đẩy phù kiều của ta ư? Đến chỗ phù kiều, thế nước đã chậm, cuốn được mặt phù kiều thì còn có đạo lý, chứ đẩy cả trụ cầu thì tuyệt không thể được.

Vân Thù cũng cảm thấy có lý, bèn nói:

- Để tránh nước lớn đẩy mất mặt cầu, Thái Thú nên phái người và vật chở nặng đồ đứng chặn trên phù kiều.

Lữ Đức mừng rỡ, cho rằng kế này thế là hoàn hảo.

Lương Tiêu thấy đê đắp đã xong, liền hiệu lệnh cho quân Nguyên, đem một trăm khúc gỗ tròn nhọn đẩy xuống nước. Mỗi khúc gỗ tròn dùng da trâu buộc mấy trăm tảng đá lớn, đến nỗi gỗ tròn không thể nào nổi lên mặt nước được, chỉ có cách chìm xuống đáy nước. Sau đó gỗ tròn nhao nhao theo dòng trôi đi, đến cửa lồng gỗ muốn qua không được, cứ xô tới xô lui. Lương Tiêu lại lệnh cho chúng quân kéo chiếc lồng lên, thả cho nước trôi ra. Đột ngột, mấy trăm cây gỗ lớn theo dòng nước lao ra, sau đó dần dần tản ra, chìm trong những con sóng mạnh mẽ, xông thẳng đến hạ du.

Trong lúc đó, Tống quân kéo trâu ngựa, phụng mệnh ở trên phù kiều trấn thủ, nhìn ra xa thấy dòng nước lớn tràn tới, nổi lòng tức giận người Nguyên, lần lượt cởi áo, nghênh đón dòng nước, hét lên một cách thống khoái. Ai ngờ cầu gỗ chấn động dữ dội, dưới nước đột nhiên truyền tới những nhiều tiếng ầm ấm, tựa như có cây cột gỗ sụp đổ. Không đợi chúng nhân bình tĩnh lại, một trăm cây trụ nâng đỡ phù kiều đã đổ mất một nửa, phù kiều sụp xuống, người Tống rơi tòm xuống nước.

Trên thành tướng Tống trố mắt há mồm. Tính toán trăm mưu ngàn kế, nhưng tuyệt không thể ngờ tới Lương Tiêu khổ sở tích nước, chính là muốn mượn thế nước dẫn đẩy những cây gỗ tròn, tránh khỏi Ngư Võng trận, từ dưới mặt sông mà xô hủy cây chống của phù kiều. Chưa kịp nghĩ đến đối sách, Lương Tiêu lại một lần nữa tích nước, thả nước, đợt cây gỗ lần thứ hai lại trôi tới. Lần này, phù kiều cây trụ đều đã bị hủy hết, chỉ còn lại mặt cầu bên trên, bị dòng nước xoáy cuốn vào, trôi xuống hạ du.

Hơn mười vạn quân Nguyên hoan hô không dứt. Bá Nhan và chúng tướng đứng bên cạnh chỗ lồng nước, xem đến đây, khó nhịn được niềm vui điên cuồng, bèn hét to:

- Lương Tiêu, ngươi làm rất tốt! Ngươi muốn được thưởng gì? Cứ việc nói đi!

Chúng tướng nhìn Lương Tiêu, trong lòng lo sợ, lại cảm thấy đố kỵ, sợ hắn lại đòi thăng quan tấn tước. Nếu phải để cái tên tiểu tử non kém này cùng mình đứng ngồi ngang hàng, thì thật khó chịu vạn phần.

Lương Tiêu từ trong ngực lấy ra một trang giấy, đưa cho Bá Nhan:

- Dược liệu trên giấy này, Nguyên Soái có thể vì tôi cung cấp các vị thuốc này chừng nửa năm không?

Chứng tướng vừa nghe, đều hết sức ngạc nhiên. Bá Nhan tiếp tờ giấy quét mắt qua, vô cùng buồn bã:

- Việc này ngươi cứ cầu xin riêng với ta, ta tiện tay làm là được, hà tất phải lấy làm phần thưởng?

Cau mày lại, hắn lại hỏi lần nữa:

- Chỉ thế này thôi hả?

Lương Tiêu nói:

- Chỉ có thế.

Bá Nhan ngấm ngầm thở dài, quay lại bảo thân binh đem giao cho y quan, hỏa tốc bốc thuốc. Lương Tiêu nghĩ tới A Tuyết có thể xóa được các vết sẹo trên thân thể, khôi phục làn da trong ngọc trắng ngà ngày xưa, trong lòng có một niềm vui khôn tả, không thể nói nên lời.

Lúc này Bá Nhan mục quang như điện, quét nhìn chư tướng, dõng dạc nói:

- Hôm nay phù kiều đã phá xong, hai thành đã bị cách ly. Phàn Thành thấp nhỏ, binh cô, thế yếu, chỉ cần Phàn thành bị phá thì Tương Dương sẽ lập tức trở thành một thành trì cô độc, mau chóng bị hạ. Trừ Lương Tiêu, chúng tướng hãy quay về vị trí, lập tức thống lĩnh quân đội tiến vào vây Phàn Thành.

Chúng tướng nghe lệnh, nhao nhao tỏa đi. Bá Nhan hướng tới Trát Mã Lỗ Đinh hỏi:

- Hồi Hồi pháo(2) làm xong chưa?

- Đã xong hai pháo, hai ngày sau là có thể dùng được.

Bá Nhan cười dài:

- Đất trời trường tồn bảo hộ Đại Nguyên ta rồi! Thưởng cho ngươi hai trăm lạng vàng. Ngươi dẫn người đem pháo vận chuyển đến Phàn Thành, bắn vào tường thành, đánh cho nó nát vụn ra.

Trát Mã Lỗ Đinh ứng thanh, vội vã đi ngay.

Bá Nhan ngoảnh đầu lại, cười bảo Lương Tiêu:

- Ta đoán, quân Tống không còn phù kiều, Lữ Đức nhất định sẽ điều thủy sư sang cứu viện Phàn Thành. Tuy chậm hơn một chút, nhưng cũng không dễ đối phó. Ngươi có cách nào không?

Lương Tiêu trầm ngâm nói:

- Nếu muốn thuyền chiến vận chuyển , thì phải gỡ các lưới đánh cá, nếu không thuyền không thể chèo được.

Bá Nhan hiểu ý:

- Hảo, ta phái ba ngàn người, luân phiên chặt cây gỗ, nếu còn không đủ, lại cho ngươi năm ngàn người và súc vật. Hãy nhớ, phải làm đứt sự tương trợ của hai thành.

Lương Tiêu đáp ứng nhận lệnh.

Một lát sau, tiếng pháo hiệu vang lên, quân lính bắt đầu áp sát Phàn Thành. Bá Nhan xuống khỏi đê, nhảy lên ngựa, đích thân chỉ huy.

Quả nhiên, khi thấy Phàn Thành gặp hiểm nguy, Lữ Đức hỏa tốc gỡ lưới, điều thủy sư chở binh sĩ cứu viện. Vân Thù hiến kế bỏ neo thuyền, dùng xích sắt nối lại, tự tạo thành phù kiều. Lữ Đức lập tức làm theo, điều động một trăm thuyền nối thành một chuỗi, nối liền hai thành.

Lương Tiêu thấy lưới đánh cá đã được gỡ, lập tức hạ lệnh bỏ đi các khối đá buộc, các cây gỗ tròn lần lượt nổi lên mặt nước. Quách Thủ Kính nhấc lồng thả nước, sóng mạnh lập tức mang theo gỗ tròn xông thẳng xuống, khiến đáy các thuyền chiến của Tống quân bị đánh nát từng chiếc, từng chiếc một. Nhất thời nước sông tràn vào, chiến hạm của quân Tống tổn thất nhiều không sao kể xiết.

Lữ Đức và Vân Thù hoảng kinh thất sắc, vội ra lệnh cho thủy quân kéo lưới đánh cá ngăn sông. Lương Tiêu không để cho họ có thời cơ giăng lưới, không ngừng điều gỗ tròn đến, phóng thẳng xuống dưới, quét hết thủy sư Tống. Chỉ một ngày ra công phu, tàu lớn thuyền nhỏ của quân Tống bị cọc gỗ đánh chìm vô số, bị bức lui xuống hạ du.

Trương Hoằng Phạm thừa cơ ngược dòng công kích, Tống quân thủy sư đằng trước có cọc gỗ, đằng sau lại bị pháo bắn, không nghĩ ra được cách gì, nhất thời nhốn nháo chạy trốn, lại sau một đêm kịch chiến, thủy sư quân Tống hoàn toàn bị đánh tan, tàu thuyền tan tác khắp Hán Thủy. Từ đó, Tương Phàn hai thành không thể tương hỗ cho nhau, trở thành cô lập.

Bá Nhan đích thân đốc trận, quân Nguyên không phân ngày đêm, tấn công Phàn Thành. Quân phòng thủ Tương Dương hữu tâm vô lực, lại khó cứu viện. Mấy mươi vạn quân dân thành Tương Dương nhìn sang Phàn Thành, tiếng khóc chấn động trời đất. Lữ Đức gặp phải thất bại to lớn, bi thống vô cùng, nhưng thân làm chủ soái, chỉ còn cách gạt lệ nhẫn chịu, cùng Vân Thù thương nghị một lúc, quyết ý phái mấy tên lính thông thạo thủy tính, lén vượt qua Dĩnh Châu, tiến về triều đình cầu viện.

Ba ngày sau, Hồi Hồi pháo được vận chuyển qua sông Hán Thủy, lắp đặt bên ngoài tường thành của Phàn Thành, cách thành lâu khỏang một ngàn bộ. Lương Tiêu trông ra xa, chỉ thấy cỗ pháo cao chín trượng, dài mười trượng, trong có trụ quay, trước ngắn sau dài, trước dùng xích sắt treo đến mấy vạn cân cư thạch, sau có răng cưa lớn nhỏ mấy chục cái. Hơn mười mấy người nắm lấy chuôi, mượn sức răng cưa, mới đem những hòn đá buộc lại, để đuôi pháo trễ xuống, lắp lên hơn mười tảng cự thạch.

Trong sát na, Trát Mã Lỗ Đinh một tiếng ra lệnh, chúng nhân đồng thời thả tay, xích sắt vội thu lại, tiếng như sấm nổ. Lương Tiêu ở ngoài mấy dặm, vẫn có thể nghe thấy rõ, chỉ thấy trăm cân đá trầm xuống, ba trăm cân đá thì lại bay lên cao, rơi xuống đầu thành Phàn Thành. Đúng lúc đá rơi, quân Tống liền trông thấy một chuyện đáng sợ nhất trong đời. Tiễu lâu nguy nga chỉ trong nháy mắt nát vụn, mấy chục tên lính Tống bị đá đè nát nhừ. Nhất thời, tiếng rung chuyển, tiếng la thảm, tiếng thốt kinh hãi hòa lẫn vào nhau trên đầu thành.

Hai cỗ pháo Hồi Hồi từ mặt đông luân phiên bắn vào Phàn Thành. Trên thành lâu, tất cả đều tan nát, không ai còn đứng được. Tướng lĩnh Tống dẫn bộ và kỵ binh đánh ra ngoài thành, muốn hủy hoaị cỗ pháo, nhưng quân Nguyên đã đề phòng trước hai bên xông vào huyết chiến, quân Tống ít, không địch được nhiều, phải lùi vào thành. Quân Nguyên thấy quân Tống không đủ lực để chống trả, liền đưa cỗ pháo thêm năm trăm bộ vào gần chân thành, đá tảng bắn thẳng vào trong thành, tiếng động như sấm nổ mưa rơi.

Tấn công dữ dội như thế suốt nửa tháng, Phàn Thành chống trả ngày càng yếu ớt. Quân Nguyên thừa thắng lắp vân thê đột nhập vào ngoại vi Phàn Thành. Tám ngàn quân phòng thủ phải lùi vào nội thành. A Lý Hải Nha và Lưu Chỉnh cùng lĩnh đại quân bao vây nội thành.

Lúc này, Lâm An nghe tin Tương - Phàn bị cắt đứt sự tương trợ, vô cùng khiếp đảm. Giả Tự Đạo vội điều mười vạn lục quân và mười vạn thủy quân, lệnh cho Hạ Quý và Phạm Văn Hổ dẫn quân lại cứu viện Tương - Phàn. Bá Nhan nghe được tin tức từ gián điệp bên Đại Tống, thấy thủy sư đã bị phá, bèn gọi Lương Tiêu về, lệnh cho Khâm Sát quân trấn giữ Bách Trượng sơn, cản đường Phạm Văn Hổ, lại ra lệnh cho A Thuật, Sử Thiên Trạch dùng thủy sư phong tỏa thủy đạo bốn mặt, cản trở Hạ Quý.

Hơn mười ngày sau, Phạm Văn Hổ dẫn mười vạn kỵ binh đến gần Bách Trượng sơn. Hắn vốn hèn nhát, lại không muốn đến cứu viện, đến đây chỉ là ra vẻ để sau này báo cáo với triều đình. Tống binh lập tức hạ trại quan sát, cách Tương Phàn năm mươi dặm. Không ngờ Lương Tiêu đã nhận được tin mật báo, dẫn thẳng Khâm Sát quân đến công kích trong đêm. Phạm Văn Hổ lúc này chưa ổn định được doanh trại, vừa bị tấn công đã thất bại. Khâm Sát quân tung hoành trong trận, đánh giết mười vạn quân Tống dữ dội, làm máu chảy thành sông. Phạm Văn Hổ thu thập bại binh hốt hoảng rút về Dĩnh Thành.

Lương Tiêu phán đoán tình hình, quyết định thừa thắng truy đuổi, ra lệnh cho Thổ Thổ Cáp dẫn năm trăm người về trấn giữ Bách Trượng sơn, còn chính hắn thì dẫn hơn một ngàn tinh kỵ Khâm Sát, mỗi người dắt theo hai ngựa, tên bắn năm mươi túi, ba ngày hai đêm, ngựa không rời yên, giáp không cởi bỏ, vượt núi băng đèo chém giết liên tục, tiến lui như quỷ thần, không sao nắm bắt được. Mười vạn quân Tống bị hơn một nghìn quân Khâm Sát đánh tan, hầu như toàn quân đều bị tiêu diệt. Phạm Văn Hổ mặc giả nông dân, ẩn trốn trong núi mới thoát chết. Số binh sĩ chạy được về Dĩnh Châu còn chưa tới một trăm. Trước cảnh thất bại thê thảm ấy, lực lượng trấn thủ Dĩnh Châu đều ớn lạnh.

Lương Tiêu dẫn quân đuổi tới chân thành Dĩnh Châu, quân Tống đóng chặt cửa, chĩa cung nỏ xuống, im lìm lập trận chờ đợi. Lương Tiêu thấy vậy, lại thêm quân mình đã mệt mỏi, bèn giục ngựa quay về. Tướng Tống là Trương Thế Kiệt thấy trận thế như vậy, cảm thấy có cơ hội thủ thắng, bèn mở cổng thành đuổi đánh, nhưng sợ quân Khâm Sát kiêu dũng, bèn đặc phái đến bốn ngàn tinh kỵ, hai ngàn đuổi đằng sau, hai ngàn đánh úp hai cánh.

Lương Tiêu bèn dẫn quân chạy về phía bắc. Quân Tống đeo bám không rời. Quân Khâm Sát đã mấy lần quay lại chực giao chiến, khổ nỗi ít không chọi được nhiều, dần dần có dấu hiệu tan rã. Mãi cho đến khi cách xa bình nguyên Dĩnh thành, quân Tống cuối cùng cũng đuổi tới nơi. Tống quân vừa tấn công là quân Khâm Sát chia làm bốn đội, bỏ chạy tứ tán. Quân Tống xé lẻ truy sát, vô tình làm hỏng trận thế, lúc này Lương Tiêu bèn quay lại rúc tù và, tướng sĩ Khâm Sát vừa phóng điên cuồng vừa đổi ngựa, từ bốn hướng phản kích vào, trận thế Lục Hoa bắt đầu chuyển động, tên bắn như gió táp mưa sa. Ngay tức khắc, bốn ngàn kỵ binh Tống rối loạn, xác người, xác ngựa la liệt khắp núi đồi.

Trương Thế Kiệt đứng trên đầu thành nhìn ra xa, kinh hãi vô cùng, gấp rút dẫn đại quân ra khỏi thành cứu viện. Nào ngờ quân Khâm Sát vẫn rất khí thế. Lương Tiêu vung roi chỉ, đoàn quân đang trở về bèn xông tới tiếp viện, vừa phi thật nhanh, vừa theo hiệu lệnh của Lương Tiêu. Quân Khâm Sát chia ra làm các Lục Hoa trận, sáu tiểu trận kết thành một trung trận, sáu trung trận kết thành một đại trận, đại trận kết thành hình mũi kiếm vươn dài, như một thanh trường kiếm sắc bén, xuyên suốt trung quân Tống dễ như trở bàn tay, ra vào như chốn không người. Toàn thể quân Tống thua chạy tan tác, Trương Thế Kiệt chỉ dẫn được một nhóm sống sót chừng ba ngàn người chạy về Dĩnh Châu.

Đến đây, Lương Tiêu khua roi thu binh, chỉ thấy năm nghìn túi tên sắp cạn, người ngựa tuy vẫn khỏe mạnh nhưng biết thực chất đều đã mệt mỏi vô cùng, khó mà đánh tiếp được nữa. Hắn lập tức hạ lệnh thu binh, trở về đại doanh ở Bách Trượng sơn. Trương Thế Kiệt là danh tướng đương thời nhưng mới hai trận đã tổn thất nghiêm trọng, đành trợn mắt nhìn quân địch mệt mỏi chậm rãi rời đi, mà không dám phái thêm một binh một tốt nào truy đuổi. Sau trận chiến này, quân Tống tổn thất năm vạn, uy thế của đám “Hoàng Mao Quỷ” chấn động Đại Tống đến độ trên Hán Giang một dải, dân chúng thường đem Mao quỷ ra để dọa cho trẻ con nín khóc quấy ban đêm.

Tống tướng Hạ Quý nghe tin bộ binh và kỵ binh của Phạm Văn Hổ thất bại như thế thì một ngày kinh sợ đến mấy lần. Hắn trông thấy thủy sư của Trương Hoằng Phạm đến tấn công, chưa bắn một mũi tên nào đã quay thuyền tháo chạy về Dĩnh Thành, lại thấy thảm trạng Phạm Văn Hổ, trong lòng nghĩ mình rất là may mắn.

Nửa tháng sau, quân Nguyên cuối cùng cũng đột nhập được vào Phàn Thành. Đến lúc này, chiến cuộc giữa hai nước Tống - Nguyên đã duy trì được suốt sáu năm, Phàn Thành thất thủ, Tương Dương hoàn toàn trở thành một thành trì cô độc. Cũng trong tháng ấy, triều đình nhà Nguyên hạ chỉ, vì Lương Tiêu lập được chiến công rực rỡ, lệnh cho làm Khâm Sát quân Tổng Quản. Bá Nhan lại đưa bốn ngàn tinh kỵ Khâm Sát mới chiêu binh nhập vào Khâm Sát doanh, đưa tổng số lên bảy ngàn, binh lực mạnh mẽ độc nhất vô nhị.

Cùng Đồ Mạt Lộ

Hôm sau, Lương Tiêu cắm cọc cách thành Tương Dương chừng hai ngàn bộ, đánh dấu vị trí xây đài. Cùng lúc, quân Tống cũng dỡ nhà lấy gỗ, chế tạo giàn nỏ Thiên Cương phá trận thứ ba để tăng uy lực tấn công. Vân Thù nhìn quân Nguyên lũ lượt chuyển đất đến đắp thì hiểu ngay mục đích của họ, lập tức cho lính đánh phá, hiềm nỗi hai bên cách nhau đến mấy dặm, thay đủ mọi loại tên đạn mà nỏ giàn đều không bắn tới nơi. Lương Tiêu còn phái kỵ binh ra khiêu khích Thiên Cương phá trận nỗ, thử xem cự ly xa nhất đến đâu thì vẽ vạch trắng ở đó, hễ thấy quân Tống vượt qua vạch là xáp lại tấn công, còn chưa thì chỉ đối kháng từ xa bằng cung nỏ.

Trong ba ngày hai bên giằng co, pháo đài cũng được cấp tốc hoàn thành, hiện lên sừng sững trên đồng trống. Đài cao bốn trượng, rộng tám trượng, bên trên còn dựng thêm một bệ gỗ cao bốn trượng, chỉ sáu trượng nữa là ngang bằng với mặt thành. Trát Mã Lỗ Đinh tháo rời Tương Dương pháo, kéo lên đài rồi ráp vào như cũ. Khẩu pháo cao mười trượng, lắp đặt xong đã vượt hẳn bờ tường Tương Dương.

Vân Thù đoán ra ý đồ của quân Nguyên, vội chạy đi báo Lữ Đức. Họ Lữ hoảng hồn dốc hết lực lượng tấn công, Lương Tiêu bèn lập trận chống trả. Hai đạo quân hò hét vang lừng. Chiến binh Khâm Sát dũng mãnh vô song, quân Tống có Vân Thù, Cận Phi và đám hào kiệt phương nam trợ giúp mà vẫn không sao lay chuyển được trận thế của họ. Vân Thù định đưa Thiên Cương phá trận nỗ ra ngoài thành, nhưng giàn nỏ quá kềnh càng, xoay ngang xoay dọc đều không lọt qua cổng. Cấu tạo của nó lại phức tạp, gá lắp rất tốn thời gian, nếu tháo rời đem xuống chân thành ráp lại, chẳng may Lương Tiêu dẫn thiết kỵ lao ập tới như lần trước thì nhất định nỏ sẽ bị phá hủy ngay tại chỗ.

Dưới đồng hai bên lăn xả vào chém giết, trên đài cao pháo đã chuẩn bị xong. Tương Dương pháo đối mặt với Tương Dương thành, vị thế hai bên hoàn toàn đảo ngược. Khẩu pháo ung dung chĩa xuống, thay vì phải ngóc lên cao như xưa.

Trát Mã Lỗ Đinh phát lệnh khai hỏa. Quân Nguyên thả một khúc gỗ nhồi đầy thuốc nổ và phết dày dầu mỡ vào lưới, châm lửa bắn. Khúc gỗ nhẹ vạch một đường sáng rực trên không, băng qua khoảng cách hai ngàn bộ, lao vù về phía thành Tương Dương. Lửa mạnh bắt dầu cháy rất nhanh, xuống gần vọng lâu, nó đã ăn qua lớp vỏ gỗ, liếm vào phần thuốc nổ bên trong. Khúc gỗ kêu “đoành” một tiếng như pháo Tết, vọng lâu bốc cháy phừng phừng.

Lữ Đức vội vã cứu hỏa, nhưng quân Nguyên liên tục bắn pháo, cứu chữa không kịp, ngược lại rất đông binh lính bị thương thêm. Chưa đến một canh giờ, mặt thành Tương Dương đã cháy ngùn ngụt như biển lửa. Ba giàn nỏ Thiên Cương phá trận đều gắn cố định tại chỗ, không di chuyển ngay được, hứng một đợt pháo hỏng mất hai. Vân Thù liều chết dỡ giàn cuối cùng xuống, nhưng phần lẫy đã bị cháy, dễ phải mất nhiều thời gian mới sửa xong.

Pháo kích liên miên mấy ngày, quân Tống thương vong nặng nề. Khi cỗ pháo thứ hai hoàn thành, Lương Tiêu đưa nó vào gần mục tiêu hơn một ngàn bộ, trong lúc đó cỗ thứ nhất vẫn tiếp tục oanh tạc, gây sức ép ngăn cản quân Tống lắp lại Thiên Cương. Với sự bảo vệ của quân Khâm Sát, một đài cao sáu trượng được đắp lên để đặt cỗ pháo mới.

Pháo mới lắp xong liền phát huy tác dụng cao độ. Hàng trăm cân đá tảng cứ tạt thẳng vào thành Tương Dương như sét đánh. Đã mấy lần Vân Thù dẫn bọn hào kiệt phương nam lao ra khỏi thành toan cướp pháo, song phương huyết chiến đến hơn chục trận, nhưng quân Tống mỗi đánh mỗi bại, không tài nào địch nổi thiết kỵ Khâm Sát.

Trước sự chống trả ngoan cường của đối phương, Lương Tiêu quyết định phải dùng biện pháp cứng rắn hơn. Gã cho thợ mộc đẽo những con lăn thật to, khoét rỗng ruột, nhồi đầy thuốc nổ, châm lửa xong bắn vào thành. Thứ đạn bắn này gọi là Mộc phích lịch[1], hễ phát nổ là hủy diệt hoàn toàn sự sống trong phạm vi ba mẫu xung quanh, uy lực khủng khiếp gấp nhiều lần Chấn thiên lôi của quân Tống.

Sau hai ngày đêm tấn công dai dẳng, sáng tinh mơ ngày thứ ba, một phát Mộc phích lịch bắn trúng kho hỏa khí của Tương Dương, đâm thủng mái kho, dẫn nổ toàn bộ quân dụng bên trong. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc làm rung chuyển cả thành trì, phá nát mọi vật xung quanh, gây chấn động đến hơn trăm dặm. Lửa được thế gió mau chóng lan rộng, cháy rừng rực khắp thành Tương Dương.

Kho hỏa khí cháy rụi hoàn toàn, kho lương thảo bị thiêu hủy gần hết. Hơn một vạn dân chúng mất nhà mất cửa, rơi vào cảnh ăn gió nằm sương, khóc gào náo loạn. Quân Nguyên thừa thế từ hai hướng tây và nam tiến công Tương Dương, quân Tống chật vật chống cự. May thay, khi bộ binh Nguyên triều sắp leo được lên mặt thành thì Vân Thù đã sửa xong Thiên Cương phá trận nỗ, vừa kịp đem bắn cản bước kẻ thù. Lúc này Dĩnh thành mới nhận được tin khẩn của Tương Dương, Trương Thế Kiệt vội tiến quân cứu viện, nhưng bị A Truật đánh lui hết lần này đến lần khác. Tương Dương lâm vào cảnh ngộ tuyệt vọng hoàn toàn.

Từ lúc thi hành biện pháp mạnh, Lương Tiêu vẫn áy náy không yên. Sau hôm tiêu diệt được kho hỏa khí, nghe tiếng dân chúng khóc than nháo nhác, gã đâm chột dạ, hạ lệnh ngừng dùng Mộc phích lịch, chỉ nạp đá tảng bình thường bắn lên đầu thành. Khổ chiến dằng dai như thế, Tương Dương tiếp tục cầm cự được thêm một tháng.

.

Mùa đông rét mướt tràn tới, thời tiết mỗi ngày một lạnh, tuyết đổ lấp xấp, bay phiêu phất trên đất Tương Phàn. Chỉ sau mấy đêm, không gian đã nhuộm một màu trắng toát. Bị cướp đi mái ấm che thân cũng như lương thực thực phẩm, vô số người chết vì đói, vì rét, nhiều người may mắn sống sót thì nghĩ quẩn, bắt đầu vật các xác chết ra nấu ăn.

Lương Tiêu đánh mãi không hạ được thành, thường băn khoăn tự hỏi không hiểu Tương Dương còn sức mạnh bí mật gì mà vẫn khăng khăng chống cự. Một hôm, gã trèo lên đỉnh pháo nhìn sang quan sát tình hình, chợt chứng kiến hành động rùng rợn đó thì choáng váng như bị sét đánh. Từ lúc hạ quyết tâm công phá tòa thành hòng bắt giết Vân Thù, gã chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ gián tiếp tạo nên một thảm cảnh như vậy. Nhất thời, Lương Tiêu đứng chết trân trên đỉnh pháo, vừa ăn năn vừa căm hờn, đồng thời không lý giải nổi vì sao đã đến nước này mà quân Tống còn ngoan cố tử thủ không hàng. Thẫn thờ hồi lâu, gã tụt xuống khỏi pháo đài, cưỡi ngựa đến gặp Bá Nhan, thỉnh cầu chiêu hàng Lữ Đức.

Bá Nhan nghe Lương Tiêu thuật lại, suy nghĩ một thoáng rồi triệu các tướng vào trướng thương nghị. Lưu Chỉnh vẫn ôm mối hận trúng tên hôm trước, cứ điều một điều hai là phải bắn tan tành Tương Dương, giết sạch dân chúng mới hả dạ. Đa số tướng lĩnh chôn chân ở đất này đã lâu, vất vả đã nhiều, cũng muốn nhân cơ xả giận nên cùng gật đầu hưởng ứng. Chỉ có Sử Thiên Trạch và A Lý Hải Nha là không nói một lời, nét mặt nặng nề.

Lương Tiêu thấy mọi người đều tán đồng Lưu Chỉnh thì rất bức xúc, lớn tiếng hỏi:

- Người sống hữu dụng hay là xác chết đây, hả? Đập vỡ bát sứ thì ai chả làm được, nhưng mấy kẻ biết nặn một cái cho ra hồn? Hủy hoại thành trì sẽ rất nhanh thôi, nhưng bao lâu mới có thể tái kiến thiết?

Các tướng nghe phân tích hợp lý, tự dưng đắn đo.

Lưu Chỉnh thực ra chỉ nói bừa cho đỡ tức, nào ngờ Lương Tiêu còn trẻ, tính tình nóng nảy nên phản ứng gay gắt, khiến họ Lưu ngượng quá hóa giận. Y đường đường là đại tướng, chiến công hiển hách, đời nào cho phép một tên tiểu tử trèo đầu cưỡi cổ mình, bèn sừng sộ mắng ngay:

- Ngươi thì hiểu cái gì? Hôm nay làm cỏ Tương Dương, ngày mai các thành trì khác đều táng đởm kinh hồn, không ai dám chọc giận đại quân ta nữa. Ngươi chẳng qua mới nhập ngũ dăm ba bữa, lập được một dúm công lao mà tưởng mình ghê gớm lắm sao? Hừ, thời lão phu thống lĩnh thiên quân vạn mã đánh đông dẹp bắc, ngươi còn bú tí mẹ kia kìa!

Lương Tiêu cười nhạt:

- Đã nói thì nói rõ hẳn ra, ông thống lĩnh thiên quân vạn mã nào? Tống hay Nguyên? Ông phản bội Đại Tống thì được, mà người khác đầu hàng Nguyên triều thì không được hay sao?

Những lời cay độc ấy làm các tướng tái mặt. Bá Nhan quát:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu giật mình, tạm thời ngừng lại. Lưu Chỉnh nhảy nhổm lên như phải bỏng, mặt mày xanh lét.

- Chỉnh này sống nửa đời người, hôm nay mới biết có thứ hậu sinh vừa nứt mắt mà miệng lưỡi đã đầy nanh nọc! Tre già măng mọc, Lưu mỗ không những già lại còn vô dụng, đành nhường thiên hạ cho người trẻ tuổi vậy! Mong Đại Nguyên soái rón tay làm phúc để thuộc hạ được về quê cày ruộng!

Lưu Chỉnh ngoài miệng nói nhún, thực chất đầy ý hăm dọa: “Hoặc là Lưu Chỉnh này đi, hoặc là Lương Tiêu bị phạt. Bá Nhan, ngươi hãy tự chọn đi!”.

Bá Nhan không trả lời thẳng, chỉ gọi:

- Na Tốc!

Một thân binh đáp lời bước ra. Bá Nhan nghiêm nghị nói:

- Lột mũ áo Lương Tiêu, đánh ba trăm hèo thật nặng rồi treo lên cổng doanh thị chúng một ngày.

Na Tốc vâng lệnh, cùng các thân binh khác chạy lên định bắt giữ. Lương Tiêu một tay chống nạnh, quát to:

- Kẻ nào dám?

Đám quân sĩ biết gã kiêu dũng tuyệt luân nên tạm thời chưa dám đến gần. Bá Nhan biến sắc, lừ lừ đứng dậy:

- Ngươi dám chống lệnh ta ư?

Tất cả đều nín thở. Chống lại quân lệnh, chỉ có một con đường chết!

Lương Tiêu cao giọng:

- Tôi chả làm gì sai cả!

A Truật thấy gã quá ương bướng, chỉ sợ tình hình xấu thêm, vội khuyên nhủ:

- Kẻ cưỡng lệnh Nguyên soái sẽ bị chém đầu, không cân nhắc nhiều.

Lương Tiêu vẫn khăng khăng:

- Tôi chả làm gì sai!

A Truật mắng:

- Ngươi ăn nói ngông cuồng, là kẻ dưới mà vô lễ với người trên, chẳng sai thì đúng vào đâu? Đã tòng quân phải trọng kỷ luật. Thổ Thổ Cáp hiểu, Lý Đình cũng hiểu, vậy mà ngươi không hiểu hay sao?

Lương Tiêu nghe giọng A Truật, hiểu ngay điều y ngầm nhắn nhủ. Gã chết là yên phận gã, nhưng còn A Tuyết và đám bạn bè đang ở trong doanh trại, tất đều bị liên đới.

Lương Tiêu cụp mắt xuống, muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu, sự hung hăng lúc trước dần dần bay biến cả. Đám thân binh chực tiến lại, gã nghiến răng bảo:

- Để ta tự làm lấy! – Đoạn bỏ mũ cởi giáp, bước ra khỏi trướng.

Binh sĩ ùa lại ấn dúi gã xuống, tiếng gậy vụt đen đét vang lên. Bá Nhan lắng nghe một lúc, chợt cau mày bảo:

- Na Tốc, mạnh tay vào, nếu không sẽ bị xử theo quân pháp!

Quả vậy, Na Tốc biết Bá Nhan và A Truật rất yêu mến Lương Tiêu nên cố ý nương nhẹ, ngờ đâu Bá Nhan là cao thủ võ học, vừa nghe đã phân biệt ngay thực giả. Na Tốc vâng lời, đành toàn lực nện xuống.

A Truật nghe tiếng gậy nặng hẳn, chỉ sợ Lương Tiêu có bề gì, vội van nài:

- Bẩm thừa tướng, bây giờ Tương Dương chưa…

Bá Nhan quát:

- Im ngay! Nếu không phải tại ngươi dung túng, tên tiểu tử ấy dám ngang ngược thế không?

A Truật nghe thét, nín thít ngồi xuống. Lưu Chỉnh thấy Bá Nhan giữ thể diện cho mình, cũng hài lòng quay lại chỗ ngồi, nghiêng tai lắng nghe, tự đắc nghĩ: “Đánh mạnh thật! Chịu đủ hình phạt xong chắc cũng thân tàn ma dại. Nhưng hắn là ái tướng tâm phúc của A Truật, chiến công lừng lẫy, rủi có mệnh hệ gì, chỉ e A Truật sẽ để bụng thù mình. Bản thân mình là hàng tướng, vốn đã thiếu bè cánh cội rễ ở triều ca, trong khi gia đình A Truật ba đời danh tướng đánh đông dẹp bắc uy chấn vạn dặm, chẳng may để y đem lòng oán hận, rắp tâm trừ diệt thì mình gay go to”.

Họ Lưu già đời từng trải, suy nghĩ chín chắn, bụng dạ thâm sâu, lập tức vuốt râu lặng lẽ đếm cho đủ một trăm hèo mới từ tốn đứng dậy, vòng tay cười nói:

- Bẩm Nguyên soái, Lương tướng quân trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, khó tránh khỏi có lúc nông nổi. Bây giờ chưa diệt được Đại Tống, còn cần nhiều sức người. Suy cho cùng Lưu Chỉnh cũng có chỗ không phải, mong Nguyên soái tha cho Lương tướng quân lần này.

Bá Nhan không muốn làm họ Lưu bẽ mặt, bèn bảo:

- Lưu đại nhân đã khoan dung độ lượng như vậy, thôi thì tha phạt đòn Lương Tiêu, nhưng nhất định phải treo hắn lên thị chúng một ngày.

Bá Nhan biết Lương Tiêu tâm cao khí ngạo, đem gã ra bêu xấu còn khiến gã khó chịu hơn bị đánh roi gấp bội, nhưng nếu không tỏ ra nghiêm khắc, cái tên cứng đầu cứng cổ coi thường thiên hạ ấy sẽ mỗi ngày một vô kỷ luật, có khi đến lúc bắt buộc phải xử hắn tội chết không chừng. Y bèn sai Na Tốc trói Lương Tiêu lên cột cờ, muốn gã chịu nhục để nhụt bớt ngạo khí đi.

Lưu Chỉnh được thỏa mãn cả hai đằng, vô cùng hả hê, vuốt râu cười nói:

- Vừa rồi quả tình tôi có hơi mất kiềm chế, nghĩ đi nghĩ lại, chiêu hàng vẫn là thượng sách.

Các tướng đều bực: “Đúng là lưỡi không xương trăm đường lắt léo, gió hướng nào lựa hướng ấy che”.

Sử Thiên Trạch lúc này mới lên tiếng, giọng ôn hòa:

- Lưu đại nhân nói rất đúng. Từ cổ chí kim, công thành là hạ sách, công tâm là thượng sách, không đánh mà khuất phục được địch thủ mới là cảnh giới tối thượng của binh gia. Hiện nay lòng người Tương Dương đang dao động, chính là thời cơ tốt để chiêu hàng.

Họ Sử tuổi tác đã cao, công lao cũng lắm, lời nói lại đầy sức thuyết phục, ai nghe cũng phải gật đầu. Lưu Chỉnh phất tay áo, cười nhạt:

- Lưu mỗ kiên quyết không đi.

Bá Nhan trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi:

- Muốn Lữ Đức tin thì phải cử một đại tướng có uy tín, ai đồng ý đi?

Sử Thiên Trạch cau mày im lặng. A Truật ngập ngừng. A Lý Hải Nha chợt đứng dậy:

- Tôi đi!

Bá Nhan nhìn sang ra ý hỏi. A Lý Hải Nha nói rành mạch:

- Lần trước tôi vào yết kiến thánh thượng, người có dạy: “Trong những kẻ chinh phục Giang Nam thì Tào Bân thời Tống Thái Tổ là viên đại tướng xuất sắc nhất. Ông ta bình định được dải đất ấy mà giết rất ít người. Nếu ngươi không tàn sát mà vẫn đoạt được Giang Nam thì ngươi cũng chính là Tào Bân của ta vậy”. Tôi nhớ nằm lòng lời thánh thượng, càng ngẫm càng thấm thía. Dân Mông Cổ, Sắc Mục chúng ta, lẽ nào không bằng người Hán?

Bá Nhan gật đầu:

- Thánh thượng dạy rất phải, nhưng chuyến đi này quả thực quá hung hiểm!

A Lý Hải Nha nói ngay:

- Tôi biết. Nhưng nếu đánh đổi sinh tử của bản thân mà cứu sống được cả một thành trì thì cũng chẳng phải công đức to lớn gì cho lắm. – Y mỉm cười. – Hơn nữa, tôi không nghĩ Lữ Đức dám nặng tay với tôi khi đang lâm vào hoàn cảnh bi đát thế kia.

Bá Nhan bóp trán suy nghĩ. A Lý Hải Nha cười:

- Nếu Nguyên soái vẫn chưa yên tâm thì phái thêm một người hộ tống, nhất định hắn sẽ đảm bảo cho tôi bình yên vô sự.

- Ai? – Bá Nhan ngẩng lên.

- Lương Tiêu.

- Thật thế ư? – Bá Nhan ngạc nhiên.

- Mạng tôi còn là nhờ Lương Tiêu vượt bao sống chết cứu khỏi tay người Tống. Với bản lĩnh của hắn, cho dù cả vạn mũi tên từ trên thành trút xuống cũng chưa chắc làm tôi sứt mẻ được.

Bá Nhan ngần ngừ:

- Hắn đang phải chịu hình phạt!

A Lý Hải Nha mỉm cười:

- Vậy thì mong Nguyên soái rón tay làm phúc!

Lưu Chỉnh toát mồ hôi, bụng bảo dạ: “Hú hồn hú vía, thiếu chút nữa là đắc tội cả với A Lý Hải Nha”. Bá Nhan phì cười:

- Ngươi vòng vèo mãi hóa ra cốt xin hộ hắn à? Được, nể mặt bách tính thành Tương Dương, ta tha cho hắn để đi hộ tống ngươi.

A Truật lầu bầu:

- Lĩnh ngần ấy hèo, chả chắc còn cưỡi ngựa nổi không!

Bá Nhan lắc đầu:

- Dăm ba roi thế thì hề hấn gì với hắn! A Lý Hải Nha, ngươi thả Lương Tiêu xuống, dẫn hắn theo sang Tương Dương.

Y bảo A Lý Hải Nha thả Lương Tiêu, ngụ ý là muốn Lương Tiêu cảm ơn đức ấy mà sẵn sàng liều chết báo đáp.

A Lý Hải Nha cưỡi ngựa ra cổng doanh, thấy binh lính đang xúm đông xúm đỏ, một số đứng gần cột cờ, chỉ chỉ trỏ trỏ. Lương Tiêu bị trói trên cao, mắt khép hờ, mặt lầm lì. A Lý Hải Nha than thầm: “Nguyên soái dùng cách này hơi quá đáng, một đại tướng bị lăng nhục trước ba quân thì mai sau làm sao để binh lính khâm phục?”. Y vội bảo thân binh giãn đám đông, tuyên lệnh Bá Nhan thả Lương Tiêu xuống.

Lương Tiêu nội lực thâm hậu, lĩnh đòn roi cũng chẳng đau đớn mấy, chỉ căm giận vì bị làm nhục. Đang lúc hờn oán ngập lòng, nghe tin Bá Nhan chấp nhận kế sách dụ hàng, gã mới cảm thấy dễ chịu đôi chút.

Hai người cưỡi ngựa sang Tương Dương. Bọn Thổ Thổ Cáp nghe nói chuyến đi đầy hung hiểm thì lẵng nhẵng đi theo, nhưng bị Lương Tiêu quát về hết. Khi Lương Tiêu và A Lý Hải Nha đến chân thành, bên trên tên nỏ đã chĩa ra tua tủa, ngắm sẵn vào bọn họ.

A Lý Hải Nha hít một hơi, định thần gọi to:

- A Lý Hải Nha, Hữu thừa Nguyên triều cầu kiến Lữ Đức đại nhân.

Lữ Đức vẫn lấy làm thắc mắc về việc quân Nguyên ngừng pháo kích. Lúc này y đang đứng lẫn trong đám sĩ tốt, nghe A Lý Hải Nha xưng danh thì cau mày, vội giơ tay ngăn Vân Thù bắn tên:

- Ta đây! Hải Nha đại nhân, ông đến dụ hàng chứ gì?

A Lý Hải Nha đáp:

- Đúng, hiện tại Tương Dương hoàn toàn trơ trọi, mọi mối liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Bách tính trong thành đói rét cùng quẫn, người người ăn thịt lẫn nhau, hoàn cảnh tuyệt vọng đến thế, tướng quân không hàng thì còn đợi tới bao giờ?

Lữ Đức trầm giọng:

- Nhà ta đời đời hưởng lộc Đại Tống, nay gánh trọng trách Thái thú Tương Dương, sẵn sàng da ngựa bọc thây, sống chết với thành để báo đáp ơn vua. Hải Nha đại nhân, ta không bắn ông. Hãy về mau đi, chỉ mong khi phá thành, đại nhân nể việc hôm nay mà nhẹ tay với bá tính, đừng giết chóc nhiều! Được thế thì Lữ mỗ cảm kích khôn cùng!

A Lý Hải Nha toan lựa lời thuyết phục thì Lương Tiêu thét lớn:

- Lữ đại nhân, ông đã muốn chết thì chết ngay đi!

Tướng sĩ trên thành nổi giận, A Lý Hải Nha sững sờ tự nhủ: “Thôi hỏng, chữa lợn lành thành lợn què rồi. Ta không nên cho hắn theo mới phải”. Vân Thù chuẩn bị bắn tên, Lữ Đức trầm giọng bảo:

- Khoan, nghe hắn lải nhải xong rồi giết cũng chưa muộn!

Lương Tiêu nói:

- Chắc ông muốn chết mà vẫn được lưu danh sử sách chứ gì? Tính toán hay lắm, ông chết thì còn thanh danh, nhưng dân chúng thành này chết rồi thì còn lại cái gì? Bặt tiếng vợ dịu dàng thủ thỉ, vắng con thơ ríu rít nô đùa, cha mẹ hiền từ mất cả, bạn bè vui vẻ không còn… Họ chết rồi thì chỉ còn xương trắng mà thôi.

Quân dân trên thành cùng biến sắc, không ai nén được nỗi thê lương.

Lữ Đức nổi giận mắng xuống:

- Đồ kẻ cướp chó má kia, ta tha chết mà ngươi lại dám cuồng ngôn để rối loạn lòng quân ta!

Y giơ tay, các cánh cung nhất loạt kéo căng. Lương Tiêu cười nhạt:

- Lòng quân cái con khỉ. Trong vòng mười ngày nữa thôi, Tương Dương sẽ bị phá. Ngươi mắng ta là cướp, nhưng có biết đâu chính bản thân ngươi cũng là một tên kẻ cướp đối với dân đen! Cướp thường chẳng qua chỉ nhằm lúc tối trời mưa gió đào tường khoét ngạch nẫng ít vàng bạc đổi lấy sự phè phỡn nhất thời, còn ngươi mồm hô khẩu hiệu trung hiếu nhân nghĩa, bụng lại rình rình ăn mòn tính mạng muôn dân để đổi lấy tiếng thơm thiên thu vạn tải của mình.

Từ lúc chứng kiến cảnh ăn thịt người gớm ghiếc, Lương Tiêu dằn vặt suốt về quyết định phá thành Tương Dương. Hôm ở núi Phục Ngưu gã đã từng thề độc diệt Tống, nay mà mủi lòng bỏ cuộc thì lại thành nuốt lời thề. Phá hay không phá? Gã đang khổ sở với nan đề ấy thì nghe Lữ Đức quyết ý tử thủ, giận quá không nhịn được bèn tuôn lời khích bác. A Lý Hải Nha tim đập chân run, bụng bảo dạ: “Thôi thôi, hắn đã cứu ta một lần, mạng này đành trả cho hắn vậy!”.

Quân Tống trên thành cũng bị Lương Tiêu tác động, bắt đầu xôn xao bàn tán. Vân Thù nóng nảy xen vào:

- Kẻ này không đáng tin. Mong Lữ đại nhân mau hạ lệnh bắn chết hắn, tránh để hắn nói năng nhăng nhít làm dao động lòng quân.

Lữ Đức thẫn thờ hạ tay xuống, trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- Từ thời Thành Cát Tư Hãn tới nay, quân Nguyên có thói quen cướp bóc tàn sát bằng hết sau khi hạ xong một thành trì. Các ông bị Tương Phàn cầm chân mười năm trời, hao công mất sức, thương vong vô số, ắt không khỏi ôm lòng oán hận. Hải Nha đại nhân, nếu ta đầu hàng, ông có dám đảm bảo rằng đồng đội ông sẽ không giết bất cứ một binh sĩ hay một dân lành nào của Tương Dương không?

A Lý Hải Nha thở phào, đáp:

- Thánh thượng nói hễ các ông chịu hàng, chúng ta sẽ không xâm phạm dẫu là chân tơ kẽ tóc. Lẽ ra ta có thể đưa thánh chỉ ra chứng minh, nhưng trên đường mang về đã bị người áo trắng bên cạnh ông cướp mất, ông hỏi hắn mà xem!

Lữ Đức nhìn Vân Thù. Vân Thù miễn cưỡng thừa nhận:

- Tôi xem thánh chỉ đấy rồi, Hoàng đế Thát quả tình có viết vài lời đẩy đưa xoa dịu để dụ hàng đại nhân!

Lữ Đức cau mày suy nghĩ. Lương Tiêu thấy y đã dao động, bèn rút một mũi tên ra hỏi:

- Ông có biết lời thề độc nhất của người Nguyên là gì không?

Lữ Đức nhìn xuống:

- Là bẻ tên thề!

Lương Tiêu bèn đưa mũi tên cho A Lý Hải Nha. A Lý Hải Nha gật đầu:

- Được! – Y giơ mũi tên lên cao. – A Lý Hải Nha xin thề với trời đất, chỉ cần Lữ đại nhân đầu hàng, ta dùng tính mạng mình đảm bảo sự an toàn cho tất cả quân dân thành Tương Dương. – Nói đoạn y bẻ gãy đôi mũi tên, ném xuống đất.

Lữ Đức hơi đổi sắc mặt, thở dài bảo:

- Để Lữ mỗ suy nghĩ đã, ba ngày nữa ta sẽ có câu trả lời cho đại nhân.

A Lý Hải Nha gật đầu, cùng Lương Tiêu quay ngựa về bẩm báo. Bá Nhan ra lệnh cho các tướng chuẩn bị vũ khí, nếu sau ba ngày mà Lữ Đức không đầu hàng thì dốc toàn lực tấn công, nhất quyết phá thành.

Đêm hôm đó trong thành Tương Dương, tướng lĩnh Tống tranh cãi không dứt, có kẻ cho rằng sự thể đã đến nước này, đành phải đầu hàng, có kẻ khăng khăng kiên cường đến chết để giữ tiếng thơm. Lữ Đức ngồi một mình trên lầu thành nhìn về phía nam, đập vào mắt y là đèn đuốc sáng trưng trong doanh trại quân Nguyên và thuyền chiến san sát trên sông, lòng y buồn khổ khó tả.

Từ khi búi tóc tòng quân tới nay, Lữ Đức đã khổ chiến nửa đời người, đánh từ Hợp Châu đến Tương Dương, di chuyển liên tục mấy ngàn dặm, tử thủ suốt mười năm, tuy biết khó lòng tránh được cục diện hôm nay, nhưng y luôn quyết chí tử thủ với thành. Vậy mà khi ngày ấy đến thực, y lại không biết nên xử sự thế nào. Đầu hàng thì mất tiết tháo, không đầu hàng thì coi như chôn sống hàng vạn dân chúng trong thành. Hàng hay không hàng? Hai ý nghĩ giằng xé tim y. Đột nhiên, chuyện mấy chục năm trước bỗng trở về trong trí óc, nhớ năm xưa sát cánh bên Văn Tĩnh đánh lui cường địch, giết chết đại hãn Mông Cổ dưới chân thành Hợp Châu, nhớ những buổi yến ẩm đối ca, y lại nhướng mày thở dài. Tình thế hiện tại quẫn bách quá đỗi, sống chết hai đằng đều khó quyết.

Y ngửa mặt nhìn trời, không nhịn được nghẹn ngào khóc than: “Hoài An, Hoài An, người ở đâu? Đại Tống vua hèn quan gian, phụ lòng trung của Lữ Đức, muốn báo đền nợ nước cũng chật vật biết bao. Nếu có người ở đây thì làm gì đến nỗi này? Hoài An, người ở đâu? Có nghe thấy Lữ Đức gọi không?”. Nước mắt viên tướng lã chã tuôn rơi, thấm ướt chiến bào.

Chợt có người hỏi:

- Lữ đại nhân phải không?

Lữ Đức luống cuống gạt lệ, quay ra thấy Vân Thù và Cận Phi đang đi tới. Y đứng dậy. Cận Phi vòng tay hành lễ:

- Đại nhân định thế nào?

Lữ Đức lắc đầu im lặng. Cận Phi hạ giọng:

- Đại nhân đừng để bọn chúng lung lạc.

Vân Thù tiếp lời:

- Đúng thế, quân Nguyên hung tàn vô đạo, không nên tin tưởng chúng.

Cận Phi lắc đầu:

- Điều cốt yếu không phải ở quân Nguyên, mà ở bản thân Lữ đại nhân. Người đời có câu: “Sống chết là chuyện nhỏ, tiết tháo là chuyện lớn”. Từ xưa tới nay các bậc trung liệt đều lưu danh sử xanh, những kẻ đầu hàng bị phỉ nhổ đời đời. Trương Công Tuần thời Đường tử thủ Thư Dương, tuy thành bị phá, bản thân ông ta hi sinh, nhưng ngàn năm sau vẫn còn có người tế bái. Bọn phản bội thì có kẻ nào được hậu thế nhớ tới đâu? Đại nhân sống chết với thành đến nay kể cũng đã lập công đức vô lượng cho Đại Tống, tiến một bước thì vẹn danh thơm, lui một bước thì sẽ để lại hai chữ gian thần trong sử sách. Cố gắng tới lúc này rồi, đừng để kiếm củi ba năm thiêu một giờ.

Lữ Đức liếc y, điềm tĩnh nói:

- Nhưng nếu ôm khư khư lấy bó củi ấy thì phải đốt thay bằng bao nhiêu xương máu của nhân dân toàn thành?

Cận Phi cười nhạt:

- Nếu đại nhân lùi một bước thì xương máu của bách tính hậu phương cũng sẽ bị đốt trụi. Thêm nữa, cổ nhân có câu: Khuyên người chớ nhắc chi chức tước, Một tướng danh thành vạn cốt khô[2]. Đại nhân đã là tướng tòng quân, cũng nên hiểu đạo lý này mới phải.

Mắt Cận Phi rực sáng, giọng nói mỗi lúc một gay gắt. Vân Thù siết chặt đốc kiếm, mắt đảo rất nhanh. Lữ Đức giật mình. Bao nhiêu năm ứng biến sa trường đã luyện cho y khả năng cảm nhận hết sức nhạy bén. Nhìn thần sắc hai người, y đã đoán được ba bốn phần. Quả thực, Cận Phi thấy Lữ Đức dao động nên cố ý đến dò xem ý tứ y thế nào, nếu y hé ra nửa chữ “hàng” thôi, họ Cận sẽ lập tức cùng Vân Thù uy hiếp y, buộc y tử thủ.

Lữ Đức cân nhắc rất nhanh, vụt đứng bật dậy, bước vài bước rồi nói:

- Cận Phi huynh nói đúng lắm, Lữ mỗ đã quyết! Tận trung báo quốc, ngọc vỡ còn hơn ngói lành, nhất định sẽ sống chết với Tương Dương. Chỉ có điều…

Cận Phi nghe giọng Lữ Đức dứt khoát thì rất mừng:

- Thái thú có gì khó khăn chăng?

Lữ Đức đáp:

- Thiếu thức ăn áo mặc, khí cụ công thủ cũng sắp cạn rồi. Cứ thế này mãi thì Tương Dương sớm muộn cũng bị phá, mà bị phá thì có khác gì đầu hàng đâu? Ta sở dĩ rầu rĩ không vui chính là vì việc này.

Cận Phi và Vân Thù nhìn nhau, cùng cau mày buồn bã. Lữ Đức lại nói:

- Mấy năm nay ta giữ Tương Dương, chỉ có Vân công tử và Cận môn chủ là vượt được phong tỏa vào thành, hừm… – Y ngừng lại, vẻ lưỡng lự.

Cận Phi khẳng khái nói:

- Việc nghĩa không thể từ nan, tôi cũng có ý đó. Mong Lữ đại nhân viết một bức thư cho đại tướng Dĩnh thành. Tôi và Thù nhi sẽ lập tức dẫn thủy quân ra ngoài, dùng Thủy cầm ngư long trận vận chuyển lương thảo khí giới vào tiếp viện Tương Dương.

Lữ Đức trù trừ:

- Vân công tử là trợ thủ đắc lực của ta, công tử mà đi, coi như Lữ mỗ mất một cánh tay. Vả chăng Lưu Chỉnh đã đặt thủy trận ở Phàn Thành, dòng Hán giang đang bị quân Nguyên khống chế, bơi ra không phải dễ.

Vân Thù nói:

- Thủy cầm ngư long trận biến hóa rất vi diệu, phi tôi không ai điều khiển nổi. Nếu đường thủy khó khăn thì chuyển lên bộ, chúng tôi sẽ mang ít người hơn, tận dụng bóng đêm để ra khỏi thành. Mong Thái thú gắng giữ thêm một tháng nữa, đợi tôi luyện xong trận thế.

Lữ Đức lại kê ra một số nguy hiểm khác, hai huynh đệ Thần Ưng môn vẫn kiên quyết ý định đi tìm quân tiếp viện, cuối cùng y đành đồng ý. Vì tình hình khẩn cấp, luôn đêm ấy Cận Phi triệu tập nhân thủ, cùng Vân Thù, Phương Lan thắt dây thừng vào hông, nhảy ra ngoài thành.

Lữ Đức nhìn theo toán người cho đến khi bóng họ tan nhòa trong màn đêm, bỗng thở dài quỳ xuống đất, nghẹn ngào nói:

- Vân công tử, tình thế khốn quẫn không thể cứu vãn được nữa. Lữ mỗ suy nghĩ rất lung, cuối cùng vẫn không nhẫn tâm hãm chết con dân trong thành. An nguy của hậu phương đành giao phó cho công tử vậy.

Nước mắt hai hàng, y lạy theo hướng đám hào kiệt ba lạy, đoạn đứng dậy, nói với tên thân binh đang ngơ ngác:

- Truyền ý ta: niêm phong các kho, phá hủy Thiên Cương phá trận nỗ. Ra lệnh cho ba quân: giờ ngọ ba khắc ngày mai mở cổng thành đầu hàng!

.

Lương Tiêu từ trướng soái trở về doanh trại, lồng ngực trĩu nặng, tâm trạng buồn bực khôn tả. Tiếng khóc than của bách tính Tương Dương cứ văng vẳng bên tai, hễ nhắm mắt là cảnh tượng bi thảm lại lồ lộ hiện lên trước mặt. Gã thầm nghĩ: “Đại Tống có muôn vạn thành trì, lẽ nào mỗi khi công thành đều nổ ra chiến tranh? Trên sa trường, lính đánh lính, tướng đánh tướng, một sống một chết đã đành, nhưng tại sao lại để liên lụy đến những người dân vô tội? Binh thư viết: không đánh mà khuất phục được kẻ địch là cảnh giới tối thượng của binh gia, nhưng thực tế có phương pháp nào không đánh mà thắng, bảo đảm an toàn cho bách tính không?”. Gã vò đầu bứt tai hồi lâu, vẫn không nghĩ ra kế nào toàn vẹn cả. Trong lúc khổ sở, một mối nghi ngại bỗng nhen nhóm: “Ta thề độc diệt Tống, lẽ nào là sai…”. Nhưng mối nghi ngại vừa manh nha đã tắt lịm ngay: “Mẹ thường dạy: đại trượng phu đã nói phải làm, không thể tự xéo lên lời nói của mình, ta đã bẻ cung thề, cũng như A Lý Hải Nha bẻ tên thề, đều là thề độc…”.

Gã buồn phiền, không muốn về doanh chạm mặt quân sĩ, bèn rong ngựa đến lều A Tuyết, nghe thấy bên trong vọng ra tiếng Lan Á trầm bổng, tựa hồ đang kể chuyện gì. Gã bước vào. A Tuyết nằm trên giường, mắt mở to, chăm chú nghe như uống từng lời. Trông thấy Lương Tiêu, cô cười tươi:

- Ca ca đến đúng lúc quá! Lan Á thư đang kể chuyện, nhan đề là Nghìn… nghìn mốt đêm…

Lan Á đỡ lời:

- Nghìn lẻ một đêm.

- Đúng rồi, Nghìn lẻ một đêm. – A Tuyết cười xòa.

Lương Tiêu ngắm nụ cười rạng rỡ và vẻ mặt tươi tắn của cô gái, lòng bỗng nhẹ hẳn đi:

- Lan Á, đa tạ cô đã quan tâm em ta.

Lan Á gạt đi:

- Cứ ra vẻ khách sáo làm gì thế! – Nàng xoa vai A Tuyết. – Muội đáng yêu thật, ta mến lắm.

Lương Tiêu cười méo xệch:

- Tiếc rằng dốt kinh khủng, nếu lây được chút thông minh của cô thì đỡ biết bao.

A Tuyết bĩu môi, lại thủ thỉ:

- Muội thích nghe kể chuyện, thư thư kể cho A Tuyết nghe một ngàn lẻ một buổi tối nhé.

Lan Á cười, nụ cười có phần miễn cưỡng, nàng dịu dàng nói:

- Tiếc rằng ta chỉ kể được lẻ một buổi tối thôi.

A Tuyết không hiểu. Lương Tiêu kinh ngạc ra mặt, hỏi:

- Cô định đi đâu à?

Lan Á buồn buồn thở dài:

- Tương Dương pháo đã xong, chỉ nay mai là phá được thành, ta không muốn trông thấy thảm cảnh ba ngày sau, cứ đi trước là hơn.

Lương Tiêu nói:

- Ba ngày sau họ đầu hàng chưa biết chừng.

Lan Á nhìn sâu vào mắt gã, thong thả hỏi:

- Ngươi chắc không?

Lương Tiêu máy môi, nhưng không thốt ra lời. Gã ngồi sững trên thảm một lúc rồi đứng bật dậy, loay hoay đi lại. Lan Á ngậm ngùi:

- Phá thành đồng nghĩa với chém giết, đấy là thông lệ của quân Mông Cổ. Năm xưa khi tây chinh công phá thành Bát Đa, Húc Liệt Ngột Hãn cho lính thả sức chém giết liền ba ngày, tới khi trong thành không còn tráng niên nào mới thôi. Mỗi khi nhắc lại chuyện ấy thầy ta lại đau lòng, nước mắt giàn giụa. – Giọng nàng tuy gắng giữ bình tĩnh, nhưng mắt đã đỏ hoe.

Lương Tiêu ớn lạnh:

- Thầy cô căm thù người Mông Cổ đến thế, vì sao vẫn thiết kế Hồi Hồi pháo cho họ? Vì sao cha con cô lại đến đây?

Lan Á thở dài:

- Hoàng đế Đại Nguyên thống trị cả bốn hãn quốc, một ý chỉ nhỏ nhoi của ông ta truyền xuống Y Nhĩ có thể khiến ánh sáng trí tuệ ở Mã La Gia vĩnh viễn lịm tắt. Lần này lẽ ra thầy đến, nhưng tuổi tác người đã cao, không chịu đựng được một hành trình xa xôi như vậy, cha con ta mới đi thay cho người.

Lương Tiêu lặng thinh. Lan Á nhìn gã đăm đăm, nghiêm nghị nói:

- Tương Dương pháo là cánh tay của ma quỷ, Mộc phích lịch là lửa địa ngục. Ngươi đã để ma quỷ hỏa ngục phục sinh, nếu còn tiếp tục sai lầm đó, sau này khi chết đi, linh hồn sẽ không được yên ổn đâu.

Lương Tiêu hơi giận, to tiếng:

- Cô nguyền rủa ta đấy à?

Lan Á cười buồn:

- Ngươi thông minh tuyệt đỉnh, đừng giả vờ không hiểu lời ta. Nạp Tốc La Đinh tuổi tác đã cao, người bây giờ giống như tuyết đọng trên đỉnh núi, một cơn gió to bất thần thổi qua là lả tả rớt xuống. Ngươi hãy buông thương vứt cung, cùng ta đến Mã La Gia. Ngươi là người xuất sắc nhất trong các toán gia xuất sắc hiện nay, nhất định có thể kế tục sự nghiệp của thầy ta, trở thành bậc trí tuệ của các trí tuệ.

Hai người nói chuyện bằng tiếng Hồi Hồi, A Tuyết không hiểu gì hết, chỉ thấy nét mặt họ nặng nề, bầu không khí trong trướng dường như đông cứng, khiến người ta khó thở. Cô vừa cúi đầu vê vê chéo áo vừa lén liếc mắt nhìn họ, tim đập thình thịch. Trên trán Lương Tiêu, gân xanh đập phập phồng, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, mấy lần định lên tiếng nhưng cuối cùng chẳng thốt ra được một từ. A Tuyết đang thấp thỏm theo dõi, thình lình Lan Á nhướng mày, nhoẻn cười với cô:

- Muội còn muốn nghe chuyện không?

A Tuyết gật đầu.

Lan Á lại kể hai chuyện rất hay. Đêm dần buông, A Tuyết nghe mãi, nghe mãi, đến khi mắt díp lại thì ngủ thiếp đi ngay trong lòng Lan Á. Nàng bèn đặt cô gái nằm ngay ngắn trên giường, đắp chăn thật kín. A Tuyết ngủ say, mặt vẫn vương nụ cười, tựa hồ đang đi vào thế giới kỳ ảo của Nghìn lẻ một đêm.

Lan Á biết A Tuyết chưa lâu nhưng rất mến tính hồn nhiên trong sáng của cô. Nghĩ tới lúc phải rời khỏi đây, lòng chua xót, nàng cúi xuống chạm môi lên má A Tuyết, nước mắt rớt nhẹ xuống mặt cô gái. A Tuyết khẽ ú ớ như thể linh cảm được. Lan Á vội thấm khô cho cô, xong xoay mình đi ra khỏi trướng. Lương Tiêu cũng ra theo:

- Để ta đưa cô về.

Hai người ruổi ngựa đến cổng trại Trát Mã Lỗ Đinh. Lương Tiêu mấy lần ngập ngừng muốn nói, nhưng lại thôi. Khi gã quay ngựa đi, Lan Á gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngoái đầu nhìn. Lan Á nhảy xuống ngựa, sắc mặt nàng hiện lên khổ sở dưới ánh trăng. Lương Tiêu hỏi:

- Gì vậy?

Đôi mắt xanh biếc của người thiếu nữ lấp lánh sáng, nàng lặng lẽ nhìn Lương Tiêu, chậm rãi nói:

- Bên đường cái đi về phía đông có một ngôi đình nhỏ, sáng mai ta đợi ngươi ở đó. Mong rằng ngươi thay đổi quyết định.

Tim Lương Tiêu trĩu nặng. Lan Á quay đi, chạy thật nhanh vào trại.

Lương Tiêu đưa mắt dõi theo cho đến khi bóng người thiếu nữ chìm hẳn trong đêm dày, ruột rối như tơ. Gã thốt nhớ đến cảnh cha chết thảm, đến ánh mắt não nề của mẹ lúc biệt li, lát sau lại nhớ tới dáng vẻ mềm yếu nhút nhát của Hiểu Sương, nụ cười duyên dáng của Oanh Oanh. Thời gian dần trôi, vầng trăng từ từ bò lên giữa trời, gió rét căm căm, Lương Tiêu rùng mình vì lạnh, nhận ra khóe mắt ướt nhoèn tự bao giờ. Gã nhảy lên ngựa, nhìn về phía Tương Dương, lòng buồn chán khôn tả: “Ba ngày sau, nếu quân Tống không hàng, tình hình sẽ ra sao đây? Bất kể thế nào, nếu bọn Lưu Chỉnh lạm sát người vô tội, ta chỉ còn cách cùng quân Khâm Sát chém chết chúng mà thôi”.

Ra quyết định xong, trong lòng cũng dễ chịu hơn một chút, Lương Tiêu thúc ngựa quay về đại doanh Bách Trượng sơn. Chưa đến gần đã nghe thấy âm thanh huyên náo, đoán biết trong doanh xảy ra việc lớn, gã bèn thúc ngựa phi nhanh vào. Một kỵ binh chạy ào ra đón:

- Bọn Tống tập kích!

- Có đông không? – Lương Tiêu hỏi.

- Ít thôi, nhưng thân thủ lợi hạ lắm. Thổ Thổ Cáp và mấy người nữa nổi giận, đang truy sát rồi!

Lương Tiêu nhói tim, vội hỏi:

- Đi về hướng nào?

Tên lính giơ tay trỏ về hướng đông nam.

Lương Tiêu không kịp hỏi nhiều, hấp tấp thúc ngựa đuổi theo, chưa đầy hai dặm đã gặp rất nhiều xác người ngựa ngổn ngang dưới đất, đủ cả lính Tống, lính Nguyên, có thi thể găm mười mấy mũi tên tua tủa; có kẻ đang bóp cổ một lính Khâm Sát, phần bụng bị loan đao đối phương đâm thủng, cả hai đã tắt thở, mắt lồi tướng; có kẻ bị trường mâu Khâm Sát xuyên từ người xuống ngựa, ghim cứng một chỗ. Đủ mọi kiểu chết bi thảm, chắc hẳn hai bên đã gặp nhau ở đây rồi diễn ra ác chiến.

Lương Tiêu tế ngựa phi điên cuồng, ruột nóng như lửa đốt, được một quãng thì gặp chừng hai trăm kỵ binh chầm chậm đi ngược lại, người dẫn đầu chính là Thổ Thổ Cáp, Vương Khả đang ẵm một người, thi thoảng lau nước mắt. Lương Tiêu điểm qua hàng ngũ, thấy vắng bóng Dương Giác, tức thì trái tim trĩu nặng. Mọi người vỗ ngựa chạy lại gần chủ tướng, mắt ai cũng sưng húp. Lương Tiêu nhìn người đang nằm trong lòng Vương Khả, nhận ra đúng là Dương Giác, mặt mũi xám ngoét, hẳn đã tắt thở từ lâu.

Lương Tiêu thấy trước mắt tối sầm, đầu óc trống rỗng, trong lúc lơ mơ chỉ nghe Vương Khả nghẹn ngào:

- Lương đại ca, lại… lại tên khốn kiếp đó…

Dù Vương Khả không nói, Lương Tiêu cũng nhận ra. Thanh kiếm trên người Dương Giác xuất phát từ vị trí Đại hữu, lật kính hộ tâm đâm vào huyệt Đản trung, chính là thủ pháp của Quy tàng kiếm.

Thổ Thổ Cáp dộng mạnh trường mâu, gằn giọng nói:

- Nếu không giết được tên khốn đó, Thổ Thổ Cáp này quyết không quay về quê hương.

Lý Đình, Nang Cổ Ngạt và Vương Khả đều quắc mắt, cao giọng:

- Đúng, không trả được thù này, quyết không về quê hương.

Lương Tiêu là đại tướng, không tiện tỏ thái độ yếu đuối trước mặt thuộc hạ, bèn xua xua tay, giục ngựa quay đầu. Nhưng vừa thúc ngựa, gã đã mất kiềm chế, nước mắt ròng ròng tuôn rơi.

Đang canh khuya không kịp chuẩn bị hậu sự, mọi người để tạm xác Dương Giác trong lều Lương Tiêu rồi ngồi im lìm xung quanh, đèn thắp sáng suốt đêm. Giờ ngọ hôm sau, A Tuyết sang, thương xót khóc lóc vật vã một hồi, lại thấy mọi người chưa có hột cơm nào vào bụng bèn nấu nhanh nồi cháo, không ai nỡ chối từ nên đều ăn một ít. Lương Tiêu sực nhớ lời Lan Á nói đêm qua, vội vàng lên ngựa đuổi theo. Gã tưởng nàng đã đi mất rồi, không ngờ đến gần tiểu đình vẫn thấy cha con họ ngồi đợi, bên ngoài có chừng một trăm binh sĩ đang nghỉ ngơi, áng chừng đi theo hộ tống.

Lương Tiêu tần ngần một thoáng, cuối cùng xuống ngựa lùi sang bên đường, dõi mắt quan sát. Lan Á ngồi suy tư, thình lình đứng lên đi đi lại lại. Trát Mã Lỗ Đinh cũng đứng dậy, thì thào với con gái một hồi. Lan Á xoay mặt đi, đôi vai run bần bật. Trát Mã Lỗ Đinh thở dài, lại vỗ vỗ vai nàng, an ủi vài câu. Sau một hồi thẫn thờ, Lan Á đưa tay áo lau nước mắt, nhảy lên con ngựa Ả Rập đi về hướng bắc, nhưng được mấy bước, nàng lại ngoái đầu nhìn phía sau. Cứ thế mười mấy lần cho đến khi khuất hẳn cuối con đường.

Lương Tiêu lên ngựa dướn nhìn theo, bụi vẫn chưa lắng mà bóng người đã xa, nhất thời trong lòng trống rỗng. Gã và Lan Á mới quen biết nhau nhưng ý hợp tâm đầu, cứ nhắc đến toán học là quên hết thời gian. Khổ nỗi Triệu San mất chưa lâu thì lại tới Dương Giác, oán thù mỗi ngày một sâu, gã không thể tìm đường giải thoát như nàng gợi ý. Mà chưa biết chừng, chẳng bao lâu nữa đến lượt gã cũng mất mạng nơi sa trường, vĩnh viễn nằm lặng trong cõi u minh. Nghĩ đến đây, Lương Tiêu chán nản cùng cực, ủ rũ cưỡi ngựa về doanh.

.

Giờ ngọ ngày thứ ba, cổng thành Tương Dương mở rộng, Lữ Đức mặc áo trắng, đội mũ trắng, đi bộ ra khỏi thành. Bá Nhan được tin, đích thân sang tiếp nhận đầu hàng, phong Lữ Đức làm Đô đốc Tương Phàn.

Tin bay vào nội địa, một đám mây u ám bao trùm triều đình Đại Tống, tiếng ai oán chê trách lan rộng khắp nơi. Người đương thời làm bài thơ than rằng:

Lữ tướng quân trấn thủ Tương Dương,

Xương sống mười năm giữ biên cương.

Cầu cứu viện quân không thấy đến,

Căm hờn mạt sát Giả Bình chương.

Giả Bình chương tức Giả Tự Đạo, kết tội hắn không gửi quân tiếp viện Tương Dương kể cũng chưa thỏa đáng, nhưng hắn dụng binh ngu muội, triều đình lại u mê, chẳng lần nào viện binh tới nơi, khiến cả hai thành bị vây hãm, Lữ Đức bị cô lập, chỉ biết vẫy vùng chiến đấu trong tuyệt vọng. Suy cho cùng Giả Tự Đạo lộng quyền làm loạn triều chính, là kẻ tội phạm đầu sỏ đẩy Tương Phàn vào cảnh khốn đốn, bài thơ không trách Lữ Đức dâng thành mà trách Giả Tự Đạo hại nước, đủ thấy thế nhân nhìn nhận rất công bằng.

Đất Tương Phàn xưa rày vẫn được gọi là “xương sống của thiên hạ”, một vai gánh miền nam, một vai gánh miền bắc, mặt bắc dẫn sang Hà Nam, mặt tây nối liền Ba Thục, mặt nam áp sát Hồ Quảng, mặt đông kề cận Giang Hoài. Từ cổ chí kim, trận khởi đầu của các cuộc nam bắc tương tranh đều diễn ra ở đây. Tương Phàn thất thủ làm đứt đoạn hàng phòng ngự biên giới, đất đai trăm dặm vùng Giang Hán tự nhiên phơi ra trước mũi tấn công của quân Nguyên.

.

Tuyết chảy băng tan, trời dần dần ấm lên. Năm thứ mười một nhà Nguyên, tương đương năm Hàm Thuần thứ mười ba theo lịch Tống, Hốt Tất Liệt truyền chỉ chinh thảo miền nam. Tháng ba năm ấy, Sử Thiên Trạch đi tuần doanh trại ban đêm bị cảm hàn, từ đó đổ bệnh nặng. Họ Sử tuổi tác đã cao, khí huyết suy nhược, nằm li bì hai ngày một đêm thì nhắm mắt xuôi tay. Bá Nhan và các tướng đến tế vọng, an ủi gia quyến.

Viếng xong, Lương Tiêu theo mọi người rời Sử phủ, trong lòng rầu rĩ: “Sử Thiên Trạch công toại danh thành là thế, chết đi cũng chỉ hai bàn tay trắng. Thổ Thổ Cáp và Lý Đình đang hăm hở gây dựng sự nghiệp, nhưng một mai lìa đời, liệu có mang công danh theo mình được không?”. Đang mải trầm tư, chợt nghe Bá Nhan gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Cặp mắt uy nghiêm của Bá Nhan xoáy vào mặt gã:

- Cậu lại đây với ta!

Y giật mạnh cương, tế ngựa chạy thẳng ra cổng thành. Lương Tiêu không hiểu ra sao, liền vội vàng thúc ngựa chạy theo.

Bên ngoài thành là đồng ruộng bao la, nhưng chỉ lơ thơ vài nông dân bộ dạng lam lũ đang chậm chạp bước trên luống cày. Mười năm đại chiến Tương Phàn, nhà cửa ruộng vườn quanh vùng bị bỏ hoang, hàng vạn mẫu đất tốt đều biến thành chiến trường.

Đột nhiên, một con thỏ rừng nhảy phóc ra khỏi bụi cây, tung bốn chân chạy như bay, một con sói vàng cong đuôi đuổi theo, thình lình nhún móng trước xuống đất, bắn mình lên chụp lấy đầu con thỏ. Đúng lúc này, một mũi tên rít gió lao tới, cắm phập vào cổ con sói, đâm xuyên xuống cả lưng thỏ.

Bá Nhan bắn xong thở dài, định hạ cung, chợt nghe gió đưa tiếng nhạn kêu trong trẻo, y lại nghiêng người giương cung. Một bầy nhạn xếp thành mũi nhọn bay về phương bắc. Bá Nhan kéo cung hồi lâu nhưng không phát tên, đăm đăm nhìn đàn chim bay đi xa, chùng tay thở dài:

- Cậu bắn chim ưng bao giờ chưa?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan cười:

- Tế ngựa hăng chạy lồng đại mạc, Giương cung bắn tan tác chim muông. Cuộc sống ấy thực là thống khoái! Hiềm nỗi chưa diệt Tống thì chưa trở về bắc được. Không biết đánh trận bao giờ mới xong?

Lương Tiêu lúc này mới hiểu ban nãy Bá Nhan giương cung mà không bắn là vì chạnh lòng nhớ quê hương. Gã chợt xót xa:

- Thế thì đừng đánh nữa. – Vừa dứt lời, chợt cảm thấy không ổn chút nào, lại tự vấn: “Không đánh thì làm sao trả thù được đây?”.

Bá Nhan liếc mắt nhìn gã, cười hỏi:

- Lần trước ta hạ lệnh phạt cậu, còn giận ta không?

Lương Tiêu nhíu mày im lặng, Bá Nhan biết gã vẫn ấm ức chưa nguôi, bèn cười ha hả:

- Thôi, đều tại ta không tốt, nhưng cậu là tiểu tướng mà xúc phạm đại tướng, cũng quá đáng lắm. Lúc đó chỉ có hai lựa chọn, một là xử phạt, hai là xử trảm, đành chọn cách ít tổn thất nhất, nên để cậu phải chịu ấm ức.

Lương Tiêu nghe phân tích hợp tình hợp lý, cũng nguôi nguôi giận. Bá Nhan chợt trỏ roi về một tòa miếu cổ:

- Lại kia xem đi!

Khi tới gần, họ thấy tường miếu đã đổ nát, cổng vào có dựng một tấm bia. Bá Nhan xuống ngựa, cho tả hữu lui ra sau, xoa xoa mặt bia, im lặng trầm ngâm. Tấm bia chạm chi chít chữ, lốm đốm bạc màu, dựng trên lưng một con rùa đá mòn, chừng như niên đại xa xưa lắm rồi.

Bá Nhan chợt hỏi bằng tiếng Hán:

- Cậu biết lai lịch của tấm bia này không?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan trỏ tòa miếu đất trước mặt:

- Đây là miếu Dương Thái phó, nơi thờ Dương Cổ nhà Tấn. Dương Cổ là danh tướng người Hán. Họ Tư Mã diệt Đông Ngô và thống nhất ba nước đều xuất phát từ gợi ý của ông ta. Đáng tiếc, người này soạn kế diệt Đông Ngô mà không sống được tới ngày bình định thiên hạ, thuở sinh tiền đã mấy lần dâng biểu phạt Ngô nhưng đều bị hoàng đế bác đi, ông ta không thỏa tráng chí, mỗi khi nhìn về phương nam đều sa lệ, vì vậy tấm bia này còn gọi là Đọa lệ bi[3]. – Y nhìn Lương Tiêu, nghiêm chỉnh hỏi. – Cậu có biết vì sao trên đời cứ luôn xảy ra chiến tranh không?

Lương Tiêu thần người, cuối cùng thành thật đáp:

- Tôi không biết!

- Đơn giản lắm, cứ nhiều nước cùng tồn tại là sinh chiến sự.

- Nhiều nước cùng tồn tại ư?

