Ch1213

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương XII

PHẬT GIÁO VÀ CÁI CHẾT

Jean Francois : Sự rút lui ra khỏi cuộc đời, dưới cái nhìn Phật giáo hay Công giáo, cũng là một cách chuẩn bị cho cái chết. Một tín đồ Công giáo như Pascal, khi ông ta hiểu rằng thực tại duy nhất là Thần linh, thì mất sự sống không còn ý nghĩa nào nữa. Ông ta phải chuản bị ngay khi còn sống trong cõi đời này, để đối mặt với Ðấng tạo hóa, và như vậy, ông ta làm như thể ông ta chỉ còn một vài khoảnh khắc để sống. Người ta thường gặp trong quyển "Tư tưởng" của Pascal, cái ý tưởng thật ra bắt nguồn từ kinh thánh: Anh không biết khi nào Chúa sẽ gọi anh về, trong mười năm hay trong năm phút nữa. Triết lý cũng vậy, dù rằn không hàm súc một ý nghĩa tôn giáo, nhấn mạnh đến việc nó là một sự chuẩn bị cho cái chết. Một chương trong quyển "Essais" của Montaigne có tựa đề "Triết lý là tập để chết". Ba nghĩ rằng cái ý tưởng chuẩn bị cho cái chế giữ một vai trò rất quan trọng trong Phật giáo. Cái giai đoạn sau cái chết Ba nghĩ là giai đoạn mà người ta gọi là thân trung ấm, hình như có một quyển sách viết về thân trung ấm.

Matthieu : Ðúng vậy. Nghĩ về cái chết luôn luôn ở trong tâm trí người Phật tử. Nhưng thay vì là buồn rầu và bệnh hoạn, cái ý tưởng đó là một sự mời gọi dùng mỗi giây phút cuộc đời để chuyển hóa tâm thức chứ đừng phung phí nó. Không nghĩ đến cái chết hay về vô thường của cuộc đời, người ta thường tự dễ dãi với chính mình: "Tôi sẽ cố gắng giải quyết cho xong các công việc của tôi, và thực hiện mọi ý định của tôi. Bao giờ xong xuôi, khi ấy tôi mới rảnh rang để quay về đời sống tâm linh." Sống giống như ta có đầy đủ thời giờ trước mặt, mà lẽ ra phải sống như ta chỉ còn sống một khoảng thời gian ngắn, đó là một sự tự lừa dỗi tai hại nhất. Vì cái chế có thể đến bất cứ tự lừa dối tai hại nhất. Vì cái chết có thể đến bất cứ lúc nào không hề báo trước. Thời gian và trường hợp đưa đến cái chết không ai có thể biết trước được. Mọi việc trong đời sống bình thường như ăn, ngủ, đi, đứng đều bất thình lình có thể trở thành nguyên nhân của cái vhees. Một tín đồ Phật giáo phải luôn luôn tâm niêm như thế. Một ẩn sĩ khi đốt lửa sưởi ấm buổi sáng, thường tự hỏi không biết ngày mai này ông có còn sống không? Khi ông ta thở ra ông ta rất sung sướng khi biết mình hít vào được. Sự tâm niệm về vô thường và cái chết là một phương thuốc kích thích để khiến ông luôn chú tâm đến việc thiền định.

Jean Francois : Ðối với Phật tử cái chết có đáng sợ không?

Matthieu : Thái độ đó tuỳ thuộc vào sự hành trì của họ. Ðối với người sơ cơ chưa kinh qua một quá trình tu tập lâu dài, cái chết là một cái gì kinh khủng: họ có cảm tưởng như một con nai bị mắc bẫy, cố vùng vẫy để thoát ra, sau đó thay vì tự hỏi một cách vô nghĩa: "Tôi phải làm sao để thoát khỏi cái chết?", anh ta sẽ tự hỏi: "Tôi phải làm thế nào để sống trong thân trung ấm không lo sợ, tự tin và thanh thản." Giống như người nông dân đã cày bừa gieo hạt và chờ gặt lúa. Dù có trái gió trở trời họ cũng không quản ngại, vì họ đã làm hết sức mình rồi. Cũng vậy, người hành giả dùng suốt cả cuộc đời để tự chuyển hóa không hề có một hối tiếc nào và thản nhiên đối mặt với cái chết. Sau cùng người hành giả tích cực luôn luôn phấn khởi trước cái chết. Tại sao ta lại phải sợ chết. Trong khi mọi dính mắc về xác thân, về của cải, về các hiện tượng vật chất đều sẽ tan biến. Cái chết trở thành một người bạn, một giai đoạn chuyển tiếp của cuộc đời.

Jean Francois : Không cố ý đánh giá thấp cái ý nghĩ tự an ủi. Như vậy, không có gì đặc biệt lắm. Phật giáo không có gì khác để thêm vào sao?

Matthieu : Diễn trình về cái chết và các cuộc thử nghiệm liên hệ đã được mô tả trong nhiều bản văn Phật giáo. Tiếp theo sự ngưng thở là nhiều giai đoạn của sự tan rã xác thân và tâm thức. Rồi khi thế giới vật chất này không còn hiện ra trước mắt ta nữa, tâm của chúng ta hoà hợp vào một trạng thái Không tuyệt đối, trái hẳn thế giới quy định mà chúng ta nhận thức được khi tâm còn dính mắc vào xác thân. Ngay khi chết trong một thời gian ngắn, tâm ta tan vào một vùng ánh sáng rực rỡ của một hư không tuyệt đối, sau đó xuất hiện trở lại trong một trạng thái trung gian gọi là thân trung ấm, và thân này sẽ dẫn con người đi đầu thai để bắt đầu một kiếp sống mới. Có nhiều phương pháp thiền định nhắm vào việc ở lại trong trạng thái không tuyệt đối trước khi kinh nghiệm thân trung ấm và nhờ đó người ta có thể đạt đến thực tại của vạn vật.

Jean Francois : Thật ra các lý luận về cái chết có thể chấp nhận được cho mọi người đã từng được đề cập trong lịch sử các nền triét lý và các tôn giáo. Nói một cách đại khái, người ta có thể chia chúng ra làm hai loại: Loại đầu tiên dựa vào lòng tin, vào sự bất diệt của linh hồn. Kể từ khi người ta tin vào một cõi bên kia với một linh hồn vĩnh cửu thì người ta chỉ sống sao cho phù hợp với đạo lý, hay nói theo bên Công giáo chỉ cần tranhs những trọng tội hoặc xưng tội với một vị linh mục, thì người ta sẽ được cứu rỗi và sẽ sống thoải mái hơn. Cái chết chỉ là một sẹ thử thách xác thân giống như một căn bệnh có thể đưa từ thế giới này đến một thế giới khác tươi đẹp hơn. Những vị linh mục giúp người hấp hối giảm nhẹ sự sợ hãi trước cái chết, mà chỉ có vấn đề: "Tôi sẽ được cữu rỗi hay tôi sẽ bị trừng phạt."

Loại lập luận kia là loại thuần tuý triết lý, có giá trị chung cho những ai không tin vào thế giới bên kia. Nó bao gồm một sự tuân phục sáng suốt, khi cho rằng sự tan hoại của cái thực thể sinh động là "Tôi" một con vật giữa những con vật khác là một là một sự tự nhiên không thể tránh được và chúng ta cần phải tuân phục nó. Dựa trên đề tài đó các triết gia đưa ra những lập luận xoa dịu để làm cho cái chết dễ chấp nhận hơn. Ví dụ như Epicure đã dùng một lý luận nổi tiếng. Ông ta nói: "Chúng ta không cần phải sợ cái chết vì thật ra chúng ta chẳng bao giờ được gặp nó. Khi mà chúng ta đi gặp nó thì nó chưa đến. Và khi nó đến, thì chúng ta không còn nữa. Vậy thì sợ hãi cái chết cũng vô ích mà thôi." Nỗi lo lớn của Epicure là giải thoát con người khỏi những sợ hải vô ích, sợ thần thánh, sợ chết, sợ những hiện tượng thiên nhiên như sấm sét, động đất. Ông ta cố gắng giải thích một cách gần như hiện đại, như là những hiện tượng có nguyên nhân tuân theo những quy luật v.vv...

Dù sao đi nữa với hai cách lập luận trên, Ba xếp Phật giáo vào cách lập luận thứ nhất. Cho dẫu rằng Phật giáo là một tôn giáo vô thần, cái kỹ thuật tâm linh dùng để làm cho cái chết dễ chấp nhận hơn dựa trên ý niệm siêu hình cho rằng cái chết không phải là một kỳ hạn. Mà dù cho là một kỳ hạn đi nữa, thì cũng là một kỳ hạn có lợi, bởi lẽ nó giúp người ta thoát ra khỏi sự luân hồi liên tục trong một thế giới đầy đau khổ. Trong thế giới hiện nay ở Tây phương người ta để ý rằng cái chế được che dấu như là một điều gì đáng xấu hổ. Thời xưa, cái chết là một sự kiện chính thức. Cả gia đình tụ tập chung quanh người hấp hối nghe những lời dặn dò cuối cùng, và các linh mục đến ban phép bí tích. Cái chết của một vị vua có đông đủ quần thần tham dự. Ngày nay thì dù cái chết được che dấu và nếu sự im lặng về người sắp chết chưa đủ thì người ta còn cầu cứu đến mọt số bác sĩ giúp cho người hấp hối mau chết.

Matthieu : Ngày nay người ta có chiều hướng ngoảnh mặt đi trước cái chết, và trước sự đau khổ nói chung. Sở dĩ có thái độ đó là vì cái chết là trở ngại không thể vượt qua với văn minh Tây phương hiện nay: người ta muốn sống sung sướng càng lâu càng tốt. Hơn nữa cái chết hủy hoại cái gì mà người ta quý nhất trên đời: cái tôi. Không có phương tiện vật chất nào khả dĩ giúp đỡ con người vượt qua được điều đó. Do vậy người ta cố quên đi nỗi lo sợ chết và người ta ru ngủ mình với một cuộc sống hạnh phúc giả tạo, phù du không giải quyết được gì và chỉ làm chậm đi việc đối với thực tại vận vật. Cuộc sống của chúng ta mỗi ngày một rạn nứt dần và chúng ta không biết cách dùng thời gian để tìm hiểu những nguyên nhân của đau khổ. Chúng ta không biết cho cuộc sống một ý nghĩa nào, và thời gian cứ dần trôi như cát lọt qua kẽ tay ta vậy.

Jean Francois : Vậy thì Phật giáo chủ trương thế nào?

Matthieu : Thật ra có hai cachs để tiếp cận cái chế, giống như một ngọn lửa sắp tan, như nước đổ trên đất khô, hoặc là chúng ta xem cái chết như là một giai đoạn chuyển tiếp. Dù tin hay không tin rằng cái tâm thức khi rời khỏi xác thân, sẽ tiếp tục những đời sống khác, Phật giáo chủ trương giúp đỡ người hấp hối chết một cách bình an. Ðó là một trong các lý do về sự thành công của quyển sách "Tạng thư sống và chết" của Soygal Rinpotché mà một phần quan trọng để nói về sự chuẩn bị cho cái chế, về diễn trình của cái chế, và về sự giúp đỡ cho những người sắp chết. Theo Soygal Rinpotché, mà một phần quan trọng để nói về sự chuẩn bị cho cái chết, về diễn trình của cái chết, và về sự giúp đỡ cho những người sắp chết. Theo Soygal Rinpotché, cái chế là sự hủ hoại tối hậu cái mà con người quí trọng nhất: cái "Tôi". Và người ta sẽ nhân ra sự quan trọng của việc giáo dục về vô ngã và bản thể của tâm. Vậy là khi sắp chết người ta phải cố gắng học hỏi, để không còn bị dính mắc ràng buộc, đồng thời cảm nhận được lòng vị tha và sự an lạc.

Jean Francois : Nếu Ba hiểu không lầm thì Phật giáo phối hợp hai cách tiếp cận cái chế mà chúng ta vừa đề cập đến.

Matthieu : Sự tiếp diễn của giòng tâm thức, theo nhiều tôn giáo, là nằm trogn giáo điều. Trường hợp Phật giáo, người ta đứng trên bình diện thực nghiệm bởi những con người phi thường, khiến người ta phải chú tâm đến. Dù thế nào đi nữa, thì nếu sống những ngày cuối cùng bình an và thanh thản, vẫn hơn là phải lo sợ. Lo sợ vì cái ý tưởng bỏ lại người thân, tài sản, lo sợ vì ngại rằng thân thể ta sẽ bị hư hoại. Phật giáo dạy ta phá tan những ràng buộc chặt chẽ đó, nó làm cho cái chết trở nên một sự hành hạ tinh thần, hơn là hành hạ xác thân. Nhất là dạy ta đừng chờ đến giây phút chót để chuẩn bị cho cái chết vì lẽ thời gian cuối cùng của cuộc sống không phải là thời gian lý tưởng để sống đời sống tâm linh. Chúng ta luôn luôn nghĩ đến tương lai, luôn luôn cố gắng không phải thiếu thốn tiền bạc, thức ăn để giữ gìn sức khoẻ nhưng chúng ta lại không thích nghĩ đến cái chết không có gì đáng ngại, mà chúng ta chỉ xem như một lời nhắc nhở cho chúng ta nhớ đến sự ngắn ngủi mong manh của cuộc đời, và để cho chúng ta sống cho có ý nghĩa. Một lời khuyên Tây Tạng nói rằng: "Nếu anh luôn luôn nghĩ đến cái chết anh sẽ cố gắng thiền định, sẽ tinh tấn và sau cùng sẽ thể nhập thực tại tuyệt đối".

Jean Francois : Ngày nay cái chết còn đặt ra vấn đề "được chết mau chóng nhờ y học". Ở Tây phương cả một nghi vấn được đặt ra: "Người ta được chọn giờ chết hay không?". Ba không nói đến tự vẫn, đó là chuyện khác. Nếu bệnh nhân tự biết mình không sống nổi hoặc giả không chịu nổi những đau đớn thể xác hắn ta có quyền được yêu cầu chết hay không? Một bác sĩ có quyền giúp ta anh ta toại nguyện hay không? Ðây là một vấn đề đạo đức và pháp lý và cũng thuộc loại các vấn đề xã hội ngang hàng với vấn đề phá thai. Và hơn nữa vấn đề trở nên rất trở nên rất thời sự, khi Ðức Giáo hoàng trong mộït chuyến đi Slovénia, đã đọc một bài diễn văn trong đó ngài lên án cái được gọi là "những công cụ giúp cho cái chết", co snghiax là những người chủ trương phá thai và giúp cho người khác chết. Phật giáo chủ trương thế nào trước vấn nạn này?

Matthieu : Ðối với một hành giả thì mỗi giây phút đều đáng quý. Tại sao? Vì mỗi giây phút đều đáng quý. Tại sao? Vì mỗi giây phút có thể được dùng để tiến dần đến sự thức tỉnh. Ðối mặt với mặt đau khổ cùng cực về thể xác có thể giúp ta thiền định về bản thể của vạn vật, vì lẽ ở tận cùng sự đau khổ đó, cái tâm ta vẫn không thay đổi, không hề bị cái vui hay cái buồn ảnh hưởng tới. Vậy thì một người có bản lĩnh và đã tiến bộ trong thiền định có thể sử dụng những giây phút đau khổ nhất để tiến tới sự giác ngộ.

Jean Francois : Trong quyển " Sử dụng những cơn bệnh hoạn thế nào cho tốt" của Pascal, tác ghỉa cũng có đề cập đến việc này.

Matthieu : Sự đau khổ cũng là cơ hội nhắc nhở chúng sinh khơi dậy từ tâm và lòng bi mẫn. Nó cũng có thể giữ vai trò một cây chỗi để quét đi những nghiệp xấu mà chúng ta đã gieo tạo. Thật vậy đau khổ là kết quả của những hành động tiêu cực của chúng ta trong quá khứ. Do đó nhờ thiền định chúng ta có thể trả các quả xấu.

Vì những lý do nêu trên, sự tự vẫn cũng như sự trợ giúp cho cái chết mau đến đều không thể chấp nhận được. Nhưng điều này không có nghĩa là kéo dài sự sống một cách vô lý và vô ích, khi không còn mảy may hy vọng. Dùng những phương tiện hồi sinh, sử dụng tối đa cacs loại thuốc chỉ để kéo dài vài giờ sự sống của một người đang hấp hối là những điều không nên làm, bởi lẽ cái tâm còn ở trong trạng thái vật vờ giữa cái sống và cái chết, và chúng ta không nen làm xáo trộn nó quá lâu. Tốt hơn hết, là nên để những người hấp hối chết một cách thanh thản.

Jean Francois : Nhưng nếu người đó không phải là Phật tử thì sao?

Matthieu : Nếu người đó không chịu đựng nổi những đau đớn xác than có thể làm mất đi những giây phút thanh thản cuối cùng thì....

Jean Francois : Ðó là đại đa số các trường hợp.

Matthieu : Khi ấy người ta có thể quan niệm kéo dài sự sống là vô ích mà còn là một sự hành hạ thân xác mà thôi. Nhưng như con vừa trình bày Phật giáo xem sự đau khổ không phải là một điều ngẫu nhiên hau là mọt sẹ định đoạt của số phận. Mà như là cái quả của những hành động quá khứ. Do đó tốt hơn là trả cho xong cái nghiệp chướng còn hơn là mang nó theo qua bên kia thế giới. Ai biết được kiếp sau này, chúng ta sẽ ra sao? Sự trợ giúp cho cái chế mau đến không giải quyết được gì.

Jean Francois : Về vấn đề trợ giúp cho cái chết không những chỉ đặt ra cho những người muốn chế, mà cả cho những kẻ muốn giúp họ, và như vậy vô tình họ lại đi giúp hủy hoại một sinh mạng, một điều cấm kỵ đối với Phật giáo, vốn không cho phép sát hại bất kỳ một sinh vật nào.

Matthieu : Cả sinh mạng của chính mình và của kẻ khác. Thật ra điều đáng buồn này phản ánh việc mất dần các giá trin tinh thần ở thời đại chúng ta. Người ta không tìm được những nguồn cảm hứng bên trong cũng như bên ngoài để sống an ổn. Ðó là điều không thể hiểu được ở Tây Tạng, nơi mà những người hấp hối luôn luôn được nâng đỡ bởi những lời dạy mà suốt đời họ chiêm nghiệm, và nhờ đó họ được chuẩn bị sẳn sàng để đón nhận cái chết. Họ có một sức mạnh nội tâm, và vì họ biết cho sự sống một ý nghĩa, cho nên họ cũng biết cho sự chết một ý nghĩa. Hơn nữa họ còn được nương tựa vào sức mạnh tâm linh của vị thầy. Ðiều này trái ngược hẳn với sự xuất hiện của những vị thầy thuốc "đao phủ" như bác sĩ Kervorian ở Hoa Kỳ (một bác sĩ chủ trương giúp cho chế theo ý muốn). Dù là với động cơ gì đi nữa những điều họ làm thật đáng buồn. Thái độ tích cực trước cái chết ở phương Ðông hoàn toàn trái ngược với cái không khí nặng nề, đau khổ ở phương Tây.

Jean Francois : Người Phật từ nghĩ như thế nào về việc hiến các cơ quan nội tạng?

Matthieu : Lý tưởng của Phật giáo là biểu hiện lòng vị tha bất kỳ dưới hình thức nào. Do đó việc hiến dâng các cơ quan nội tạng là đáng ca ngợi vì cái chết của ta mang lại lợi ích cho người.

Jean Francois : Thế tự vẫn thì làm sao?

Matthieu : Giết một người hay tự sát cũng là lấy đi một sinh mạng. Hơn nữa, không muốn tồn tại cũng là một sự lừa bịp, vì lẽ anh vẫn bị kẹt vào vòng luân hồi và chưa chắc gì anh sẽ có một đời sống tốt đẹp hơn.

Jean Francois : Bên Công giáo cũng quan niệm như vậy, thế thì cùng chung một lý do người ta ddeuf bị đoạ cả hay sao?

Matthieu : Không có quan niệm bị đoạ trong Phật giáo, mà chỉ có luật nghiệp quả. Sự trả quả những gì người ta đã gây ra từ trước không phải là một sự trừng phạt, mà là một hệ quả tự nhiên. Người ta phải gặt hái cái gì người ta đã gieo. Người nào liệng một hòn đá lên trời, sẽ không ngạc nhiên nếu hòn đá rơi trở xuống đầu họ. Ðiều này khác với cái quan niệm về tội lỗi của bên Công giáo. Theo Cha Freedman: "Tội lỗi theo nghĩa tiếng Hy Lạp là trượt khỏi mục tiêu." Tội là điều gì làm lương tâm trượt ra khỏi chân lý vì là kết quả của ảo tưởng và ích kỷ, cho nên tội lỗi chứa đựng cả hình phạt tương ứng. Thượng đế không bao giờ trừng phạt ai cả. Con không biết đã nói rõ hay chưa về quan niệm thiện và ác là không tuyệt đối theo Phật giáo. Không ai có thể cho rằng điều này tự tự nó tốt hay xấu. Hành động, ngôn ngữ tốt hay xấu là do động có gây ra chúng, và cả kết quả mà chúng mang đến, hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ. Tự vẫn, theo ý nghĩa đó, là tiêu cực vì lẽ người ta thất bại trong việc đem lại một ý nghĩa cho cuộc sống. Khi tự vẫn người ta tự huỷ cái khả năng làm hiển lộ tiềm năng chuyển hóa con người của chúng ta. Người ta quỵ ngã trước cuộc khủng hoảng do thất vọng, và đó là biểu hiện một sự yếu đuối, một sự lười biếng của tâm hồn. Khi ta tự hỏi: "Sống để làm gì", ta tự làm mất đi cái khả năng giúp ta phấn đấu để thay đổi hoàn cảnh. Vượt lên một trở ngại, đó là dấu hiệu của tiến bộ. Có những người vượt qua nhiều thử thách lớn lao và nhờ đó họ học được những bài học kinh nghiệm quý giá hướng họ đi vào con đường tâm linh. Nói tóm lại, tự vẫn không giải quyết được vấn đề gì cả, mà chỉ là chuyển một kiếp sống này đến một kiếp sống khác mà thôi.

Jean Francois : Trở lại vấn đề thân trung ấm, những giai đoạn của thân ấy như thế nào?

Matthieu : Trung ấm có nghĩa là chuyển tiếp, giai đoạn trung gian. Người ta có thể chia ra nhiều giai đoạn:

Ðầu tiên là giai đoạn trung ấm giữa cái sống và cái chết. Sau đó đến giai đoạn ngay sau khi chết, khi tâm lìa khỏi thân. Kế đó là hai thời kỳ tan biến, tan biến giác quan và cảm quan trước, và tan biến tinh thần sau. Tan biến xác thân là sự mất đi năm yếu tố tạo thành vũ trụ. Khi yếu tố "đất" tan đi thân thể trở nên nặng nề, chúng ta không đứng vững được nữa, chúng ta cảm thấy bị ngột ngạt như bị một núi đá đè phải. Khi yếu tố "nước tan đi, các màng nhầy khô đi, chúng ta khát, tinh thần rối loạn giống như bị một giòng nước cuốn trôi. Khi yếu tố "lữa" tan đi, xác thân bị mất thân nhiệt và nó khó tan đi, chúng ta khó thở, không cựa quậy được và chúng ta mê đi. Những ảo giác xuất hiện, toàn diện cuộc đời của chúng ta diễn ra trong tâm của chúng ta. Ðôi khi người ta cảm thấy một sự an lạc, có thể thấy một vùng sáng êm đềm. Sau đó hơi thở ngừng dứt. Tuy nhiên một ít sinh lực hãy còn tiềm tàng đau đó một thời gian rồi mới mất hẳn. Và sau cùng là cái chế, giòng tâm thức tách rời khỏi xác thân. Giòng tâm thức này trải qua nhiều trạng thái mỗi lúc mọt tế nhị hơn. Lần lượt một vầng ánh sáng rộng lớn trong đó người ta cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời và hoàn toàn thoát ly mọi tư tưởng. Chính trong giây phút ngắn ngũi đó, người ta kinh nghiệm được thực tại. Một hành giả lão luyện có thể ở luôn trong trạng thái trung chuyển giữa cái chết và sự tái sinh. Và những kinh nghiệm mà giòng tâm thức phải trải qua tùy thuộc vào trình độ tâm linh của con người. Ðối với một người không có một chút thành tựu tâm linh nào, hắn ta có cảm giác như bị "gió nghiệp" lôi đi không cưỡng được. Nghiệp này là do thân, khẩu, ý của anh ta trong kiếp sốn. Chỉ có kẻ nào có những thành tựu tâm linh, mới có thể điều khiển cơn gió nghiệp. Kế đó là thân trung ấm của vị lai và bắt đầu xuất hiện những hình thái của kiếp sống mới. Diễn trình của việc tái sinh giống nhau giữa những người thường và những người đã đạt được một mức độ tâm linh nào đó. Tuy nhiên, nhc người trước bị gió nghiệp kéo đi không cưỡng lại được, trong khi những người sau đã thoát khỏi nghiệp chướng, có thể tái sinh trong những điều kiện thích hợp hơn để tiếp tục giúp đỡ chúng sinh. Vì lý do đó có khả năng nhận ra được kiếp sống mới của một vị đạo sư quá cô.

Jean Francois : Chúng ta không trở lại vẫn đề luân hồi. Nhưng cái điều hấp dẫn rất nhiều người Tây phương là Phật giáo dạy cho con người ta làm chủ được bản thân.

Matthieu : Việc làm chủ bản thân là một điều cần thiết tuy nhiên nó cũng chỉ là mọt phương tiện. Nghệ sĩ đi dây, nhạc sĩ vĩ câm, võ sĩ Judo, và ngay đến kẻ sát nhân đều rất tự chủ bản thân, nhưng động cơ và hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Sự tự chủ là không lệ thuộc vào các tư tưởng tiêu cực và luôn luôn tỉnh thức. Người ta có thể nói một cách đứng đắn đó là một khoa học tâm linh.

Jean Francois : Như vậy là làm chủ bản tâm để hướng về cái Thiện. Sự tự chủ bao gồm cả tư tưởng, tình cảm và cách cư xử trong đời sống. Ðó là điều mà người ta gọi từ thời cổ xưa là nhân cách thánh hiên, nó đến từ sự tu luyện nội tâm. Về mặt này, Tây phương chú ý đến một loạt kỹ thuật khác, đặc biệt là yoga. Con có thể nói vài lời về sự liên hệ giữa Phật giáo và yoga không?

Matthieu : Yoga hay theo tiếng Tây Tạng là Naldjor, có nghĩa là sự hoà hợp vào thiên nhiên. Ðó cũng là điều mà người ta nói về sự hoà hợp giữa tâm người tu sĩ và tâm của vị thầy hay vào tâm của Phật (tuyền tâm). Ấn Ðộ giáo bao gồm nhiều hình thức yoga. Raja yoga chủ yếu phát huy một sức mạnh tinh thần trong hành động, Bhakti yoga theo hướng sùng đạo, Jnana yoga theo đường thần học, vf được biết tơi nhiều nhất là Hatha yoga chủ yếu dạy luyện tập thân thể và kềm chế hơi thở để đem lại những hiệu quả tâm thể và kềm chế hơi thở để đem lại những hiệu quả tâm thể nhất định. Những sự luyện tập này đưa đến thư giãn, bình an nội tại giúp cho chúng ta đối mặt một cách thanh thản trước những biên thiên của cuộc đời. Phật giáo Tây Tạng cũng dạy những sự luyện tập thân thể và kiểm soát hơi thở nhất là trong những khi nhập hạ hoặc ẩn cư, nhưng không bao giờ dạy cho những người sơ cơ, trừ trường hợp có những điều kiện tâm linh thích hợp. Có một số bằng chứng về những sự luyện tập này. Trong một cuộc hội thảo ở đại học Harvard giáo sư Herbert Benson có thông báo trong một bài viết nhân đề "Hổ tương tác dụng giữa thân và tâm"gồm co snhx ghi chép về nên minh triết cổ truyền Tây Tạng. Ðược khuyên khích bới Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, giáo sư Benson đã nghiên cứu trong mười lăm năm những hiệu năng của thiền định và vài kỹ thuật luyện tập trên cơ thể con người. Ðặc biệt ông ta đã nghiên cứu về "Tummo" tức thân nhiệt đã được bà Alexandra David Need mô tả rất chi tiết trong quyển sách của bà "Du hành Tây Tạng". Bà viết: Tôi nhìn thấy một vài vị đạo sư, mình không quân y, ngồi trên tuyết đêm này sang đêm khác, bất động chìm đắm trong cơn thiền định trong khi các cơn giông bão mùa đông đang gào thét quanh họ. Dưới ánh trăng rằm rực rỡ, tôi còn nhìn thấy một số người trẻ tuổi trải qua một kỳ thi khảo sát: họ được dẫn tới bên bờ một cái hồ hay một giòng sông và ở đó họ lột cả quần áo mặc trên mình nhúng vào nước lạnh giá rồi mặc vào hong khô trên da thịt của minh. Hơi khói bốc lên từ cơ thể của những người học trò ấy giống như quần áo được đặt lên một cái chảo nóng. Chính tội cũng thực tập y như vậy trong 5 tháng mùa đông, chỉ mặc một áo dài bằng vải mỏng ở độ cao 3.900 thước trên mặt biển.

Giáo sư Benson đa nghiên cứu hiện tượng này trong dãy Hy Mã Lạp sơn ở những người đạo sĩ Tây Tạng lưu vong. Ông đa nhận thấy ở những người này lượng tiêu thụ oxy tụt xuống 64%, lượng laactsaat trong máu giảm và nhịp thở chậm hẳn lại.Ông đã ghi hình họ đang tự hong khô quần áo ở nhiệt độ 1 độ bách phân. Theo giáo sư Benson, bất kỳ ai khác với nhiệt độ trên sẽ run cầm cập hoặc sẽ chết rét. Trái lại da của các vị đạo sĩ yoga trên đây đều rất nóng. Ðây không phải là một cuộc trình diễn. Con cũng có nhiều bạn Tây Tạng làm được điều này. Những kỹ năng dùng để rèn luyện xác thân và nội lực, nhưng không phải là cứu cánh, chỉ là để tiến bộ trong lãnh vực tinh thần mà thôi. Người ta bảo: "Khổ hạnh là để chế ngự xác thân. Ngoài việc đó thì khổ hạnh để làm gì".

Chương XIII

PHẬT GIÁO VÀ PHÂN TÂM HỌC

Jean Francois : Bước sang một địa hạt khác mà Phật giáo cần phải đương đầu: Phân tâm học khoa học này không phải là một khoa học chính xác mà chỉ là một hướng tìm tòi. Nhưng nó đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc nghiên cứu bản thể con người ở Tây phương từ 100 năm nay. Có một thời kỳ nó giữ vai trò chủ đạo trong tư tưởng Tây phương. Khía cạnh phân tâm học mà Phật giáo cần lưu ý là thuyết của Freud: Dù nội tâm có sáng tỏa đến mức nào, dù có ya muốn thành thật, khiêm tốn, dù có cố gắng tự biết mình và tự sữa đổi, có một cái gì đó ngaoif tầm với của việc nội quán cổ điển. Ðó là điều mà Freufd gọi là vô thức. Nói đơn giản có những cấu tạo tinh thần, những khích động, những kỷ niệm ảnh hưởng đến thái độ của chúng ta mà chúng ta không hề hay biết, cũng không hề phản ứng lại được. Kỹ thuật duy nhất khiến ta phát hiện ra chúng và nếu cần dẹp tan chúng và làm chủ được chúng chính là phân tâm học. Nhưng Freud nghĩ rằng vói trí thông minh bình thường thì khó mà vượt qua cái rào cản đã chôn dấu những cấu tạo tinh thần trong vô thức. Chúng ta không làm sao vào được vô thức chỉ với việc nội quán và việc rèn luyện tinh thần. Ðây không hẳn là thuyết suông vì kinh nghiệm chữa bệnh tâm thần đã cho thấy là không thể tiếp xúc được với vô thức chi bằng việc nội quán cổ điển.

Matthieu : Khẳng định là không thể vượt qua những rào cản ẩn ức có vẻ hơi vội vã đấy cũng giống như Wiliam James khi ông ta cho rằng không thể ngăn được giòng tư tưởng dù ông ta có cố gắng. Kiểu kết luận đó cho thấy một sự thiếu kinh nghiệm sống về quán xét nội tâm về thiền định trực tiếp bản thể nội tâm về thiền định trực tiếp bản thể của tâm. Ðể cố vượt qua bức rào cản đó, Freud đã làm gì? Bằng cách sử dụng trí thông minh tuyệt vời của ông để quan tưởng, và bằng những kỹ thuật mới. Nhưng ông đâu có để ra hàng tháng, hàng năm tập trung vào sự quán xét nội tâm như những vị ấn sĩ Tây Tạng? Làm thế nào một nhà phân tâm học, nếu chưa nhìn thấu được cộ nguồn tư tưởng có thể giúp đỡ được kẻ khác thành tựu được điều đó. So với một đạo sư đã hiểu ddc lý tánh, thì ông ta còn kém xa. Phật giáo dành một sự quan tâm lớn lao về việc vượt qua được cõi vô thức. Cõi này gồm có những xu hướng tích lũy những tầng bực tâm linh sâu thẳm nhất cẩ cn người. Cái vô thức này không có mặt trọng việc cấu tạo nên tư tưởng của chúng ta, nhưng có ảnh hưởng đến thái độ của chúng ta. Chính cái vô thức này theo Phật giáo được tạo thành do vô số kiếp sống trước đây. Người ta có thể phân tích tâm thức ra tám tâm vương: Nhãn thức, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, thức là năm tâm vương thuộc về ngũ quan. Rồi đến ý thức giúp ta nhận thức được tổng quát mọi sự vật. Kế đến là mạt na thức liên quan đến cái ngã của con người và sau cùng là tàng thức nơi tàng trữ mọi xu hướng, tình cảm tích lũy từ nhiều kiếp. Chính cái tàng thức này là rào cản mà Freud bảo là không thể vượt qua được. Ta có thể so sánh nó như một tờ giấy cuộn lại từ lâu. Khi ta đặt nó kên bàn, mở nó ra và giữ nó lại thì nó nằm thẳng, còn khi ta buông nó ra thì nó cuộn lại như cũ.

Jean Francois : Như vậy Phật giáo chấp nhận sự hiện hữu của những xu hướng, những tư tưởng vô thức có liên quan đến những kỷ niệm tiềm tàng và những hình ảnh bị dồn nén. Như vậy theo con thì cái mớ vô thức này không những liên quan đến thuở ấu thơ mà lại còn dính líu đến những kiếp sống các đồ đệ của mình, việc nhớ lại phải bắt nguồn trước cả những năm đầu đời, và điều này khiến cho các nhà phân tâm học phải mở rộng tầm nghiên cứu va khám phá.

Matthieu : Sự sunh đẻ tạo nên một chấn dộng làm ta quên hến những gì xảy ra trong kiếp trước, trừ trường hợp các bậc giác ngộ có thể làm chủ được giòng tâm thức giữa khi chết và lúc tái sinh qua giai đoạn trung ấm. Ðối với người bình thường thì họ sẽ quên hết giống như khi ta đã trưởng thành và quên đi những gì đã xảy ra trong thời ấu thơ. Cũng nên nhắc lại là phải rất lâu trước Freud, trong cuốn Tử thư Tây Tạng có ghi rằng khi thụ thai, thai nhi cảm thấy sẽ thành đàn ông hoặc đàn bà khi ấy nó sẽ bị hấp dẫn bởi cha hay mẹ nó. Nhưng điều khác biệt là cái quan niệm Phật giáo về vô thức, và các phương pháp áp dụng để thanh lọc nó. Nói về phương pháp thì Phật giáo không đoòng ý với Freud,vì Freud cho rằng người ta không thể vươn tới và ảnh hưởng đến vô thức bằng những phương pháp tâm linh. Mục đích của đời sống tâm linh là xoá tan các xu hướng ẩn ức vì những tư tưởng thương ghét đều đã bị quy định trước. Vấn đề là tìm đến cội nguồn các xu hướng đó, xem xét bản chất của chúng và xoá tan chúng. Ta có thể gọi điều đó là sự thanh lọc nội tâm, giống như sự loại bỏ các rác rưởi, các cặn bả làm bẩn nước của dòng sông. Với số kinh nghiệm ít ỏi mà con có được, con có cảm tưởng khi đứng trước các bệnh nhân phân tâm học, là những người này có khả năng trút bỏ được những ám ảnh có từ thuở ấu thơ, nhưng đã không xoá tan dcd hết gốc rễ, do đó họ không hoàn toàn được tự do nội tại. Và cũng vì thế sau nhiều năm, họ vẫn không thể thanh thản được và luôn bị căng thẳng lo sợ.

Jean Francois :Rủi thay điều nhận xét của con không phải là duy nhất theo chiều hướng đó, mà nhiều trường phái gần đây của khoa phân tâm học đã chối bỏ Freud, và nghĩ rằng vô thức có thể hoàn toàn được soi sáng.

Matthieu : Lý do tại sao những xu hướng ẩn ức của vô thức không thể nhìn thấy được là vì chúng tiềm tàng giống như hình ảnh một cuốn phim đã được chụp nhưng chưa rửa. Và tất cả của khoa phân tâm là để tửa ra hình các phim đã chụp ấy. Phật giáo cho rằng khi người ta giác ngộ, người ta đạt đến tâm không và nhờ vậy mọi cấu uế của tâm sẽ được rữa sạch. Cái việc nhớ lại những sự kiện xa xưa chỉ giải tỏa phần nào tâm thức nhưng không loại boả được cái gốc phiên não. Cứ quậy mãi bù trong ao vói một cây gậy không tài nào lọc sạch được nước.

Jean Francois : Thế nào là một người bị loạn thần kinh? Trên nguyên tắc phân tâm được giành cho những người luôn luôn gặp thất bại trong công việc. Hắn vừa khởi công làm một việc gì, sắp thành công thì đột nhiên hắn phạm một sai lầm nghiêm trọng làm hỏng công việc. Hắn lại là một con người thông minh do đó không thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích thất bại của hắn. Ba có nhiều người bạn rất nổi tiếng trong một giai đoạn nào đó của cuộc đời họ, đột nhiên họ có những hành động sai lầm không thể hiểu được làm tiêu tan cả sự nghiệp mà họ đã dầy công xây dựng bằng sự khôn ngoan, bằng trí thông minh và lòng tận tụy trong công việc. Không có cách giải thích hợp lý nào cũng như không thể thuyết phục được họ. Nếu họ gặp lại những trường hợp tương tự họ lại phạm sai lầm như crx. Nếu không nhờ khoa tâm phân học, họ không làm sao thoát ra được các sai lầm gần như định mệnh ấy.

Dù sao giả thuyết của Freud cũng đã được kiểm chứng qua nhiều trường hợp. Người ta đã có những ban tường trình đầy đủ về một số những vụ phân tâm của Freud và của một số những vụ phân tâm của Freud và của một số nhà phân tâm học khác. Người ta ghi nhận một trường hợp trong đó đối tượng xung đột với mẹ ruột thuở còn ấu thơ. Ðể trừng phạt mẹ mình đương sự đập phá một vật gì hoặc cố tình dc điểm xấu trong lớp để trả thù cái việc mà hắn cho là mẹ thiếu tình thương đối với hắn. Và cái tai biến này chìm sâu và vô thức của hắn và tiếp tục chi phối thái độ của hắn khi hắn trưởng thành. Hắn tiếp tục làn khổ mẹ hắn mà không hề hay biết. Và trong trường hợp này khoa phân tâm giải toả cho hắn cái mặc cảm tội lỗi đã bắt nguồn từ thuở ấu thơ. Ðiều này không có nghĩa là hắn sẽ trở nệ hoàn hảo hơn nhưng ít ra cũng giúp hắn chữa được chứng rối loạn tâm thần.

Matthieu : Phật giáo và phân tâm học đi hai con đường khác nhau trong việc giải phóng vô thức. Phân tâm họccoj rất hợp lý và vận hành trong hệ thống của nó, nhưng hệ thống đó bị giới hạn do các mục tiêu nó đề ra. Lấy vid dụ như vấn đề tình dục, nếu ta kìm chế nó, nó sẽ sử dụng các ngõ ngách khác để biểu hiện một cách bình thường. Theo thiền định Phật giáo, ta không cố gắng kềm chế nó hay để nó tự do phát tiết, mà tìm cách thoát ra sự ám ảnh cả nó. Người ta sử dụng những phương tiện tuần tự từ chổ ban đầu chuyển sang đề tài khác, sau đó quán tưởng về tánh không của sự ham muốn và sau cùng chuyển hóa ham muốn bằng trí huệ. Rốt lại sự ham muốn không còn khống chế tâm trí mà nhường chỗ cho một sự an lạc vĩnh viến và thoát ly mọi ràng buộc. Trong khi Phật giáo nhắm vào việc giải thoát ra khỏi sự bấn loạn của tư tưởng, như một con chim bay ra khỏi một thành phố đầy khói bụi để đến vùng núi trong lành thì phân tâm học có vẻ như kích động thêm cho các giấc mơ và cho những tư tưởng luôn hướng về tự ngã. Người bệnh cố gắng tổ chức lại nội tâm của minh, tạm kiểm soát nó, nhưng vẫn dính chặt vào nó. Ði vào vô thức theo cách phân tâm học khác nào đi tìm những con rắn đang ngủ, đánh thức chúng dậy, tìm cách loại ra những con hung dữ nhất, và sống chung với những con còn lại.

Jean Francois : Hơn nữa, nếu là Phật tử, ta lại càng không thể giết chúng. Nhưng Phật giáo quan niệm về giấc mơ như thế nào?

Matthieu : Có cả một diễn trình trong việc thực hành thiền định liên quan đến giấc mơ. Người ta tập dần thói quen nhận biết khi nào mình bắt đầu mơ, rồi tìm cách sửa đổi điều đang mơ và sau cùng tạo ra những giấc mơ theo ý muốn. Và đỉnh cao của sự tập luyện này là chấm dứt hẳn các giấc mơ. Một thiền giả nhiều kinh nghiệm không còn mơ nữa, trừ ra hãn hữu ông ta có vài giấc mơ báo điềm trước. Người ta kể lại câu chuyện của Hampopa, đệ tử của Milarepa, đã mơ thấy mình bị mất đầu, điềm báo trước là ngài sẽ chấm dứt mọi tư tưởng. Từ đo sngaif không còn mơ nữa. Diễn trình này có thể kéo dài nhiều năm. Nói tóm lại, theo Phật giáo trở ngại mà khoa phân tâm học gặp phải là không nhận biết được nguồn gốc của vô minh, và sự tù hãm của nội tâm. Sự xung đột với cha hay mẹ, hoặc những rắc rối khác không phải là những nguyên nhân đầu tiên mà chỉ là do hoàn cảnh tạo nên. Nguyên nhân đầu tiên là sự dính mắc vào tự ngã, từ đó nảy sinh ra yêu ghét, luôn nghĩ về mình và luôn muốn bảo vệ mình. Tất cả những sự kiện tinh thần, những tình cảm, những ham muốn như những cành lá của một cái cây. Nếu ta cacwts chúng đi, chúng lại mọc trở lại. Ngược lại, nếu chúng ta bứng đi cả gốc rễ, tức là chúng ta chấm dứt sự ràng buộc vào tự ngã, tất cả cành, lá, hoa, quả đều rơi rụng cùng một lúc. Sự nhận biết các tư tưởng lệch lạc và ảnh hưởng phá hoại hay ức chế crd chúng không đủ làm tan biến chúng, và giác ngộ bản thể của tâm mới có thể giải thoát con người khỏi mọi vấn đề tâm thức. Tất cả các kỹ thuật thiền định về bản thể của tâm đều nhắm vào sự khám phá ra là căm ghét, ham muốn, bất mãn, kiêu căng v.vv... đều không có năng lực mà người ta thường gán cho chúng. Nếu ta trực tiếp quan sát chúng, phân tích chúng, quán tưởng về chúng, ta sẽ nhận ra thật sự chúng rỗng không và không có một thức lực nào cả. Cần phải thực hành nhiều lần sự quán tưởng này, và đến một thời cơ nào đó tâm sẽ hiển hiện bản thể nguyên sơ của nó. Và theo thời gian, người ta sẽ dần dần làm chủ được tư tưởng của mình. Trong giai đoạn đầu tiên, người ta phải bắt đầu nhận biết sự xuất hiện của tư tưởng giống như ta nhận ra một người quen trong đám đông. Khi một ý tham gia hay căm ghét nảy sinh, ta đừng để nó phát triển ta biết rằng nó không chắc thật, không có tánh nhưng ta không biết làm thế nào để chấm dứt nó. Giai đoạn kế tiếp giống như một con rắn tự tháo mình ra khỏi sự cuộn tròn thân mình nó mà không cần sự giúp đỡ, hay một nút thắt mà ta làm với cái đuôi con ngựa, nó tự tháo ra mà thôi.

Jean Francois : Ôi, biết bao nhiêu ẩn dụ.

Matthieu : Ðến giai đoạn thứ hai này, ta đã có một số kinh nghiệm về sự giải phóng tư tưởng, và ta ít còn cần đến những phương pháp khác. Tư tưởng đến rồi đi. Sau cùng đến giai đoạn thứ ba con người hoàn toàn tự do đối với tư tưởng không có gì có thể làm hại mình được nữa. Chúng giống như một tên trộm đi vào một căn nhà trống. Tên trộm không được gì và chủ nhà cũng không mất gì. Tư tưởng xuất hiện và biến mất mà không gây được ảnh hưởng nào, va người ta hoàn toàn thoát ra cái ách của những tư tưởng hiện hành, và của những xu hướng quá khứ đã gây ra các tư tưởng đó. Như vậy trạng thái sáng suốt và tỉnh thức, trong đó không còn những tư tưởng lệch lạc nữa. Cặn bã, cấu uế của vô thức không còn là những hòn đá, mà là những cục nước đá tan đi dưới mái trời trí huệ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#goodyear