Ch89

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương VIII

TINH THẦN ÐẠO GIÁO VÀ TINH THẦN THẾ TỤC

Jean Francois : Với sự phát triển Phật giáo ở Tây phương, một khía cạnh đáng lưu ý về thực tại hiện nay nổi lên một cách rất cụ thể. Ðó là sự tương quan giữa Phật giáo và vài bản văn triết lý thuộc thế hệ mới. Ba đã kể ra Luc Ferry. Ba muốn kể thêm André Comte Sponville đã cho xuất bản từ hai năm nay quyển "Tiểu luận về những đức hạnh lớn". Ðó là một chuỗi những lời dạy bải khôn ngoan rất thực tế, mà ở Pháp chúng ta gọi là truyền thống của những nhà đạo đức học. Tác giả nhận xét về phong cách, tâm lý con người và đôi khi không e sợ sự nhạt nhẽo, tác giả nhận xét về phong cách, tâm lý con người và đôi khi không e sợ sự nhạt nhẽo, tác giả đưa ra những lời khuyên thực tế về lối sống hằng ngày của con người. Ðaay cũng gần như một cuộc cách mạng tư tưởng vào cuối thế kỷ 20 vì lẽ các nhà đạo đức học luôn luôn bị khinh miệt bởi các triết gia chuyên nghiệp đã nhìn ở họ như những người ghi chép các giai thoại tâm lý. Những nhân vật xây dựng các hệ thống tư tưởng triết lý hồi Ba còn trẻ, đã liệt các nhà đaok đức học vào hàng ngũ văn chương thời thượng. Họ cho các nhà đạo đức học chỉ có những nhận xét theo kinh nghiệm, gián đoạn và độc đoán, không thể tạo thành một hệ thống nào được. Nhưng hiện nay người ta nhận thấy rằng quần chún đã quay về với những phương pháp đạo đức cổ điển đã đưa ra những lời chỉ dạy rất khiêm tốn và rất thực tế về nếp sống của con người. Nhà đạo đức học đặc sắc nhất hiện nay E.M Cioran cũng là một nghệ sĩ và nhà văn bị gạt qua một bên trong suốt 40 năm và chỉ có hai hay ba ngàn độc giả. Ðột nhiên vào năm 1985, mọi người lại bắt đầu chú ý đến ông ta và sách của ông ta đã thành công vang dội ở Pháp, điều này nói lên nhu cầu của quần chúng về những nguyên tắc chỉ đạo người ta phải sống như thế nào, phải vươn tới nghệ thuật sống và phải hướng dẫn cuộc đời mình ra sao. Ðó là những câu hỏi mà từ lâu nền triết lý của chúng ta không có câu trả lời. Nhưng Comte Sponville đã nhiều lần tham khảo Phật giáo và đã nói một câu đáng chú ý vì nó vừa thể hiện một sự đồng cảm cũng như một sự đối kháng giữa Phật giáo Ðông phương và Cơ đốc giáo, câu nói về tâm từ bi và lòng bác ái: "Tâm từ bi là một đức hạnh lớn của Phật giáo Ðông phương cũng như lòng bác ái là một đức hạnh lớn của Cơ đốc giáo Tây phương". Có nên chọn lựa chăng? Ðể làm gì? Vì cả hai đức hạnh đều không chối bỏ nhau. Nhưng nếu cần, ta có thể nói như thế này: "Lòng bác ái thì cao cả hơn nếu ít ra là chúng ta có khả năng, còn tâm từ bi thì dịu dàng và dễ gần gũi hơn. Hay nói cách khác thông điệp của chúa Kitô về tình yêu thì kích động hơn, còn bài thuyết giảng của Phật về tâm từ thì thực tế hơn." Phải nói là Comte Sponville đã đúng khi nói rằng lòng bác ái là một đức hạnh lớn của Tây phương ít ra là trên lời nói vì lẽ lòng bác ái đó đã biểu lộ bằng sự tận diệt người da đỏ ở Mỹ châu, hay bằng sự đưa len giàn hoả dưới thời Trung cổ của những kẻ cuồng tín, hay bằng những sự hành hạ người Do thái và người Tin lành. Nhưng dù sao theo Comte Spoville thì cuối cùng phải nhận ra rằng lòng từ bi hãy còn kém vế so với lòng bác ái của Cơ đốc giáo. Vậy thì con nghĩ như thế nào và hiểu lòng từ bi Phật giáo ra sao?

Matthieu : Trước hết con muốn nói vài lời về câu hỏi đầu tiên của Ba, tại sao lại có sự chú ý về những tác phẩm nói về sự minh triết trong đời sống thường nhật? Có lẽ là một sự bận tâm quá xa lạ với hệ thống giáo dục hiện hành. Nền giáo dục hiện nay, là một sự bận tâm quá xa lạ với hệ thống giáo dục hiện hành. Nền giáo dục hiện nay, chủ yếu là phàm tục, chỉ chú trọng vào việc mở mang trí thông minh và tom góp kiến thức.

Jean Francois : Trong lãnh vực này, không thể nói là đã có sự thành công hoàn toàn.

Matthieu : Trí thông minh là một con dao hai lưỡi. Nó có thể đem lại điều tốt cũng như điều xấu, được dùng để xây dựng cũng nhẹ để phá hoại. Trong quá khứ, các tôn giáo đã dạy người ta trở thành người tốt, phải biết yêu thương đồng loại, phaidr có lòng nhân ái, thành thật, khoan dung và hào hiệp. Nếu bây giờ người ta yêu cầu các đức hạnh các đức hạnh nói trên được dạy trong các trường học, chắc chắc sẽ có một sự phản đối rầm rộ. Người ta sẽ trả lời rằng điều đó thuộc lãnh vực cá nhân và cha mrj có bnonr phận dạy dỗ con cái về những đức hạnh đó. Thế nhưng trogn các thế hệ mới, số cha mẹ hiện nay đã học qua các trường lớp ấy, người ta cũng không dạy bảo gì về đạo đức do đó rất ít bực cha mị có được một hướng dẫn tôn giáo hay tâm linh. Người ta còn đi đến chổ xen tình yêu và lòng từ bi cũng thuộc về tôn giáo. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thường nói rằng ta có thể không cần đến tôn giáo nếu mọi người đều có tình yêu đồng loại và tâm từ bi. Ngài phân biệt rõ ràng tinh thần đạo giáo và tinh thần phàm tục.l chính cái tinh thàn phàm tục này giúp chúng ta trở thành những con người tốt, phát triển được những đức tính mà chúng ta có khả năng phát triển dù chúng ta có tin theo đạo hay không. Nếu không có hoạt động tâm linh thì không có gì hoặc không có bất cứ mộït người nào, có chăng là do tình cờ đọc sách, có thể chỉ ra cho các thanh thiếu niên những giá trị nhân bản và làm thế nào để phát huy các giá trị đó. Do đó rất đáng phấn khởi trước sự chú tâm của quần chúng về các tác phẩm dạy về minh triết trong đời sống.

Jean Francois : Ba rất hài lòng là con đã ghi lại lời nói của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma về cái tinh thần phàm tục, vì Ba nghĩ rằng cái tinh thần này không hề đối nghịch vơi việc giáo dục đạo đức. Phàm tục có nghĩa là sự trung lập của một nền giáo dcuj không lệ thuộc vào bất cứ giáo điều nào dù là tôn giáo hay chính trị. Ðiều này không loại bỏ mà còn bắt buộc nữa là khác, việc huấn luyện đạo đức tập trung vào sự tôn trọng luật lệ và người khác, sự sử dụng đúng mức các quyền tự do, nói tóm lại cái mà Montesquie gọi là đức hạnh Cộn hoà. Nhưng gần đây tinh thần phàm tục đã bị đánh lạc hướng.

Matthieu : Tinh thần phàm tục không phải là việc xoá bỏ những bài giảng về tôn giáo như ta đã làm. Tại sao ta lại không giảng dạy về mọi tôn giáo kể cả triết học và chủ nghĩa duy vật và cho phép học sinh được chọn lựa việc dự thính các buổi học đó. Làm như vậy người ta cho phép trẻ con cac các em thiếu niên có một ý niệm về điều đã học. Tại sao phải chờ đến khi các em 16 tuổi mới dạy triết học cho các em cũng như những giá trị căn bản của con người.

Jean Francois : Ðó là vấn đề dành cho cấp lãnh đạo ngành giáo dục. Nhưng bây giờ con nghĩ sao về lòng từ bi Phật giáo so với lòng bác ái bên công giáo.

Matthieu : Lòng từ bi theo Phật giáo khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ Tây phương. Tâm từ theo Tây phương gợi lên ý niệm về thương hại, về lòng trắc ẩn và như vậy la có khoảng cách giữa người thương và kẻ được thương. Nhưng tiếng Tây Tạng Nyingé mà ta dịch là tâm từ, đúng ra có nghĩa là ông chủ của trái tim, là người kiểm soát được tư tưởng. Tâm từ, theo Phật giáo là ý muốn hàn gắn mọi hình thức đau khổ, và nhất các nguyên nhân gây đau khổ như vô minh, thù ghét, tham ái v.vv... Do đó tâm từ một mặt hướng về con người, còn mặt kia lại hướng về kiến thức.

Jean Francois : Con có đồng hoá tâm từ với lòng bác ái không?

Matthieu : Lòng bác ái là một biểu hiện của tâm từ. Bố thí tất nhiên là một đức hạnh lớn trong Phật giáo. Người ta phân biệt nhiều hình thức bố thí: tài thí tức là cho thức ăn, tiền bạc, áo quần. Vô úy thí là bảo vệ những người gặp nạn, cứu người và sau cùng là Pháp thí giúp cho kẻ khác phương tiện để thoát ra khỏi vô minh. Những hình thức bố thí ấy luôn luôn được thực thi trong xã hội Phật giáo và đôi khi người ta cũng thấy những thí chủ cúng dường tất cả tài sản của họ cho những kẻ thiếu thốn. Trong lịch sử Tây Tạng, có nhiều trường hợp có người đã hy sinh cả mạng sống để cứu mạng những người khác. Ðiều này giống như lòng bác ái nên Công giáo. Sau đó để loại bỏ đau khổ dài hạn, ta phải quán tưởng về nguồn gốc của đau khổ và người ta sẽ nhận ra là chính vô minh đã nuôi dưỡng chiến tranh, lòng căm thù, sự ám ảnh triền miên và tất cả thứ gì đem lại đau khổ cho con người.

Jean Francois : Tâm từ và tình yêu khác nhau như thế nào?

Matthieu : Tình yêu chính là phần bổ túc cần thiết cho tâm từ. Tâm từ không thể tồn tại hay phát triển nếu không có tình yêu, và tình yêu là điều mong ước của chúng sinh muốn tìm hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc. Chữ tình yêu ở đây có nghĩa là vô điều kiện, là toàn diện cho mọi chúng sinh không phân biệt. Tình yêu giữa đàn ông và đàn bà, giữa những bạn bè, giữa những người thân có tính cách cảm sở hữu độc chiếm, giới hạn và bao gồm cả những những tình cảm ích kỷ. Khi người ta cho, người ta mong có sự đền đáp. Một tình yêu như vậy có vẻ như sâu sắc, nhưng nó dễ dàng tan biến nếu có vẻ như sâu sắc, nhưng nó dễ dàng tan biến nêu nó không dáp ứng được điều ta cầu mong. Hơn nữa tình yêu mà ta dành cho người thân thường kéo theo một khoảng cách, hay hơn thế một cảm giác giận hờn đối với người lạ, những người có thể đe doạ cho chính chúng ta hau cho những người thân của chúng ta. Tình yêu đích thực, tâm từ đích thực có thể gồm cả những kẻ thù của ta, còn tình yêu và tâm từ kèm theo một sự quyến luyến cá nhân thì không thể bao gồm kẻ thù của ta được.

Jean Francois : Vậy là quan niệm tình yêu cũng quan trọng trong Phật giáo chứ không riêng trong Công giáo?

Matthieu : Nó là nguồn cội của con đường đạo. Nhưng tình yêu không thể một chiều, giới hạn cho vài người thân, hay thiên vị. Tình yêu phải hoàn toàn không vị lợi, và không cần đền trả. Như vậy, một trong những đề tài chính về thiền định gồm có việc bắt đầu nghĩ đến người mà ta yêu mến nhất và để cho tình yêu ấy tràn ngập tâm hồn ta, sau đó phá vỡ các ngăn cách và trải rộng tình yêu ấy đến những người không thân, không sơ rồi sau cùng đến những người ta xem là thù địch. Ðó mới là tình yêu đích thực. Biết được một kẻ muốn làm hại ta cũng không làm tổn thương đến với tâm từ của ta vì tâm từ này dựa trên sự hiểu biết sâu xa rằng kẻ thù của ta cũng như ta luôn luôn muốn hạnh phúc và xa lìa đau khổ.

Jean Francois : Như vậy thì từ bi của Phật giáo khác với lòng bác ái bên Công giáo như thế nào?

Matthieu : Tình yêu đồng loại như đã viết trong Thánh thư, đúng là tình yêu và tâm từ trong Phật giáo. Thật ra có thể nói là nó chung cho các tôn giáo lớn. Trong Phật giáo người ta thêm vào tình yêu và tâm từ, hai đức hạnh khác. Một là tâm hỷ tức là chia xẻ niềm vui của kẻ khác, cầu mong cho niềm vui đó được tăng trưởng và kéo dài. Tâm hỷ đối nghịch với lòng ghen ghét. Hai là tâm xả, tức la dành tình yêu, tâm từ và sự khoan dung cho người thân cũng như cho người lạ và kẻ thù. Nếu chúng ta so sánh sự an vui của chúng ta với sự an vui của vô số chúng sinh, thì rõ ràng là sự an vui của chúng ta không đáng kể. Hơn nữa, phải biết rằng niềm vui hay nỗi khổ của chúng ta ràng buộc rất nhiều vào niềm vui hay nỗi khổ của kẻ khác. Trong đời sống thường nhật ta có thể thấy sự khác biệt giữa những người chỉ biết lo cho chính mình và những người luôn lo cho kẻ khác. Những người trước luopon luôn khó chịu và bất mãn. Sự hẹp hòi của họ trong giao tiếp khiến họ khó đạt được điều mà họ mong muốn. Họ thường xuyên gõ vào cá cánh cửa đóng kín. Trái lại, người có thái độ cởi mở và không ích kỷ, luôn nghĩ đến lợi ích của kẻ khác. Họ có sức mạnh tinh thần sung mãn và những vấn đề của riêng họ không làm họ mấy bận lòng và dù họ không mong muốn, những người khác luôn chú ý đến họ . Sau cùng, như con đã nói, tình yêu vaqf tâm từ Phật giáo không tách rời sự minh triết tức là sự nhận thức đúng về sự vật, nhắm vào sự giải thoát kẻ khác thoát khỏi vô minh vốn là nguyên nhân đầu tiên của mọi đau khổ. Chính sự minh triết, trí tuệ đó đã đem lại sức mạnh cho tâm từ.

Jean Francois : Người ta có thể phản bác là các điều kể treewn không rõ ràng lắm. Ngày nay có sự lo âu về cái mà ta gọi là những vấn đề xã hội, những bất công, phạm pháp, thuốc gây nghiện, phá thai, án tử hình. Và ngoài án tử hình là không thể sửa chữa được, có thể nào cứ phải nhốt những kẻ phạm pháp hay là nên giáo dục họ? Và những vấn đề con vừa nêu ra về giáo dục, có nên cưỡng bức hay là tuỳ thuộc vào nguyện vọng của học sinh?

Matthieu : Vấn đề giáo dục là: có nên dạy cho học sinh những gì chúng muốn nghe hay là những gì chúng thật sự cần nghe. Sự chọn lựa thứ nhất là một giải pháp dễ dải, còn thứ hai là một thái độ có trách nhiệm.

Jean Francois : Và sau cùng, tất cả vấn đề về bảo vệ xã hội, về thất nghiệp, bạo động, hội nhập những di dân, đối đàu chủng tộc trong những xã hội lớn ngày nay, Phật giáo có tự hỏi về những vấn đề nêu trên và đã có câu trả lời hay chưa?

Matthieu : Xã hội Tây phương có thừa phương tiện để xoa dịu những đau khổ vật chất nhưng lại rất thiếu phưong tiện để xây dựng hạnh phúc tinh thần. Nó lại còn thiếu những điểm chuẩn liên quan đến những vấn đề thiết thực của xã hội và của cuộc sống vì lẽ càng ngày các nguyên tắc tâm linh càng ít soi sáng chúng ta. Năm 1993 khi cám ơn theo Ðức Ðạt Lai Lạt Ma với tư cách là thông dịch viên khi ông viếng nước Pháp trong 3 tuần lễ, con rất ngạc nhiên về việc Ngài đã được các sinh viên tiếp đón trọng thể như thế nào. Ðúng là trong các Ðại học sự đón tiếp xảy ra rất nồng nhiệt. Ở Grenoble vào tháng chạp, 8 ghiowf đêm trời lạnh, giảng đường đông nghẹt và bên ngoài 3 hay 4 ngàn người đang chờ đợi trongcái lạnh và nhìn vào một khung chiếu lớn hình ảnh Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đang thuyết giảng. Ở Bordeaux cũng thế. Ðáng ngạc nhiên là không khí sôi sục trọng cuộc hỏi đáp giữa ngài và sinh viên. Ngài đã nói trong 20 phút rồi một loạt các câu hỏi được đưa ra về án tử hình, về phá thai, kiểm soát sinh đẻ, về bạo lực, về tình yêu v.vv... Người ta có cảm giác là sinh viên sau cùng đã tìm được một nhân vật để đối thoại.

Jean Francois : Và những câu trả lời của ngài là như thế nào?

Matthieu : Về vấn đề kiểm soát sinh đẻ, ngài chủ trương rằng mạng sống là của quí nhất mà con người có được. Mỗi một mạng sống giống như một con tàu có thể giúp chúng ta đến được sự giác ngộ. Nhưng nếu có quá nhiều mạng sống, thì nhân loại sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì tài nguyên của trái đất không đủ cho nhiều tỷ người có được một cuộc sống đàng hoàng. Giải pháp duy nhất là chận đứng sự bùng nổ dân số và Ðức Ðạt Lai Lạt Ma chủ trương sự kiểm soát sinh đẻ bằng cách "bất bạo động" có nghĩa là sử dụng các phương pháp tránh thai sẵn có.

Jean Francois : Một sự phòng ngừa sinh sản?

Matthieu : Làm đủ mọi cách mà không dùng bạo lực để tránh một sự sunh sản quá mức.

Jean Francois : Như vậy là Ngài không tán thành việc phá thai.

Matthieu : Phật giáo cho sự giết chóc là cướp đi sinh mạng của một sinh vật đang hoạt động hoặc đang tượng hình. Vì theo thuyết tái sinh, khi khởi đầu thụ thai thì giòng tâm thức đã hiện hữu dù là rất sơ khai và khó phát hiện. Trong vài trường hợp nếu mạng sống người mẹ bị đe doạ, và nếu đứa con ra đời sẽ là một quái thai thì sự phá thai có thể chấp nhận được, nhưng ngược lại nếu vì lòng ích kỷ, vì mưu cầu lợi ích riêng cho bản thân thì việc phá thai phải bị lên án. Và ta nên phát triển các phương pháp tránh thai hiệu quả, để không sử dụng biện pháp phá thai. Câu trả lời này có thể làm hài lòng cử toạ. Và ngài lại bông đùa: " cách hay nhất để tránh sự bùng nổ dân số là nên có nhiều nư tu sĩ" và điều này đã làm thính giả phải bật cười.

Jean Francois : Ba thêm rằng việc gia tăng dân số không còn là một vấn đề lớn đối với các nước phát triển và nơi đây số trẻ sinh ra đã giảm xuống. Ðiều cần phải bàn là vấn đề tự do cá nhân và tự do lựa chọn. Một vấn đề khác là án tử hình đã được giải quyết trong phần đông các nước Tây phương tiên tiến, ở đay hầu như không còn giữ án tử hình. Và ngay ở Hoa Kỳ, chỉ còn vài tiểu bang giữ lại và vài tiểu bang khác thì mới thiết lập lại án tử hình. Như vậy chỉ còn lại sự trừng phạt các trường hợp phạm pháp và giết người có tổ chức. Người ta không thể áp dụng sự bất bạo động với các vụ giết người có tổ chức. Làm sao để chống lại bọn Mafia nếu không dùng đến bạo lực, không bỏ tù những kẻ sát nhân và làm cho những kẻ này không còn khả năng gây tội ác.

Matthieu : Sự bất công bạo động không có nghĩa là một sự hèn yếu. Mục đích là giảm thiểu nỗi đau của người khác. Như vậy vô hiệu hoá những tên sát nhân là một việc làm cần thiết. Nhưng điều này không ngụ ý là mang ý nghĩa báo thù hay là đem áp dụng những hình phạt tàn bạo. Gần đay con đã được nghe trên sóng phát thanh lời tuyên bố rất cảm động của mootjh cha mẹ một đứa bé bị sát hại trong một vụ mưu sát, trước ngày kết án tên khủng bố sất nhân: " Chubngs tôi không cần thêm một cái chết nữa." Ðối với hình phạt chung thân để ngăn không cho kẻ sát nhân có cơ hội làm hại nữa, thì án tử hình mang ý nghĩa như một việc báo thù. Ðó là điều Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã nói trong quyển " cõi trời với tai hoạ của con người". Kết án tử hình một con người là việc làm quan trọng. Ðó là sự loại bỏ hẳn một cá nhân. Tuy nhiên con người đó nếu được sống có theer thay đổi nhân cách. Con tin chắc rằng với những kẻ sát nhân thật sự nguy hiểm vẫn còn có khả năng một sự thay đổi và hối cải. Nếu để cho họ sống, thì ta cho họ có cơ hội để cải tạo lại con người của họ.

Gần đây vào năm 1996 ở Hoa Kỳ trong tiểu bang Arkansas, một phạm nhân bị hành quyết sau 12 năm bị giam cầm. Trong thời gian đó hắn đã thấy ra sự ghê tởm về hành vi của hắn. Và ước mong được đem quãng đời còn lại phục vụ kẻ khác chuột lại lỗi lầm. Hắn cũng đã phát nguyện xin được tu hành. Qua điện thoại chúng đã làm cho công chúng nghe được trên sóng phát thanh địa phương : " Tôi đã trở thành một con người khác. Hãy cho tôi cơ hội để chuột lỗi. Ðừng giết tôi". Chúng ta muốn tin rằng chúng ta sống trong một xã hội loài người. Thật ra, không phải thế. Có lẻ chính phủ nên chính thức xem án tử hình như một sự báo thù. Rõ ràng là án tử hình không làm đầy đủ vai trò hình phạt gương mẫu có thể làm giảm thiểu tội ác sát nhân". Và hắn lại đặt câu hỏi: "Tại sao các ông lại hành quyết các phạm nhân giữa đêm lam cho mọi người không hay biết ? Nếu việc làm của các ông không phải là vô nhân đạo, tại sao không hành quyết chúng tôi giữa ban ngày, trước ống kính vô tuyến truyền hình." Thống đốc Arkansas, một vị mục sư củ, đã không ân xá cho ông ta và ra lịnh hành quyết trước kỳ hạn một tháng để tránh việc tội nhân có dịp lại kêu ca.

Jean Francois : Ba nghĩ rằng đã có sự đồng tình khá phổ biến về vấn đề này. Cái xã hội dân chủ lớn nhất còn giữ lại án tử hình là Hoa Kỳ dù rằng chỉ là ở trong một số tiểu bang và điều này đã gây ra tranh cãi ở nhiều nơi. Ba nghĩ rằng nó sẽ biến mất thôi.

Matthieu : Xã hội có bổn phận bảo vệ người dân chống lại những kẻ sử dụng bạo lực. Dù là một vụ giết người hay là một sự hành quyết đều không thể chấp nhận được. Mục đích là ngăn chặn những kẻ nguy hiểm không cho họ gây hại, dù cho là họ có tổ chức hẳn hoi.

Mục đích của sự bất bạo động là làm giảm sự bạo động. Ðó không phải là một thái độ thụ động. Giải pháp hay nhất là vô hiệu hoá những kẻ gây hại lớn cho người khác mà không sử dụng bạo lực.

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã dùng một công thức rất ấn tượng bằng Anh ngữ: "Chúng ta phải tha thứ, nhưng không quên."

Jean Francois : Phải, đúng thế không thể quên. Nhưng lý luận như vậy chỉ áp dụng cho cá nhân, hiện nay tội ác có tổ chức hẳn hoi. Ðó là những băng đảng vì lợi nhuận, vì sự cuồng tín ý thức hệ đã tự cho mình cái quyền giết hại kẻ khác. Như vậy là không phải một con người cần phải cải tạo, mà là cả một tổ chức tội ác. Và hiện nay xã hội có xu hướng sản sinh ra những tập đoàn lưu manh mà mục đích chỉ là lợi nhuận hay là quyền lực, hay cả hai. Và xã hội không có phương tiện nào khác để chống đỡ hoan là dùng bạo lực để chống lại bạo lực.

Matthieu : Tội ác có tổ chức chỉ là một nhóm người. Vô hiệu hoá họ chỉ là giải pháp tình thế hơn là diệt tận gốc. Muốn diệt trừ tội ác chỉ còn cách là cải tạo con người, giúp đỡ cho con nguwopwif cách suy nghĩ và hành động.

Chương IX

PHẬT GIÁO ẢNH HƯỞNG THỀ GIỚI VÀ BẢN THÂN

Jean Francois : Nếu Ba hiểu không lầm, ba vốn là một con người thế tục, thì theo Phật giáo mọi biến thiên của cuộc đời là đau khổ và để thoát ly đau khổta cần phải từ bỏ cái ý niệm sai lầm là ta hẳn là một thực thể hiện hữu và bền vững, một cái ngã tachs biệt với thế gian và trường tồn cùng thời gian. Cái ngã ảo vọng này là nguồn cội của mọi khát vọng, mọi tham ái, mọi hờn ghen và là đầu mối của dau khổ. Muốn thoát ly đau khổ, cần phải hiểu được tính chất hão huyền của tự ngã .

Từ sự tóm lược đơn giản nêu trên, Phật giáo quả thật hoàn toàn trái ngược với xu hướng chung của Tây phương. Mặc dù có nhièu triết gia, nhiều nhà đạo đức học, nhiều tu sĩ đã lên án những tham vọng về quyền lực, về tài sản và ca tụng giá trị của tinh thần xả bỏ, trọng tâm tư tưởng của phương Tây vẫn được xây dựng theo hai trục căn bản và bổ sung cho nhau.

Trước tiên là sự tự do cá nhân và tăng cường nhân cách là sự đề cao ý chí, và tinh thần phán đoán của con người được xem là đầy đủ tri thức và có thể tự mình quyết định.

Thứ hai là ảnh hưởng của cá nhân trên thế giới. Văn minh phương Tây là một nền văn minh dựa trên hành động, hành động suốt bề dày lịch sử con người thông qua chính trị, thông qua sự tìm hiểu quy luật thiên nhiên để cải tạo và thuần phục chúng ngõ hầu phục vụ cho nhu cầu của con người. Ðiều naỳ đi ngược lại quan điểm của Phật giáo chủ trương không dính mắc vào ngoại cảnh. Vậy là có hay không một sự đối nghịch không thể sửa đổi được giữa hai thái độ này.

Matthieu : Trước tiên khi Ba nói rằng sự biến thiên của cuộc đời là đau khổ, phải nói rõ đó là khổ đế mà Ðức Phật đã thuyết giảng đầu tiên. Khổ đế thuộc về chân lý tương đối, chứ không diễn tả bản thẻ tối hậu của sự vật vì lể khi ta đã đến sự giác ngộ tâm linh thì ta sẽ có một niềm vui vô hạn, và ta sẽ nhận ra ựu thuần khiết của vạn vật. Khi ấy mọi đau khổ chấm dứt, vậy tai sao phải nhán mạnh đến đau khổ. Ðầu tiên để nhận thức ddc những bất toàn của một thế giới bị quy định. Trong cái thế giới vô minh này, các đau khổ cứ chông chất: Một người có thân chết, một người khác theo sau vài tuần kế đó. Những niềm vui nhất thời biến thành lo âu, ray rứt:Ta đang đi dã ngoại cùng gia đình, thì con ta bỗng bị rắn cắn. Do đó sự nhận thức về đau khổ đòi hỏi phải tìm hiểu về nguồn gốc của nó. Người ta thường bảo rằng Phật giáo là triết lý về sự đau khổ, thật ra càng thấu hiểu nguyên nhân đau khổ, thì ta càng thấy nhẹ nhõm dễ chịu. Phật giáo là đối kháng với bi quan và ù lì, vì lẽ khi nhận ra nguyên nhân đau khổ ta sẽ tìm đủ mọi cách để vượt qua. Hành giả được xem như là một con bệnh, và Ðức Phật như một y sư, giáo lý của Ngài như phương thuốc trị liệu và sự hành trì giáo lý của Ngài như phương thuốc trị liệu và sự hành trì giáo lý ấy như một phương pháp để chữa lành mọi đau khổ.

Jean Francois : Nếu Phật giáo là một phương cách để thoát ra khỏi mọi đau khổ, thì Tây phương cũng có nghĩ đến một đường lối khác là cải tạo thế giới bên ngoài cùng các cấu trúc xã hội của nó.

Matthieu : Việc cải tạo thế giới bên ngoài có nhiều hạn chế, và ảnh hưởng của những cuộc cải cách đó đến niềm hạnh phúc của tâm hồn cũng rất là giới hạn. Thật vậy sự tốt lên hay xấu đi của crt các điều kiện vật chất ảnh hưởng rất lớn đến tiện nghi của chúng ta, nhưng sau cùng chúng ta không phải là những cỗ máy và chính tinh thần mới thật sự khến ta sung sướng hay đau khổ.

Jean Francois : Không hề có, nhưng nhà Phật nghĩ rằng tác động lên thế giới mà không tự chuyển hoá bản thân mình, thì không thể đem đến một hạnh phúc lâu dài và sâu sắ được. Ta cso thể nói rằng tác động lên thế giới là việc đáng chờ mong nhưng chuyển hoá bản thân mới là điều thật sự cần thiết. Còn nói về việc tăng cường nhân cách ở Tây phương, điều này hoàn toàn đi ngược lại chủ trương Phật giáo, vốn muốn lột trần sự lừa dối của bản ngã, một cái ngã luôn chế ngự chúng ta và đem đến cho chúng ta rất nhiều phiền não dù rằng thật ra bản ngã hoàn toàn không có thật. Tuy nhiên, bước đầu học Phật phải ổn định cái cảm giác về cái ngã nay, để nhận ra những đặc trưng của nó. Người ta thường nói như có vẻ mâu thuẩn, là trước tiên cần phải có một cái ngã, để sau rồi mới thấy ra cái ngã đó không thật. Kẻ nào có một tâm tính bất ổn, vụ vặt, khó theo dõi thì ít có hy vọn để nhận định rõ ràng về cái ngã này đẻ rồi sau đó khám phá ra là nó không có thực thể. Vậy là phải bắt đầu bằng một cái ngã "lành mạnh và mạch lạc" để có thể phân tích nó. Ta có thể bắn vào một cái đích chứ không thể bắn vào sương mù được.

Jean Francois : Nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Dù sao mục tiêu cũng là tìm ra bản ngã là một sự lừa bịp như con đã nói.

Matthieu : Vâng, nhưng cũng không nên tin rằng khi đã hiểu ra bản ngã chỉ là một sự lừa dối của tâm thức, người ta lại rơi vào một trạng tahis không, có thể khiến ta mất hết nhân cahs, và không còn có thể hoạt động và liên hệ với người khác. Ta không trở thành một cái thùng rỗn. Trái lại kho thoát ra được bản ngã, ta sẽ trở nên sáng suốt minh triết và đầy tình thương với nhân loại. Ðây là một sự giải phóng khỏi các ràng buộc của tự ngã. Ðây là một sự giải phóng khỏi các ràng buộc của tự ngã. Khi mở được con mắt trí huệ thì nghị lực và lòng hăng hái của ta sẽ tăng trưởng, hành động của tra sẽ luôn luôn hợp lý và vị tha.

Jean Francois : Sự sùng bái "cái ta" như Maurice Barrès đã nói, một sự sùng bái ích kỷ hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Nhưng văn minh Tây phương thì lại đề cao một câ tính mạnh mẽ. Chính là các cá nhân siêu đẳng trong mọi lãnh vực đã để lại dấu ấn của họ trong những thời đặc biệt. Như trong quyển "Văn minh thời phục hưng ở nước Ý" sử gia gốc Thụysixr - Ðức Jacob Burrckhardt cho rằng thời kỳ đó là thời hưng thịnh nhất của nền văn minh Tây phương. Ðã có những cá nhân vĩ đại như ông hoàng trí thức Federic d' Urbin, nhà nghệ sĩ tài ba và cũng là một khoa học gia tầm cỡ Leonard De Vinci. Cũng giống như thế, là những con người hành đoọng như Alexandre Legrand, Jules Cesar, Christophe Colomb, Napoleon đệ nhất, những nghệ sĩ , những con người này được chú ý nhiều hơn cả thánh Saint Francois D'Assise. Dĩ nhiên là người ta cũng ca tụng những triết gia lớn, nhưng nghệ sĩ, những nhà văn nhưng ưu thế cũng thuộc về những con người hành động, những con người cải tạo lại thế giới, cải tạo lại xã hội. Có cái gì đó trong quan niệm Tây phương về con người, trái hẳn với tinh thần Phật giáo. Và đến thời điểm hiện nay khi hai luồng tư tưởng lại gặp nhau, nhưng ta có thể chờ đợi điều gì sẽ xảy ta với sự va chạm của hại trạng thái tinh thần hoàn toàn khác biệt.

Matthieu : Nếu ta quan niệm ca tính như là một sự phát huy của bản ngã, thì một cá tính mạnh mẽ không hẳn là một yếu tố thành công. Hitler và Mao Trạch Ðông là hai nhân vật có cá tính rất mạnh.

Jean Francois : Ðúng vậy.

Matthieu : Như vậy là một sự quyết đoán không thay đổi được, không kìm hãm được, và đó không phải là một đức tính tích cực. Tất cả phu thuộc vào động cơ thúc đẩy sự quyết đoán đó.

Jean Francois : Ðây hẳn là một sự phản bác rất có ý nghĩa.

Matthieu : Không nên lầm lẫn một cá tính mạnh mẽ với một tâm hồn giàu nghị lực. Những vị đạo sư mà con đã gặp có một ý chí sắt đá, một nhân cách tất gây ấn tượng, và con người họ toả ra một huyền lực mà những người chung quanh có thể cảm nhận được. Nhưng điều khác biệt là ở con người họ ta không thấy một biểu hiện nào của bản ngã. Sức mạnh nội tâm của họ đến từ một sự an nhiên tự tại, mà biểu hiện bên ngoài là một sự vững vàng không gì lay chuyển được. Họ khác hẳn những nhà độc tài mà cá tính mạnh mẽ đến từ khát vọng muốn thống trị, từ lòng kiêu hãnh, tham lam hay thù hận.

Trong cả hai trường hợp chúng ta đều đứng trước một sức mạnh vô biên, nhưng trong trường hợp đầu sức mạnh đó giàu tình thương đồng loại, tích cực, còn trường hợp sau thì sức mạnh đó lại có tính cách phá hoại, tiêu cực.

Jean Francois : Thật vậy nhưng ước muốn hành động gắn liền với tư tưởng Tây phương có hai khía cạnh. Một khía cạnh chết với Hiler, và một khía cạnh sống với Einsten, Mozart, Palladio, Tolstoi hay Matesse. Những vị sau này đem đến cho cuộc đời chân lý và vẻ đẹp. Tuy nhiên quan điểm chung là đa số các nhà tư tưởng lớn Tây phương trong một chừng mực nào đó, đều muốn diễn tả tư tưởng mình trong hành động. Trong quyển "Cộng hoà", Platon đã dựng lên một bản hiến pháp, vì ông muốn cải tạo xã hội đương thời. Descartes thì cho rằng con người phải chế ngự và sở hữu thiên nhiên. Rousseau thì điều chỉnh lại bản hợp đồng xã hội. Karl Marx áp dụng tư tưởng vào hành động như một tiêu chuẩn tối hậu chứng minh chân lý một học thuyết.

Ba trở lại câu hỏi của mình. Phật giáo quan niệm cuộc đời như một sự giam cầm mà người ta cần phải thoát ra bằng cách ra khỏi vòng luân hồi. Còn đối với Tây phương người ta cố gắng xoa dịu các nỗi thống khổ của con người bằng cách chuyển hoá thiên nhiên và cải tạo xã hội. Ðây là một nghịch đề khó vượt qua?

Matthieu : Nếu một tù nhân muốin giải phóng những kẻ đồng cảnh ngộ với mình, trước tiên là hắn phải gỡ bỏ gông cùm của chính hắn. Ðó là cách duy nhất. Chúng ta cần có sức mạnh để hành động đúng. Một nghệ sĩ phải bắt đầu tự khám phá tài năng của mình rồi dần dần học sự khéo léo kỹ thuật, khai triển cảm hứng và diễn tả trên tranh vẽ. Lộ tình của một vị đạo sư cũng tương tự như vậy dù rằng nó không cùng một mục tiêu. Con đường tâm linh bắt đầu bằng sự từ bỏ thế gian, giống như 1 con nai bị thương tìm nơi vắng vẻ để trị thương. Ơ đây thương ích là vô minh. Nếu muốn giúp đỡ kẻ khác mà không chuẩn bị sẵn sàng thì cũng giống như cắt lúa non, như một nhạc sĩ điéc không nghe được bản nhạc của mình. Ðể có thể giúp đỡ kẻ khác, mình phải không khác cái gì mình muốn dạy kẻ khác. Một hành giã sơ cơ rất mong muốn được giúp đỡ tha nhân, nhưng anh ta không được chuẩn bị đầy đủ về tâm linh để làm việc đó. Tuy nhiên nếu có ý chisthif sẽ có một con đường và ước vọng cao cả được phục vụ nhân loại sẽ có ngày đơm hoa nở trái. Một trong những ẩn sĩ tài danh nhất của Tây Tạng là Milarepa đã nói rằng trong suốt 12 năm ông sống trong hang động, không có một phút giây cầu nguyện nào, mà mà ông không hồi hướng cho chúng sinh.

Jean Francois : nhưng đó chẳng qua là tư tưởng chứ không phải là hành động.

Matthieu : Những vị đại hiền của Tây Tạng đã có một ảnh hưởng rất lớn không những trên các đệ tử của họ mà trên toàn thể xã hội Tây Tạng nữa. Nhân cách của họ dược nhận ra một cách tích cực bởi những người sống chung quanh họ. Con chỉ nhắc lại trường hợpcủa Khuyentese' Rinpotché đã sống ẩn cư 17 năm liền, chỉ gián đoạn qua những lần thăm viếng những vị thầy của ông. Và khi ông 35 tuổi, thầy ông đã bảo: " Bây giờ là lúc con phải truyền trao kiến thức và kinh nghiệm của con cho chúng sinh." Và từ lúc đó ông đã giảng dạy không ngừng nghỉ cho đến ngày ông qua đời. Thức dậy sớm trước bình minh, Khuyentsse' Rinpotché cầu nguyện và thiền định qua nhiều giờ. Khoảng 8 giờ sáng, ông bắt đầu tiếp đám đông khách đang tụ tập c cửa nhà ông. Tuỳ theo nhu cầu của họ, ông đưa ra những chỉ dẫn, những lời khuyên thiết thực, những lời dạy hay đơn giản là ban phước lành cho họ. Có nhiều khi ông thuyết giảng suốt ngày trong nhiều tháng dù là cho 10 người hay cho cả ngàn người. Dù rất nhọc mệt ông còn cố gắng trả lời cho những đòi hỏi cá nhân cho đến rất khuya, hoặc dạy bảo cho một người hay cho một nhóm nhỏ. Không bao giờ ông từ chối ai điều gì. Một con người như thế có một ảnh hưởng rất lớn đến xã hội quanh ông. Có thể nói ông là trung tâm điểm của cái xã hội đó.

Jean Francois : Thái đọ đó dù sao cũng không so sánh được với những nhà bác học hay những nghệ sĩ Tây phương, mà hành động không chỉ giới hạn vào việc dạy cho kẻ khác những những gì họ hiểu được. Cái điều phân biệt một nghệ sĩ Tây phương không phải là việc xem cái " Tôi" như là một ảo tưởng, một sự lừa dối mà là một nhân lực sáng tạo của nghệ sĩ. Nghệ sĩ tự xem mình là duy nhất, là vượt trội mọi người và nhờ thế anh ta mới có khả năng sáng tạo về văn chương, về hội hoạ, về âm nhạc nói chung là về những gì mà kẻ khác không thể làm thay cho anh ta được. Vậy thì ở tây phương, mọi thứ đề hướng về hai mục tiêu chính: một là sự đè cao cái "tôi" trái với giáo lý Phật giáo, sự đề cao này không phải là một giai đoạn chuyển tiếp để truyền trao kiến thức cho kẻ khác. Hai là sự áp dụng các khám phá do khả năng sáng tạo vào chính trị, kinh tế, nghệ thuật hay kiến thức. Theo Ba đó là sự dị biệt căn bản của hai xu hướng.

Matthieu : Theo Phật giáo, có một sự tương đồng với Tây phương trong sự đề cao cái ngã, đó là việc sử dụng đúng mức những tiềm năng siêu vật của con người. Và khả năng sáng tạo của con người là tìm đủ mọi cách để có được tri kiến. Trái lại nếu quá đắm say về cái ngã khiến con người, bằng mọi giá, cố gắng sáng tạo một điều gì đó thật đặc biệt, thật khác thường, thì Phật giáo xem đó như là trò trẻ con. Ðiều náy rất đúng trong lĩnh vực tư tưởng. Còn nói về việc đề cao quá đáng cái " ngã", thì cũng giống như để bàn tay trên lửa mong tìm sự mát mẻ.

Làm tan biến đi cái ngã, có nghĩa là tan biến đi đến một sự tận diệt lòng kiêu hãnh, tánh khoe lhoang, sự ám ảnh, tánh dễ cảm, lòng căm ghét oán hờn. Vầ sự tận diệt này được tiếp nối băng lòng nhân ái, tính khiêm tốn, lòng vị tha. Khi không còn quyến luyến và bảo vệ cái "ngã", ta sẽ có một cái nhìn sâu sắ và bao dung hơn về cuộc đời. Người thường bảo rằng người hiền giống như một con cá bơi trong nước mà mắt mở trao tráo. Ông đi vào cuộc đời luôn luôn tỉnh thức. Sự luyến ái cái tôi buộc con người luôn luôn hướng về mình, vho mình là tài giỏi hơn kẻ khác, và luôn hành động theo cái tôi của mình thích hay không thích, luôn muốn tự khẳng định minh. Một thái độ như thế, giới hạn rấ nhiều tầm hoạt động của chúng ta. Hoạt động của một con người đã cởi bỏ được tự ngã thì rộng rãi hơn nhiều. Ba nói rằng những vị đại hiện chỉ giới hạn hoạt động của mình vào việc thuyết giảng, nhưng sự thuyết giảng này có công dụng xoa dịu các nỗi đau của thời đại.l tuy nhiên cũng không phải là không có những hoạt động trên các lãnh vực khác. Trong văn minh Tây Tạng sự nở rộ các ngành kiến trúc, hội họa, văn chương thật đáng ngạc nhiên.Khyenté Rinpotché đã viết 25 quyển thơ ca, khảo luận về thiền định, tiểu sử các thánh nhân. Khi ông ta cho xây cất tu viện ở Nepal ông đã có 50 nghệ sĩ vây quanh, những hoạ sĩ, điêu khắc gia, thợ kim hoàn, thợ may v.vv...

Jean Francois : Này hãy chú ý điều này. Ba nghĩ có sự hiểu lầm giữa ta về điều mà Ba gọi là "hành động trên ngoại giới". Con diễn tả ảnh hưởng của các bậc đại hiền trên đồng loại. Nhưng hãy thực tế một chút. Khi Ba nói rằng Tây phương là một nền văn minh hành động Ba nghĩ đến sự cải tạo thế giới bằng sự thông hiểu các qui luật thiên nhiên. Ba nghĩ đén những phát minh kỹ thuật, dến các máy móc chạy bằng hơi nước, việc sử dụng điện lực kính thiên văn, kính hiển vi, về việc sử dụng năng lượng nguyên tử. Tất cả những ddiieeuf đó đều đến từ Tây phương. Vậy thì khi ta nói đến tác động trên thế giới, thì ta không chỉ đề cập đến việc cải tạo tâm linh cho đồng loại, mà còn cả sự cải tạo vật chất trên vũ trụ để tạo nên những dụng cụ không thể nào tưởng tượng được cách đây 5 thế kỷ, đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của con người. Nếu Ba hiểu đúng, theo Phật giáo cái kiểu hành động theo Tây phương đó thật ra là dư thừa. Dù sao Phật giáo cũng không bao giờ triển khai vấn đề đó.

Matthieu : Ðể trở lại một công thức mà con đã dùng trước đay, đó là sự hiệu quả của Tây phương là một đóng góp lớn cho những nhu cầu nhỏ.

Jean Francois : Nhu cầu nhỏ sao? Con nói hơi vội đấy!

Matthieu : Theo một khía cạnh nào đó thì đúng như vậy. Sự thoải mái do sự cải thiện các điều kiện sinh sống nhờ vào tiến bộ kỹ thuật, không thể bị chê trách. Trái lại là đàng khác! Tất cả mọi thứ góp công vào việc cải thiện đời sống của nhân loại đều đáng được hoan nghinh. Nhưng kinh nghiệm cho thấy là sự tiến bộ kỹ thuật chỉ giải quyết thứ yếu như nhìn xa hơn, đi nhanh hơn, lên cao hơn, lặn sâu hơn v.vv....

Jean Francois : Nhưng còn sống tốt hơn, lâu hơn, chữa lành bệnh tật nhiều hơn thì sao? Hãy lấy một ví dụ cụ thể: Trong một quộc gia kề cận với chúng ta, Ấn Ðộ, tuổi thọ con người từ 29 năm năm 1900 cho đến bây giờ là 53 năm. Dĩ nhiên là ta có thể nói, nếu một người quá đau khổ anh ta thật sự không muốn sống lâu, và có lẽ anh ta sẽ nghĩ là nên chết ở tuổi 29 thì hơn. Nhưng với một người được hưởng lợi nhờ vào sự tiến bộ của khoa học, thì đời sống của anh ta sẽ kéo dài hơn và dễ chịu hơn. Quan niệm về hạnh phúc ở phương Tây là sự kéo dài tuổi thọ, là sự chữa lành hay làm giảm những đau đớn xác thân, là có thể di chuyển 50 cây số mà không phải lội trdong bùn suốt 2 ngày và những hoàn cảnh tương tự như là có thể chết lúc 10 tuổi vì viêm ruột thừa, và đây cũng là trường hợp của Ba nếu không có khoa giải phẩu và khoa tiệt trùng hiện đại. Nếu như hạnh phúc kiểu Tây phương mà hoàn toàn không có lợi, thì tại sao phương Ðông lại sốt sắng bắt chước đến như vậy.

Matthieu : Con đường đúng là con đường Trung đạo của y học và sử học cuộc đời của mình vào những công việc hữu ích nhờ những giá trị tâm linh. Không phải là sự hạ thấp tầm quan trọng của tiến bộ vật chất khả dĩ xoa dịu được khổ đau. Ðông phương rất biết ơn Tây phương về các tiíen bộ y học làm tăng tuổi thọ con người; Ðó là điều mà mọi người đều vui thích nhưng mặt khá, một nền văn minh chỉ chuyên chú vào sự tiến bộ vật chất rõ ràng là rất thiếu sót một điều căn bản, mà vật chất không thể đem đến được. Bằng cớ là điều thiếu sót ấy xã hội Tây phương cảm nhận được và cố gắng đôi khi rất vụng về tìm hiểu về sự minht riết của phương Ðông hay là của quá khứ. Sự thiếu sót ấy xuất hiện rõ rệt trong sự bấn loạn tâm trí của nhiều người, trong các cuộc bạo hành giữa các thành phố, trong sự ích kỷ của cá nhân khi giao tiếp, trong sự nhẫn nại chịu đựng của các cụ già sống cô đơn trong các nhà dưỡng lão, trong sự tuyệt vọng của những người muốn kết liễu cuộc đời. Nếu những giá trị tâm linh không còn ảnh hưởng lên xã hội thì sự tiến bộ vật chất trở thành một bức bình phong che dấu cái hư ảo của cuộc sống. Sống lâu dĩ nhiên là có cơ hội tốt để đem lại một ý nghĩa đẹp cho cuộc đời, nhưng nếu người ta bỏ quên cơ hội đó mà chỉ nghĩ đến một đời sống an nhàn thoải mái, thì cuộc đời không còn ý nghĩa gì nữa. Sự nghiên cứu về việc lão hoá các tế bào dã tiến bộp đáng kể: hiện nay trong các phòng thí nghiệm, người ta có tăng gấp đôi tuổi thọ của các con ruồi và các tuyến trùng (sán lãi). Cũng có khả năng một ngày nào đó người ta có thể tăng gấp đôi gấp ba tuổi thọ con người. Viễn ảnh này lại cho thấy tầm quan trọng của việc cho cuộc dời một ý nghĩa. Nếu không người ta sẽ sống 200 năm mà luonâ bị trầm cảm hoặc 300 năm mà luôn chán đời. Hơn nữa khía cạnh phá hại của những tiến bộ kỹ thuật cũng phát triển song song với khía lợi ích của nó, và trong vài trường hợp còn vượt xa hơn sự hữu ích ví dụ như ôi nhiễm môi trường chẳng hạn.

Jean Francois : Rõ ràng là với kỷ nghệ hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường là không tránh khỏi. Nhưng đồng thời chúng ta cũng đang tìm cachshoas giải nó, điều mà ta không thể làm được trong quá khứ. Thật sự là hiện nay trong xã hội công nghiệp phát triển, người ta luôn luôn tìm cách để chống lại sự ô nhiễm môi trường, đồng thời điều này cũng trở thành một ngành công nghiệp chính.

Matthieu : một sự an ủi mơi nghèo nàn làm sao!

Jean Francois : Trái lại các nước chậm phát triển lại phản đối áp dụng những phương pháp bảo vệ môi trường với lý do là điều này làm chậm đi sự phát triển xứ của họ.

Matthieu : Cái khổ là các nước đó không có phương iện. Họ bị kẹt vào giữa một bên là sự phát triển kỹ nghệ ồ ạt, và mmootj bên là không có khả năng để đối trị các phản tác dụng của công cuộc phát triển đó. Ở Ấn Ðộ và ở Nepal người ta phải sửa đi sửa lại các ô tô hay xe tải phun quá nhiều khói đôi khi hằng 20 năm, trước khi mua được xe mới.

Jean Francois : nhưng Ba muốn trở lại một vấn đề căn bản hơn. Ba nhìn nhận tất cả các chỉ trích về những mặt tiêu cực của nền văn minh công nghiệp. Nó cũng đã từng được phê bình bởi rất nhiều tác giả từ Jean Jacques Rousseau đến Aldous Huxley và bởi cái mà người ta gọi là tinh thần tháng 5, 1968 ở Âu châu hay là phong trào phản văn hoá ở Mỹ trong những năm 60. BA có thể kể thêm một tư tưởng gia ít được biết đến ở Âu châu là ông Jaques Elleil, mà quyển sách "kỹ thuật hay là cuộc đặt cược của thế kỷ" đã được hoan nghênh nồng nhiệt ở Mỹ trong những năm 60 dưới cái tựa đề "Xã hội công nghiệp ". Ông ấy diễn tả những sự chỉ trích mà con vừa nêu lên nữa. Nhưng câu hỏi mà Ba muốn đặt ra với con, vì lẽ con đã thâm nhập cả hai nền văn hoá Ðông Tây, là với phong trào Phật giáo đang bành trướng ở phương Tây, có tể nào phác hoạ ra những nét chính yếu về một sự thoả hiệp theo đó Ðông phương tiếp nhận các giá trị của Tây phương vf ngược lại.

Matthieu : Không nhất thiết là cần phải có một sự thoả hiệp, vì nếu có thoả hiệp thì cả hai nên đều phải có một vài nhượng bộ, nhưng là sử dụng tất cả cái gì tiến bộ trong địa hạt vật chất trong một chừng mực nào đó. Cái lợi ích song phương đó tượng trưng cho "Trung đạo" mà nhà Phật thường lưu tâm đến. Một bác sĩ chỉ có thể phát huy nghề nghiệp của mình nếu được thấm nhuần triết lý cị tha của Phật giáo. Nhưng không nên rơi vào cực đoan là chỉ lo phát triển vật chất, đó là điều mà phương Tây dễ bị mắc phải. Tây phương dễ bị tiện nghi vật chất và sở hữu tài sản cám dỗ. Một tục ngữ Tây Tạn có nói: "Nếu muốn hai điều khi ta đã có một tức là mở cửa địa ngục." Rất đúng là những truyền thống cổ xưa, nhất là Phật giáo, đã đặt ưu tiên cho việc tác động lên chính bản thân hơn là trên thế giới. Có một ví dụ rất thích thú về sự lừa chọn ấy. Vào thế kỷ 19 ở Tây Tạng có một vị đại hiền có dáng vẻ như Leonard De Vinci của Tây phương tên ông ta là Lama Mipham. Người ta đã tìn thấy trong những bản ghi chép của ông ta, những bản vẽ về các loại máy có thể bay được và nhiều phát minh lạ lùng khác. Nhưng rồi sau đó, ông ta đã đốt đi một số bản vẽ, và giải thích rằng tốt hơn là nên để tâm vào việc chuyển hoá nội tâm, còn hơn là nên để tâm vào việc chuyển hoá nội tâm, còn hơn là sử dụng cuộc đời trong những phát minh kỹ nghệ, và chìm đắm vào các lo toan ngoại giới. Ðã từ hai thế kỷ nay, Tây phương thật ra đã dồn mọi nỗ lực để phát minh những kỹ thuật mới ngõ hầu chế ngự và sử dụng thiên nhiên. Ta đã có thể lên mặt trăng và kéo dài tuổi thọ. Cũng trong thưòi kỳ đó và trước đó nhiều thế kỷ nên văn minh Tây Tạng chỉ chú tâm vào thiền định, vào phát triển kỹ năng tìm hiểu hoạt động của tâm thức, và tìm cách thoát khổ. Tây phương đã sản xuất trụ sinh có thể cứu sống mạng người, Tây Tạng thì chú trọng vào việc làm cho cuộc đời thêm ý nghĩa. Lý tưởng của y khoa là giúp cho con người sống đến 100 tuổi hay hơn mà vẫn còn giữ được răng. Còn mục tiêu của đời sống tâm linh là loại khỏi tâm thức mọi dấu vết của kiêu căng, của hận thù, của tham ái v.vv... để trở thành một cá nhân không hề biết làm hại ai. Xã hội Tây phương không đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu tâm thức, vì cho nó là ngoài tầm hiểu biết của con người. Tại sao ta lại không cố gắng kết hợp hai cái nhìn ấy? Không có gì ngăn cấm một nhà hiền trết sử dụng những lợi ích của y khoa, sử dụng máy bay nhưng ông ta không bao giờ đặt những tiện nghi vật chất ấy ngang tầm với đời sống tâm linh của ông ta. Ta có thể kết hợp tâm linh với lợi ích nhất thời một cách thông minh, xây dựng, với điều kiện là luôn luôn ý thức về tâm thức về mức quan trọng của mỗi bên.

Jean Francois : Vậy theo con có thể kết hợp được hau quan điểm trên với một sự khoan dung hỗ tương. Theo con có khả năng là các Phật tử Tây phương, Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam hiện đang sinh sống ở phương Tây không thể đơn thuần được xem như một thị tộc được kính nể nhưng hơi xa cách, và họ đang giúp vào việc cải tạo dù là rất chậm và khó nhận thấy cái quan niệm sống và phong cách của xã hội Tây phương dẫu rằng nơi đây không hề từ bỏ cái nếp sống của họ đã có từ 2500 năm nay.

Matthieu : Tại sao không? Tất cả tùy thuộc vào việc Tây phương chú ý đến những nguyên tắc Phật giáo, những tư tưởng Phật giáo có thể lấp bằng một khoảng trông chơ không hẳn là văn hoá Phật giáo. Thế giới Tây phương không cần đến những cây kèn Tây Tạng dài hàng 5 thước, dù cho chúng có lập dị đến đâu. Trái lại, Tây phương cần đến tri kiến giúp cho thoát khổ.

Jean Francois : Ý con là muốn trở thành Phật tử, người ta không bị bắt buộc phải chấp nhận cái bối cảnh đã sản sinh ra Phật giáo, và nhờ đó nó đã có thể phát triển ở Ðông phương.

Matthieu : Con muốn nói là cốt tủ của Phật giáo không chỉ dành riêng cho Phật tử mà là của cả thế giới vì nó đề cập đến các động cơ căn bản của trí tuệ con người. Phật giáo chủ trương rằng mỗi con người phải tự nhận thức về chính bản thân mình, và tìm ra những phương pháp thích hợp để đi trên con đường Ðạo. Sự uyển chuyển đó cộng với sự phong phú của cá phương pháp rất có ích cho Tây phương và không vì đó mà Phật giáo mất đi những giá trị căn bản của mình. Cũng không phải là tìm cách thích nghi những lời dạy của Phật giáo, mà chủ yếu là chỉ ra cốt tuyer của Phật giáo có thể đáp ứng được những đòi hởi tâm linh sâu xa của mọi con người, ở mọi nơi.

Jean Francois : Theo conn, sự kiện Phật giáo được chú ý ở phương Tây sẽ không phải là một sự thịnh hành nhất thời, mà có thể chuyển hoá cái nhìn chung của phương Tây đối với cuộc sống.

Matthieu : Khác với sự thịnh hành nhất thời, theo con thấy Tây phương sẽ có một nhận thức sáng suốt hơn về cuộc sống. Phật giáo rất thích hợp với những khác vọng tâm linh của con người. Vậy là thái độ chung của con người phương Tây dành mọi ưu tiên cho cái "được" hơn là cái "bị", một thái độ không lành mạnh mấy mà Phật giáo có khả năng thay đổi được. Như vậy vấn đề là thay đổi thang giá trị, và dành ưu tiên cho hạnh phúc nội tại.

Jean Francois : Cũng nên đặt một vấn đề khác với tầm nhìn hạn cuộc hơn: đó là sự đối mặt của Phật giáo với những tôn giáo khác ở Tây phương, Cơ đốc giáo với bao nhiêu là nhánh nhóc gồm cả chính thống giáo, nếu một ngày nào đó những quốc gia theo chính thống giáo tiếp cận với Phật giáo.

Matthieu : Việc này đã được làm từ lâu, thời Xô viết cũ, thời đó những người Bouriates và người Mông cổ Phật tử thường xuyên liên lạc với người Xô viết chính thống.

Jean Francois : Có cả Do thái giáo và Hồi giáo, vì Hồi giáo trong một chừng mực nào đó dã trở thành một trong các tôn giáo chính ở Tây phương. Ở Pháp, Hồi giáo đã trở thành một trong các tôn giáo thứ hai trong nước. Có nhiều tín đồ Hồi giáo hơn là Tin lành và Do thái giáo. Cá nhân Ba, Ba đặt câu hỏi này chỉ vì lý do tò mò về văn hoá. Vì lẽ Phật giáo khác với các tôn giáo Tây phương, không nhìn nhận sự kiện hiện hữu của một linh hồn bất diệt. Cũng không tin là có Thượng đế để gửi gắm những lời cầu nguyện mong ước được giúp đỡ trong đời này và cả trong đời sau. Vậy thì có thể có rủi ro xảy ra xung đột hay ít ra là một sự tranh đua giữa trào lưu Phật giáo và đại diện những tôn giáo lớn khác.

Matthieu : Sự tranh đua đó không có lý do xảy ra vì lẽ muốn có tiếng kêu phải vỗ với hai bàn tay. Vậy là nếu một phía không muốn tranh đua thì việc này tự nó sẽ chấm dứt.

Jean Francois : Chưa chắc, vì lẽ các tôn giáo khác có thể có phản ứng thù địch và nghi ngờ dù cho Phật giáo không có ý khuếch trương ảnh hưởng của mình.

Matthieu : Tất cả đều phụ thuộc vào sự cởi mở các tín đồ các tôn giáo khác. Phật giáo không hề có ý cải đạo bất cứ một ai. Sự kiện càng ngày có nhiều người Tây phương có cảm tình với Phật giáo khiến một số người khó chịu, nhưng rủi ro xung đột rất nhỏ vì lẽ Phật tử luôn luôn cố gắng tránh mọi sự hiểu lầm, mọi sự va chạm và thường phát khởi sự tương kính lẫn nhau. Con có may mắn được vào tu viện Grande Chartreuse với Ðức Ðạt Lai Lạt Ma. Người ta cho chúng tôi biết chỉ khoảng 20 người được phép vào tu viện, trừ những tu sí, từ khi được thành lập vào thế kỷ 11. Trên chuyến xe lửa tốc hành đưa chúng tôi đến Grenoble nơi chúng tôi sẽ dự một cuộc hội thảo khoa học và Ðức Ðạt Lai Lạt Ma sẽ thuyết giảng ở Ðại học, con đã lưu ý Ðức ngài là sau rặng núi mà chúng tôi đi qua, có những tu sĩ sống ẩn cư khổ hạnh. Ðiều này đã làm Ðức Ðạt Lai Lạt Ma lưu tâm, và ngài đã nhờ viên thị trưởng Grenoble thu xếp để viếng đến tu viện và cha bề trên rất vui lòng tiếp Ðức đạt Lai Lạt Ma nếu không có những sự phô trương rầm rộ. Ðể tránh các nhà báo, viên thị trưởng Grenoble giả vờ tổ chức một buổi ăn trưa tại tư dinh rồi thay gì đến nhà viên thị trưởng chúng tôi lên một chiếc trực thăng đưa chúng tôi đức Ðạt Lai Lạt Ma, một vị tu sĩ và con - với tư cách là thông dịch viên - vào trong núi cách tu viện vài trăm thước. Cha bề trên là một vị tu sĩ đợi chúng tôi ngoài cổng. Trong một giờ qua đi rất nhanh chúng tôi đã cùng nhau đàm thoại trong một căn phòng nhỏ. Ðề tài câu chuyện hoàn toàn nói về thiền định, về cách mà các tu sĩ sống ẩn cư ở Chartreuse cũng như ở Tây Tạng , về giờ giấc cầu kinh của họ, về điều phải làm khi một tu sĩ qua đời, là cách thế khi cầu nguyện biến thành toạ thiền v.v... Họ nhận ra rằng các hình thái của cuộc sống ẩn cư rất giống nhau. Và cha bề trên đã nói đùa rằng: "Nếu những thiền giã Cơ đốc và Tây Tạng đã có dịp tiếp cận nhau từ hơn môït ngàn năm nay thì chắc chắn họ đã được ban phước lành từ Thượng đế. " Ðó là một cuộc gặp gỡ vui vẻ và nhiều ấn tượng. Sau đó Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã xin phét được thiền định trong tiểu giáo đường và chúng tôi đã ở đó 15phút. Sau đó ngài đã ngắm nhìn quyễn sách chỉ Giờ được trang trí bằng những dòng nhạc thật đẹp, rồi ngài xin phép ra về. Những ngày sau đó, ngài nói với tôi rằng cuộc viếng thăm vừa qua là giây phút thú vị nhất trong thời gian ngài lưu trú trên đất Pháp. Giữa những hành giả không hề có sự ngăn cách nào. Họ rất cảm thông nhau. Vì thế con cho rằng chỉ có những kẻ không quan tâm đến việc thiền định và có quan điểm bè phái thì việc va chạm mới có thể xảy ra.

Jean Francois : Rất thú vị và rất phấn khởi về câu chuyện đi thăm tu viên Grade Chartreuse. Tuy nhiên muốn loại hẳn đầu óc bè phái, ngoài các giới tu hành ra, là một việc vô cùng khó khăn. Ba hy vọng là có sẽ thành công.

Matthieu : Ở mỗi nơi mà Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đến thăm ngài thường nhờ các nhà tổ chức mời các đại diện của các tôn giáo địa phương. Ở Pháp khi chúng tôi đến Grenoble, Marseylle hay Toulouse, những nhân vật đầu tiên mà chúng tôi gặp là vị thị trưởng cùng với một ông giám mục, một giáo sĩ Do thái giáo hoặc Hồi giáo hoặc Chính thống giáo. Lập tức Ðức Ðạt Lai Lạt Ma nắm tay họ và không khí lạnh nhạt bổng tan biến đi, và ngài nghĩ là cái hố ngăn cách các tôn giáo là do sự thiếu thông cảm.

Jean Francois : Có phần lạc quan đấy, tuy là cử chỉ của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma rất đáng ca ngợi. Nhưng rủi thay các tôn giáo và cả các triết lý, trong lịch sử nhân loại thường biểu lộ tính cách bè phái hơn là sự trao đổi quan điểm và sự khoan nhượng lẫn nhau.

Matthieu : Ðây là một sự hiểu biết có phần thiển cận về các tôn giáo đã sử dụng dân tộc của mình trong các công cuộc áp bức và chinh phục.

Ðấng Christ cũng không thuyết giảng gì hơn ngoài tình yêu đồng loại. Riêng con, con nghĩ là chưa chắc ngài đã tán thành những cuộc thập tự chinh và những chiến tranh tôn giáo. Còn đối với những kẻ chủ trương đàn áp và giết hại những người ngoại đạo thời Trugn cổ, làm sao họ có thể tự cho mình là tín đồ Cơ đốc giáo chứ?

Jean Francois : Nhưng còn một câu hỏi mà con chưa trả lời Ba. Việc viếng thăm tu viện Grande Chartreuse đã chỉ cho Ba thấy rằng, lý tưởng của đạo Phật là đời sống của tu viện. Chưa hẳn là đời sống khổ hạnh bởi vì theo Ba hiểu, đời sống khổ hạnh là một đời sống lang thang, phải thế không?

Matthieu : Một tu sĩ, trong thế giới Tây Tạng là một kẻ đã từ bỏ thế gian và đời sống gia đình. Kẻ ấy đã từ chỗ có một mái nhà trở thành không nhà. Nhưng những tu viện là những cộng đồng rộng mở. Những người ngoại đạo thường lui tới rất đông để gặp những vị đạo sư và nghe lời giáo huấn của họ. Trái lại, một vị ẩn tu thường dành cả cuộc đời mình cho thiền định và sống một mình hoặc cùng một bạn nhỏ, ở những nơi hẻo lánh sâu trong núi hoặc trong rừng. Dù có là tu sĩ hay không, một vị ẩn tu thường phát nguyện sẽ ở như vậy trong ba năm, năm năm hay hơn nữa, không gặp gỡ một ai, ngoại trừ những người cùng sống chung với mình. Cũng có vài vị ẩn tu đi từ chỗ ẩn này đến nơi ẩn khác, không hề có một nơi ở nhất định.

Jean Francois : Vậy thì dù là đời sống ở tu viện hay là đời sống ẩn cư, dường như qua vài cuốn sách Phật giáo mà Ba biết hoặc là trải qua những chuyến du hành nhờ con giúp đỡ ở Darrjeeling, ở Bhoutan và ở Nepal này cũng như những chuyến đi Nhật Bản, đời sống tu viện hay đời sống ẩn cư sau rốt là lý tưởng của Phật giáo. Ðiều này có hạn chế cái khả năng hoà nhập của Phật giáo vào những nền văn minh khác, như của chúng ta chẳng hạn căn bản là phàm tục. Và như vậy Phật giáo phải chăng là một hiện tượng có thiên chức là đứng ngoài lề hay không?

Matthieu : Sự lựa chọn đời sống tu viện hay ẩn tu là dấu hiệu của một tâm thức hướng về đời sống tinh thần. Khi con phát nguyện tu hành, con cảm thấy hoàn toàn tự do: con có thể dành mỗi phút giây cuộc đời mình để làm điều con mong ước. Nhưng có rất nhiều thang bực giữa một cuộc sống từ bỏ thế gian và một cuộc sống bình thường theo kiểu Tây phương. Những tư tưởng Phật giáo thấm nhuần tâm hồn chúng ta và đem lại nhiều lợi ích mà không cần phải chối bỏ những hoạt động của chúng ta. Ðời sống ở tu viện rất phát triển ở Tây Tạng, và có đến 20% dân chúng thọ giới xuất gia. Con đồng ý là không thể chờ đợi điều này xảy ra ở phương Tây, nhưng con không thể chờ đợi điều này xảy ra ở Tây phương, nhưng con không nghĩ nó sẽ cản trở việc tìm hiểu Phật giáo ở đất Nguyễn chúng ta. Ta có thể có một đời sống tâm linh thật phong phú, và chỉ cần dành vài phút hoặc một giờ vào công việc thiền định.

Jean Francois : Làm thế nào để hoà hợp việc thiền định với công việc hàng ngày?

Matthieu : Ta cần phải phân biệt thiền định và hậu thiền định. Thiền định không phải đơn thuần là ngồi yên vài phút để có một sự thanh thản nội tại. Ðây là cả một cuộc phân tích và trầm tư giúp ta hiểu được bản thể và sự vận hành của tâm thức, nắm bắt được cơ chế hiện hữu của sự vật. Cái gọi là hậu thiền định là cố tránh đừng lập lại các thói quen từ trước. Nó gồm có việc sử dụng nhận thức có được qua thiền định vào cuộc sống hàng ngày để đạt đến một tâm trí cởi mở bao dung hơn, nhân hậu và kiên nhẫn hơn, tóm lại là để trở thành một người tốt. Ðấy là điều đã xảy ra trong cộng đồng thế tục Tây Tạng đã sống hoà hợp với cộng đồng trong các tu viện và với các đạo sư. Nhờ thế họ sống tốt hơn trong đời sống thường nhật.

Jean Francois : Nhưng các triết lý cũng như các tôn giáo Tây phương cũng cho ta cơ hội, mặc dù vướng bận trong công việc, để sống tốt hơn dựa vào triết lý hay tôn giáo. Có biết bao tu sĩ đã là chính khách, là văn sĩ, nghệ sĩ, triết gia, khoa học gia ngoài tôn giáo của họ. Palton đã trở thành một ông vua triết gia để điều hành tốt hơn công việc trị quốc. Nếu phật giáo cho rằng cuộc đời là mộng ảo, là một chuỗi hình ảnh không có thực, cũng như không có một cái tôi, thì làm chủ xí nghiệp, làm chính khách, làm khoa học gia phỏng có ích lợi gì? Vì như vậy là một tòng phạm của một ảo tưởng dối trá.

Matthieu : Ðối với một vị ẩn tu, thật ra những hoạt động trong đời sống không có một ý nghĩa nào và giống như một trò chơi của trẻ con. Tuy nhiên ở đây con muốn xác định cái nghĩa của từ " Aûo tưởng" theo Phật giáo có vẻ hơi khó hiểu đối với người Tây phương. Ðối với chúng ta đang sống trong cái ảo tưởng đó, thì thế gian rõ ràng là thật như nó đang hiện hữu. Nhưng cũng như nước đá cũng chỉ là nước đông đặc, cái chắc thật mà ta gán cho thế gian cũng không phải là thực tại tối hậu của nó. Dù cho cuộc đời có là ảo mộng đi chăng nữa, thì luật nhân quả cũng không tránh được. Những nhà vật lý học cũng cho rằng những điện tử không phải là những viên đạn nhỏ mà là sự tập trung năng lượng. Ðiều khẳng định này cũng không làm mất đi sự cần thiết phải phát triển y khoa, phải làm dịu nỗi đau của con người và phải giải quyết các khó khăn của cuộc sống. Dù" cái tôi" là một sự lừa gạt và dù cho thế giới không phải gồm có những thực thể có tự tánh, thì cũng phải cố gắng làm nhẹ đi những đau khổ và đem đến sự thoải mái dể chịu. Cũng như dù nhà bác học biết rằng chúng ta được tạo nên bởi các hạt nhỏ có năng lượng, ông cũng không vì thế mà thờ ơ được với hạnh phúc đau khổ.

Jean Francois : Một lần nữa Ba lại thấy sự tư tưởng của thuyết này với thuyết này với thuyết này với thuyết của Kant. Ðó là hiện tượng không có thực thể, nhưng nó vẫn hiện hữu. Con đã trả lời câu hỏi của Ba. Bây giờ Ba muốn hỏi một câu sau cùng, một câu hỏi cổ điển tuy có phần hợp lý của các nhà bình luận vf cá nhà sử học về Phật giáo. Nếu cái tôi không có thật, thì ảnh hưởng của nó trên thực tế cũng hư ảo nốt, như thế thì cái trách nhiệm đạo đức sẽ như thế nào? Từ đso theo Ba có thể có một sự mầu nhiệm đạo đức sẽ như thế nào? Từ đó theo Ba có thể có một sự mâu thuẫn giữa một bên là Phật giáo siêu hình.

Matthieu : Sự hành trì Phật pháp dựa vào Ba khía cạnh bổ túc cho nhau: cái thấy biết, sự trầm tư và hành động. Cái tháy liên quan đến khía cạnh siêu hình, sự khám phá ra bản thể tối hậu của sư vật, của thế giới hiện tượng và của tinh thần. Một khi cái thấy biết đã được thiết lập vững chắc, sự trầm tư giúp cho quen dần với sự thấy biết đó. Ðưa đến sự quán tưởng thường xuyên khiến cho sự thấy biết ban đầu trở thành một thói quen của tâm thức. Sau cùng hành động là biểu hiện sự thấy biết nội tâm qua hai gisai đoạn kể trên và áp dụng nó trong mọi hoàn cảnh, khi ấy thì đạo đức hay luân lý vào cuộc. Cái đạo đức ấy không trở thành lạc hậu khi ta đã thấy ra được thế gian là hư ảo. Người đã mở ra con mắt trí huệ sẽ thấy rõ ràng các cơ chế của luật nhân quả, và tự biết sẽ phải lấy hay bỏ điều gì ngõ hầu tiến bộ trên con đường đạo và đem lại hạnh phúc cho kẻ khác.

Jean Francois : Xin lỗi, nếu tôi không phải là tôi, thì tôi cũng không thẻ là một nhân vật đạo đức. Mà đã không phải là một nhân vật đạo đức thì làm thế nào tôi phải có trách nhiệm vè việc tôi làm hại kẻ khác?

Matthieu : Ðể chuyển đổi tư tưởng của Kant mà Ba vừa nêu ra, ta có thể nói như thế này: "Cái tôi không có tự tánh, tuy nhiên nó vẫn hiện hữu." Chúng ta đã so sánh trước đây dòng tâm thức không có cái tôi như một con sông không có thuyền. Như vậy không có một cái tôi chắc thật và trường cửu có thể đi lại như một chiếc thuyền trên sông. Ðiều này cũng không ngăn cản nước sông có thể nhiễm độc bởi thuỷ ngân hay vãn trong lành, giải khát tốt như một giòng suối tron núi. Như vậy dù không xác định được nhân thân của một con người, nhưng kẻ ấy vẫn phải nhận lãnh hậu quả của việc làm của mình .

Jean Francois : Ðúng, nhưng hãy coi chừng! Trách nhiệm đạo đức sẽ không xảy ra ngay khi có sự liên quan giữa người hành động và hậu quả việc làm của hắn mà điều này thì hắn có thể tránh được. Ðó là giây phút mà người hành động có thể chọn lừa trước khi quyết định.

Matthieu : Vào giây phút quyết định, giòng tân thức giúp ta chọn lừa hành động với những hậu quả tốt hay xấu của nó. Triết lý Ấn Ðộ đã đưa ra một luận cứ tương tự như của Ba và đối nghịch với Phật giáo: "Nếu không có cái tôi thì người gánh chị hậu quả của hành động mình, không phải là kẻ đã gây ra hành động đó." Vậy thì làm điều thiện và tránh điều ác để làm gì? Và với điều này Phật giáo đã trả lời bằng một ngụ ý: Một người làm rơi một ngọn đuốc từ trên sân thượng nơi ông ta đang ăn tối. Ngọn lửa thiêu cháy căn nhà của ông và lan rộng ra cả làng. Bị kết tội ông ta đã trả lợi các quan toà: "Ánh sáng mà ngọn lửa đã giúp tôi ăn tối, không phải là ngọn lửa đã thiêu rụi cả làng." Nhưng dù sao ông ta cũng là kẻ có tội. Vậy thì, dù không có một cái tôi được xem nhe một thực thể độc lập, chúng ta có mặt ở thế gian này là do nghiệp của quá khứ: rõ ràng có một sự thưởng phạt công minh về những hành động của chúng ta. Ðiểm quan trọng là sự liên tục, không phải là nhân dạng. Một hành động tieu cực sẽ không đem lại hạnh phúc cũng như một hàu của loại độc cần (cigue) không thể cho ta Nguyễn tra được. Do vậy sự kiện một hành động tích cực hoặc tiêu cực đều có một hiệu quả tương ứng là hạnh phúc hay đau khổ biện minh cho việc ta thực hiện, hay tránh đi hành động đó, dù cho là ta hiểu kẻ đã gây ra hành động đó không có một "cái tôi" trường cửu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#goodyear