Bá Nhan mỉm cười:

- Nhớ năm xưa, các bộ lạc Mông Cổ phân tranh, binh lửa ngùn ngụt ngàn năm không dứt. Mãi cho đến khi Thái Tổ xuất thế, bằng sự anh minh trời phú, cơ trí mưu lược, người đã khắc phục muôn vàn gian khổ, đầu tiên thống nhất Mông Cổ, chấm dứt nội chiến, sau đó mở rộng phạm vi chinh phạt. Chắc cậu cũng biết người Hán đánh nhau dữ dội nhất vào thời các chư hầu cát cứ, trước tiên là Xuân Thu Chiến Quốc, kế đến Tam Quốc Lưỡng Tần, sau thời Đường thì các triều đại thay nhau trị vì nhanh như thay áo, hết Ngũ đại thập quốc đến Tống Liêu giao phong, kế tiếp là chiến tranh giữa năm nước Tống, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn, chém giết vô cùng thê thảm. Hiện tại, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn đều đã bị diệt, nhưng Tống Nguyên còn đang tranh hùng. Bốn trăm năm qua liên tục loạn lạc, chưa từng có một ngày bình yên.

Lương Tiêu không kìm được hỏi:

- Tức là phải thống nhất toàn bộ thiên hạ thì mới chấm dứt được chiến tranh?

- Đúng thế! Từ cổ chí kim, những người có chí cứ thích chọc trời khuấy nước, nhưng thực chất, tứ hải một nhà mới đem lại thái bình cho thiên hạ. Dương Cổ rơi lệ không phải vì vinh nhục cá nhân mà vì dân chúng cả nước! Đại Tống hiện nay cũng tương tự Đông Ngô thuở nào, chưa diệt được nó thì chiến tranh giữa hai miền nam bắc còn dai dẳng mãi, và hứng chịu tổn thất trước tiên chính là bách tính đôi bên.

Lương Tiêu cau mày:

- Vì sao phải giết? Vì sao phải đánh? Hòa hảo chẳng tốt hơn ư?

Bá Nhan xua tay:

- Cá lớn nuốt cá bé, ấy là lẽ thường tình ở đời! Cậu đã thấy hổ nào không ăn thịt dê chưa? Dẫu chúng ta để yên cho người Hán, khi họ mạnh lên chắc gì đã tha chúng ta? Tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh từng nói: “Hung Nô chưa diệt, chuyện nhà đáng chi?”. Đại Hán hùng cường, kéo lên bắc tiêu diệt Hung Nô. Đại Đường hưng thịnh, cất quân chinh phạt Đột Quyết, làm cỏ Cao Ly. Ngay thời Tống đây, chẳng phải Thái Tông cũng đã từng tấn công Khiết Đan đấy ư? Chỉ tội hắn không tự lượng sức, đánh không lại người ta mà thôi.

Lương Tiêu băn khoăn:

- Tóm lại là, hễ lắm quốc gia tất chia mạnh yếu, đã có mạnh yếu tất sinh chiến tranh ư?

Bá Nhan không trả lời thẳng vào câu hỏi của gã, nói lảng sang chuyện khác:

- Nghe nói bạn cậu mất.

Lương Tiêu dàu dàu gật đầu. Bá Nhan thở dài:

- Cậu là người trọng tình cảm, cũng tốt. Nhưng tính mệnh một cá nhân so với tính mệnh ức vạn dân lành thì bên nào nặng bên nào nhẹ?

Lương Tiêu ngẩn người. Bá Nhan bước mấy bước, vụt xoay phắt lại nói to:

- Cuộc đời lắm nỗi đoạn trường, đường đường một đấng nam nhi thân cao bảy thước, nếu giương cánh cung cứng, cưỡi ngựa khỏe bình định thiên hạ thì ngàn năm nữa vẫn còn tiếng thơm lưu truyền. Nếu vì cái chết của một cá nhân mà suốt ngày đau đớn, sụt sùi khóc than rền rĩ thì thử hỏi chỉ trăm năm sau thôi, còn ai nhớ đến Lương Tiêu nữa? – Y trỏ đám nông dân. – Thế thì có khác gì đám thôn phu thô kệch kia đâu?

Lương Tiêu chưa bao giờ ôm chí lớn, làm việc đều theo cảm hứng nhất thời, hoàn toàn hững hờ với những lý tưởng như trị quốc bình thiên hạ, nay nghe những lời này, trong lòng bỗng hoang mang. Bá Nhan càng nói càng sôi nổi:

- Trống da trâu tốt, gõ khẽ là phát ra âm thanh vang rền. Một người thông minh dứt khoát không cần ta phải phân tích quá nhiều. Trong huyết quản cậu có có dòng máu của Thành Cát Tư Hãn, tài năng cậu khiến người đời đố kỵ. – Y xòe tay, cười nhạt. – Một hàng tướng nhỏ nhoi như Lưu Chỉnh thì đáng kể gì?

Lương Tiêu tuổi còn trẻ, máu nóng đương căng, nghe vậy bật thốt:

- Đại Nguyên soái… – rồi họng nghẹn lại, không thốt nên lời.

Bá Nhan xua tay cười:

- Hiểu là được, không cần phải nói ra. Sử Thiên Trạch đã chết, ta giao binh mã của ông ấy cho cậu. Dám nhận không?

Lương Tiêu đáp ngay không nghĩ ngợi:

- Càng nhiều càng tốt.

Bá Nhan cười mắng:

- Tiểu tử nhà ngươi, đúng là đại ngôn không biết ngượng mồm. – Nghĩ sao y lại đưa mắt nhìn về phương nam, buồn bã thở dài. – Chỉ mong lần này thống nhất thiên hạ để ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh nữa.

Lương Tiêu nghe dứt, bỗng rùng mình lẩm bẩm:

- … ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh.

Gã lẩm bẩm câu ấy mấy lần, giọng mỗi lúc một mong mỏi, mắt đăm đăm dõi ra đồng dã nơi xa.

Thạch Công Sơn Đầu

Năm một ngàn hai trăm bảy mươi lăm, Tống Độ Tông Triệu Kỳ ốm chết ở Lâm An. Cùng năm đó, Giả Tự Đạo lập Triệu Hiển mới bốn tuổi lên làm vua, bản thân hắn nắm quyền nhiếp chính, bưng bít mọi tin tức nơi tiền phương. Triều đình Đại Tống mù mờ hoang mang, bấp bênh bất ổn. Bá Nhan nhận được mật báo, biết rằng thời cơ đã chín muồi, bèn dẫn hai mươi vạn quân xuôi dòng Hán Thủy di chuyển xuống nam. Cùng lúc, Cận Phi và Vân Thù cũng tổ chức nhiều đợt chiêu mộ nghĩa quân tương trợ triều đình. Các hào kiệt miền nam đều nhiệt thành xả thân, khốn nỗi Đại Tống binh hèn tướng yếu khiến công sức đóng góp của họ chỉ như muối bỏ bể, không gặt hái được kết quả gì.

Mùa thu cùng năm, quân Nguyên vượt Trường Giang, theo dòng Giáp Giang tiến vào. Nhiều trọng thần, đại tướng lũ lượt kéo nhau ra đầu hàng, dâng cống mỹ nữ để lấy lòng ngoại bang, trong số đó có Binh bộ Thượng thư Lữ Sư Quỳ và Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Văn Hổ.

Mặc Tương Phàn thất thủ, Giả Tự Đạo vẫn cố sức dập tắt mọi lời xì xào, nhưng dần dần, khi các cứ điểm tiền phương liên tiếp bị đánh hạ thì tình hình không thể che đậy được nữa. Tin khẩn tới tấp bay về Lâm An, hoàng thất và các quan lại đều kinh hoàng, thúc ép Giả Tự Đạo thân chinh ra trận đẩy lui quân địch. Họ Giả không còn cách nào khác, đành bổ Hạ Quý làm phó soái, miễn cưỡng thống lĩnh hai mươi vạn thủy lục quân cùng ba ngàn chiến thuyền vượt sông sang tây, giao chiến với quân Nguyên ở Lỗ Cảng.

Khi hai bên giáp mặt nhau, mười vạn hùng binh Nguyên triều nhất tề gầm lên như sấm rền trên sóng, ồ ạt từ thượng lưu kéo xuống. Người Tống tuy yếu về kỵ binh nhưng rất thành thạo thủy chiến, cũng ngược dòng hăng hái tiến lên. Hai bên giao tranh hồi lâu mà không phân thắng bại, Hạ Quý phập phồng lo sợ, nhân lúc không ai để ý liền chèo thuyền trốn chạy.

Bấy giờ, Giả Tự Đạo đang lười biếng tựa vào lòng ái thiếp quan chiến, chung rượu nghiêng ngả trên tay. Hắn vốn mù tịt về chiến trận, chỉ biết hai bên giao đấu ác liệt chứ chẳng biết ai thắng ai thua, nhác thấy Hạ Quý bơi qua cạnh tàu mình, vội hỏi:

- Thắng rồi hả?

Hạ Quý hổn hển đáp:

- Không đỡ nổi!

Giả Tự Đạo xuất thân lưu manh đầu đường xó chợ, nghe vậy phát hoảng, không còn để ý đến cung cách lễ tiết gì nữa, nhảy chồm chồm rủa xả:

- Đồ mặt nạc đóm dày, sao không nói sớm? – rồi vội vàng kéo ái thiếp nhảy tót lên thuyền nhẹ đã chuẩn bị sẵn, nối đuôi Hạ Quý chèo đi rõ nhanh.

Có kẻ trông thấy chủ và phó tướng một trước một sau lủi mất thì kinh hãi báo động. Quân Tống nơi đầu sóng ngọn gió nghe tin ấy, ý chí chiến đấu lập tức tiêu tan. Tướng lĩnh giẫm đạp nhau bỏ trốn, binh sĩ mạnh ai nấy chạy, trận thế hỗn loạn rối ren. Lính Nguyên thừa cơ công kích khiến quân Tống thua liểng xiểng, số đầu hàng lên đến mười mấy vạn người, lương thảo quân dụng bị tịch thu bằng sạch.

Tin bại trận ở Lỗ Cảng truyền về Lâm An, cả triều đình cùng phẫn nộ. Tạ Thái hậu cách hết mọi chức tước của Giả Tự Đạo, truyền chỉ lưu đày Tuần Châu. Giả Tự Đạo trơ trọi một thân một mình, vai vế không còn, phe cánh tan rã, đành bó tay chịu trói, trên đường áp giải bị sai nha là Trịnh Hổ Thần sát hại tại Chương Châu.

Sau trận Lỗ Cảng, tướng sĩ vùng Giang Hoài hoàn toàn thui chột ý chí chiến đấu, phản kháng rất lẻ tẻ, còn phần lớn đào ngũ hoặc đầu hàng. Lính Nguyên chia làm ba đường hành quân, cánh Lương Tiêu tiến vào theo ngả Giang Nam. Vừa tới Kinh Khẩu, gã bỗng nhận được thư khẩn, Bá Nhan ra lệnh quay gấp về Dương Châu.

.

Tại trướng soái Dương Châu, Bá Nhan triệu tập các tướng, nặng nề thông báo:

- Thánh thượng hạ chỉ ngừng xuống nam, chuẩn bị tiễu phạt sang phía tây.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Tại sao? Không đánh Tống nữa à?

A Truật u ám nói:

- Tây bắc có biến! Cháu nội Oa Khoát Đài là Hải Đô, hiện đang đóng ở Diệp Mật Lập, nhân lúc đại quân ta nam chinh bỏ trống mặt tây bắc đã chiêu tập phiên vương kết thành liên minh bên bờ sông Tháp Na Tư. Hắn kết tội thánh thượng đã chà đạp di huấn của Thái Tổ để thay thế bằng luật lệ của người Hán, vin cớ đó cùng các phản vương tuyển mộ hai mươi vạn thiết kỵ, vượt núi A Nhĩ Thái[2], tấn công cựu đô Hòa Lâm[3].

Bá Nhan tư lự:

- Hải Đô túc trí đa mưu lại giỏi dụng binh, xưa rày vẫn luôn kình chống thánh thượng. Hiện thánh thượng cũng chưa biết nên quyết thế nào, vừa sai tín sứ chuyển lời rằng: “Trẫm chinh thảo Đại Tống hai lần, hai lần đều thất bại quay về. Nay Bá Nhan sắp thành công thì Hải Đô lại đến sinh sự, giữa đường bỏ dở kể cũng đáng tiếc, nhưng nếu vì một dải đồng lầy nước đọng phương nam mà để mất bạt ngàn đất đai màu mỡ phương bắc thì khác nào thả con cá rô bắt con săn sắt, ngẫm thực không đáng”. Và người lệnh cho ta nghị hòa với Lâm An, hai bên vạch địa giới mà cai trị.

A Truật nói:

- Người Tống liên tục thất bại, binh sĩ rệu rã chán chường, đây chính là thời cơ để hưng binh! Nếu nghị hòa để họ lấy lại sức thì mai sau tấn công sẽ khó khăn gấp mười. Hải Đô tuy nhiều binh mã thật, nhưng các phiên vương tây bắc mỗi người một bụng, không đồng chí đồng lòng. Tôi nghĩ, chỉ cần vài vạn tinh binh là đủ chặn đứng mũi đâm thọc của chúng, tội gì phải điều động hết binh mã nam chinh sang đó?

Bá Nhan gật đầu:

- Ta cũng nghĩ như ngươi! Bây giờ ta sẽ về Đại Đô, tìm cách thuyết phục thánh thượng. Khi ta đi vắng, ngươi tạm thay trách nhiệm Chủ soái trong doanh. – Ngừng một lát, y gọi. – Lương Tiêu!

Lương Tiêu đáp lời đứng dậy, Bá Nhan nói:

- Từ lúc này, ngươi làm Tổng đô thống cả thủy và lục quân, phò tá A Truật đốc suất binh mã.

Lương Tiêu nhận lệnh. Bá Nhan lại dặn dò một hồi rồi cho các tướng lui, vội vã trở về Đại Đô ngay trong đêm.

Cùng đêm ấy, Lương Tiêu hạ trại ở Qua Châu. Vừa ổn định lều trướng, nghe báo Quách Thủ Kính cầu kiến, gã mừng rỡ ra ngoài nghênh đón. Hai người đã lâu không gặp, nắm tay nhau hàn huyên vui vẻ. Họ Quách bảo:

- Hôm nay Quách mỗ đến cáo từ đại nhân.

Lương Tiêu hỏi:

- Ông định về Đại Đô à?

- Phải. – Quách Thủ Kính đáp. – Bây giờ quân đội ngừng di chuyển, tạm thời đóng trại một chỗ, ta không cần cất trạm nước mới nữa. Vả chăng năm nay Hoàng Hà dâng cao, có thể gây lũ lụt, thánh thượng triệu ta về bắc bàn bạc cách giải quyết.

Lương Tiêu thở dài:

- Chưa hết can qua đã thủy tai xảy đến, thiên hạ chẳng lúc nào được bình yên.

Quách Thủ Kính cũng thở dài:

- Thế nên mới có câu: Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Cảnh trái ngang trên đời thường vô cùng vô tận!

Mỗi người đeo đuổi một suy tư, lặng cầm chén trà buồn bã. A Tuyết đứng bên, thấy vẻ mặt họ bỗng nhiên ảm đạm thì rất lấy làm lạ: “Vừa tươi cười hớn hở, sao đã ỉu xìu ngay được?”.

Sau một lúc trầm mặc, Quách Thủ Kính lên tiếng trước:

- Quách mỗ có một câu này, chẳng biết nên nói hay không.

- Tôi xin nghe, đại nhân đừng khách sáo!

Quách Thủ Kính vịn bàn nhỏm dậy, thở dài:

- Tướng quân là một tài năng hiếm có, đem tài năng ấy đổ vào chinh chiến sát phạt, không cảm thấy đáng tiếc lắm ư?

Lương Tiêu ngẩn người. Quách Thủ Kính đưa nhanh mắt về phía A Tuyết, vẻ ngập ngừng. Lương Tiêu xua tay:

- Ở đây toàn người nhà, đại nhân chớ ngại.

Quách Thủ Kính nghiêm nghị gật đầu:

- Tướng quân không như người khác, Quách mỗ nói thẳng ra vậy.

Y đứng hẳn lên, chắp tay sau lưng bước về phía cửa, dõi mắt nhìn bầu trời trong trẻo ngoài trướng, chậm rãi buông từng chữ:

- Thánh thượng thừa kế bá nghiệp của cha ông, chí lớn dạt dào, muốn mở mang bờ cõi ra bốn biển, tạo nên công tích ghi tạc ngàn năm. Lương tướng quân thạo phép dụng binh, hễ đánh là thắng, hễ chiếm là được, chiến công hiển hách. Chỉ hiềm, người ta thường nói: chẳng vương triều nào là vững bền mãi mãi. Dẫu Đại Nguyên thống nhất thiên hạ thì liệu sẽ duy trì được bao lâu đây? – Y ngoảnh lại, ánh mắt sáng quắc. – Thử hỏi mấy trăm năm sau, sử sách có ghi nhận tướng quân là người như thế nào không? Và tướng quân để lại được gì cho hậu thế?

Lương Tiêu không hiểu lắm, giọng nói pha chút ngạc nhiên:

- Tôi thường nghe: chết là hết. Đã nhắm mắt xuôi tay còn bận tâm nhiều thế làm gì cho mệt?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Quách mỗ nghĩ nói thế không ổn. Trên đời tuy không có vương triều nào tồn tại mãi mãi, nhưng có những sự vật vẫn lưu dấu ngàn năm, chỉ cần tướng quân dồn tâm trí mình vào đó…

Lương Tiêu sực nhớ ra một chuyện, háo hức hỏi:

- Chắc ông muốn nhắc đến việc triều đình định sửa sang lịch pháp?

Quách Thủ Kính vỗ tay:

- Tướng quân tinh ý lắm. Từ khi Tổ Xung Chi làm ra lịch Đại Minh đến nay, mấy trăm năm rồi, phép tính lịch vẫn chưa cải tiến được là bao. Có hai nguyên nhân: một là do phạm vi đo đạc còn nhỏ hẹp, hai là do kiến thức toán học còn hạn chế. Sắp tới thống nhất được thiên hạ, lãnh thổ Đại Nguyên sẽ rộng lớn vượt xa thời Hán thời Đường. Thánh thượng định đặt đài thiên văn ở các nơi, quan sát nhật nguyệt hầu xây dựng nên cách tính lịch mới. – Nói đến đây, nhận ra Lương Tiêu lắng nghe chăm chú, biết gã đã dao động, họ Quách mỉm cười. – Tướng quân tinh thông toán thuật bậc nhất thời nay, nếu bằng lòng phối hợp với Quách mỗ hoàn thành bộ lịch mới thì quả là cái phúc của lê dân trăm họ, là ơn đức lưu truyền hậu thế hàng ngàn đời sau!

Dạo bị giam trong Thiên Viên Địa Phương, Lương Tiêu đã từng manh nha ý tưởng sáng tạo một bộ lịch hợp lý hơn bộ lịch của tiền nhân. Hiềm nỗi công việc quá lớn, sức một người không đảm đương nổi. Mấy năm nay tuy trải qua nhiều biến cố, nhưng ý tưởng ấy chưa một lần rời bỏ trí óc gã, thậm chí mỗi ngày một thêm cháy bỏng, nay nghe Quách Thủ Kính khơi gợi, nó lại nao nao quẫy động. Lương Tiêu đứng bật dậy đi đi lại lại, chợt thở dài rầu rĩ:

- Đáng tiếc tôi còn bận quân vụ, khó lòng phân tâm đến việc khác.

- Không gấp! Quách mỗ đã phác kế hoạch rồi. Đợt đo đạc tới đây sẽ tiến hành trên diện rộng, bắc phải đến Khâm Sát hãn quốc, tây đến Y Nhĩ hãn quốc, đông đến Cao Ly, nam đến Quỳnh Châu. Quỳnh Châu hiện vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của Đại Tống, vì vậy một khi chưa diệt xong Đại Tống thì vẫn chưa thể bắt tay sửa lịch được. Chuyến này trở về Đại Đô, ta sẽ tâu thánh thượng cử tướng quân cai quản cục Thái Sử, giám sát việc tu chính lịch pháp, nhưng thế thì tướng quân đành phải buông hết quyền bính lớn lao cũng như cuộc sống giàu sang phú quý.

Lương Tiêu cười nhạt:

- So với việc làm lịch thì đánh trận và phú quý đáng kể gì đâu.

Quách Thủ Kính hoan hỉ tán thưởng:

- Quả nhiên ta không nhìn lầm! Lương tướng quân đúng là người được sinh ra để tinh nghiên học thuật.

Lương Tiêu nói:

- Đợi thu xếp việc quân tạm ổn, tôi sẽ lên kinh gặp đại nhân.

Quách Thủ Kính giơ tay:

- Thỏa thuận thế!

Lương Tiêu tủm tỉm đập tay ba lần với họ Quách. Cả hai cùng cười phá lên.

Đến giờ cơm tối, A Tuyết bày sáu thức nhắm và một bình rượu hoa quả. Lương Tiêu cùng Quách Thủ Kính nâng chén đàm luận hết sức ăn ý. Lương Tiêu say sưa nói:

- Muốn cải tiến lịch Đại Minh thì cần chú ý đến năm yếu tố : một là chuyển động biểu kiến của mặt trời, hai là tốc độ vận hành của mặt trăng, ba là độ lệch giữa hoàng đạo và xích đạo, bốn là hệ tọa độ của hoàng đạo và xích đạo, năm là chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo…

Gã càng nói càng sôi nổi, Quách Thủ Kính càng nghe càng rạng rỡ mặt mày. Hai người chấm rượu vẽ toán pháp ra bàn, mô tả các khí cụ thiên văn, trao đổi miệt mài quên cả uống rượu, A Tuyết phải nhắc, họ mới dứt ra được.

Cơm rượu xong, phấn hứng dâng cao, cả hai liền kê giường cạnh nhau trao đổi thâu đêm. Lương Tiêu trò chuyện với Quách Thủ Kính, tầm mắt được mở rộng, tư tưởng càng thêm cao xa. Tiếc nỗi đất nước đương cơn loạn lạc, thiên văn lịch pháp hay thủy lợi máy móc cũng mới dừng ở mức nói cho thỏa lòng mà thôi. Sáng hôm sau, Quách Thủ Kính cáo từ về bắc, Lương Tiêu đi tiễn một quãng đường, nhìn theo bóng họ Quách, lòng ngao ngán: “Quách đại nhân thật cương quyết, dám dứt khoát rời bỏ quân ngũ, dốc lòng chấn chỉnh thủy lợi, sửa sang lịch pháp. Còn ta vẫn phải chinh thảo Đại Tống, thật chán quá đi thôi! Mong rằng sau trận chiến này, thiên thu vạn đại không còn chiến tranh, để ta và Quách đại nhân được tự do xây dựng lịch pháp, sao vẽ sơ đồ núi non, chỉnh đốn bách nghệ, củng cố nông tang, tạo nên một thời đại thịnh vượng huy hoàng chưa từng có trong lịch sử”. Ưu tư hồi lâu, Lương Tiêu ngậm ngùi quay về doanh trại.

.

Tháng năm năm Đức Hữu đầu tiên của nhà Tống, Lâm An biết tin quân Nguyên đang vướng nội loạn ở miền tây bắc, liền cương quyết chém chết tiết sứ Nguyên triều phái đến nghị hòa. Tể tướng Trần Nghi Trung dâng sớ lên Tạ Thái hậu xin hưng binh, đảm bảo sẽ đoạt lại Lưỡng Hoài. Tạ Thái hậu cả mừng, trao ấn soái ba quân cho Trương Thế Kiệt. Họ Trương kéo một vạn chiến thuyền đến hội hợp với Cận Phi, nâng tổng số thủy lục quân lên hai mươi vạn, tiến vây Kinh Khẩu. Lý Đình Chi đốc suất năm vạn kỵ bộ kỵ binh ra Dương Châu đánh A Truật. Vào thời khắc sinh tử ấy, Đại Tống một lòng quét sạch gian nịnh, chỉnh đốn triều chính, tinh binh mãnh tướng tụ họp tại Hoài Đông, sẵn sàng cùng quân Nguyên quyết một trận tử chiến.

Thế tấn công của quân Tống vô cùng dữ dội, tướng giữ Kinh Khẩu là Thổ Thổ Cáp liên tiếp gửi cấp báo, Lương Tiêu bèn dẫn quân vượt sông sang cứu viện. Cùng tháng đó, tướng sĩ nhà Nguyên cũng lục tục kéo đến hội quân với gã. Nguyên, Tống giáp mặt tại Tiêu Sơn, mấy vạn thuyền chiến san sát trên sông làm tắc nghẽn cả dòng chảy.

Trước giờ giao chiến, hàng tướng nhà Tống là Phạm Văn Hổ đến gặp A Truật hiến kế:

- Từ đây đi tiếp lên hai mươi dặm nữa có ngọn núi Thạch Công, đứng trên ấy nhìn xuống, toàn bộ trận thế quân Tống sẽ hiện ra trong tầm mắt.

A Truật mừng lắm, lập tức dẫn các tướng lên núi Thạch Công quan sát.

Ngọn núi cao tám trăm thước, vươn lên sừng sững bên sông. Tướng lĩnh Nguyên triều trèo lên đỉnh nhìn, dưới chân đại giang trải rộng tít tắp, khói sóng mênh mang. Kim Sơn và Tiêu Sơn đứng đối mặt nhau phía xa xa, hàng ngàn hàng vạn thuyền chiến nhà Tống tiến lui liên tục giữa hai ngọn núi, tạo thành một trận thế lạ mắt, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn, cứ mười thuyền kết thành một khối vuông nhỏ, cơ cấu hết sức chặt chẽ. Sau một hồi lặng lẽ quan sát, Lương Tiêu chợt thốt:

- Gay go thật!

A Truật ngạc nhiên hỏi:

- Gay ở chỗ nào?

- Ở chỗ trận thế của chúng quá đặc biệt. – Lương Tiêu giải thích. – Trận này tên là Thiên địa huyền hoàng, cứ mười thuyền một đội, khu giữa gồm năm khối, ứng với các vị trí đông, tây, nam, bắc và trung của Ngũ Nhạc. Từ trong ra ngoài, Ngũ Nhạc còn đan xen với chín khối khác, phép sắp xếp mô phỏng Cửu Châu của Trâu Diễn[4]. Mười bốn khối này kết hợp và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên hình thế vững chãi bao la như mặt đất, gọi là Hậu thổ tiểu trận.

Mọi người quan sát trận thuyền theo chỉ dẫn của Lương Tiêu, quả nhiên phát hiện ra mười bốn khoảnh lờ mờ, bất giác cùng ngấm ngầm khen lạ. Lương Tiêu lại trỏ mé ngoài trận thuyền:

- Ngoài Hậu thổ còn Huyền thiên tiểu trận. Huyền thiên phân chia thành hai mươi bốn khối nhỏ, con số ứng với nhị thập tứ tiết khí trong năm. – Gã vừa thuyết minh vừa trỏ hai mươi tư vị trí. – Huyền thiên thay đổi theo thời tiết trên trời, Hậu thổ tái hiện địa hình dưới đất, muốn nắm bắt cũng không phải là rắc rối lắm, nhưng sự phức tạp sẽ nảy sinh nếu trời đất giao hòa, bởi lúc đó các biến hóa sẽ phát triển ra bất tận, khó lòng ứng phó nổi. Theo chỗ tôi biết, Thiên địa huyền hoàng vốn đã thất truyền, dạo xưa tôi cũng chỉ đọc được lỗ mỗ một vài phần mà thôi. Trong đó có câu: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến thoái dễ dàng, không tài nào phá nổi”.

A Truật đổi hẳn sắc mặt, chưa kịp hỏi gì bỗng nghe có tiếng cười vang:

- Rủi thật rủi thật, cảnh sắc tươi đẹp mà chẳng ai lên thưởng thức, ngoài một đàn chó lâu nhâu sủa bậy!

Các tướng kinh ngạc ngoảnh đầu nhìn, thấy một nho sinh quần áo lôi thôi lốc thốc ngồi trên tảng đá nhẵn bóng, mặt quay ra dòng sông bát ngát, tay cầm bầu rượu giơ cao trước gió, phong thái rất mực tiêu dao. Lương Tiêu mừng rỡ vòng tay chào:

- Công Dương tiên sinh! Xa cách đã lâu, cớ sao vừa gặp ông lại nặng lời với người ta thế?

Tướng lĩnh đều kinh ngạc: “Lương Tiêu quen lão này à? Dưới chân núi có tinh binh vây kín bốn mặt, lão lên đây bằng cách nào ấy nhỉ?”.

Công Dương Vũ thản nhiên đáp:

- Người nào? Ta nặng lời với chó đấy chứ!

Các tướng nghe giọng giễu cợt đều sinh lòng phẫn nộ. Lương Tiêu sực nghĩ ra một điều, bèn hỏi:

- Ông là sư phụ của Vân Thù phải không ạ?

- Thế thì sao?

Lương Tiêu gật đầu, mặt trắng bệch:

- Thế thì tôi hiểu rồi.

Công Dương Vũ nhếch mép:

- Hiểu cái con khỉ! – đoạn cười khà khà, dõi mắt xuống dòng sông, vỗ tay lên mặt đá, dài giọng ngâm. – Thiên hạ vốn là một, Sao nỡ cắt hai miền? Lên lầu Đa Cảnh nhìn xuống, Hận mất nước sao quên. Gần, sóng Trường Giang nổi cuộn; Xa, lẻ loi hai ngọn núi. Muốn mượn tiếng sấm rền, Muốn mượn lưỡi tầm sét, Đuổi rợ khỏi trung nguyên. Ngóng Hoài thượng, Tân Dã xứ, Ngựa mang yên. Ý trời đã định, Lương thảo binh khí cũng vừa quyên. Chỉ thiếu người như Sĩ Nhã, Chỉ thiếu người như Việt Thạch. Phải dóng trống chiêu hiền, Nổi một cơn mưa lớn, Quét sạch bụi bắc biên.[5]

A Truật chăm chú lắng nghe nhưng không hiểu, bèn hỏi nhỏ Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm:

- Lão ta hát bài gì vậy?

Trương Hoằng Phạm vốn giỏi thi từ, liền giải thích:

- Bài hát này ý nói: giang sơn tươi đẹp ơi, ta muốn được như Tổ Địch, Lưu Côn đuổi hết Hồ, Lỗ, muốn như Gia Cát Khổng Minh dẫn quân bắc chinh.

A Truật đanh mặt, dùng tiếng Hán hỏi:

- Túc hạ là ai?

Công Dương Vũ nhìn y:

- Ngươi hỏi ta là ai? Ta là kẻ: Sáng rong Nam Hải chiều Thương Ngô, Áo đựng rắn xanh, gan góc to. Lên xuống Nhạc Dương người chẳng biết, Ngâm vang bay vút Động Đình hồ.

Các thân binh không nhẫn nại nổi nữa, bèn lao bổ tới, nào ngờ mới giơ đao đã thấy toàn thân tê liệt. Câu thơ chưa ngâm dứt, mười tên thân binh đã há hốc mồm, đứng rúm một chỗ như tượng đất.

Công Dương Vũ giũ giũ tay áo:

- A Truật, theo ngươi ta là ai nào?

Bài thơ trên do Lã Động Tân làm, Công Dương Vũ nhân hứng đọc ra, ngụ ý mô tả mình có cốt cách phong lưu thần tiên. A Truật không hiểu được ý ấy, lại thấy sự việc quỷ quái lạ lùng, sống lưng ớn lạnh, y hô to:

- Mọi người hãy cẩn thận! Tên đồ gàn này biết yêu thuật đó!

Công Dương Vũ phì mũi:

- Tiên thuật rành rành ngươi lại bảo yêu thuật là sao? Chà, thế nhân vẫn chê bọn Thát ngu như lợn, quả tình không sai, nói cho ngươi nghe chẳng khác gảy đàn tai trâu! Vô vị quá sức!

A Truật gắng trấn tĩnh, chậm rãi hỏi:

- Đừng lải nhải những câu dấm dớ nữa, túc hạ tới đây có công to việc lớn gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Kẻ hèn mọn này khốn cùng quẫn bách, lấy đâu ra công to việc lớn, chẳng qua chỉ táy máy toàn trò vè của bọn hạ lưu thôi. Lý Thái Bạch từng viết: Gieo một ván thiên địa, chưa chắc quên chiến tranh. Lần này ta đến cốt muốn chơi một ván bài từ xa với tên cẩu hoàng đế Hốt Tất Liệt nhà các ngươi.

A Truật nghe lời lẽ quá sức kỳ dị, thầm nhủ: “Gặp một thích khách cao cường thế này, đành đi bước nào biết bước đó thôi. Gắng con cà con kê với lão ta để kéo dài thời gian vậy”. Y bèn hỏi:

- Được, túc hạ muốn chơi kiểu bài nào?

Công Dương Vũ xua tay:

- Bảo đàn gảy tai trâu thực chẳng oan! Gieo một ván thiên địa là gieo xúc xắc chứ cái gì nữa! Ai thắng thì được giang sơn này. Vậy là có người chơi và vật cá cược rồi đấy, chỉ còn thiếu xúc xắc thôi! – Nói đoạn ông giơ cao cái túi vẫn mang bên hông, giũ mạnh, một đầu người lông lốc lăn ra.

Nhìn rõ tướng mạo người đó, A Truật bỗng biến sắc mặt, giọng lạc đi:

- Yến Thiết Mộc Nhi!

Công Dương Vũ cười:

- Tên hắn đấy à? Ta thấy hắn diễu võ dương oai trên lưng ngựa, ngứa mắt quá bèn tiện tay ngắt đầu xuống. – Ông cười hì hì, trỏ đầu người nói oang oang. – Coi nó là con xúc xắc đầu tiên của ta. Nghe đồn hắn là Vạn phu trưởng kỵ binh, vậy tính ba chấm đi.

Yến Thiết Mộc Nhi lĩnh tước Vạn hộ hầu, dũng cảm thiện chiến, nào hay mới đó mà đầu đã lìa khỏi cổ. Các tướng đều sinh mối xót xa thương cảm. A Truật đang giữ trọng trách đại tướng, không dám tỏ ra mềm yếu, bèn lạnh lùng nói to:

- Vạn phu trưởng là xúc xắc ba chấm thì chắc bản soái được sáu chấm nhỉ!

Công Dương Vũ bật ngón cái:

- Thống soái ba quân có khác, rất biết mình biết người. Đáng tiếc chỉ có mỗi ngươi là xúc xắc sáu chấm nên không gieo được lục lục. Cũng may trời còn thương, ban cho ba vị đô thống. Tên đê tiện họ Lương là Tổng đô thống, tính năm chấm. Đô thống lục quân A Lạt Hãn tính bốn chấm, Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm tính bốn chấm. Tham nghị chính sự Đổng Văn Bỉnh không có nhiều binh lính nhưng phẩm hàm lại cao, tử tế ra cũng nên tính bốn chấm, còn Phạm Văn Hổ, cái tên bán nước cầu vinh, khốn nạn vô loài nhất trong bọn khốn nạn vô loài, tính một chấm cũng là đề cao hắn thái quá, đem ra làm xúc xắc chỉ tổ bẩn tay lão phu.

Phạm Văn Hổ bị chửi như tát nước, mặt có sắc giận nhưng trong lòng lại mừng húm, khẽ khàng nhích sang một bên.

Lúc này mặt trời chưa lên cao, dải sông tuôn dài, phía xa thoáng đãng bằng phẳng, quang cảnh rất nên thơ. Trong khi đó trên đỉnh núi Thạch Công chật hẹp, bầu không khí ngột ngạt vô cùng. Công Dương Vũ vẫn giữ nguyên vẻ cười cợt như thể họp mặt nói chuyện phiếm. Nhưng ông càng cười đùa, các tướng càng ngạt thở. Ngày thường họ điều động đến hàng ngàn hàng vạn binh mã, nắm trong tay quyền sinh quyền sát bao nhiêu con người, muốn gì được nấy, vậy mà bây giờ khác nào cá nằm trên thớt, mặc kẻ khác làm tình làm tội, chưa ai trong bọn gặp phải tình huống khóc dở mếu dở thế này bao giờ.

Công Dương Vũ vuốt râu:

- Con bạc, con bạc, được ăn cả ngã về không. Ta vừa rồi vận rủi quá, chỉ đổ được tam, xin hỏi quý vị, tiếp theo đây ta nên gieo xúc xắc mấy chấm?

Ông quét mắt khắp mặt các tướng, không ai bước ra.

Công Dương Vũ cười nhạt, đang định lên tiếng khích bác, thình lình Lương Tiêu lướt khỏi hàng, chân không chạm đất, vung tay vỗ lưng một tên thân binh. Tên này chới với khua khoắng tứ chi, huyệt đạo tức thì được giải. Lương Tiêu xuyên trái xuyên phải giữa tốp người, cử động như bướm lượn, xuất chưởng như chớp nháy, chỉ trong khoảnh khắc, hơn mười tên thân binh hoa tay múa chân lấy thăng bằng, cử động trở lại.

Lương Tiêu co mình xuống xà tấn, điềm nhiên nói:

- Công Dương tiên sinh, mời!

Nét giận thoáng qua khuôn mặt Công Dương Vũ, nhưng ông lại nhe răng cười ngay:

- Năm chấm hả, hay lắm!

Đoạn giơ chưởng phải từ từ vỗ tới ngực Lương Tiêu. Chưởng phong đặc quánh, Lương Tiêu không né được, đành phải đón đỡ, nào ngờ vừa cất tay bỗng thấy máu nóng cuộn trào trong ngực, gã mất tự chủ giật lui ba bước. Một tên thân binh không ý thức được mức độ nguy hiểm nên nhào tới đỡ chủ tướng. Vừa chạm đầu ngón tay vào lưng Lương Tiêu, thân hình hắn đã bị một luồng đại lực ùa thốc sang hất văng đi xa sáu trượng. Tên lính lộn bắn một vòng trên không rồi rơi thút xuống vực, tiếng gào thê thảm mau chóng chìm lấp dưới khoảng sâu mênh mông.

Công Dương Vũ không để Lương Tiêu đứng vững, lập tức lắc mình bay đến trên đầu gã:

- Đồ khốn, đỡ tiếp một chưởng của lão tử đây!

Lương Tiêu nào dám đấu tay không nữa, lập tức tuốt kiếm đâm thẳng tới ngực Công Dương Vũ. Ông già hừ mũi, nhuyễn kiếm Thanh Li bật ra khỏi tay áo, lưỡi thép mỏng tang, lúc duỗi lúc uốn hệt như đàn rắn quẫy trườn, mổ vào mọi chỗ yếu hại khắp mình Lương Tiêu.

Kiếm đôi bên vũ động rất nhanh, chỉ ngóc lên hụp xuống một thoáng đã trao đổi năm chiêu, xuất chiêu thần tốc nhưng không giao nhau lấy một lần, trông như thể người nào biểu diễn bài múa kiếm của riêng người nấy, nhưng thực chất toàn những sát chiêu nhăm nhăm tìm sơ hở đánh vào chỗ hiểm của nhau. Lương Tiêu tuy tiến bộ chóng mặt, nhưng vẫn kém sút rất nhiều so với Công Dương Vũ, đã mấy lần suýt lâm hiểm cảnh.

Thấy gã đỡ được liền năm sát chiêu của mình, Công Dương Vũ vừa kinh ngạc vừa buồn rầu: “Chỉ cần thời gian đủ dài, thằng bé này nhất định sẽ trở thành tông sư một phái. Tiếc thay nó kéo bè kéo cánh với quân tàn ác, võ công càng cao sẽ càng gây nhiều tai họa. Hôm nay nếu không trừ bỏ, chẳng biết mai sau nó còn dồn bao nhiêu người Tống vào chỗ chết?”. Ý nghĩ ấy khiến lòng dạ ông trở nên sắt đá. Công Dương Vũ phóng trường kiếm tới mặt Lương Tiêu, khiến gã phải luống cuống tung mình nhảy tránh. Chợt thấy dưới chân hẫng một cái, Lương Tiêu hoảng hồn than thầm: “Chết rồi! Sau lưng là vực thẳm!”. Gã toan ghìm đà lao, Công Dương Vũ đã xoáy thẳng kiếm tới mặt gã.

Đám tướng sĩ xung quanh thốt lên kinh hãi, Lương Tiêu ngã ngửa xuống vực, cùng lúc ấy, nhác thấy một cái khe trên vách đá, gã bèn vận kiếm đâm mạnh vào. Keng một tiếng, Lương Tiêu nắm đốc kiếm, người treo lửng lơ, đu đa đu đưa trên luồng gió sông ào ạt thốc lên. Công Dương Vũ không truy đuổi, vuốt râu giễu cợt:

- Ngươi sử chiêu khỉ đánh đu này hay đấy!

Lương Tiêu tự biết khó thoát chết, cũng chẳng thèm cân nhắc lời nói nữa:

- Ông giở chiêu chó ăn phân mà đâm tôi đi!

Công Dương Vũ chột dạ: “Nó đang ở dưới thấp, ta muốn đâm phải cúi xuống, bộ dạng chồm hỗm như chó hoang, chẳng hóa mắc bẫy miệng lưỡi nó sao?”. Ông già tần ngần, chợt nghe gió rít sau lưng, đám thân binh đã múa đao chạy tới. Công Dương Vũ xoay phắt lại vẫy một chưởng quét ngã bốn tên, đám còn lại khiếp đảm dừng bước. A Truật thét:

- Kẻ nào thụt lùi, chém!

Quân lệnh như sơn, không ai dám chống, đám thân binh tiếp tục hò hét liều chết xông lại. Công Dương Vũ bật cười, nhuyễn kiếm chui tọt vào tay áo:

- Binh tôm tướng tép chả bõ dính răng, chỉ tổ mất công. – Dứt lời, ông lạng đến sát mặt A Truật, tóm chặt lấy ngực áo y, cười khà khà. – Luôn mồm thúc người khác đi vào chỗ chết, còn bản thân mình thì chẳng giở ra được mấy nả sức.

Chủ soái đã bị kiềm chế, đám thuộc tướng đều tái mét mặt.

Lương Tiêu rung tay rút kiếm, tạo đà lộn ngược lên miệng vực, người chưa tiếp đất đã hét vang, vận kiếm sử Hoán kiếm đạo. Quẻ Hoán là Khảm dưới Tốn trên, tức gió đi trên nước, nước gặp gió tan. Hoán kiếm đạo vũ động tựa cuồng phong, trút bão táp xuống lưng Công Dương Vũ.

Ông già vốn cố ý thả lỏng cho Lương Tiêu lên, thấy thế cười nói:

- Đến đúng lúc lắm! – đoạn túm lưng A Truật, quay mặt y ra làm khiên đỡ trường kiếm Ảo Nguyên.

Lương Tiêu vẫn vận kiếm không ngừng, đâm liên tiếp sáu nhát, thân kiếm bị nội lực của gã ép mạnh đến nỗi cong lại, nhát nào nhát nấy đều lướt sát những chỗ yếu hại khắp mặt mũi A Truật. Các tướng chứng kiến mà hồn xiêu phách lạc, nhao nhao phản đối:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Lương Tiêu lẳng lặng thi triển kiếm pháp, càng sử càng dẻo tay, trông qua tưởng chừng múa máy phạt chém bừa bãi, nhưng thực chất hết sức cẩn trọng để tránh đả thương A Truật, đồng thời vòng lách qua y để ngắm đâm Công Dương Vũ. A Truật hiểu rõ ý Lương Tiêu nên rất bình tĩnh, kể cả khi mũi kiếm lướt sát trán mình, y cũng không chớp mắt, thần sắc vẫn thản nhiên như không.

Nhìn hai người, một kẻ tự tin có thừa, kiên trì xuất kiếm tấn công, một kẻ dũng cảm đối mặt, thản nhiên coi thường cái chết, Công Dương Vũ vốn tự phụ mà cũng không nén nổi cảm giác ớn lạnh: “Người Nguyên có hạng tướng soái anh dũng thế này, chả trách đánh đâu thắng đó. Kẻ đánh kiếm cố nhiên đã tài ba gan góc, nhưng kẻ hứng kiếm tỉnh bơ mặc kiếm chờn vờn quanh mình mới thực sự là bản lĩnh cao minh”.

Nghĩ tới đây, Công Dương Vũ không nén được lòng mến tài, bèn lôi A Truật sang một bên, duỗi ngón tay nắm mũi kiếm Ảo Nguyên rồi búng nhẹ. Tức thì, một luồng khí nóng chạy theo thân kiếm đẩy thẳng xuống hổ khẩu Lương Tiêu, cánh tay rát bỏng như bị lửa đốt, gã vội thu kiếm nhảy vụt ra sau.

Công Dương Vũ cười:

- Núi đá đổ xuống đầu, mãnh hổ rình sau lưng mà mặt không đổi sắc! Tên nguyên soái Thát Đát này định lực không tồi. Tốt lắm! Lương Tiêu, hai chúng ta cá cược thêm ván nữa, vật cược chính là tính mạng A Truật. Nếu ngươi thắng, ta tha chết cho hắn, nếu ngươi thua thì, chính ngươi phải tự sát.

Lương Tiêu biết không còn cách nào khác để ép Công Dương Vũ thả người, bèn nhướng mày đáp:

- Được, xin tiên sinh nói rõ!

A Truật nghe mà cảm động.

Công Dương Vũ đặt ra việc đánh cược chỉ do hứng chí nhất thời, thành thử nói xong lại hối hận ngay: “Hoàn cảnh bây giờ đã khác trước, ta mà bất cẩn là Đại Tống đi tong. Dẫu rằng năm xưa ta đã lập thệ không ngó ngàng đến sự hưng vong của nước nhà, song đó chỉ là lời lẽ lúc cả giận mất khôn. Tiểu tử Văn Tĩnh từng nói: “Tuy triều đình không đúng, nhưng nếu bọn Thát chiếm đóng Đại Tống, bách tính sẽ khốn khổ”. Hắn nói phải lắm! Lão phu quyết rồi, hôm nay nhất định không để một tên tướng Thát nào toàn mạng xuống núi”. Suy tính xong đâu đấy, ông mỉm cười hỏi:

- Được, ngươi khá đoán xem, tên A Truật trong tay ta đây sống hay chết?

Lương Tiêu ngạc nhiên nghĩ bụng: “Cố nhiên là sống mà”. Gã định trả lời thì sực nghĩ ra: “Không phải, sự sống chết của A Truật đang nằm cả ở tay ông già, ta làm sao thắng được? Nếu ta đoán sống, ông thúc khẽ chưởng lực là A Truật mất mạng, rồi ta phải tự tận. Nếu ta đoán chết thì dù A Truật may mắn được tha, ta vẫn cứ chết như thường”. Lương Tiêu khó xử quá, cứ đứng đực mặt hồi lâu.

Công Dương Vũ cười thầm: “Hễ nó đáp “sống” là ta phát tài, gieo xúc xắc một lượt được cả ngũ và lục. Nhưng xem chừng nó không chịu mắc lừa”. Ông bèn giục:

- Ngươi nghĩ xong chưa? Ta đếm đến ba, nếu ngươi vẫn không đoán ra thì coi như thua. Nghe đây, một…

Lương Tiêu mím môi, mặt trắng bệch. Công Dương Vũ cười:

- Hai!

Khi ông sắp sửa buông từ “Ba!” thì một giọng lạnh lùng xen vào:

- Ta đoán là sống!

Giọng nói không to nhưng rền vang như sấm, chấn động hết thảy màng nhĩ mọi người. Công Dương Vũ giật mình liếc mắt nhìn ra, thấy Tiêu Thiên Tuyệt đang đứng trên một tảng đá, tà áo đen bay phần phật. Ông hơi đổi sắc mặt, nhưng cười ngay:

- Lão quái vật, e rằng ngươi đoán sai rồi.

Đoạn nhấn tay toan đẩy chưởng lực, chợt một luồng gió tanh táp đến sau lưng, Công Dương Vũ lật tay đâm mạnh Thanh Li kiếm ra sau, tức thì nghe thấy tiếng gầm vang vọng. Đúng khoảnh khắc ông già phân tâm, Tiêu Thiên Tuyệt lạng người đến gần, chộp tay vào vai A Truật, một luồng nội lực xộc qua vai y thúc sang lòng bàn tay nhà nho. Công Dương Vũ phải đối phó cả trước lẫn sau, không kịp ứng biến, cổ tay nóng sực lên rồi bị nội kình vô song của Tiêu Thiên Tuyệt đẩy bật ra. Ông chưa kịp chộp con tin lại thì họ Tiêu đã nhấc A Truật lướt lui về sau hơn một trượng, ngạo nghễ nói:

- Ai đoán sai đây?

Công Dương Vũ hừ mũi, liếc mắt trông kẻ vừa đánh lén mình, thấy con hổ đen đang chống ba chân xuống đất, nhe nanh gầm gừ, chân còn lại cào đất toay toáy, trên chân rành rành một vết kiếm sâu, máu chảy đầm đìa. Công Dương Vũ tức giận nghĩ: “Đồ súc sinh, làm hỏng cả việc lớn của ta”. Các tướng ngỡ ngàng không hiểu người áo đen và con vật kia từ đâu chui ra, Lương Tiêu thì trừng trừng nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, bàn tay cầm kiếm run bần bật.

Lúc này, một thân binh lấy tù và ra rúc u u. Đám vệ binh ở sườn núi bắt được tín hiệu liền nhao nhao hò la đổ lên cứu viện. Công Dương Vũ cười ha hả, hai mắt sáng quắc:

- Tiêu lão quái, ngươi có một thứ bản lĩnh thuộc loại vô địch thiên hạ khiến Cùng Nho khâm phục lắm lắm.

Tiêu Thiên Tuyệt nhạt nhẽo hỏi:

- Bản lĩnh gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Công phu đón gió hít rắm ấy, đích thực là thiên hạ đệ nhất! Bất kể lão tử ở đâu, ngươi cũng ngửi được hơi gió, à không, ngửi được hơi rắm mà lần mò tìm đến!

Tiêu Thiên Tuyệt kìm giận:

- Không dám. Lão Cùng Nho cũng có một bản lĩnh đáng gọi là vô song.

Công Dương Vũ vênh mặt:

- Bản lĩnh vô song của lão tử thì nhiều chứ, chẳng hay ngươi nhắc đến bản lĩnh nào?

- Nhiều đến đâu cũng không đáng kể, chỉ đáng kể mỗi bản lĩnh né tránh trốn chạy khi chạm mặt lão phu. Bản lĩnh vắt chân lên cổ chạy tóe khói đó, Tiêu mỗ rất khâm phục.

Công Dương Vũ lắc lư đầu chế giễu:

- Lão quái vật nói sai rồi. Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Thói thường nam nhân theo đuổi nữ nhân, ta là tu mi nam tử, cũng chỉ mến thục nữ, không ham nam sắc, đời nào chịu được trò đeo bám dai dẳng của ngươi… – Ý bảo Tiêu Thiên Tuyệt mắc bệnh đồng tính nam nên mới lẵng nhẵng theo mình khắp nơi cùng chốn như thế.

Ai nghe cũng ngạc nhiên, mọi con mắt đổ dồn vào Tiêu Thiên Tuyệt: “Thật không ngờ, trông lão già mặt mày lạnh lùng, hóa ra lại có đam mê khác thường đến vậy!”.

Tiêu Thiên Tuyệt nổi trận lôi đình, gắt ầm lên:

- Đánh rắm, đánh rắm!

Công Dương Vũ bịt tay áo vào mũi:

- Làm gì mà đánh liền hai phát thế? Thối quá, thối quá! – vừa nói vừa cười ha hả, thanh âm lồng lộng bầu trời.

Trong số những người trên núi, trừ Tiêu Thiên Tuyệt và Lương Tiêu, ai cũng nhức hết cả tai, đầu váng tim run, lảo đảo suýt ngã.

Tiêu Thiên Tuyệt nghe điệu cười thập phần quái dị bèn lưu tâm đề phòng. Lão liếc mắt nhìn quanh, chợt kinh ngạc nhận thấy một chiếc diều lụa hình dáng như con rết, dài chừng mười trượng tà tà bay lên khỏi trận thế quân Tống.

Công Dương Vũ chợt nhích tay, Thanh Li kiếm xé gió đâm tới Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu giật lui nửa bộ, múa tay phản kích. Hai bóng người xoay vù vù trong phạm vi mấy trượng, bàn tay và thanh kiếm liên tục giao nhau chát chát, nghe như tiếng trân châu rơi xuống khay ngọc, khó lòng phân biệt được ai nhanh ai chậm, ai trước ai sau.

Binh lính ùn lên núi càng lúc càng đông. Lương Tiêu lo lắng nghĩ thầm: “Người đời thường nói, hai đánh một chẳng chột cũng què. Công Dương Vũ tuy lợi hại, nhưng trước mặt có Tiêu Thiên Tuyệt, sau lưng có vạn mã thiên quân thì muốn thoát thân e cũng không dễ…”. Gã suy tính rất nhanh, chợt quát to:

- Lão khọm già, xem chiêu đây! – rồi cùng kiếm lao đi, vẫy một nhát đâm thẳng vào Tiêu Thiên Tuyệt. Các tướng đều thốt lên kinh ngạc, nhưng Lương Tiêu chẳng buồn bận tâm, chỉ những múa kiếm thần tốc tấn công.

Tiêu Thiên Tuyết đang ráo riết quyết phân thắng phụ, bị tập kích bất ngờ buộc phải giật lui ba bước. Công Dương Vũ bực tức mắng:

- Ai khiến đồ nhãi ranh nhà ngươi đa sự? – đoạn chuyển kiếm đâm Lương Tiêu.

Lương Tiêu không tránh kịp, tưởng chừng bị mũi kiếm mềm xuyên thủng tim đến nơi, thình lình Tiêu Thiên Tuyệt nhấp chân áp sát, vỗ ra một chưởng. Công Dương Vũ đành buông Lương Tiêu, thu binh khí về ứng phó. Lương Tiêu thở phào, tiếp tục vận kiếm đâm Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu cáu kỉnh quát:

- Đồ súc sinh, muốn chết ư?

Tuy miệng nạt nộ như vậy, nhưng thực chất một thân một mình đương cự với hai cao thủ vốn đã không đơn giản, làm sao mà đánh chết được Lương Tiêu, lão già đành tạm thời thi triển thân pháp né tránh các mũi tấn công.

Nhân lúc Tiêu Thiên Tuyệt chuyển công thành thủ, Công Dương Vũ thừa cơ vung kiếm đâm Lương Tiêu, gã trẻ tuổi đã phòng bị sẵn, xuất thủ chống trả, chỉ thoáng chốc hai bên lại trao đổi mấy chiêu. Lúc này Tiêu Thiên Tuyệt chuyển thế phi thân đến, định giở chưởng, nào ngờ Công Dương Vũ và Lương Tiêu cùng xoay kiếm ra đón lão.

Tiêu Thiên Tuyệt đành đảo người liên tục để né tránh. Thoát hiểm xong, định thần nhìn kỹ thì thấy Lương Tiêu và Công Dương Vũ đã lại xáp vào giao đấu rồi, Tiêu Thiên Tuyệt nổi giận đùng đùng, lập tức chia song chưởng tấn công cả hai. Công Dương Vũ và Lương Tiêu cũng trở kiếm về đấu với lão. Hết đợt này tới đợt khác, lúc xáp vào lúc tách ra hệt như tam quốc tranh hùng, chỉ trong nháy mắt cả ba đã chiết đến hơn trăm chiêu mà vẫn khó bề phân thắng phụ. Quân Nguyên chỉ sợ Lương Tiêu bị thương, lăm lăm đao nỏ hườm sẵn, nhưng ném chuột lại ghê cũi bát nên chưa dám vọng động.

Trong lúc ba người kịch chiến, gió đông bắc nổi lên rất mạnh, con diều lụa nương chiều gió từ từ bốc cao, lên tới khoảng tám mươi trượng, xấp xỉ đỉnh Thạch Công thì nó lững lờ ghé lại gần ngọn núi. Quân sĩ kéo lên càng lúc càng nhiều, Công Dương Vũ biết khó lòng thực hiện được ý định nữa, bèn trừng mắt nhìn Lương Tiêu, lại trừng mắt nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, chợt quất mạnh kiếm tới trước buộc Lương Tiêu phải lùi ra xa rồi vỗ một chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu huy chưởng chống đỡ, hai chưởng xô mạnh vào nhau, Công Dương Vũ cười ha hả:

- Lão quái vật, Cùng Nho đi đây!

Tiêu Thiên Tuyệt sững sờ một thoáng, đoạn thét vang, tung mình nhảy theo. Công Dương Vũ lộn nhào một vòng, bật ra khỏi đỉnh núi, chỉ còn tiếng cười rơi tõm lại:

- Đừng tiễn nữa, Tiêu lão quái, hẹn ngày tái ngộ!

Khinh công của Công Dương Vũ vốn siêu tuyệt, lại mượn được chấn lực từ đơn chưởng của Tiêu Thiên Tuyệt, có đà băng đi xa tới hơn mười trượng. Hiềm nỗi Thạch Công sơn cao đến tám trăm thước, dù Công Dương Vũ lợi hại cách mấy, rơi xuống tới đất cũng khó bảo toàn tính mạng. Mọi người đều đoán ông ta thà chết chứ không để bị bắt nên nhảy vực tự tận. Lương Tiêu chua xót trong lòng, cơ hồ sa lệ!

Gió sông hun hút, con diều dừng lơ lửng ở lưng chừng không, kéo căng sợi dây gai nối liền mặt đất. Dưới ánh dương, sợi dây sáng lóa như bôi mỡ. Công Dương Vũ vụt phất tay phải, một dải vải trắng dài chừng mười trượng phụt ra khỏi tay áo, cuốn vào dây gai. Con diều hơi trĩu xuống, treo nhà nho đu đưa giữa không trung. Công Dương Vũ vắt dải lụa qua dây gai rồi bám lấy hai đầu lụa, thả mình tuột vun vút xuống như đứa trẻ chơi trò cầu trượt suốt dọc sợi dây dài đến trăm trượng ấy.

Trên núi ai nấy ồ à kinh ngạc. Tên bay chíu chít về phía Công Dương Vũ. Ông giơ kiếm múa tít, cuốn rơi hết những loạt tên. Nhờ dây gai có bôi mỡ, Công Dương Vũ trượt xuống nhanh như sao băng lướt ngang trời, mau chóng vượt ra ngoài tầm xạ tiễn.

Quân hai bên đóng trên sông, trông thấy cảnh tượng lạ mắt ấy đều giơ tay chỉ trỏ, xì xào kinh ngạc.

A Truật cau mày, chợt giật lấy một cánh cung, đặt tên tẩm lửa ngắm bắn dây diều. Sợi dây trét đầy mỡ, vừa chạm phải mũi tên đã bắt cháy bùng bùng, lửa theo chiều gió trùm lên nuốt chửng cánh diều. Con diều lộn nhào rơi xuống, Công Dương Vũ mất thăng bằng, cũng rớt thẳng xuống sông.

Khi còn cách mặt nước chừng mười trượng, giữa tiếng hô hoán của hàng vạn người, Công Dương Vũ búng mình lộn nửa vòng lên trên sợi dây gai, đồng thời duỗi tay trước gió để tấm áo được thổi căng phồng như quả bóng, tốc độ rơi chậm hẳn lại, chậm hơn cả dây diều nhẹ.

A Truật bật la thất thanh:

- Lão đồ nho này ghê gớm thật!

Trong lúc y la, sợi dây đã chạm nước. Công Dương Vũ hạ xuống theo, đạp lên dây mà chạy như cưỡi gió, ung dung lướt vào trận thế quân Tống, mất tăm mất dạng.

Thấy Công Dương Vũ đã thoát nạn, Lương Tiêu cũng yên yên dạ, ngoảnh đầu nhìn quanh thì không thấy bóng dáng Tiêu Thiên Tuyệt đâu nữa, gã vội vàng cầm kiếm đuổi theo. Tiêu Thiên Tuyệt cưỡi hổ vượt núi băng đèo như đi trên đất bằng. Khi Lương Tiêu chạy xuống đến chân núi, lão đã tan biến như chưa từng xuất hiện.

Lương Tiêu ngơ ngẩn hồi lâu, chợt một giọng oang oang vọng tới chỗ gã:

- Tổ sư ngươi! Vì sao lão tử không được đứng đây?

Lương Tiêu nghe giọng quen tai bèn liếc mắt nhìn thì thấy Trung Điều Ngũ Bảo đang giậm chân bình bịch đằng xa, vây xung quanh là binh lính Nguyên triều. Người vừa lớn tiếng chính là Hồ Lão Bách, tay khoanh trước ngực ngang bướng cãi cọ. Hồ Lão Thiên tiếp lời:

- Phải đó, mảnh đất rộng này là hố xí của nhà ngươi đấy à? Mà cứ coi như là hố xí nhà ngươi, cho lão tử đi nhờ một lần thì đã làm sao?

Năm huynh đệ cùng cười ha hả.

Quân Nguyên nghe hắn nói năng nhố nhăng, thảy đều tức giận, chực xúm vào quây đánh, Lương Tiêu bèn tới gần bảo:

- Khoan đã!

Nhận ra gã, binh lính đều lùi lại. Trung Điều Ngũ Bảo gặp Lương Tiêu thì hớn hở vô cùng, vây quanh gã mồm năm miệng mười tranh nhau nói. Lương Tiêu cũng vui mừng không kém:

- Năm tên lưu manh, đến đây làm gì?

Hồ Lão Vạn nói:

- Lão tử theo Tiêu đại gia mà. Tiêu đại gia đi trước, lão tử rớt lại sau, không ngờ bị bọn này vây riết, còn bị chúng đổ diệt là gian tế nữa.

Lương Tiêu cau mày, một binh sĩ bước lên phân trần:

- Bẩm tướng quân, vừa rồi trên núi xảy ra lắm việc rắc rối, dưới đây bỗng mọc đâu ra mấy tên bận trang phục miền nam này, chúng thuộc hạ sinh nghi mới tra xét, không ngờ họ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngay được.

Lương Tiêu bảo:

- Họ không phải gian tế đâu, các ngươi giải tán đi!

Đám binh lính đỡ những đồng đội bị ngã dậy, cùng bái chào rồi rút lui. Hồ Lão Thiên đảo cặp mắt ti hí nhìn quanh:

- Đồ đệ của lão tử đâu rồi đại ca?

Lương Tiêu đứng sững. Hồ Lão Nhất cũng náo nức:

- Dương Tiểu Tước không đi theo đại ca ư?

Hồ Lão Thiên kêu lên:

- Lý Đình đâu? Lão tử thấy nhơ nhớ hắn!

Hồ Lão Vạn cười:

- Lão tử nghĩ ra vô khối tuyệt chiêu muốn truyền hết cho Vương Khả, bảo đảm hắn tiến bộ rất nhanh, không ai địch nổi.

Hồ Lão Nhất liếc Hồ Lão Vạn, giọng mỉa mai:

- Tuyệt chiêu đâu ra, lão tử mà chỉ vẽ cho Dương Tiểu Tước dăm ba chiêu, đảm bảo hắn cất tay là Vương Khả mềm nhũn như quả hồng.

Hồ Lão Thập nói tranh:

- Tam Cẩu Nhi thì thậm chí không cần cất tay, chỉ nhổ một bãi nước bọt cũng đủ dìm chết Vương Khả.

Hồ Lão Thiên huênh hoang:

- Thế cũng chưa là gì, Lý Đình chỉ đánh một phát rắm là đủ để thối ngã tên ranh con đấy!

Ba Bảo này bất mãn về cái câu “không ai địch nổi” nên hợp lực móc máy cho Hồ Lão Vạn biết nhục. Hồ Lão Vạn tức mình, nhưng nghĩ hai nắm đấm không địch nổi sáu cánh tay nên đành nuốt giận làm thinh. Lương Tiêu lưỡng lự một thoáng rồi nói:

- Bọn chúng đang ở Kinh Khẩu, nếu các ngươi muốn gặp thì lên ngựa đi, ta đưa về gặp.

Năm người mừng rỡ vâng lời. Lương Tiêu dắt mấy con ngựa đến, dẫn họ vào thành.

Lý Đình và Vương Khả mừng quýnh lên khi gặp sư phụ. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cũng phấn khởi tột độ, bất chấp ánh mắt tò mò của mọi người xung quanh, ôm chặt lấy hai đồ đệ vẫn đóng nguyên bộ giáp trụ, lăng đi lăng lại như nghịch với trẻ con. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập càng nhìn càng ngứa mắt. Hồ Lão Thập túm áo Lương Tiêu hỏi giật giọng:

- Tam Cẩu Nhi đâu?

- Ừ đúng, Tiểu Tước Nhi đâu? – Hồ Lão Nhất cũng thắc mắc.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Ta mệt lắm, ngươi hỏi Lý Đình sẽ biết.

Lý Đình chỉ kịp hét lên: “Lương đại ca!” là đã bị Trung Điều Ngũ Bảo túm giằng túm xé, rối rít gặng hỏi. Không còn trốn vào đâu được, gã đành cứ sự thực mà ngọn ngành kể ra.

Ngũ Bảo ngơ ngác nhìn nhau, Hồ Lão Nhất chợt gầm to:

- Ngươi dối trá, đồ súc sinh…

Dứt lời, hắn túm chặt Lý Đình, vo nắm đấm chực đánh. Hồ Lão Thiên xót đồ đệ vội giơ tay ngăn, hai anh em liền lăn xả vào vật lộn. Hồ Lão Thập đứng sững một hồi rồi cũng rống lên oa oa, đá Lý Đình chí chết. Hồ Lão Vạn giơ tay ngăn:

- Ngươi đá hắn thì có tác dụng gì?

Hồ Lão Thập liền nện nắm tay vào vai Hồ Lão Vạn, mắt đỏ hoe hoe. Hồ Lão Vạn đau thấu xương cốt, lật đật giật lui, bực bội mắng:

- Ngươi điên đấy à?

Rồi họ cũng tay đấm chân đá thình thịch. Kình khí bắn ra xung quanh, chém nát từ bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn đến đủ các thứ bình ngọc ấm bạc bày biện trong sảnh.

A Tuyết, Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ Ngạt nghe tin chạy sang, nhìn cảnh ẩu đả hỗn loạn quá mức, đều sợ sệt không dám lại gần. Lương Tiêu mất kiên nhẫn đành chạy ra quát to:

- Dừng tay!

Hồ Lão Thập nghe tiếng giật mình, đầu óc cũng hơi tỉnh táo lại, túm vai Lương Tiêu hỏi:

- Đại ca, tên oắt Lý Đình lừa bọn ta, phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Hắn không lừa ai đâu, mỗi câu mỗi chữ đều là thật.

Hồ Lão Thập sững sờ thõng tay, dập đầu xuống đất binh binh, mồm lẩm nhà lẩm nhẩm. Hồ Lão Nhất vốn bị ba huynh đệ liên thủ giữ ghịt lấy, đang vẫy vùng giãy giụa, chợt nghe Hồ Lão Thập khóc mếu, hắn cũng rụng rời khóc òa lên.

Không ngờ hai tên ấy nặng tình cảm như vậy, ai trông cũng xúc động can tràng, khóe mắt hoen ướt. Hồ Lão Thiên ngơ ngẩn buông Hồ Lão Nhất ra:

- Hồ Lão Nhất đừng khóc, cùng lắm lão tử tặng Lý Đình cho ngươi là được chứ gì!

Nói đoạn kéo Lý Đình lại, ép gã dập đầu lạy Hồ Lão Nhất. Hồ Lão Vạn thấy thế cũng lôi Vương Khả đến trước mặt Hồ Lão Thập:

- Này, lão tử… – Trong lòng hắn thực ra không muốn, do dự khá lâu mới cắn răng nói. – Lão tử cũng đem đồ đệ kính tặng ngươi đây.

Hồ Lão Thập vắt mũi dãi:

- Thèm vào đồ đệ của ngươi, lão tử chỉ cần Tước Nhi của lão tử thôi!

Hồ Lão Nhất nấc nghẹn:

- Phải, lão tử cũng chỉ cần Tam Cẩu Nhi thôi!

Hai người đau lòng quá đỗi, lại khóc rống lên. Bốn huynh đệ cứ hết khuyên lơn đến chối từ, biếu đi đẩy lại đám đồ đệ tuồng như bọn chúng chỉ là đồ vật chén bát, có thể chuyển nhà đổi chủ bất cứ lúc nào. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cuối cùng bất lực, đành nài Lương Tiêu:

- Ngươi lắm mưu nhiều kế, mau nghĩ cách…

Lương Tiêu thở dài, chìa tay nâng cả Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập dậy:

- Đều tại ta không bảo vệ được hai tên ấy, các ngươi cứ trút giận vào ta đây.

A Tuyết vội can:

- Không được! – đoạn vòng hai tay ôm chặt Lương Tiêu, sợ Hồ gia huynh đệ đánh thật.

Hồ Lão Thập sụt sùi một lúc, lắc đầu bảo:

- Có phải lỗi của đại ca đâu, đều tại lão tử dạy dỗ Tam Cẩu Nhi chưa tới nơi tới chốn.

Hồ Lão Nhất cũng tự trách:

- Phải, Dương Tiểu Tước mà học được hết công phu rồi thì chỉ đánh thắng chứ ai giết nổi hắn?

Lương Tiêu không ngờ hai anh em họ đúc rút kết luận nhanh như vậy, nói giọng ngỡ ngàng:

- Các ngươi nghĩ thoáng ra được thế thì tốt. – Gã quay sang Vương Khả và Lý Đình. – Hai đệ là bằng hữu chí thiết với Tam Cẩu Nhi, Dương Tiểu Tước. Sư phụ của họ là sư phụ của các đệ, cha mẹ họ cũng là cha mẹ của các đệ, sau này dẫu lập được sự nghiệp to lớn thế nào cũng phải ghi nhớ điều ấy.

Hai người vâng dạ, lạy Ngũ Bảo ba lạy. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập đều thở dài, nhưng nghĩ kỹ có ít cũng còn hơn không, cuối cùng đành ngậm ngùi chấp thuận.

Đêm ấy Lương Tiêu mở tiệc tẩy trần cho năm người. Trung Điều Ngũ Bảo không vui vẻ mấy, ỉu xìu uống một lúc rồi gọi Lý Đình và Vương Khả vào vườn trong truyền dạy võ công. Họ đều nôn nóng hết sức, chỉ muốn dốc ngay toàn bộ bản lĩnh ra cho hai đồ đệ, vì vậy đôn đốc luyện tập rất khe khắt. Lý Đình và Vương Khả tuy đã làm tướng nhưng vẫn rất nhu thuận với các sư phụ, không dám chống đối mảy may.

Lương Tiêu thấy vậy cũng yên tâm, bèn về phòng nghỉ ngơi. Giữa đêm, gã choàng tỉnh vì một tiếng hú dài. Lúc đầu còn tưởng là tiếng Trung Điều Ngũ Bảo la ó dạy dỗ đệ tử, nhưng nghe kỹ, nhận ra nội lực vô song trong âm thanh, gã bàng hoàng mặc áo chạy ra.

Ngoài sân, Trung Điều Ngũ Bảo, Lý Đình và Vương Khả đang ngửa cổ nhìn lên, khuôn mặt đầy vẻ kinh hoàng. Trong đêm tối, có hai bóng người xẹt qua xẹt lại trên các mái nhà, tốc độ di chuyển quá nhanh làm phát ra tiếng gió vù vù.

Lương Tiêu chú mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt. Tướng sĩ trong phủ cũng mất giấc vì tiếng động, ai nấy theo nhau trở dậy, đèn đuốc thắp sáng trưng.

Công Dương Vũ cười ngất:

- Tiêu lão quái, ở đây toàn là đồng bọn của ngươi, có giỏi thì cùng ta ra ngoài thành đơn đả độc đấu?

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng trả lời:

- Ra thì ra, kể cả ngươi giăng bẫy ta cũng không sợ.

Hai bóng người tách lìa, song song chạy ra ngoài thành. Lương Tiêu tung mình lên mái nhà, bám sát đằng sau, Trung Điều Ngũ Bảo cũng chạy theo, luôn miệng kêu la chí chóe. Càng tiến xa, cước lực của tám người càng phân rõ cao thấp, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt chạy ngang nhau, Lương Tiêu cách họ chừng một trăm ba mươi bộ, còn Trung Điều Ngũ Bảo thì bị bỏ lại sau khá xa.

Khi Lương Tiêu đuổi đến lầu thành, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đã ở bên ngoài và đang thần tốc di chuyển về hướng nam, không hiểu họ vượt thành bằng cách nào. Hai bóng đen lao như tên bay, chỉ chớp mắt đã lẩn vào đêm tối.

Lương Tiêu băn khoăn: “Công Dương tiên sinh định đến giết ta ư? Ta phải nói chuyện với ông cho minh bạch, rốt cục là ta sai ở điểm gì, hay chính bản thân ông sai. Còn Tiêu Thiên Tuyệt, ta và lão ấy thù sâu như bể, đánh trận là chuyện nhỏ, báo thù mới là việc lớn, lần này đã gặp được nhất định không thể bỏ qua”. Gã lập tức thét mở cổng thành, lao ra đuổi theo hai người.

Xà Khiếu Tước Lai

Lương Tiêu chạy một mạch, thi thoảng bắt gặp dấu vết hai người để lại, cây gãy đá nát như cuồng phong quét qua. Gã trông thấy mà kinh hoàng, tự nhủ cho dù tìm được Tiêu Thiên Tuyệt chắc mình cũng mất mạng. Ý nghĩ khiến gã bi phẫn vô cùng, biết rõ chuyến đi lành ít dữ nhiều mà chân không sao dừng được.

Đuổi về phía tây nam suốt nửa đêm vẫn không bắt kịp, dấu chân hai người càng lúc càng mờ nhạt, Lương Tiêu chạy đến sáng sớm ngày hôm sau thì mất dấu. Gã sục sạo khắp nơi hồi lâu nhưng vẫn không vớt vát được chút manh mối nào, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt y như thể đã bốc hơi.

Lương Tiêu không nản lòng, tiếp tục tiến bước, băng qua mấy thôn làng đều tịnh không gặp một người sống, khắp mặt đất vương vãi những thương gãy cung đứt, thi thể lăn lóc, phần nhiều là binh lính hai nước Tống, Nguyên, nhưng cũng có không ít dân lành, cảnh tượng thê thảm không kể xiết.

Lương Tiêu lòng dạ ngổn ngang, chạy tiếp trăm dặm cuối cùng cũng gặp một nhóm dân Tống, hỏi ra mới biết có mấy tốp lính Nguyên tăng cường đi qua vùng này, đụng độ với lính Tống. Cư dân sợ loạn quân cướp bóc, bèn bỏ lại vườn tược, nháo nhào chạy đi tránh nạn.

Nhìn nhóm dân Tống quần áo lam lũ đầu tóc rối bù, mặt mũi lem nhem sắc diện hoảng hốt, Lương Tiêu vụt nhớ đến những gì đã từng chứng kiến, nỗi hối hận trào dâng ngập lòng.

Dạo thề độc diệt Tống, gã chẳng thể ngờ rằng cứ đánh đánh giết giết là sẽ đẩy muôn dân vào cảnh lầm than. Sau khi tận mắt trông thấy thảm trạng trong thành Tương Dương, gã đã ăn năn lắm rồi, còn gắng gượng theo quân giao chiến được đến nay đều là nhờ những lời hùng hồn về một thiên hạ thống nhất hòa bình vĩnh cửu của Bá Nhan. Ngày lại ngày chinh chiến, làm chứng nhân bất đắc dĩ cho những màn tàn sát thê lương, lòng Lương Tiêu lúc nào cũng như thiêu như đốt.

Đêm nay, gặp hết làng mạc hoang vu đến dân tình li tán, gã hối hận cùng cực, bàng hoàng tự hỏi: “Cứ thế này mãi, chẳng biết còn bao nhiêu người chết, liên lụy bao nhiêu dân lành đây? Có lẽ rồi sẽ như Lan Á nói, sau chiến tranh, dầu cho thiên hạ thái bình ngàn năm, nhưng tâm hồn ta không bao giờ yên ổn được nữa”.

Lương Tiêu thẫn thờ hồi lâu, khi tỉnh táo lại, nạn dân đã đi xa. Gã nhìn theo bóng họ, lòng đau đớn như bị rắn độc cắn xé, thống khổ nghĩ: “Tiêu Thiên Tuyệt giết cha ta, cướp mẹ ta mang đi, khiến ta cô khổ phiêu bạt. Đến nay chính ta lại khiến bao nhiêu dân lành mất nhà mất cửa, tứ cố vô thân, thế này thì ta cũng có khác gì Tiêu Thiên Tuyệt đâu?”.

Lương Tiêu bất chấp tính mạng truy đuổi Tiêu Thiên Tuyệt chỉ cốt trả thù, nhưng ý nghĩ trên đã dập tắt hết mọi quyết tâm, chà cùn mọi ý định báo cừu xưa nay, gã lầm lũi tiến bước, không bận tâm đã đi bao xa, càng không biết mình đi về hướng nào.

Đêm khuya, hai chân nặng như đeo đá, Lương Tiêu rã rời ngồi xuống một gốc cây, dõi mắt về làng mạc phía xa, không gian tăm tối và lạnh lẽo như địa ngục. Đôi hồi gió rít lạnh căm lùa cành lá kêu u u, nghe như tiếng ai sầu ai thảm.

Sức lực kiệt quệ, tinh thần bải hoải, Lương Tiêu đờ đẫn chìm vào giấc ngủ. Cuối giờ dần đầu giờ mão, gã choàng tỉnh vì một tràng cười quái dị. Tiếng cười vút lên chói tai lẫn với âm thanh rin rít lạ lùng. Lương Tiêu bò dậy, tiếng cười tạm ngưng, bốn bề trở lại yên tĩnh.

Lương Tiêu nhìn về phía phát ra tiếng cười thì chỉ gặp bóng đêm dày đặc, không le lói lấy một tia sáng, người bỗng ớn lạnh.

Gã dò dẫm bước theo hướng tiếng cười đến mười mấy dặm, phía trước dần dần hiện lên bóng nhà cửa nhấp nhô, nhìn kỹ thì ra là một thôn trang. Lúc này trời sắp sáng, soi nổi dáng núi lởm chởm vươn cao phía sau ngôi làng. Thì ra con đường đã đưa Lương Tiêu tới gần địa giới Hoàng Sơn.

Nơi cổng làng ngổn ngang mười mấy xác chết của lính Nguyên. Lương Tiêu tiến đến, ngồi xổm xuống giở xem quần áo một người, trên ngực hắn in một vết đen trông giống con mắt âm hiểm nhìn trừng trừng. Lương Tiêu thót tim, khám kỹ hơn thì nhận ra toàn thân hắn mềm nhũn như bông, toàn bộ gân cốt đứt gãy từng đoạn, không còn một đoạn xương hay gân nào nguyên vẹn.

Lương Tiêu rất đỗi nghi hoặc, đoán chừng tên lính này bị đấm chết, gân cốt toàn thân đều hứng quyền kình nên gãy rời. Nhưng nếu như vậy, quyền kình của hung thủ quả là tàn độc lạ lùng, chưa từng thấy bao giờ. Gã tiếp tục xem sang các binh sĩ khác, trên ngực họ đều có dấu nắm đấm, gân cốt cũng gãy vụn.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đào một cái huyệt chôn tất cả xuống, xong xuôi đứng dậy thận trọng đi vào làng. Gã đoán có thể hung thủ vẫn còn ở trong trấn, bèn lập tức dồn tụ nội kình, đi bước nào cũng nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Suốt một thôi đường, thấy các nhà trong làng đều mở toang cửa lớn cửa sổ, bên trong vắng ngắt không một bóng người.

Lúc này trời tờ mờ sáng, gió lạnh căm căm thi thút xuyên qua các ô cửa, gào rít tựa tiếng quỷ khóc ban đêm. Lương Tiêu gan góc cùng mình mà cũng không khỏi phát run khi nghĩ tên sát nhân đang lẩn quất đâu đây. Thình lình có một tiếng “bình” rất to, Lương Tiêu thất thanh la lên:

- Ai? – rồi liếc mắt nhìn, phát hiện ra là một cánh cửa gỗ đang du đẩy qua lại bỗng đóng sập vào ngõng do gió thổi mạnh hơn.

Lương Tiêu thở phào, chợt thấy giữa khoảng khép mở của cánh cửa dường như thấp thoáng bóng người, gã thót tim, nhảy vọt tới lách mình vào nhà, nhưng bên trong trống hoác, không có một ai. Đang kinh ngạc thì nhận ra trên nền đất in một bóng đen dài thượt, do nắng sớm mới lên hắt vào từ ngoài cửa sổ, Lương Tiêu đạp cửa bay ra. Đập vào mắt gã là sáu người đang đứng thõng tay xếp thành hàng một, tất cả đều vận quân phục Nguyên triều.

Lương Tiêu nhướng mày hỏi:

- Các ngươi là thuộc hạ của ai?

Sáu binh sĩ vẫn bất động, bộ dạng ngây ngốc. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, bèn lại gần vỗ vào vai người đứng cuối hàng. Sau một tiếng “bộp”, sáu tên lính cùng đổ rạp về phía trước, chồng so le lên nhau như những quân bài cửu. Lương Tiêu sửng sốt nhìn kỹ thì thấy họ đã chết lè lưỡi lồi mắt tự bao giờ rồi.

Gã cúi xuống kiểm tra. Tình trạng tử vong của nhóm này khác với đám quân Nguyên ngoài cổng làng, gân cốt tuy đứt gãy hết nhưng trên mình không có vết thương gì rõ rệt. Riêng người cuối hàng đứt ngón út bàn tay phải, người thứ năm cụt ngón út bàn tay trái. Người thứ tư thì Lương Tiêu phải khám nghiệm khá lâu mới phát hiện ra ngón út bàn chân trái của hắn đã rụng. Người thứ ba rơi đâu mất ngón út bàn chân phải. Người thứ hai khá kỳ lạ, các sợi tóc tách rời từng đoạn nhỏ, ngoài ra không có thương tích gì nữa. Lương Tiêu hoang mang xem đến người đầu tiên thì thấy gân xương tóc tai đều nguyên vẹn, gã trầm tư một lúc rồi mở áo giáp lục tìm, quả nhiên phát hiện trên ngực hắn in hình nắm đấm đen kịt.

Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, một tia sáng bỗng xẹt qua óc, gã bất giác buột miệng thốt thành tiếng. Ai đó bật cười lạnh lùng:

- Nhìn ra rồi phải không?

Lương Tiêu hoảng hốt ngước lên. Một người đang lẳng lặng đứng cách gã chừng một trượng, ăn vận trễ nải nhưng phong thái rất ung dung đường hoàng. Lương Tiêu trố mắt:

- Công Dương tiên sinh… – Đắn đo một thoáng, gã hỏi. – Những người này đều do ông giết phải không?

Công Dương Vũ hừ mũi:

- Giết hạng vô danh tiểu tốt chỉ tổ bẩn tay. – Ông nhìn Lương Tiêu từ đầu xuống chân. – Hà, nhưng nếu ngươi muốn chết thì lão phu cũng vui vẻ giúp ngươi thỏa nguyện.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Tiêu Thiên Tuyệt đâu rồi?

Công Dương Vũ hững hờ đáp:

- Hắn gặp cố nhân, đang bịn rịn hàn huyên.

Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ đột nhiên xuất hiện đã kinh ngạc lắm rồi, lại nghe ông nói năng lấp lửng thì càng thêm nghi hoặc:

- Ở đây đã xảy ra chuyện gì?

- Cái thân ngươi bây giờ còn khó giữ, đừng thò mũi vào chuyện người khác nữa!

Lương Tiêu nóng mặt:

- Cứ cho là Lương Tiêu tội đáng muôn chết, lẽ nào Vân Thù chưa từng phạm lỗi?

Công Dương Vũ cau đôi mày rậm, mắt lóe lên sắc lạnh. Lương Tiêu xua tay:

- Tiên sinh khoan động thủ, sáu người này là đồng đội của tôi. Người ta thường nói nghĩa tử là nghĩa tận, tiên sinh hãy thư cho tôi ít thời gian để giúp họ yên nghỉ rồi giao đấu cũng chưa muộn.

Dứt lời, gã tuốt kiếm đào huyệt mai táng sáu binh sĩ nọ. Công Dương Vũ quan sát một lúc, lạnh lùng bảo:

- Chúng nó chết có ngươi chôn cất, chẳng biết ngươi chết rồi ai lo hậu sự cho?

Lương Tiêu ngẫm lại từ dạo tòng quân tới nay, chinh chiến liên miên, đã gặp bao cảnh thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hàng ngàn hàng vạn binh lính ngã xuống nơi sa trường đều biến thành các thi thể vô danh. Bản thân mình sống tới hôm nay thực đã may mắn lắm rồi. Càng nghĩ càng thê lương, gã lắc đầu:

- Người ta trên đời, ai mà không chết? Cùng là nhắm mắt xuôi tay, được chôn cất hay không có gì khác nhau? Lẽ nào tiên sinh đã biết mai sau ông chết có ai an táng hộ rồi chăng?

Công Dương Vũ ngẫm cảnh mình xa vợ lìa con, tấm thân cô quạnh không một bóng người thân, sợ rằng khi trăm tuổi nắm xương tàn sẽ rơi rụng trong núi hoang, chẳng ai ngó ngàng tới. Không nén được nỗi xót xa, ông thở dài sau một lúc câm lặng:

- Được, nể mặt Văn Tĩnh, lát nữa ngươi chết, lão phu sẽ tự tay an táng cho.

Trong lòng Lương Tiêu lẫn lộn biết bao cảm xúc. Gã vốn muốn tìm đến thanh minh với Công Dương Vũ, nhưng chuyến đi này khiến gã mục kích gần hơn bi kịch của binh đao, vừa hối hận vừa căm hờn, cho rằng bản thân mình gánh nặng bao tội nghiệt, chẳng màng phân trần lý lẽ nữa, chỉ nghĩ: “Hôm nay chết dưới tay ông già cũng như một sự giải thoát”, rồi lại chua xót: “Khổ nỗi thù cha chưa trả, mẹ đi đâu cũng không rõ, ta thõng tay chịu chết chẳng phải là bất hiếu lắm sao?”.

Cùng lúc ấy Công Dương Vũ bị lời lẽ của gã khơi gợi những tiếc hận bấy lâu trong tim, rầu rĩ tự nhủ: “Ta không thể quay lại Thiên Cơ cung được nữa, con cái sờ sờ ra đấy mà cũng như không, sau này về với tổ tiên, e rằng chẳng có ai hương khói tế tự ta cả. Chà, hài tử Văn Tĩnh vốn dĩ hiền lương, không may táng mạng dưới tay lão quái vật, ta nhất định báo thù cho hắn. Song hắn chỉ được một mụn con này, nếu nó chết, chẳng phải hắn sẽ tuyệt hậu hay sao?”. Khi mới biết tin Lương Tiêu tấn công quân Tống, ông đã đùng đùng nổi giận, những muốn giết ngay cho hả, nhưng đến lúc này bỗng lại ngập ngừng.

Ông già cầm râu trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu đang theo dõi với ánh mắt thắc mắc thì Công Dương Vũ chậm rãi hỏi:

- Ngươi có biết sáu tên này chết thế nào không?

Lương Tiêu cân nhắc một thoáng rồi đáp:

- Đều chết vì quyền kình. Song vì sao người thứ hai đứt tóc, bốn người đằng sau gãy ngón tay ngón chân thì thật khó hiểu.

- Đó chính là chỗ cao cường của kẻ ra tay. Nếu đấm cả sáu gãy xương đứt gân mà chết thì khó khăn gì, nhưng đây hắn chỉ đẩy quyền kình đến ngón tay hay cọng tóc nạn nhân, hoàn toàn không chạm vào các gân cốt khác. Nội lực tinh diệu tới mức có thể vận hành tùy ý rồi.

Lương Tiêu rùng mình:

- Tiêu Thiên Tuyệt chăng?

Công Dương Vũ cười nhạt:

- Tiêu lão quái giết người theo kiểu chém to kho mặn, đời nào nghịch ngợm tủn mủn đến thế? Môn võ công này xuất xứ từ Thiên Trúc, tên tiếng Phạn của nó là Thấp bà Quân đồ lị[1]. Theo tín ngưỡng Bà La Môn, “thấp bà” là vị thần hủy diệt, “quân đồ lị” nghĩa là rắn, cũng là tên gọi nội lực trong Du già thuật[2]. Thấp bà Quân đồ lị do đó có thể dịch ra là Rắn của thần hủy diệt, nhưng thường được gọi là Hỏa xà. Sau khi luyện thành công phu, nội kình hệt như trăm ngàn con rắn độc trườn khắp cơ thể địch thủ, húc vỡ tim, đập nát xương hoặc băm gan chặt ruột hoàn toàn tùy tâm ý của người thi triển.

Lương Tiêu tư lự:

- Xem chừng kẻ đó đã luyện thành.

- Đúng vậy.

Lương Tiêu nhướng mày:

- Tên hắn là gì?

Công Dương Vũ lườm Lương Tiêu, cười khẩy:

- Ranh con, ngươi chết đến nơi rồi còn hỏi chi cho lắm?

Lương Tiêu bực tức nói:

- Ai bảo ông không động thủ ngay đi, toàn lảm nhảm những chuyện đẩu đâu.

Công Dương Vũ buồn bã nghĩ: “Nếu ta đủ nhẫn tâm để động thủ, hà cớ phải rườm lời thế. Khốn thay hiện tại quyết tâm của lão phu suy yếu mất rồi, phải làm sao cho ngươi khiến ta tức giận mới ra tay được”. Ông bèn gợi ý:

– Nội công của hung thủ cao cường nhỉ, ngươi có khâm phục không?

Đối với Công Dương Vũ, kẻ tu luyện môn Hỏa xà này là kẻ đại gian đại ác, Lương Tiêu chỉ cần buông một từ “có” thôi thì nhất định ông sẽ nổi giận và thừa căm phẫn để lấy mạng gã. Vì vậy vừa hỏi dứt, ông liền nhìn chăm chăm vào mặt Lương Tiêu để dò thái độ.

Lương Tiêu nhíu mày, lắc lắc đầu:

- Trên đời này, nhiều lắm là có bốn người khiến tôi khâm phục, hung thủ còn lâu mới lọt được vào danh sách ấy.

Công Dương Vũ thất vọng ê chề, tiện miệng hỏi thêm:

- Thế à, bốn người nào?

- Có một hòa thượng vô cùng nghĩa khí, dám nói dám làm. Ông ấy xếp thứ tư trong số những người Lương Tiêu khâm phục.

- Cửu Như chứ gì?

- Tiên sinh cũng quen ông ấy à?

Công Dương Vũ hừ mũi, không trả lời thẳng vào câu hỏi:

- Ai nữa?

- Người tiếp theo là Liễu Tình đạo trưởng. Tại sao thì chắc khỏi phải giải thích.

Công Dương Vũ gật đầu lia lịa, hớn hở nói:

- Tất nhiên tất nhiên, nàng xếp thứ nhất phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Thứ ba.

Công Dương Vũ cáu kỉnh nghĩ bụng: “Để xem ai xếp được trên nàng”. Lương Tiêu tiếp:

- Người thứ hai Lương Tiêu khâm phục là một tiểu cô nương.

Công Dương Vũ nhăn mặt nghĩ bụng: “Một đứa ranh con mà dám so đọ với Tuệ Tâm hử?”. Ông hừ mũi giận dữ. Lương Tiêu bùi ngùi:

- Tiểu cô nương này mắc bệnh nan y nhưng không bi quan buồn bực mà luôn vui vẻ giúp đỡ người khác, nhờ cô bé giúp đỡ nên mới có Lương Tiêu ngày nay.

Công Dương Vũ dịu nét mặt, khẽ gật đầu. Lương Tiêu chốt hạ:

- Còn người Lương Tiêu khâm phục nhất là một viên quan nhà Nguyên.

Mắt Công Dương Vũ lóe sáng, kình đẩy suốt xuống tay. Lương Tiêu thủng thẳng:

- Người ấy họ Quách tên Thủ Kính. Ông ta dồn hết tâm sức cũng như hứng thú vào cải tạo thủy lợi và nghiên cứu lịch pháp, công lao rỡ ràng ngàn năm, phúc đức cao dày vạn kiếp, do đó xếp đầu trong bảng bốn người Lương Tiêu khâm phục.

Công Dương Vũ nghe tới đây, cơn giận xẹp xuống, gật gù bảo:

- Nếu quả thực như ngươi kể thì bất luận hắn ta là Nguyên hay Tống đều đáng được thế nhân kính phục.

Nói thì nói vậy, nhưng thấy mình không được liệt vào hàng nhân vật khiến Lương Tiêu khâm phục, Công Dương Vũ cũng hơi tự ái. Lương Tiêu nhẩn nha tiếp:

- Ngoài ra, Lương Tiêu còn rất mến mộ võ công và tài trí của Công Dương tiên sinh, nhưng cái lối bỏ mặc vợ con và hờ hững tình thân của ông lại khiến Lương Tiêu không có thiện cảm lắm nữa.

Công Dương Vũ bừng bừng nổi giận, nhưng suy tính một hồi, nghĩ rằng nếu vì thế mà giết Lương Tiêu thì lại chứng tỏ bản thân mình nhỏ nhen, bèn nén cơn nộ hỏa, cười nhạt bảo:

- Nhóc con miệng còn hôi sữa, chả hiểu cái quái gì! – Trong bụng thì phát ớn: “Thằng ranh giảo hoạt kinh khủng, chắc đã nhìn ra toan tính của lão phu nên mới giả vờ bịa chuyện nói quanh khiến ta không nắm được thóp nó đây”. Cân nhắc một hồi lại nghĩ: “Ờ mà việc gì ta phải đích thân động thủ, để nó ngoan ngoãn tự tận chả tiện hơn ư?”.

Trầm ngâm một hồi, ông chợt bảo: “Ngươi theo ta lại đây!” rồi quay bước. Lương Tiêu đành đi theo.

Lúc này trời đã sáng bạch, bốn bề quang đãng. Đến một gốc tùng đầu làng, Công Dương Vũ xòe chưởng chặt lên thân cây, lá đổ xuống ràn rạt như mưa. Nhà nho phất tay áo rộng. Hệt như bị hút, màn lá liền tụ thành một chuỗi chui vào tay áo ông.

Thu xong đám lá, Công Dương Vũ nói:

- Nếu ta tự tay giết ngươi thì khó tránh mang tiếng cậy mạnh hiếp yếu. Trên núi Thạch Công, ngươi và ta chưa cá cược xong, bây giờ tiếp tục vậy.

Lương Tiêu nhướng mắt nhìn. Công Dương Vũ lại khua tay áo, lá tùng bắn phụp phụp xuống nền đất xốp, mau chóng xếp thành một đồ hình, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn.

Công Dương Vũ hỏi:

- Ngươi nhận ra chứ?

Lương Tiêu hơi đổi sắc mặt:

- Nhận ra, đây là Thiên địa huyền hoàng. Phải chăng hôm qua chính tiên sinh đã bày trận cho quân Tống?

Công Dương Vũ không trả lời thẳng, lấp lửng bảo:

- Lúc ấy ngươi khua môi múa mép, xổ ra những gì như là: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến lui dễ dàng, không tài nào phá nổi”, nghe chừng cũng có tí kiến thức. Bây giờ coi mỗi chẽ lá tùng là một quân sĩ, nếu ngươi phá được trận này thì ta tha chết, nhược bằng thua thì tự chặt đầu là hết nợ.

Lương Tiêu quan sát trận thế hồi lâu, đoạn lắc đầu:

- Đáng tiếc tôi không có bản lĩnh hút lá tùng, làm sao đấu với tiên sinh được?

- Khó gì, với tu vi hiện nay của ngươi, ta hướng dẫn qua loa là ngươi làm được ngay thôi.

Công Dương Vũ cho rằng Lương Tiêu khó thoát chết nên không giấu miếng, nhặt ngay một chiếc lá tùng giảng giải:

- Công phu này tên gọi Bích vi tiễn, coi lá tùng là tên, nội lực là cung, cứ thế bắn đi. – Thấy Lương Tiêu lộ vẻ ngơ ngác, ông sốt ruột. – Không hiểu à? Ta hẵng hỏi ngươi, bắn cung thế nào?

Lương Tiêu thạo thuật kỵ xạ, nắm rõ đặc tính của cung tên, bèn đáp:

- Cánh cung cứng mạnh, dây cung mềm dai. Tay trái nắm cánh cung, tay phải bật dây cung là bắn được.

- Ừ, một cây cung gồm đủ cương nhu, còn nội lực có tách bạch cương và nhu không?

Lương Tiêu hiểu ra:

- Ý tiên sinh là dùng cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, lá tùng làm tên?

Công Dương Vũ gật đầu:

- Tiểu tử khốn kiếp, cũng không đến nỗi tối dạ!

Lương Tiêu đăm chiêu:

- Xem chừng công phu này tương tự Cung huyền kình của Tiêu Thiên Tuyệt.

Công Dương Vũ trợn trắng mắt, mắng ngay:

- Láo lếu, tương tự là thế nào? Hừ, Bích vi tiễn là Bích vi tiễn, hoàn toàn không dây mơ rễ má gì với Cung huyền kình. – Nghĩ sao ông lại hừ mũi. – Dẫu có đôi chút liên quan, Cung huyền kình cũng chỉ là loại bàng môn tả đạo. Tiêu lão quái cho rằng thân mình là cung, còn ta cho rằng khí cơ là cung, gần với đạo trời hơn, cảnh giới hai bên vô cùng chênh lệch, khó lòng so sánh được. Lão Tử từng nói: “Đạo Trời như giương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào”; lại răn: “Muốn đóng được phải mở trước”. Yếu lĩnh của Bích vi tiễn chính là ở đó, so với nó thì thứ công phu Cung huyền kình vứt đi kia kém xa một vạn tám ngàn dặm.

Công Dương Vũ thóa mạ một hồi thì vơi tức, bắt đầu giảng giải cặn kẽ cách hướng mạch, cách vận kình. Lương Tiêu vốn nắm bắt nhanh, lại có luồng nội lực gồm đủ âm nhu nhờ trận chiến chân khí của hai đại cao thủ trên Hoa Sơn, nghe Công Dương Vũ giảng xong, gã ngắt một nhánh lá tùng, vận năm thành cương kình và năm thành nhu kình, cương kình căng ra, nhu kình kéo vào, khi hai luồng kình tương giao, chỉ nghe “sựt” một tiếng, nhánh lá tùng thụ lực bay lút xuống bùn.

Công Dương Vũ hài lòng bảo:

- Thằng bé này dạy được đấy. Nhớ cho kỹ đây, ngoài cương trong nhu là xuất, ngoài nhu trong cương là nhập.

Lương Tiêu gật đầu, nắm tay đấm lên thân cây làm lá đổ rào rào, đoạn đẩy nhu kình, hãm cương kình, chiêu thức trái hẳn lúc nãy, tư thế hệt như xoay ngược cây cung, cánh vào trong, dây ra ngoài, đảo chiều bắn của mũi tên. Màn lá tùng bị chưởng lực của Lương Tiêu hấp hút, ào ạt bay về phía gã. Lương Tiêu chụp tay áo xuống, thu gọn số lá tùng.

Công Dương Vũ lộ vẻ ưu tư:

- Kể ra, nguyên lý này không hẳn chỉ giới hạn ở việc đả thương người bằng lá tùng. Mai sau, nếu nội lực ngươi đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa thì có thể tận dụng được cả lông tơ và bụi nhỏ kia đấy. Nhưng ngươi mà may mắn đạt tới cảnh giới đó, chắc trên thế gian chẳng còn ai địch nổi ngươi nữa.

Lương Tiêu nghe giọng ông có ý tiếc hận thì mỉm cười buồn bã, chia kình làm cương và nhu bắn lá tùng ra khỏi tay áo, cũng sắp thành một hình trận, tựa tròn mà không phải tròn, tựa vuông mà không phải vuông.

Công Dương Vũ chớp mắt:

- Ngươi cũng dùng cái này?

- Thiên địa huyền hoàng là trận thế của các trận thế, không thể phá giải. Chẳng còn cách nào tốt hơn dĩ độc trị độc.

Công Dương Vũ cười nhạt:

- Kể ra cũng khá tinh tường.

Ông phẩy tay áo, lá tùng trên mặt đất như bị gió thổi, hai mươi tư khối trong Huyền thiên tiểu trận bắt đầu vần chuyển. Lập xuân nổi đùng đoàng tựa sấm, Vũ thủy như gió tạt mưa nghiêng, Xuân phân chia âm dương hai nửa, Kinh trập quẫy động tựa giao long, Lập hạ cuốn ngốn ngấu như lửa, Mang chủng tua tủa hệt lúa non, Tiểu thử – Đại thử liền một dãy, Sương giáng mịt mù tựa tuyết bay, Tiểu tuyết – Đại tuyết đảo phải trái, Hàn lộ thoắt đọng rồi thoắt tan. Cứ thế, trận hình biến hóa theo bốn mùa, lúc dàn hàng ngang lúc xếp hàng dọc, tiến hành hợp công.

Lương Tiêu cũng phất tay áo chạy trận Huyền thiên, nhưng phương vị có phần khác biệt. Đông chí đối Hạ chí của Công Dương Vũ, Thu phân đối Xuân phân, Đại tuyết đối Tiểu thử, Xử thử đối Thanh minh, Hàn lộ đối Cốc vũ. Huyền thiên ứng với sự thay đổi của hai mươi tư tiết khí, có âm dương tương khắc tương sinh, trận pháp của Công Dương Vũ bị khắc chế, tức thì chạy chậm hẳn lại.

Lương Tiêu lại phất tay áo, Thành thổ từ hướng tây bắc, Ẩn thổ từ hướng đông bắc, Thần thổ từ hướng đông nam, Thao thổ từ hướng tây nam… Chín khối của tiểu trận Hậu thổ lần lượt đánh ra từ các phương vị khác nhau.

Công Dương Vũ nhẹ nhàng khoát tay áo rộng, Huyền thiên trận tản ra hai cánh, chín khối Cửu Châu nổi lên ở giữa. Theo đúng nguyên tắc hỏa phương nam khắc kim phương tây, mộc hướng đông trấn thủy hướng bắc, ông dùng Thâm thổ chính nam đối phó Bính thổ hướng tây, Tín thổ chính đông chống cự Thành thổ hướng bắc bên trận Lương Tiêu. Bảy khối còn lại cũng bám sát vị trí tương khắc theo ngũ hành. Trận thế của Công Dương Vũ mang hình hạc trắng xòe cánh, trông dáng thanh thoát mà ẩn tàng sát cơ.

Lương Tiêu nhận ra đây là hình hạc tường, một trong chín biến của Thiên địa huyền hoàng trận, lập tức hô to:

- Hổ quỳ!

Nội kình của gã tới đâu, Hậu thổ tiểu trận thu vào tới đó, Huyền thiên tiểu trận nhô ra ngoài, hình dáng như mãnh hổ ngồi rình, làm đối trọng với bạch hạc giang cánh. Công Dương Vũ biết rõ tấn công không được bao lâu nữa, đấu được một lúc, trận thế cuốn vào trong, chuyển ra hình bí hí[3].

Bí hí là một trong chín con trai của rồng, dáng dấp giống con rùa, khi trưởng thành thì thoát mai, hóa rồng mà đi. Hình trận này ẩn công trong thủ, đường hướng biến hóa rất phong phú. Lương Tiêu tức thì dàn trận theo hình phượng bay, dễ biến thủ thành công. Công Dương Vũ lập tức đổi hình rồng vàng, hai trận Huyền thiên, Hậu thổ chốc chốc lại đảo vị trí, thế như thần long biến ảo, khó định đầu đuôi. Lương Tiêu đối phó bằng hình rùa đen, mặc rồng vàng xáp vào tấn công dữ dội đến đâu vẫn bất động như núi.

Trông bề ngoài, tưởng chừng hai bên tỉ thí nội lực thông qua việc điều khiển lá tùng, nhưng thực chất họ đang đọ mưu đọ trí. Chẳng mấy chốc, chín biến hình Thiên địa huyền hoàng đã dùng hết, Công Dương Vũ và Lương Tiêu bèn phát triển thêm kiểu trận mới, hệt như đánh cờ. Coi chín biến là dàn trận căn bản, trên nền tảng ấy họ lại tùy cơ ứng biến, lần lượt đưa ra những ý tưởng mới. Bởi đây là thi đấu trận pháp, hàm chứa đủ mọi nguyên lý về ngũ hành tương khắc, về bát quái cửu cung nên phức tạp hơn hẳn nguyên lý đánh cờ thông thường.

Công Dương Vũ càng đấu càng kinh hoàng: “Tiểu tử này còn ít tuổi mà kiến thức toán học đã sâu sắc quá! Ta nghiền ngẫm Thiên địa huyền hoàng đã bao nhiêu năm mà không chiếm nổi ưu thế so với một kẻ mới vận hành lần đầu”. Thực tế Lương Tiêu cũng bóp đầu bóp trán, suy nghĩ đến rã rượi cả người, không dám sơ ý mảy may. Thoạt tiên gã gắng gỏi cốt mong thoát chết, nhưng càng lúc càng hứng thú, dần dần chú ý đến mặt học thuật của trận thế, thậm chí còn thiết tha hơn cả mục đích cầu sinh.

Hai người đều thông tuệ mẫn tiệp, xứng đáng là kỳ phùng địch thủ của nhau trong trận đấu trí này. Lúc đầu họ chạy trận như gió táp mưa sa, nhưng lần lần, mức căng thẳng càng cao thì tốc độ biến trận càng chậm. Cứ nhăn nhó suy nghĩ một lúc, họ lại quất tay áo, trao đổi một lượt biến hóa, đến nước không khai triển được nữa thì dừng, lại chống má trầm tư cho tới lúc một tia sáng khác lóe lên trong trí.

Giao đấu miệt mài suốt hai canh giờ vẫn chưa phân thắng bại, thình lình ở mạn núi phía tây có tiếng ưng kêu lảnh lót, ngân nga mãi không dứt, Công Dương Vũ nhíu mày vẻ sốt ruột.

Tiếng ưng vang vọng hồi lâu, không hề ngắt quãng. Công Dương Vũ đứng bật dậy, giũ tay áo, hai chẽ lá tùng bắn véo về phía Lương Tiêu. Gã này đang chìm đắm trong trận pháp, không đề phòng nên bị chẽ lá găm trúng hai huyệt Đản trung và Thần phong khiến thân thể tê dại.

Công Dương Vũ cười khì khì:

- Lát nữa tỉ thí tiếp cũng không muộn, hai tên quỷ kia đấu đá đã lâu mà không biết kết quả thế nào, chúng ta đi xem cho vui.

Lương Tiêu bị xách chạy, gió rít vù vù bên tai, cảnh vật cứ ào đến trước mắt rồi lại lùi tít ra sau. Công Dương Vũ nhảy cao hụp thấp, chỉ nháy mắt đã băng đi xa đến mấy chục dặm.

Đến một sườn núi, ông nhảy phóc lên một tảng đá to, cười bảo:

- Tới nơi rồi! – nói đoạn thả Lương Tiêu xuống.

Gã thiếu niên giương mắt nhìn. Cách chỗ họ khá xa có dãy núi xanh mờ giăng ngang chân trời, mây vờn sương phủ che kín vòm không. Cạnh đó là rặng lau sậy, hoa lau rung rinh trắng như đọng tuyết. Bên rặng lau sậy có hai người, một vận đồ trắng một vận đồ đen, người áo đen chính là Tiêu Thiên Tuyệt, người áo trắng tuổi ước ngũ tuần, nhân dạng khác hẳn dân trung thổ, mũi cao mắt sâu, da trắng, mặt mày nhẵn nhụi, môi mỏng dính, tóc bạc chải mượt cuộn thành búi to trên đỉnh đầu. Còn một người khác ngồi gần chỗ hắn, mình bận quân phục Đại Nguyên, chiếc mũ lông chiên đã bỏ ra, để lộ mái tóc đen đổ xõa xuống đến thắt lưng.

Tim Lương Tiêu đập thình thịch, nếu không bị điểm huyệt, chắc gã đã hét toáng lên.

Bởi vì tên lính Nguyên đó nào phải ai xa, chính là A Tuyết! Lạ một nỗi thân hình cô thẳng đuỗn khác thường, dáng ngồi cứng đờ như đá.

Người áo trắng ngậm ngang miệng một ống tiêu dài đỏ sẫm, tiếng ưng kêu phát ra từ chính ống tiêu này.

Trên không, bảy tám con chim ưng, diều hâu vừa rít lên dữ tợn vừa mổ cào cắn xé hai con kên kên, lông vũ rụng lả tả. Đôi kên kên dũng mãnh lạ thường, mỗi lần mổ hoặc cào phát đều trúng một con diều hoặc ưng, hất nó rơi xuống đất. Lương Tiêu nhớ lại mẹ từng kể thuở nhỏ có nuôi một cặp kên kên, chắc là hai con này đây.

Tùy theo nhịp tiêu bổng hoặc trầm, từ những khe núi hang đá ở khắp bốn phương tám hướng lại có chim ưng hoặc diều hâu lồng lộn bay tới, chỉ thoáng chốc đã tập hợp đến mấy chục con, cùng xúm quanh đôi kên kên mà bươi cào xâu xé.

Lương Tiêu thầm kinh ngạc: “Không lẽ người này biết dùng âm thanh để điều khiển ưng cắt?”.

Đôi kên kên dần dần yếu thế, không địch nổi số đông, đầu và cánh bị mổ trúng, lảo đảo chao nghiêng, rền rĩ thê thảm. Tiếng tiêu chợt ré lên, bầy ưng diều liền xáp lại hai con kên kên lẻ loi, đồng loạt vươn mỏ giơ vuốt tấn công. Máu tưới ra khắp nửa vòm trời, đôi kên kên đã bị xé bung làm nhiều mảnh.

Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi giận dữ, hàng mày chữ bát nhíu thấp. Người áo trắng ngưng thổi tiêu, đắc ý nói:

- Tiêu lão quái, ngươi bảo cặp kên kên này vô địch tầng không mà? Bây giờ thua rồi đấy, còn gì để nói đây?

Dứt lời hắn cười ha hả, tiếng cười xen lẫn điệu rít rin rít lạ lùng.

Lương Tiêu nghe quen tai, sực nhớ: “Tràng cười quái dị hồi đêm chắc là của hắn”.

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng đáp:

- Được, hiệp này coi như ta thua. Theo thỏa thuận, trước tiên chọi chim, kế đến tỉ võ. Hạ Đà La, ngươi có giỏi thì lần này đừng trốn.

Người áo trắng cười khà khà, chẳng ừ chẳng không. Thấy Tiêu Thiên Tuyệt chực xông tới, hắn vội đặt ống tiêu lên miệng, thổi một tràng lanh lảnh.

Như đáp lại, khắp trời vang vọng một bầu âm thanh hỗn tạp, hàng đàn ưng diều sà xuống, nhất tề lao bổ vào Tiêu Thiên Tuyệt. Lương Tiêu khiếp đảm: “Kẻ này có khả năng điều khiển chim ưng, chẳng rõ lai lịch hắn ra sao?”.

Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, múa song chưởng lên đón bầy chim. Rẹt một tiếng, tựa hồ bị một giàn đao kiếm vô hình phạt qua, đám ưng, cắt, diều hâu gãy cánh cụt đầu rơi xuống lộp độp, những con còn sống thì bay tán loạn, không dám áp sát Tiêu Thiên Tuyệt nữa.

Chỉ thoáng chốc, bầy ưng diều đông đúc đã bị đánh tan, chỉ sót một con chim ưng, nó kinh hoàng sải cánh chực bay, thình lình cùng tiếng gầm dữ dội, một con hổ đen từ vạt rừng bên cạnh phóng ra, tung mình chồm cao hơn một trượng, vồ con chim kéo xuống, di mạnh nó trên mặt đất, xem chừng không sống được nữa rồi.

Hạ Đà La cười rin rít:

- Thiên vật nhận của lão càng ngày càng sắc bén!

Tiêu Thiên Tuyệt trợn mắt:

- Đừng lải nhải nữa, đền mạng đôi kên kên cho ta.

Lão đảo người, nhoài tới gần ba trượng, Hạ Đà La không hề cử động mà thân hình bỗng lướt ngang đi xa đến hai trượng, tránh khỏi phát chưởng của Thiên Thiên Tuyệt:

- Bình tĩnh nào Tiêu lão quái, mở to mắt mà xem đây!

Hắn lại đặt ống tiêu ngang miệng, tiếp tục thổi. Lần này là âm điệu lách cha lách chách, Lương Tiêu tự hỏi: “Tiếng chim gì nhỉ, nghe quen tai lắm”.

Tiêu Thiên Tuyệt ngưng bước, cười nhạt:

- Được, lão phu gắng xem xem.

Lão đứng lại, quạt liền ba chưởng. Hạ Đà La tuy đang ở cách xa mấy trượng mà cũng phải xê xích để né tránh, cuối cùng lui hẳn ra ngoài mười trượng, mặt mày nhăn nhó, nhưng miệng vẫn thổi liên miên.

Chỉ trong chớp mắt, bốn phương tám hướng rộ lên tiếng phụ họa ríu rít. Vòm trời tối sầm. Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Trên không xuất hiện vô số chim sẻ, di chuyển rất nhanh về phía này như một đám mây dày màu gai xám. “Ra là tiếng chim sẻ”, gã nghĩ.

Bầy sẻ dường nổi cơn điên, tràn tới cực nhanh rồi đổ rào rào xuống Tiêu Thiên Tuyệt như giàn tên nhọn. Tiêu Thiên Tuyệt tiếp tục phát chưởng. Chưởng phong tới đâu, xác sẻ rụng lộp độp tới đó, nhưng một đợt rơi xuống, đợt thứ hai đã đùn lên thay thế, lớp nối lớp tấn công không màng sống chết.

Tiêu Thiên Tuyệt thoạt đầu xuất chưởng còn ung dung thư thái, nhưng dần dần càng lúc càng nhanh, cuối cùng song chưởng lên xuống như chong chóng. Vậy mà đàn sẻ vẫn dồn về nườm nượp, che rợp bầu trời, phủ dày mặt đất, y như thể toàn bộ chim sẻ của dãy Hoàng Sơn đều tụ tập lại đây.

Khi đàn sẻ đã quây kín trên không, Hạ Đà La dùng tiếng tiêu tách chúng làm hai tốp. Một tốp bọc Tiêu Thiên Tuyệt bằng nhiều lớp như vỏ hành. Tốp kia xúm đến chỗ hổ đen, vươn mỏ mổ chí chát. Con hổ gầm thét giơ vuốt quất đuôi, nhưng đàn sẻ quây kín đến nỗi nước cũng không lọt, con hổ che chắn được đằng đầu thì đuôi lại sơ hở. Chẳng bao lâu, chỉ nghe một tiếng gầm khủng khiếp, hai mắt chảy máu, trong cơn kinh hoàng nó guồng chân chạy trốn. Nhưng bầy sẻ truy đuổi kỳ cùng, chuyên nhắm những chỗ con vật không với được vuốt tới mà mổ rỉa khiến máu thịt bắn tung tóe. Hổ đen phóng đi xa đến hơn hai mươi trượng thì tiếng gầm rít dữ dội đã đổi ra rên rỉ thê lương, bốn chân mềm nhũn, nó đổ vật ra đất.

Tiêu Thiên Tuyệt phổ Thiên vật nhận vào song thủ, chưởng phong thường khi sắc bén là thế mà gặp phải tình cảnh quái dị này cũng khó lòng phát huy uy lực. Se sẻ vốn là loại nhỏ bé yếu đuối hạng nhất trong các loài chim, nhưng nhờ số lượng đông đảo và tổ chức tấn công đồng loạt nên sức mạnh lại vượt xa ưng diều. Tiêu Thiên Tuyệt quạt chết một lớp thì lớp khác sà đến, đánh giết đến mức xác sẻ tích dày cả thước trên đất, còn con hổ đen đã bị đàn chim bươi vầy, rỉa sạch máu thịt, còn trơ khấc bộ xương trắng.

Lương Tiêu dày dạn và can đảm có thừa, đã từng thống lĩnh thiên quân vạn mã phi ngựa quất roi tung hoành trên sa trường, vậy mà gặp cảnh này cũng không khỏi ớn lạnh.

Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, quạt chưởng vù vù đánh thủng một lỗ hổng giữa lớp sẻ, đoạn tung mình lao vụt ra ngoài như một vầng mây đen, lướt thẳng về phía rặng lau sậy.

Lương Tiêu theo dõi lộ khinh công của Tiêu Thiên Tuyệt với ánh mắt tán thưởng, đoán thầm: “Từ bụi lau sậy chắc lão sẽ nhảy xuống nước, muốn thoát bầy sẻ quái gở kia thì quả thực đó là cách đơn giản nhất”.

Nhưng Tiêu Thiên Tuyệt chỉ bay là là trên rặng lau rồi lướt ra xa hơn ba trăm bộ, không xuống nước mà đáp lên bờ bên kia, một cành sậy màu xanh nhạt đã nằm trong tay lão tự bao giờ.

Tiêu Thiên Tuyệt nhăn trán, ngắt bỏ hết lá nhánh, để lại một ống sậy thuôn thuôn, đoạn ngậm nó vào miệng thổi u u. Tiếng sáo sậy vốn thê lương ai oán, lại được nội lực của Tiêu Thiên Tuyệt thúc đẩy, âm thanh càng thêm thắt ruột thắt gan.

Kiến thức võ học của Lương Tiêu đã khác xa ngày xưa, vừa thấy khóe mắt cay cay, gã rợn người hiểu ra, vội vàng dùng phép Nhập định và Tẩy tâm trong Tử phủ nguyên tông để tập trung tinh thần, loại bỏ tạp niệm, chống lại tác động của tiếng sáo sậy.

Tiếng sáo vút lên, xen lẫn tiếng tiêu của Hạ Đà La. Bầy sẻ bị nhiễu âm thanh, không biết theo bên nào, đập cánh soạt soạt bay rối rít quanh xác đồng loại, kêu lên ai oán rồi tản dần đi, kết thúc trận đấu thấm đẫm máu tanh.

Lương Tiêu thở phù, cảm thấy như học thêm được một điều, bụng bảo dạ: “Cách nhổ cỏ tận rễ của Tiêu Thiên Tuyệt quả thực cao minh. Bầy sẻ bay đến vì tiếng tiêu, phá được tiếng tiêu là tức khắc đập tan mọi mũi tấn công của chúng”.

Đàn sẻ đã biến mất nhưng Tiêu Thiên Tuyệt vẫn không buông sáo, thậm chí còn đẩy thêm nội lực vào ống sậy cho nhạc điệu tăng độ bi thiết, âm thanh rầu rĩ vọng chân mây, bồi hồi quanh sơn cốc, nghe như lữ khách thở than nỗi tha hương, thiếu phụ nỉ non đêm lẻ bóng. Hạ Đà La đổi liên tục các loại tiếng chim, các cung biến điệu, từ yến oanh thỏ thẻ, vàng anh líu lo cho chí hạc kêu não nuột, quạ gào inh tai.

Nhạc âm của hai bên đều vận dụng nội lực khiến người nghe điêu đứng bàng hoàng, rất khó chống đỡ. Lương Tiêu phải dùng Tẩy tâm và Nhập định để trấn tĩnh mới thoát được nguy hiểm. Đương tập trung tinh thần, chợt nghe tiếng sụt sịt, gã thất kinh mở bừng mắt nhìn thì thấy A Tuyết nghẹn ngào vật vã như hoa lê bị gió dập mưa vùi.

Nguyên là tiếng sáo của Tiêu Thiên Tuyệt quá đỗi thảm thiết, A Tuyết nghe mà kinh tâm động phách, huyết khí dâng cao, không kiềm chế được nên bật khóc. Khổ nỗi còn bị điểm huyệt nên khí lực không đủ, cô muốn khóc to nhưng đuối sức, đành chỉ thút thít nấc nghẹn. Nỗi đau đớn bị khơi lên trong ngực do đó vô phương giải tỏa, tích lại mỗi lúc một dày, mặt A Tuyết dần dần trắng bệch, hai mắt lạc thần.

Lương Tiêu hiểu nếu cứ tiếp tục thế này, A Tuyết nhất định sẽ đau thương quá độ mà chết. Gã muốn cứu viện nhưng thân thể tê liệt, định xung khai huyệt đạo thì Bích vi tiễn quá ư lợi hại, gã thử mấy lần đều tốn công vô ích, đành tuyệt vọng nhìn A Tuyết gặp nạn.

Thình lình, Công Dương Vũ bỗng phá lên cười, tiếng cười chấn động rừng núi. Đoạn ông xếp bằng ngồi xuống, nhuyễn kiếm Thanh Li đặt ngang đầu gối, ngón co ngón búng gẩy trên thân kiếm làm phát ra âm thanh keng keng như chặt đá chặt vàng.

Công Dương Vũ bảo:

- Tiêu lão quái, Khổng Tử dạy: nhạc buồn nhưng đừng nên bi lụy. Ngươi thổi sáo bát nháo như vậy nghe chẳng lọt tai chút nào.

Dứt lời, ông dùng kiếm thay đàn, vuốt lên thành âm chủy, vũ, miết xuống tạo âm cung, thương. Giai điệu uyển chuyển, chẳng những mượt mà như đàn gỗ ngô đồng hay danh cầm cổ kim mà còn réo rắt hân hoan khiến nỗi buồn thương dịu bớt. Ông cất giọng hòa theo khúc nhạc:

Ngoài đồng hoang có con chương,

Bên nhà có một cô nàng đương xuân.

Bạch mao chàng gói thịt phần,

Đem sang dụ dỗ tấm thân ngàn vàng.

Trong rừng bộc tốc mọc hoang,

Có con hươu chết nằm lang ngoài đồng,

Chàng đem ngả thịt gói xong,

Tặng cho người ngọc những mong kết tình.

“Khoan khoan chàng hãy kìm mình,

Đừng khua chó sủa, đừng rình rờ khăn!”

Bài Dã hữu tử khuân[4] này trích trong Kinh Thi, kể chuyện nàng con gái đang tuổi xuân mơn mởn ở nơi đồng dã, có chàng trai lấy lá bạch mao gói thịt con chương, con hươu đem tặng tán tỉnh. Ý thơ linh động, tươi tắn hồn nhiên.

Công Dương Vũ hát xong, nhạc đệm thay đổi, ông lại chuyển sang bài khác:

Nàng rằng: gà gáy sáng kìa,

Chàng: ừ, trời cũng tờ mờ từ lâu.

Vậy chàng nên dậy cho mau,

Sao mai lấp lánh phương nào rồi kia.

Đeo cung rong ruổi đồng quê,

Bắn chim phù, nhạn mang về cho em.

Nhạn, phù chàng bắn, để xem,

Em làm vài món lại thêm rượu nồng

Thuận hòa tới lúc răng long,

Vui duyên cầm sắt, thỏa lòng thương yêu.

Đây là bài Nữ viết kê minh[5], cũng trích trong Kinh Thi, thuật lại chuyện đôi nam nữ tự tình đêm hôm, ý ngọt ngào âu yếm, tình nồng nàn lả lơi.

Hai bài hát cất lên, lập tức pha loãng âm giai của sáo sậy. Nỗi đau đớn đè trĩu ngực A Tuyết cũng vợi bớt, nhưng tự nhiên một cảm giác lạ lùng khác lại xâm chiếm hồn cô, khiến mặt cô đỏ ửng và đầu óc tràn ngập muôn tưởng tượng xa xôi, tất cả đều xoay quanh hình ảnh Lương Tiêu.

Hạ Đà La ngưng thổi địch, cười rin rít:

- Thì ra Công Dương huynh cũng là người đồng hội đồng thuyền với chúng ta. Kinh Thi còn có bài Thư cưu họa tiếng quan quan, Bên cồn sông vắng hót vang vui vầy. Yêu kiều thục nữ thế này, Cùng chàng quân tử sánh tày lứa đôi. Sái gia[6] trẻ trung mến người ngọc, thường ngày đều theo đuổi cái đẹp đấy.

Hắn vốn chỉ lõm bõm về thơ Hán, tự nhiên gặp đúng dịp để khoe khoang dấn vốn ít ỏi của mình thì lấy làm đắc ý lắm, cười toe toét liếc về phía A Tuyết. Lương Tiêu khinh bỉ nghĩ: “Chí ít cũng bốn năm chục tuổi đầu rồi mà còn tự xưng là trẻ trung mến người ngọc. Trơ thế không biết!”.

Công Dương Vũ mỉm cười, lại hát:

Tân Đài tráng lệ, Hoàng Hà cuộn trôi,

Tưởng lấy được chàng xinh tươi,

Ngờ đâu gá nghĩa với người hom hem.

Tân Đài chất ngất, Hoàng Hà lao xao,

Tưởng sa xuống chốn thanh cao,

Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang.

Khấp khởi quăng lưới, vớt phải cóc già,

Tưởng thân gửi gã hào hoa,

Tân hôn đêm ấy hóa ra lão còng[7].

Hạ Đà La nghe ca từ dường như ngụ ý đả kích, nhưng không hiểu rõ lắm, đang cau mày ngẫm nghĩ thì Công Dương Vũ cười hỏi:

- Hạ xú xà, ngươi có hiểu Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang nghĩa là gì không?

Hạ Đà La cười đáp:

- Ngôn từ kín đáo sâu xa thế, sái gia lỗ mỗ Hán văn, thực không hiểu nổi.

Công Dương Vũ nháy mắt:

- Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang, nói rộng ra là chê cười sự bất cân xứng, châm biếm những con cóc ghẻ không tự lượng sức đòi ăn thịt thiên nga ấy mà.

Hạ Đà La sầm mặt:

- Huynh đài muốn chửi sái gia là cóc ghẻ?

Công Dương Vũ cười tươi:

- Ấy, chính thế! Lão phu chửi ngươi ba lần cóc ghẻ mà ngươi vẫn một mực không chịu hiểu, thực là nước đổ đầu vịt. Ha ha ha…

Hạ Đà La hầm hầm hừ một tiếng rõ to.

Trong lúc hai người đối đáp, tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt dần dần thay đổi sắc độ, ai oán sầu thương giảm bớt, tăng thêm tình ý miên man. Công Dương Vũ ngạc nhiên lắng nghe.

Tiêu Thiên Tuyệt đang thổi bài Kiêm gia, cũng thuộc Kinh Thi:

Bên sông sậy mọc xanh xanh

Móc vương trên lá rành rành tựa sương,

Người ta đêm nhớ ngày thương,

Ở bờ đối diện mà dường quá xa,

Ngược nguồn tìm lối ta qua,

Gặp đường trắc trở cùng là quanh co

Trở lui tìm lối hạ du,

Ngờ đâu người lại lửng lơ giữa dòng.

Khúc hát này kể chuyện một chàng trai từng trải muôn vàn vất vả để đeo đuổi người mình yêu thương. Công Dương Vũ vốn có tâm bệnh nên rất đồng cảm với tình cảnh nhân vật. Ông đã lặn lội cùng trời cuối đất để tìm Lâm Tuệ Tâm, chịu đựng nhiều khổ sở tới mức toàn bài Kiêm gia cũng không đủ diễn tả một phần vạn nỗi khổ đó, càng ngẫm càng thương thân, đầu óc dần dần chống chếnh mụ mẫm.

Tiêu Thiên Tuyệt thổi hết một lượt bài Kiêm gia liền thổi lại lần nữa. Âm thanh đó vây bọc mọi giác quan của Công Dương Vũ, bản đàn dưới những ngón tay ông cũng dần dần đổi theo giai điệu Kiêm gia:

Rặng lau mọc kín bờ sông

Móc trong buổi sớm ròng ròng chưa khô,

Người ta thương nhớ mong chờ,

Thoáng trông hình bóng ở bờ bên kia,

Ngược nguồn chân lựa nẻo đi,

Gập ghềnh khúc khuỷu dễ gì tiến sang,

Trở lui tìm lối xuôi đàng,

Ngờ đâu người đã chuyển sang giữa cồn.

Công Dương Vũ dùng tiếng đàn đấu với Tiêu Thiên Tuyệt nhưng lại vô tình bị cuốn theo giai điệu lung lạc của đối thủ, chỉ thoáng chốc, nhịp tim hòa với nhịp đàn, đôi mắt dần dần rực lên cuồng nhiệt. Hạ Đà La nhận thấy có thể lợi dụng được, bèn nghĩ bụng: “Võ công tài trí kẻ này đều đáng gờm, không nhân đây trừ khử hắn thì còn đợi tới khi nào?”. Hắn lập tức ghé ống tiêu lên miệng, thổi ra âm thanh của chim thư cưu.

Thư cưu là loài chim ái tình, trống mái quấn quýt bên nhau cả đời không lìa xa. Tiếng tiêu của Hạ Đà La não nuột luyến láy, hệt như châm dầu vào lửa, khiến uy lực từ cây sáo sậy tăng lên bội phần.

Công Dương Vũ nghe sáo sậy và tiếng chim đồng vọng, tâm trạng thoắt phấn khởi thoắt bi ai, thoắt vui vẻ thoắt âu sầu. Bỗng nhiên, trước mắt ông thấp thoáng hiện ra hình ảnh Liễu Tình áo trắng chân trần, tóc xanh buông dài chấm đất yêu kiều đứng giữa mây trời, mỉm cười tươi tắn.

Khí huyết bừng bừng, Công Dương Vũ trân trân dõi nhìn bằng cặp mắt ứa lệ, đôi tay cất cao, ông gọi:

- Tuệ Tâm, cơn cớ gì mà nàng trốn tránh ta, cơn cớ gì? Nàng có biết ta tìm nàng khổ sở đến nhường nào không? Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co. Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co…

Ngày thường ông vẫn than sầu oán khổ, nhưng tự trọng thân phận nên thủy chung chỉ giữ trong lòng, lúc này bị tiếng sáo và tiếng tiêu thúc đẩy tâm tư nên thổ lộ cả ra, mà đã thổ lộ là ào ạt như thác đổ, không sao kìm nén được nữa.

Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ mất hết tỉnh táo thì lo cuống, khốn nỗi hai chẽ lá tùng găm cứng các huyệt đạo đã cản trở mọi cố gắng can thiệp của gã. Trong lúc bối rối, một tia sáng thình lình lóe lên trong óc: “Ban nãy Công Dương tiên sinh chẳng đã dạy ta Bích vi tiễn đó ư? Ngoài cương trong nhu là xuất, sao ta không lấy dùng thứ kình đó mà bắn mấy chiếc lá này ra?”.

Vừa nghĩ dứt, gã đã dồn nội lực đến huyệt Đản trung, đặt cương kình bên ngoài, nhu kình bên trong rồi bật cung, sau một tiếng “phụt” nhẹ, nhánh lá tùng rời thân bay ra. Lương Tiêu hoan hỉ lặp lại cùng cách thức, đẩy nốt cả chẽ lá tùng ở huyệt Thần phong đi.

Lúc này Công Dương Vũ đã mê man thần trí, hoa chân múa tay, lẩm nhẩm mãi câu hát Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co, bắt đầu mấp mé bờ vực của sự điên loạn.

Lương Tiêu không kịp đắn đo nhiều, lập tức nhảy vọt tới hét vang, áp một chưởng lên huyệt Ngọc chẩm của Công Dương Vũ, đổ chân khí vào Đốc mạch rồi dồn nó chạy tới huyệt Đại chuy.

Pháp môn này bắt nguồn từ thiên Nhập định trong Tử phủ nguyên tông. Thường khi bắt đầu tập nhập định, người tu đạo vẫn còn rất nhiều tạp niệm, chỉ sơ sẩy một chút là sa vào tẩu hỏa nhập ma, vì vậy bên cạnh phải có sư tôn hỗ trợ, gọi thần trí họ quay về. Tình cảnh hiện tại của Công Dương Vũ cũng tương tự tẩu hỏa nhập ma nên cách làm của Lương Tiêu công hiệu ngay tức khắc. Công Dương Vũ rùng mình, lập tức tỉnh táo lại.

Tiêu Thiên Tuyệt căm thù Công Dương Vũđến tận xương tủy, định nhân cơ hội ngàn năm một thuở này mà dồn kình địch vào cảnh chết vì loạn trí, nào ngờ đến thời khắc quyết định lại bị Lương Tiêu phá ngang. Nhìn đôi đồng tử của Công Dương Vũ trở nên linh động, Tiêu Thiên Tuyệt hiểu rằng thế là xôi hỏng bỏng không, trong lòng tức giận vô cùng, lão gắng đẩy sức vào tiếng sáo, nhằm lúc Công Dương Vũ chưa thật tỉnh táo thì tấn công để ông trở tay không kịp. Hạ Đà La cùng chung ý nghĩ, tiếng tiêu càng thêm riết róng.

Công Dương Vũ vừa tỉnh đã gặp ngay hai mặt giáp kích, thầm than nguy hiểm, lập tức tập trung tinh thần phòng thủ. Ông xếp bằng ngồi xuống, tay trái gẩy nhuyễn kiếm tấu thật nhanh giai điệu Phong vũ thuộc Kinh Thi hầu chống lại tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt, tay phải gỡ bầu rượu sơn đỏ ở thắt lưng, đập nó cồm cộp lên mặt đá theo âm cung và thương tạo tiếng cú mèo kêu để chống đỡ nhạc tiêu của Hạ Đà La. Hiềm nỗi tâm lực ông đã tiêu hao quá độ trong lúc thất thần vừa rồi, chưa kịp điều hòa hơi thở lại phải đối phó cùng lúc với hai địch thủ nên nhọc sức vô cùng. Chỉ thoáng chốc, đỉnh đầu Công Dương Vũ bốc khói trắng nghi ngút, sau vài tích tắc, bầu rượu bửa đôi, lại thêm một lát, đầu ngón tay lướt qua lưỡi kiếm đứt da bật máu.

Lương Tiêu bèn tung mình lại gần Hạ Đà La, quạt chưởng tấn công. Hạ Đà La thấy gã còn quá trẻ mà chưởng phong đã quá đỗi sắc bén thì ngạc nhiên hết sức, nhưng đang đấu đến thời khắc then chốt, hắn không muốn phân tâm đỡ đòn, bèn nhích đi xa hơn một trượng.

Lương Tiêu phát chưởng hụt mà cũng không trông thấy động tác di chuyển của Hạ Đà La nên vô cùng kinh sợ. Gã xoay bật người, lướt sang chỗ A Tuyết ôm choàng lấy cô. A Tuyết mừng mừng tủi tủi, đôi mắt đẹp long lanh lệ. Hạ Đà La không tiện di chuyển về, nhưng bộ dạng đằng đằng sát khí, hầm hầm giương mắt nhìn.

Trận đấu giữa Công Dương Vũ, Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La mỗi lúc một nguy hiểm. Lương Tiêu xé áo bịt hai tai A Tuyết lại, đoạn vỗ ba chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu vẫn điềm nhiên ngồi yên, đợi chưởng phong của Lương Tiêu tới gần, áo lão bỗng phồng lên rồi xẹp xuống, đón và từ từ hóa giải luồng kình.

Lương Tiêu phát hoảng, muốn tiến lên giao đấu, song không nỡ bỏ A Tuyết một mình. Gã thầm nghĩ nếu không ngăn cản Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La thì Công Dương Vũ chắc chắn sẽ thất bại. Đang bối rối, gã chợt nghe thấy tiếng chuông boong boong vọng tới, âm thanh đầy đặn và vang vọng khắp khe khắp núi, liền đó là một giọng oang oang:

- Hai đánh một, trơ tráo quá thể…

Cùng với lời nói, tiếng chuông vẫn ngân nga, nhịp buông điểm đúng khoảng lặng giữa những nốt chuyển của cây sáo sậy.

Tiêu Thiên Tuyệt bất ngờ, suýt bị tiếng chuông làm lạc nhịp, đành buông Công Dương Vũ, thúc nội lực vào tiếng sáo để đương cự tiếng chuông.

Công Dương Vũ nhớ lại tình cảnh khốn đốn vừa rồi, hai mắt trợn tròn, trỏ tay nói lớn:

- Hạ xú xà! Lúc trước không tính, bây giờ hai ta đơn đả độc đấu lần nữa.

Ông trút hết mọi căm giận với Hạ Đà La xuống Thanh Li kiếm, dùng nó thay đàn tấu bài Ân vũ:

Mau thay oai vũ nhà Ân,

Hưng binh chém Sở khí gần Đẩu, Ngưu…

Cảm nhận rõ rệt luồng sát khí rờn rợn bốc tận chân mây, Hạ Đà La không dám trễ nải, cũng dùng tiếng hót của muôn loài chim để đáp trả.

Bỗng đâu lại một tràng cười dài. Lương Tiêu dõi mắt nhìn ra. Từ cuối khúc quanh của sơn đạo, Cửu Như đang rảo bước chạy tới, vai vác quả chuông đồng cũ mòn, nhỏ bằng một nửa chiếc chuông đại ở chùa Hàn Sơn. Lão giơ gậy gõ liên hồi lên tang chuông làm phát ra tiếng boong boong ầm ĩ.

Nhận ra Lương Tiêu, nhà sư cười vang:

- Nhóc con, đã lâu không gặp!

Lương Tiêu ôm quyền đáp:

- Đại sư vẫn phong độ như xưa, thật đáng mừng!

Cửu Như cười ha hả:

- Tiểu tử dẻo mồm! Đợi bần tăng xong việc, chúng ta sẽ đánh chén một bữa thỏa thuê, uống hẳn ba trăm chung rượu! – Không đợi Lương Tiêu đáp lời, lão đã đưa mắt nhìn sang Hạ Đà La, cười bảo. – Hạ xú xà, bần tăng gặp người quen cũ, mải kể lể hàn huyên nên đến muộn. Ha ha, ngươi tưởng ta không nhớ đấy à?

Lão vừa nói vừa đập vù cây gậy xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.

Gậy đập thẳng xuống, động tác không có gì đặc biệt, song Hạ Đà La xem chừng rất úy kỵ, lùi tránh đến hơn một trượng. Hắn nhét ống tiêu vào trong tay áo, mỉa mai:

- Đồ lừa trọc, ngươi cứ muốn bám nhằng nhẵng đánh chí chết thế ư?

Cửu Như cười khì khì:

- Ta chỉ đánh chí chết thôi, còn bám nhằng nhẵng là cung cách của con rắn bẩn tính nhà ngươi. Người ta bảo đánh rắn phải đánh dập đầu, dắt trâu phải xỏ lỗ mũi. Ha ha, đáng tiếc Hạ xú xà không phải đạo sĩ, bằng không bần tăng cũng tìm một sợi thừng xỏ lỗ mũi ngươi dắt đi.

Trong lúc chọc ghẹo, nhà sư vẫn múa tít cây gậy.

Hạ Đà La lắc mình lùi xa ra, trợn mắt mắng:

- Đồ lừa trọc, trời đất tuy rộng lớn nhưng không có gì thoát khỏi hai từ “lý lẽ”. Sái gia chưa từng trêu cợt ngươi lần nào, vậy mà năm xưa ngươi ráo riết đuổi đánh ta khỏi trung nguyên. Cứ cho là bỏ qua chuyện quá khứ đi, hôm nay ta mới trở lại, tại sao ngươi cũng dai dẳng bám theo suốt mấy ngàn dặm qua?

“Thịch” một tiếng, Cửu Như dộng mạnh cái chuông xuống, cắm phập cây gậy gỗ trắc bên cạnh, cười nhạt:

- Ngươi đủ trơ trẽn để nhắc đến lý lẽ à? Ngươi đột nhập trung nguyên, tàn sát hơn ba trăm mạng, cưỡng bức hơn sáu mươi dân nữ. Chẳng từ một việc ác nào, chết trăm lần chưa đủ đền tội.

Hạ Đà La nóng nảy cắt ngang:

- Lũ dân đen đó sinh ra là để sái gia luyện công, giết vài ba đứa đã ăn thua gì! Còn đám đàn bà con gái kia, được sái gia biệt đãi là phúc phận của chúng nó, vừa khoái lạc vô bờ vừa bảo toàn tính mạng, nhất cử lưỡng tiện đến thế là nhất rồi!

Cửu Như quắc mắt, chạy quanh Hạ Đà La hai vòng, phỉ nhổ:

- Con rắn đốn mạt, ta quất nát đít ngươi!

Lão khua gậy lên, Hạ Đà La uốn mình tránh, lạnh lùng đáp:

- Đã thế, hôm nay có ngươi thì không có ta.

Hắn rút trên vai ra một thứ binh khí khuôn dạng kỳ lạ, tay cầm ở giữa, từ đó xòe ra bốn phía bốn mũi dao cong lưỡi liềm dài chừng một thước hắt ánh lạnh băng, trông tổng thế giống hình chữ卐.

Thứ binh khí này tên là Bát Nhã phong, sắc bén tuyệt luân, lối phát chiêu rất kỳ dị, Cửu Như bật cười:

- Ăn cắp ở đâu ra đấy? – đoạn tay phải múa gậy vun vút, tay trái cất chuông, miệng quát to. – Chết này!

Cái chuông kêu “hù” một tiếng, chụp xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.

Bát Nhã phong lóe lên sắc lạnh, chém đứt đôi chuông đồng. Cửu Như cười ha hả, xoáy tít cây gậy như chim xuyên rừng cây, lao qua giữa hai mảnh chuông đồng, đập thẳng xuống ngực đối thủ. Hạ Đà La uốn mình tránh, động tác mềm dẻo như người không xương, binh khí quay vù vù hệt như một vầng trăng sáng lăng về phía Cửu Như.

Công Dương Vũ bình sinh tự phụ, thấy Cửu Như ra tay thì cũng ngừng gẩy kiếm tấn công Hạ Đà La.

Ông đưa mắt sang Tiêu Thiên Tuyệt, cười khà khà:

- Hạ xú xà có hòa thượng tiếp đón rồi, chúng ta cũng nên dứt khoát một lần cho xong.

Tiêu Thiên Tuyệt ngừng thổi sáo sậy, lạnh lùng đáp:

- Đúng ý lão phu.

Chữ “phu” vừa buông, tay áo Công Dương Vũ đã bay phần phật, lưỡi nhuyễn kiếm bắn tới trước mặt Tiêu Thiên Tuyệt.

Tiêu Thiên Tuyệt hơi đảo người, song chưởng thoắt biến đao biến kiếm, biến giáo biến thương, trong khoảnh khắc mà hoán đổi chiêu thức của bảy tám loại binh khí khác nhau để chặn thế kiếm dữ dội như cuồng phong của Công Dương Vũ. Nhà nho càng đánh càng sảng khoái, cất tiếng hú dài, đường kiếm phóng khoáng như gió thổi hoa rơi, lồng lộng như trăng soi mặt sóng, thoát khỏi mọi gò bó của ý thức, nghiêng dần về hướng tự nhiên tiềm thức.

Tiêu Thiên Tuyệt thấy khó mà chống đỡ được bằng tay không, bèn lấy sáo sậy ra khỏi tay áo. Thiên vật nhận của lão vốn là nội kình, yếu lĩnh ở chỗ “vạn vật trong trời đất đều là binh khí của ta”, hễ phổ nó vào chưởng, quyền thì da thịt rắn đanh như đao, chùy; phổ nó vào giấy, cỏ thì các đồ vật ấy cứng sắc như cưa, kiếm, không gì không chém được. Vì vậy mà ống sáo tuy chỉ là một đoạn lau sậy dài năm tấc, nhưng khi nằm trong các ngón tay Tiêu Thiên Tuyệt, nó trở nên khí thế và mạnh mẽ không thua bất cứ một loại khí giới nào.

Cuộc tỉ thí giữa bốn đại cao thủ hôm nay là một dịp hiếm có, cả đời cũng khó gặp một lần. Lương Tiêu theo dõi đến hoa cả mắt: xem cặp Cửu Như – Hạ Đà La thì lại bỏ lỡ Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt, nhìn Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt thì lại không bao quát được Hạ Đà La và Cửu Như.

Bốn đấu thủ ra chiêu càng lúc càng dữ dội. Trong một tích tắc tránh đòn, Hạ Đà La chợt nhận ra Công Dương Vũ đang đứng đâu lưng với mình, liền sinh ác tâm, bèn tận dụng khoảnh khắc né chiêu Cửu Như mà khua Bát Nhã phong đâm lén nhà nho.

Công Dương Vũ trở lui kiếm chắn đỡ. Tiêu Thiên Tuyệt tự phụ thân phận, không muốn liên thủ với Hạ Đà La bèn ngừng tấn công. Chợt Cửu Như cười to:

- Tiêu lão quái, ba mươi năm cách mặt, bần tăng tưởng ngươi đi ngủ với giun với dế rồi kia đấy! – Dứt lời, lão múa gậy đánh tới.

Tiêu Thiên Tuyệt giơ ống sáo gạt gậy ra, hoàn trả một chưởng, lạnh lùng đáp:

- Tên sư trọc nhà ngươi sống đến hôm nay kể cũng hiếm có nhỉ!

Cửu Như xoay gậy quét ngang đập thẳng, đâm trái hất phải, hai bên giao đấu không khoan nhượng.

Chẳng bao lâu, Tiêu Thiên Tuyệt xoay sang đấu với Hạ Đà La, Cửu Như thành ra đấu với Công Dương Vũ. Thuở xưa bốn người đã từng chạm trán, nay tái ngộ sau ngần ấy năm, ai cũng muốn xem đối phương tinh tiến bao nhiêu, vì vậy cứ lát lát lại đổi đấu thủ, chú ý thăm dò căn cơ của nhau.

Lương Tiêu theo dõi một cách say sưa, bất giác tự hỏi: “Trong số này, rốt cục ai là người lợi hại nhất nhỉ?”. Gã đang băn khoăn, chợt nghe Cửu Như cười bảo:

- Lão đồ gàn, ngươi khác với Tiêu lão quái và Hạ xú xà, bần tăng vốn chẳng muốn cho ngươi một bài học làm gì, khổ nỗi ngoại hiệu của ngươi lại phạm vào điều đại kỵ của bần tăng.

Công Dương Vũ cau mày:

- Ngoại hiệu nào?

Cửu Như cười:

- Có kẻ tán dương ngươi là thiên hạ đệ nhất kiếm, chữ “kiếm” thì thôi không nói, nhưng bốn chữ “thiên hạ đệ nhất” khiến bần tăng chướng tai không chịu nổi.

Công Dương Vũ nhổ phì phì:

- Ba hoa khoác lác, làm như ngươi là thiên hạ đệ nhất không bằng!

Cửu Như bật ngón tay cái trái, cười hì hì:

- Quả nhiên là dân đọc sách, hiểu nhanh hơn hẳn người thường. Bần tăng không chỉ là thiên hạ đệ nhất mà thiên thượng cũng là đệ nhất luôn đấy!

Trước thái độ dương dương tự đắc và giọng điệu huênh hoang của nhà sư, Công Dương Vũ vừa bực mình vừa tức cười, mắng rằng:

- Chả trách người ta gọi ngươi là lừa trọc, mặt dày hơn cả da lừa!

Ông ta được Cửu Như giải vây, lòng vốn cảm kích vô cùng, trước sau xuất thủ vẫn nương nhẹ, đến lúc này bị Cửu Như nói khích mới nảy thói háo thắng, tung hết chiêu thức ra giao đấu.

Hai người đều dùng binh khí màu đen, lúc tạm ngưng trông như rắn đen quấn cành khô, lúc tấn công dữ dội thì như rồng đen cưỡi mây. Cửu Như càng đấu càng hứng khởi, hò hét vang lừng.

Nhà sư đang hò la, chợt mé ngoài núi có người thét vào:

- Lão lừa trọc đấy phải không?

Tiếng thét tựa sấm rền, vang dội khắp dãy núi. Cửu Như hơi biến sắc, buột miệng gắt:

- Ừ, chính cha ngươi đây!

Người nọ cười ha hả:

- Lại đây lại đây, chúng ta tái đấu ba trăm hiệp nữa.

Cửu Như nhăn nhó sỉ vả:

- Đấu cái con khỉ, bần tăng còn có việc hệ trọng phải làm, không rỗi mà chơi với ngươi. – Lão bỏ mặc Công Dương Vũ, quất gậy đánh vút, nện thẳng xuống đầu Hạ Đà La.

Trong số bốn người thì thì Hạ Đà La có kém sút hơn chút đỉnh, đơn đả độc đấu may ra chống đỡ được chừng sáu trăm chiêu, nhưng cứ thay đối thủ liên tục, chiêu số biến đổi quá nhiều khiến hắn khó thích ứng. Lúc này hắn đang tập trung tinh thần đón đỡ, chắn chỗ này lại hở chỗ kia, bị Cửu Như nện liền hai gậy phải luống cuống giật lui.

Chợt Cửu Như gầm lên như sấm:

- Trúng!

Một gậy của lão bay tới, nện trúng vai trái Hạ Đà La. Tên này đau thấu xương cốt, lập tức quay mình chạy trốn. Cửu Như bám sát không rời. Bên chạy bên đuổi, chớp mắt đã phóng lên tới sống núi.

Đột nhiên, một người phi thân ra chặn đường Cửu Như, miệng cười hì hì:

- Lão lừa trọc, đánh nào, đấu nào!

Kẻ đó vừa nói vừa luôn tay luôn chân đấm đá, chiêu thức tinh diệu vô cùng, Cửu Như bản lĩnh là vậy mà cũng phải dừng bước.

Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đều ngạc nhiên. Họ vừa tỉ thí với Cửu Như, biết rõ nhà sư lợi hại đến mức nào, nay thấy lão bị một người tay không vung quyền bức lui, chẳng ai hiểu ra sao nữa. Cả hai quan sát võ công của người mới đến, mặc dù kiến thức rất rộng mà đều thắc mắc trước đường lối võ công và lai lịch chủ nhân.

Sau khi xáp vào giao đấu chớp nhoáng chừng hai mươi hiệp, Cửu Như quật một gậy đẩy lui người nọ, tung mình nhảy vọt qua sống núi.

Đối thủ bị bỏ rơi kêu oai oái:

- Chạy đi đâu? Đánh nữa, đánh nữa nào…

Vừa gọi, y vừa nhào một vòng theo Cửu Như, mất tăm dưới mé bên kia. Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt thấy người nọ nói năng cử chỉ đều kỳ cục mà võ công cao cường nhường ấy thì đều hết sức tò mò, không ai bảo ai, cùng thi triển khinh công bám sát đằng sau.

Chạy được mấy bước, Công Dương Vũ chợt dừng chân, quay lại trừng mắt với Lương Tiêu:

- Tiểu tử họ Lương, hôm nay lão phu nhận ơn cứu viện của ngươi mà còn hạ thủ giết ngươi thì thật không phải. Nhưng nếu ngươi vẫn tiếp tay cho bọn Thát thì dù mang tiếng bất nghĩa, trước sau gì lão phu cũng lấy mạng ngươi.

Lương Tiêu thoáng trầm ngâm, đoạn vòng tay đáp:

- Xin tiên sinh yên lòng, từ nay về sau, Lương Tiêu quyết không làm tổn hại đến một dân lành nào của Đại Tống nữa.

Công Dương Vũ cau mày ngắm gã từ đầu xuống chân, đoạn gật đầu, chạy như gió cuốn theo hướng Tiêu Thiên Tuyệt.

Lương Tiêu nhìn theo bóng hai người, lòng chộn rộn muôn ý nghĩ. Lát sau ngoảnh lại A Tuyết, thấy hai má cô đỏ hồng, đôi mắt long lanh, hàng mi dài còn ngân ngấn lệ, gã bèn bắt mạch thử xem.

Nhận ra hai mạch Nhâm, Đốc đều tắc, Lương Tiêu vận nội lực khai thông, nhưng vô hiệu. Gã thi triển Bích vi tiễn, cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, ngưng khí làm tên, đẩy nội lực vào cơ thể cô gái. A Tuyết nghe lồng ngực nhẹ nhõm hẳn đi, buột miệng kêu:

- Ca ca, muội nhớ huynh chết đi được!

Lương Tiêu định đả thông Đan điền cho A Tuyết, nghe vậy mắng át:

- Mở miệng ra là chết với sống, gở kinh lên được!

A Tuyết đỏ mặt, cúi đầu vò vò chéo áo. Lương Tiêu hỏi:

- Tại sao muội lại ở đây?

Mắt A Tuyết hoe đỏ:

- Nghe… Hồ Lão Vạn kể huynh đuổi theo Công Dương tiên sinh và Tiêu Thiên Tuyệt, muội lo quá, liền quất ngựa rời thành đi tìm huynh.

Lương Tiêu phát cáu:

- Hồ Lão Vạn, cái đồ lắm mồm! Về rồi ta sẽ cho mấy cái bạt tai!

A Tuyết cuống quýt nài:

- Ca ca đừng đánh hắn. Hắn mà không nói, chẳng phải muội càng lo lắng hơn ư?

Lương Tiêu lườm cô:

- Lo lắng thì có tác dụng gì? Vậy tại sao muội rơi vào tay người áo trắng? Hắn… hắn có ức hiếp muội không? – Họng nghẹn lại, gã vội lấp liếm. – Thôi, nếu không tiện trả lời, coi như ta chưa hỏi, quên câu ấy đi!

A Tuyết lắc đầu:

- Muội không rõ nguyên nhân khiến hắn bắt muội, chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao đã bị đưa đến đây rồi. Chuyện cũng chẳng có gì bất tiện, để muội kể hết cho huynh nghe.

Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Muội khờ của ta, chắc đã bị hắn phạm đến thân rồi, vậy mà cũng không biết chuyện gì xảy ra nữa!”. Gã gắng nén nỗi đau lòng, dịu dàng bảo. – Muội kể những chi tiết bình thường ấy, chỗ nào không vui thì tránh đi. Từ rày về sau cũng đừng bận tâm nghĩ ngợi, coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là được.

A Tuyết ngạc nhiên:

- Coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là sao? Muội nhớ rõ cả mà. Lúc đó muội phóng ngựa ra ngoài thành, chưa xác định được là nên đi hướng nào, đang sấp ngửa chạy chợt cảm thấy mình ngựa trĩu xuống tựa hồ có người ngồi lên phía sau lưng.

Lương Tiêu buột hỏi:

- Người áo trắng phải không?

- Vâng. Muội ngoái đầu nhìn thì chẳng thấy một ai, nhưng vừa quay đầu đi thì có luồng hơi phà vào tai muội tê tê buồn buồn thế nào ấy. – Kể tới đây cô cảm thấy hổ thẹn, khuôn mặt đỏ bừng.

Lương Tiêu cau mày, ngập ngừng hỏi:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó, muội thò chưởng ra sau đẩy hắn, không ngờ đẩy hụt, khi thu chưởng về thì hắn lại thở khì vào tai muội, vừa thở vừa thì thào: “Tiểu cô nương biết võ công à, hay quá nhỉ”. Muội phát hoảng, không nhịn được bèn hỏi: “Ta mặc đồ nam mà, vì sao ngươi biết ta là tiểu cô nương?”. Hắn cười hì hì: “Sái gia tinh mắt lắm, ruồi bay qua còn phân biệt được con đực hay con cái nữa là! Ở trung nguyên này, sái gia chưa từng gặp ai vừa xinh xắn vừa biết võ công như cô nương”. Nghe cái giọng thơn thớt nói cười ấy, không hiểu sao muội cảm thấy rất nhột nhạt, bèn đuổi: “Ngươi đừng ngồi sau lưng ta nữa, kẻo nặng quá ngựa nó không chịu nổi đâu. Ngươi mà không xuống là ta đánh đó”. Hắn cười: “Được, cô đánh đi, đánh trúng là ta xuống liền”, dứt lời liền với tay lên sờ soạng mặt muội.

Kể tới đây, A Tuyết cúi gằm xuống, mặt đỏ như gấc chín. Lương Tiêu nặng nhọc lắc đầu:

- Thế là đủ, ta không muốn nghe nữa.

A Tuyết nhíu mày:

- Sự việc sau đó lạ lùng lắm, huynh bỏ ngang là tiếc đấy. – Không để Lương Tiêu kịp lên tiếng, cô tiếp tục. – Khi ấy muội bực lắm, bèn ngoảnh đầu lại đẩy, nhưng không thấy hắn đâu, vừa xoay mình đi thì hắn đã phà hơi vào tai muội, còn lảm nhảm nhiều câu kỳ cục, muội không hiểu lắm. Nhưng câu này thì dễ hiểu, hắn khen muội ưa nhìn… Theo huynh hắn có nói thật không? So với Liễu cô nương, với chủ nhân hay Lăng thư thư, Băng thư thư thì muội không bén gót ai cả.

Lương Tiêu nhìn khuôn mặt khả ái trắng trẻo, thở dài bảo:

- Thôi thôi, không kể nữa, chúng ta về đi!

A Tuyết thắc mắc:

- Sao cơ? Sắp tới vô khối sự lạ, muội chưa nói xong mà.

Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Để con bé kể ra hết rồi khóc thỏa thuê một bữa thì có khi tốt hơn”. Gã bèn nghiến răng bảo:

- Được, muội thong thả kể tiếp đi, ta nghe.

A Tuyết tiếp:

- Vâng, đúng lúc muội không xua đuổi được hắn, đang lo cuống cuồng thì sau lưng bỗng vang lên tiếng chuông coong coong y hệt tiếng chuông của ông sư vừa rồi ấy. Người áo trắng “hừm” một tiếng rồi rủa: “Đồ lừa trọc chết đâm chết chém, tổ sư con… bà ngươi”. – A Tuyết ngừng lời, ngượng nghịu thanh minh. – Câu này là tên áo trắng chửi, muội chỉ thuật lại thôi.

Lương Tiêu nín lặng. A Tuyết ngắc ngứ nói:

- Hắn lầm bầm mạ lị vài ba câu nữa rồi đột nhiên điểm huyệt muội, cười hì hì bảo: “Tiểu cô nương, ta mượn tạm con ngựa”, đoạn giằng dây cương, ra roi phóng điên cuồng. Chạy hồi lâu hắn mới dừng lại nghỉ, kéo muội xuống giải huyệt. Bấy giờ muội mới nhìn rõ hắn, lo rằng lỡ việc đi tìm huynh, muội sợ hãi òa khóc. Người nọ vỗ về: “Nín nín, chúng ta tìm một chỗ êm ái, sái gia sẽ khiến cô vui thích”. Muội đáp: “Không tìm thấy ca ca thì chẳng có gì khiến ta vui cả”. Người nọ cười: “Ca với chả cốc, lát nữa cô sẽ sướng mê tơi, rối rít gọi ta là ca ca ấy”. Muội nghe kiểu nói năng kỳ cục đâm bực, bèn bảo: “Còn lâu ta mới gọi ngươi là ca ca, trên đời này ta chỉ có một ca ca mà thôi”. Người nọ vẫn nhơn nhơn: “Lát nữa cô nương sẽ chẳng tự chủ được đâu, trông xinh xắn thế kia, lại là xử nữ, lại biết võ công, làm cái đệm cho ta luyện đan thì còn gì thích hợp bằng. – A Tuyết nhíu đôi mày thanh, hỏi. – Ca ca, đệm luyện đan là cái gì?

Lương Tiêu cũng không hiểu lắm, bèn nói át đi:

- Là cái cũng chẳng hay ho gì.

- Muội cũng ngờ ngợ rằng đấy chẳng phải những lời lẽ tử tế. Người nọ vừa lải nhải vừa nhìn muội với ánh mắt kỳ lạ rồi đứng bật dậy, kéo muội chạy vào rừng. Muội vùng vẫy mà không thoát được, đang lo quýnh, chợt lại nghe tiếng chuông ngân. Tên áo trắng sững sờ tức giận: “Tiên sư con lừa trọc, toàn làm người ta nhấp nhổm”, đoạn rủa xả vô khối lời lẽ thô tục. Hừm, muội phát ngượng miệng, cách quãng đoạn này nhé ca ca?

Lương Tiêu theo dõi câu chuyện mà tim giật thột từng hồi, lúc này nghe vậy bèn bảo:

- Không chỉ cách quãng mà còn nên quên sạch những lời ấy đi.

A Tuyết gật đầu:

- Vâng. Hắn vừa chửi rủa vừa lôi muội lên ngựa phi nước đại. Mỗi lần dừng lại, nghe thấy tiếng chuông vọng tới là hắn nổi điên, mà cũng như sợ hãi, vì hễ nghe tiếng chuông là lại quất ngựa chạy ngay.

Lương Tiêu thở phào nghĩ bụng: “Có Cửu Như đại sư đuổi theo phía sau, Hạ Đà La dù bắt được A Tuyết cũng không tiện giở trò. Đại sư luôn tay gõ chuông chắc cũng để khắc chế tiếng tiêu của hắn”.

A Tuyết tiếp tục:

- Chạy như thế suốt một ngày trời, cuối cùng con ngựa kiệt sức khuỵu xuống. Người đó bỏ ngựa lại, kéo muội đi bộ. Được một thôi đường, muội gặp một toán lính Nguyên đi ngược chiều. Thấy muội vận quân phục Đại Nguyên, họ bèn nhao nhao la lối, bắt tên áo trắng buông tha muội. Tên này khủng khỉnh cười, thình lình điểm huyệt muội rồi tung mình tới trước, giáng quyền lia lịa, mỗi quyền phóng ra là một người ngã xuống.

A Tuyết kể tới đây, khuôn mặt ảm đạm. Lương Tiêu nghĩ bụng: “Thì ra đám lính Nguyên mất mạng vì muốn cứu A Tuyết, ta chôn cất họ kể cũng như báo đáp được một phần”. Biết câu chuyện đang đến hồi căng thẳng, gã giục:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó còn sáu binh sĩ sống sót, họ rất sợ hãi, ném vũ khí đi mà ra sức chạy trốn, nhưng bị kẻ kia tóm trở lại dồn vào làng. Trong làng vắng ngơ vắng ngắt, hắn bắt sáu người chặt củi nhóm lửa, vo gạo thổi cơm. Ăn xong, hắn ra lệnh cho họ xếp hàng một rồi vung quyền đấm, sáu người không động đậy gì cả. Hắn chạy quanh họ một vòng, cười ré lên tựa như cao hứng lắm.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ: “Bao giờ Tiêu Thiên Tuyệt mới xuất hiện đây?”.

- Cười xong, kẻ đó bảo muội: “Tốt rồi, bây giờ lão hòa thượng cũng bị ta cắt đuôi, không còn ai quấy nhiễu giấc mộng đêm lành của chúng ta nữa…”. Hắn hau háu nhìn làm muội sợ chết khiếp. Muội vùng chạy, nhưng bị hắn tóm được tay áo. Đúng lúc ấy, trên mái nhà chợt có tiếng người nói: “Lão đồ gàn, chuyện của chúng ta phải gác lại đã”. Người khác nói: “Hay hớm chưa, khéo không mất cả chì lẫn chài, lão phu không muốn ngươi chết dưới tay kẻ khác đâu”. Người đầu tiên hừ mũi: “Nói thối đếch chịu được!”. Nhận ra giọng Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh, muội vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, ngạc nhiên vì tình cờ gặp họ, vui mừng vì nghĩ họ đã ở đây thì tức là ca ca cũng ở gần đây. Còn người nọ nghe tiếng biến sắc mặt, đoạn cười phá lên: “Lão quái vật, lão đồ gàn, các ngươi đều là tông sư một phái, cơn cớ gì nấp nom thò thụt, lẵng nhẵng bám theo sái gia như vậy?”. Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng nói: “Lẵng nhẵng đâu mà lẵng nhẵng? Chẳng qua lão phu muốn xem ngươi tiến bộ đến mức nào nên cất công đi thêm mấy chục dặm mà thôi. Hừ, ngươi lại còn dắt theo cả nữ nhân, chắc chê trận đòn năm xưa ở phủ Khai Phong chưa đủ độ chứ gì?”.

- Ái chà! – Lương Tiêu kêu lên. – Khoan đã, muội nói là phủ Khai Phong à?

- Vâng, muội nhớ là ông ấy bảo phủ Khai Phong.

Lương Tiêu vỡ lẽ: “Thì ra là hắn. Hừ, Hồ Lão Vạn, cái đồ xuẩn ngốc, rõ ràng là Hạ Đà La lại nhớ trẹo thành Hoạt Lạc Đà mấy chả Tử Lạc Đà”.

A Tuyết tiếp tục:

- Tên áo trắng bảo: “Được lắm, Tiêu lão quái! Thôi thì ngươi và lão đồ gàn cùng lên một lượt đi, sái gia chẳng sợ đâu”. Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi: “Khỏi khích tướng, mình lão phu là đủ lấy mạng chó của ngươi rồi”. Nói đoạn ông ta nhảy xuống khỏi mái nhà, phát chưởng chém liền. Người áo trắng đón đỡ, cười bảo: “Chúng ta đọ cước lực trước”. Nói xong hắn túm lấy muội, guồng chân chạy vào trong núi, Tiêu Thiên Tuyệt liền đuổi theo. Người nọ chạy lòng vòng hồi lâu, chợt dừng lại: “Tiêu lão quái, sái gia mang theo một người, chạy mất sức quá. Bây giờ giao đấu thể nào ngươi chẳng chiếm ưu thế”. Tiêu Thiên Tuyệt bèn gợi ý: “Được, tạm nghỉ chừng thời gian cạn một chén trà rồi hẵng đấu tiếp”. Người nọ tỏ vẻ chán chường: “Tẻ nhạt quá, hay nhân lúc nghỉ thì tỉ thí kiểu khác vậy. Nghe đồn lão quái có hai con kên kên hung hãn vô cùng, đúng không?”. Tiêu Thiên Tuyệt hỏi thế thì sao, người nọ bèn nói: “Ta cũng có mấy con chim ưng, hay hai bên chọi chim rồi đọ võ công sau?”. Tiêu Thiên Tuyệt cố nhiên là nhận lời, tên kia bèn lấy ra một ống tiêu đỏ sẫm như máu, bắt đầu thổi…

Nghe tới đây, Lương Tiêu ngắt lời:

- Đoạn sau ta chứng kiến cả rồi.

Gã xúc động trong lòng, nghĩ thầm chuyến này A Tuyết còn giữ được sự trinh bạch đều là nhờ Cửu Như và Tiêu Thiên Tuyệt. Cửu Như đã đành, nhưng Tiêu Thiên Tuyệt cũng ra tay trợ giúp thì thực khiến gã bối rối không biết nên nghĩ sao cho phải.

Hai huynh muội ngồi lặng nhìn nhau hồi lâu. Cuối cùng Lương Tiêu chậm rãi bảo:

- Về thôi!

- Huynh không đuổi theo Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh nữa à?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Ta không bỏ muội ở đây được.

Nói đoạn gã quay đi, A Tuyết ngẩn ngơ một lúc, chợt níu tay gã kêu:

- Ca ca!

- Sao?

Lương Tiêu ngoảnh lại. A Tuyết rưng rưng lệ, run rẩy nói:

- Huynh hãy hứa, bất kể thế nào cũng không bỏ rơi muội. Suốt một đêm một ngày nay, cứ nghĩ không còn được gặp huynh nữa, A Tuyết… chỉ muốn chết đi cho rảnh. – Cô nấc nghẹn, nước mắt thánh thót tuôn rơi.

Lương Tiêu ngẩn người, giơ tay vuốt gọn mái tóc cô gái, thở dài bảo:

- Nha đầu ngốc nghếch, sau này dù đi đâu, ta cũng sẽ đưa muội theo, không để muội phải lo lắng nữa.

A Tuyết nghe vậy là thỏa nguyện, bỗng nhận ra đầu ngón tay Lương Tiêu lướt đến đâu, da thịt mình tê dại đến đấy, tim cứ đập thình thịch.

Lương Tiêu dắt tay A Tuyết chực đi, chợt nghe “Ha!” một tiếng. Từ sống núi phía sau có một người chạy vòng xuống, áo trắng tóc bạc, chính là Hạ Đà La.

Số là hắn lợi dụng lúc Cửu Như bị người lạ mặt nào đó lẽo đẽo bám theo, bèn ẩn thân vào bụi cây, đợi bốn cao thủ đi khuất cả mới thò mặt ra. Hắn tự nhủ nếu bọn Cửu Như muốn truy đuổi mình thì thể nào cũng tiến lên phía trước, thực tế mình chạy lộn lại, nhất định sẽ khiến ba kẻ ấy trượt mục tiêu. Nghĩ sao làm vậy, hắn mò về đường cũ, tình cờ chạm trán Lương Tiêu và A Tuyết.

Hắn liếc Lương Tiêu, cười rin rít:

- Ca ca cô đấy phải à? Nghe cô gọi thân thiết quá, sái gia phát ghen lên. Hay cô cũng nhận cả sái gia làm ca ca có được không?

Gặp phải cường địch, trí óc Lương Tiêu bắt đầu hoạt động rất nhanh để tìm cách đối phó. A Tuyết có gã bên cạnh nên can đảm hơn lên, mai mỉa đáp trả:

- Già đầu rồi mà còn đòi làm ca ca ta, tóc ngươi bạc trắng thế kia, làm bá bá ta có khi còn thừa tuổi đấy!

Hạ Đà La sầm mặt, nhép nhép môi, cười khan:

- Ngươi chẳng hiểu cái cóc khô gì, sái gia ta tóc bạc sớm, đâu phải là già. Ha ha, cô không muốn ta làm ca ca thì nhất định ta phải làm.

A Tuyết bĩu môi:

- Ta thèm vào, trên đời này ta chỉ có một ca ca.

Hạ Đà La dịu nét mặt, cười ha hả:

- Càng dễ xử, ta giết phăng tên ca ca này của cô, thế là cô chỉ còn một ca ca là ta đây thôi.

A Tuyết nghe bắt bẻ, nhất thời không đối đáp lại được. Hạ Đà La cứ nhếch mép cười nhìn Lương Tiêu, tựa hồ cân nhắc xem nên bắt đầu ra tay thế nào. Lương Tiêu bỗng nhướng mắt cười to:

- Cửu Như đại sư, người đến đúng lúc quá!

Hạ Đà La bị Cửu Như truy đuổi suốt ngàn dặm, vốn đã hết sức cảnh giác, hệt như con chim phải cung sợ làn cây cong, nghe Lương Tiêu nói thế lập tức ngoảnh phắt đầu nhìn ra, nhưng chẳng thấy bóng dáng ai cả. Hắn biết bị mắc lừa bèn ngoảnh ngay lại. Bấy giờ Lương Tiêu đã ôm A Tuyết chạy như bay đến một ngọn núi.

Hạ Đà La tức tối, nhưng vẫn cười rin rít:

- Đệ đệ cũng biết ghẹo người đấy nhỉ? – Đoạn lắc mình, chỉ hai nhịp nhấp nhô là đã tới gần Lương Tiêu khoảng mười trượng. – Tiểu cô nương muốn ca ca cô chết kiểu gì đây? Chết toàn thây hay bằm nát? Nếu cô không chạy, ta sẽ để hắn được nguyên vẹn về với ông bà tổ tiên.

A Tuyết sợ quá, răng đánh cầm cập, không thốt nên lời.

Lương Tiêu vụt đổi hướng, chạy tọt vào một vạt rừng rậm, gọi to:

- Công Dương tiên sinh!

Hạ Đà La cười rú:

- Hảo đệ đệ lại lừa ca ca rồi! Lát nữa sái gia sẽ cứa lưỡi đệ, xem nó dài tới chừng nào…

Hắn vừa trêu chọc vừa chạy theo vào rừng.

Chợt có tiếng gió sắc lạnh rít tới gần. Hạ Đà La lướt vội lại sau, vỗ song chưởng ra, chỉ thấy mấy vật bé xíu cắm phụp phụp xuống đất, hắn nhóng mắt nhìn kỹ, nhận ra đó là mấy chẽ lá tùng xanh mướt.

Hạ Đà La phát hoảng: “Bích vi tiễn của lão Cùng Nho? Rõ ràng hắn chạy cùng đường Tiêu lão quái, sao chỉ chớp mắt đã vòng về đây được rồi? Phải chăng hắn hận ta mấy lần ám hại nên cố ý sai thằng nhóc này ra dụ ta vào đây báo thù”. Nghĩ mà toát mồ hôi hột, Hạ Đà La bèn hộc tốc chạy trở ra, cười khành khạch:

- Giấu đầu hở đuôi thật chẳng xứng mặt hảo hán. Lão đồ gàn, có gan thì ra đây đấu ba trăm hiệp với sái gia.

Đợi một lát vẫn không thấy mảy may động tĩnh, Hạ Đà La rất đỗi ngờ vực, lại thét:

- Cùng Nho!

Nhưng vạt rừng vẫn lặng ngắt. Ngẫm lại, Hạ Đà La cảm thấy mấy mũi Bích vi tiễn chứa kình đạo rất thường, khác hẳn thủ pháp xuất quỷ nhập thần, nhanh đến chóng mặt của Công Dương Vũ.

Hắn bàng hoàng sực hiểu mình lại mắc lừa lần nữa, liền vươn cổ hú dài, chạy ào vào rừng, đuổi theo dấu vết Lương Tiêu. Phóng một mạch đến hơn ba trăm dặm, hắn nghểnh đầu nhìn thì thấy Lương Tiêu cõng A Tuyết bám dây leo trèo lên một ngọn núi cao gần đấy.

Hạ Đà La cười rú rít:

- Thú quá thú quá, đệ đệ thực giảo hoạt lươn lẹo.

Lương Tiêu nghe tiếng cười, luôn miệng kêu khổ. Sau khi dùng mưu đẩy lui Hạ Đà La, gã thầm nhủ đi đường bằng nhất định không thoát nổi hạng già đời lăn lộn giang hồ như tên xú xà kia, nhác trông có một cái hang trên sườn núi, gã bèn áp dụng cách thức hành quân địa hình bò lên đó, thầm nhủ khi Hạ Đà La phát hiện ra bị lừa và đuổi theo chắc cũng chỉ biết đường đi loanh quanh ven chân núi thôi.

Nào ngờ tình hình biến đổi khác thường, người tính không bằng trời tính, Hạ Đà La đã đuổi đến nơi. Lương Tiêu đang ở lưng chừng núi, khác nào cưỡi trên hổ, không xuống được nữa, chỉ còn cách gắng gượng tiến bước.

Càng lên cao, thế núi càng cheo leo hiểm hóc, rất nhiều chỗ chỉ có một hốc nông choèn hoặc một mỏm đá cạn để đặt mũi chân. Nghe tiếng cười rin rít chói tai, Lương Tiêu cúi đầu nhìn xuống, Hạ Đà La đạp bước phi hành, đã gần đến cái hang nơi sườn núi.

A Tuyết cuống cuồng kêu:

- Ca ca, hắn đuổi tới nơi rồi!

Lương Tiêu suy tính rất nhanh, chợt giơ kiếm lên chém đứt dây leo bên dưới.

A Tuyết đang lấy làm lạ, chợt nghe tiếng kêu tức giận của Hạ Đà La bèn ngoái cổ xuống nhìn, mắt bỗng hoa lên. Lúc này, hai huynh muội đã tới chỗ cao đến trăm trượng, rừng rú đất đá dưới kia đều bé như con kiến. Hạ Đà La đang dừng ở sườn núi, tay phải bám mỏm đá, hai chân cử động ngùng ngoằng, đẩy người trườn lên. A Tuyết ngạc nhiên:

- Huynh nhìn bộ dạng leo núi của hắn kìa!

Lương Tiêu ngó theo, cũng rất lấy làm thắc mắc.

Số là Lương Tiêu chặt đứt dây leo, Hạ Đà La mất chỗ vịn, chỉ còn cách vận dụng công phu để trèo lên, không ngờ mới trèo thêm được mấy trượng thì cánh tay trái bỗng rã rời đau nhói, hắn sực nhớ lúc nãy bị Cửu Như quật gậy vào vai. Cửu Như có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, một gậy đó đủ đánh nát đá tan vàng, Hạ Đà La thi triển nội công độc môn hầu khử bớt kình lực, nhưng vẫn bị thương vào xương cốt, bây giờ phải ra công trèo lên vách đá hiểm trở, vết thương tái phát, đau đớn vô cùng. Không làm sao khác được, hắn đành dùng hai chân và một tay leo lên.

Ba người leo cao dần, gió chướng quay cuồng xô đẩy, tở tóc tai họ rối tung. Mỗi nhịp dướn giúp Lương Tiêu tiến thêm vài trượng. Qua đến đâu, gã chặt sạch dây mây và tùng bách đến đấy, không chừa một chỗ bám víu nào cho Hạ Đà La. A Tuyết nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy cảnh vật bên dưới càng lúc càng bé, tim đập thon thót, cô hãi hùng không dám liếc mắt xuống nữa, nhưng khi ngẩng mặt lên trên thì càng bàng hoàng khiếp sợ.

Bên trên họ là vách đá sừng sững trơ lì, hệt như bị lưỡi tầm sét vạt thẳng một mảng, ngoài mấy nhành tùng trơ trọi thì không còn chỗ nào để tỳ tay đặt chân. A Tuyết ngấm ngầm than khổ: “Lỡ sơ sảy thì hai ta sẽ lộn cổ xuống tan thây chứ còn gì?”. Đang kinh hoảng quá độ, cô bỗng sực nghĩ: nếu rơi xuống, coi như được chết bên Lương Tiêu, vĩnh viễn không chia lìa nữa. Vừa nghĩ thế, bao nhiêu thảng thốt trong lòng bỗng chớm quyện ý vị ngọt ngào, cô áp đầu lên vai Lương Tiêu, nghe rõ nhịp tim gã truyền tới dập dồn. A Tuyết như chìm đắm trong cơn mơ mộng, bất luận mây núi tùng bách gì đều bỗng biến thành xa vời hư ảo.

Lương Tiêu không rỗi hơi mà bận tâm xem cô gái đang nghĩ gì. Gã chỉ một lòng một dạ tìm kế thoát hiểm nên tập trung tối đa sức lực cố gắng leo cao, thậm chí hai lòng tay đã trầy hết da, rướm máu, trét lên đá, lên dây leo mà gã cũng không cảm thấy.

Hạ Đà La không tài nào áp sát được, lại thiếu mất sức một cánh tay nên càng thêm chật vật. Hắn bò một lúc, ngước mắt nhìn thì thấy mấy trăm trượng trên kia nhẵn trơ, hệt như một mặt gương, lại thấy bóng Lương Tiêu mỗi lúc một xa, hệt như nhòa vào mây trời, hắn tức bầm gan tím ruột: “Tiểu tử này là khỉ vượn thành tinh chắc? Làm sao mà trèo nhanh như vậy?”. Lại cảm thấy cánh tay trái đau nhức lên từng hồi, xối vào tận óc, thầm biết nếu không tĩnh dưỡng thì sẽ để lại di chứng, mai sau không thể phát huy hết uy lực của võ công, dẫu bắt được Lương Tiêu đi nữa thì lợi bất cập hại, hắn bèn tính toán: “Sái gia hẵng tạm náu nơi sườn núi, đợi trị thương xong lên bắt chúng nó cũng chưa muộn”.

Hai canh giờ nữa trôi qua, cuối cùng Lương Tiêu cũng trèo tới đỉnh, tứ chi rời rã, liền ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc như trâu. A Tuyết lấy khăn tay ra thấm mồ hôi cho gã, đoạn đưa mắt nhìn quanh. Đỉnh núi rộng không quá mười trượng, địa thế tương đối bằng phẳng, chính giữa có một cây tùng cổ thụ, cành lá uốn éo mềm mại, dáng dấp thanh thoát, tán tỏa bóng rợp đến nửa đỉnh, dưới gốc cây có một tảng đá lõm tích đầy nước, nước trong leo lẻo nhìn tới tận đáy, rêu mọc xanh rì.

Lương Tiêu không kịp ngó nghiêng, lập tức vươn đầu ngó xuống, dưới thấp Hạ Đà La đang dùng một tay hai chân nhúc nhắc trườn lui. Lương Tiêu thoạt tiên kinh ngạc, rồi sực đoán ra nguyên cớ, gã yên yên dạ, bảo A Tuyết:

- Tên ác ôn kia tạm thời chưa lên đây, chúng ta theo mặt sau lần xuống thôi.

Gã kéo A Tuyết vòng sang mặt bên kia, nhưng thất vọng tràn trề, bởi ba bề núi đều là vách đá cheo leo, khúc khuỷu gập ghềnh hơn hẳn mặt trước, thậm chí so với chúng thì lối hai người vừa lên có thể coi là đường lớn bằng phẳng thênh thang.

Lương Tiêu ngao ngán ngồi bịch xuống, A Tuyết cũng lặng lẽ ngồi kế bên.

Hai người trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu chợt bảo:

- Phải lột vỏ cây bện dây mà xuống.

A Tuyết bảo:

- Ca ca mệt quá rồi, nghỉ một chốc nữa cũng được.

- Chỉ sợ thời gian không đợi chờ, vết thương ở vai tên kia mà bình phục thì hắn lên đây không khó khăn gì đâu.

A Tuyết cũng vô kế khả thi, đành gật đầu.

Sau chuyến tránh nạn chật vật, hai người đều mệt rũ, bèn tựa gốc cây tùng thiếp đi. Một lát sau, Lương Tiêu choàng tỉnh trước, cảm thấy gió chướng căm căm từ phía đông cuộn tới, lạnh cắt da cắt thịt, gã bất giác so vai rụt cổ, nhìn xuống thì thấy A Tuyết vẫn chưa tỉnh, người co quắp, áng chừng rét lắm. Lương Tiêu cởi áo đắp lên mình cô rồi ngồi quay lưng ra đầu gió.

Gã ngắm người con gái, thấy hàng mày thanh nhíu khẽ như vương sầu, bất giác xót xa trong dạ: “Từ ngày theo ta đến nay, muội thường phải lo lắng sợ hãi, chẳng mấy khi được yên ổn…”.

Lương Tiêu đang tự oán trách, chợt nghe A Tuyết gọi khẽ “ca ca”, gã cúi xuống nhìn kỹ, thấy hai mắt cô vẫn nhắm nghiền, chắc là nói mớ. Lương Tiêu thương xót vô cùng, lại thấy khóe mắt cô ứa lệ, đôi môi bặm bặm, lẩm nhẩm:

- Trăng cong gợi hàng mi, Khi nào đầy ai biết, Hồng đậu chẳng dám nhìn, Sợ mắt nàng hoen ướt. Tần ngần bổ quả đào, hạt tựa tim da diết. Hai đóa hồng chia xa, rồi sẽ thôi ly biệt…

Giọng A Tuyết tuy nhỏ nhưng rất rõ, từng lời từng chữ đều gõ mạnh vào trái tim Lương Tiêu. Mấy năm trước ở Thiên Viên Địa Phương, khi đọc bài tiểu lệnh này lần đầu, gã vẫn chưa thấm thía ý vị ai sầu ẩn sâu trong từ ngữ, đến nay, sau bao nhiêu trải nghiệm và thời gian, cuối cùng gã cũng thẩm thấu được đôi chút. Khi chia xa người thương, lòng nhung nhớ khiến ta nhìn đâu cũng thấy bóng hình nàng, chẳng dám ngắm trăng, ngại trăng cong gợi nhớ hàng mi dày, chẳng dám ăn hồng đậu, ngại nhớ đôi mắt nhòa lệ ướt, chẳng dám bổ đào, ngại trông thấy nhân hạt giống trái tim thổn thức. A Tuyết theo hầu Hàn Ngưng Tử đã lâu, hẳn nghe ngâm bài từ nhiều lần đến mức ghi sâu vào tâm khảm, bình thời không nói, đến khi mơ ngủ mới thốt ra.

Có lẽ cô đang nằm mộng thấy chuyện gì thương tâm lắm, lẩm nhẩm xong bài từ thì nước mắt đã vòng quanh. Lương Tiêu ngắm A Tuyết, một nỗi ăn năn bỗng nghẹn đầy lồng ngực. Gã bẩm sinh nhạy bén, làm gì không nhận ra tâm tư của người con gái, chỉ hiềm bấy nay không sao quên lãng được hình bóng Liễu Oanh Oanh nên nửa như vô tình nửa như cố ý né tránh tình cảm của A Tuyết. Bây giờ ngẫm lại, mối si mê của thiếu nữ ngây ngô này đối với gã chẳng khác nào dây trầu không cuốn thân cau, dẫu khô vàng úa héo cũng quyết không xa lìa.

Lương Tiêu nghĩ: “Ta đánh Tống là sai, lưu luyến Liễu Oanh Oanh có lẽ cũng sai nốt. Cô ta vừa gặp Vân Thù đã xiêu lòng, cớ gì ta phải bịn rịn mãi không quên?”. Nghĩ tới đây, cái bóng xanh thướt tha trong đáy tim gã bỗng nhòa đi, Lương Tiêu cúi đầu ngắm A Tuyết, lòng chớm rung động.

Khi A Tuyết mở bừng mắt thì gặp ngay cái nhìn thiết tha của Lương Tiêu. Cô không hiểu vừa xảy ra chuyện gì, chỉ biết mặt mình nóng lên, và tim đập hồi hộp trước ánh mắt ấy. Thoáng thấy khóe mắt gã dường vương ngấn lệ, cô hốt hoảng hỏi:

- Huynh khóc đấy à?

Lương Tiêu cau mày:

- Hỏi ngốc, ta khóc hồi nào? Chính muội khóc ấy.

A Tuyết giật mình hồi tưởng những cơn mộng mị, đoạn ngượng ngùng nói lảng đi:

- A, còn phải bện dây nữa đúng không?

Lương Tiêu sực nhớ, kêu lên:

- Trời ạ, ta quên béng đi mất!

Hai người lập tức tước vỏ cây bện thừng. Cây tùng lâu đời, vỏ và cành rắn đanh, may mà Ảo Nguyên kiếm khá sắc mới róc được. Tuy vậy công việc tiến triển khá chậm chạp, đến tận chập tối, họ mới tết được đoạn dài chừng một trượng. Hai người bận rộn làm đến tận đêm khuya rồi díp mắt ngủ thiếp đi.

Gần sáng, chợt nghe có tiếng chí chóe huyên náo từ vách đá cao hơn vọng xuống, Lương Tiêu và A Tuyết bàng hoàng choàng tỉnh, ngước mắt nhìn, thảy đều biến sắc. Vô số chim sẻ đang ràn rạt bay xuống, xoay tít mù như cơn lốc trên tán cây tùng.

Tiếng cười tựa kim khí của Hạ Đà La lan đi trong không khí, vọng tới chỗ họ:

- Hảo đệ đệ, hảo muội muội, các ngươi xuống núi cho mau! Kẻo ta phát hiệu lệnh thì các ngươi sẽ thành bữa điểm tâm cho đàn sẻ đó đấy, ha ha…

Giọng hắn không to, nhưng sử dụng thủ pháp thiên lý truyền âm nên nghe rất rõ, Lương Tiêu bủn rủn cả người, vận đủ nội lực cười lớn:

- Ai làm món điểm tâm cho ai còn chưa chắc đâu!

Hạ Đà La loáng thoáng nghe thấy, thầm nhủ không hiển lộ uy phong thì khó mà đàn áp được hai kẻ cứng cổ này, bèn thổi điệu nhạc chim. Đàn sẻ theo hiệu vỗ cánh soạt soạt lao bổ xuống gốc cây.

Lương Tiêu ra dấu cho A Tuyết xích lại gần mình rồi vo nắm đấm nện vào thân cây tùng, quyền kình tới đâu, lá rụng rào rào tới đó. Lương Tiêu vỗ ra hai chưởng, chưởng trước là cương kình, chưởng sau là nhu kình, hệt như cánh cung vô hình đón lấy màn lá tùng làm tên mà bắn ra ào ạt.

Đàn sẻ bị tiếng tiêu của Hạ Đà La sai khiến, mất hết cả thần trí, chỉ biết sấn sổ lao vào, không biết né tránh. Ngay tức khắc, loạt đầu tiên bị lá tùng bắn xuyên thân, rơi lộp bộp xuống đất, những con còn sống vẫn liều lĩnh công kích. Lương Tiêu đành liên tục bắn lá tùng, chỉ một lát sau, xác sẻ đã chất dày đỉnh núi.

Hạ Đà La những tưởng Lương Tiêu và A Tuyết sẽ chết khiếp vì đàn sẻ và mau chóng van xin đầu hàng, nào ngờ tấu nhạc vi vút hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, hắn chột dạ nhớ ra một chuyện, lập tức ngừng thổi, thét to lên rằng:

- Tiểu tử kia, ngươi biết dùng Bích vi tiễn phải không?

Lương Tiêu cười vọng xuống:

- Kể cũng không đần lắm nhỉ!

Hạ Đà La tức tối vô cùng. Bích vi tiễn chính là khắc tinh của trận pháp chim sẻ, ai mà ngờ Lương Tiêu đã luyện được. Hắn càng nghĩ càng đằng đằng sát khí.

Lương Tiêu đẩy lui được đàn sẻ, lại cấp tốc bện dây thừng, tiếc nỗi vỏ cây quá ngắn, nhiều lắm cũng chỉ được chừng mười trượng, huống hồ cũng không bền và dai đến mức gánh được thể trọng của hai người. Lương Tiêu cúi nhìn bốn phía, ngẫm nghĩ nếu chỉ có một thân một mình thì gã đã mạo hiểm trèo xuống, nhưng cách ấy không thực hiện được khi mang theo A Tuyết. Xuống núi thường khó hơn lên núi, gã bóp trán, lòng đầy ưu phiền.

Giữa trưa hôm sau, Hạ Đà La bỗng lại thổi tiêu, điều động đàn sẻ đến bay vần quanh đỉnh núi. Hắn đoán được dự tính của Lương Tiêu nên bày trận sẻ để phong tỏa hết mọi đường xuống. Nếu Lương Tiêu ngồi yên trên đỉnh núi thì còn dùng được Bích vi tiễn để phá trận, nhưng nếu gã tụt xuống theo vách núi thì bầy sẻ sẽ tập kích, bản lĩnh gã cao cường đến đâu cũng chỉ còn nước ngã lộn cổ. Kế bện dây leo hạ sơn vậy là không thể thực hiện được.

A Tuyết chỉ cần ở bên Lương Tiêu là đã hân hoan, chẳng hề bận tâm tìm cách thoát thân. Thấy sẻ chất đầy đỉnh núi, cô bèn nhặt một ít làm lông, dùng nước trong hõm đá rửa sạch, lại gom cành khô đánh đá nhóm lửa, xiên mười mấy con lên quay thơm lừng.

Khi sẻ chín, cô đưa cho Lương Tiêu một xiên. Lương Tiêu nếm thử, thấy thịt mềm vừa, lại thoang thoảng mùi gỗ tùng, bất giác tán thưởng:

- Khéo tay lắm.

A Tuyết rạng rỡ mặt mày, nếm thử một con:

- Không ngờ thịt sẻ ngon thế. Nhưng các thư thư nói, ăn thịt sẻ, khi cầm bút sẽ run tay. – Nói đoạn lại dàu dàu.

Lương Tiêu cười xòa:

- Miễn là muội chế biến thì dẫu toàn thân run bần bật, ta vẫn ăn sạch bách như thường.

A Tuyết cúi mặt, hai má thấp thoáng lúm đồng tiền:

- Vậy sau này muội sẽ thường xuyên quay sẻ cho huynh ăn.

Lương Tiêu thở dài:

- Không cần đến mức “thường xuyên”, chẳng qua hôm nay hoàn cảnh bắt buộc thôi.

Quay lại tình hình khó khăn trước mắt, Lương Tiêu nhăn nhó phiền não. Hồi tưởng cảnh Công Dương Vũ dùng diều thoát hiểm trên núi Thạch Công, gã thở dài nghĩ: “Đáng tiếc ở đây không dùng được cách ấy”.

Lương Tiêu buồn bã, niềm hứng khởi của A Tuyết cũng xẹp xuống. Cô ngây dại nhìn ra ngoài vực núi, ngắm bầy chim đang bay quần quanh rất tự do tự tại, trầm ngâm nói:

- Nếu chúng ta biến được thành chim thì hay biết mấy, dẫu cao dẫu xa đến đâu cũng có thể bay tới nơi.

Lương Tiêu nghe vậy, sực nảy ra một ý, nghiền ngẫm hồi lâu, gã vỗ tay cười lớn:

- Muội nói phải lắm, vậy chúng ta sẽ biến thành chim bay đi xa, để tên ác ôn kia không tài nào đuổi kịp nữa.

A Tuyết giương mắt nhìn gã đầy thắc mắc, Lương Tiêu mỉm cười:

- Muội còn nhớ con chim tre ta làm trước đây không?

A Tuyết nhìn gã cười cũng vui lây, gật đầu:

- Muội nhớ, chỉ cần xiết dây cót thật chặt là bay được, đáng tiếc chuyến này ra đi vội vội vàng vàng nên không kịp mang theo.

Lương Tiêu cười lớn:

- Không sao, ta sẽ làm một con to hơn để nó chở mình xuống núi.

Gã liếc mắt sang cây tùng già, ước lượng:

- Cây này là đủ gỗ dùng đây. – nói đoạn tuốt kiếm, ngắm nghía hồi lâu rồi ngậm ngùi. – Ảo Nguyên ơi Ảo Nguyên, mi vốn là một thứ binh khí lợi hại, đáng tiếc chủ nhân vô năng, đành để mi tủi phận làm rìu bổ củi. – Chợt thấy A Tuyết chắp tay sì sụp lạy cây tùng, gã ngạc nhiên hỏi. – Muội làm gì vậy?

- Muội đang nói với cây rằng: đại thụ ơi đại thụ, ngươi ăn sâu bám rễ ở đây suốt mấy trăm mấy ngàn năm, đáng tiếc huynh muội ta phải tìm đường sống nên đành hi sinh ngươi vậy. Ngươi có linh thiêng thì làm chứng, sau này nhất định ta sẽ thắp hương tế bái ngươi, cầu cho ngươi phiêu diêu về miền cực lạc.

Lương Tiêu sắp bật cười, chợt nhìn lại dáng vẻ cô đơn của cây tùng, bỗng không cười được nữa, tự nhủ: “Cỏ cây còn đáng thương huống hồ dân chúng thiên hạ, ta công thành phá lũy, tàn sát bao người còn ra thể thống gì?”.

Gã càng nghĩ càng buồn rầu, gắng trấn định tâm tư để vẽ sơ đồ chặt cây. Nhờ tiếp xúc với toán học phương tây, kiến thức về thuật cơ quan của gã càng thêm phong phú, so với con chim tre chế tạo dạo nào thì con chim gỗ tùng tinh xảo hơn nhiều. Lương Tiêu miệt mài thi công, đêm xuống cũng đốt lửa để làm, không hề ngơi nghỉ.

Sáng tinh mơ ngày thứ tư, gã đã hoàn thành con chim gỗ, hình dáng như chim ưng, tổng sải cánh dài cỡ ba trượng, chiều dài dọc thân là hai trượng năm thước, dưới bụng có lắp vòng xiết, đầu đuôi và hai cánh gắn bốn chiếc chong chóng, nối truyền động với hai tay quay ở mé trên. Phần đế đặt bánh xe tròn, dưới bánh xe đặt hai trục trượt làm đà cất cánh.

Chim gỗ tuy đã làm xong, nhưng hướng gió chưa ổn định nên không tiện cất cánh ngay, Lương Tiêu càng thêm chán nản. Tự cổ chí kim chưa ai bay bằng chim gỗ, chẳng may sơ suất, gã rơi xuống đất tan xương nát thịt đã đành, nhưng nếu A Tuyết có mệnh hệ gì thì dẫu xuống suối vàng gã cũng không nguôi hối hận.

Hạ Đà La ban ngày khóa kín mọi đường xuống núi, ban đêm thì chui vào hang vận công dưỡng thương. Nội công Bà La Môn của hắn cực kỳ thâm hậu, không cần thuốc thang mà đến đêm hôm thứ ba, vết thương ở vai đã khỏi. Ghét nỗi ban đêm trèo núi nhiều rủi ro nên hắn tạm nén lòng đợi trời sáng lại.

Mấy hôm nay, hắn đã hỏi thăm vài cư dân trong vùng, biết được ngọn núi này tên là Thiên Đô, với nghĩa “thiên tiên đô hội”, là ngọn hiểm trở bậc nhất trong bảy mươi hai ngọn của rặng Hoàng Sơn, từ xưa đến nay rất ít người leo được lên tới đỉnh. Hạ Đà La nghe kể nổi lòng hiếu thắng. Hôm sau, mới tờ mờ sáng, hắn đã lập tức rời sơn động, nội lực sung mãn, chân tay lành lặn, do đó cũng phấn chấn tinh thần, tay bám chân đạp, trèo băng băng lên vách núi.

A Tuyết giữ nhiệm vụ cảnh giới, không may sương mù và mây phủ che lấp tầm mắt nên cô không phát giác ra Hạ Đà La từ đầu, đến khi báo động được cho Lương Tiêu thì Hạ Đà La chỉ còn cách đỉnh hơn hai mươi trượng và vẫn nhảy như bay dọc vách đá. Gã thầm rủa: “Lão tặc đi nhanh thật!”.

Gió vừa lệch về hướng tây bắc, tuy vẫn chưa thích hợp lắm để cất cánh nhưng cũng chỉ còn cách thử mà thôi, Lương Tiêu bèn đỡ A Tuyết ngồi lên con chim, vặn tay quay, bốn chiếc chong chóng bắt đầu chạy ro ro, khuấy mù bụi đất trên đỉnh núi.

Lương Tiêu vung kiếm chặt đứt dây buộc ở đằng đuôi. Con chim trượt lọc rọc theo trục gỗ. Đến lúc thoát khỏi đầu mút, thay vì lượn lên khoảng không, nó bổ nhào xuống núi.

Thùy Thắng Thùy Bại

Sự việc xảy ra quá bất ngờ, A Tuyết hãi hùng nhắm chặt mắt, la lên thất thanh, Lương Tiêu cũng hoảng hồn tái mặt, kêu trời như bộng.

Hạ Đà La trèo lên rất nhanh, chỉ chớp mắt đã cặp đỉnh, xảy đâu gió rít mạnh trên đầu, gần như quạt hắn ngã nhào xuống núi. Tưởng Lương Tiêu thừa cơ từ điểm cao tập kích, Hạ Đà La hấp tấp vận lực đánh ra một chưởng, vì từ dưới đánh lên, để đảm bảo độ sát thương nên hắn dồn đủ mười thành nội kình. Chưởng phong mang sức nặng ngàn cân, hất đúng con chim gỗ khiến nó tà tà bốc cao. Bốn chiếc chong chóng quay ngược chiều gió, chim gỗ trĩu xuống một nhịp rồi bật lên, dừng giữa lưng chừng, cuối cùng lấy lại thăng bằng và bay đi.

Lương Tiêu thở phào nhẹ nhõm, cười vang:

- Hạ Đà La, đa tạ ngươi đã tiễn chân bọn ta!

Tên cao thủ vùng Tây Vực nằm bám vào vách đá, ngơ ngác nhìn theo hai người đang nương chiều gió bay xa dần, nét mặt sửng sốt, tay chân rụng rời, suýt nữa hắn lăn tòm xuống núi.

Từ khi cất cánh, A Tuyết vẫn nhắm nghiền mắt, mãi cho đến khi con chim thôi lắc lư cô mới định thần, hé mi nhìn ra, chỉ thấy trước mặt trập trùng những ngọn núi xanh cao vút, nắng ban mai nhuộm ánh hồng rực rỡ lên biển mây bồng bềnh. Xa xa, sông hồ lấp lóa như dát vàng khảm ngọc, uốn lượn qua muôn dãy đồi rặng núi rồi chảy tan vào biển lớn. Mấy hôm nay, tuy mắt đã quen với phong cảnh Hoàng Sơn, nhưng chưa bao giờ A Tuyết thấy vùng núi ấy tươi đẹp như lúc này.

Con chim gỗ xuôi chiều gió đưa hai người bay qua đỉnh Quang Minh, ngọn Liên Hoa, ngọn Thiên Đô và lần lượt chao qua sáu mươi chín ngọn còn lại trong dãy Hoàng Sơn. Gió mát lồng lộng thổi phồng tà áo, không gian bao la khiến tâm hồn thảnh thơi rộng mở, Lương Tiêu không kìm được lòng, liền vòng tay ôm A Tuyết. Cô gái ngả đầu vào ngực gã. Trong khoảnh khắc ấy, thân thể và trái tim họ như hòa làm một, mọi mối ưu phiền, mọi sự tranh đoạt trên đời đều nhạt nhòa tan loãng như mây khói xung quanh.

Gió nhẹ đưa chim gỗ ra khỏi vùng núi. Trải dưới đôi cánh nó lúc này là bình nguyên bao la với ruộng đồng mênh mang và đường sá bằng phẳng. Nhiều nông dân đang cày cấy, trông thấy con chim gỗ thì bỏ dở công việc, la ó chỉ trỏ hoặc chạy theo xem.

Lương Tiêu cúi xuống nhìn đồng bằng, thở dài ao ước:

- Giá được bay mãi thế này thì thích biết bao nhiêu!

- Phải lắm! – A Tuyết hưởng ứng ngay.

Lương Tiêu cười buồn, khi ngước mắt lên, nhận ra Trường Giang đang lấp lánh cuộn sóng phía trước, gã liền lay động tay quay. Con chim hạ dần về phía dòng sông, cuối cùng đáp xuống nước, bập bềnh trôi xuôi hạ du.

Lương Tiêu tháo cánh chim làm mái chèo, bơi rẽ về hướng bờ sông. Khi đặt chân lên nền đất cứng, hai huynh muội còn đứng lặng nhìn theo con chim gỗ cho tới khi nó trôi xa hẳn, lòng ngập tràn cảm giác nuối tiếc. Một lúc lâu sau, Lương Tiêu thở dài, dắt tay A Tuyết:

- Đi nào!

Cô gái ngước lên, ánh mắt họ giao nhau. Nhớ lại cảnh âu yếm trên cao lúc nãy, mặt hai người cùng nóng bừng. Lương Tiêu ngoảnh đầu đi, bồi hồi nhận ra rằng trong khoảnh khắc ấy, hình ảnh A Tuyết đã xâm chiếm toàn bộ tâm hồn mình. Gã liếc mắt nhìn trộm, thấy nàng đang chau mày cúi mặt, không hiểu nghĩ ngợi những gì, cảm thấy hơi ấm nơi bàn tay nhỏ nhắn thấm dần vào da thịt mình, gã bỗng xốn xang trong dạ, chỉ muốn ngửa mặt lên trời hú vang cho thỏa niềm thống khoái.

Hai người nắm tay đi về phía đông suốt một ngày thì đến đại doanh Kinh Khẩu. Lính gác trông thấy Lương Tiêu từ xa, vội cấp báo vào doanh. Cổng lớn lập tức mở toang, ba kỵ sĩ phóng thốc ra, chính là Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt. Cả ba đều bận áo sô giáp trắng, nét mặt buồn đau.

Khi tới gần, Lý Đình nhảy xuống ngựa, ôm choàng lấy Lương Tiêu khóc lạc cả giọng. Lương Tiêu đoán hiểu tất cả, muốn nói nhưng họng nghẹn ngào, đành chỉ vỗ vỗ vai gã. A Tuyết ngạc nhiên:

- Xảy ra chuyện gì thế Lý Đình? Vương Khả đâu?

Lý Đình rùng mình, nước mắt vòng quanh, môi run run nhưng không thành tiếng. Thổ Thổ Cáp buồn bã đáp:

- Vương Khả tử trận rồi!

A Tuyết máy môi, nước mắt dâng ngập mi rồi chảy ròng ròng xuống hai má. Thổ Thổ Cáp nghiến răng kể:

- Lương Tiêu bỏ đi mà không báo một lời, A Truật đại nhân giận lắm, trách ngươi là đồ vô kỷ luật. Ta nghe chướng tai, bèn bảo dẫu thiếu ngươi thì chúng ta cũng chẳng thua được nào! A Truật nói ngay: “Việc quân không phải chuyện chơi, ngươi đã chắc chắn như vậy thì khi khai chiến, các ngươi làm tiên phong, thắng là công lao các ngươi, thua là tội của Lương Tiêu, ta sẽ nghiêm trị hắn”. Chỉ lát sau, quân Tống hạ chiến thư khiêu khích, đại nhân kéo quân ra nghênh địch. Trận pháp đối phương vô cùng lợi hại, bên ta tổn thất khá nặng. Vương Khả liền đề xuất: “Chúng ta chết cũng không sao, quyết không được để liên lụy đến Lương đại ca”. Thế là hắn rủ Lý Đình dẫn một đội thuyền chất đầy hỏa khí lao vào giữa trận quân Tống, ta và Nang Cổ Ngạt bọc quân yểm hộ hai cánh. Không may Lý Đình bị địch nhân cầm chân ngang đường, Vương Khả bèn đốt luôn thuyền hắn rồi luồn thẳng vào tâm trận địch. Hỏa khí bắt lửa phát nổ, thiêu rụi ngay mười mấy chiếc tàu lớn của quân Tống, kế đó được hướng gió đông nên liên tục lan rộng, khiến mấy trăm dặm thuyền chiến của chúng đều cháy thành than… – Thổ Thổ Cáp nấc nghẹn, chua xót kết thúc. – Quân Tống đại bại, nhưng Vương Khả không quay về nữa, ngay cả thi… thi thể cũng chẳng thấy đâu.

Lý Đình khóc đến lả cả người, khi Thổ Thổ Cáp dứt lời, qua làn nước mắt nhòe nhoẹt, gã nhìn sang Lương Tiêu, thấy gã này cũng đứng như hóa đá, bèn nói:

- Lương đại ca! Nhất định huynh phải trả thù cho Vương Khả, chính mắt đệ chứng kiến tên họ Vân đứng hò hét chỉ huy trong hàng quân Tống. Trước kia thì hắn hãm hại Triệu San, Dương Giác, hôm nay lại đến lượt Vương Khả. Đệ… đệ không đội trời chung với hắn…

Lương Tiêu bỗng rùng mình, hộc ra một ngụm máu, Lý Đình hốt hoảng:

- Huynh sao thế?

Lương Tiêu quệt máu, ngước mắt lên vòm không xám xịt, lầm bầm:

- Sinh con trai phải đâu là tốt, con gái kia mới thực cát tường…

Lý Đình nghe lời lẽ quái lạ đâm rợn người:

- Huynh vẫn tỉnh táo đấy chứ?

Lương Tiêu gạt gã ra, sải bước vào doanh, giọng thảm não:

- Gả chồng cứ chọn tiện đường, con trai đành đoạn sa trường vùi thây. Người có thấy ở miền Thanh Hải, xương chất chồng hỏi mấy ai gom. Hồn ma cũ mới khóc om, trời sầu đất thảm âm âm tiếng hờ.

Mọi người đứng sững, nhìn theo bóng gã khuất dần trong khu lều trại.

Lý Đình gắng vắt óc đoán hiểu ý nghĩa của mấy câu vừa rồi, chợt một tia hồi ức xẹt qua tâm trí. Dạo lên đường tòng chinh, Lương Tiêu đã từng đọc bài thơ này, nào ngờ lời thơ ấy ứng vào bọn họ như một câu sấm nghiệt ngã. Bốn người bạn thân háo hức cùng nhập ngũ, chưa tới Lâm An đã chỉ còn sót mỗi một người. Càng nghĩ, gã càng không cầm được nước mắt, lòng đau như dao cứa.

Trong cuộc chiến Kinh Khẩu, thủy quân Tống tổn thất hơn một vạn thuyền chiến. Lâm An được tin, cả triều đình bàng hoàng thảng thốt. Cùng lúc bên nhà Nguyên, vua quan cũng đang xôn xao tranh cãi xem có nên tiếp tục diệt Tống hay không, vừa hay tin báo tiệp ở Kinh Khẩu bay về, Bá Nhan mừng rỡ dâng biểu: “Sau chiến dịch này, Đại Tống đã hao tổn nguyên khí, cạn kiệt sức lực, phòng thủ mà không giữ được, việc lấy tiểu thành Lâm An dễ dàng khác nào lấy đồ trong túi. Trời đang phù hộ chúng ta, đất đai vạn dặm của Đại Tống chính là cơ nghiệp ngàn đời của bệ hạ”. Hốt Tất Liệt đọc xong tấu chương, bất chấp chiến sự miền tây, lập tức phong Bá Nhan làm Hữu thừa tướng, A Truật làm Tả thừa tướng, Lương Tiêu làm Bình chương chính sự, hạ chỉ cất quân xuống nam tiêu diệt Đại Tống.

Bá Nhan trở về đại doanh, ra lệnh cho A Truật tiếp tục vây hãm Dương Châu, lại cắt Lương Tiêu làm tiên phong kéo quân xuống Thường Châu.

Thường Châu vốn là căn cứ địa của Thần Ưng môn. Sau khi Kinh Khẩu thất bại, Cận Phi và Vân Thù thu thập tàn binh quay về tổng đàn. Nghe tin quân Nguyên kéo xuống nam, hai người vào thư phòng mật đàm cả ngày mà không vạch ra được kế sách nào. Vân Thù ngồi thẫn thờ hồi lâu, chợt nói:

- Huynh đệ ta tử trận nơi sa trường đã đành, nhưng mẫu thân và tỷ tỷ thì tính sao đây? Văn nhi còn nhỏ, chẳng lẽ cũng phải tuẫn nạn vì đất nước à?

Cận Phi lắc đầu than:

- Sự bất đắc dĩ thôi!

Vân Thù cau mày:

- Theo đệ, nên bảo tỷ tỷ thừa lúc đêm xuống đưa mẫu thân và Văn nhi rời khỏi thành…

Cận Phi mắng:

- Vớ vẩn, chúng ta đang giữ trọng trách bảo vệ thành trì, lúc này lại lo di chuyển gia quyến riêng thì còn ra cái thể thống gì?

Vân Thù nhợt mặt, chưa kịp đáp lời thì cửa phòng kẹt mở, ánh sáng soi lên một lão phu nhân khuôn mặt đầy đặn, mái tóc muối tiêu, mình bận đồ sô gai. Sau lưng bà là một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi, nét mặt nhang nhác Vân Thù.

Hai huynh đệ sửng sốt nhìn ra. Họ mải bàn bạc, lòng dạ lại ngổn ngang trăm mối nên không để ý rằng ngoài cửa có người. Cận Phi đứng bật dậy, thi lễ:

- Sư nương! – đoạn nhìn sang thiếu phụ. – Tiểu Tuyền!

Vân Thù cũng đứng dậy, cúi đầu trước hai người:

- Mẫu thân! Tỷ tỷ!

Vân phu nhân thong thả nói:

- Tình cờ đi ngang qua, ta đã nghe hầu hết những điều hai con thảo luận.

Giọng bà khản đặc, nhưng lời lẽ thốt ra rất rành rọt uy nghi, ánh mắt xoáy vào mặt Vân Thù:

- Lối suy nghĩ nhỏ nhen của con chẳng khác gì phường tự tư tư lợi như Giả Tự Đạo. Chẳng lẽ bao nhiêu đạo lý cha răn dạy, con đều bỏ ngoài tai hết cả rồi ư?

Vân Thù toát mồ hôi, khuỵu xuống run rẩy thưa:

- Hài nhi gánh nạn một mình đã đành, nhưng để liên lụy đến mẫu thân và tỷ tỷ thì thật không yên lòng.

Vân phu nhân thở dài:

- Nước non loạn lạc, việc nhà đáng chi? Bọn Thát xéo nát hàng vạn dặm giang sơn Đại Tống, tàn sát vô số gia đình, thêm một nhà họ Vân thì đáng kể gì? Ta không phải hạng đàn bà tầm thường, Tiểu Tuyền cũng rất hiểu đại cục. Ở Vân gia, đâu chỉ nam nhi mới biết điều trung nghĩa!

Giọng bà điềm đạm ung dung, Vân Thù nghe mà lòng đau như cắt, nước mắt lã chã tuôn rơi. Vân phu nhân thở dài, chìa tay ra đỡ Vân Thù dậy:

- Con có biết chữ “thù” trong tên con nghĩa là gì không?

- Dạ có, đó là chữ “thù” trong “đặc thù”.

Vân phu nhân gật đầu:

- Đúng, cha đặt tên ấy là mong con nổi bật hơn người, trở thành một đại anh hùng, đại hào kiệt khác hẳn số đông! Làm gì cũng ngó trước ngó sau thì đâu phải cốt cách của trang nam tử!

Vân Thù rùng mình, cúi đầu im lặng. Vân phu nhân ngoảnh lại hỏi Vân Tuyền:

- Văn nhi đâu con?

Vân Tuyền mỉm cười:

- Cháu đang luyện võ mẹ ạ!

Dứt lời, nàng đưa mắt nhìn Cận Phi. Hai người vừa là đồng môn, vừa là phu phụ. Cận Phi ngắm nàng, cảm thấy giữa lúc gian nguy này, mỗi ánh mắt nụ cười của thê tử đều đáng quý vô ngần, nhìn bao nhiêu cũng không đủ, bỗng lại nhớ rằng trong cuộc chiến sắp tới đây, tất cả chỉ có đường chết chứ không còn lối thoát nào nữa, y đau buồn khôn tả, cụp mắt xuống thở dài. Vân Tuyền nhẹ nhàng nắm tay Cận Phi, dùng đầu ngón tay viết nhẹ vào lòng bàn tay y: “Muội không sợ”. Cận Phi giật mình ngước lên, mắt ướt nhoèn.

Vân phu nhân vừa thong thả bước ra vừa bảo:

- Muộn rồi, các con đã vất vả suốt một ngày, mau đi nghỉ đi!

Vân Thù đưa mẹ về phòng xong, định quay về phòng mình thì nghe ngoài vách có tiếng binh khí va chạm, bèn đi vòng qua ô cửa tròn ra ngoài đình. Phong Miên đang cầm kiếm gỗ giao đấu kịch liệt với một thiếu niên sử thương. Sở Uyển chắp tay sau lưng đứng xem, thấy Vân Thù đến liền nhoẻn cười:

- Vân công tử!

Phong Miên muốn hiển lộ bản lĩnh trước mặt chủ, liền nhảy vụt ra sau hai thước, giả vờ sơ hở, dụ thiếu niên nọ xuất chiêu đâm mình. Khi thương đâm tới, Phong Miên vụt nghiêng người nắm lấy cán thương, giơ cao kiếm gỗ chém bộp xuống cánh tay đối thủ. Thiếu niên nọ đành thõng tay giật lui, tức giận thốt:

- Lại thua rồi! – Liếc thấy Vân Thù đứng sau, cậu kêu lên. – Cữu cữu, tại sao con toàn thua thế?

Vân Thù gắng tỏ ra bình thường, mỉm cười nói:

- Ai bảo trước đây con nghịch ngợm ham chơi, luyện công quấy quá!

Cận Văn níu lấy gã:

- Cữu cữu dạy con một ít bản lĩnh cấp tốc để con xung trận giết bọn Thát đi! – Nói đến ba chữ “giết bọn Thát”, mắt cậu bé rực sáng.

Vân Thù thầm thở dài, nhưng ngoài mặt vẫn gượng mỉm cười:

- Cấp tốc thì ta không dạy nổi.

Cận Văn bĩu môi:

- Hừ, cữu cữu hẹp hòi thế? – Cậu quay ngoắt sang Phong Miên. – Chúng ta đấu lại!

Hai bên hò hét, tiếp tục lao vào giao đấu.

Vân Thù theo dõi một lúc rồi bảo Sở Uyển:

- Lại đây, ta có chuyện muốn nói với cô nương!

Sở Uyển theo gã đi ra khỏi đình. Hai người im lìm dạo bước giữa những lùm cây bụi hoa, thình lình Vân Thù lên tiếng:

- Cô nên về nhà thì hơn!

- Vì sao? – Sở Uyển ngạc nhiên.

- Đang lúc nước sôi…

Sở Uyển không nghe hết, lập tức ngắt lời:

- Muội biết, nhưng muội không sợ! – Cô ta đăm đăm nhìn gã, ánh mắt long lanh, giọng dịu dàng. – Có huynh ở bên, muội không sợ gì hết!

Một cái bóng xanh bất thần lướt nhanh qua tim khiến Vân Thù bàng hoàng: “Sao ta lại nhớ tới nàng?”. Gã ngắm Sở Uyển, đau khổ nghĩ: “Sở cô nương cũng là một thiếu nữ tốt, nhưng… e rằng cả đời này, ta không bao giờ quên nổi người đó”. Trước ánh mắt trân trối của gã, Sở Uyển e lệ nhìn xuống, mặt đỏ như quả bồ quân.

Hai người đang lặng lẽ đứng bên nhau, chợt một a hoàn lao tới, kéo Vân Thù gọi giật giọng:

- Công tử ơi… nguy, nguy lắm…

Vân Thù ngạc nhiên:

- Nói chậm thôi nào Thư Mi!

A hoàn nuốt khan, òa khóc:

- Lão phu nhân… treo cổ tự tận rồi…

Hệt như bị sét đánh, Vân Thù giật lui, cơ hồ ngã phệt xuống. Sở Uyển vội giơ tay đỡ, gã thiếu niên chết điếng người, quáng quàng chạy vào phòng mẹ. Xác phu nhân vẫn treo lơ lửng giữa nhà, cổ thít một dây lụa bạch trắng như tuyết. Vân Thù lính quýnh đỡ mẹ xuống, đưa tay thăm mũi thì thấy đã tắt thở. Gã đau lòng quá độ, khóe mắt cay xè, những muốn khóc rống lên mà không sao bật được thành tiếng.

Chẳng biết ngồi thẫn thờ như thế bao lâu, chợt cảm thấy có người vỗ vai mình, Vân Thù ngước nhìn thì gặp ngay đôi mắt sưng húp của Cận Phi. Họ Cận trầm giọng bảo:

- Đại địch đang ở trước mặt, đệ hãy gắng kìm nén đau thương!

Vân Thù liếc ra sau y, chột dạ hỏi:

- Tỷ tỷ đâu rồi?

Cận Phi gục đầu:

- Nàng lừa lúc ta ra ngoài… đã nuốt vàng tự tận…

Y gắng sức nén tiếng thổn thức, nhưng không cầm được hai hàng lệ lăn dài trên má.

Cùng một lúc mất đi hai người ruột thịt, Vân Thù cứ ngồi bệt ra đất, đầu óc trống rỗng, không đứng dậy nổi mà cũng không nghĩ được gì nữa. Cận Phi nhác thấy trên bàn có tờ giấy hoa tiên liền cầm xem, trên đó viết bốn chữ tiểu khải: “Thà làm ngọc nát, còn hơn ngói lành”. Nét chữ thanh tú nhưng bút lực rất mạnh, hằn xuống cả mặt trái tờ giấy, Cận Phi nhận ra thủ bút của Vân phu nhân thì xót xa quá độ, nước mắt chứa chan.

Phương Lan lặng lẽ đi vào, nhìn hai người một lát rồi thở dài:

- Bọn Thát đã đến!

Hai huynh đệ cả kinh, vội kìm nước mắt chạy ra khỏi phòng, lao lên đầu thành. Trên cao, vòm trời bao la xanh ngắt không một gợn mây, dưới thấp, quân Nguyên rục rịch tiến đến, người ngựa dày đặc trên bình nguyên, nhìn không thấy đâu là cùng.

Đột ngột, quân Nguyên ngừng bước tiến, một kỵ sĩ tách tốp phi lên. Cận Phi cười nhạt:

- Định dụ hàng chứ gì?

Y khua tay. Ở các lỗ châu mai, cung nỏ đều kéo căng, chỉ đợi người nọ đến chân thành là bắn hắn thành nhím luôn.

Kỵ sĩ kia phi ngựa rất nhanh, trong thoáng chốc đã tới gần, Vân Thù nhận ra Lương Tiêu, lòng bừng bừng căm giận. Lương Tiêu đến cách thành một ngàn bộ thì gò cương, giơ cao hoa thương, ngửa mặt nhìn lên gọi:

- Có Vân Thù ở đó không?

Vân Thù hỏi to:

- Ngươi đến chiêu hàng à?

Lương Tiêu từ tốn nói:

- Không, ta đến khiêu chiến. Mong ngươi ra đây cùng ta quyết một trận đơn đả độc đấu. Nếu ngươi chết vì tay ta thì từ nay Lương Tiêu sẽ vĩnh viễn cao chạy xa bay, rút lui khỏi mọi cuộc chinh chiến. Nếu ta chết vì tay ngươi thì càng không còn gì phải bàn nữa.

Vân Thù nghe mà nóng máu, định nhận lời ngay, Cận Phi vội can:

- Kẻ này ngụy kế đa đoan, nhất định có âm mưu gì đây, đệ đang mang trọng trách giữ thành, không được khinh suất xuống đó.

Vân Thù sững người, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu đứng đợi hồi lâu, không thấy động tĩnh gì bèn sốt ruột gọi:

- Vân Thù!

Vân Thù nhăn mặt chực lao xuống, Cận Phi nhoài theo kéo lại:

- Đừng trúng kế khích tướng của hắn!

Vân Thù đành nghiến răng nén chịu. Gọi liền ba lần mà trên thành vẫn lặng ngắt như tờ, Lương Tiêu hậm hực quay ngựa trở về, cho quân hạ trại ngoài thành, từ hôm ấy tâm trạng buồn chán, ngày nào cũng say sưa chè chén với Trung Điều Ngũ Bảo. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và Lý Đình không hiểu ra sao, mà cũng không dám giục gã công thành, vì hễ hỏi đến là Lương Tiêu nổi cáu. A Tuyết thấy đại ca nát rượu như thế thì buồn lắm, khổ nỗi không giỏi khuyên nhủ, cô đành an phận túc trực thường xuyên bên cạnh để lau rửa chăm sóc cho gã.

Sáu ngày sau, Bá Nhan tới Thường Châu. Chứng kiến cảnh bê tha ấy, y nổi trận lôi đình, nhưng thấy Lương Tiêu say đến nỗi thậm chí không nhận ra mình là ai, y tạm thời hoãn xử phạt, thay Lương Tiêu đích thân điều động binh mã tấn công thành trì. Thường Châu thành cao hào sâu, Vân Thù lại giỏi phòng thủ, quân Nguyên tấn công hơn mười ngày mà không có cách nào phá hạ, ngược lại còn tổn thất rất nhiều.

Triều đình Tống nghe tin liền phái viện binh tới, khốn nỗi mới đến Ngu Kiều thì đã bị quân mai phục của Thổ Thổ Cáp đánh tan tác. Tháng thứ hai, Lý Đình phá hủy được tàu bè hộ thành của Thường Châu.

Nang Cổ Ngạt đắp đài cao ngoài thành, đưa thang mây áp sát tường lũy để một vạn bộ binh Nguyên triều đột nhập Thường Châu.

Quân Tống rút vào nội thành, vừa đánh vừa lui. Vân Thù đoạn hậu, múa song kiếm tít mù. Quân Nguyên cứ ùn ùn đổ vào. Được một hồi, Cận Phi thấy tình thế khó bề cứu vãn bèn quay sang túm vai Vân Thù bảo:

- Ta ở đây đương cự, đệ dẫn binh mã phá vòng vây phía nam mà chạy đi.

Vân Thù sửng sốt:

- Huynh nói gì vậy?

Cận Phi xẵng giọng:

- Đệ đã quên phải báo thù cho sư phụ rồi sao?

Vân Thù sững người. Cận Phi nghiêm mặt nói:

- Sư phụ lẫy lừng danh hiệp một thời, cuối cùng tính mệnh tiếng tăm thảy đều bị hủy trong tay Tiêu Thiên Tuyệt, thù cha chưa báo, đệ đâu được phép chết! Tài trí võ công đệ đều trên ta gấp trăm lần, hãy bảo toàn mạng sống để mai sau tiếp tục giao chiến với quân Thát.

Vân Thù vùng khỏi tay y, tức giận phản đối:

- Đệ thà tử trận chứ không bỏ trốn.

Cận Phi kề đao vào cổ mình, trừng mắt:

- Được lắm, nếu đệ không đi, ta tự tử ngay cho đệ xem!

Vân Thù choáng váng nhìn sư huynh, hai mắt đỏ hoe. Cận Phi đâm phập đao xuống đất, nắm lấy vai gã, ôn tồn bảo:

- Sư nương dùng cái chết để gửi gắm Thường Châu lại cho chúng ta, vì vậy ta quyết phải giữ thành đến cùng, nhưng cái chí đuổi man di của sư phụ cũng không thể bỏ lửng ở đây được. Đệ phải gánh lấy cái chí ấy, còn di ý của sư mẫu ta sẽ thực hiện trọn vẹn.

Vân Thù ngơ ngẩn đưa mắt nhìn Phương Lan. Lão già vuốt râu cười lớn:

- Tiểu tử ngốc nghếch, khỏi cần bận tâm đến ta, mau đi đi!

Vân Thù nghẹn ngào:

- Phương lão tiền bối…

Phương Lan xua tay:

- Thân này sắp xuống lỗ rồi, chẳng thiết chạy đâu nữa. Nếu hôm nay con phá được vòng vây, mai sau nhớ gắng sức giết thật nhiều lính Thát thay ta là được. – nói đoạn cười ha hả, giọng cười hào sảng là thế mà vẫn không che giấu được ý vị thê lương.

Vân Thù đang nghẹn ngào, Cận Văn đã dắt ngựa ra. Vân Thù nghiến răng đón lấy dây cương, nhảy phắt lên yên, thình lình ngoái lại tóm Cận Văn kéo lên cùng. Cậu bé bị điểm vào huyệt Khí hộ ở thắt lưng, không cựa quậy gì được. Cận Phi chưa kịp ngăn cản, Vân Thù đã giật mạnh cương. Tuấn mã tung vó phóng vút đi xa. Cận Phi thẫn thờ nhìn theo sư đệ, nước mắt ướt đẫm hai má.

Vân Thù dẫn quân đánh thẳng ra ngoài thành, Lý Đình nôn nóng báo thù nên ráo riết đuổi theo, tới Ngu Kiều thì bắt kịp. Hai bên lao vào chiến đấu kịch liệt, Vân Thù đại hiển thần uy, tung hoành xông xáo giữa trận địch, chém giết vô số rồi dẫn hơn một trăm binh lính sống sót xé trùng vây lao đi.

Hai bên chạy đuổi hơn một trăm dặm nữa. Thổ Thổ Cáp cũng dẫn thiết kỵ Khâm Sát đuổi theo hỗ trợ, ngựa phóng nhanh như gió, tên tới tấp như mưa. Quân Tống ngã nghiêng ngã ngửa, khi cặp bến Bình Giang thì chỉ còn mười kỵ mã, sông sâu trước mặt, kẻ địch sau lưng, quả thực tiến thoái lưỡng nan!

Vân Thù đã trúng mấy mũi tên, máu nhuộm ướt cả giáp sắt. Khi chạm bờ sông, gã không chần chừ nhiều, ôm chặt lấy cháu rồi hú vang, giật ngựa chồm dậy, lao vút xuống sông như mũi tên. Đám tàn quân cũng nhất tề hò hét, nhảy ào ào xuống nước theo gã.

Khốn thay phần lớn bọn họ đều đã bị thương, sóng nước Bình Giang lô xô, chỉ thoáng cái đã nuốt chửng hết người này đến người khác, duy chỉ có Vân Thù nhờ nội công thâm hậu nên cắp Cận Văn gắng sức đạp sóng bơi được sang bờ bên kia.

Quân Nguyên đuổi đến bờ sông. Thổ Thổ Cáp giương cung. Tên vừa rời dây đã bị một ngọn roi quất tới cuốn lấy. Thổ Thổ Cáp ngoái đầu nhìn, kinh ngạc kêu lên:

- Lương Tiêu!

Gã Bình chương chính sự hồi sáng còn say khướt, bây giờ đã nhìn hắn bằng cặp mắt sáng quắc tỉnh táo. Thổ Thổ Cáp ngạc nhiên hỏi:

- Sao không để ta bắn?

Lý Đình cũng thắc mắc:

- Phải đó đại ca, hôm nay không báo thù, còn đợi đến bao giờ đây?

Lương Tiêu nhìn theo Vân Thù hồi lâu, lắc đầu thở dài:

- Hảo hán!

Mọi người ngơ ngác. Lương Tiêu giật ngựa quay về, vừa thả nước kiệu vừa nói to:

- Hắn thà chết không khuất phục, chẳng phải hảo hán hay sao? Hảo hán như thế, ta muốn cùng quyết bề sinh tử chốn sa trường chứ không đời nào lợi dụng cái khó của hắn mà bắn hạ bằng cung nỏ!

Bọn Thổ Thổ Cáp đều đã từng giao thủ với Vân Thù, ít nhiều đều bội phục bản lĩnh của gã, nghe Lương Tiêu nói vậy thì không phản đối, cũng không gạn hỏi gì thêm nữa.

Vừa lúc ấy, một viên Bách phu trưởng giải tù binh đến. Lương Tiêu đưa mắt nhìn, nhận ra Sở Uyển và Phong Miên, cả hai đều trúng tên, đang vịn vào nhau chệch choạc bước đi.

Bách phu trưởng nói:

- Tôi phát hiện hai đứa này bị thương núp bên đường.

Sở Uyển trừng trừng nhìn Lương Tiêu, đôi mắt đẹp bắn ra đầy oán độc. Phong Miên chu môi nhổ nước bọt vào gã, nhưng bị thương yếu sức nên chỉ nhổ được tới vó ngựa mà thôi. Một tên lính đứng bên vụt giơ đao chém tên oắt to gan. Lương Tiêu liền quất roi cuốn phăng đại đao của hắn đi. Tên lính sợ sệt lùi lại sau. Lương Tiêu dặn viên y quan:

- Trị thương cho họ, không được ngược đãi.

Y quan vâng mệnh, rút mũi tên, bôi thuốc và băng bó vết thương cho hai tù binh.

Vân Thù gắng sức vượt sông lên tới bờ, hai cậu cháu dìu nhau mà đi. Sau một trận khổ chiến, họ đều đã sức cùng lực kiệt. Chật vật đi được một quãng, Cận Văn mất máu nhiều quá, ngã vật ra đất, Vân Thù cũng bị kéo ngã theo, tuyệt vọng nghĩ: “Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mạng ở đây?”. Thình lình có tiếng vó ngựa lộp cộp, Vân Thù ngoái đầu nhìn thì thấy nhiều bóng người lố nhố trong đêm, không rõ là bao nhiêu người.

Vân Thù gượng dậy thét to, múa thanh kiếm đâm túi bụi về phía toán người, nào ngờ mới chạy được mấy bước đã quíu chân ngã bẹp xuống, góc trán va phải một tảng đá xanh, hai mắt tối sầm, loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn bà kêu lên, rồi đầu óc trống rỗng, ngất lịm đi.

Lương Tiêu dẫn quân quay về Thường Châu, đi được nửa ngày đường thì trông thấy bóng vọng gác in lên nền trời. Nang Cổ Ngạt phi như bay ra đón họ, mặt mày rạng rỡ. Lương Tiêu hỏi han tình hình trong thành, Nang Cổ Ngạt hớn hở kể:

- Bá Nhan đại nhân nói Thường Châu đã làm chúng ta tổn thất rất nhiều binh tướng, phải dạy cho bọn chúng một bài học, vì vậy đại nhân hạ lệnh “đồ thành”, giết sạch từ trên xuống dưới, gà chó cũng không tha. – Hắn cười vang khoái trá, chợt nhận ra mặt Lương Tiêu trắng bệch thì lo lắng hỏi. – Ngươi bị thương ư?

Lương Tiêu vụt túm lấy ngực Nang Cổ Ngạt, nhấc bổng hắn lên khỏi yên, gằn giọng:

- Bá Nhan hạ lệnh đồ thành?

Gã túm rất chặt, Nang Cổ Ngạt tắc khí không nói được, chỉ trả lời bằng cách gật gật đầu. Lương Tiêu lăng tay một cái, Nang Cổ Ngạt ngã ngửa xuống, suýt nứt xương sống.

Lương Tiêu quất ngựa phi nước đại vào thành, chạy quanh một vòng. Không còn một người Tống nào sống sót, chỉ thấy nhiều tốp lính Nguyên mắt đỏ ké, hò hét chém giết. Bọn Thổ Thổ Cáp chạy theo sau, thấy Lương Tiêu phi ngựa lang thang đã lâu, định gọi lại thì bỗng Lương Tiêu giật ngựa quay đầu, phóng nước đại ra khỏi thành, quay về đại doanh.

Phi một mạch tới trướng soái, gã nhảy phắt xuống ngựa, sải bước chạy vào, mấy tên thân binh không ngăn cản kịp, bị gã đấm nhát một ngã nhào hết cả. Bá Nhan đang dùng bữa, ngước lên chưa kịp hỏi han gì thì Lương Tiêu đã vung chưởng phải tát thẳng vào mặt y. Bá Nhan hoảng hồn giơ tay đỡ, chợt nơi ngực tắc nghẹn, hóa ra đã bị chưởng trái của Lương Tiêu khống chế rồi.

Bá Nhan vừa sửng sốt vừa tức giận. Nhưng từng trải trận mạc đã nhiều, y không biểu lộ gì, chỉ nghiêm khắc hỏi:

- Ngươi định tạo phản à?

Lương Tiêu nghiến răng, hai mắt trợn to như muốn nứt:

- Ông hạ lệnh đồ thành?

Bá Nhan cau mày:

- Thế thì sao? Thường Châu khiến chúng ta hao binh tổn tướng quá mức, nếu không trừng trị làm gương thì các thành trì khác cũng bắt chước cứng đầu cứng cổ theo, khi nào mới đến được Lâm An?

Lương Tiêu nhổ phì phì, giọng tức giận:

- Trên chiến trường, kẻ chết người sống là sự thường. Chém chết tướng sĩ thì còn đi một nhẽ, nhưng dân chúng trong thành tay không tấc sắt, ông đuổi tận giết tuyệt như thế, thử hỏi tinh thần anh hùng ở đâu?

Bá Nhan cười nhạt:

- Người trong thiên hạ, ai chẳng là máu thịt do cha mẹ sinh ra, ai mà chẳng có anh em vợ con? Cùng là sát nhân thì giết binh tướng hay dân thường cũng có gì khác nhau? Trước đây ngươi đã tàn hại bao nhiêu người, sao hôm nay bỗng đổi dạ nhân từ như đàn bà thế? Khi đánh trận, tướng quân là nông phu, tất cả số còn lại là lúa đồng. Ai gặt lúa nhiều hơn, nhanh hơn thì kẻ đó là danh tướng!

Y nói gay gắt, sắc mặt nghiêm nghị. Mỗi lời mỗi chữ đều như dùi nhọn xoáy vào trái tim Lương Tiêu. Gã khổ sở nghĩ: “Phải, đều là giết người thì có gì khác biệt đâu?”.

Lúc ấy, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt hớt hải kéo nhau vào trướng, thấy cảnh ấy đều kinh hãi khôn tả. Thổ Thổ Cáp thét:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Nang Cổ Ngạt cũng khuyên giải:

- Mau buông Thừa tướng ra, Lương Tiêu!

Lý Đình nói như khóc:

- Lương đại ca, đừng làm chuyện dại dột!

Lương Tiêu nghe can gián, tinh thần bỗng bải hoải. Bá Nhan thừa cơ vùng ra. Lương Tiêu toan đuổi theo, nhưng Thổ Thổ Cáp đã bổ nhào đến giữ chặt gã, Lương Tiêu lấy lại tỉnh táo, thúc cùi chỏ trái vào đúng huyệt Kỳ môn của Thổ Thổ Cáp khiến tên này ngã bổ chửng. Nhưng chỉ một thoáng trùng trình đó đã đủ để Bá Nhan áp sát, vung tả chưởng chém xéo lên ngực gã. Chưởng lực hung mãnh khôn tả, đẩy Lương Tiêu bắn đi đến tám bộ. Hai gối mềm nhũn, gã ngồi phệt xuống đất, miệng ộc máu tươi, đám thân binh hò hét xông tới, ấn dúi gã xuống đất.

Bá Nhan dùng mu bàn tay lau mồ hôi trán, hỏi bằng giọng sắc lạnh:

- Ngươi biết tội chưa?

Lương Tiêu nghiến răng im lặng. Bá Nhan mắng:

- Ngươi vô lễ với thượng cấp, hành thích chủ soái, thực là tội to bằng trời. Có cho voi giày ngựa xéo cũng không quá đáng!

Thổ Thổ Cáp quỳ thụp xuống:

- Mong Thừa tướng khai ân, Thổ Thổ Cáp nguyện đem tất cả công lao đổi lấy tính mệnh Lương Tiêu.

Nang Cổ Ngạt cũng quỳ xuống:

- Tính khí Lương Tiêu xưa nay vẫn nóng nảy thẳng thắn, khẩn cầu thừa tướng cho chúng thuộc hạ đưa hắn về khuyên giải dần.

Lương Tiêu cau mày cáu kỉnh, Lý Đình hiểu rõ tâm ý của gã, bèn dập đầu van vỉ:

- Lương đại ca, đừng nói nữa, đừng nói nữa!

Gã dập đầu đến nỗi trán trợt cả máu. Lương Tiêu đâm mềm lòng, bao nhiêu lời nóng nảy đều nuốt ngược vào, ngước nhìn Bá Nhan, giọng đã hòa hoãn hơn:

- Tôi xông vào trướng uy hiếp ông là quấy! Nhưng ông hạ lệnh đồ thành là sai!

Bá Nhan vốn không nỡ xuống tay với viên ái tướng này, thấy gã biết điều ăn nói ôn hòa thì cũng ôn tồn bảo:

- Đồ thành đúng hay sai thì khoan bàn đến. Ngươi đã nhận lỗi, vậy ta hẵng nể mặt ba vị này mà tha cho ngươi một lần, lần sau còn tái phạm thì chém chết không bàn ra tán vào gì cả. – đoạn khoát tay. – Thả hắn ra!

Các thân binh vâng lệnh buông Lương Tiêu.

Lương Tiêu từ từ đứng dậy, Lý Đình định đỡ lấy gã, nhưng bị gã rảy ra. Lương Tiêu nén chịu nội thương, chậm rãi bước ra khỏi trướng. Bọn Thổ Thổ Cáp sợ gã lại gây chuyện nên đi theo xa xa đằng sau. Lương Tiêu về đến tận trướng mới ngoái đầu lại hỏi:

- Bọn tù binh đâu?

Thổ Thổ Cáp đáp ngay:

- Bọn họ được đối xử rất tốt, đúng như ngươi dặn.

Lương Tiêu bảo Lý Đình:

- Đưa họ ra đây!

Lý Đình phóng ngựa vào doanh, chỉ lát sau đã đưa bọn Sở Uyển ra. Lương Tiêu lặng im một thoáng rồi xua tay:

- Thả bọn họ!

Quân sĩ vâng lời tháo dây trói cho hai người, Sở Uyển không hiểu ra sao, hừ mũi rồi vênh mặt bước đi, Phong Miên cũng trừng mắt nhìn Lương Tiêu, nén đau tập tễnh theo sau Sở Uyển.

Lý Đình tức khí phản đối:

- Hai tên này là đồng bọn sát hại Tam Cẩu Nhi, không thả chúng được!

Lương Tiêu im lìm nhìn theo bóng Sở Uyển và Phong Miên mãi cho đến khi không còn trông thấy họ nữa mới hỏi:

- Các ngươi thử nói xem, chúng ta đánh nhau là vì cái gì?

Nang Cổ Ngạt, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp nhìn nhau ngơ ngác. Sau một lúc ngẫm nghĩ, Nang Cổ Ngạt trả lời:

- Thì cũng như Thành Cát Tư Hãn nói đó, điều khoan khoái nhất trong đời nam tử là dẹp yên loạn lạc, chiến thắng địch nhân, đoạt của cải, cướp tuấn mã, bắt lấy thê thiếp của chúng.

Thổ Thổ Cáp phụ họa:

- Đúng vậy, Thành Cát Tư Hãn đã nói thì nhất định không sai đâu.

Lý Đình ngập ngừng một thoáng rồi cũng gật đầu tán đồng.

Lương Tiêu nhìn ba người bạn, ánh mắt lúc lóe sáng lúc tối sầm, đoạn buồn rầu ngó sang thành Thường Châu:

- Tàn sát quyến thuộc, phá tan nhà nát cửa, cưỡng bức vợ con và cướp đoạt những thứ người ta yêu quý, đó là chí hướng của các ngươi phải không?

Ba người bối rối nhìn nhau, Thổ Thổ Cáp ngập ngừng:

- Hình như ngươi có gì không ổn…

Lương Tiêu cười buồn, phất tay áo rồi lững thững bỏ đi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro