ch5n tr5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Phân tích các thuộc tính của hàng hoá. Cách xác định lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng tới nó?

Hàng hoá là sản phẩm của lao động thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán. Vì vậy, không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hoá.

*Hai thuộc tính của hàng hoá

- Giá trị sử dụng của hàng hoá : là công cụ của vật phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người (như gạo để ăn, vải để mặc, xe đạp để đi,...). Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá qui định, là nội dung vật chất của cải, vì vậy nó là một phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là: giá trị sử dụng không phải cho người trực tiếp sản xuất ra nó mà là cho người khác, cho xã hội. Giá trị sử dụng đến tay người khác-người tiêu dùng phải thông qua trao đổi mua-bán. Trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi

- Giá trị của hàng hoá: Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là biểu hiện quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị sử dụng khác nhau.

Thí dụ:

1m vải = 5 kg thóc

Hai hàng hoá vải và thóc có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau theo một quan hệ tỷ lệ nhất định. Vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao phí sức lao động của con người. Sự hao phí lao động đó chính là giá trị của hàng hoá.

Vậy, giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó.

Do đó, giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị .

Giá trị phản ánh mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Do đó giá trị là một phạm trù lịch sử nó chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.

*Cách xác định lượng giá trị hàng hoá.

Nếu giá trị hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá thì lượng giá trị của hàng hoá chính là lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó( bao gồm lao động vật hoá và lao động sống). Trong sản xuất hàng hoá, hao phí lao động cá biệt tạo thành giá trị cá biệt của hàng hoá. Trên thị trường, không thể dựa vào giá trị cá biệt để trao đổi mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hoá.

Giá trị xã hội của hàng há được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất một loại hàng hoá nào đó. Đó là thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội nghĩa là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ tay nghề trung bình và cường đọ lao động trung bình. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết của một loại hàng hoá nào đó gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá đó trên thị trường.

*Các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị hàng hoá

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới giá trị hàng hoá:

Năng suất lao động có ảnh hưởng trực tiếp tới lượng giá trị hàng hoá. Năng suất lao động được đo bằng số lượng thời gian hao phí để chế tạo ra một sản phẩm. Giá trị hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ kỹ thuật quản lý của người lao động, máy móc thiết bị, phương pháp tổ chức quản lý, cũng như các điều kiện tự nhiên.

Cần phân biệt tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động. Tăng cường độlao động giống như kéo dài thời gian lao động, nó làm cho số lượng sản phẩm được chế tạo trong một đơn vị thời gian tăng lên nhưng hao phí lao dộng cũng tăng lên cùng tỷ lệ; do đó giá trị một hàng hoá không thay đổi.

Để sản xuất một hàng hoá có các loại lao động khác nhau tạo ra các loại hàng hoá có giá trị lhác nhau đó là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động cụ thể mà mọi người bình thường có thể làm được là lao động giản đơn. còn lao động cụ thể phải trải qua huấn luyện chuyên môn là lao động phức tạp. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hoá, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình và được thể hiện trên thị trường.

Câu 2: Phân tích qui luật giá trị, Biểu hiện của qui luật này qua hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản?

*Qui luật giá trị

- Nội dung của qui luật giá trị :

Qui luật giá trị là qui luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hoá ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có qui luật giá trị hoạt động. Qui luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết.

Sự hoạt động của qui luật giá trị được biểu thông qua giá cả hàng hoá trên thị trường. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.

Trong sản xuất qui luật này yêu cầu thời gian lao động hao phí cá biệt để sản xuất hàng hoá phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong lưu thông (trao đổi) đối với mỗi hàng hoá giá cả có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nhưng bao giờ cũng xoay quanh giá trị. Đối với tổng hàng hoá qui luật này yêu cầu tổng giá cả sau khi bán phải tăng tổng giá trị hàng hoá trong sản xuất. Như vậy, nhìn bề ngoài sản xuất và trao đổi hàng hoá là công việc riêng của từng người, họ độc lập và hình như không chịu sự chi phối nào, nhưng trên thực tế mọi người sản xuất và trao đổi hàng hoá đều chịu sự chi phối của qui luật giá trị.

-Tác dụng của qui luật giá trị :

Trong nền sản xuất hàng hoá qui luật giá trị có 3 tác dụng sau :

+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, bán cho ai và bằng công nghệ nào là do họ quyết định. Mục đích của họ là thu được nhiều lãi. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường do tác động trực tiếp của cung cầu, người ta biết được hàng hoá nào đang khan hiếm, bán chạy, có giá cao, hàng hoá nào đang ế thừa, có giá thấp. Từ đó, họ sẽ mở rộng những mặt hàng đang khan hiếm, có giá cao để thu được nhiều lãi và ngược lại. Kết quả sẽ thu hẹp sản xuất thậm chí đóng cửa không sản xuất những mặt ế thừa, không tiêu thụ được. Kết quả là các yếu tố sản xuất (TLSX,SLĐ) chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác, làm cho qui mô ngành này mở rộng, ngành kia thu hẹp. Đó là sự điều tiết sản xuất của qui luật giá trị.

Tác dụng điều tiết lưu thông qui luật giá trị được biểu hiện ở chỗ hàng hoá bao giờ cũng được đưa từ nơi có giá bán thấp đến nơi có giá bán cao. Qui luật giá trị có tác dụng điều tiết sự vận động đó, phân phối các nguồn hàng hoá hợp lý hơn giữa các vùng của đất nước, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hoá trong xã hội.

+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất ( LLSX) phát triển:

Trong nền kinh tế hàng hoá người sản xuất hành hoá nào cũng muốn có nhiều lãi. Người có nhiều lãi hơn là người sản xuất ra hàng hoá có giá trị cá biệt thấp hơn so giá trị xã hội của hàng hoá, nếu các điều kiện khác giống nhau. Muốn vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề, ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật vào sản xuất,cải tiến tổ chức quản lý sản xuất, thực hành tiết kiệm. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Kết quả là năng xuất lao động tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra, để thu được nhiều lãi, người sản xuất hàng hoá còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng , mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu hị hiếu của người tiêu dùng; cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng; cải biến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn. vì vậy, quy luật giá trị có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển như thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhiều, nhanh, tốt, rẻ hơn.

+ Phân hoá những người sản xuất hàng hoá:

Sự tác động của quy luật giá trị bên cạnh mặ tích cực, còn dẫn đến phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành kẻ giầu, người nghèo. Trong sản xuât hàng hoá dưới tác động của quy luật giá trị và các quy luật khác, tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ cao, có kiến thức, trang bị kỹ thuật tốt, có vốn.... sẽ phát tài và trở thành giầu có. Ngược lại, những người không có các điều kiện trên hoặc gặp rủi ro, tai nạn sẽ dẫn đến mất vốn, phá sản. Tác dụng này của quy luật giá trị một mặt đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực páht triển, mặt khác phân hoá xã hội thành kẻ giầu, người nghèo, tạo ra những điều kiện cho sự ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá lớn hiện đại đó là nền sản xuất hàng hoá TBCN.

*Biểu hiện của quy luật này qua hai giai đoạn phát triển của CNTB

- Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh qui luật giá trị được biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.

- Trong giai đoạn CNTB độc quyền quy luật giá trị được biểu hiện thành quy luật giá cả độc quền.

Câu 3: Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Vì sao phân tích hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn đó?

Mọi tư bản đều xuất hiện với một khối lượng tiền tệ nhất định và vận động theo công thức T-H-T', trong đó T'=T+t. Số tiền trội lên so với số tiền ứng ra ban đầu được Mác gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m . Đây là công thức chung của tư bản.

*Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Lý luận giá trị khẳng định rằng giá trị hàng hoá là do lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, nghĩa là nó chỉ được tạo ra trong sản xuất. Nhưng mới thoạt nhìn vào công thức chung ta lạ có cảm giác giá trị thặng dư được tạo ra trong lưu thông. Có phải lưu thông tạo ra giá trị thặng dư không? Sự thật lưu thông thuần tuý dù trao đổi ngang giá hay trao đổi không ngang giá cũng không hề làm tăng thêm giá trị.

+ Trường hợp trao đổi ngang giá, những người tham gia trao đổi chỉ có lợi về mặt giá trị sử dụng chứ không có lợi về mặt giá trị,nên không tạo ra m. Trong trường hợp tao đổi không ngang giá, người này được lợi trong mua và bán, thì người khác sẽ mất đi khi bán và mua, còn xét trên phạm vi toàn xã hội thì đó chỉ là sự phân phối lại giá trị mà thôi.

Sự phân tích trên cho thấy trong lưu thông không làm cho T lớn lên, nhưng nếu nằm ngoài lưu thông( tức là tiền tệ để trong két) thì tiền tệ cũng không làm tăng thêm giá trị.

Như vậy, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản biểu hiện ở chỗ: tiền tệ vừa lớn lên trong lưu thông vừa không được tạo ra trong lưu thông.

Để giải quyết được mâu thuẫn này phải tìm trên thị trường một hàng hoá có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hoá sức lao động.

* Hàng hóa sức lao động

Sức lao động là toàn bộ thể lực, trí lực tồn tại trong một cơ thể sống của con người và được người đó vận dụng vào sản xuất hay là khả năng lao động của con người.

- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá:

+ Người có sức lao động được tự do về thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình, tự do đem bán sức lao động của mình như một hàng hoá. Nhưng chỉ bản trong một thời gian nhất định.

+ Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để kết hợp với sức lao động của mình.trong điều kiện đó họ muôn sống và tồn tại chỉ còn cách buộc phải đi làm thuê tức là bán sức lao động tồn tại trong cơ thể của mình.

- Hai thuôc tính của hàng hoá sức lao động

Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính như mọi hàng hoá thông thường:

+ Giá trị sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó con người cần phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Vì vậy, giá trị hàng hoá sức lao dộng được tính bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết về mặt vật chất và tinh thần để duy trì đời sống bình thường của người công nhân và gia đình anh ta kể cả những phí tổn học tập để người công nhân có một trình độ nhất định.

Việc xác lập giá trị hàng hoá sức lao động như trên là tất yếu đối với quá trình tái sản xuất xã hội. Giá trị hàng hoá sức lao động có đặc thù phụ thuộc vào yếu tố tinh thần và lịch sử nghĩa là nó phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể của từng nước như: khí hậu, tập quán, trình độ văn minh, nguồn gốc, hoàn cảnh ra đời và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.

+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công cụ của hàng hoá sức lao động nó cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua để sử dụng vào quá trình lao động sản xuất. Khác với hàng hoá thông thường khi được sử dụng nó có khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu của bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Đây là đặc điểm riêng có của hàng hoá sức lao động. Đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

Hàng hoá sức lao động là một phạm trù kinh tế bộc lộ rõ nét dưới CNTB và là điều kiện để chuyển hoá tiền thành tư bản. tuy nhiên, nó không phải là cái quyết định để có hay không có bóc lột, vì việc quyết định là ở chỗ giá trị thặng dư tạo ra được phân phối như thế nào.

Câu 4: Thế nào là giá trị thặng dư? Giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối, giá trị thặng dư siêu ngạch? So sánh sự giống và khác nhau của giá trị thặng dư tuyệt đối vào giá trị thặng dư tương đối

1.Giá trị thặng dư, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch

Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do người công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.

- Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa- quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động làm thuê.

- Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát lại có hai phương pháp chủ yếu để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

+Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt khỏi giới hạn thời gian lao động cần thiết. Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không thay đổi, do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.

Với lòng tham vô hạn, nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày lao động, nâng cao trình độ bóc lột lao động làm thuê. Nhưng một mặt, do giới hạn tự nhiên của sức lao động con người; mặt khác, do đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên, ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.

+ Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư với độ dài ngày lao động không thay đổi, dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Việc tăng năng suất lao động xã hội, trước hết ở các ngành sản xuất ravật phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho giá trị lao động giảm xuống do đó, làm giảm thời gian lao động cần thiết. Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư - thời gian để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản để giành ưu thế trong cạnh tranh, để thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản đã áp dụng những tiến bộ kĩ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào thực hiện điều đó thì khi bán hàng hoá của mình sẽ thu được một số giá trị thặng dư trội hơn so với các nhà tư bản khác.

Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của xã hội được gọi là thặng dư siêu ngạch.

Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư síêu ngạch là hiện tượng tạm thời, cục bộ. Nhưng xét trên phạm vi toàn bộ xã hội tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.

Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cái khác nhau là ở chỗ giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt.

2.Sự giống và khác nhau của giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối

-Giống nhau:

+ Đều là sản xuất m.

+ Thời gian lao động m đều được kéo dài ra.

+ Nâng cao trình độ bóc lột công nhân, tăng m cho nhà tư bản.

-Khác nhau:

+ m tuyệt đối bằng cách kéo dài thời gian lao động

+ m tương đối bằng cách hạ thấy giá trị sức lao động.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

Câu 5 : Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Những biện pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản?

1.Tuần hoàn của tư bản.

Mọi tư bản sản xuất trong quá trình vận động đều trải qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức thức hiện ba chức năng :

Giai đoạn I ( Lưu thông) : tư bản mang hình thức tiền tệ, thực hiện các chức năng mua các yếu tố sản xuất tư liệu sản xuất và sức lao động;

Giai đoạn II( sảm xuất ) : tư bản mang hình thức tư bản sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị thặng dư;

Giai đoạn III( lưu thông) : tư bản mang hình thức tư bản hàng hoá với chức năng thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.

Kêt thúc giai đoạn này tư bản hàng hoá biến thành tư bản tiền tệ và lại trở về giai đoạn I.

-Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức, thực hiện ba chức năng rồi quay về hình thức xuất phát của nó, gọi là tuần hoàn của tư bản.

2. Chu chuyển của tư bản

Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản là ngiên cứu mặt chất của sự vận động tư bản, còn nghiên cứu chu chuyển tư bản là nghiên cứu mặt lượng hay nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản. Mổc dù có sự khác nhau nhưng cả hai cùng nghiên cứu sự vận động của tư bản. Bởi vậy, tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có quan hệ mật thiết với nhau.

- Chu chuyển của tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, diễn ra liên tục, lặp đi, lặp lại không ngừng. Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư bản.

- Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định đến khi nó trở về cũng dưới hình thức đó nhưng còn kèm theo giá trị thặng dư.

Thời gian chu chuyển tư bản cũng là thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn. Tuần hoàn tư bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình lưu thông. Như vậy, để chu chuyển một vòng, tư bản phải trải qua hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Thời gian chu chuyển tư bản cũng bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

Thời gian sản xuất = thời kỳ lao động + thời kỳ gián đoạn lao động + thời kỳ dự trữ sản xuất.

Cả thời kỳ gián đoạn lao động và thời kỳ dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá trị sản phẩm. Sự tồn tại hai thời kỳ này làkhông tránh khỏi. Nhưng nói chung thời gian của chúng càng dài thì hiệu quả hoạt động của tư bản càng thấp. Vậy thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư được SX ra nhiều hơn tư bản càng lớn mạnh hơn.

Thời gian lưu thông là thời kỳ tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. thời kỳ này bao gồm thời gian mua, thời gian bán, kể cả thời gian vận chuyển.

- Tốc độ chu chuyển tư bản là khái niệm dùng để chỉ vận động nhanh hay chậm của tư bản ứng trước. Công thức tính tốc độ chu chuyển tư bản là :

N =

Trong đó : N là tốc độ chu chuyển; CH là thời gian tư bản vận động trong một năm; Ch là thời gian của một vòng chu chuyển tư bản.

3. Những nhân tố và biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản.

Theo công thức trên tốc độ chu chuyển tư bản phụ thuộc vào thời gian chu chuyển tư bản. Nói cách khác, phụ thuộc vào những nhân tố ảnh hưởng đến thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

Thời gian sản xuất dài, ngắn phụ thuộc vào các nhân tố sau:

+ Đặc điểm của từng ngành sản xuất.

+ Tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ

+ Trình độ tổ chức phân công lao động

+ Trình độ dịch vụ các yếu tố gắn với đầu vào của sản xuất

Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và nền kinh tế thị trường hiện đại cho phép sử dụng những thành tựu kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới, việc tổ chức sản xuất và dịch vụ sản xuất một cách khoa học, đã rút ngắn thời kỳ gián đoạn lao động, thời kỳ dữ trữ sản xuất, để tăng thời kỳ lao động và do đó, làm tăng hiệu quả hoạt động tư bản.

Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như:

+ Tình hình thị trường ( cung-cầu, giá cả)

+ Khoảng cách từ sản xuất đến thị trường.

+ Trình độ phát triển của giao thông vận tải

Sự tồn tại thời gian lưu thông là tất yếu có vai trò quan trọng đối với thời gian sản xuất. Song rút ngắn thời gian lưu thông sẽ làm cho tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm xuống. Tăng lượng tư bản đầu tư cho sản xuất, tạo ra nhiều giá trị, giá trị thặng dư hơn, nên làm tăng hiệu quả hoạt động tư bản.

Tóm lại, do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, nên thời gian chu chuyển của các tư bản khác nhau trong cùng một ngành và ở các ngành khác nhau là rất khác nhau. Để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản, các nhà tư bản thường tìm mọi cách khai thác mặt thuận lợi và hạn chế mặt không thuận lợi của những nhân tố trên để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản.

Câu 6: Phân tích căn cứ và ý nghĩa phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Nêu các biện pháp khắc phục hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của tư bản?

Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Không phải căn cứ vào đặc tính tự nhiên( lâu bền hay không lâu bền, chuyển động hay không chuyển động), mà căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.

*Tư bản cố định là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị của những máy móc, thiết bị, nhà xưởng..., tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần, mà vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Đặc điểm của loại tư bản này là chu chuyển chậm về mặt giá trị. Chính đặc điểm này đã làm cho thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn thời gian một vòng tuần hoàn.

*Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản được hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản sau khi hàng hoá sản xuất ra được bán hết. Trong đó, bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật liệu phụ..., giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào giá trị hàng hoá trong quá trình sản xuất. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái tièn công đã bị người công nhân tiêu dùng và được tái tạo trong quá trình sản xuất hàng hoá. Đặc điểm của loại tư bản này là chu chuyển nhanh về mặt giá trị. Nếu tư bản cố định muốn chu chuyển hết giá trị của nó phải mất nhiều năm, thì trái lại tư bản lưu động trong một năm giá trị của nó có thể chu chuyển nhiều lần hay nhiều vòng.

*Hao mòn tư bản cố định: Đối với tư bản cố định, trong quá trình hoạt động tất yếu bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng hoặc do sự phá huỷ của tự nhiên gây ra làm cho tư bản cố định mất giá trị và giá trị sử dụng. Hao mòn vô hình là hao mòn do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học - công nghệ. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại làm cho những máy móc, thiết bị cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới suy giảm một phần.

Khi tính toán giảm giá trị tư bản cố định vào giá trị của sản phẩm phải tính cả hai hình thức hao mòn này, thông qua việc xác định tỉ lệ khấu hao tư bản cố định. Để có tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản cố định, nhà tư bản sau mỗi lần bán hàng hoá, họ trích ra khoản tiền bằng mức khấu hao tư bản cố định, chờ khi đến kì hạn sẽ mua tư bản cố định mới.

*các biện pháp khắc phục hao mòn tư bản cố định.

Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tư bản cố định càng có nguy cơ hao mòn vô hình. Bởi vậy, việc thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong cạnh tranh trên thương trường. Trong điều kiện đó, buộc các nhà tư bản phải tìm mọi cách để khấu hao nhanh tư bản cố định. Tỉ lệ khấu hao tư bản cố định thường được tính rất cao ngay từ những năm đầu chế tạo sản phẩm, lợi dụng giá sản phẩm cao của đầu chu kì của sản phẩm, sau đó giảm dần tỉ lệ khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm ở cuối chu kì của nó. Quy mô sản lượng ban đầu càng lớn càng có lợi cho việc thu hồi giá trị tư bản cố định. Những yêu cầu đó không phải lúc nào cũng được thực hiện dễ dàng. bởi vậy, các nhà tư bản một mặt, phát triển hệ thống tự động hoá linh hoạt, cùng với những máy móc, thiết bị tương ứng để có thể tạo ra nhiều dạng sản phẩm hoậc những sản phẩm chuyển môn hoá theo các đơn đặt hàng khác nhau; mặt khác, phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng đổi mới tư bản cố định trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, các nhà tư bản vẫn tiếp tục sử dụng những biện pháp cổ điển như tăng cường độ lao động, tổ chức lao động theo ca kíp, tiết kiệm chi phí bảo quản và chi phí cải thiện điều kiện lao động của người công nhân. Bằng cách đó nhằm thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định đã sử dụng và góp phần rút ngắn khoảng cách lạc hậu về các thế hệ kỹ thuật và công nghệ .

Câu 7: Trình bày tính tất yếu và phân tích các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10. Tại sao kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?

1.Tính tất yếu khách quan và ý nghĩa của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần.

-Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế được đặc trưng bởi hình thức sở hữu nhất định về TLSX. Do đó thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định căn cứ vào QHSX (trước hết là công hữu) nào thống trị để xác định từng thành phần kinh tế cụ thể.

-Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng trong TKQĐ lên CNXH và là tất yếu khách quan bởi vì có một số thành phần kinh tế do PTSX cũ để lại, một số thành phần kinh tế mới được hình thành trong quá trình xây dựng QHSX mới. Các thành phần kinh tế nền tảng của kinh tế XHCN ngày càng phát triển và sẽ lôi cuốn định hướng các thành phần kinh tế khác hội nhập vào PTSX mới.

-Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần trong TKQĐ suy đến cùng là do quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Ở nước ta do trình độ LLSX còn thấp lại phân bổ không đều giữa các ngành, các vùng nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

-Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần không những là khách quan mà còn là động lực thúc đẩy kích thích sự phát triển của LLSX bởi vì:

+ Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của LLSX. Chính sự phù hợp này có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng cường kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

+ Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là cơ sở để phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN ở nước ta.

+ Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội có tác dụng khai thác sử dụng các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước như sức lao động, vốn, tài nguyên, kinh nghiệm quản lí để tăng trưởng kinh tế nhanh và có hiệu quả.

-Trên cơ sở nguyên lý và thành phần kinh tế chủ yếu mà Lênin chỉ ra trong thời kì quá độ (KTXHCN, kinh tế của những người sản xuất hàng hóa nhỏ, KTTB tư nhân, KT tư bản chủ nghĩa) tùy hoàn cảnh cụ thể mà xác định cơ cấu của từng giai đoạn cho phù hợp.

-Qua thực tế 20 năm đổi mới Đại hội X của Đảng đã xác định nền KT nước ta gồm 5 thành phần cơ bản:

+ Kinh tế nhà nước (KTNN)

+ Kinh tế tập thể (KTTT)

+ Kinh tế tư nhân (KTTN bao gồm KTTư bản tư nhân, KT cá thể, tiêu chủ...)

+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài(KTCVĐTNN)

2.Nội dung và vai trò của các thành phần kinh tế

1.KTNN: KTNN dự trên hình thức sở hữu công hữu về TLSX chủ yếu, KTNN bao gồm các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, ...DNNN giữ vị trí then chốt ở các ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước.

KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền KTQD vai trò đó được thể hiện:

-Một là các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong các ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nâng cao năng xuất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp h ành pháp luật.

-Hai là KTNN là chỗ dựa để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết quản lí vĩ mô nền kinh tế định hướng XHCN hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN.

-Ba là KTNN cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD.

Hiện nay Đảng và nhà nước đang tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại nhưng doanh nghiệp quan trọng chủ lực của nền kinh tế, kinh doanh có lãi, số còn lại cho phép cổ phần hóa, cho thuê..để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.

2.KT tập thể: dựa trên hình thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên KT tập thể bao gồm các hình thức hợp tác đa dạng trong đó HTX là nòng cốt, liên kết rộng dãi người lao động, các hộ sản xuất kinh doan các doanh nghiệp vừa và nhỏ không giới h ạn qui mô địa bàn lĩnh vực.

-HTX được hình thành trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực tiếp của các xã viên. HTX được tổ chức và họat động theo nguyên tắc cơ bản là: Tự nguyện bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Nhà nước giúp đỡ tạo điều kiện cho HTX phát triển như đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng quĩ hỗ trợ phát triển HTX.

3.Kinh tế tư nhân

*KT cá thể tiểu chủ:

-Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về TLSX, sự khác nhau giữa KT cá thể và tiểu chủ là ở chỗ: trong KT cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn trong KT cá thể tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa và LĐ, và vốn của bản thân, gia đình nhưng có thuê lao động.

-Ở nước ta trình độ LLSX còn thấp TPKT này có vai trò to lớn trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước. Nó có khả năng sử dụng và phát huy hiệu quả các tiềm năng về vốn, sức lao động, các kinh nghiệm SX ngành nghề truyền thống. Hạn chế của thành phần kinh tế này là ở tính tự phát, manh mún, và chậm ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Vì vậy, cần tạo điều kiện để thành phần KT này phát triển và hướng dẫn vào KT tập thể một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các DNNN và HTX.

* KTTBTN: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân TBCN về TLSX và bóc lột lao động làm thuê. Trong TKQĐ ở nước ta thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể trong việc phát triển LLSX, xã hội hoá sản xuất, giải quyết việclàm, khai thác các nguồn vốn và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác.

Nhà nước khuyến khích KTTBTN phát triển rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và xét về lâu dài có thể hướng thành phần KT này đi vào KTTBNN dưới những hình thức khác nhau.

4.KTTBNN: là thành phần KT dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa TBNN và KTTBTN trong và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác liên doanh.

KTTBNN có khả năng to lớn về vốn, công nghệ, tổ chức quản lý tiên tiến, TPKT này có vai trò đáng kể trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sự tồn tại của TPKT này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ trong TKQĐ ở nước ta.

5.KT có vốn đầu tư nước ngoài: thành phần này dựa trên hình thức sở hữu hầu như tuyệt đối là vốn của nước ngoài nhưng chủ sở hữu không nhất thiết là các nhà tư bản. Những năm gần đây tỷ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng đáng kể (chiếm gần 25% vốn đầu tư từ nước ngoài) và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế cũng lớn lên ( >16%GDP).

Đối với thành phần KT này cần tạo điều kiện thuận lợi để nó phát triển, cảih thiện môi trường quản lí và kinh tế thu hút mạnh vốn đầu tư của nước ngoài hướng vào sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm

Câu 8. Trình bày những giải pháp hình thành và phát triển kinh tế thị trường ( KTTT) ở nước ta?

Những giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Muốn phát triển KTTT dịnh hướng XHCN, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:

a,Thực hiện nhất quán chính sách KT nhiều thành phần.

- Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều TPKT trong TKQD là một trong những đều kiện để thúc đẩy kinh tế hàng hoá (KTHH) phát triển , nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi TPKT.

- Cùng với việc đổi mới, củng cố KTNN và kinh tế hợp tác. việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng CNXH. Tất cả các TPKT đều bình đẳng trước pháp luật và đều là nội lực của nền KTTT dịnh hướng XHCN.

b,Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập các yếu tố đồng bộ, các yếu tố thị trường.

- Phân công LĐ là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển KTHH. Cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư theo hướng chuyên môn hoá, hợp thứ hoá nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài gắn phân công trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường ngoài nước.

- Cần phải phát triển mạnh thị trường hàng hoá dịch vụ, hình thành thị trường sức lao động, quảnlí chặt chẽ đất đai, nhà cửa, xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán.

Để khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ, tài nguyên thực hiện mở rộng phân công lao động cần phải hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường tiền tệ, vốn, sức lao động, chất xám, thông tin, tư liệu lao động, tư liệu tiêu dùng... điều này sẽ đảm bảo cho việc phân bố và sử dụng yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển KTTT theo định hướng XHCN.

c)Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng KHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH.

Trong KTTT, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững được trong cạnh tranh nếu thường xuyên thay đổi công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng KHCN vào SX và lưu thông hàng hoá. Muốn vậy phải đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại đồng bộ. Trước hết là hệ thống đường xá cầu cống, bến cảng, sân bay, điện nước...

d)Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, dổi mới các chính sách tài chính tiền tệ giá cả.

- Sự ổn định chính trị là nhân tố quan trọng để phát triển, là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, tăng cường hiệu lực của quản lý Nhà nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.

- Hệ thống pháp luật đồng bộ là nó sẽ tạo hành lang pháp lí cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời đổi mới chính sách nhằm mục tiêu phát triển sản xuất huy động sử dụng hiệu quả các nguồn lực.

- Đổi mới chính sách tiền tệ, giá cả nhằm mục đích thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.

e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi.

- Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu KTTT, bao gồm điều tiết chiến lược, kế hoạch, pháp luật, chính sách và các đòn bẩy kinh tế, bằng biện pháp giáo dục, khuyến khích, hỗ trợ và bằng cả răn đe, trừng phạt ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà nước và các đoàn thể...

- Đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đồng thời cần phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích họ không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý...

h) thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển KTTT theo định hướng XHCN.

Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, chúng ta phải đa dạng hoá hình thức, đa dạng hoá đối tác, quán triệt nguyên tắc hai bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, cải cách cơ chế quản llý xuất - nhập khẩu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý.

Những giải pháp trên tác động qua lại với nhau sẽ tạo nên sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nước ta theo định hướng XHCN.

Câu 9. Vì sao trong TKQĐ lên CNXH tồn tại nhiều hình thức phân phối? Nội dụng các hình thức phân phối cơ bản ở nước ta hiện nay?

-Phân phối là một khái niệm rộng, tuỳ theo góc độ xem xét mà có những nội dung phân phối khác nhau như: phân phối tổng sản phẩm, phân phối TLSX, TLTD, phân phối theo lao động theo vốn, giá trị tài sản... đóng góp vào sản xuất, kinh doanh.

- Mỗi một PTSX có một quan hệ phân phối khác nhau, phân phối là một mặt của QHSX, do quan hệ sở hữu TLSX chi phối và quyết định.

- Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất, do sản xuất quyết định.

* Tính tất yếu khách quan của nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong TKQĐ ở nước ta được quy định bởi các yếu tố sau:

- Do yêu cầu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần.

- Lực lượng SX ở nước ta còn kém phát triển, do đó để huy động tối đa mọi nguồn lực vào phát triển SX phải thực hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau tương ứng với sự đóng góp của các nguồn lực đó.

- Nước ta đang trong thời kỳ hình thành và phát triển KTTT theo định hướng XHCN, do đó quan hệ phân phối thu nhập cho người lao động dựa vào số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã đóng góp cho xã hội, không phân biệt giới tính màu da, tuổi tác, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Thực chất của nguyên tác này là phân phối theo hiệu quả mà người lao động đã cống hiến.

+) Nguyên tắc phân phối theo lao động yêu cầu:

Trong điều kiện như nhau, lao động ngang nhau thì trả công ngang nhau, lao động khác nhau thì trả công khác nhau.

Trong điều kiện khác nhau, lao động như nhau có thể trả công khác nhau hoặc lao động khác nhau có thẻ trả công bằng nhau.

+) Phân phối theo lao động không có nghĩa là người lao động sẽ được nhận toàn bộ những gì mà họ đã cống hiến cho xã hội mà họ chỉ nhận được phần còn lại của tổng SPXH sau khi đã khấu trừ đi các phần cần thiết như: Khoản để bù đắp cho những TLSX đã hao phí ( mở rộng SX, lập quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm đề phòng tai nạn, những rối loạn do những hiện tượng tự nhiên gây ra...), khoản đền bù đắp chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về SX ( quản lý hành chính, ANQP), khoản để đáp ứng yêu cầu chung ( trường học, bệnh viện, nhà trẻ, nhà dưỡng lão...), khoản lập quỹ cần thiết để nuôi dưỡng những người không có khả năng lao động.

Phần còn lại sẽ được phân phối theo tỷ lệ với lao động của người lao động đã cống hiến. Việc kháu trừ như vậy là cần thiết vì tổng SPXH sản xuất ra ngoài việc bảo đảm lợi ích nhu cầu trực tiếp của mọi lao động mà còn phải bảo đảm cho cuộc sống chung của cả cộng đồng trong hiện tại và tương lai.

+ Phân phối theo lao động là một tất yếu khác quan dưới CNXH. Trong TKQĐ nó được thực hiện trong thành phần kinh tế nhà nước và một phần trong kinh tế tập thể vì:

-TP KTNN và KTTT dựa trên chế độ công hữu về TLSX do đó mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau nên phải lấy lao động làm căn cứ để phân phối.

- Có sự khác biệt giữa những người lao động về thái độ lao động, tổ chức và trình độ lao động...

- LLSX tuy đã phát triển nhưng chưa đến mức đủ để phân phối theo nhu cầu do đó phải thực hiện phân phối theo lao động.

+ Tác dụng của việc phân phối theo lao động:

-Kết hợp chặt chẽ lợi ích kinh tế với kết quả SXKD đảm bảo cho ai đóng góp nhiều lao động giỏi htì sẽ thu nhập cao và ngược lại từ đó kích thích tính tích cực của người lao động làm cho họ ra sức học tập, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật...

- Góp phần giáo dục thái độ, tinh thần và kỷ luật lao động đúng đắn cho người lao động, chống lại những kẻ lười lao động, thiếu ý thức trách nhiệm.

+ Hạn chế của phân phối theo lao động: mọi người có thể lực trí lực hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, nên phân phối theo lao động chưa hoàn toàn bình đẳng vì không thể đáp ứng nhu cầu như nhau, với một công việc như nhau nhưng trên thực tế người này vẫn được lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia...

b) phương pháp thông qua phúc lợi tập thể: Đây là nguyên tác phân phối ngoài thù lao lao động được thực hiện thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội để xây dựn phúc lợi chung như nhà ăn tập thể, nhà trẻ trường học, câu lạc bộ, bệnh viện... nó được áp dụng nhàm khắc phục trong chừng mực nhất định những hạn chế của nguyên tắc phân phối theo lao động.

- tác dụng của việc phân phối thông qua quỹ phúc lợi tập thể,xã hội.

+ Nâng cao thêm mức sống của toàn dân nhất là đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, rút ngắn sự chênh lệch về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng.

+ Góp phần thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện trong CNXH vì đó là những điều kiện vật chất và tinh thần, nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của con người, để qua đó phát huy năng lực sáng tạo, năng khiếu cá nhân, tính tích cực của mọi thành viên trong xã hội.

+ Giáo dục ý thức cộng đồng

Xã hội càng phát triển thì các quỹ phúc lợi tập thể càng tăng thể hiện được tính ưu việt của CNXH.

c) Phân phối theo vốn: là nguyên tắc phân phối thu nhập theo dựa trên cơ sở sở hữu giá trị tài sản hay vốn đóng góp vào quá trình SXKD. Thực chất đây là hình thức phân phối theo quyền sở hữu lao động quá khứ để nhận một phần sản phẩm thặng dư.

- Trong TkQĐ nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phân KTế. Tương ứng với mọi thành phần kinh tế là một quan hệ sở hữu đặc trưng về TLSX, do đó có những quan hệ phân phối khác nhau.

- Trong các cơ sở kinh tế có yếu tố đầu vào là tư bản ( TB) và lao động làm thuê thì nguyên tắc phân phối thống trị là phân phối theo tư bản và giá cả sức lao động.

- Với thành phần kinh tế cá thể, chủ thể vừa là người lao động vừa là người sở hữu, họ tự phân phối tự quyết định lấy quan hệ tích luỹ và tiêu dùng.

- ở các công ty cổ phần,cổ đông là những đối tượng khác nhau: có thể là nhà nước, tập thể,cá nhân... ngoài ra còn một bộ phận đáng kể nguồn vốn đựơc huy động dưới hình thức như: tiền gửi tiết kiệm, công trái, trái phiếu... thực chất là vốn vay... vốn tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau, có thể phân thành các hình thức chủ yếu sau:

+Vốn tự có của các chủ doanh nghiệp độc lập.

+Vốn cổ phần của các cổ đông trong công ty cổ phần và của các xã viên trong HTX.

+Vốn cho vay.

Chủ sở hữu các nguồn vốn trên được quyền hưởng lợi ích hợp pháp từ sở hữu các tài sản ở vốn đó.

Trong thành phần KTTBNN việc phân phối ở đây cũng được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp.

Việc thực hiện nguyên tắc phân phối theo vốn góp hay theo tài sản là tất yếu khách quan, nó có tác dụng to lớn trong việc khai thác tối đa mọi tiềm năng về vốn trong các thành phần kinh tế, trong tầng lớp dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho SXKD để phát triển kinh tế đất nước trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.

Câu 10: Nêu định nghĩa CNH, HĐH. Phân tích tính tất yếu; mục tiêu; các quan điểm của Đảng CSVN về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở nước ta?

1.Định nghĩa

CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghẹ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

2.Phân tích tính tất yếu, mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là một tất yêu khách quan, bắt nguồn từ yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại và phát triển dựa trên một cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định.

Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng của khoa học - công nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Theo Lenin: "Cơ sở duy nhất và thực sự để làm tăng của cải của chúng ta, để xây dựng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là đại công nghiệp..không có một nền đại công nghiệp tổ chức cao, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội đối với một nước nông nghiệp được...".

Đối với các nước đã qua giai đo ạn phát triển của CNTB, bước vào xây dựng CNXH, việc xác lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH được tiến hành thông qua kế thừa, điều chỉnh và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ t huật mà nhân loại đã đạt được trong CNTB theo yêu cầu của chế độ mới và phát triển nó ở trình độ cao hơn.

Còn đối với các nước quá độ lên CNXH có điểm xuất phát thấp như Việt Nam, để có cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, coi đây là giải pháp có tính bắt buộc để xây dựng CNXH hiện thực.

Mục tiêu CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lược lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Theo quan điểm của Đảng thì chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản nước ta thành nước công nghiệp.

3.Quan điểm của Đảng ta về CNH, HĐH:

- CNH phải gắn liền với hiện đại hóa.

- Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước khả năng sản xuất có hiệu quả.

- CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo

- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội.

- Khoa học và công nghiệ là động lực của CNH, HĐH, kết hợp công nghệ truyền thống với co ong nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định, cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.

- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn phương án đầu tư vào công nghệ.

- Kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng.

Những quan điểm cơ bản trên về CNH, HĐH cũng nói lên những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở nước ta.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro