Charlie Bone 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHUYỆN MỞ ĐẦU BẰNG...

Vua Đỏ cùng hoàng hậu đang cưỡi ngựa bên bờ biển. Ấy là thời điểm trong năm mà gió lại cuốn theo chút hơi sương. Những đám mây chiều bắt đầu hiện ra; và nơi nào mặt trời tìm được đường len qua màn sương dày, thì nơi ấy nó rắc xuống mặt biển những chùm tia sáng lấp lánh.

Vua và hoàng hậu thúc ngựa quay về, nhưng bất thình lình, hoàng hậu bỗng ghìm cương lại, ngồi bất động trên yên ngựa, nhìn trân trân qua khắp mặt nước. Nhà vua, dõi theo ánh mắt bà, liền chú ý thấy một hòn đảo đẹp mê hồn. Nằm gọn trong vầng sáng mặt trời, nó rực lên hàng ngàn mảng biếc xanh da trời.

"Ôi!" Hoàng hậu thở dài, với giọng sợ hãi. "Chuyện gì vậy, ái khanh?" Nhà vua bèn hỏi.

Trong những vấn đề liên quan đến con cái, linh cảm của hoàng hậu thường sắc bén hơn trực cảm của nhà vua. Và khi trông thấy hòn đảo toả sáng hàng ngàn dải màu xanh da trời, bà cảm thấy như có một bàn tay băng giá bóp chặt lấy tim mình. "Các con," giọng bà gần như một tiếng thì thầm.

Nhà vua hỏi vợ xem đứa nào trong chín đứa con của họ khiến bà lo lắng, nhưng hoàng hậu không trả lời được. Thế nhưng, khi họ trở về Lâu đài Đỏ và hoàng hậu trông thấy hai người con trai, Borlath và Amadis, bà liền cảm

nhận ngay có điềm gở khủng khíêp. Bà nhìn thấy khói đen nổi lên từ hòn đảo xanh da trời kia, và lửa cháy biến đất đá thành tro bụi. Bà thấy một lâu đài thủy tinh sáng loá hiện ra giữa một cơn bão tuyết; và khi nội nhãn của bà đảo khắp các bức tường thủy tinh của toà lâu đài, bà trông thấy một thanh niên tóc trắng như tuyết đang leo lên khỏi một cái giếng. Anh ta nhắm chặt mắt cho khỏi thấy sự chết chóc đang vây bủa xung quanh

mình.

"Chúng ta tuyệt đối không bao giờ được cho các con mình trông thấy hòn đảo ấy," hoàng hậu nói với nhà vua, "Chúng ta tuyệt đối không được để cho chúng đặt chân lên mảnh đất xanh da trời bị ếm bùa ấy."

Nhà vua hứa sẽ làm theo. Nhưng chưa đầy một năm sau, hoàng hậu qua đời, và nhà vua, chìm đắm trong đau thương, đã rời bỏ lâu đài và các con của mình. Hoàng hậu mất chín ngày sau khi hạ sinh người con thứ mười của bà, một bé gái tên là Amoret. Một bé gái mà không ai có thể bảo vệ được.

CÁI HẮT HƠI CHẾT NGƯỜI

Nằm ở ngoại vi thành phố, Học viện Bloor đứng sừng sững và im lìm dưới bầu trời đầy sao. Ngày mai, ba trăm đứa trẻ sẽ leo lên những bậc thang giữa hai toà tháp, băng qua mảnh sân gạch, và chen nhau đi qua cánh cửa đôi to lớn bằng gỗ sồi. Nhưng vào lúc này, toà nhà cổ ấy đang hoang vắng tựa như sa mạc.

Nhưng cũng không hẳn thế, nếu qúy vị đứng ở trong khu vườn, nơi đầu đằng kia của học viện, thì qúy vị sẽ không thể không nhận thấy những đốm sáng lạ lùng, thỉnh thoảng lập loè từ những cửa sổ nhỏ trên mái nhà. Và nếu qúy vị có thể nhìn qua được một trong những cửa sổ ấy, hẳn qúy vị sẽ trông thấy Ezekiel Bloor, một lão già khú khụ, đang thành thục đẩy chiếc xe lăn xửa xưa của lão vào một căn phàng quái dị.

Phòng thí nghiệm, như lão Ezekiel thích gọi như thế, là một căn phòng áp mái dài, với những miếng ván lót sàn rộng, bám đầy bụi, và một mái trần lòi hết cả rui nhà. Những chiếc bàn đủ kiểu - chất đầy chai lọ, sách vở, thảo mộc, xương và vũ khí - dựng tựa vào các bức tường; trong khi ở dưới những gầm bàn, một đống ngăn kéo bẩn thỉu thòi ra, xộc xệch, đe doạ sẽ ngáng ngã bất cứ ai đi ngang.

Những nhánh cây thân thảo khô và phai màu thòng xuống từ rui nhà, và những mảnh áo giáp, treo lơ lửng trên

những thanh xà ngang to bự, khua xủng xoảng thật ghê rợn mỗi khi có một làn gió quét qua. Lúc này, chúng

đang kêu xủng xoảng khi lão Ezekiel Bloor di chuyển qua sàn nhà.

Thằng chắt đích tôn của lão già, Manfred, đang đứng bên cạnh một chiếc bộ ngựa kê ở ngay chính giữa căn phòng. Qua một kì hè, Manfred đã lớn bộn, và lão Ezekiel cảm thấy tự hào rằng thằng chắt của lão đã chọn làm việc chung với lão, chứ không học lên tiếp đại học như những cựu học sinh năm thứ sáu khác. Nên nhớ là, tuy cao đấy, nhưng Manfred lại có một bộ vó gầy guộc, da vàng ệch, nổi đốm, và một gương mặt lồi hết cả xương

và hóp tọp.

Vào khoảnh khắc này, mặt Manfred nhăn xoắn lại, tập trung cao độ khi hắn bày một đống xương ra bàn, ngay trước mặt. Phía trên đầu hắn, treo đung đưa bảy ngọn đèn khí được gá vô một vòng sắt, ánh sáng xanh lét của chúng phụt ra tiếng rù rù yếu ớt. Khi trông thấy ông cố, Manfred buông một tiếng thở dài tức tối và rồ lên,

"Quá sức tôi rồi. Tôi ghét mấy trò đố mẹo."

"Đó không phải là đố mẹo," lão Ezekiel quặc lại. "Mà là xương của Hamaran, một con ngựa chiến có sức mạnh

và lòng can đảm phi thường.

"Thế thì sao? Làm sao mà dăm ba cục xương vô tích sự này có thể làm sống lại tổ tiên của ông cố chớ?"

Manfred phóng thẳng một tia nhìn khinh miệt vào lão Ezekiel, lão già vội cụp mắt xuống ngay lập tức. Lão

không muốn bị chính thằng chắt của mình thôi miên.

Dán chặt mắt vô đống xương, lão già đẩy xe lăn đến gần bàn hơn. Lão Ezekiel Bloor đã một trăm lẻ một tuổi, nhưng những người khác ở vào độ tuổi ấy có lẽ trông vẫn còn da thịt hơn lão nhiều. Đằng này, mặt của lão Ezekiel chỉ khá hơn cái đầu lâu một chút. Mớ răng còn sót lại của lão đều mẻ sứt và đen xỉn cả, và một vài nhúm tóc trắng, thưa rỉnh ló ra dưới chiếc mũ trùm đầu bằng vải nhung đen. Tuy nhiên, đôi mắt lão vẫn phừng phực sức sống - đen và trợn quắc lên, phóng ra những tia dữ tợn cực độ.

"Chúng ta có đủ rồi," lão già vừa nói vừa chỉ những món đồ khác trên bàn: bộ áo giáp có xích sắt, chiếc mũ

giáp, cái áo chùng lông thú màu đen, và chiếc ghim kẹp áo thụng bằng vàng."Chúng là của ngài Borlath đấy.

Ông nội của ta đã tìm thấy chúng trong lâu đài này, tất cả được bọc bằng da, bên trong ngôi mộ. Khung xương không còn nữa, thật đáng tiếc. Chắc chắn là tại lũ chuột," lão ta vuốt vuốt chiếc áo lông thú đen với vẻ gần như

là âu yếm.

Borlath là thần tượng của lão Ezekiel ngay từ khi lão còn là một cậu bé. Những câu chuyện về bậc tổ tiên hiếu

chiến ấy đã dần hun đúc trí tưởng tượng của lão, cho đến mức lão tin rằng ngài Borlath có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho mình.Dạo gần đây, lão hay mơ thấy ngài Borlath xốc lão ra khỏi xe lăn và cả hai cùng

nhau khủng bố thành phố. Rồi đây Charlie Bone và Ông cậu đáng ghét của nó phải coi chừng.

"Thế còn nguồn điện, ông cố biết đấy, cho lúc sống lại thì tính sao đây? Ở đây chẳng có tí điện nào," Manfred

ngước nhìn lên mớ đèn khí.

"Ô, cái đó!" Ezekiel phẩy tay ra điều không có gì quan trọng. Lão tự xoay bánh xe tới một chiếc bàn khác và lấy một hộp thiếc nhỏ có hai cái ngạnh chĩa từ nắp chĩa ra. Lão vặn cái núm ở bên hông hộp và một tia lửa xanh da

trời xẹt ra giữa hai cái ngạnh.

"Ối chà! Điện!" Lão sung sướng thông báo. "Nào, tiếp tục đi. Ngày mai tụi nhóc sẽ trở lại đây, và chúng ta không muốn bất kỳ đứa nào xộc vô cuộc thí nghiệm nho nhỏ này của chúng ta đâu."

"Đặc biệt là thằng Charlie Bone," Manfred gầm gừ.

"Hừ! Charlie Bone!" Lão Ezekiel thiếu điều là khạc ra cái tên đó. "Bà nội nó nói nó sẽ là đứa có ích, nhưng ngược lại thì có. Ta tưởng ta sắp dụ được nó về phe mình hồi học kỳ vừa qua rồi chứ, vậy mà rồi nó lại nhai nhải về thằng cha biệt dạng của nó và đổ lỗi cho ta."

"Nó nói cũng đâu có sai," Manfred nói, gần như chỉ với riêng mình.

"Nghĩ coi bọn ta có thể làm gì với tài phép của nó," lão Ezekiel tiếp tục. "Nó ngó vô một bức tranh và đùng một cái, nó đã ở trong đó, nói chuyện với người chết từ tám hoánh. Đừng hòng mà tao cho phép..." Lão Ezekiel lắc lắc đầu. "Nó mang dòng máu của cái gã phù thủy xứ Gan cô hồn thất **** đó. Và cây gậy phép nữa."

"Tôi có kế hoạch cho vụ đó rồi," Manfred nói khẽ."Chẳng bao lâu nữa nó sẽ thuộc về tôi cho coi, ông cố cứ chờ

xem."

"Thật hả?" Lão Ezekiel cười khùng khục. Lão bắt đầu lăn xe đi trong khi thằng chắt tập trung vô công việc gắn

xương tỉ mỉ.

Khi lão Ezekiel dịch tới mảng tối mù ở cuối căn phòng, ý nghĩ của lão bỗng chuyển sang Billy Raven, thằng bé mồ côi tóc trắng, bị lợi dụng làm gián điệp theo dõi Charlie Bone. Billy gần đây đã trở nên nổi loạn, bất trị. Nó không chịu hé cho lão Ezekiel biết Charlie và lũ bạn đang mưu tính gì. Hậu qủa, lão Ezekiel và gia đình Bloor có nguy cơ không kiểm soát được những đứa trẻ có phép thuật trong trường. Cần phải làm điều gì đó ngay.

"Ba mẹ," lão Ezekiel bật nói một mình. "Cần phải làm sao cho Billy được nhận làm con nuôi. Ta đã hứa tìm ba mẹ cho thằng nhóc mồ côi đó mà chưa bao giờ thực hiện. Nó đã từ bỏ ta. Hừ, Billy sẽ có ba mẹ tử tế, tốt bụng."

"Đừng quá tử tế," Manfred nói, nãy giờ hắn đã nghe lỏm.

"Sợ gì. Ta biết một cặp rồi. Ta không hiểu tại sao trước đây lại không nghĩ đến chúng nhỉ," lão Ezekiel quay đầu lại, ngóng đợi. "A, bọn này sắp có tiếp viện kìa."

Có tiếng những bước chân lộp cộp từ xa; vài giây sau, cửa mở và ba phụ nữ ùa vô phòng. Người đầu tiên già nhất. Mái tóc xám xịt của bà ta được búi chót vót trên đỉnh đầu như một củ hành khổng lồ, quần áo của bà ta

đen và mắt bà ta cũng đen như thế. Bà Lucretia Yewbeam là giám thị trong trường và là bà cô của Charlie Bone."Tôi đem mấy bà em của tôi tới đây," bà ta nói với lão Ezekiel. "Ngài nói là ngài cần sự trợ giúp."

"Thế người thứ tư đâu?" Lão Ezekiel hỏi."Bà Grizelda đâu?"

"Lúc này nên để bà ấy tránh xa mọi chuyện là tốt nhất," bà Eustacia, người em thứ hai nói. "Nói cho cùng, bà ấy phải sống với thằng em thổ tả của chúng tôi... và thằng oắt đó. Bà ấy có thể vô tình... làm lộ bí mật, tất

nhiên rồi."

Bà Eustacia, một nhà tiên tri, bước lại gần cái bàn. Mái tóc xám của bà ta vẫn còn vài sợi đen, nhưng phần lớn các đặc điểm còn lại thì bà ta giống hệt bà chị kế của mình. Đôi mắt hí rị của bà ta lia khắp các đồ vật trên bàn và bà ta nhếch một nụ cười gian xảo." Ra là lão đang mưu tính với đống đồ này, đồ quỷ già. Người ấy là ai vậy?"

"Tổ tiên của ta, ngài Borlath," lão Ezekiel đáp. "Người vĩ đại nhất trong tất cả những người con của Vua Đỏ. Oai phong nhất, mạnh mẽ nhất và thông thái nhất."

"Ghê tởm nhất và khát máu nhất thì chính xác hơn," bà em thứ ba vừa nói vừa dộng một cái túi da to xụ lên bàn. Mái tóc bết bệt của bà ta xõa xuống vai thành từng dải màu nhọ nồi và những quầng thâm viền quanh đôi mắt đen như than. So với mấy bà chị thì bà ta trông thật luộm thuộm. Áo khoác to quá khổ, và áo cánh xam xám bên trong trông cấp thiết phải được giặt ngay. Chắc chắn không ai đoán được cái sinh vật ăn mặc lôi thôi lếch thếch này đã từng là một quý bà kiêu hãnh và chưng diện không chê vào đâu được.

"Venetia lâu nay vẫn mong chờ có cái gì đó như thế này," bà Eustacia nói." Từ khi thằng Charlie Bone chết tiệt

đó thiêu trụi nhà cô ấy."

"Tôi tưởng em trai của các bà làm điều đó chứ," Manfred chen vô.

"Phải," bà Venetia rít lên," nhưng Charlie phải chịu trách nhiệm, đồ sâu bọ nhãi nhép. Ta muốn nó phải ú ớ vì sợ hãi, phải bị dằn vặt, khổ sở... và chết."

"Bình tĩnh, Venetia," lão Ezekiel lăn lẹ đến cạnh bà ta." Bọn ta không muốn mất hẳn thằng bé mà."

"Chi vậy? Nó thì được cái tích sự gì? Ông có tưởng tượng được việc mất tất cả là gì không? Có biết đứng ngó cơ nghiệp của ông - thành qủa của đời ông - tan thành mây khói thì thế nào không?"

Lão Ezekiel vụt mạnh cây ba toong của lão vô bàn.

"Đừng xúc động thế, bà kia. Thằng Charlie này có thể xài được. Tôi có thể ép nó phải đem tôi về lại quá khứ.

Tôi có thể thay đổi lịch sử. Nghĩ coi!"

"Ông không thể thay đổi lịch sử, ông cố à," Manfred nói huỵch toẹt.

"Sao mày biết?" Lão Ezekiel sủa. "Chưa ai thử cả."

Kéo theo sau là một sự im lặng ngột ngạt. Không ai dám xa gần nói rằng việc đó đã có người thử biết bao lần rồi, mà không thành công. Bà cô Venetia cắn môi, vẫn nung nấu chuyệ trả thù. Bà ta có thể chờ, nhưng một ngày nào đó bà sẽ tìm ra cách trừ khử Charlie Bone - trừ khử vĩnh viễn.

Bà Lucretia phá tan sự im lặng bằng câu hỏi:

"Tại sao lại là ngựa?"

"Vì ta có xương," lão Ezekiel dấm dẳn. "Con ngựa này, ngựa Hamaran," lão hất đầu về phía đống xương," theo

sử sách truyền lại, là một sinh vật oai phong lẫm liệt. Và kỵ sĩ cưỡi trên mình nó cũng phải rất uy mãnh, mấy người không đồng ý sao?"

Những người kia lầm rầm một tiếng tán thành.

"Thằng nhóc đó sẽ sợ chết khiếp," lão Ezekiel hớn hở tiếp. "Nó sẽ làm bất cứ điểu gì bọn ta yêu cầu."

"Và lão định sẽ điều khiển sinh vật quái đản ấy như thế nào?" Bà Venetia nói.

Lão Ezekiel vốn hy vọng đừng ai hỏi lão điều ấy, bởi vì lão chưa có câu trả lời thoả đáng.

"Ngài là tổ tiên của ta," lão nói với một nụ cười tự tin."Hà cớ gì ngài lại không giúp ta? Nhưng trước hết, bọn ta hãy đánh thức nó dậy, và phi, như nó từng phi trước đây. Ha! Ha!"

Trong lúc đó bà Lucretia ngồi trên một chiếc ghế bành bị mối ăn, thì hai bà em dỡ đồ trong chiếc túi da ra. Những lọ chất lỏng bắt đầu xuất hiện trên bàn; rồi những muỗng bạc, vài túi thảo mộc, những mảnh thạch anh nhỏ xíu, óng ánh, một cái chày và một cái cối bằng đá đen và năm cây nến. Lão Ezekiel dòm quy trình diễn ra

bằng đôi mắt hau háu.

Một tiếng đồng hồ sau, phần xương chân của một con ngựa đang phi nước đại đã được xếp trên bàn. Bộ áo giáp được chà bóng loáng bằng một thứ chất lỏng bốc mùi tanh hôi và chiếc áo choàng lông thú đã được kết đầy

những hạt huyền nhỏ xíu.

Năm cây nến hắt những chiếc bóng nhảy múa lên tường. Một cây đặt phía trên chiếc mũ giáp, hai cây ở hai bên cổ tay cái áo giáp, hai cây cuối cùng đặt vô chỗ móng guốc hai chân trước bị khuyết của con ngựa.

Bà Venetia mê mẩn với công việc, quên cả bản thân. Thật là hay, bà ta một lần nữa lại được nhúng mũi vào một công việc có tính phá hoại. Lúc bà ta vuốt nhẹ cái áo lông đen, những tia lửa nhỏ xía kêu lép bép ở các đầu

ngón tay bà.

"Sẵn sàng rồi chứ?" Bà ta hỏi.

"Chưa đâu," nhá một nụ cười xảo quyệt, lão Ezekiel thò tay xuống dưới đống mền bùng nhùng trên đùi lão và rút ra một cái tráp nhỏ bằng vàng. Ở chính giữa cái nắp nạm đá qúy, một chùm đá hồng ngọc xếp thành hình

trái tim, chiếu rực căn phòng tối lờ mờ bằng thứ ánh sáng loá mắt.

"Trái tim," lão Ezekiel nói, giọng ùng ục sâu trong họng. "Asa, thằng quái thú, đã tìm thấy nó trong toà lâu đài

đổ nát. Nó ra đó đào xới, theo thói quen xấu xa của nó, và tìm thấy một bia mộ có khắc chữ B. Nó đào thêm nữa và tìm thấy cái này," lão ta vỗ nhẹ cái tráp, "bị chôn sâu dưới bia mộ."

Từ cái ghế của mình trong bóng tối, bà Lucretia hỏi:

"Tại sao nó không nằm trong ngôi mộ?"

"Tại sao? Tại sao?" Lão Ezekiel buột ra một tràng ho vật vã nơi cuống phổi. "Để giữ bí mật, chắc vậy. Nhưng đó

là tim của ngài. Ta biết chắc. Ngài Borlath là người con duy nhẩt của nhà vua có tên bắt đầu bằng chữ B." Lão mở cái tráp ra.

"Aaaah!" Bà cô Eustacia nhảy xa khỏi bàn, vì bên trong tráp là một túi da nhỏ hình mà, quả thật, hình như có đựng... một thứ gì đó.

"Thấy chưa? Một trái tim," lão Ezekiel đắc thắng nói. "Giờ, bọn ta hãy tiếp tục nào!"

Xúc cái túi da ra khỏi tráp, lão đặt nó lên bộ áo giáp, chệch tâm trái một chút, nơi lão phán quyết là trái tim hẳn phải nằm ở đó. Rồi lão gỡ một sợi dây điện từ chiếc hộp điện của lão ra và quấn đầu dây một vòng, hai vòng,

ba vòng quanh cái túi da.

Một bầu không khí thinh lặng, thấp thỏm chờ đợi đổ ụp xuống căn phòng khi lão già bắt đầu xoay cái núm của chiếc hộp bạc. Càng lúc càng nhanh dần. Bàn tay cong queo của lão biến thành một vật mờ mờ, bay bay, đôi mắt đen của lão rực cháy lên đầy kích động. Một tia lửa nhá lên giữa hai cái ngạnh thép và chuyền qua sợi dây tới trái tim của Borlath. Lão Ezekiel phát ra một tiếng gừ chiến thắng và bàn tay lão bất động.

Ba chị em chỉ chực biểu lộ ngay niềm hân hoan, nhưng họ biết im lặng là cần thiết trong khoảnh khắc như thế này. Những khúc xương của ngựa Hamaran bắt đầu chuyển động.

Lão Ezekiel và chị em nhà Yewbeam đang chăm chú nhìn vào bàn đến độ không để ý Manfred rút ra một chiếc khăn tay và ấn chặt vào mũi. Mặt nó chuyển thành đỏ rần khi nó đấu tranh để cố kìm một cái hắt hơi.

"HẮT XÌ!"

Lão Ezekiel bật nảy người như thể bị đấm một đấm. Lão bịt chặt hai tai và ré lên "Không," khi Manfred cố kìm một cái hắt hơi khác. Mấy chị em nhà Yewbeam kinh hãi nhìn gã trai trẻ nhăn xoắn mặt lại, và...

"HẮT XÌ!"

Đống xương ngừng chuyển động. Hơi nước màu đen, gớm ghiếc bốc lên từ chiếc áo lông thú và bộ áo giáp oằn

oại bên dưới cái túi da đang cháy âm ỉ.

"HẮT XÌ!"

Một tiếng nổ như sấm và một màn khói nồng nặc mùi toả khắp căn phòng. Trong lúc những kẻ chứng kiến nghẹt cả thở và líu cả lưỡi, thì một hình thù khổng lồ nâng lên khỏi bàn và biến mất vào đám khói đen cuồn cuộn. Trốn dưới gầm một chiếc bàn ở cuối phòng, một con chó mập thù lù, lùn tịt nhắm mắt lại và run lẩy bẩy.

Một tiếng nổ dữ dội thứ hai làm rung chuyển toàn bộ căn phòng, và bà cô Lucretia thét lên: "Gì vậy?"

"Cái thằng ngu chết dẫm đó hắt xì," lão Ezekiel rít chìn chịt.

"Xin lỗi, xin lỗi. Không thể nào nén được," Manfred rên rỉ. "Bụi quá."

"Bụi, bụi cái gì," bà cô Venetia mắng nhiếc. "Đáng ra cậu phải vứt cái mũi đáng nguyền rủa của cậu ở ngoài chớ. Hư hết việc rồi. Thiệt uổng công."

"Có lẽ không uổng đâu," bà Eustacia cắt ngang. "Nhìn cái bàn kìa. Xương biến hết rồi."

Đám khói đang tan đi nhanh chóng do một luồng khí lạnh thình lình thổi qua, và tất cả bọn họ đều thấy rằng xương của ngựa Hamaran, qủa thật, đã biến mất. Nhưng áo giáp, mũ sắt, áo chùng và chiếc kim kẹp bằng vàng của Borlath vẫn nằm nguyên chỗ cũ, trông thảm hại hơn vì thứ bùa mà chúng vừa phải chịu.

"Khốn kiếp!" Lão Ezekiel gầm gào. Lão dộng nắm đấm xuống bàn và đống trang phục bị cháy xém kia rung

lên."Không được gì rồi."

"Nhưng tôi lại được việc đấy," Manfred nói. "Con ngựa ra ngoài rồi kìa." Hắn chỉ vào một cái lỗ toang hoác ở trên tường.

"Chó thật!" Lão Ezekiel rít lên. "Phòng thí nghiệm của tao bị lủng, còn con ngựa chiến thì sổng ra ngoài."

"Con ngựa chiến với trái tim của bạo chúa," bà Venetia nói."Coi, nó biến rồi!"

Chỗ trái tim nằm hồi nãy, giờ chỉ còn lại một cái lỗ cháy đen trong bộ áo giáp đang âm ỉ. "Vậy nghĩa là sao?" Manfred hỏi, giọng nghẹn lại.

Lão Ezekiel xoa cái mũi dài của lão.

"Nghĩa là không phải tất cả đã mất. Nhưng ta sẽ cần sự giúp đỡ. Ta nghĩ ta sẽ phải cần đến một người bạn của ta, một người có món nợ cần giải quyết."

Tất cả mọi người nhìn lão, chờ nghe một cái tên, nhưng lão già chưa sẵn sàng làm thoả lòng cả đám. "Ngựa chiến có thể rất có ích, " Bà Venetia nói, đầy ưu tư,"miễn là có người cưỡi được nó."

Tất cả đều nhìn chằm chặp vào khoảng không do đống xương để lại, như thể bắt nó phải lên tiếng, và rồi

Manfred nói:

"Billy Raven giỏi nói chuyện với thú vật."

******

Trong phòng ngủ chung dài hút, bên dưới gác mái của lão Ezekiel ba tầng, Billy Raven choàng tỉnh giấc, đột nhiên thấy sợ hãi. Nó quay mặt ra cửa sổ, định tìm mặt trăng hầu tự trấn an mình, thì thấy một con ngựa trắng bay lướt qua những đám mây rách nát - và biến mất.

CON NGỰA MA

Vào ngày đầu tiên của học kì mùa thu, Charlie Bone phóng ào xuống ăn sáng với một chiếc lược thòi ra từ đám

tóc.

"Mày nghĩ mày giống cái gì hả?" Từ chỗ ngồi của mình kế lò sưởi, nội Bone nói vọng ra.

"Chắc giống khủng long ạ?" Charlie gợi ý. "Con đã kéo, kéo mãi rồi mà cái lược không chịu ra."

"Tóc thì như hàng rào," bà nội xương xẩu của nó càu nhàu. "Chỉnh tề lên coi, cái thằng. Ở Học viện Bloor người

ta không ưa thứ bê bối đâu."

"Lại đây, cún cưng," một người bà khác của Charlie, hiền hậu hơn, đặt tách trà xuống và giật mạnh cái lược ra. Cái lược bứt ra cùng với một túm tóc của Charlie.

"Ngoại Maisie! Ui da!" Charlie thét lên.

"Xin lỗi, cún cưng," ngoại Maisie nói. "Nhưng phải làm thế thôi."

"Dạ." Charlie xoa xoa cái đầu đau của mình. Nó ngồi xuống bên bàn bếp và tự trút ra cho mình một tô cốm

bắp.

"Trễ rồi. Mày lỡ xe buýt trường cho coi," nội Bone làu bàu. "Giáo sư Bloor là người cực khắt khe về vụ đúng

giờ."

Charlie ấn muỗng cốm bắp vô miệng, nói, "Vậy thì sao ạ?" "Đầy một miệng như thế thì đừng có nói," nội Bone rầy.

"Cứ mặc nó, Grizelda," ngoại Maisie nói. "Nó cần phải được ăn sáng ngon lành. Chắc chắn nó sẽ không có được một bữa nào ra hồn trong năm ngày tới."

Nội Bone khịt mũi và đớp phập vô trái chuối. Đã ba tháng nay bà chưa hề cười; kể từ khi căn nhà của bà em

Venetia của bà bị cháy rụi.

Charlie uống gấp ca trà, lẹ làng tròng cái áo khoác và phóng ù lên lầu để vơ mấy cái túi đi học của nó.

"Áo chùng!" Nó tự nói một mình, nhớ ra áo vẫn còn treo trong tủ. Nó kéo cái áo ra và một tấm hình nhỏ bay

xuống sàn nhà.

"Benjamin," nó mỉm cười nhặt tấm hình lên. "Bồ đang ở đâu?"

Trong hình là một cậu bé tóc vàng nhạt đang quỳ bên cạnh một con chó vàng thiệt bự. Chính Charlie đã chụp tấm hình này, ngay trước sinh nhật thứ mười của Benjamin. Lúc này Charlie dùng tài phép để đi vô tấm hình

hoàn toàn không phải để thăm thú cảnh trí ở đó. Cảnh trí cũng chẳng nói lên được điều gì cả.

Những lúc nôn nóng sử dụng tài phép lạ lùng của mình, Charlie thường quên khuấy rằng những người mà nó thăm đấy cũng có thể trông thấy nó. Cho dù họ đang ở nơi nào, khi Charlie nhìn vào tấm hình chụp họ, họ cũng

có thể thấy gương mặt nó trôi lềnh bềnh ở đâu đó gần đấy. Chính vì vậy mà Benjamin, đang uống nước ở Hồng Kông, đã nhìn thấy gương mặt mỉm cười của Charlie trong ly nước cam của mình.

Benjamin đón nhận những cú xuất hiện ma thuật của Charlie một cách dễ dàng, nhưng Hạt Đậu, con chó của Benjamin, xem ra không bao giờ có thể quen được với những cú xuất hiện ấy.

Con chó bự đang tính xơi bữa sáng trong quán Cà Phê Thú Kiểng, thì khuôn mặt Charlie bỗng ngó lên từ tô

Chappimix.

Hạt Đậu hoảng hốt nhảy vọt lên, tru dài một tiếng; vụ việc khiến một con rắn xanh da trời trườn vội xuống dưới tủ đựng chén dĩa, và một phụ nữ rất cao tên là Onoria Onimous đánh rớt mẻ bánh mới nướng. Nhưng ba con

mèo rực rỡ nằm trên nóc tủ lạnh thì chỉ ngáp và nhắm mắt lại.

Charlie đút tấm hình vào túi quần, nhét chiếc áo chùng xanh da trời vào giỏ, rồi chạy xuống lầu.

"Đừng quên..." ngoại Maisie la lớn, nhưng Charlie đã nhào ra khỏi cửa trước và chạy tới đầu đường Filbert.

Chiếc xe buýt đưa đón học sinh màu xanh da trời sắp khởi hành thì cửa xe thình lình bật mở, và một cậu bé có chỏm tóc quăn màu hạt dẻ thò đầu ra ngoài. "Anh thấy em chạy tới," cậu bé nói. "Bác tài nói không thể đợi

được nhưng anh bắt bác ấy phải đợi."

"Cảm ơn anh Fido," Charlie đưa một trong mấy cái túi xách của nó cho anh bạn Fidelio, và leo lên những bậc xe buýt.

"Có mang áo chùng không?" Fidelio hỏi. Charlie lôi tấm áo nhàu nhì ra khỏi giỏ.

"Em ghét mặc áo lúc đi bộ ngoài đường Filbert lắm. Bị mọi người cười. Có một thằng ở nhà số 20 cứ gào lên: 'Nó kìa, Thằng Xanh Da Trời kìa, tới Học viện Bloor, giống con két mào bảnh chọe!' Nhưng em đâu có xin ai cho đến Học viện Bloor, đúng không?"

"Em không phải là con két mào bảnh chọe," Fidelio bật cười. "Anh cá là sáng nay em lại quên chải đầu."

"Em chải rồi."

Xe buýt dừng lại và hai đứa nhập vào đám đông đang nhảy xuống quảng trường rải sỏi. Chúng đi ngang một vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá và tiến đến những bậc cấp dẫn vào Học viện Bloor.

Khi Charlie bước chân dưới bóng râm của tháp nhạc, nó thấy mình chợt ngước lên nhìn đỉnh chóp dốc đứng của

tòa tháp. Điều này vốn đã trở thành thói quen và nó tuyệt nhiên không biết tại sao mình lại làm vậy. Có lần,

mẹ nó bảo với nó, là cô cảm thấy ai đó đang nhìn mình từ ô cửa sổ nhỏ dưới mái hiên nhô ra... Charlie bất giác

rùng mình và theo Fidelio băng qua cổng vòm rộng.

Chìm giữa đám con nít áo chùng xanh da trời, tím và xanh lá cây, Charlie nhóng tìm Emma Tolly và Olivia

Vertigo. Nó trông thấy Emma mặc áo chùng xanh lá cây, mái tóc dài vàng óng thắt thành hai bím gọn gàng, nhưng nó thoáng ngỡ ngàng về đứa con gái đi cạnh Emma. Nó rành gương mặt ấy nhưng... phải đó là Olivia không? Cô nàng mặc áo chùng tím, như mọi đứa khác của khoa Kịch, nhưng mặt Olivia thường ngày vốn hay tô vẽ, và tóc tai luôn luôn nhuộm màu sặc sỡ. Còn cô bé này lại có vẻ ngoài láng lẩy: má hồng, mắt xám và tóc

nâu cắt ngắn.

"Đừng nhìn chằm chằm vậy chớ, Charlie," con bé tóc nâu vừa nói vừa bước đến chỗ Charlie. "Olivia hả?" Charlie thốt lên. "Chuyện gì vậy?"

"Tớ sắp thử vai cho một bộ phim," Olivia nói với nó. "Trông phải nhỏ hơn tớ."

Chúng leo lên một dãy bậc thang đá nữa, và rồi bước qua cánh cửa đôi khổng lồ chạm trổ những hình thù bằng đồng. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã vào trong trót lọt, thì Weedon, gã gác cổng và lo việc lặt vặt, liền đóng ập cổng và khóa lại. Cổng sẽ khóa chặt như vậy cho đến tận chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ được phép về nhà nghỉ cuối

tuần.

Charlie bước vô tiền sảnh rộng mênh mông, lát đá phiến của Học viện Bloor. "Phim gì vậy?" Nó hỏi Olivia.

"Sssh!" Có tiếng suỵt đâu đó bên tai Charlie.

Charlie ngước lên, thấy một đôi mắt đen như than đá và giật bắn cả người. Nó tưởng Manfred Bloor đã ra

trường rồi chứ.

"Anh hy vọng mày chưa quên luật, Charlie Bone!" Manfred gừ. "Kh... không, anh Manfred," Charlie coi bộ không quả quyết lắm.

"Vậy thì..." Manfred bật ngón tay một cái tách và ngó Charlie trừng trừng, còn Charlie thì đang ngó xuống bàn

chân mình. Mới sáng sớm thế này, nó không hề muốn phải chống trả lại tia thôi miên của Manfred chút nào.

"Coi, luật như thế nào hả?" Manfred tra hỏi. "Ờm...

Im lặng trong hành lang

Không được nói lan man Không được khóc hay la Ngay cả khi bị ngã.

"Ờm..." Charlie không thể nhớ ra câu cuối cùng.

"Viết câu đó ra một trăm lần và mang đến văn phòng của anh sau giờ uống trà!" Manfred nhe răng cười nham

hiểm.

Charlie không biết là Manfred có văn phòng riêng, nhưng nó không định kéo dài cuộc đối đáp.

"Thưa vâng, anh Manfred," nó làu bàu.

"Mày phải tự biết xấu hổ về bản thân mày. Bây giờ mày lên năm thứ hai rồi. Chẳng nêu gương tốt cho học sinh năm nhất gì cả, đúng không, Charlie Bone?"

"Dạ," Charlie bất chợt nhìn thấy Olivia, đang tròn mắt dòm nó, và nó cố nén để đừng phì cười. Hên là Manfred

vừa phát hiện ra có đứa nào đó không mặc áo chùng và đã tất tưởi vọt đi.

Olivia đã biến mất vào biển áo chùng tím. Đám chủ nhân của những chiếc áo đó đang chen lấn nhau đi qua

cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ bằng đồng. Bên trong cánh cửa đang mở ấy, Charlie loáng thấy một đám nhốn nháo đủ màu, đang đông dần lên trong phòng để áo chùng tím. Nó vội vã đi tiếp đến tấm biển có hai cây

kèn trumpet bắt chéo nhau.

Fidelio đang chờ nó ngay cửa, bên trong phòng để áo khoác xanh da trời. "Chu cha! Thiệt động trời!" Fidelio thở

hì hụi. "Anh tưởng Manfred rời trường rồi chứ."

"Em cũng tưởng thế," Charlie nói. "Được vậy thì quay lại Học viện Bloor là ngon rồi. Tưởng đâu ít ra cũng thoát

được Manfred ở đây chớ."

Vậy vai trò mới của Manfred là gì? Liệu hắn có vĩnh viễn bám đuôi, theo dõi, nghe ngóng và thôi miên bọn nhóc

không?

Hai đứa bàn tán về vấn đề Manfred trên đường đến Hội trường. Vào ngày đầu tiên của mỗi năm học, buổi tập trung đầu năm được tổ chức trong nhà hát, không gian duy nhất đủ rộng cho toàn thể ba trăm học sinh. Mãi đến giữa học kỳ mùa thu vừa qua, Charlie mới nhập học ở Học viện Bloor; cho nên đây là một trải nghiệm mới

mẻ đối với nó.

"Thôi chết! Anh phải lẹ lên mới được," Fidelio nói, nhìn đồng hồ đeo tay. "Đáng lẽ giờ này anh phải chơi nhạc rồi."

Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, gật đầu một cách nghiêm khắc với Fidelio khi nó leo lên sân khấu và ngồi vào chỗ trong dàn nhạc giao hưởng. Charlie chui vào cuối hàng ghế thứ hai và nhận ra mình đang đứng

ngay sau lưng Billy Raven. Thằng nhóc bạch tạng quay lại với cái nhăn mày lo lắng.

"Em phải ở lại năm thứ nhất thêm mười hai tháng nữa," nó thì thầm với Charlie, "nhưng em đã phải ở lại hai lần rồi."

"Xui vậy! Nhưng em mới có tám tuổi mà."

Charlie quét một lượt hàng học trò mới trước mặt. Tất cả bọn chúng trông đều khá bình thường, nhưng ai mà biết chắc được. Một số trong bọn chúng có thể cũng được ban phép thuật giống như nó và Billy - những hậu duệ của Vua Đỏ.

Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Charlie loay hoay đi khắp tòa nhà rộng lớn đầy gió lùa để kiếm phòng học

mới của nó, lấy sách vở và tìm thầy Paltry (người được phân công dạy kèn trumpet cho nó.)

Đến khi tiếng tù và đi săn rúc lên báo hiệu giờ ăn trưa thì Charlie đã hoàn toàn kiệt sức. Nó khật khừ đi xuống khu căn-tin, cố lái mắt khỏi những bức chân dung treo trong hành lang sáng lờ mờ - đề phòng một người trong số họ muốn nói chuyện - và đến căn-tin xanh da trời.

Charlie bước vào hàng, đợi lấy phần ăn. Một phụ nữ thấp người, hơi đẫy đà sau quầy thức ăn nháy mắt với nó. "Mọi việc tốt cả chứ, Charlie?" Bà hỏi.

"Dạ, cám ơn bà bếp trưởng," Charlie đáp. "Nhưng chắc phải một thời gian con mới quen được với năm thứ hai." "Tất nhiên," bà bếp trưởng nói. "Nhưng con biết ta ở đâu rồi đấy, nếu con cần đến ta. Ăn đậu nhé, Charlie?" Charlie nhận lấy một dĩa mì macaroni phó mát với đậu và thơ thẩn dạo quanh các bàn ăn cho đến khi nó tìm thấy Fidelio, đang ngồi với Billy Raven và Gabriel Silk. Mái tóc nâu rũ rượi của Gabriel che gần hết khuôn mặt, và miệng nó hơi bễu ra, có vẻ buồn ủ ê.

"Vụ gì vậy, anh Gabe?" Charlie hỏi. "Lũ chuột kiểng của anh vẫn ngon chớ?"

Gabriel rầu rĩ ngước lên:

"Học kỳ này tôi không học piano được nữa rồi. Thầy Pilgrim đi rồi."

"Đi rồi?" Charlie tự dưng hốt hoảng. "Sao? Đi đâu?" Gabriel nhún vai.

"Tôi biết thầy Pilgrim lập dị, nhưng, ừm, thầy thiệt... tài giỏi."

Hẳn là không ai phủ nhận điều này. Ai cũng từng nghe tiếng đàn dương cầm của thầy vọng xuống từ Tháp Nhạc. Charlie chợt nhận ra là nó sẽ nhớ tiếng đàn ấy lắm. Và nó sẽ nhớ những khi thầy Pilgrim nhìn đăm đăm

vào khoảng không, mái tóc đen của thầy luôn rủ xuống mắt. Fidelio quay sang Billy.

"Vậy kỳ nghỉ của em thế nào, Billy?" Nó thận trọng hỏi. Bởi lẽ làm thế nào mà không phát điên lên được khi phải trải qua cả kỳ nghỉ trong Học viện Bloor cơ chứ?

"Tốt hơn mọi khi," Billy vui vẻ nói. "Bà bếp trưởng chăm sóc con Rembrandt đúng như đã hứa, và em gặp nó hàng ngày. Và anh Manfred đi vắng một thời gian nên ở đây khá yên ổn, thiệt vậy, chỉ trừ... chỉ trừ..."

Một mảng tối thoáng hiện trên mặt Billy...

"Có chuyện xảy ra hồi tối qua. Một chuyện thiệt quái lạ." "Chuyện gì?" Cả ba đứa kia cùng hỏi.

"Em trông thấy một con ngựa trên trời."

"Ngựa?" Fidelio nhướn cặp chân mày. "Ý em là một đám mây trông giống hình con ngựa?"

"Không. Một con ngựa đàng hoàng." Billy gỡ mắt kiếng ra và chùi vô tay áo. Đôi mắt đỏ đậm của nó dán chặt

vào Charlie. "Kiểu như nó lơ lửng trên trời, bên ngoài cửa sổ, và sau đó tan đi."

"Mấy ngôi sao cũng làm vậy được mà," Gabriel nói, giờ đã tươi tỉnh hơn một chút. "Chúng có thể tạo ra ảo ảnh hình thú hay đồ vật."

Billy lắc đầu.

"Không! Nó là một con ngựa."

Nó đeo kiếng trở lại và nhăn nhó với dĩa đồ ăn của mình.

"Không xa em đâu. Ngay ngoài cửa sổ. Con ngựa rướn người lên và đá đá không khí, làm như nó đang chống

trả để được tự do vậy, xong rồi nó... tan đi."

"Giống như nó đang lùi vào một thế giới khác," Charlie vuột miệng nói.

"Đúng rồi," Billy hồ hởi nói. "Anh tin em, phải không anh Charlie?"

Charlie thủng thỉnh gật đầu.

"Anh thắc mắc giờ nó đang ở đâu?"

"Lang thang quanh lâu đài hoang với lũ ma khác chắc?" Fidelio nhận xét một cách bông phèng. "Thôi nào, tụi mình ra hít thở chút không khí thoáng đãng đi. Không chừng cả đám sẽ thấy một con ngựa đang phi nước đại

quanh vườn đó."

Tất nhiên là nó chỉ giỡn thôi, nhưng ngay khi bốn thằng bé bước qua cổng vườn, Fidelio chợt nhận ra lời nói của mình hóa ra lại thực một cách ma quái. Nó là đứa duy nhất trong bốn đứa không có phép thuật. Fidelio có thể là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng tài năng của nó không thuộc dạng được xếp vào hàng phép thuật.

Charlie chính là đứa chú ý đến vật ấy trước tiên: một tiếng thịch yếu ớt trên bãi cỏ khô ráo.

"Anh có nghe thấy không?" Nó nhìn Gabriel.

Gabriel lắc đầu. Nó chả nghe thấy gì, nhưng có cái gì đó hiện diện trong không khí mà nó không thể xác định

được.

Billy bị tác động mạnh nhất. Cu cậu đột ngột lùi phắt lại, nhúm tóc trắng dựng lên theo một làn gió phớt qua mà ngoài nó ra, không đứa nào cảm nhận được. Thằng bé giơ một bàn tay lên tựa như đỡ một cú đấm.

"Nó vừa sượt qua," Billy thì thào.

"Tụi em tính đánh lừa anh đó hả?" Fidelio nói.

"Không lừa đâu," Charlie nói. "Giờ nó đi rồi. Có lẽ nó chỉ muốn cho tụi mình biết là nó đang ở đây."

Chúng bắt đầu băng qua thảm cỏ rộng mà giáo sư Bloor thích gọi là khu vườn của ông ta. Thực ra nó không khác gì một cánh đồng, bao quanh là có rừng cây rậm rạp, gần như không thể chui vô được. Ở cuối sân, những

phiến đá đỏ của tòa lâu đài cổ thấp thoáng giữa những hàng cây: lâu đài của Vua Đỏ. Bốn thằng bé đi về phía những bức tường đỏ cao vọi ấy, hầu như theo bản năng.

Ông cậu Paton của Charlie đã kể cho nó nghe chuyện năm người con của Vua Đỏ đã bị ép buộc phải rời vương quốc của vua cha mãi mãi như thế nào khi hoàng hậu Berenice qua đời. Tan nát cõi lòng, nhà vua biến mất vào

những khu rừng phương bắc, và Borlath, con trai cả của nhà vua, chiếm giữ lâu đài. Hắn ta trị vì vương quốc

bằng sự bạo tàn, man rợ đến nỗi hầu hết các cư dân hoặc là chết hoặc là bỏ trốn trong kinh hoàng.

"Hử?" Fidelio nói. "Mấy người nghĩ là con ngựa ma đó ở đây sao?" Charlie ngước nhìn lên những bức tường lừng lững.

"Em không biết," nó ngó Billy.

"Phải," thằng bé thì thầm. "Nó ở đây."

Mấy đứa kia lắng nghe thiệt chăm chú. Trên mảnh sân phía xa xa, tiếng đám học trò hò hét và nói cười huyên náo, tiếng một trái banh chạm đất, tiếng chim bồ câu rừng gù, nhưng ngoài ra không nghe được tiếng gì khác.

"Em chắc chứ, Billy?" Charlie hỏi.

Billy co rúm người lại. Nó đang run lẩy bẩy.

"Em nghĩ nó muốn nói chuyện, nhưng nó bị kẹt ở phe kia."

"Phe kia là phe nào?" Fidelio hỏi

Billy nhăn nhó. "Em không thể giải thích được."

Charlie chợt cảm giác có ai đó đang đứng đằng sau chúng. Nó quay lại, đúng lúc thấy một bóng người nhỏ choắt vụt đi và lẫn vào đám nam sinh mới đang chơi banh với nhau.

"Ai vậy?" Gabriel hỏi.

"Nhóc mới," Charlie nói.

Không thể nói được thằng nhóc kia ở khoa Hội họa, khoa Kịch hay khoa Nhạc vì nó không mặc áo chùng. Hôm nay trời ấm áp và nắng đẹp. Mùa hè vẫn chưa hết.

Tiếng tù và rúc vang khắp sân và bốn thằng bé chạy trở vô trường.

Với Charlie, buổi chiều hôm ấy cũng chẳng khá gì hơn buổi sáng. Cuối cùng nó cũng tìm thấy thầy Paltry, nhưng

quá trễ cho buổi học.

"Đi học mà không đem theo kèn trumpet thì nói làm gì hả?" Ông thầy già cấm cẳn. "Trò chỉ tổ làm mất thời gian, Charlie Bone. Được ban phép thuật, hừ, vớ vẩn. Sao trò không sử dụng cái gọi là phép thuật của trò để

xác định coi cây kèn trumpet của trò ở đâu? Giờ, ra khỏi lớp và đừng có trở lại cho đến chừng nào trò tìm thấy kèn."

Charlie hấp tấp ra đi. Nó không biết ở đâu mà tìm.

"Tháp Nhạc có không?" Charlie tự hỏi. Dám một trong những người lao công đã tìm thấy kèn của nó và đem cất

vô phòng thầy Pilgrim trên đỉnh tháp.

Đường đến Tháp Nhạc phải xuyên qua một cánh cửa nhỏ, trông cổ xưa, gần lối ra vườn. Charlie gồng mình, mở cửa ra và bắt đầu bước vào một hành lang dài, ẩm ướt. Trời tối đến nỗi Charlie gần như chẳng thấy bàn chân mình đâu. Nó cứ dán mắt vô một khung cửa sổ đằng xa trong căn phòng nhỏ hình tròn ở cuối hành lang.

Khi đến gần căn phòng hơn, nó bỗng nghe thấy những tiếng nói, những giọng nói giận dữ - những người đàn

ông đang cãi nhau.

Có tiếng bước chân khua. Charlie đứng im thin thít cho đến lúc có ai đó xuống đến chân dãy cầu thang xoắn ốc,

dài. Một bóng hình xuất hiện ở cuối hành lang. Cái bóng đó lừng lững tiến về phía Charlie và nâng đôi cánh màu

tím lên, che khuất hết ánh sáng.

Bị ngập chìm trong bóng tối, Charlie thét lên thất thanh.

Cậu bé dính vụn giấy trên tóc

"Im!" Một giọng rít lên.

Charlie co rúm người ép vào vách tường khi người đó, hay vật đó, lướt qua và vút ngang cánh cửa ra tiền sảnh.

Charlie không biết phải làm gì. Nó nên quay lại quãng đường nó vừa đi qua, hay là tiếp tục lên tháp? Cái người rít lên hồi nãy có thể đang ở trong tiền sảnh, chờ nó. Nó chọn cách đi lên tháp.

Ngay khi chui vô căn phòng hình tròn tràn đầy ánh mặt trời ở cuối hành lang, Charlie cảm thấy định thần lại. Đôi cánh màu tím kia là đôi cánh tay của một chiếc áo chùng, nó suy luận. Và cái ngườui giận dữ nọ chắc hẳn là một giáo viên của trường, đang tranh cãi với ai đó. Nó bắt đầu leo cái cầu thang dai, xoắn ốc lên đỉnh tháp. Học viện Bloor có năm tầng lầu, tuy nhiên phòng dạy nhạc của thầy Pilrim lại ở trên một dãy cầu thang khác. Charlie lên đến chiếu nghỉ nhỏ, chỗ có những quyển sách dạy nhạc được cất trên kệ, trong thùng và chất thành đống bừa bộn dưới sàn nhà. ở giữa các dãy kệ, có một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi dẫn vô phòng nhạc. Một tờ tin

nhắn được ghim ngay chính giữa cánh cửa. Thầy Pilrim đi rồi.

Charlie lục lọi đám thùng và họp, nhấc những chồng bản nhạc lên, rồi tìm kiếm đằng sau những cuốn sách nặng nề trên kệ. Nó tìm được một cây sáo, một nắm dây đàn violin, một hộp bánh yến mạch và một cây lược, nhưng

không có kèn trumpet.

Thử tìm ở phòng kế bên liệu có ích lợi gì không? Charlie nhớ là trong ấy chỉ có một cây đàn dương cầm lớn và

cái ghế đàn, không còn gì khác. Nó nhìn lại tờ tin nhắn. Thầy Pilrim đi rồi. Trông như báo điềm chẳng lành, như thể có lời nhắn khác ẩn đằng sau bốn con chữ in mỏng manh kia, rằng: Cấm vào, không ai cho các người vào đây.

Nhưng Charlie là một thằng bé vốn thường không thể ngăn mình làm những điều mà tất cả các biển báo bảo nó đừng làm.Tuy nhiên, lần này nó chú ý gõ cửa trước khi bước vào. Thiệt ngạc nhiên, nó nhận được câu trả lời. "Gì," một giọng nói mệt mỏi vang lên.

Charlie bước vào.

Giáo sư Saltewather đang ngồi trên chiếc ghế đàn. Hai cánh tay thầy khoanh lại bên trong chiếc áo chùng xanh

da trời, mái tóc dày bạc trắng của thầy dựng đứng lên theo một phong cách rối bời, hờ hững. Thầy mang một vẻ mặt mà trước giờ Charlie chưa tùng thấy ở thầy: lo lắng và bơ phờ

"Con xin lỗi thầy," Charlie nói. "Con đang tìm cây kèn trumpet của con." "Ừ," thầy Saltewather liếc nhìn Charlie.

"Con nghĩ là nó không có ở đây."

"Ở đây chẳng có gì cả," thầy Saltewather nói. "Con xin lỗi, thưa thầy."

Charlie toan đi thì chợt có điều gì đó xui khiến nó hỏi:

"Thưa thầy, thầy Pilrim hiện ở đâu ạ?"

"Ở đâu?" Giáo sư Saltewather nhìn Charlie như thể thầy vừa mới trông thấy nó tức thì. "À, Charlie Bone."

"Dạ phải, thưa thầy."

"Ta không biết thầy Pilrim đi đâu. Đó là điều bí ẩn."

"Ồ," Charlie định quay đi một lần nữa nhưng lần này nó lại nói tiếp:

"Lúc nãy con va phải ai đó ở ngoài hành lang, con nghĩ đó có thể là thầy Pilrim."

"Không phải, Charlie," ông thầy dạy nhạc nói hơi gằn giọng. "Đó chắc chắn là thầy Ebony, thầy chủ nhiệm mới

của trò."

"Thầy chủ nhiệm mới của con?". Charlie nuốt nước miếng khan. Nó nghĩ đến đôi cánh tím, giọng nói rít chìn

chịt.

"Ừ. Nói không ngoa thì cũng hơi đáng lo."

Giáo sư Saltewather thảy cho Charlie một cái nhìn soi mói, như thể thầy đang tự hỏi xem có nên nói gì nữa

không.

"Ông Ebony đến đây để dạy môn lịch sử," Nhưng ông ấy lại xuất hiện với một lá đơn xin từ nhiệm của thầy

Pilrim. Ta không biết ông ấy kiếm được tờ đơn đó bằng cách nào. Và bây giờ người...người đàn ông này...muốn

dạy piano." Giáo sư Saltewather cao giọng. "Ông ta mò lên đây, đính một tin báo lên cánh cửa, cố đuổi ta ra khỏi một phòng học thuộc chính khoa của ta...Thật không thể chịu nổi!"

"Đúng đấy, thưa thầy," Charlie tán đồng. "Nhưng thầy ấy mặc áo chùng tím mà, thầy."

"À, đúng, thế đấy!" Giáo sư Salte wather đan một bàn tay vô mái tóc bạc của mình. "Hình như ông Tantalus Ebony ở khoa nhạc Kịch, nên mới mặc áo choàng màu tím."

"Ra là vậy," Charlie nói, mặc dù bây giừo nó rất hoang mang. Nó chưa bao giờ nghe nói tới một giáo viên dạy ba khoa một lúc.

"Tất cả đều là sự sắp xếp của giáo sư Bloor, nên ta có thể làm được gì nào?"Giáo sư Saltewather xòe rộng hai bàn tay ra. "Giờ, tốt hơn trò nên đi đi, Charlie. Rất tiếc về cây kèn trumpet của trò. Thử tìm ở một trong những phòng của khoa Hôi họa coi. Họ vẫn hay vẽ các nhạc cụ của chúng ta mà."

"Khoa Hội họa. Con cám ơn thầy,' Charlie nói đầy vẻ biết ơn.

Các phòng của khoa Hội họa chỉ có thể đến được bằng lối cầu thang chính và Charlie mới vừa đặt bàn chân lên bậc thang đầu tiên thì Manfred xồ ra từ một cánh cửa trong tiền sảnh.

"Mày chép phạt xong chưa?" Manfred lạnh lùng hỏi.

"Ờm, chưa."

Manfred tiến đến gần Charlie:

"Đừng quên đấy, không thì mày sẽ phải chép thêm một trăm câu nữa."

"Ừ, quên, Manfred. À... ý em là không quên đâu." Manfred thở dài bực bội và bước đi khỏi.

"Xin lỗi," Charlie bất ngờ nói, "nhưng anh vẫn còn là... ừm.. học sinh, phải không anh Manfred?"

"Không. Hết rồi!" Gã thanh niên cáu kỉnh sủa. "Anh là trợ giảng. Và hãy gọi anh là thầy."

"Dạ, thưa thầy." Từ thầy nghe thật tức cười khi áp dụng cho Manfred, nhưng Charlie mỉm cười, hy vọng là rốt cuộc nó đã áp dụng đúng.

"Và đừng quên đấy." Manfred huỳnh huỵch bước trở lại phòng Huynh trưởng và đóng sầm cửa lại.

Charlie vẫn chưa tìm ra phòng làm việc của Manfred. Bây giờ nó đang đắn đo giữa việc tìm kiếm cây kèn và việc chép phạt một trăm dòng. Nhưung rồi nó sực nhớ ra là nó không thuộc câu cuối của Luật Tiền Sảnh.

"Emma sẽ cho mình biết," nó tự nhủ và bắt đầu bước lên cầu thang.

Emma thường có ở trong phòng triển lãm của khoa Hội họa, một căn phòng dài, thoáng đãng, nhìn ra vườn. Nhưng, hôm nay căn phòng có vẻ trống không. Charlie lục soát kho đựng màu vẽ và xem kỹ các kệ ở cuối phong, sau đó no băng qua phòng triển lãm và đi xuống cầu thang xoắn bằng sắt dẫn xuống xưởng điêu khắc.

"Chào, Charlie!" Có tiếng gọi to.

"Ê, lại đây nè," một giọng khác nữa.

Charlie ngó quanh, thấy hai cậu bé đeo tạp dề xanh lá cây đang cười tioe toét với nó từ hai bên của một khối đá lớn. Một cậu có gương mặt nâu và mặt cậu kia thì tái xanh. Hai người bạn của Charlie hiện đang học năm thứ ba. Cả hai đều lớn phổng lên qua một kì nghỉ hè, và cả tóc của chúng cũng vậy. Lysander, cậu bé người châu Phi, giừo có một mái đầu xoăn dài, tươm tất, được tô điểm bằng những hột cườm đủ màu, trong khi Tancred vuốt keo lên mái tóc cứng đơ, vàng nhạt của mình thành một rừng chông tua tủa.

"Cái gì lôi em xuống đây vậy, Charlie?" Tancred hỏi.

"Em đang kiếm kèn trumpet của em. Chà, em gần như không nhận ra hai anh."

"Em chẳng thay đổi gì," Lysander nói với nụ cười rộng ngoác. "Em thấy năm thứ hai thế nào?"

"Em không biết. Em hơi rối một tí. Em đi lôn lớp hoài. Em bị mất kèn trumpet. Em gặp rầy rà với Manfred và có một... à... ừm, môth thứ ở trong vườn."

"Một thứ, ý em là sao?" Mái tóc vàng của Tancred nổ lép bép.

Charlie kể cho chúng nghe về con ngựa mà Billy đã nhìn thấy trên trời, và về tiếng vó ngựa trong vườn. "Hay ghê," Lysander nói.

"Quái gở," Tancred bảo. "Anh thì không ưa cái vụ đó."

Hai ống tay áo sơ mi của nó giật giật. Tancred khó mà che giấu được phép thuật của mình. Nó giống như một

cái hàn thử biểu biết đi, tâm trạng của nó ảnh hưởng đến không khí xung quanh đến mức ta có thể nói rằng nó có thời tiết riêng của nó.

" Em phải kiếm cây kèn trumpet tiếp đây," Charlie nói. "À mà, câu cuối của luật tiền sảnh là gì nhỉ?"

"Dù bạn thấp hay cao," Lysander nhanh nhảu nói.

"Cám ơn anh Sander. Em phải viết hết ra một trăn lần trước bữa tối, và phải nộp cho Manfred - nếu em có thể

tìm ra văn phòng của hắn. Các anh có biết nó ở đâu chứ?" Tancred lắc đầu và Lysabder nói, "Không hề."

Charlie định quay trở ra lối cũ thì Tancred đề nghị nó thử tìm ở nơi khác xem sao.

"Tìm ở đằng đó coi," Tancred vừa nói vừa chỉ một cánh cửa ở cuối xưởng điêu khắc. "Tụi mới tới đang học bài vẽ đầu tiên của chúng. Anh nghĩ anh có thấy nột đứa cầm kèn trumpet.'

"Cám ơn anh, Tanc!"

Charlie bước vô một căn phòng mà trước giờ nó chưa hề thấy. Chừng mười lăm đứa trẻ đang yên lặng ngồi quanh một chiếc bàn dài, vẽ ký họa. Mỗi đứa có một tờ giấy khổ lớn và một đồ vật trước mặt. Tất cả bọn chúng đều đang tập trung hết mức vào tác phẩm của mình, và không đứa nào ngẩng lên khi Charlie xuất hiện

"Trò muốn gì?' Một người đàn ông gầy gò, tóc vàng nhạt, mặt tàn hang cất giọng từ đầu bàn. Một giáo viên dạy

vẽ mới, Charlie đoán.

"Kèn trumpet của em, thưa thầy," Charlie nói.

"Và tai sao trò nghĩ nó ở đây?" Ông thầy hỏi.

"Bởi vì, nó kia ạ!" Charlie vừa nhìn thấy một cây trumpet giống y chang kèn của nó. Món nhạc cụ đang được một thanừg bé loắt choắt, dính đầy vụn giấy trên tóc, vẽ theo. Thằng bé ngước nhìn Charlie.

"Joshua Tilpin," Thầy giáo gọi, "trò lấy cây trumpet đó ở đâu vậy?'

"Nó là kèn của con, thưa thầy Delf." Joshua Tilpin có đôi mắt ti hí màu xám nhạt. Nó hơi nheo mắt lại và nhăn mũi với Charlie.

Charlie không thể kếm mình nổi. Nó chồm về trước giật lấy cây trumpet và lật ngược lên coi. Học lỳ trước nó đã khắc chữ CB thiệt nhỏ gần miệng kèn. Cây trumpet này là của nó.

"Cây kèn co ghi tên viết tắt của em. Thưa thầy." "Đưa tôi coi nào," Thầy Delf chìa bàn tay ra. Charlie đưa cây trumpet cho thầy.

"Tên em là Charlie Bone, thưa thầy. Thầy coi này, đó là tên viết tắt của em."

"Trò không nên làm xấu nhạc cụ như thế này. Nhung xem ra nó đúng là kèn của trò. Joshua Tilpin, dao trò lại nói dối?"

Tất cả lớp đếu nhìn Joshua. Nó không đỏ mặt, như Charlie mong đợi. Thay vào đó, nó toét miệng cười hết cỡ,

phô hàm răng nhỏ xíu, khấp khểnh.

"Con xin lỗi thầy. Thành thực, thành thực xin lỗi anh, Charlie. Giữon chơi thôi mà. Làm ơn, tha lỗi cho em!"

Cả Charlie lẫn thầy giáo đều không biết phải trả lời nó thế nào. Thầy Delf đưa trả cây trumpet cho Charlie, nói:

"Trò nên trở về lớp của trò đi.' "Dạ, cám ơn thầy."

Charlie nắm chặt cây kèn của mình và quay ra cửa. Nó ngoái nhìn thiệt kĩ Joshua Tilpin khi bước ra. Nó có cảm giác kỳ kỳ là à thằng bé mới vô này có phép thuật. Hai ống tay áo cỉa Joshua phủ đầy mảnh giấy vụn và những mẩu gôm nhỏ li ti. Đúng lúc Charlie nhìn, một mẩu ruột bút chì gãy đột nhiên bật ra khỏi bàn và dính vào ngón tay cái của thằng bé. Nó ngoác miệng cười ranh mãnh với Charlie và búng mẩu bút chì đi. Charlie cảm thấy như có một sợi chỉ vô hình đang kéo giật nó về phía thằng bé xa lạ.

Nó lật đật rời khỏi phòng và sợi chỉ kia đứt rời.

Xưởng điêu khắc rộn vang tiếng thép chạm vào đá. Tancred và Lysander không phải là những người duy nhất

đang đục đẽo các khối đá. Charlie vung vẩy cây kèn của nó trên không. "Em thấy rồi nè," nó la lớn.

"Biết mà," Tancred nói.

Mối ưu tiên kế tiếp của Charlie là một trăm dòng chép phạt. Nó nên viết ở đâu đây? Nó quyết định viết tại phòng học mới của nó. Khi băng qua tiền sảnh, nó bị chìm lỉm trong từng đám con nít - một số ùa vô sau khi vừa chơi ngoài vườn xong, số khác chạy rầm rập từ cầu thang xuống, số nữa thì túa ra từ những phòng để áo

khoác. Dường như đứa nào cũng biết đích xác mình đang đi đâu, ngoại trừ Charlie. Hình như có sai sót khủng khiếp gì đó trong thời khóa biểu của nó. Nó dấn bước lên, hy vọng ít ra sẽ tìm thấy vài đứa học cùng niên học với nó ở trong lớp.

Có một tờ thông báo ghim trên cửa lớp. thông báo được in bằng kiểu chữ theo lối cổ, giống như những chữ trên

tờ thông báo ở cửa phòng thầy Pilrim: Tantalus Ebony

Nhạc, Kịch Câm và Lịch Sử Trung Đại

Charlie áp tai vào cánh cửa. Không một tiếng động phát ra từ phía bên kia. Nó bước vào. Không có học sinh nào trong phòng, nhưng có một thầy giáo đang ngồi bên chiếc bàn cao trước của sổ; một thầy giáo có khuôn mặt dài, mỏng quẹt, và chân mày đen giao nhau ở sống mũi. Mái tóc đậm màu che khuất lỗ tai, và mảng tóc dày trước trán chấm ngang ngay trên chân mày. Ông thầy mặc áo chùng tím.

"Gì đó?" Thầy giáo nói, ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách. Charlie nuốt nước miếng. "Em đến để chép phạt, thưa thầy."

"Tên gì?" Giọng của người đàn ông này ồ ồ như phát ra từ dưới lòng đất. "Charlie Bone, thưa thầy."

"Lại đây!" Thầy giáo ngoắc nó bằng một ngón tay trắng, dài thoòng.

Charlie Bone bước đến bên bàn. Người đàn ông nhìn nó chòng chọc mất trọn một phút. Tròng mắt trái của ông ta màu xam, còn mắt phải thì màu nâu. Đó là điều đáng ngại nhất. Charlie bị thôi thúc phải nhìn đi chỗ khác, nhưung nó đứng tấn chặt chân xuống đất và nhìn vào một mắt trước, và rồi nhìn qua con mắt kia. Một cái cau mày giận dữ sượt qua trên gương mặt của người đàn ông và ông ta ngả người ra sau, gần như là ông ta sợ Charlie đã thấy được phần nào đó của con người ông ta mà ông ta quyết giữu bí mật. Cuối cùng, thầy giáo nói:

"Tôi là Tantalus Ebony."

"Em đoán thế, thưa thầy." "Đồ kiêu ngạo. Đứng yên đó."

Charlie định nói là nãy giờ nó không hề nhúc nhích, nhưng thầy Ebony đã tiếp: "Tại sao trò không đi chung với các bạn cùng lớp trò?"

"Em bị nhầm lẫn một chút, thưa thầy."

"Nhầm lẫn? Nhầm lẫn chỉ dành cho bọn năm thứ nhất. Một khởi đầu không hề hứa hẹn cho năm thứ hai của trò, đúng không, Charlie Bone? Và trò nói là mới thế trò đã bị chép phạt rồi. Ta tự hỏi là vì sao vậy?"

"Em nói chuyện trong tiền sảnh, thưa thầy."

Phản ứng của Ebony thật đáng kinh ngạc. Ông ta bỗng cười rú lên. Toàn thân rung lắc với những tràng cười

không sao kìm nén được.

"E hèm," ông thầy ho khẽ một tiếng. "Thế thì, đi và chép phạt đi. Và chớ quấy rầy ta. Ta ngủ đây."

Thầy Ebony kéo nón áo chùng tím trùm lên đầu và nhắm mắt lại. Vẫn ngồi thẳng người tại chỗ, thầy bắt đầu

gáy.

Có thể nào có người không nhìn mình mà lại đang theo dõi mình không? Charlie có cảm tưởng là ông thầy lạ

vẫn còn thức. Hay chính xác hơn, rằng một người khác, đằng sau khuôn mặt đang ngủ kia, vẫn còn đang canh

gác.

Sau khi chờ vài giây, Charlie nhón chân đi đến bàn của nó, lấy ra nột cuốn vở bài tập và bắt đầu chép luật tiền

sảnh. Nó vừa mới viết xong dòng cuối cùng thì chuông báo giờ uống trà reng lên. Thầy Ebony mở mắt ra, hất cái nón ra sau, và quát:

"ĐI!"

"Vâng, thưa thầy." Charlie thu gom giấy bút của nó và hấp tấp rời khỏi phòng.

"Nãy giờ em ở đâu vậy?" Fidelio hỏi khi trông thấy Charlie trong căn-tin.

"Còn anh nãy giờ ở đâu?" Charlie nói. "Anh học tiết tiếng Anh, rồi ra chơi."

Charlie thấy một cuối tuần bị cấm túc hiện ra trước mặt. Thầy Carp, giáo viên tiếng Anh, hẳn sẽ không tha thứ cho nó việc cúp một tiết học.

"Em chép phạt cho Manfred," nó rầu rĩ nói. "Và em vẫn chưa tìm thấy văn phòng của hắn ở đâu.' Fidelio chả gíup được gì, cả Gabriel cũng không nốt khi thằng này đến nhập bàn của chúng.

"Có chuyện gì với thằng đuôi ngựa thế?" Nó vừa nói nhằn thanh kẹo Choclix. "Ý tôi là, Manfred được giao làm cái gì thế? Hắn không còn là Thủ lĩnh nam sinh nữa, và hắn cũng không phải là giáo viên. Vậy hắn là cái gì?" "Hắn là kẻ thôi miên," Charlie nói nghiêm trang. "Trước nay hắn vẫn thế và sẽ luôn là thế. Hắn chắc chắn sẽ ở đây hoài hoài, để hoàn thiện kỹ năng cho tới khi nào thành một lão phù thủy già mốc meo như ông cố của

hắn."

"Miễn là hắn tránh khỏi đường tôi, tôi không quan tâm hắn là cai gì." Gabriel nuốt chửng phần Choclix còn lại và

chùi chùi ngón tay vô ống tay áo. "Mà này, tôi đã quyết địng học piano với thầy Ebony rồi. Tôi không thể bỏ học

đàn được, và thiệt tình, thầy ấy cũng khá giỏi." Không hiểu vì sao việc này bỗng khiến Charlie lo lắng.

"Nếu em là anh, em sẽ học lớp cô Crystal," nó khuyên Gabriel. "Thầy Ebony... thầy nhìn vậy mà không phải vậy

đâu. Em nghĩ thầy ấy nguy hiểm lắm."

Mấy đứa kia dòm nó đầy thắc mắc, nhưng Gabriel không thể giải thích được cảm giác của nó.

Sau bữa trà, Charlie xách kèn trumpet của nó đến phòng thầy Paltry. Ông thầy già đang yên lặng dùng một

tách cà phê.

"Lúc này ta không thể dạy trò được," ông thầy cáu kỉnh gắt. "Đặt kèn lên kệ và để cho ta yên."

"Vâng, thưa thầy." Charlie cất kèn trumpet của nó lên kệ cùng với năm cây kèn khác, hy vọng cây kèn sẽ

không bị thất lạc hay bị đánh cắp lần nữa.

"Nhưng thưa thầy, thầy có biết văn phòng của anh Manfred Bloor ở đâu không ạ?"

"Ta làm sao biết hết các phòng trong tòa hhà này, đúng không nào?" Thầy Paltry phất nhẹ một bàn tay đầy tàn

nhang. "Giờ thì, xùy."

Bon trẻ được dặn là bỏ áo chùng trong nhà vào hững ngày nắng, bởi vì, tin hay không thì tùy, trong học viện tối

tăm này lạnh hơn ngoài trời. Cho nên, bỏ áo chùng ở trong phòng để áo khóac, Charlie ra vừơn và hỏi hết những ai mà nó có thể níu lại được coi họ có biết văn phòng của Manfred ở đâu không. Chưa có ai từng nghe

nói về căn phòng đó cả. Charlie lại chạy vô nhà. Khi mặc cái áo chùng xanh da trời lên, nó thọc mấy ngón tay

vô túi áo. Ba ttrang giấy chép phạt đã biến mất.

"Không!" Charlie ré lên, ngay lúc Gabriel bước vô. "Gì đó?" Gabriel hỏi

Charlie kể lại sự tình và mười lăm phút tiếp theo Gabriel giúp nó lục soát phòng để áo khoác, nhưng ba trang

giấy không thầy đau cả. Fidelio xuất hiện và tham gia cuộc truy lùng. Chúng tìm trong các phògn học trống và thậm chí xuống cả căn-tin. Và rồi tienég tù và báo hiệu giờ ăn tối.

"Có ai đó quyết tâm làm em bị rắc rối," Charlie rên rỉ. "Em mất tất cả mọi thứ, kèn trumpet, giấy chép phạt...Tiếp theo là gì nữa đây?"

"Đi ăn tối cái đã," Fidelio nói. "Đồ ăn giúp ích cho bộ não." "Hừm!"Charlie ậm ừ

Ba đứa đi xuống sảnh anh lớn dài hun hút như hang động và ngồi vào chỗ của chúng ở cuối bàn khoa Nhạc. Đám giáo viên ngồi bên một cái bànkê trên bục cao ở cuối sảnh đường, và Charlie chú ý thấy Manfred đang ngồi kế bên cha hắn. Vậy là, bây giờ hắn đã chính thức là thành viên trong giáo ban. Ít nhất thì hắn sẽ không làm bài tập chung với tụi nó nữa, Charlie nghĩ thầm.

Bữa tối gần xong thì giáo sư Bloor đứng dậy và vỗ vô tay. Cả căn phòng im ngay tắp lự. Người đàn ông vạm vỡ bước ra phía trước bục và dò xét những hàng trẻ con ở phía dưới. Dáng ông ta oai vệ trong chiếc áo chùng đen, vai rộng, tóc xám tỉa tót gọn gàng và ria mép thẳng như một cây thước. mắt ông ta gần như khuất hẳn dưới đụn mí thịt dày, và thiệt khó mà nói chúng màu gì. Bây giờ trông chúng là màu đen, nhưng Charlie biết chúng

màu xam.

Phải một lúc sau vị hiệu trưởng mới mở lời. Lũ trẻ ngóng nhìn ông ta, chờ đợi. Cuốii cùng ông ta nói:

"Có vài lời với những trò được ban phép thuật mới vô. Các trò biết mình là ai rồi, vì thế tôi sẽ không nêu tên các trò ra nữa. các trò sẽ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua. Sẽ có người chỉ đường cho các trò.Các trò hiểu

rồi chứ?"

Charlie Bone nghe có ba giọng nói nhẹ hều cất lên:

"Dạ, hiểu ạ." Nó không thể thấy những giọng nói ấy phát ra từ đâu, nhưng chúng chắc chắn không thuộc về bất

cứ ai đang ngồi bên bàn khoa Nhạc.

Giáo sư Bloor thình lình hét vang, "GIẢI TÁN!"

Bọn trẻ rầm rập hành động một cách chính xác tuyệt đối. Ghế ngồi cạ rít trên sàn đá, dĩa được thu dọn và xếp

thành chồng, ly uống nước va lách cách, dao nĩa xô vào nhau xủng xẻng, và rồi tất cả cùng đổ dồn ra cửa. Khi

Charlie leo hết tầng đầu tiên, nó có thêm Gabriel và Billy nhập bọn; Emma Tolly đi đằng trước, còn Tancred và Lysander đang bay vọt ngang một dãy cầu thang khác, lên lầu hai.

Emma chờ cho Charlie bắt kịp, nó nói:

"Mình tìm thấy đám này dưới sàn nhà phòng để áo khoác của khoa mình," con bé vừa nói vừa chìa ra ba tờ giấy nhàu nhì. "Mình nghe nói mấy bồ đang đi tìm."

"Giấy chép phạt của mình," Charlie kêu lên, chụp lấy xấp giấy. "Cám ơn bồ, Emma. Nhưng làm sao chúng lại lọt

vô phòng để áo khoác khoa Hội họa được?"

"Chịu, không biết," Emma nói.

Charlie dúi mấy tờ giấy vô vặp sách của nó. Có tiếng bước chân nặng nề sau lưng khiến nó quay lại nhìn và thấy Dorcas Loom đang chầm chậm bước lặc lè lên cầu thang. Đó là một đứa con gái phục phịch, tóc xoăn màu vàng nhạt và làn da khỏe mạnh. Dorcas là kẻ ái mộ cuồng nhiệt bà cô của Charlie, bà Venetia - bà này với tài phép của mình có thể may nên những bộ quần áo có ma thuật chết nười.

"Ngó cái gì mà ngó?" Con bé sưng sỉa.

"Con mèo cũng có thể nhìn nữ hoàng kia mà," Charlie đáp.

Dorcas "Hứ" một tiếng kinh tởm, và tiếp tục ì ạch lên cầu thanh.

Charlie và lũ bạn nó bước vô phòng Nhà Vua - căn phòng hình tròn, lạ lùng với chiếc bàn tròn và những bức tường cong, sách xếp thành hang.

Manfred đang đúứng ở cạnh bàn đằng kia, dòm thẳng ra cửa. Tim Charlie lộn nhào, và rồi nỗi thất vọng dội khắp người nó như một cơn sóng bệnh hoạn khi nó trông thấy một dáng người gập cong đang ngồi cạnh Manfred. Đó là Asa Pike, kẻ nô lệ trung thành của Manfred - thằng bé có thể biến thành thú khi trời tối. Thằng đó phải ra trường rồi mới đúng, sao nó vẫn còn ở đây? Ngoài ra còn có ba đứa học trò mới ở trong phòng. Joshua Tilpin là một trong số đó.

"Lẹ lên! Lẹ lên," Manfred sốt ruột ra lệnh. "Đừng có đứng chùm nhum ở cửa thế. Tôi có một thông báo quan

trọng đây."

Charlie rụt người lại và bước vòng quanh bàn đến một chỗ bên cạnh Tancred. Từ chỗ này nó có thể nhìn thấy bức chân dung Vua Đỏ. Một bức tranh cổ vẽ một hình người mờ ảo mặc áo chùng đỏ và đội vương miện vàng

thanh mảnh. Gabriel, Billy và Emma theo sau Charlie trong khi Dorcas lăn vô phòng và dùng chân đóng cửa lại. "Hãy tỏ ra chút tôn trọng nhà của ba tôi chớ!" Manfred mắng.

Dorcas trừng mắt, nhưung không dám nhìn thẳng vào mắt Manfred.

"Có người ngồi chỗ của em rồi," nó càu nhàu.

"Đừng có ngớ ngẩn, Dorc," manfred nói. "Dorc. Hay lắm," Asa cười khụt khịt.

Manfred lờ nó đi. "Ngồi đâu cũng được, trò kia, lẹ lẹ lên."

Nếu Dorcas muốn ngồi một bên Manfred thì quả là nó không còn cơ hội. Chèn vô giữa Manfred và Joshua Tilpin là hai con bé trông rất quái đản. Cả hai đều có tóc đen láng, cắt cụt ngay dưới tai, với một mớ tóc dày rủ trước

trán; nước da nhợt nhạt và mướt trông như đồ sứ.

Hai chị em sinh đôi, rõ ràng, Charlie nghĩ thầm. Nếu chúngb là người thật. Bởi vì gương mặt chúngngây đờ, và cơ thể bất động, đến nỗi rất có thể chúng là búp bê.

Dorcas lết bết đi quanh bàn, và đặt sách vở của nó cạnh sách vở của Joshua. Thằng này đãi con bé một nụ cừơi rạng rỡ, phô hàm răng khập khiễng, và thực tình thì Dorcas cũng cười đáp lễ.

"Giờ mọi người có mặt ở đây cả rồi," Manfred nói, liếc xéo Dorcas, "Tôi muốn giải thích một vài điều. Trước tiên, chắc hẳn các trò không ngờ lại gặp lại tôi. Ừm, các trò sẽ luôn gắn liền với tôi."

Không đứa nào hó hé một tiếng, trừ Asa khịt mũi.

"Bây giờ tôi là thầy trợ giảng," Manfred tiếp, vẻ trịnh trọng. "Công việc cụ thể của tôi là giám sat bài tập về nhà

của các trò, kiểm soát sự phát triển của các trò, gác thi, và giúp đỡ trong bất cứ vấn đề nào liên quan đến cá

nhân hay công việc."

Hắn dừng lại để lấy hơi và Charlie tự hỏi cái người quỷ quái nào trên đời này mà lại muốn nhờ cựu huynh trưởng

giúp đỡ không biết.

"Giờ là phần giới thiệu," Manfred gọi tên tất cả nhữung đứa ngồi quanh bàn cho đến khi tới lượt hai đứa côn gái

bí hiểm ngồi cạnh hắn.

"Và đây là hai chị em sinh đôi, Inez và Idith Branko."

Ngay khi nghe tên mình được xướng lên, cặp sinh đôi cúi đầu và nhìn chằm chằm vào dống sách trước mặt chúng. Với tốc độ kinh hoàng, đám sách bay xẹt qua bàn. Một chồng đáp oạch xuống đùi Charlie, và chồng kia

hạ xuống đùi Tancred.

"Ối, không!" Tancred gầm gừ. "Siêu năng di chuyển đồ vật."

Hai ống tay áo chùng của nó đột nhiên phồng lên, mái tóc vàng kêu lắc rắc và một làn gió thổi tung những xấp

giấy nằm hớ hênh trên bàn.

"Tôi thấy mấy kì nghỉ hè rồi vẫn chưa cải thiện được khả năng tự chủ của trò, Tancred à," Manfred nói bằng

giọng móc mỉa.

Tancred và Charlie đứng dậy và đẩy mấy chồng sách của cặp sinh đôi trở về bên kia bàn. Hai con bé tịnh không nói một lời nào, và mặt chúng vẫn hoàn toàn lạnh băng.

Charlie không cưỡng nổi, nhận xét:

"Lịch sự thì phải cảm ơn chớ."

Idith và Inez vẫn im lặng, nhưng một trong hai đứa, chả biết là đứa nào, bắn cho nó một cai nhìn cực gớm ghiếc.

"Hãy cố mà dế chịu với các nữ sinh mới, Bone." Manfred nói. "Chị em sinh đôi có họ hàng với Zelda Dobinsky,

người đã rời chúng ta. Rõ ràng cô ta là một thiên tài toán học, cho nên cô ta đã đi học đại học ở tuổi còn rất nhỏ. Rủi thay, Asa đây là sự trái ngược với thiên tài. Anh ta vẫn còn học với chúng ta vì thi rớt tất cả các kì thi." Cáu tiết vì xấu hổ, Asa càng sụ xuống hơn trong ghế ngồi của nó, và Charlie đột nhiên có một cảm giác hiếm thấy là thông cảm cho nó. Bị người mình ngưỡng mộ chế giễu chắc hẳn là rất đau đớn.

"Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trong, chúng ta có Joshua Tilpin," Manfred loan báo.

Nghe thấy tên mình, Joshua bật dậy và cúi chào. Ai đó có thể nghĩ nó là một hoàng tử. Tuy nhiên nó trông thật lôi thôi. Áo chùng xanh lá cây bết đầy bụi, lá cây và cỏ lẫn với tóc, và một mẩu mạng nhện lòng thòng ở một

bên tai.

"Ngồi xuống, Joshua," Manfred nói. "Trò không phải là ngôi sao nhạc pop.'

Joshua cười tươi rói với hắn và, trước sự khinh ngạc của mọi người, Manfred cười lại. Nhận được nụ cười từ Manfred tựa như lấy được mứt từ một hòn đá vậy.

Gì tiếp đây? Charlie nghĩ. Nó toan bắt đầu làm bài tập về nhà thì Manfred nói: "Charlie Bone, trò chưa nộp bài chép phạt cho tôi."

"Ồ, xin lỗi, thưa thầy Manfred. Em có đem theo đây," Charlie lục lạo túi xách.

"Tôi yêu cầu trò dem đến văn phòng của tôi mà."

"Nhưng... Em không biết văn phòng ở đâu," Charlie thú nhận.

Manfred thở dài. Hắn nhìn lên trần nhà và dõng dạc.

"Tôi ở đằng sau từ ngữ Trên đường đến âm nhạc

Dưới một chái nhà

Và trước kèn trumpet, mặt nạ và cọ vẽ."

Hắn dừng lại để tạo hiệu quả và lái tia nhìn trở lại Charlie. "Tôi diễn đạt rõ rồi chứ?"

Trong bất kì tình huống nào khác, Charlie chắc hẳn sẽ nói, "Rõ như nước ao tù," nhưng vì tình cảnh này đã căng thẳng rồi, nên nó quyết định nói:

"Thưa vâng, thầy Manfred."

"Tốt. Vây thì đem bài phạt của trò đến văn phòng của tôi trước giờ ngủ, nếu không thì trò sẽ bị cấm túc."

Vụ cấm túc dành cho Charlie

Charlie thật may mắn có một người bạn như Lysander Sage. Lysander luôn làm bài tập về nhà xong sớm, và hôm nay, ngay khi đã hoàn tất phần việc của mình, cậu chú tâm vào giải câu đố của manfred.

Khi Charlie ra khỏi phòng Nhà Vua, Lysander chộp lấy cánh tay nó.

"Anh nghĩ anh biết văn phòng của Manferd ở đâu rồi," nó thì thầm. "Đi tìm phòng ngủ chung của tụi mình đi rồi anh sẽ giải thích."

Billy Raven đã bám kịp chúng.

"Cho em đi cùng với được không?" Nó hỏi Charlie.

"Billy Raven, tôi có lời với trò," Manfred đứng bên ngoài phòng Nhà Vua, nhìn ba đứa.

Billy nhún vai vẻ cam chịu và bước trở lại chỗ Manfred.

"Tội nghiệp thằng bé," Lysander nói khẽ như hơi thở. Nó bắt đầu giải thích làm cách nào mà nó giải được câu đố

của Manfred.

"Anh bắt đầu từ phía dưới lên," nó nói. "Kèn trumpet, mặt nạ và cọ vẽ chắc chắn ám chỉ những biển báo trên các phòng để áo khoác. Vậy, văn phòng của Manfred phải là trước khi em đến đó. Nếu nó ở trên đường đến âm nhạc thì chắc chắn nó phải ở đâu đó dưới hành lang dài dẫn đến tháp Nhạc, và đó là bên dưới chái phía tây

đúng không?"

"Ừm," Charlie nói. "Nhưng còn từ ngữ thì sao? Đằng sau từ ngữ, hắn đã nói vậy."

"Từ ngữ ở trong sách," Lysander nói. "Anh suy luận là nếu em co thể tìm được một kệ sách ở trong hành lang ấy thì văn phòng của Manfred sẽ nằm đằng sau cai kệ. Kệ sách thường được dùng như nhưngc cánh cửa dẫn vô các căn phòng bí mật."

"Chao! Anh đã giải được rồi, Sander. Em thấy có một kệ sách ở dưới đó. Tài thiệt! Cám ơn anh!"

"Không có chi. Hy vọng nó đúng."

Chúng đi đến những phòng ngủ chung đầu tiên và bắt đầu dò danh sách tên gắn trên mỗi cánh cửa. Lysander thấy mình vẫn ngủ chung phòng với Tancred, và Charlie thở phào nhẹ nhõm khi thấy tên nó ở cùng danh sách

với tên của Fidelio. Tên của Billy nằm dưới chót.

Fidelio đang dỡ đồ ra khỏi túi sách. Nó đã xí chiếc giường bên cạnh cho Charlie. Phong fngủ chung gần như vẫn y chang năm ngoái. Sau cai giường hẹp kê ở mỗi bên của căn phòng dài, lạnh lẽo, chỉ có độc một bóng đèn tròn

tù mù treo ở giữa phòng.

Charlie lẹ làng ấn tất cả đồ đạc của mình vô cái tủ nhỏ ở đầu giường và treo áo chùng lên móc.

"Em đi tìm văn phòng của Manfred đây,' nó bảo Fidelio. "Anh bao che giùm em nếu bà giám thị đến, được không?"

"Anh sẽ nói là em ở trong phòng tắm," Fidelio nói. "Chúc may mắn."

Charlie đi được một nửa hành lang thì nó gặp một Billy Raven phấn khởi đang xuôi theo hướng ngược lại. "Em đượcnhận làm con nuôi rồi," Billy nói. "Anh Manfred vừa mới báo cho em."

"Tuyệt!" Charlie reo lên. Billy luôn ao ước được nhận làm con nuôi.

Thằng bé sờ lên mái tóc trắng của mình:

"Em thacư mắc tại sao họ lại muốn em. Ý em là, họ có thể chọn bất cứ thanừg nhỏ nào khác. Một đứa trông dễ coi hơn em, một đứa nào đó khác em."

"Họ là ai vây?" Charlie hỏi, bỗng dưng thấy lo lắng cho Billy.

"Họ được gọi là gia đình de Grey. Ông và bà de Grey. Thực tìn thì họ già hơn em tưởng. Anh Manfred cho em coi một tấm hình. Nhưng anh ấy nói họdễ mến, và rất tử tế. Và họ có một ngôi nhà xinh xắn. Émẽ có phòng riêng của em với tất cả mọi thứ em muốn, kể cả một cai T.V, anh ấy nói vậy. Tưởng tượng coi, một cái T.V của

riêng em."

Charlie muốn coi tấm hình gia đình de Grey đó. Chắc chắn nó sẽ có thể biết thêm đôi chút về họ, nếu nó nghe được giọnh nói của họ.

"Manfred có đưa tấm hình đó cho em không?" Nó hỏi. Billy lắc đầu.

"Ừm, tin tốt đấy, Billy."

Charlie định vù đi tiếp thì Billy bất ngờ hỏi:

"Anh có mang cây gậy phép của anh đến trường không?"

"Có, anh..." Charlie ngừng lại. "Sao em lại muốn biết điều đó?"

"Em chỉ nghĩ là, anh biết đó, thiệt tốt nếu anh có nó bên cạnh... để bảo vệ anh, đại khái vậy. Anh cât nó trong

tủ đầu giường phải không?"

"Không," Charlie giấu cây gậyphép quý giá của nó dưới nệm giường, nhưng nó sẽ không nói cho Billy biết. Nó

đã nói đủ rồi.

"Không. Tủ đầu giường thì dài qua." Billy nói. "Vậy thì ở dưới nệm phải không?" Charlie cảm tháy bất an. Phải chăng Billy vẫn lamgián điệp cho gia đình Bloor?

"Anh phải đi gấp, Billy," nó vộinói. "Anh phải đem bài chép phạt đến văn phòng của anh Manfred. Gặp lại em

sau."

Charlie quầy quả đi tiếp. Mọi hoạt động trong trường đều đã chuyển vào các phòng ngủ chung, và khu tiền sảnh rộng rinh, lát đá phiến dội vang tiếng những bước chân đơn độc của Charlie. Lần thứ hai trong nagỳ, nó mở cánh cửa sổ dẫn tới Tháp Nhạc. Nó bước vô hành lang tối tăm và lần mò theonhững bức tường đá thô nhám. Được chừng nửa đường, về phía tay phải, nó thấy một hốc tường nhỏ. Charlie nhích từng tí một trong bóng tối cho toiứ khi đến một dãy kệ hẹp, nhét đầy những cuốn sách trông buồn tẻ và nghiêm nghị.

"Hừ, mày phải là cái cửa không đó?"

Charlie đẩy một bên kệ sách, rồi lại đẩy phía bên kia. Không có gì chuyển động. Có lẽ đó không phải là cửa gì cả. Lần lượt, Charlie bắt đầu rút từng cuốn sách ra, lục soát tìm quả đấm hay một cáit ay cầm để mở cái cửa

giả định. Nhưng không có gì.

"Trò đang làm gì vậy/"

Charlie giật bắn người. Một hình thù trong áo chùng tím lướt về phía nó. "Sao trò lại ở đây?" Ông thầy Tantalus Ebony hỏi.

"Em đang tìm văn phòng của thầy Manfred," Charlie lắp bắp.

"Ra vậy," ông Ebony quẳng cho nó một cái nhìn căm ghét tột độ, đến mức Charlie phải lùi lại, chết điếng vì kinh ngạc. Một mùi hổ lốn ngột ngạt lấp đầy lỗ mũi nó: mùi không khí tù túng, sáp đèn cầy, dồ mục ruỗng, nấm mốc

và nhọ nồi.

"Trò cũng biết sợ là tốt đâyd, Bone," ông thầy lạnh lùng nói. "Tò là thằng quỉ nhỏ chuyên gây rắc rối, đúng không?"

Trước khi Charlie có thể trả lời, nét mặt của người đàn ông ấy dường như tiêu đi, thay vào bằng một chuỗi những biểu cảm hoàn toàn khác nhau lướt qua trên khuôn mặt xanh xao của ông. Trong chừng một phần mười giây, Charlie cảm thấy, đằng sau những mặt nạ biến đổi đó, có một người nhìn ra nó, hiền từ. Tuy nhiên, nó chắc chắn là mình chỉ tưởng tượng ra điều đó, khi vẻ ơ hờ ngạo mạn trở lại trên gương mặt ông thầy giáo. "Trò muốn tìm văn phòng," thầy Ebony ấn vô một mắt gỗ trên nóc kệ sách. Ngay lập tức cai kệ vung qua một bên, để lộ nột htất tối lừo nhừo của một htư phòng nhỏ.

"Em cam ơn thầy," sợ sệt, Charlie bước vô trong.

"Ta để trò ở lại nhé. Cúc cu," giọng nói của ông thầy quái dị thay đổi một trời một vực. Ông vẫy nhữngngón tay dài ngoẵng và vọt đi mất, miệng ngâm nga một giai điệu hơi quen quen.

Charlie nhìn qunh quất căn phòng. Rất ngăn nắp. Một tấm hình giáo sư Bloor trông trẻ hơn, với một cậu bé và một phụ nữ tóc đen, treo phia strên lò sưởi. Manfred và ba mẹ hắn. Dưới cửa sổ có một cái bàn làm việc, và một ghế bành xoay bọc da quảmặt ra mảnh sân gạch ngoìah kia. Charlie bước tới cai bàn và đặt bài chép phạt của nó lên một chồng giấy tờ. Nó vừa dợm quay đi thì có thứ gì đó đập vô mắt nó. Một bức hình in hình một con

ngựa để bên cạnh chồng giấy. Charlie cầm bức hình lên. Bên dưới còn có những tấm hình khác: hình in những

bộ xương ngựa.

Lúc này, đáng ra Charlie nên rời khỏi phòng, nhưugn nó lại chsu ý đến một gói hình nằm ở cuối bàn. Charlir không thuộc loại nhóc con chịu rút lui khi đang thấy thứ gì đó thú vị. Và nó luôn quan tâm đến những hình chụp. Khi cẩn thận cầm gói hình lên, nó đã không nghe được tiếng "soạt" nhỏ ở sau lưng.

Mấy tấm hình thiệt đáng thất vọng. Chỉ có hai người trong hình: một ông và một bà. Cả hai đều ở tuổi trung niên và trông hơi tuyềnh toàng. Người đàn ông tóc thưa rỉnh và đeo mắt kiếng, người phụ nữ mặt tròn, tóc

ngắn và thẳng, răng rất dài. Bà ta luôn cười trong tất cả các tấm hình. Khôn, không phải là mỉm cười, Charlie

khẳng định. Đúng hơn, có vẻ như bà ta đang cắn một vật vô hình giữa hai hàm răng.

Trong hầu hết các tấm hinhg, hai ông bà này đều ngồi cạnh nhau trên ghế xô pha. Nhưng có hai tâm chụp

trong vườn và hai tấm nữa chụp trong nàh bếp. Charlie đang xem kĩ căn bếp có vẻ trống trơn thì đột nhiên nó

nghe tiếng người phụ nữ nói.

Cười lên coi, Usher. Chúng ta muốn làm thằng bé an lòng mà.

Tôi không thích con nít. Người đàn ông eo ** và nói như giọng mũi. Không bao giờ thích. Sẽ không lâu đâu mà.

Chừng bao lâu?

Đến chừng nào thằng bé làm những gì họ muốn. Ông phải dùng phép thuật của mình, ông biết đó... để ngăn nó

trốn.

Phép thuật? Người đàn ông rên rỉ. Cái khi..

Charlie nhe có tiếng bước chân. Nó vội vàng đút những tấm hình trở vô bọc và đặt lại chỗ cũ ở cuối bàn. Nhưng khi nó đi ra cửa, nó thấy cửa đã đóng chặt. Không tay nắm, không lỗ khóa, không chốt. Nó đã bị nhốt.

Charlie đập mạnh cửa.

"Chào! Có ai ngoài đó không? Tôi, Charlie Bone đây." Không có tiếng đáp lại.

Charlie lại đập cửa.

"Hây, thầy Ebony ơi! Thầy có ở đó không? Thầy Manfred ơi?"

Charlie tiếp tục gõ cửa và gọi suốt mấy phút, sau đó nó thôi không gọi nữa.

Trời bắt đầu tối. Charlie ngồi trong ghế bành và nghĩ về mấy tấm hình. Đột nhiên, điều này nảy ra trong đầu nó. Rằng học là ba mẹ mới của Billy Raven. Billy đã luôn ao ước có ba mẹ tử tế và dễ mến và một mái ấm thực sự. Làm sao Charlie có thể nói cho nó biết sự thật này?

Khi Charlie đang ngồi trong bóng tối, phân vân trước tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình thì đèn ngoáiân vụt

tắt, từng ngọn một, cho đến khi Charlie bị bỏ lảitong màn đêm đen kịt. Nó đi quanh phòng, sờ soạng tìm công

tắc đèn. Xem ra không có cái nào. Nó đẩy cửa. Nó gõ cửa và gọi, nhưung không ai đến. Đồng hồ nhà thờ lớn

điểm 9 giừo. Charlie ngồi bệt xuống sàn nhà và ngủ ga ngủ gật

Có tiếng động từ ngoài sân khiến nó thưc giấc. Cộp! Cộp! Cộp! Charlie lắc cái đầu ngái ngủ của nó. Vó ngựa. Có một con ngựa trong mảnh sân gạch. Charlie đứng dậy. Nó chỉ có thể nhìn thấy cai khung sáng lờ mờ hình chữ nhật của cửa sổ, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì ngoài sân.

Đồng hồ nhà thờ lớn điểm 10 giừo và tiếng vó ngựa mờ dần. Charlie định hét lên lần nữa thì cánh cửa bật mở và một luồng sáng chói lói chiếu phực vô mắt nó.

"Mày làm cái quái gì ở đây hả?"

Charlie nhận ra giọng nói trầm của giáo sư Bloor.

"Con đến để nộp bài chép phạt cho thầy Manfred, thưa ngài, và rồi cửa đóng sập lai."

"Làm sao mày vô đây được?"

"Thầy Ebony đưa con vô, thưa ngài."

"Vậy à?"

"Vâng, thưa ngài,"

Charlie chỉ mong giáo sư Bloor chĩa cây đuốc ra khỏi mắt nó.

"Hừm, mày bị câm túc, Charlie Bone. Mày sẽ ở lại trường thêm một đêm nữa. Giờ thì về phòng ngủ chung của

mày đi."

Giáo sư Bloor lôi Charlie ra khỏi phòng và lẳng nó ra hành lang. Charlie về gần đến phòng ngủ chung của nó thì

bà giám thị lù lù hiện từ một góc khuất và túm lấy vai nó.

"Ui da!" Charlie hét lên. "Nếu bà tính cấm túc con thì bà khỏi phải mất công. Con đã bọ cấm túc rồi." Charlie nghe thấy bà cô Lucretia Yewbeam nghiến răng trèo trẹo.

"Im miệng, cho tới khi tao hỏi mày. Nãy giờ mày ở đâu?'

"Bị kẹt trong văn phòng của Manfred," Charlie thở dài nói. "Thầy ấy yêu cầu con nộp bài chép phạt." "Chép phạt à? Ngay ngày đầu của học kỳ. Mày thiệt vô vọng. Tao không thể tin là chúng ta có họ hàng với

nhau."

"Con cũng vậy," Charlie nói khẽ.

Sáng hôm sau, trên đừơng xuống ăn sáng, Charlie kể cho Fidelio nghe mọi chuyện xảy ra tối hôm trước. Thằng

bạn nó chăm chú lắng nghe cho tới khi Charlie bắt đầu nói đến mấy tấm hình.

"Và em lại lắng nghe," Fidelio nói một cách châm biếm.

"Em không thể nhin đựơc," Charlie thú nhận. "Họ là một cặp ác ôn, anh Fido à. Nhưng em có thể nói với Billy

thế nào đây?"

"Tụi minhg hãy hy vọng là em sai, và mấy người đó không phải là ông bà de Grey."

Hai đứa bước vô nhà ăn lớn và ngồi vô chỗ của chúng bên bàn khoa Nhạc.

"Máy tấm hình ngựa thú vị đấy," Fidelio nói khi quết bơ lên bánh mì khô. Billy Raven ngỏng cổ lên khỏi món cốm bắp.

"Anh vừa nói ngựa hả?"

"Nói với em sau, Billy," Charlie nói. "Nhân tiện nói luôn, cuối tuần này anh bị cấm túc, vì thế anh sẽ bầu bạn với

em."

"Ba mẹ mới sẽ đến đón em vào thứ Bảy," Billy nói.

"Sớm vậy sao?"

"Em có mái nhà của riên gem." Billy nhảy cẫng lên ngay tại chỗ. "Dzeee!"

Charlie cười nhe răng. Nó không muốn làm tan nát hy vọng của Billy, nhưng nó chắc chắn là việc nhận con nuôi thực sự không diễn ra như thế. Làm sao gia đình Blỏo lại không bị trừng phạt nhỉ? Họ giấu con nít khỏi họ hàng của chúng, họ tro chuyển trẻ mồ côi lòng vòng, mà không cho chúng được lên tiếng, họ thậm chí còn làm các

ông bố biến mất.

"Charlie!" Fidelio thúc khuỷu tay vô nó. "Nếu em không muốn ăn phần của em thì để anh ăn cho." Charlie lừa nốt chỗ cốm bắp vô miệng, ráng lẹ hết sức.

"Em nghĩ là anh không muốn bị cấm túc cùng với em đâu hả?" Charlie hỏi.

Fidelio lộ vẻ bối rối.

"Xin lỗi. Không được rồi. Anh đã hứa sẽ chơi đàn trong ban nhạc của anh trai anh vào sáng thứ Bảy." "Ít nhất thì em cũng được thấy ba mẹ của Billy. Vụ đó chắc sẽ thú vị," Charlie nói.

Trong giừo nghỉ giải lao đầu tiên, Charlie thấy Emma và Olivia đang chạy quanh sân.

"Ê, hai bồ!" Charlie la to, vừa thở hổn hển chạy tới bên cạnh bọn con gái. "Mấy bồ... ờ... có bận vào thứ Bảy không?"

"Tiệm sách!" Emma nói. "Đó là ngày bận rôn của dì Julia."

"Đằng ấy lại bị cấm túc à, Charlie?" Olivia vừa hỏi vừa chạy chậm lại. "Ừ. Thế, bồ có bận không?"

Olivia ngừng chạy, và Emma dừng lại bên cạnh Olivia.

"Có không?" Charlie nói, hít một hơi thiệt sâu.

"Thực tình," Olivia nghiêm trang nói, "thứ Bảy này chắc chắn sẽ là ngày quan trọng nhất đời tớ."

"Đúng thế," Emma xác nhận.

"Tơ sẽ thử vai cho một bộ phim. Đó là một bộ phim hoành tráng thực sự. Có ít nhất ba ngôi sao vĩ đại tham gia,

và tớ sẽ là con gái của Tom Ưinston, hay ít ra là tớ nghĩ mình sẽ đóng vai đó." "Tom Ưinston?" Charlie hỏi.

"Đừng nói với tớ là đằng ấy chưa bao giừonghe nói đến Tom Winston à nhe," Olivia nói, nhíu mày. "Ông ấy là một ngôi sao VĨ ĐẠI!"

"Ờ. Thôi. À, chúc may mắn. Ê , bồ dám sẽ nổi tiếng lắm, Livvie!"

"Dám chứ sao," Emma trung thành nói. "Có thể," Olivia nói với nụ cười tự tin.

"Vậy, bồ có còn nói chuyện với tụi này khi bồ nổi tiếng không?" Charlie hỏi. "Đằng ấy nghĩ sao?" Nụ cười của Olivia nở rộng hơn.

Tiếng tù và đi săn rúc lên và Charlie không thể trả lời Olivia được, bởi vì hai con bé đã lao vụt đi và phóng tới

cửa vườn trước Charlie thiệt lâu. Charlie kết luận là tụi ấy hẳn đã luyện suốt cả kì nghỉ vùa qua.

"Đoán thử chuyện gì coi!" Charlie nói khi ập vô phòng để áo khoác xanh da trời. "Olivia Vertigo sắp trở thành một minh tinh màn bạc."

Fidelio ngồi trên băng ghế, đang thay giày.

"Là sao?" Nó nói, đánh rớt luôn một chiếc giày thể thao.

Nhiều đứa khác háo hức nhìn Charlie, và Gwyneth Howells, đứa chơi đàn hạp nói: "Cái con Olivia Vertigo ấy lúc nào mà chả nghĩ mình là thiên tài."

"Nhưng nó là thiên tài thiệt," Rosie Stubbs nói một cách độ lượng. "Ý mình là, mình dám cá là nó sẽ nổi tiếng." Gwyeth ném cho con bạn thân của nó một cái nhìn khinh khỉnh, và Rosie nói:

"Dào, thôi mà, Gwyn, bồ phải chấp nhận rằng nó là một nữ diễn viên xuất sắc."

"Nó sẽ thử vai vào thứ Bảy này," Charlie bảo bon chúng. "Để chọn một vai trong bộ phim hoành tráng. Nó sẽ là

con gái của Tom Winston."

"Nếu nó được nhậ vai đó," Gwyneth khịt mũi. "Nó sẽ nhận được," Fidelio nói. "Không bàn cãi."

Chẳng nấy chốc toàn trường đã tràn ngập những lời xì xào, bàn tán về tiếng tăm sắp nổi như cồn của Olivia Vertigo. Và Olivia bắt đầu ước gì nó giữ bí mật việc thử vai của mình.

Rốt cuộc Charlie cũng xoay xở được để không gặp rầy rà trong thời gian còn lại của tuần, và khi thứ Saud đến, nó nhậ thấy mình không lo sợ về một đêm ở lại thêm tại trường như nó tưởng.

Nó đi xuốn tiền sảnh chính để chúc Olivia may mắn trước khi conbé ra về, nhưng con bé không cám ơn Charlie.

"Phải chi đằng ấy đừng có rêu rao với quá nhiều người như thế," nó cằn nhằn. "Xúi quẩy hết sức." Và nó sải bước đi lẹ, không thèm kiếc lại đằng sau.

"Nó lo lắng ấy mà," Emma giải thích. "Rất tiếc về vụ cấm túc của bồ, charlie. Tụi mình sẽ gặp nhau vào Chủ nhật, nha?"

"Ở quán Cà phê Thú Kiển lúc hai giờ," Charlie nói.

"Đồng ý." Emma phóng theo sau Olivia, mấy bím tóc vàng, dài của nó nhảy lưng tưng trên áo chùng.

Một mùi quen thuộc sộc lên mũi Charlie khi nó bước vô phòng ngủ chung, và nó chẳng hề ngạc nhiên khi thấy

con chó của bà Bếp trưởng, con May Phúc, đang ngồi dưới chân giường Billy. Hôm nay con chó già trông ủ rũ

hơn bình thường. Chảlrie nghĩ là do nó đã quá già và sức khỏe kém (con May Phúc mập ú nu), nhưng Billy lẹ

làng đính chính cho con chó.

"Nó đang buồn bực," Billy nói, thằng bé đang cố sắp đồ đạc vô cái va ly cũ nèm. "Một phần vì em sắp được nhận làm con nuôi, nhưng chủ yếu là do nó đã trông thấy một việc kinh khủng xảy ra."

"Hả?" Charlie chìm xuống chiếc giường satư bên giường của Billy. "Nó đã thấy gì?"

Billy liếc May Phúc, con chó vừa phụt ra một tiếng rên nhỏ.

"Thiệt khó giải thích . Em cứ nghĩ là mình hiểu sai và nó có ý gì đó khác cơ, nhưng rồi nó nói, "Thật! Thật! Ngựa

bay qua tường."

"Cái gì?" Chân mày Charlie dựng đứng lên.

Billy ngưng sắp xếp đồ đạc và ngồi xuống giường.

"Nó nói nó đã ở tầng cao nhất của tòa nhà trong một căn phòng thật dài. Có Manfred ở đó, có lão Ezekiel và ba

bà cô của anh, Charlie. Nó nói có những thứ ở trên bàn: lông thú, đồ kim loại và... những mẩu xương rất, rất xa xưa."

Da đầu của charlie như bị kim châm. "Loại xương gì?"

"Xương ngựa."

May Phúc bất thình lình gù một tiếng trong họng

"Nó nói rằng những mẩu xương đó biến thành một con ngựa." Billy nói rất chậm rãi, như thể nó đang chờ Charlie ngăn nó lại. Nhưng Charlie chỉ lắng nghr , há hốc miệng.

"Hai trong số các bà cô của anh thao tác với các thứ trên bàn," Billy tiếp, "và lão Ezekiel có một hộp thiếc tạo ra tia lửa. Có một tiếng nổ và nhiều khói và một con ngựa nhảy ra khỏi bàn rồi đâm xuyên qua tường."

"Họ đang mưu tính cái quái gì vậy? Anh không biết là mấy bà cô của anh có thể làm được những trò như thế." "Có bốn người bon họ, nhớ chưa? Tính luôn cả anh Manfred và lão Ezekiel. Có lẽ như vậy thì quyền phép của họ

mạnh hơn.: Billy nhíu mày và lắc đầu. "Chắc chắn đó là con ngựa em đã thấy trên trời."

Charlie nhận thấy sự việc kì lạ này đã rõ lên rất nhiều: những tấm hình trên bàn của Manfred chẳng hạn, sự hiện hữu ma quái trong vườn, và tiếng vó ngựa Charlie nghe thấy trong sân gạch.

"Nhưng mục đích của tất cả những việc này là gì?"

Billy nhún vai:

"Có lẽ tụi mình sẽ không bao giừo biết được."

"Ơ, anh nghĩ tụi mình sẽ biết chứ. Thậm chí còn chắc chắn kìa.' "Nếu em gặp con ngựa, em có thể nói chuyện với nó." Billy nói. "Có lẽ đằng nào em cũng sẽ nói chuyện với nó." Charlie suy đoán.

Billy ngó Charlie trân trân qua hai tròng kiếng dày.

"Ừ." Billy nói vẻ tư lự. Nó nhảy khỏi giường và trở lại việc sắp xếp đồ đạc. Đống quần áo lèo tèo nằm trên giưường chỉ chiếm phân nửa chiếc va-li rộng.

"Em không có gì hơn nữa. Chỉ vậy thôi." Billy đóng va-li lại và kéo lết va-li trên sàn nhà.

"Không có gì nữa sao?"

Charlie chạnh lòng. Đồ chơi, sách truyện, trò chơi games, giày thể thao, quần áo mạc cuối tuần của Billy đâu? Ở nhà, chiếc tủ trong phòng Charlie chứa đủ thứ. Nhiêu đây là tất cả tàu sabr Billy có trên đời này sao?

"Còn một thứ," Billy lôi từ trong tủ đầu giưường ra một cái bịch ni lông và dốc ngược bịch ra giường. Ngoài những cuốn sách nhỏ mà bà bếp trưởng cho nó, có một bộ bài, một con gấu nhỏ một tai, và một thứ bọc trong

giấy mềm ố vàng.

"Gia đình Bloor thường cho em đồ ăn để làm quà," Billy vừa nói vừa cẩn thận mửo gói giáy ra, "vậy nên của cải của em bị ăn gần hết rồi." Nó toét miệng cười bẽn lẽn. "Nhưng em giữ kỹ những cái này."

Nó lột lớp giấy cuối cùng ra, để lộ bốn cây đèn cầy trắng.

"Em tìm thấy chúng trong tủ buyp-phê của cô em trước khi em được gửi vô học viện Bloor.Con chó của cô em nói với em là mấy cây đèn cầy đi chung với một ổ bánh sinh nhật, nhưng cô em không bao giờ cắm chúng lên

bánh, và em không bao giừo biết ai đã gửi bánh cho em."

Charlie nhìn săm soi bốn cây đèn cầy đang nằm trong tay Billy. Mỗi cây trông như thể được làm từ lông chim cuộn laii. Những sợi sáp mỏng mảnh cuốn quanh thân nến theo hình xoắn ốc khiến chúng có vẻ huyền bí và đầy ma thuật.

"Em không bao giừo đốt chúng," Billy nói nhỏ.

"Anh thấy rồi," Charlie nheo mắt lại và cúi sát hơn vào mấy cây đèn cầy . "Anh thắc mắc không biết ai đã gửi chúng cho em."

"Ước gì em buết được điều đó." Billy cẩn thạn xếp mấy cây đèn cầy lên tờ giấy mềm và đút chúng vô túi áo.

Thiệt sáng suốt là nó đã làm như vậy, bởi vì ngay phút kế tiếp, bà cô Lucretia Yewbean xông vô phòng ngủ chung và bắt đầu xem xét việc gói ghém đồ đạc của Billy.

"Bừa bãi qua," bà ta nói, quăng tất cả mọi thứ xuống sàn nhà. "Xếp quần áo ngay ngắn lại coi, Billy Raven. Ba

mẹ mới của mày không chấp nhận việc đóng gói cẩu thả đấu." "Ba mẹ mới của Billy là ai vậy?' Charlie hỏi.

"Không phải việc của mày," bà cô của nó quát.

"Nhưng đó là việc của Billy," Charlie cãi. "Nó chỉ biết tên của họ, không biết họ có gốc gác ở đâu, hay họ có gia

đình không, hay họ có sống...'

"Mày không cần biết mấy thứ đó," bà giám thị nói."Billy sẽ biết ngay thôi. Giờ thì chải đầu rồi hãy đi ăn, thằng

kia. Trông mày như mới bò ra khỏi giường vậy.'

Charlie khịt một tiếng kinh tởm. Thế nào bà cô Lucretia Yewbean cũng nhắc đến đầu tóc nó mà. Chắc hẳn bà ta

đã đoán được là nó quên đem theo lược chải đầu.

Khi bà giám thị đi khỏi, Charlie giúp Billy sắp xếp lại va-li. Lần thứ hai, nhưng trông cái va-li cũng chẳng gọn gàng gì hơn.

"Vậy được rồi," Billy hớn hở nói. "Nghĩ coi, em có nhà để về rồi."

Charlie tự hỏi liệu thằng bé này có hạnh phúc như nó làm ra vẻ như thế hay không. Đêm đó, Billy cứ lăn lôn mãi trong tấm khăn trải giường của mình. Bắt đầu cuộc sống mới với ba mẹ lạ hoắc hoàn toàn không phải là một việc vẫn xảy ra mỗi ngày được nữa.

Lời tuyên thệ của Billy

Ông bà de Grey đến ngáy trước giờ ăn trưa hôm thứ bảy. Billy và Charlie đã trải qua cả buổi sáng làm bài tập

về nhà trong phòng nhà Vua. Hên là Manfred không có ở đó để trông chừng chúng, nên chúng không phải làm

bài quá vất vả. Billy không nhắc gì đến cây gậy phép nữa, và Charlie cảm thấy rằng, có lẽ, những câu hỏi của

Billy là ngây thơ.

Vào lúc hai giờ Mnfred thò đầu qua cửa và nạt: "Billy, mang va-li của trò xuống tiền sảnh."

"Thưa vâng, thầy Manfred," mắt Billy căng bự như cái dĩa để tách. Trông nó vừa sung sướng lại vừa sợ sệt. "Để em giúp nó một tay," Charlie đề nghị.

"Không cần mày. Đây là việc của Billy."

Charlie theo Billy lên lầu khi thằng bé đi lấy va-li.

"Tạm biệt," Billy nói. Mặt nó đỏ hồng lên vì phấn khích, nhưng thiệt khó mà biết nó đang nghĩ gì. "Có lẽ em sẽ gặp anh vào chủ nhật."

"Hay quá. Bảo ba mẹ đưa em tới nhà anh, rồi anh sẽ dẫn em tới quán cà Phê Thú Kiểng," Charlie nói.

"À," Billy đặt va-li xuốn. "Còn con Rembrandt sẽ ra sao đây? Anh có nghĩ là họ sẽ cho em nuôi nó trong nhà

không?"

"Có lẽ là không. Nhưng đừng lo. Anh sẽ nhờ bà bếp trưởng lo liệu cho em. Bà ấy sẽ đem nó đến quán cà phê."

Billy mỉm cười:

"Vậy thì gặp anh vào Chủ nhật."

Vài phút sau khi Billy rời khỏi phòng, Charlie nghe có tiếng người nói ở ngoài mảnh sân gạch. Nó nhìn ra và

thấy môt người đàn ông và một phụ nữ đang nói chuyện với giáo sư Bloor. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ là những người trong mấy tấm hình của Manfred. Ông hiệu trưởng dẫn họ qua cánh cổng chính, nhưng ngay trước khi họ biến khỏi tầm mắt, người đàn ông nhìn lên cửa sổ của Charlie. Charlie vội núp sau tấm rèm.

Từ vẻ mặt không cười của ông de Grey, Charlie có thể khẳng dịnh là ông ta được ban phép thuật rất hùng mạnh, một phép thuật mà sẽ gây rắc rối cho Billy Raven.

"Nhưng mà là phép gì nhỉ?" Charlie tự hỏi.

Lúc một giờ trưa, nó thơ thẩn đi xuống căn-tin. Không có ai ở đó, kể cả Manfred. Charlie đứng sau cái quầy trống không. Không thấy một cái dĩa, hay một bộ dao nĩa nào.

Dáng người tròn nhỏ của bà bếp trưởng bươn ào qua cửa nhà bếp.

"Charlie, Charlie, Charlie!" bà rối rít. "Ta không biết là con ở đây. Con muốn ăn trưa chứ hả?" "Dạ, có," Charlie hấp tấp nói. "Con sắp chết đói rồi."

Bà bếp trưởng ra hiệu cho nó vô nhà bếp.

"Nếu chỉ có mình còn, Charlie, thì chúng ta cùng ăn chung.. ở chỗ của ta.'

Charlie theo bà bếp trưởng đi qua cánh cửa đóng tự động bên hông quầy, và năm phút sau Charlie đã được húp một chén xúp cả cải vàng ngon tuyệt.

"Ta nấu gần năm lít xúp, cho gia đình Bloor," bà bếp trưởng nói. "ta e là không còn bò rô-ti nữa, nhưng có bánh trứng đường sô-cô-la."

Bánh mì vóng tự tay bà bếp trưởng làm, nóng và giòn, và bà bảo Charlie muôns ăn bao nhiêu bơ là tùy ý. Sau hai chén xúp, bốn cái bánh mì vòng quết bơ và một lát bánh trứng đường đặc biệt thiệt to của bà bếp trưởng, nó cảm thấy mình đã ăn đủ để sống tới Chủ nhật.

"Đây là món xúp ưa thích nhất của Billy," bà bếp trưởng buồn bã nói. "ta với nó luôn ăn trưa cùng nhau vào cuoois tuần." bà rút một chiếc khăn mùi xoa lớn màu trắng ra và hỉ mui ầm ĩ.

"Bà bếp trưởng, bà không lo lắng khi Billy được nhận làm con nuôi quá đột ngột như vậy sao?" Charlie hỏi. "Ta nghĩ là có. Ta không thích bộ dạng của mấy người de Grey đó." Bà lắc đầu. "Họ không có vẻ là những bậc

cha mẹ, Charlie à. Nhìn là thấy liền.'

"Bà nghĩ họ có để Billy nuôi Rembrandt không?"

"Ta cho là không. Nhưng ta sẽ đem chàng tí bé bỏng đó đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Ông bà Onimous sẽ giữ nó

an toàn, và Billy có thể đến thăm nó vào cuối tuần."

Bà bếp trưởng là một trong số ít những người lớn trong trường mà Charlie biết chắc chắn đã được thừa hưởng một phần quyền phép huyền bí của Vua Đỏ. Tuy nhiên, đến nay gia đình Bloor vẫn không biết bà thực sự là ai, và bà quyết tâm giữ như thế. Bà đã chọnviệc giành cả đời mình để trông nom những đứa trẻ có phép thuật ở học viện Bloor, nhưng không phải lúc nào bà cũng bảo vệ được chúng, và điều này khiến bà vô cùng buồn

phiền.

Thình lình, bà bếp trưởng nhoài người sát lại gần Charlie và thì thào:

"ta nhận được một lá thư từ một người gần gũi với Billy.' "Ai vậy?" Charlie nghiêm trang hỏi.

Bà bếp trưởng ngoái nhìn ra sau:

"Ta chưa thể nói cho con biết tên ông ấy được, Charlie. Ông ấy là một người họ hàng xa của Billy và khi ba mẹ của thằng bé tội nghiệp mất, người... người này... cố nhận thằng bé làm con nuôi. Nhưng ông ấy và gia đình Bloor, à, nói sao cho sòng phẳng nhỉ, cực kỳ không thuận với nhau. Với gia đình con cũng y như vậy. Nhà Yewbean suýt nữa thì ám sát được người đàn ông đó, cho nên ông ta phải rút lui, chuyện là vậy.'

Quai hàm của Charlie xệ xuống. "Ám sát? Bà nói là gia đình con...?"

"Con ngạc nhiên lắm sao, Charlie?"

"Dạ không," Charlie thú nhận, nghĩ đến mấy bà cô của nó. "Con nghĩ là không. Nhưng làm sao gia đình Bloor có

được Billy?"

"Cô của nó đã ký giấy trao nó, đơn giản thế thôi.' Bà bếp trưởng vuột ra một tiếng "hứ', vẻ khinh thường. "Một phụ nữ yếu đuối. chắc hẳn họ đã mua chuộc bà ta."

"Nhưng tại sao họ lại muốn thằng bé dự vậy?"

"Do phép thuật của nó, Charlie. Mặc dù phép thuật đó không lộ ra cho mãi đến khi thằng bé sáu tuổi, nhưng họ đã nghi ngờ rồi. Dòng họ Raven là một dòng họ rất tài phép. Người họ hàng của Billy nói với ta rằng Billy là chủ

nhân hợp pháp của Lâu Đài Gương."

"Lâu Đài Gương?" Charlie sốt sắng nói. "Chà! Bà kể cho con nghe nữa đi."

"Charlie, cái vẻ háo hức hiện ra trong mắt con kìa. Đừng có nhúng mũi vô những chuyện không liên quan đến

con."

"Con chỉ muốn biết nó ở đâu thôi mà," Charlie nói, vẻ ngây ngô.

"Nói thiệt ta không biết," bà bếp trưởng thú nhận. "Có lẽ Ông cậu Paton của con có thể cho con biết. Theo như ta biết, ông ấy là một quý ông hiểu biết thâm sâu.'

Đáng lý ra Charlie còn nghe được thêm nữa, nhưng họ đã bị gã đàn ông giúp việc vặt, gã Weedon, cắt ngang một cách thô lỗ. Thò cái đầu trọc qua cửa nhà bếp, gã rống kên:

"Ra là mày ở đây, thằng Bone kia. Mày có cả thảy năm phút để chuẩn bịi." Charlie nhảy dựng lên.

"Sao vậy? Con tưởng con đựơc ở đấy tới giờ uống trà."

"Sao vậy? Sao vậy?" Gã Weedon nhái lại bằng giọng rỉa rói. "Bởi vì sẽ tiện cho bà cô mày tới đón mày, chứ còn sao nữa. Xem ra mày không để ý là xe buýt trường không chạy vào cuối tuần, và hình như không ai khác trong

gia đình mày biết lái xe... ít nhất là vào ban ngày."

"Ồ" Charlie cảm thấy xấu hổ cho Ông cậu của mình.

"Vậy thì, tạm biệt bà bếp trưởng. Cám ơn bà về bữa trưa." "Tạm biệt, Charlie. Ngoan nhé," bà bếp trưởng nháy mắt với nó.

Charlie theo gã Weedon đi ngang qua những quầy bếp, nhữung bồn rửa trống rỗng, những kệ chén đĩa bằng sứ

và những dãy xoong nồi sáng lóa.

"Lẹ lên,' gã Weedon giục. "Bà ấy không thể chờ mày được đâu."

Họ ra tới tiền sảnh, nơi charlie thấy bà cô Eustacia đang đi đi lại lại trước cổng chính. Một cảm giác kinh tởm muốn phát bệnh chộn lên trong bụng Charlie. Bà cô Eustacia chuyên lái xe như điên. Bà là tài xế duy nhất có

thể khiến nó say xe.

"Lẹ lẹ coi! Lẹ!" bà cô Eustacia nóng nảy. "Bọn tao đã kiếm mày khắp nơi.'

"Cháu phải đi lấy đồ đã," Charlie nói, nghĩ đến cây gậy phép giấu dưới nệm giường của nó.

"Ở đây cả rồi!" Bà cô Eustacia đa scái túi xách nằm dưới chân. "Bà Lucretia đã tốt bụng gói ghém cho mày đó.' "Nhưng... nhưun... cháu có thứ phải cho vô đó," Charlie nói một cách tuyệt vọng.

"Vậy thì lẹ lên,' bà cô của nó buông một tiếng thở dài bực dọc, rõ to.

Charlei giật lấy cái túi của nó và vọt lên phòng ngủ chung. Nhấc mép miệng giuờng lên , nó rờ tay xuống dưới. Cây gậy phép không có ở đó. Hoảng hồn hoảng vía, nó nhấc cả hai đầu và hai bên tấm nệm lên. Cuối cùng, nó đẩy hẳn cả cái nệm ra khỏi giường. Cây gậy phép đã biến mất.

Charlie lôi tấm nệm về lại chỗ cũ, và xếp gọn chăn mền lại. Cái cảm giác bồn chồn trong bụng nó càng trở nên tệ hại hơn.

"Nãy giờ mày làm cái khỉ gì vậy, hả?" bà cô Eustacia hạch hỏi khi Charlie cuối cùng cũng kéo lết cái túi trở

xuống tiền sảnh.

"Cháu không timg thấy," Charlie đâu khổ nói. "Đồ của cháu."

"Chậc! Ta không thể chờ được nữa," bà côm nó dòm đồng hồ. "Ta dã nói với bà Venetia là sẽ quay về nhà lúc

hai giờ. Lại dây và lẹ lẹ cho xong đi."

Gã Weedon, lấp ló gần cổng chính nãy giờ nói:

"Sẵn sàng chứ? Một, hai, ba.'

Bà cô Eustacia tặc lưỡi một cách sốt ruộc khi gã Weedon rút chùm chìa khóa móc ở sợi dây xích gắn với dây lưng của gã ra. Chọn lấy một chiếc chìa khóa sắt khổng lồ, lão tra nó vô ổ khóa, xong rồi tháo hai cái chốt dài ra. Cánh cổng bật mở.

"Xin kính mời quý bà," gã Weedon vừa nói vừa cúi đầu.

"Dẹp trò đó đi," bà cô Eustacia la quang quác.

Khi Charlie theo bà ta ra ngoài, nó nhận thấy va-li của Billy Raven đang dựng ở một góc tiền sảnh. Vậy là thằng bé vẫn còn ở trong học viện. Liệu nó có bị giải đi mất trước khi có thể nhìn ông bà Grey rõ hơn?

Chiếc xe hơi màu đen của bà cô eustacia đậu chình ình cạnh vòi phun nước hình đàn thiên nga. Ngay khi

Charlue vừa leo vô băng ghế sau, bà ta vọt đi liền, cắt xẹt các góc đường và đụng bùm bụp vô lề đường, rú ầm

ầm sai chiều trên con đường một chiều, bóp còi inh ỏi vào mặt khách bộ hành đang băng qua lối dành cho người đi bộ, vù vù qua mặt những người đi xe đạp hất sức nguy hiểm, vượt qua giới hạn tốc độ và né được những chiếc xe hơi đang đậu chỉ trong gang tấc. (À không, hình như có đụng bể ba chiếc kính chiếu hậu.) Trước nỗi kinh hoàng của Charlie, bà cô Eustacia lái xe đến Ngách Tối, một con hẻm tối mò nơi ba bà cô của nó

sống trong những căn nhà liên kế, tất cả đều mang số 13. Căn nhà thứ ba được bao bọc trong giàn giáo, nhưng

đằng sau những miếng ván và thép xếp chống ấy, có thể thấy lấp loáng một toà nhà không mái, đen đủi

những gì còn sót lại của căn nhà bà cô Venetia.

"Nhìn cho kỹ đi, Charlie," bà cô Eustacia nói, dừng xe lại đánh két bên ngoài căn nhà ở giữa. "Mày phải chịu

trách nhiệm cho đống diêu tàn đó."

"Không đúng," Charlie phản đối.

"Không hoàn toàn trực tiếp," bà ta thừa nhận, "nhưng mày đi cùng với thằng em quỷ sứ của tao khi nó gây ra

vụ này, mày về hùa với nó, đừng có chối cãi."

"Thế bà nuốn Ông cậu làm gì nào?" Charlie bướng bỉnh nói. "Tại bà Venetia định giết cô Ingledew."

Bà cô Eustacia mở cửa xe ra và vung chân đáp xuống vỉa hè. "Đi ra," bà ta quát, rồi đóng sầm cửa lại.

Charlie chẳng sung sướng gì để vâng lời ngay. Nó ì ạch bước ra khỏi xe, kéo theo đằng sau là cái túi.

"Giờ thì cút," bà cô Eustacia nói, chỉ tay xuống con hẻm. "Mày có chân có cẳng. Mày có thể đi bộ về nhà."

Charleui quay đi và chạy ra ngõ hẻm. Nó không mất công cám ơn bà cô đã chở nó về được nửa đường. Nhưng khi nghe tiếng cửa trước của nhà bà đóng cái rầm, nó đứng sựng lại và ngoái nhìn ngôi nhà đổ nát. Nó chợt nhớ

tới cây đàn piano trông thấy trên cao chót vót khi bức tường của căn nhà đang bốc cháy đổ ập xuống, và nó nhứo lại cú rơi khủng khiếp của cây đàn, đến giai điệu kỳ quái khi cây đàn rớt sầm vô những cầu thang tầng

hầm và bể tan thành hàng ngàn mảnh.

Ai chơi cây đàn piano bị giấu trong gác mái của nhà bà cô Venatia? Đó có phải là ba nó, bị cầm tù, bị thôi miên,

bị mất trí nhớ? Và nếu thế thì, ba Lyell Bone của nó hiện giờ ở đâu?

"Về với con, ba ơi!" Tiếng thì thầm của Charlie vang dội trong con hẻm vắng tanh. "Cố lên, ba."

Trong khi Charlie đang trên đường về nhà, thì Billy Raven dùng bữa đầu tiên với ông Usher và bà Florence de

Grey. Họ thích Billy gọi tênt hánh cảu họ hown, bà Flororence nói với Billy, vì họ cảm thấy đã quá trễ cho họ để

được gọi là ba, mẹ. Họ không bao giờ quen với cách gọi đó. Billy hàng mong chờ được gọi ai đó là "mẹ", nhưng

nó quyết định chấp nhận tất.

Phòng ăn của gia đình Bloor cách thư phòng của giáo sư Bloor hai phòng ở chái phía tây. Đó là một căn phòng hẹp có cửa sổ dài nhìn ra vườn. Các bức tường được dán bằng giấy sọc đỏ vàng, và trần nhà cao đến nỗi Billy hầu như không thể nhận ra những hình thù kỳ lạ phủ xuống quanh những đồ đạc. Nó nghĩ có lẽ đó là những

máng xối hình đầu thú.

Một bộ đèn chụp treo phía trên chiếc bàn gỗ mật hình bầu dục mặc dù hôm nay trời ấm áp, nhưng một đống củi đốt vẫn cháy trong vỉ lò sưởi bằng đá hoa cương sậm màu. Ngay cả mùa hè, lão Ezekiel cũng bọc mình trong tấm mền len kẻ ô vuông. Lão ta già nua và lạnh lẽo thấy tận linh hồn.

ôm nay, lão già ngồi ở vị trí quan trong nhất bàn, lưng quay ra cửa sổ. Lão nhai với cái miệng há to, và thỉnh thoảng, nhữung mẩu đồ ăn rớt xuống đùi. Ở đầu bàn bên kia, giáo sư Bloor cứ nói chuyện thật lớn với ông bà de Grey, ráng làm trệch hướng chú ý của mọi người khỏi cái thói ăn uống kệch cỡm của ông nội ông ta.

Billy bị ép chặt giữa bà giám thị và Manfred, đối diện với ba mẹ tương lai của nó. Đồ ăn từ dĩa của nó bốc hơi

làm mờ cả mắt kiếng, và khi no cố lau chúng bằng khăn ăn thì bà giám thị rít lên: "Khăn tay!"

Billy không có khăn tay. Nó hấp háy ngó những cia dĩa chất ngồn ngộn thịt và rau. Rõ ràng là gia đình Bloor đang cố tạo ấn tượng với khách khứa của họ. Billy bắt đầu ngán ngẩm cuộc trò chuyện tẻ nhạt giữa họ với

nhau. Nó lén nhìn "mẹ" mới của mình ở bên kia bàn, và bà ta đáp lại ánh nhìn của nó bằng những nụ cười xẹt

qua, lộ cả rằn, nhưng không bao giờ lên được tới mắt bà ta.

Việc mỉm cười đối với ông de Grey còn hơn cả một cuộc đấu tranh gian khổ. Ông ta chỉ có thể cười được xệch

mép. Billy tự hỏi không biết nó có gây thất vọng cho "ba" mới của nó hay không. Có lẽ người đàn ông trông

khinh khỉnh này đã hy vọng về một cậu bé tóc nâu bóng mượt và một làn da khỏe mạnh - một cậu bé có đôi

mắt bình thường không cần đeo kiếng.

Nếu đúng thực là ông bà de Grey từ lâu đã muốn nhận nuôi một đứa trẻ, theo như họ nói, vây thì tại sao trước đó họ không tranh thủ đi kiếm một đứa? Và tại sao trước đây gia đình Bloor lại không nghĩ Billy là một ứng viên

thích hợp?

"Ăn hết đi Billy," bà cô Lucretia nói. "Chúng ta muốn ăn bánh put-đinh."

Billy ấn một miếng khoai tây nữa vô miệng và cố nuốt. Dường như có một bức tường ở bên trong bao tử nó, không để cho thức ăn đi xuống. Nó thôi ăn và đặt dao nĩa gọn gàng lên dĩa.

Bà giám thị thở dài và thu dọn dĩa của nó.

"Thằng bé hồi hộp quá đấy mà," bà ta nói với ông bà de Grey. "Tối nay cho nó một quả trứng. nó thích ăn trứng

lắm."

Billy tự hỏi điều gì khiến bà giám thị nói như vậy. Làm sao bà ta biết nó thích cái gì? Bà ta và nó thậm chí còn

chưa bao giờ ngồi ăn cùng bàn nữa là.

Bà cô Lucretia don sạch cAc dĩa ăn và "ồ" lên một tiếng thích thú khi gã Weedon xuất hiện với ổ bánh trứng đường sô-cô-la thiệt to. Billy vốn thích sô-cô-la, nhưung nó không sao ăn nổi món bánh trứng đường ấy. Một miếng cũng không. Nó nhìn chằm chằm vô phần bánh bự mà bà giám thị đặt phịch xuống trước mặt nó. Nó ước sao có thể cho Rembrandt phần bánh ấy, nhưung nó không dám nhắc đến chuột. Nó không được phép nuôi chuột. Gia đình Bloor nhất định sẽ giết chuột của nó mất.

Bà giám thị lấy đi phần bánh trứng đường không hè được đụng tới của Billy với cái nhìn quạu quọ. Và rồi chiếc

bàn được dọn dẹp sạch bong. Mọi người đứng lên và ngồi xuống trong khi Billy vẫn ở nguyên chỗ nó đang ngồi, bức tường trong bao tử nó nặng dần lên từng phút.

Bà de Grey đặt một chiếc giỏ xám lên bàn. Bà ta rút ra ba tờ giấy và đặt chúng trước mặt Billy. "Bây giờ là lời tuyên thệ của trò, Billy," giáo sư Bloor nói bằng giọng nghiêm nghị.

"Lời tuyên thệ?" Billy nói, yếu xìu.

"Đúng," giáo sư Bloor gầm vang. "Việc nhận con nuôi đâu phải cứ thế này mà xảy ra. Chúng cần phải được sắp đặt. Lời giao hẹn phải được thực hiện.'

Lão Ezekiel nhoài người về phía trước, hai cùi chỏ để lên bàn, hai nắm tay chum vô má.

"Bà de Grey là người giữu lời tuyên thệ, Billy. Biết đó là gì không?"

Billy lắc đầu.

"Bà ấy giữ giấy tờ!" Lão Ezekiel cười he hé mọt cách khiếm nhã. "Trước khi mày về ngôi nhà mới xinh xắn của

mày, mày pảhi ký một bản tuyên thệ, thề sẽ làm những điều cụ thể được ghi trong những tờ giấy trước mặt

mày đó. Hiểu chưa?" "Dạ hiểu, thưa ông."

"Hãy đánh dấu kiểm vô những ô ghi 'Có', và ký tên ở cuối," bà de Grey nói với giọng thạo việc.

Thò một móng tay dài, bà ta ấn một hàng kẻ chấm chấm ở cuối một trong những tờ đơn, và rồi bà ta nở nụ

cườ.

"Con buộc phải làm thế ạ?" Billy đánh bạo hỏi.

"Nếu mày muốn được nhận làm con nuôi," Manfred nói, đôi mắt đen của hắn xoáy vô mặt Billy. Bà de Grey trao cho Billy một cây viết và vó bắt đầu đọc mẫu đơn đầu tiên:

1. Tôi hứa luôn luôn nói sự thật.

2. Tôi hứa im lặng sau 7 giườ (Ba mẹ bạn cần 10 tiếng đồng hồ để ngủ.)

3. Tôi hứa mặc những bộ quần áo đã được chọn cho tôi (Và chúng cũng rất dẹp.)

4. Tôi hứa không bao giờ đòi ăn (Vì tôi sẽ được cho nhiều đồ ăn.)

5. Tôi hứa không bao giờ bàn tán vớinhững đứa trẻ khác về những gì xảy ra trong Ngôi Nhà Bất Chợt.

6. Tôi hứa trả lời, một cách thành thực, bất cứ câu hỏi nào liên quan đến những hậu duệ của Vua Đỏ, đặcbiệt là

Charlie Bone. Billy ngỏng lên.

"Tại sao?" nó hỏi. "Tại sao con phải trả lời những câu hỏi về Charlie, lại còn 'đặc biệt là'?" "Đó là một điều kiện, Billy," giáo sư Bloor nói, không giải thích. "Đánh dấu vô ô đi."

Billy đánh dấu.

7. Tôi hứa tắm vào ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật.

"Con không phải đọc hết danh sách," bà de Grey nói. "Chỉ cần đánh dấu thôi... cưng."

Tờ giấy mang lại cảm giác rất lạ. các cạnh giấy đều cứng và khá nóng khi đụng vào.

Billy đã hoàn thành nhiệm vụ của nó và đẩy mấy tờ giấy ra xa. Bà Florence de Grey lẹ làng đút chúng vô giỏ xách của bà ta, cái giỏ mà, Billy thấy, đã ních căng những tờ giấy giống như những tờ của nó. Bà ta vỗ nhẹ cái giỏ một cách mãn nguyện. "Bình an vô sự," bà ta nói và rồi, chồm người ra trước, bà ta bảo Billy:

"Ta giữ lời tuyên thệ, Vậy chúng được lưu trữ

Cấm phá vỡ lời thề Mà ta, người cất giữ."

Và lần này nụ cười đã lên tới mắt bà ta.

"Mày nên coi chừng, Billy," lão Ezekiel nói và cười một cái khịch. "Nguời ta đã thử phá vỡ những lời tuyên thệ

được cất trong cái túi đó và, ôi trời ơi, họ đã phải trả giá cho điều đó mới kinh chứ."

"Thiệt hả?" Billy sợ hãi hỏi.

Mọi việc đều diến ra chóng vánh sau đó. Mọi người đứng dậy, trừ lão Ezekiel cứ nằg nặc đòi bắt tay Billy và

chúc mừng nó.

"Đi nhé, cháu trai của ta," lão nói, đẩy Billy một cái.

Giáo sư Bloor dẫn đường đi xuống tiền sảnh, ở đó ông ta vỗ lưng Billy và bảo với nó rằng nó cực kì may mắn khi tìm được ba mẹ tốt như vậy. Gã Weedon lại mở cánh cổng chính, và Manfred nhấc chiếc va-li to, đưa cho Billy, thằng bé theo be mẹ mới của nó băng qua guảng trường tới một chiếc xe hơi nhỏ màu xám.

Billy leo vô dằng sau xe cùng với va-li của nó, và ngay khi bà Florence ngồi vô ghế hành khách, ông de Grey

cho xe chạy. Ông Usher là một tài xế cẩn thận và cuộc hành trình băng ngang thành phố của Billy thoải mái hơn nhiều so vớicuộc hành trình Charlie vừa trải qua.

Họ đậu xe ở cuối một ngõ hẻm tối tăm rải sỏi cuội. Sương mù dày đặc đổ xuống và Billy gần như vuột mất ông bà de Grey khi họ xuống xe và bước lẹ lên ngõ hẻm dốc. Billy tất tả đi theo họ. Nó đi ngang một tấm biển gỉ sét ghi NGÕ QUANH CO. Đi tiếp, thấy một bảng lưu ý to gắn vô một khung cửa, đề: "Bọn vô gia cư không nên lảng

vảng ở dây."

Ngõ Quanh Co mỗi lúc một dốc hơn. Thỉnh thoảng Billy chúi nhủi vì bước hụt chân và chiếc va-li to kềnh đập bụp xuống sỏi. Bây giừo xem ra chiếc va-li đã nặng hơn nhiều và Billy bắt đầu kéo lê nó đằng sau, kịch, kịch, kịch. Ông bà Grey dường như không để ý gì.

Bức tường trong bao tử Billy đã trồi lên tới ngực. Nó đã tưởng tượng ngôi nhà mới của mình là một ngôi nhà ngập ánh nắng, có bãi cỏ rộng, chứ không phải một nơi tối hù và bí ẩn như thế này. Một tấm biển gỗ kêu cọt kẹt ở trên đầu và ní bước lùi lại để đọc. hàng chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT, 10 MÉT được sơn màu đen trên nền đỏ. Mười mét đó dốc nhất trong toàn bộ đoạn đường. Hơi thở của Billy chuyển thành tiếng rên rỉ nho nỏ khi nó cố kéo chiếc va-li lên một cánh cửa, nơi ba mẹ mới của nó đang đứng dòm nó.

"Chúng ta tới rồi, Billy," bà Florence nói.

Phía trên cánh cửa, dòng chữ Ngôi Nhà Bất Chợt được khắc hẳn vào đá. Ông Usher tra một chiếc chìa kháo kim loại to sụ vô một ống khóa to tương xứng với chìa khóa. Có tiếng "tạch" thât to và cửa bung vô trong. Billy leo lên hai bậc cấp và bước vô nhà.

Hành lang rộng mọt cách đáng kinh ngạc so với một ngôi nhà mở đầu cho một ngõ hẻm tối tăm. Nó được lát đá

hoa cương đen và trắng, và nhữung bức từờng xám của nó được trang trí bằng những hình nhân bằng thạch

treo trên một cái tủ kính trống rỗng, nhưng khi Billy nhìn vào chiếc gương ấy, nó chỉ thấy một nùi trắng. Tóc nó chăng? Phần thân cười còn lại của nó bị nuốt chửng trong một màn sương xám. Sương mù đã theo họ vào nhà,

hay luôn luôn có sương mù trong nhà?

"Lẹ coi, Billy," bà Florence gọi to. Bà ta vẫy tay từ một dãy cầu thang đá.

Billy lộp cộp bước lên nền đá lát. Chiếc va-li của nó lê ngoằn ngoèo và rít lên sau lưng. Nó bước đi giữa hai cây cột đá hoa cương cao và bắt đầu leo lên cầu thang. Một, hai, ba. Nó dừng lại để thở, tì mạng vô thanh vịn cầu thang bằng kim loại. Ông Usher de Grey đã biến mất sau một cánh cửa ở tầng trệt.

"Lẹ lên! Lẹ lên!" bà Florence gọi từ chỗ chiếu nghỉ. "Con sẽ thích phòng của con cho coi."

Billy thở phù phù suốt những bậc thang còn lại và theo bà Florence đi qua một hành lang dài. Khi họ đến cuối

hành lang, bà ta mở cửa, hô: "Tới rồi!"

Billy bước vô phòng của nó: căn phòng đầu tiên trong đời là của nó thực sự chứ không phải của ai khác. Căn

phòng thậm chí còn đẹp hơn nó mong đợi. Nó đặt va-li xuống và nhìn lom lom ra xung quanh.

Chiếc giường lớn hơn thứ giường chật chội trong học viện Bloor nhiều. Trên giường có chăn nhồi lông mềm và áo gối đều là ca rô xanh da trời, thành đầu giường bằng gỗ thông. Có một tủ gỗ thông cao và một tủngăn kéo tiệp màu, nhưng billy gần như không để ý đến những chi tiết này. Nó đang nhìn chằm chằm chiếc TV kê trên bệ đen, và rồi tới chiếc máy vi tính trên một chiếc bàn gỗ thông. Của nó đấy sao?

"Là của con à?" Billy hỏi, như hết hơi.

"Của con tất," bà Florence nói. Bà ta vẫn cầm khư khư chiếc giỏ xách và bà ta vỗ nhẹ vô cái giỏ, thiệt nhanh,

trong khi bắn cho Billy môkt nụ cười lạ lùng:

"Miễn là con giữ lời hứa."

"Lời tuyên thệ ấy ạ?" Billy nói.

"Chính xác. Giờ thì cứ thoải mái như ở nhà, Billy nhé. Có bồn rửa trong phòng con, thấy chưa, đằng sau bức

bình phong ấy," bà ta chỉ một tấm bình phong trắng trong góc, "vậy nên, chẳng có cớ gì để đi ăn với đôi tay dơ.

Hiểu chứ?"

Billy gật đầu.

"Bữa tối vào lúc 6 giờ." bà ta chỉ chiếc đồng hồ trên máy vi tính. "Thế nên, cũng không có lý do gì để trễ nải

cả."

Bà Florence quay gót và bước ra ngoài, đóng cửa lại sau lưng.

Billy ngồi trên giường của nó. Có qua nhiều sự việc phải tiếp nhận. Nó muốn nói với ai đó về việc này. Charlie.

Có lẽ Charlie sẽ đến chơi. Anh ấy chắc chắn sẽ ngạc nhiên lắm.

Mới bốn giờ. Còn khối thì giừo mới tới bữa tối. Billy quyết định hỏi bà Florence, ngay bây giờ, xem nó có thể mời

bạn tới chơi được không. Nó chạy xuống lầu và nhìn vô các phòng dưới tầng trệt: nhà bếp, phòng ăn, phòng khách rất sang trọng và phòng làm việc. Chẳng thấy tăm hơi ông bà de Grey đâu cả.

"Mọi người ơi!" Billy gọi to. Không có tiếng trả lời.

Billy rón rén đi về phía cửa trước. Có lẽ nó nên ra ngoài và đi tìm Charlie. Khi nó đi đến chỗ chiếc gương ở hành lang, có một điều gì đó rất kỳ lạ xảy ra. Nó thấy mình không thể di chuyển xa hơn một chút nào nữa. Một thanh

chắn vô hình cản nó lại. Hết lần này đến lần khác, Billy cố trượt bàn chân về trước, nhưung chúng đụng phải

một bức tường rắn... không có gì cả. Không thể nào ra tới được cửa trước. Nó cố đẩy hai tay qua thanh chắn vô hình, nhưng cứ như đẩy phải một bức tường sắt vậy.

Billy lùi lại và ngồi lên chiếc ghế cạnh cái tủ trống không. Nó không thể tin nổi điều đang xảy ra. Nó băn khoăn

tự hỏi, nếu nó chờ vài phút nữa thì liệu thanh chắn ma quái kia có niến đi hay không.

Khi nhìn dáo dác quanh hành lang, nó nhận thấy không có áo khoác treo trê các mắc dựng ở ngoài hành lang, không có nón trên mắc, không có ba-toong, không có dù, không có ủng hoặc túi xách được nhét dưới khoảng không của mắc. Hầu như không có ai sống trong Ngôi nhà Bất Chợt này. Và rồi, Billy chợt nhẩna một cái gì đó màu đên ỏ dưới chận mắc áo.

Nó đứng dậy và đến xem. Đó là một con mèo nhỏ xíu, mõm xám và đuôi ốm tong. Cuối cùng, đã có cái cho billy nói chuyện với. Nó quì xuống cạnh sinh vật bé nhỏ và nói:

"Chào! Ta là Billy. Ta đến sống ở đây."

"Chào mừng Billy," con mèo nói bằng giọng yếu ớt. "Tôi là Vuốt Sắc. về phần tôi, tôi rất vui vì cậu ở đấy, nhưung với cậu, tôi rất lấy làm tiếc.".

Thiên thần Alice

Khi Charlie rời Ngách Tối, nó không về thẳng nhà mà rẽ vô một con đừơng dẫn tới hiệu sách Ingledew.

Tiệm sách Ingledew lọt thỏm trong một dãy nhà xây bằng đá ốpvà sườn gỗ, bao quanh quảng trường nhà thờ lớn. khi charlie bước trên những lối rải sỏi cổ xưa về phía tiệm sách, nó nghe có tiếng đàn organ trầm lắng vẳng ra từ bên trong tòa nhà đồ sộ có mái vòm. Ba của nó trước kia từng là người chơi đàn organ cho nhà thờ, cho đến khi, vào một ngày nọ, ông biến mất ngay tại chỗ này.

Có lẽ Charlie đang đứng ở chính cái nơi mà lần cuối cùng người ta còn nhìn thấy ba nó. Ông Lyell Bone đã cố ngăn gia đình Bloor không được bắt cóc Emma Tolly, và chính vì hành động này mà ông đã bị trừng phạt thật khủng khiếp: bị thôi miên, bị gài bẫy, bị giấu nhẹm và biến mất hẳn khỏi vợ con ông. Họ bao rằng ba Lyell đã

chết, nhưng Charlie biết rõ hơn nhiều.

Nó chợt nhún vai thật mạnh, tự nhủ rằng đừng có duy nghĩ u ám quá nhiều, rồi bước hăng hái về phía tiệm

sách.

Emma đang đứng đằng sau quầy, chăm chú xem một chồng sách lớn, đóng bìa da. Nó ngẩng lên khi cửa tiệm

kêu kính koong và Charlie bước vô.

"Cào Charlie. Bồ hết bị cấm túc sớm quá ha."

"Họ không muốn mình luẩn quẩn ở đó. Hôm nay là ngày Billy được nhận làm con nuôi.' "Ồ dĩ nhiên rồi. Bồ có thấy cha mẹ mới của nó không?"

"Thấy. Và mình không thích bộ dạng của họ. Họ không thật lòng muốn có Billy. Mình đã trông thấy mấy tấm

hình ở trên bàn của Manfred và... ừm... mình lo qúa, Emma à. Mình chắc chắn cái kiểu họ chỉ tạt tới và lôi Billy đi vầy không bình thường.'

"Thì gia đình Bloor vẫn làm khối chuyện không bình thường mà," Emma nghiêm mặt nói. "Nhưng họ không bị

trừng phạt bởi vì họ là gia đình lâu đời nhất thành phố này, và ai cũng sợ họ, kể cả ngài thị trưởng và những ủy

viên hội đồng."

"Họ nghĩ Manfred và lão Ezekiel có thể làm bất cứ điều gì, nhưng họ lầm,' charlie lẩm bẩm. "À mf, có ai đó đã đánh cắp cây gậy phép của mình rồi.'

"Cái gì?" Emma đánh rớt luôn một cuốn sách. "Charlie, bồ tính làm gì đây?"

"Mình cũng chưa biết nữa. Lẽ ra mình không nên đem nó tới trường, nhưng mình nghĩ mình có thể cần nó để... để giúp mình học bài."

"Nhưng mà..." Emma lắc đầu. "Charlie à, chuyện này nghiêm trọng đó."

"Mình đồng ý với bồ! Nhưng nó là cây gậy phép của minhg mà, Emma. Của mình thật sự. Nó chẳng dính dáng

gì đến gia đình Yewbean hay gia đình Bloor cả và nó sẽ chẳng có tác dụng gì cho họ dâu."

"Nhưng nếu không thể sủ dụng được nó thì họ sẽ hủy hoại nó.' "Đó là điều mình sợ."

Trước khi Charlie có thể nói thêm gì nữa thì một người đàn ông cao lớn , tóc đen, mang mắt kính màu đen bước

ra khỏi khung cửa che rèm ở đăng sau quầy.

À Charlie. Ta nghĩ ta nghe tiếng mày." Ông đột ngột nhìn sững vô ngọn đèn treo bên trên quầy, vuột miệng

nói, "Khốn kiếp," và bắt đầu lùi trở vô.

Emma phóng lẹ ra công tắc đèn bên cạnh tấm rèm, nhưng nó đã qua trễ. Một tiếng 'bụp' thật đanh và cái bóng

đèn bể vụn, trút môt cơn mưa thủy tinh xuống những cuốn sách cổ.

"Ôi, anh Paton, thiệt tình!" Một giọng nữ bức bối vọng ra từ phía sau tấm rèm.

"Xin lỗi Julia! Xin lỗi!" Ông cậu Paton Yewbean nói. "Làm sao mà anh biết đèn đang sáng chớ? Mặt trời chiếu rực

ngoài đó mà."

"Con bật đèn lên để đọc sách cho rõ hơn đó," Emma phân trần vẻ ai oán. "Đừng lo, để con dọn cho."

Nó cúi xuống quầy, lấy ra đồ hốt rác và chôit, những thứ luôn để sẵn đó cho tiện dụng kể từ lần đầu tiên Ông cậu Paton ghé thăm tiệm sách.

Dì của Emma, cô Julia, giờ đã xuất hiện đằng sau quầy. "Dì nghĩ đáng ra còn tệ hơn nữa kìa."

Charlie vô cùng ngạc nhiên khi gặp Ông cậu Paton ở trong tiệm sách vào lúc trời mới bảnh mắt thế này. Như đã thành luật, Ông cậu Paton không bao giừo ra ngoài vào ban ngày. Ông bối rối về tài phép của mình và sợ mình vô tình làm nổ đèn gao thông hoặc đèn chiếu sáng trong những cửa sổ bày hàng. Thậm chí cả những bóng đèn

trong các nhà riêng cũng có nguy cơ bị vỡ tan.

Chắc chắn phải có cái gì đó khẩn cấp lắm mới lôi đựoc Ông cậu Paton đến tiệm sách. Trừ phi, dĩ nhiên, đó là do cô Julia Ingledew. Cô là một phụ nữ xinh đẹp và Ông cậu Paton phải lòng cô ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy cô.

"Để con giúp được khong?" charlie đề nghị khi nhìn Emma và cô Ingledew dọn dẹp đống mảnh vụn thủy tinh.

"Vô nói chuyện với Ông cậu của con đi," cô Ingledew bảo, "và an ủi cho ông ấy đừng phiền muộn." Côn mỉm cười một nụ cười châm chọc.

Charlie đi qua tấm rèm và bước vào phòng trong của tiệm sách Ingledew. Ở đây, những chiếc kệ ken đặc sách

giăng kín các bức tường. Sách chất hàng chồng hàng đống trên bàn, dưới sàn nhà, trên ghế và trên chiếc bàn

làm việc lớn bừng gỗ đào hoa tâm của cô Ingledew. Toàn bộ gian phòng ánh lên những màu sắc ấm áp của vải đóng sách cũ và nhũ vàng; căn phòng thậm chí còn nức mùi da thuộc và giây mực. Đèn cầy ở mọi ngõ ngách nào còn trống, bởi vì ô cửa sổ nhỏ để lọt đựơc rât ít ánh sáng vô phòng, và hôm nay cô Julia không muốn đặt

những bóng đèn vào vòng may rủi.

Ông cậu Paton đang ngồi trên một chiếc trường kỷ nhỏ, đầy báo với giấy, vì dĩ nhiên thêm cả sách nữa, bao kín xung quanh. Khi Charlie bước vô, Ông cậu nó tháo mắt kiếng đen ra và dụi dụi mắt.

"Thiệt vô tích sự," ông nói bằng mọt giọng giận dữ. "Mặc dù ta thề là cặp kiếng này đã chặn được vài vụ tai

nạn."

Ông đút cặp kiếng vô túi trên cùng của chiếc áo gió.

"Charlie này, ****** nói với ta là mày lại bị cấm túc nữa."

"Dạ phải. Và bà cô Eustacia buộc phải tới đón con," Charlie nói vẻ hờn trách. Ông cậu Paton nhún vai:

"Xin lỗi, nhóc. Nhưung mày biết đấy, ta không thể lái xe vào ban ngày mà."

"May phước con vẫn còn sống," Charlie nói. "Con ngạc nhiên khi gặp Ông cậu ở đâu, Ông cậu Paton."

"À, ta đến trước lúc mặt trời mọc," Ông cậu Paton nói, cố tránh nhìn vào mắt Charlie. "Tối qua Julia gọi cho ta. Ai đó đã đút một lá thư qua khe cửa nhà co ấy, đề địa chỉ gửi cho ta. Kích thích trí tò mò quá. Cho nên ta đếnngay khi ta có thể đừơng hoàng đến. Thiệt ra thì lá thư liên quan đến một người bạn của mày, Charlie." "Người nào a?" Charlie ngồi xuống bên cạnh Ông cậu của nó.

"Billy Raven. Kỳ quặc thiệt."

Ông cậu Paton lôi từ túi áo ra một chiếc phong bì nhàu nhì. Địa chỉ đề Ông Paton Yewbean bằng nét chữ viết

tay ẻo lả, khá đẹp.

"Ta muốn biết ngay mày nghĩ ra được gì không, Charlie."

Ông cậu Paton rút ra hai tờ giấy. Khi ông làm vậy, một cây đèn cầy nhỏ rớt ra ngoài. Charlie vội chụp lấy và

dựng nó lên.

"Cái này giống hệt như mấy cây đèn cầy của Billy. Billy không biết từ đâu mà có."

"Rĩ ràng là từ người đàn ông viết lá thư này. Vậy là chứng tỏ có mối liên hệ với nhau. "Ông cậu Paton liếc nhìn

cây đèn cầy. "Đẹp đấy."

Đúng lúc đó Emma bước vô. Ông cậu bảo nó ngồi xuống và lắng nghe. Ông hắng giọng và bắt đầu đọc lá thư bí

hiểm kia:

Kính thưa ông Yewbean,

Thành thật xin ông thứ lỗi cho tôi về việc đã mạo muội chen vô cuộc sống của ông một cách khác thường như thế này, quả thiệt, tôi không còn cách nào hkhác. Sợ một người trong gia đình ông chẳng may đọc được nội

dung lá thư này thì chắc chắn sẽ xảy ra thảm họa.

"Ông ta ám chỉ tới nội Bone đó," Charlie nói. Ông cậu Paton nghiêm nghị gật đầu và đọc tiếp.

Tên của ông, thưa ông Yewbean, do một trong ít ỏi những người ở thành phố này mà tôi biết có thể tin cậy đựơc, báo cho hay. Và quý cô mà tôi cũng phải dùng nhờ hộp thư này cũng là một người bạn của bon trẻ, như người ta nói cho tôi. Ông biết tôi muốn nói đến bọn trẻ nào chứ? Vâng, những hậu duệ được ban phép thuật của Vua Đỏ, nhữung đứa trẻ dễ bị làm hại, đang cô dùng tài phép của cúng theo cách vinh danh tên tuổi của tổ tiên chúng, đấng tối thượng tôn kính, nhà vua -nhà pháp thuật.

Có những đưa trẻ khác, tôi biết, làm ô uế tên tuổi của Ngài và sỉ nhạc tài phép đựoc ban của chúng. Lạy Cháu,

đứa trẻ mà tôi quan tâm sâu sắc nhất không thuôc về phe này hay phe kia. Tôi là người giám hộ cho Billy

Raven. Khi cha củarthằng bé , ông Rufus Raven, và người vợ xinh đẹp của ông (cả hai người đều mang họ

Raven, ông biết đấy, họ là anh em họ xa) nhận thấy họ không thể có lối thoát khỏi gia dình Bloor và những bà chị (xin lỗi vì dùng tính từ này) ác tâm của ông, họ khẩn cầu tôi làm người giám hộ cho Billy, để trông chừng nó, nó bảo trợ cho nó và để chỉ dẫn nó - nói ngắn gọn, để cứu nó khỏi trở nên giống như bọn nhà Bloor. Nhưng khi Billy mồ côi, nó được gởi đến nhà một bà cô rất ít để tâm tới việc nuôi dưỡng trái tim đặc biệt thánh thiện mà nó mang tiừ khi được sinh ra. Thay vào đó, bà ta chọn cách bỏ mặc thằng bé cho đến khi nó bộc lộ tài phép của nó, và sau đó thì giao hẳn nó, Billy tội nghiệp, cho gia đình Bloor.

Thưa ông Yewbean, hẳn là ông đang tự hỏi tại sao tôi lạ chểnh mảng bổn phận của mình một cách nghiêm trọng đến thế. Người giám hộ tương lại này đã ở đâu suốt sau năm nay? Hẳn ông đang tự hỏi như thế.

Ở trong ngục, thưa ông Yewbean.

Tới đây, một tiếng thở dốc phát ra từ cô Ingkedew, cũng đã bước vô phòng.

"Trong ngục?" Cô nói. "Paton, anh không nói cho em biết là ông ấy ở tù!"

"Một chi tiết anh đã cố ý bỏ qua để cho em được tĩnh trí, Julia," Ông cậu Paton nói. Cô Ingledew ngồi trên thành ghế truờng kỷ.

"Ông cậu của con chỉ đọc một nửa lá thư cho cô nghe," cô bảo Charlie. "Cô phải nghe phần còn lại mới được." Ông cậu Paton mỉm cười dịu dàng với cô:

"Tụi này sẽ được nghe những ý kiến có ích của em đó, Julia." "Ôi, làm ơn tiếp đi mà," Charlie nài nỉ.

"Ta tới đâu rồi?" Ông cậu Paton hờ hững rà ngón tay xuống tò giấy, vẻ cáu kỉnh. "Trong ngục!'' Chảlrie hét lên. "Ông ấy nói ông ấy ở trong ngục."

"À phải. Đây rồi," Ông cậu Paton chọc mạnh ngón tay vô tờ giấy và tiếp:

Ở trong ngục, thưa ông Yewbean. Để tôi cam đoan với ông, rằng tôi không hề phạm tội. Tôi đã bị cái tên lưu manh ấy, tên Weedon, lừa theo lệnh chủ nhận hắn, dĩ nhiên rồi. Tên côn đồ đáng sợ ấy đã cố giết tôi (một cú đập lên đầu lúc trời tối trong khi tôi đang thả con mèo ra ngoài). Nhưng vì thất bại (tôi chỉ bọi chấn thương sọ não), nên hắn dựng chuyện biến tôi thành một tên cướp có vũ trang. Tôi, tròi đất ơi! Tôi là một người thợ in. Tôi

đam mê, chuyên chú vào giấy tốt, mực hảo hạng và những hàng kẻ đều tắp. Tôi đam mê, chuyên chú đến văn

từ, đến thuật khắc chữ, đến tiêu đề trên giấy, nhữung tờ rơi, vân vân... Ấy thế mà, tôi lại bị bắt quả tang ngay tại hiện trường về tội cướp của ****** và bị tống vô ngục. Tuần rồi tôi được phóng thích sớm - do hành vi cải

tạo tốt.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là về Billy, và vì vậy tôi đã liên lạc với một người bạn trung thành trong học viện Bloor. Thật kinh hoàng, tôi phát hiện ra là Billy đã bị Florence và Usher de Grey nhận làm con nuôi. Tôi không thể diễn tả hết được tai họa cuả việc này sẽ đến mức nào đối với Billy đâu.

Thưa ông Yewbean, ông sẽ giúp tôi chứ? Ông làm ơn dàn xếp cho tôi bí mật gặp Billy được không? Tôi biết rằng, cháu trai của ông, Charlie, là bạn thân của thằng bé, và có lẽ cũng có quan tâm đến vụ việc. Bằng giá nào chúng tôi cũng phải cứu Billy ra khỏi gia đình de Grey ấy, nhưng một việc mạo hiểm như vậy sẽ cần phải đựơc lên kế họach một cách cẩn trọng nhất, bí mật nhất.

Tôi sẽ liên lạc với ông sớm, thưa ông Yewbean. Đồng thời tôi mong ngóng có sự hợp tác trong tương lai của chúng ta.

Kính thư, chào hy vọng,

C. Crowquill

"Ôi!" Cô Ingledew thốt lên. "Kỳ lạ thật!"

"Chắc chắn là bà bếp trưởng," Charlie tư lự nói. "Bà bếp trưởng là bạn của ông Crowquill ở học viện Bloor, con đảm bảo. Bà ấy nói với con là bà đã nghe tin từ một trong những người họ hàng của Billy. Và bà nói gì đó về một Lâu đài Gương. Ông cậu có biết nó ở đâu không. Ông cậu Paton? Tổ tiên của Billy xuất xứ từ đó, và việc đó

có lẽ rất quan trọng đối với Billy."

"Chưa bao giờ nghe nói về nó cả,"Ông cậu Paton nói. "Charlie, mày có gặp gia đình de Grey này chưa vậy?" "Dạ rồi, con có gặp họ rồi," Charlie nói, "và con... con, Ông cậu biết không, con đã nghe giọng nói của họ trong hình. Ông de Grey nói ông ta không thích con nít. Vì vậy, ro ràng là ông ta không muốn nhận Billy làm con

nuôi.

"Giờ Billy đang sống với gia đình de Grey à?" Cô Ingledew hỏi.

"Hôm nay họ đến để dẫn nó đi," Charlie nói. "Nhưng nó sẽ đến nhà con vào chủ nhật này và tụi con sẽ cùng nhau đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Con sẽ nói cho nó biết về ông Crowquill, đựơc không. Ông cậu Paton?" "Không," Ông cậu Paton giơ tay lên. "Chưa được đâu, Charlie. Ta cần phải suy nghĩ thật thấu đáo về cuộc gặp mặt này. Lúc này, tốt nhất là Billy không biết gfi về người bảo vệ mình cả. Nếu nó vô tình tiết lộ bí mật ra thì, mọt lần nữa, ông Crowquill sẽ gặp nguy hiểm khôn lường."

"Được. Con sẽ không nói cho nó biết vội. Gia đình de Grey có lẽ không phải là cha mẹ tốt, nhưng ít nhất thì Billy đã ra khỏi được Học viện bloor."

"Đúng là ra khỏi chảo rang lại rơi vào lò lửa," Emma nghiêm nghị nói.

Vào sáng Chủ nhật, trong khi charlie chờ Billy đến, thì nội Bone đi xuống lầu, diện bộ đồ Chủ nhật đẹp nhất của bà ta: một chiếc nón tết bằng lông chim đen, một chiếc áo khoác quý rộng thùng thình mù xám sỉ than, và một

chiếc khăn qùang mang hình hai con chồn chết. Hai cái đuôi chồn thòng xuống lưng bà, trong khi hai cái đầu

chồn gặp nhau dưới cổ họng bà. Những đôi mắt thủy tinh đầy oán hận cuả nhữung con thú đó luôn khiến Charlie ớn xương sống, và noa cố không nhìn vào chúng khi nó đụng bà nội trong hành lang.

"Nội ơi, bà có...?" Charlie mở đầu.

"Tránh ra," bà Bone quát. "Bà Eustacia đến đón tao kìa."

Quả đúng vậy, có tiếng thắng xe rít lên kinh hồn khi xe của bà cô Eustacia đụng phải lề đường bên ngoài nhà số

9.

"Con chỉ muốn hỏi nội có biết ban Billy của con hiện đang sống ở đâu không?" Charlie nài nỉ nói. "Dĩ nhiên là tao biết," nội Bone cộc cằn. "Nhưung đừng hòng tao nói cho mày."

Bà ta đẩy Charlie tránh đường ra, mở cửa trước và đóng lại cái uỳnh sau lưng.

Vài giây sau, Charlie nghr tiếng rú quen thuộc của bánh xe vè một tiếng rầm lớn khi bà cô Eustacia lùi trúng cột đèn đường. Một tiếng thé nghẹn ứ phát ra từ nội Bone và chiếc xe bắn vụt đi.

Charlie uể oải trở vô nhà bếp, lầm bầm:

"Đúng là bà dơi già. Bà sẽ không nói cho mình biết Billy sống ở đâu đâu."

"Đừng lo, Charlie,' ngoại Masie nói. "Bà nghĩ là anh bạn nhỏ của con đang xơi bữa trưa ngon lành với cha mẹ mới của nó. Nó sẽ tới ngay mà."

"Con cũng mong vậy," Charlie nói.

Hầu như chiều Chủ nhật nào Charlie và đám bạn của nó cũng gặp nhau tại quán cà phê thú kiểng. Hôm nay, Charlie chờ Billy cho đến 4 giờ, sau đó nó rời nhà một mình. Khi đến hẻm Con Ếch, nó đã nghe thấy tiếng ồn ào từ quán cà phê dội xuống khắp con hẻm chật: tiếng sủa, tiếng kêu ăng ẳng, tiếng tru, tiếng kêu chiêm chếp và

tiếng la quang quác.

Quán cà phê núp bên dưới những tảng đá của một bức tường khổng lồ, cổ xưa. Thật ra, nơi này được xây hẳn vô trong đá và nhìn như thể nó là một phần của bức tường hàng trăm năm tuổi này. Dòng chữ cà phê thú kiểng được sơn phía trên một khuung cửa sổ lớn, và để nhấn mạnh rằng nơi này là một quán cà phê chuyên để đón tiếp những con thú được người dẫn theo, những hình vẽ đuôi, móng, ria, cánh và vuốt được trang trí lồng vào từng mẫu tự của tấm biển.

Charlie bước vào qua một cánh của màu xang lá cây và mặt đối mặt với một người đàn ông lực lưỡng, mặc áo

thun vẽ hình mấy con vẹt.

"À, Charlie Bone," Norton, người bảo vệ quán thú, nói. "Lẽ ra cậu phải đến sớm hơn rồi. bạn bè của cậu hầu như đã hết hy vọng vào cậu rồi... còn con chó của cậu thì đang điên tiết lên đấy."

"Gượm đã. Hạt Đạu không phải là con chó của cháu."

"Nó là con chó của cậu trong khi anh bạn kia của cậu đang ở Hồng Kông."

Một tiếng sủa vui mừng cất lên tù đăng sau quầy, và một con chó vàng bự chảng phóng vù vô Charlie, suýt nữa

thì tống nó nhào xuống sàn.

"Chào, Hạt Đậu!" Charlie ôm chầm lấy con chó và tìm đám bạn của nó. Emma và Gabriel đang ngồi trong một góc bàn, ăn chung một đĩa bánh bích quy. Cả hai đang uống những ly nước màu hồng tươi, và ba con chuột liểng của Gabriel đang tợp liếm một vũng nước lớn đổ ra bàn.

"Nứơc hoa Anh Đào Ngâm," Gabriel giải thích khi Charlie dẫn hạt Đạu lại gần bàn. "Bọn chuột thích món đó lắm."

"Í," Chảlrie quan sát khi nó ngồi xuống giữa lũ bạn. "Một con say mèm rồi lìa."

"Hự... Ừ,phải." Gabriel hớt con chuột đang nằm mọp lên và đút vô túi áo. "Chút nó tỉnh ngay mà," Gabriel nói chắc nịch. "Công thức pha chế mới của ông Onimous đó. Thứ nước mạnh quá. Enm muốn uống một ngụm

không?"

"Thôi, cảm ơn, nhưng để em ăn một chiếc bánh bích quy." Charlie nhón hai chiếc bánh bích quy, một cho nó và một cho hạt Đậu.

Con chó bự nhai rau ráu vẻ biết ơn, và rồi ngồi tì cằm lên đùi Charlie, hy vọng có thêm.

"Những người khác đâu rồi?" Charlie hỏi, cho hạt Đậu theme một chiếc bánh bích quy nữa.

"Anh Tanc với anh Sander không thể đợi nổi," Emma nói. "Bồ lâu cả thế kỷ, Charlie. Mình tưởng bồ sẽ dắt theo

Billy chứ."

"Chăngt hấy mặt mũi nó đấu. Còn Olivia thì sao? Bồ có gặp nó không? Nó có nhận được vai dó không?"

Emma nhún vai:

"Mình đã gọi tới nhà nó hai lần rồi, nhưng không có ai trả lời. Nó hứa sẽ gặp mình ở đây nhưng... mình không biết. Chắc là có chuyện gì rồi."

"Có lẽ bây giờ con nhỏ đã là ngôi sao, và sẽ không thèm nói chuyện với đám bọn mình nữa,' Gabriel bảo.

"Không đúng," Emma lắc đầu. "Livvie không thế đấu. Nó sẽ tới mà."

Nhưng Olivia không hề xuất hiện. Cả Billy cũng không. Cuối cùng ba đứa bạn phát mệt vì chờ. Emma và Gabriel về nhà, còn Charlie dẫn Hạt Đậu đi dạo. Lúc thằng bé và con chó vừa định quẹo về lại hẻm Con Ếch, sau trọn nửa giờ đi bộ, con hạt Đậu chợt sủa váng lên và chạy, kéo căng sợi dây xích chó.

Ở đầu kia của con đường, Charlie trông thấy Olivia chạy lẹ vô một ngõ hẻm. Nó liếc nhìn Charlie một cai thiệt lẹ, thiệt dữ dội và rồi biến mất. Tò mò vì hành vi kỳ lạ của con nhỏ, Charlie chạy băng qua đường. Lúc nó đến nơi thì Olivia đã biệt tăm, nhưng hạt Đậu kéo Charlie chạy tiếp trong ngõ hẻm, băng qua một quảng trường rải sỏi và rồi vô một khu đầy những cửa tiệm nhỏ.

Ở đằng xa, đứa con gai quay lưng lại Charlie và bắt đầu chạy tiếp. Nhưng nó không chạy kịp con chó. Giằng sợi xích vuột khỏi tay Charlie, con chó phóng nhanh trên đường và rượt kịp Olivia. Nhảy chồm lên người con bé, nó

bắt đầu sủa lên phấn khích.

"Tránh ra! Cút đi!: Đúa con gái hét ầm .

"Từ từ, Liv," Charlie hét to. "Nó là hạt Đậu mà. Chuyện gì xảy với bồ vậy?"

Olivia tựa gục vào bức tường trong khi Charlie chạy tới và túm lấy xích cổ chó.

"Nó không làm bồ đau đâu, Liv. Nó chỉ mừng rỡ vì gặp bồ thôi mà." Charlie ngừng lại. "Gì vậy? trông bồ thiệt

kinh khủng."

"Cám ơn nhiều!" Olivia nhăn nhó.

"Mình không có ý nói khủng khiếp, ý mình... khác." Charlie nói lẹ.

Gương mặt của Olivia lem luốc vệt nước mắt, mí mắt nó sưng húp và tóc nó rối bù. Nó mặc quần bò, mang giày thể thao và áo thun nhăn nhúm. Còn đâu những màu sắc rực rỡ và những bộ đò hầm hố mà nó thường mặc.

Charlie chưa bao giờ thấy bạn mình trông "bình thường" như thế này, mà lại đau khổ như thế này. Nó thấy nó

nên hỏi về buổi diễn thử vai; sẽ còn tệ hơn nếu tránh né một câu hỏi quan trọng nhưu vậy. "Bồ có được nhận vai đó không?"

Môi Olivia mím lại thành một đường chỉ. Nó đá sục xuống đất bằng mũi giày, và qua hàm răng nghiến chặt, nó

nói: "Không!"

"Ồ, chao, mình xin lỗi," câu này có vẻ chưa hoàn chỉnh, nhưng Charlie còn có thể nói gì được nữa?

"Đừng có..." Olivia cáu kỉnh nói. "Tôi không muốn người ta phải thương hại tôi."

"Được. Nhưung chuyện gì xảy ra vậy? Bồ có muốn nói về chuyện đó không?'"

Olivia nghĩ ngợi một hoáng và rồi quyết định là nó rất muốn nói. Nó muốn nói và nói cho đến khi toàn bộ cái sự

việc xấu hổ, nhục nhã kia xì hết ra ngoài không khí, được chia sẻ bởi ít nhất là một con người khác.... và một

con chó.

Ngày hôm đó bắt đầu thật tuyệt. Olivia đã tiến vào tới vòng chỉ còn sáu đứa con gai.

"Tất cả bọn chúng đều nhỏ hơn tớ," nó nói, nhăn trán lại một cái, "nhưng mẹ tớ nói rằng điều đó không có nghĩa lý gì hết. Cái con nhỏ ngồi kế tớ, nó cột tóc bím, mặt đầy tàn nhang và giọng nói cao vút, trông thiệt ngố.

Nó mười ba tuổi, Charlie, nhưng người nó tí nị." Olivia nhăn trán sâu hơn. "Nó cứ lải nhải rằng tớ chắc chắn sẽ

nhận được vai này vì mẹ tớ nổi tiếng." "Nghe chẳng lọt tai tí nào," Charlie nhận xét.

"Ừ. Nhưung tớ quá tự tin nên không nhận ra. Tớ đi vô căn phòng đó và diễn phần của tớ... diễn hết mình luôn. Tớ làm tốt thực sự. Tớ biết rõ mà. Và tớ muốn chắc chắn mình sẽ được nhận vai diễn. Có bốn vị giám khảo ngồi bên bàn , hai ông và hai bà. Họ thậm chí không ghi chép gì hết. và khi tớ làm xong thì ông đạo diễn, chính xác là một nguời bạn của ba tớ, mỉm cười với tớ và nói, 'Cám ơn Olivia. Diễn rất tốt, nhưung không hoàn toàn giống

như điều chúng tôi đang tìm kiếm."

Một dòng nước mắt tuôn trào xuống má Olivia.

"Cái con bím tóc ấy được nhận vai," nó nói gằn giọng. "Ôi, không," Charlie kêu lên. "Mình không tin nổi."

"Điều tệ nhất trong mọi điều là tó đã giận lây mẹ tớ. Hai mẹ con cãi nhau nảy lửa và tớ nói đó là do lỗi của mẹ rớ. Giừo thì mẹ tớ còn cáu tiết hơn cả tớ nữa. Tớ nói tớ sẽ đi gặp bọn đằng ấy ở quan cà Phê Thú Kiểng, nhưng tớ không thể đối mặt với việc phải nói với tất cả mọi người. Tớ nghĩ tớ sẽ mua ít hoa tặng mẹ để dàn hòa, và có người bảo tớ có một tiệm bán hoa đang mơt cửa, ở đâu đây nè."

"Ở ngay đằng kia kìa!" Charlie hất đầu qua bên kia đường. Thiệt kỳ quặc, nó tự hỏi tại sao trước đó nó không nhận ra. Khung cửa và cái cửa sổ sơn màu xanh lá cây đậm và nhữung chữ bên trên cửa sổ hàng đựơc in bằng những mẫu tự vàng rực, uốn lượn. HOA THIÊN THẦN.

"Toàn hoa trắng!" Olivia nhận xét, vẻ đằng đằng của nó bắt đầu nguội bớt.

Đúng vậy. Mọi bông hoa bên trong cửa sổ bày hàng đều trắng: Hoa huệ tây, hoa hồng, hoa cúc và những cây lạ

lùng mà Charlie chưa thấy bao giờ.

"Tụi mình lại coi cửa có mở không," Charlie bước xuống khỏi vỉa hè, nhưng Olivia lừng khừng ở lại.

"Đi nào," Charlie chộp tay con bé. Hạt Đậu cũng đã kéo Charlie qua đường, và cuối cùng, một dây ba đứa lùng

nhùng lết tới tiệm bán hoa.

Lách nhìn qua những bông hoa nở rộ bên trong cửa sổ bày hàng, Charlie nói:

"Cửa mở. Mình thấy có người." Nó tiến tới cửa chính.

"Không," Olivia nói. "Tớ đổi ý rồi.'' "Sao vậy?"

"Tớ không muốn vô trong đó." Con nhỏ đứng như trời trồng tại chỗ, mắt dán chặt vô một bó huệ tây. "Đi đi. Mua một bông huệ tây thôi." Charlie nói. "Không mắc đâu."

"Sao đằng ấy biết," Olivia chất vấn.

Olivia chợt nhận ra sự thay đổi bí hiểm ở Olivia liên quan rất ít đến chuyện rớt thử vai.

"Mình có thể cho bồ mượn hai đồng bảng nếu quá mắc," Nó nói nhẹ nhàng. "Hay là để mình mua cho bồ."

Nó đẩy cửa. Cánh cửa mở vào một gian hàng thơm ngát hương hóa. "Ừm!" Charlie hít hít không khí. "Tuyệt thật."

"Thế ư!" Một giọng nói cất lên.

Một phụ nữ huện ra từ phía sau tiệm. Hạt Đậu chạy tới chỗ cô ấy, đuôi nó ngoáy rối rít.

"Con chó dễ thương quá." Người phụ nữ vuốt ve hai tai Hạt Đậu, và chú chàng ngồi xuống, kêi rừ rừ khoái trá. "Chúng cháu muốn mua... ừm... bông huệ tây," Charlie nói.

"Chúng cháu?" Người phụ nữ hỏi. Cô có mái tóc bạch kim và đôi mắt to màu xanh lá cây.

"Dạ phải. bạn chau muốn mua hoa về tặng mẹ bạn ấy."

Charlie nhìn ra sau lưng và thấy Olivia đang lần chần bước vô tiệm "À đây rồi," người phụ nữ nói. "Cô rất vui là cuối cùng cháu đã tới." "Ý cô là sao?" Olivia đông cứng lại. "Cháu không biết cô."

"Nhưng cô biết cháu," ngừơi phụ nữ nói. "Tên cô là Alice Angel." Rồi cô chìa tay ra:

"Và cháu là Olivia!"

Olivia vẫn không nhúc nhích, cho nên Charlie bắt tay cô Alice Angel.

"Lại đây, Liv. Ổn mà." Charlie quay lại nhìn Olivia, giờ đang đeo một bộ mặt hằm hằm.

Cô Alice Angel mỉm cừoi.

"Không có gì gấp đầu. Cháu muốn mua mấy bông huệ tây?" Olivia thậm chí không mở miệng.

"Giá bao nhiêu ạ?" Charlie hỏi.

Cô Alice không đáp. Cô trầm tư đặt một ngón tay lên cằm và nói.

"Mười bông là đẹp. Mỗi bông cho một hậu dụê của nhà vua. Dẫu có vài đứa không xứng đáng với ý nghĩa đó. Phải, mười bông với một ít nhánh lá xanh."

Đôi mắt cô xanh hệt như những cuống hoa. Và làm sao mà cô ấy biết về nhà vua và mười hậu duệ của Ngài?

Charlie lo lắng nói: "Cháu chỉ có hai bảng."

"Hoa miễn phí," cô Alice nói, khéo léo sắp xếp những bông huệ tây lên quầy. Cô bọc chúng lại bằng giấy bạc mỏng và cột bó hoa bằng một dải ruy băng xa-tanh trắng.

Charlie nhận lấy bó hoa:

"Cô chắc chắn là chúng miễn phí ạ?"

"Hoàn toàn chắc." Cô Alice liếc nang qua Olivia. "Cháu sẽ sớm trở lại chứ? Chúng ta có nhiều thứ để cùng nhau khám phá."

Olivia quay phắt đi và biến lẹ khỏi tiệm.

Charlie bắt đầu cảm thấy lúng túng. Có điều gì đó lạ kỳ về cô Alice Angel này. Bắt đầu từ tên của cô ấy đã lạ; rồi tóc cô ấy mang màu trắng y như sắc trắng của những bông huệ tây.

Nó nói:

"Cảm ơn rất nhiều về những bông hoa, thưa bà... thưa cô Angel. Cháu xin lỗi bạn cháu không... à, bạn ấy đang bị sốc. Bình thường bạn không như vậy."

"Cô biết. cháu có muốn ăn chút táo không? Tự tay cô trồng chúng đấy và chúng lên thật xanh tốt," cô Alice mỉm cừơi khích lệ.

"Dạ không, cảm ơn cô," Charlie nói, hơi hoài nghi. "Mẹ cháu làm việc ở một cửa hàng rau quả." "Đúng rồi," cô Alice nói. "Tạm biệt, Charlie"

"Tạm biệt cô," Charlie bước ra cùng với con Hạt Đậu theo bén gót. Đúng lúc đi khỏi cửa hàng thì nó nhận ra cừa

nãy cô Alice đã gọi đúng tên nó.

"Làm thế nào mà cô ấy biết tên mình?" Nó hỏi bằng giọng hoang mang.

"Làm sao mà cô ấy lại biết tên tớ chứ." Olivia nhận bó hoa tiừ tay Charlie. Trông con bé vừa sửng sốt vừa bối

rối. "Người phụ nữ đó có thể nhìn thấu bên trong tớ," nó nói, gần như thì thào. "Cô ấy biết những điều về tớ mà ngay cả tớ cũng không biết."

Quyển sách về ngài Amadis

Khi Charlie dẫn con Hạt Đậu về lại quán cà phê thú kiểng, nó hỏi ông bà Onimous coi họ có biết một cửa hàng

tên là Hoa Thiên Thần hay không.

"Nghe quen quen," ông Ominous nói. "Đó là một trong những nơi đến rồi đi, cậu hiểu ý tôi muốn nói gì rồi đó."

Charlie không hiểu.

" Trong thành phố này có nhiều thứ lạ lùng không tin nổi," bà Ominous nói.

"Ồ, giờ thì bất cứ chuyện gì cháu cũng tin được," Charlie nói. "Thiệt tình, cháu cũng sẽ không hề ngạc nhiên nếu ông bảo cháu rằng Hạt Đậu là một vị tiên một ngàn tuổi."

Câu nói của nó khiến ông Ominous cười đến nỗi đỏ rựng cả mặt, và ông rớt phịch, bệt xuống sàn.

Charlie ôm hôn chia tay con Hạt Đậu, chào tạm biệt ông bà Ominous, rồi vội vã về nhà. Lúc này đã 6 giờ, và

mẹ nó chắc là đang lo sốt vó.

"Nãy giờ con ở đâu vậy?"Cô Ammy Bone kêu lên khi Charlie bước vô nhà bếp.

"Chúng ta đã gọi cho gia đình Gunn nhưng Fidelio nói là nó không gặp con," ngoại Maisie thêm.

Charlie kể lạ cho bà và mẹ nó nghe về cửa hàng bán hoa.

"Cô Alice Angel đó biết con, mẹ à, nhưng sao cô ấy lại biết? Bà với mẹ có bao giờ đến tiệm Hoa Thiên Thần

chưa?"

"Bà chưa bao giừo nghe đến cái tên đó," ngoại Maisie bảo.

"Mẹ cũng chưa hề nghe," cô Amy kêu lên. "Ôi, Charlie, mẹ mong con đừng có một mình lang thang đến những chỗ lạ trong thành phố."

"Con đi với Hạt Đậu mà, với lại có cả Olivia ở đó nữa, con đâu có đi một mình đâu."

"Nhưng mà," mẹ Charlie thở dài. "Mẹ không lo không được, Charlie à. Phải chi ba con... ngoài kia có những người không muốn con bình an. Nếu con mà... mà biến mất, như ba Lyell ấy, thì mẹ không biết phải làm sao."

"Con sẽ không biến mất đâu, mẹ. Ba con không có phép thuật, nhưng con thì có." "Chính vậy," cô Amy lúng búng. "Thôi, dùng bữa trà đi con."

Charlie ngồi xuống, cảm thấy có lỗi, và ngoại Masie rót cho nó một tách trà. "Chúng ta không lo sao được," bà

nói. "bà cô Venetia của con vừa đến đây xong."

"Bà cô Venetia!" Con dao ăn của Charlie va cạch vô cái dĩa. "Nội Bone mở cửa cho bà ấy vô à?'

"Không. Chắc chắn mụ ta có chìa khóa. Bà mở cửa nhà bếp ra thì thấy mụ ở đó rồi, đứng lù lù trong hành lang.

Trông mụ ấy thật ghê hồn, tóc tai rối bù, quần áo lôi thôi lếch thếch. Mụ ta vẫn lịch lãm lắm kia mà. Bà nghĩ

mụ ta mất trí rồi. Vụ hỏa hoạn trong nhà mụ khiến mụ phát điên phát khùng."

"Bà ta cắp theo một nách quần áo," mẹ Charlie nói. "Muốn biết xem chúng ta có thích chúng không." "Còn lâu," ngoại Maisie khịt mũi. "Chắc chắn mụ ta đã tẩm độc chúng rồi."

"Chúng ta bảo bà ta đi đi, xong mẹ khóa tất cả các phòng ngủ lại, để đề phòng. Chìa khóa phòng con đây,

Charlie." Cô Amy Bone đẩy một chiếc chìa khóa băng qua bàn. "Ngày mai hãy khóa cửa phòng con lại khi con đi

học, rồi đưa chìa khóa cho ngoại Maisie."

Charlie rên rỉ. Cứ như chưa có đủ chuyện để ghi nhớ không bằng, giờ họ lại còn phải khóa tất cả các cửa phòng

lại nữa.

"Không làm thế không được," ngoại Maisie bảo. "Chúng ta không muốn kết cục lại có thuốc độc trong quần hoặc rắn bò ra từ ống tay áo, đúng chưa?'

Khi bữa trà kết thúc, Charlie ngồi lại để coi chương trình T.V ưa thích của nó, Những tiếng sủa, câu chuyện kể về một chú chó. Trái với ý muốn của nội Bone, ngoại Maisie cương quyết đặt một chiếc T.V nhỏ lên nóc tủ đựng ly chén trong nhà beeps. Bà không muốn bỏ lỡ những sô truyền hình yêu thích của bà. Bà từng nói với nội Bonẻằng nếu bà đã phải làm nô lệ suốt ngày trong nhà bếp như thế, thì chí ít bà cũng phải được phép thưởng thức đôi chút thud vui trong khi làm việc chứ. Dĩ nhiên, Trừ phi có ngueời lại thích tự nguyện làm nô lệ,.

Nôi Bone nghe đến từ nô lệ thì hãi quá, và đành chịu thua.

Chương trình của Charlie vừa bắt đầu thì ông cậu Paton ngó vô và nói:

"Rồi!"

"Rồ gì ạ?" Charlie hỏi, hy vọng caia tia nhìnquắc lênt rongmắt ông không có nghĩa là một trong những bà chị của ông vừa tống cho ông một căn bệnh gớm ghiếc.

"Lâu đài Gương, nhóc cưng," Ông cậu Paton nói. "lên lầu đi rồi ta chỉ cho coi."

"nhưng chương troình của con vừa mới bắt đầu." Charlie nói, nhấp nhổm trên ghế.

"À ừ, nếu tích T.V hơn... thì cứa việc thích đi!" Ông cậu Paton lui ra, đóng sầm cửa lại sau lưng.

Charlie coi những tiếng sủa thêm chừng năm phút thì không thể tập trung được nữa. Chả có gì tức cười trong tập phim hôm nay cả. Ngoại Maisie và mẹ bó đang rúc tích cười bên một tờ tạp chí. Thật chia trí hết sức. Charlie buông một tiếng thở dài thiệt to, tắt T.V và rời hàh bếp. Nó chạy vù lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.

"Cái gì?" Giọng Ông cậu Paton.

"Ông cậu nói ông cậu có thứ muốn cho con coi... về Lâu Đài Gương." "Vậy hả? Thế thì vô đi,"Ông cậu Paton nói hơi miễn cưỡng.

Charlie bước vô phòng. Ông cậu Paton của nó ngập trong tình trạng bừa bãi như thường lệ. Sách nằm ngổn ngang dưới sàn nhà, giấy chất trên giường, và các kệ sách oằn xuống dưới sức nặng của những bản thảo và những cuốn bách khoa toàn thư. Ông cậu Paton đang ngồi bên bàn làm việc. Ông đeo cặp kính tròng bán nguyệt và đang đọc một cuốn sách trông cũ mục nhất mà Charlie từng thấy. Những trang giấy xỉn màu như

màu mù tạt và những mép sách cong tua ra. Bìa da tơi xốp, te tua và gần hư không giữ nổi những trang sách mục cứ chực bung ra khỏi bìa.

"Julia thông thái đã tìm thấy cái này trong đám kho báu của cô ấy. Cô ấy có một trí nhớ thiệt đáng kinh ngạc, và khi nghe nhắc đến một lâu đài gương là côn ấy biết ngay trước đây mình đã từng thấy cái tên đó."

Ông cậu Paton tiếc nuối gập cuốn sách lại và Charlie đọc thấy chữ Quyển sách về ngài Amadis in bằng chữ vàng

bị mờ đi trên bìa.

"Ngài Amadis?" Charlie nói.

"Người con thứ hai của Vua Đỏ," Ông cậu Paton vỗ vỗ cuốn sách. "Cuốn sách này kể lại tất cả. Ngài Amadis bị buộc phải trốn khỏi lâu đài của vua cha khi Borlath, người con cả, rắp tâm theo đuổi quyền lực chết người của hắn. Hắn giết hại tất cả những người ngáng đường hắn, và trong cuộc chinh phục này, hắn được bốn người anh em của hắn trợ giúp. Năm người kia, trong đó có ngài Amadis, cố ngăn cản những cuộc tàn sát đẫm máu đang diễn ra trên khắp đất nước. Nhưng Borlath và bọn lâu la của hắn rất hùng mạnh, và cuối cùng, lại thêm những

người anh em đầy tôn kính phải chạy trốn khỏi lâu đài vì lo sợ tính mạng của mình." "Ngài Amadis là tổ tiên của Billy phải không ạ?" Charlie hỏi.

"Hình như thế."

"Vậy thì, ai là tổ tiên của chúng ta? Người bắt đầu dòng họ Yewbean ấy? Ông ấy theo phe thiện hay phe ác?" "Theo những gì ta nghiên cứu được thì bà ấy là Amoret, người con cuối cung, em gái yêu quý nhất của ngài

Amdis."

"Một cô gái?" Charlie chưa từng nghĩ đến điều này.

"Phải, Charlie, một cô gái." Ông cậu Paton mở quyển sách cổ xưa ra. "Bà ấy chạy trốn cùng với ngài Amadis, nhưng đến phương bắc thì họ bị tách ra. Bà Amoret bị lạc và ngài Amadis dong buồm đến một hòn đảo ở hướng Tây bắc. Ông rất được yêu mến và nhiều người dân sống trong lãnh địa của nhà vua thà rời bỏ quê nhà để đi

theo ngài Amadis còn hơn là ở lại chịu ách cai trị ******* của Borlath..." Charlie cắt ngang:

"Nhưng bà Amoret? Ông cậu nói bà ấy bị lạc. Ông cậu không biết chuyện gì xảy ra với bà ấy a? Không ai biết cả sao? Ý con là, con có thể tìm ra... có lẽ ở trên Internet."

Ông cậu Paton buông một tiếng thở dài mất kiên nhẫn:

"Mày sẽ chẳng tìm thấy bà Amoret trên máy tính của mày đâu. Lịch sử về bà ấy bí mật đến nỗi không thể đưa lên mạng được. Không ai biết toàn bộ sự thực. Chính chúng ta phải khám phá ra điều đó. Và đó là điều ta đang

cố làm trong suốt hai mươi năm qua."

Ông duỗi cánh tay, trỏ vô những kệ sách và những đống giấy tưa sờn.

"Khi gặp Julia Ingledew, ta cứ như bắt được kho báu vậy; còn ai khác đam mê tìm hiểu quá khứ, còn ai khác không nề hà dành cả một tuần lễ để lục tìm cho được một manh mối mập mờ nhất nhằm giải đáp một câu đố như cô ấy chứ. Với ta, một người như vậy là cả một kho báu, Charlie, cho dù cô ấy không phải là người tâm đắc và dễ mến nhất mà ta từng gặp."

Charlie chưa bao giờ nghe ông cậu nó nói say sưa như thế.

"Ông cậu có cưới cô ấy không?" Nó hỏi. Ông cậu Paton nheo mắt, rồi nói nhanh:

"Ta thậm chí còn không dám nghĩ tới điều đó."

"Sao lại không? Con thấy đó là một điều hay," Charlie thẳng ruột ngựa. Ông cậu Paton giả vờ ho khéo một tiếng.

"Đề tài của chúng ta là Lâu Đài Gương, chứ không phải là tương lai của Paton Yewbeam," ông nói bằng giọng đều đều. "Mày có quan tâm đến quyển sách này hay không nào?"

"Còn phải nói," Charlie nhiệt thành nói. "Con ngồi xuống nhe? Chắc phải mất một ngày dài."

"Cứ việc," Ông cậu Paton trỏ cho nó chiếc giường , và Charlie, sau khi loay hoay đẩy vài quyển sách qua một bên , đã kiếm được một chỗ để an vị trên chiếc giường lớn, bừa bộn của Ông cậu Paton.

Ông cậu Paton xoay chiếc ghế da rách tươm bươm của mình quay mặt lại với Charlie và bắt đầu đọc. Tới khi màn dêm sụp xuống ,và mặt trăng hiển ra trên bầu trời đen kịt, Charlie đã chìm đắm trong câu chuyện về Hoàng tử Amadis và lâu đài Gương. Quang cảnh căn phòng của ông cậu Paton mờ dần, và qua đôi mắt khép hờ, Charlie bắt đầu thấy một lâu đài nổi lên giữa một hòn đảo màu xanh lá cấy, nằm ngay giữa mặt biển lấp lánh.

"Người ta nói rằng đó là tòa lâu đầi thần tiên nhất trên đời..."

Ông cậu Paton là một người kể chuyện hoàn hảo. Ông biến những dòng chữ trong sách thành lời kể của riêng mình, và giọng kể trầm bổng, sâu sắc của ông làm căn phòng hiện ra đầy ắp những hình ảnh: những hiệp sĩ uy

nghi, những con ngựa chiến, những chiếc cúp vàng, những thanh gươm, những tấm khiên sáng loáng, những cờ

phướn bay phấp phới, biển dậy sóng dữ dội... và lửa cháy.

"Khi ngài Amadis và đoàn tùy tùng của ngài đã xây dựng xong tòa lâu đài hoàn mỹ của mìh," Ông cậu Paton đọc, "thì tiếp theo đó là mười lăm năm yên bình. Đất đai màu mỡ và họ sống thịnh vượng. Hoàng tử cưới một

trong những người tùy tùng của mình và họ có bốn người con. Người con út tên là Owain." "Thế còn ba người kia thì sao?" Charlie nôn nóng hỏi.

"Không liên quan," Ông cậu của nó nói.

Ông tiếp tục giải thích tại sao ba người con đáng thương ấy không dự phần trong câu chuyện.

"Điều tất yếu xảy tới là Borlath nghe được tin về tòa lâu đài trên đảo ấy và muốn chiếm nó cho mình. Mang theo một ngàn lính đánh thuê khát máu, hắn băng qua biển và bao vây lâu đài, yêu cầu ngài Amadis phải đầu

hàng."

"Và ngài Amadis từ chối?" Charlie nóng nảy chen vô.

"Dĩ nhiên. Ngài biết rằng nếu ngài giao nộp lâu đài thì toàn thể gia đình ngài sẽ bị tàn sát. Nhưng đó là một

quyết định đau lòng. Ngài Amadis biết rất rõ về tài phép khủng khiếp của Borlath." Charlie chồm hẳn người ra trước, vẻ nôn nóng:

"Đó là điều con vẫn muốn hỏi, Ông cậu Paton ơi, tất cả con cái của Vua Đỏ đều được ban phép thuật, phải không? Vậy, ngài Amadis có thể làm được gì? Và lão Borlath thì sao?"

"Ngài Amadis hiểu ngôn ngữ của các loài chim và thú. Ngài có thể nói chuyện với bất kì sinh vật nào trên đời, nhưng điều đó không có giá trị gì nhiều khi ngài cần phải bảo vệ thần dân của ngài chống lại Borlath."

Charlie chờ đợi một cách sốt ruột, cho đến mãi cuối cùng, Ông cậu Paton bảo với nó:

"Borlath có thể phun ra lửa; khi tập trung tâm trí, hắn có thể thiêu rụi tất cả mọi thứ trên đường hắn đi. Nhưng hắn không muốn phá hủy một tòa lâu đài hoàn mỹ như vậy; hắn muốn chiếm nó cho mình, vì vậy hắn bắt đầu bao vậy lâu đài. Điều đó không có nghĩa là hắn ngồi im chờ ngài Amadis đầu hàng. Ồ, không hề. Trước tiên, quân đội của Borlath bắc thang leo lên những bờ tường dốc đứng. Những cung thủ từ các lỗ châu mai trên đỉnh

thành chẳng mấy chốc đã đánh lui bọn chúng."

Ông cậu Paton lật qua trang và đọc tiếp:

"Thế rồi, bọn lính đánh thuê ra sức phá cánh cổng gỗ sồi lớn bằng một thanh gỗ có đầu bịt sắt dùng để phá thành. Nhưng một bức màn dơi bổ nhào xuống và làm mù mắt bọn chúng. Vào cuối tuần lễ thứ mười, ngài Amadis và một trăm chiến binh của mình rời khỏi toàn lâu đài vào một đêm tối đen như mực và bất ngờ tấn công bọn lính đang ngủ say của Borlath. Yếu tố bất ngờ giúp cho ngài Amadis được thuận lợi, nhưng cuối cùng nhúm quân nhỏ của ngài bị bọn chiến binh khát máu của Borlath áp đẩo, chúng là bậc thầy giết chóc, thưởng

thức từng mẩu đầu mình tứ chi bị cắt rời." Charlie rùng mình:

"Vậy ngài Amadis có bị giết không?"

"Ngài bị thương nặng," Ông cậu Paton đáp. "Một mũi giáo cắm trong vai ngài."

Rồi Ông cậu đọc:

"Hầu hết thuộc hạ của ngài Amadis đều bị giết, nhưng một số sống sót và dìu hoàng tử trở lại lâu đài và ngài sống... cho đến hồi kết thúc. Có lẽ, trong thâm tâm, Amadis luôn biết rằng một ngày nào đó Borlath sẽ mò đến tìm mình, cho nên bên trong lâu đài, ngài đã tích trữ một số lượng thực phẩm và ngũ cốc thật lớn. Họ cũng đào một cái giếng thiệt sâu. Khi nguồn cung cáp cạn dần, ngài Amadis nói chuyện với muông thú..."

Ông cậu Paton mỉm cười một mình khi đọc tiếp:

"Một đội quân chuột xâm nhập kho lương thực của Borlath. Bầy sói tấn công bọn lính canh, chim mổ lủng lều bạt của chúng và đêm đến, đàn dơi lại đến, rú rít rợp trời khiến cho không sao ngủ được. Cuộc sống bọn lính

của Borlath trở nên không thể chịu đựng nổi. Thời tiết chuyển lạnh. Trời bắt đầu mưa. Bọn lính đã chịu đựng đủ rồi. Chúng muốn quay về nhà."

"Và đó là khi Borlath sử dụng đến lửa của hắn, phải không?" Charlie nói.

Ông cậu Paton gật đầu. Ông nhìn xuống cuốn sách.

"Ở dưới chân tòa lâu đài có một bức tường cọc gỗ nhọn dày đặc ở cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng xen giữa và nhô hẳn lên trên rừng gỗ ấy là một bức tường đá màu vàng. Bằng một động tác giận dữ và thèm muốn, Borlath giơ một nắm đấm của hắn lên và gọi lửa. Những người ở trong lâu đài nhanh chóng bị bao bọc trong một vòng lửa. Một số người gieo mình khỏi những lỗ châu mai. Nhưng một số khác dã hoảng sợ khiếp vía trước khi họ leo lên được tới đó. Mọi đàn ông, phụ nữ và trẻ em, mọi sinh vật trong lâuh đài bị tiêu diệt - ngoại trừ một người."

"Là ai?" Charlie thốt lên, nhảy bật ra khỏi thế giới rực lửa mà Ông cậu nó vừa tái hiện. "Ý con là làm sao mà có

người..."

"Khoan!" Ông cậu Paton ra lệnh. Charlie im bặt.

"Sức nóng khủng khiếp từ những cọc nhọn cháy khiến cho đá bị nung nóng thành thủy tinh - nói một cách khác, những bức tường biến thnàh thủy tinh - một loại thủy tinh đên, dày."

Đôi mắt đen của Ông cậu Paton quắc lên sống động:

"Bây giờ mới là phần thực sự thú vị, Charlie. Ta tin là nó nắm giữ manh mối về nhánh kia của gia đình mày."

Ông cậu lật một trang sách.

"Trong những chuyến chu du của mình, ngài Amadis đã kết bạn với một thầy pháp xứ Gan, một ông tên là

Mathonwy. Thầy pháp này sống trên lục địa về phía nam hòn đảo của hoàng tử. Nhưng ngọn lửa do Borlath gây

ra dữ dội đến mức nó chiếu sáng rực cả bầu trời suốt mấy dặm quanh đó. Mây biến thành lửa, chim chóc cháy thành than, và mặt biển đỏ máu sôi sùng sục như một cái vạc sôi."

"Từ xa ngài Manthonwy phát hiện ra cảnh tượng ấy. Ngài đoán được chuyện gì đã xảy ra. Đã qúa trễ để cứu

người bạn hiền của ngài, Hoàng tử Amadis rồi chăng? Ngài Manthonwy làm điều duy nhất ngài có thể làm được.

Ngài làm cho tuyết rơi. Một tấm mền tuyết ùa về phía tòa lâu đài đang cháy. Khi tiến tới hòn đảo thì màn tuyết rơi xuốg, và ở nơi nào tuyết chạm tới những bức tường cháy xém thì nơi đó một chuyện lạ xảy ra. Đá bị nung

nóng thành thủy tinh bắt đầu sáng lóa lên."

"Một lâu đài thủy tinh sáng lấp lánh," Charlie nín thở. "Nhưng, Ông cậu Paton ơi, có gì liên hệ với gia đình con

nào?"

"Ngài Manthonwy," Ông cậu Paton nó cọc cằn. "Nhớ cái tên này trong gia phả mà ngoại Maisie đã đưa cho mày không? Ông tổ người xứ Gan của mày."

"Ồ," Charlie chậm rãi nói. "Nhưng ngày tháng năm không đúng."

"Cái tên là đủ rồi. Người xứ gan hay đặt tên theo tổ tiên của mình, những cái tên cứ lặp đi lặp lại."

"Ồ," Charlie lại nói, và nhắc đến vị tổ tiên người xứ Gan nó lại nhớ đến cây gậy phép. "Ông cậu Paton, con làm mất... ông biết đấy... mất cây gậy phép."

"Cái gì!" Cặp kiếng của Ông cậu Paton trượt xệ xuống chóp mũi.

"Con đã mang nó tới trường. Con thiệt là ngu. Con cất nó dưới tấm nệm giường và giờ thì nó mất tiêu rồi."

"Mày có nghi ai không?!

"Có. Và nếu đó đúng là kẻ con nghi thì chắc chắn con sẽ lấy lại được cây gậy phép. Thôi, ông kể tiếp câu chuyện đi ạ."

Ông Paton lắc đầu.

"Thỉnh thoảng, sự cẩu thả của mày khiến ta phải choáng váng đó, Charlie."

Ông nhìn xuống cuốn sách:

"Những bức tường của lâu đài trở nên trơn láng và sáng chói đến nỗi bọn lính của Borlath trơ đực ra ngó một đội quân đang nhìn ra chúng. Cảnh tượng mới kinh hoàng và bi tráng làm sao. Vì tin rằng Hoàng tử Amadis và quân dân của ngài vẫn còn sống sót trong biển lửa, và như vậy thì thạt là siêu phàm, bọn lính đánh thuê vội tháo chạy ra những thuyền. Duy chỉ có Borlath nhận ra rằng quân dội sáng chói kia là hình phản chiếu quân của chính hắn, nhưng hắn không cố chiếm tòa lâu đài nữa. Vì lý do gì đó mà những bức tường gương khiến hắn

khiếp đảm, và cả hắn nữa, cũng rút khỏi hòn đảo."

"Vậy là tất cả mọi người đều chết trong đó," Charlie nói. "Ngoại trừ một người. Chắc hẳn nó giống như một lăng mộ khổng lồ sáng rực rỡ. Con không muốn là người duy nhất sống sót đó đấu. Người đó là ai vậy ạ. Ông cậu

Paton?"

Ông cậu Paton lại tham khảo cuốn sách, lật qua vài trang trước khi tới một trang ở gần cuối.

"Có một người sống sót, là con trai út của hoàng tử, Owain, tóc trắng, người được gọi là kẻ bạch tạng, và là người hiểu được ngôn ngữ của chim và thú. Vì vậy, Owain, không gia đình, không nhà cửa, đã rời khỏi hòn đảo theo lời khuyên của một con quạ. Và con quạ ấy cùng đi với ngài."

"Ngài ấy giống Billy quá," Charlie kinh ngạc nói. "Giống y hệt Billy."

"Chính xác," Ông cậu Paton thừa nhận. "Thiệt kỳ lạ là những đặc điểm giống nhau thình lình lại xuất hiện qua những thế hệ. Rủi qua, sách không nói cậu bé đó đã xoay xở làm sao mà sống sót được, nhưung để ta đọc đoạn cuối cho mày nghe vì nó thú vị thật sự: 'Người ta truyền tụng rằng một trong những người mang dòng máu của Owain, một ngày kia, sẽ gặp lại hoàng tử Amadis trong Lâu đài Gương.' "

"Billy?" Charlie nói.

Ông cậu Paton dòm qua cặp mục kỉnh:

"Có lẽ."

Ông quay lại với cuốn sách:

"Và Owain rong ruổi tới Đế Chế La Mã Linh Thiêng, sinh được hai người con trai. Người con cả trở thành một học giả...' - tức là người viết sách, viết tài liệu hoặc chép lại những bản thảo đấy - '... và người con út có thể nói được ngôn ngữ của chim muông và thú vật. Người con trai này bị xua đuổi khỏi ngôi làng ông sinh sống vì đã giao du với lũ quạ đậu trên giá treo cổ, nơi hành quyết tội nhân.' "

Charlie rùng mình:

"Ghê quá. Nhưng tại sao họ lại xua đuổi ông ấy?"

"Vào thời ấy những thói quen lạ lùng thường bị cho là hiện thân của quỷ sứ," Ông cậu Paton nói. "Và bây giờ là

kết thúc câu chuyên..."

Ông đặt một ngón tay lên đoạn cuối cùng:

"Người con trai cả của ngài Owain được gọi là Crowquill vì ông sử dụng bút lông quạ để viết những tác phẩm

của mình. Và câu chuyênh này, theo như tôi được biết, do một hậu duệ của ngài Crowquill viết vào năm 1655,

sau Công Nguyên."

"Vậy là..." Charlie trầm ngâm nói, "...họ, dòng họ Raven và dòng họ Crowquill, có mối liên hệ với nhau ngày từ thời đó... Có quá nhiều chuyện lạ kì xảy ra trong thành phố này, Ông cậu Paton ạ."

"Đúng vậy," Ông cậu của nó nói.

"Cứ như là thành phố này đang kéo tất cả bon họ lùi về lại quá khứ, tất cả nnững người mà câu chuyện của họ

bát đầu ngay tại đây, trên mảnh đất dưới chân chúng ta, dưới tất cả mọi mái nàh và mọi đường phố và mọi công viên."

"Kể cả ngôi nhà này," Ông cậu Paton thêm.

"Kể cả chúng ta. Như những sợi chỉ đang càng ngày càng buộc chặt mọi ngừoi lại với nhau." "Mày mới giống nhà hùng biện làm sao, Charlie," Ông cậu Paton nói, mỉm cười.

"Hôm nay," Charlie tiếp, "con đến một tiệm bán hoa và cô bán hàng biết tên con. Cô ấy đặc biệt quan tâm đến bạn con, Olivia. Nhưng Livvie chức là sẽ không tới tiệm đó nữa đâu. Nó nói người phụ nữ ấy biết về nó còn

nhiều hơn cả nó nữa."

"Con bé đó có được ban phép thuật không?"

"Không, Tuyệt nhiên không. Nhưng nó là một diễn viên cực kỳ tài năng. Chỉ vì nó bị rớt trong kỳ thi thử vai và nó thật sư... con không tể diễn tả được. Nó hình như là rất khác... cáu bẳn và tuyệt vọng!"

"Coi bộ rắc rối đấy, Charlie. Phụ nữ tuyệt vọng rất nguy hiểm."

"Vậy à?" Không cưỡng nổi, Charlie ngáp một cái. "Cảm ơn Ông cậu đã đọc cho con nghe câu chuyện. Cứ như là đặt mọi thứ vô một cái khung để có thể nhìn thấy chúng cho rõ hơn vậy. Con thắc mắc không biết chuyện gì sẽ

xảy ra tiếp theo đây?"

"Ta tự hỏi, Charlie à," Ông cậu Paton nói. "Ta tự hỏi..."

Ông đóng cuón sách lại và cẩn thận đẩy nó vô một tỏng những hốc còn trống ở trên bàn làm việc: "Mày nên tìm cho ra cây gậy phép trước khi noa rơi vào những bàn tay xấu."

Charlie nghĩ, có lẽ nó đã rơi vào rồi.

Con bướm đêm màu trắng

Manfred Bloor đang mất dần quyền phép. Hắn đã nhận ra điều đó khoảng một năm nay, kể từ khi Charlie Bone đấu trí chống lại đựoc hắn. Charlue đã mường tượng được những hình ảnh về cha nó, một người đàn ông mà Manfred thấy rất dễ thôi miên hồi hắn mới chín tuổi. Khi Manfred lên chín, tài phép của hắn đã đạt tới đỉnh cao;

bây giờ chúng đang suy yếu dần.

Không ai đoán được chuyện gì đang xảy ra với hắn. Manfred vẫn có thể khiến lũ trẻ sợ chết khiếp mỗi khi hắn chĩa tia nhìn gớm ghiếc. Và cuộc thí nghiệm với con ngựa đã gần như lấy lại được sự tự tin cho hắn, bởi vì chính

phần đóng góp của hắn vào quy trình ấy là thành công nhất. Phải thế không? Hay lại chính mấy món nước bốc

mùi kinh tởm của mụ Venetia Yewbeam đã làm nên chuyện.

Cong một điều nữa. Hiện giờ con ngựa đó đang ở đâu? Và họ sẽ khống chế nó bằng cách nào đây? Manfred ngầm kinh sợ con ngựa "không chết" đó và trái tim ******* của nó. Hắn cần một thứ gì đó để tự bảo vệ mình.

Thiệt dễ dàng thuyết phục Billy Raven đánh cắp cây gậy phép của Charlie. Sợ rằng một cơ hội được hạnh phúc của mình bị vuột mất vào phút cuối, Billy đã tìm ra cây gậy phép và trao cho hắn.

Mong rằng nhóc Billy được hưởng chút lợi lộc. Bây giờ cu cậu đang bị kẹt trong Ngôi Nhà Bất Chợt, và cha mẹ tử tế mà nó hằng ao ước không ai khác hơn lại chính là bọn côn đồ máu lạnh có những quyền phép cực kỳ khó

chịu.

"Ô, ngờ nghệch quá chừng chừng," Manfred hát ư ử khi hắn nhịp bước vòng quanh văn phòng của mình, xoay xoay cây gậy trắng, thanh mảnh trong tay.

"Và bây giờ là bài kiểm tra. Mày sẽ làm được gì cho tao, hả cây gậy phép bé nhỏ?"

Hắn nhận thấy một con ruồi đang bò trên bàn làm việc, liền chạm đầu gạy bịt bạc vô nó. "Biến thành cóc," hắn ra lệnh.

Manfred cảm thấy một cơn buốt xé trong lòng bàn tay và hắn buông rớt cây gậy phép. Con ruồi vẫn cứ là con ruồi. Nó bay lên trần nhà , và đậu ở đó, lộn ngược, im re. Manfred có cảm giác gớm ghiếc là con ruồi đang cừơi

nhạo mình.

"Biến thành cóc," hắn hét to, quăng cây gậy phép lên trần nhà.

Khi cây gậy trắng rời khỏi bàn tay hắn, một cơn đau xe thịt chạy dài suốt cánh tay của Manfred. "Áááááá!" Hắn hét lên.

Cây gậy phép đụng con ruồi và rớt xuống sàn. Con ruồi, không hề hấn gì, bay về phía cửa sổ.

"Biến con vật đó thành cóc!" Manfred rú rít, chụp lấy cây gậy phép và liệng nó về phía cửa sổ . Lần này, cơn đau đục bàn tay hắn tựa như một que cời nung đỏ. Quả thực, có một vết bầm lớn, đỏ lòm xẹt ngang lòng bàn

tay hắn.

Khi Manfred thét rống lên, con ruồi bay vo ve đằng sau tấm rèm, và một lần nữa, cây gậy rớt xuống sàn nhà. Đến lúc này, Manfred không còn chút nghi ngờ gì nữa, rằng cây gậy ấy không phục tùng hắn. Thự ra, hắn càng

cố sử dụng nó, thì nó sẽ càng trừng phạt hắn vì đã dám thử.

"Mày... mày..." Miệng nguyền rủa thậm tệ, Manfred vớt cây gậy phép lên và thảy nó vô sọt rác trống rỗng. Rồi hắn quơ cào tất tần tật đám giấy lộn mà hắn kiếm được và quẳng vô sọt. Hành động cuối cùng của Manfred là

quẹt vài que diêm và thả chúng vô đống giấy.

Trông lửa bốc lên ống khói thiệt hả lòng hả dạ, nhưng rồi khoảnh khắc kinh hoàng đến với Manfred khi lửa bắt đầu lan ra căn phòng. Hắn giật phăng chiếc áo chùng đen đang mặc ra và thảy nó úp chụp lên ngọn lửa, cố dập tắt. Chiếc áo chùng cháy sém và một làn khói cuộn ra. Ho sặc sụa và ngạt thở, Manfred lảo đảo chạy tới cửa sổ,

mở bung ra.

Đúng lúc đó, ông Tantalus Ebony bước vào phòng, vui vẻ cười rồ rồ: "Đang âm mưu gì đấy, chàng trai trẻ?"

Manfred quay ngoắt lại, vẫn ho rũ rượi. Hắn chỉ ngọn lửa:

"Cây gây... hụ... hụ.. của Charlie... Tôi... hụ... đốt nó."

Hắn khạc một tiếng để thông cổ họng, nghe khét lẹt.

"Nó không phục tùng tôi, cho nên tôi kết liễu nó luôn. Ít nhất thì bây giờ cái thằng oắt ôn dịch đó không thể sử dụng cây gậy được nữa."

"Ôôôô! Kiềm chế, kiềm chế coi.' Tantalus cười khục khịch. "Cậu sẽ cần phải học cách kiểm soát chuyện nó không phục tùng cậu, anh bạn cũ của ta à."

"Tôi không phải bạn cũ của ông" Manfred quặc lại. "và tôi mong ông xác định đựơc ông là ai."

"Hôm nay, ta là..." Tantalus dòm trợn trừng lên trần nhà. "Ta là một chút Vicent Ebony, tên đưa thư - gã ấy gọi tất cả mọi người là bạn cũ của tôi - nhưng mà ta cũng là một phần ngài hiệu trưởng ham đi bộ, Tantalus

Wright. Ta chưa hề có nhiều niềm vui đến thế này suốt bao nhiêu năm rồi." "Tôi hy vọng lão chưa quên tại sao lão lại ở đấy," Manfred nói ngoa ngoắt.

"Ồ, cái đó!" Tantalus híp đôi mắt chênh nhau của lão lại và liếm đôi môi mỏng. "Không, ta không quên cái đó."

Ngọn lửa trong sọt rác, đến lúc này, là một đống tro lập lòe và hai gã đàn ông nnhìn với vẻ thỏa lòng khi những thứ còn lại của cây gậy cháy đen cuối cùng vỡ vụn ra thành bụi. Một luồng gió thình lình lùa thốc qua cửa sổ để mở, nang đống tro lên, và một đám mây tro nhỏ xíu bay chấp chới vô phòng. Dần dần, đám mây xếp thành hình một con bướm đêm màu trắng với đầu đôi cánh mỏng mảnh viền bạc.

"Bắt lấy nó!" Tantalus rống vang.

Manfred nhảy chồm lên, quá trễ. Con bướm bay dập dềnh qua cửa sổ, theo sau là một con ruồi bất trị.

Trong phòng tắm nhà số 9 đường Filbert, Charlie Bone mặc đồ ngủ, đứng bên cạnh bồn rửa mặt, bỗng cảm thấy choáng váng. Toàn thân nó như bị lửa đốt. Bệnh cúm chăng? Nó cảm thấy một cái gì đó kinh khủng vừa mới xảy ra. Nhưng mà là cái gì? Lẽ nào một trong những người bạn của nó gặp tai nạn.

Charlie hứng hai bàn tay dưới vòi nước lạnh. Hơi nước bốc lên từ những ngón tay của nó, như thể chúng là những que cời than đỏ rực.

"Ôi...ôi," Charlie run bần bật. "Vụ gì thế này?"

"Gì hả?" Một giọng nói từ ngưỡng cửa nạt nộ. Nội Bone đứng trợn mắt nhìn Charlie. "Mày chiếm nhà tắm suốt

hai mươi phút rồi. Những người khác cũng cần xài, mày phải biết chứ."

"Éééé!" Charlie nghiến chặt hai hàm răng lại khi một làn hơi nước nữa phụt ra khỏi những đầu ngón tay nó.

"Nhưng con bị nóng quá, nội. Coi nè! Hơi nước!"

"Cái xấu xa nó phơi bày ra đó mà," nội Bone gầm gừ. "Dẹp cái tay kinh tởm của mày đi chỗ khác"

Charlie rời phòng tắm, vẩy vẩy những ngón tay bốc khói trong không khí. Nó đi vào phòng ngủ, mở cửa sổ ra

hết cỡ, và chìa hai bàn tay ra ngoài trời mắt mẻ.Đó là một buổi tối kỳ lạ. Một màn sương mù mùa thu đang quét qua thành phố, làm nghẹt tiếng xe cộ và làm mềm đi những đường viền của những bức tường và những

hàng rào. Không khí ngào ngạt hương hoa.

Một mảng bụi sáng lấp lóa trôi từ bầu trời xuống. Khi mảng bụi sà xuống gần hơn, Charlie có thể nhận ra đôi cánh màu trắng, đầu cánh viền bạc - một con bướm đêm màu trắng.

Sinh vật bé nhỏ đó bay xuống bàn tay chìa ra của Charlie và đậu lên ngón tay trỏ của nó. "Chao!" Charlie nói. "Mày thiệt tuyệt vời."

Nó đem con bướm vô nhà và để con bướm bò trên chiếc bàn đầu giường, tại đây con bướm dang đôi cánh ra và

đậu im lìm. Charlie có cảm giác là con bướm cảm thấy rất thoải mái khi ở trong phòng nó. Nó nhận thấy bàn

tay nó không còn cháy bỏng nữa, và cơn sốt ngây ngấy của nó cũng đã hết. Nó hoàn toàn khỏe mạnh trở lại.

Trong một ngôi nhà cách không xa nhà của Charlie, Olivia Vertigo ngồi trên mép giường, gọt táo. Đó là trái táo

thứ năm nó cố gọt trong ngày hôm ấy. Và lần cố gắng này chứng tỏ cũng chẳng thành công hơn những lần kia.

Mỗi lần nó nghĩ nó đã gọt xong hết rồi, là lại có thêm một hai phân vỏ táo nữa cần gọt, và dây vỏ táo lòng thòng ra khỏi trái táo dài ít nhất là một thước.

Đùng đùng nổi cáu, Olivia quăng con dao và liệng trái táo ngang căn phòng. Nó vùi mặt vô hai bàn tay và khóc

thút thít.

"Chuyện gì xảy ra với mình thế này?"

Cánh cửa bật mở và mẹ nó nhìn vô phòng. Cô Vivienne Vertigo (hay Viva Valery trong cac bộ phim) dù là một ngôi sao màn bạc nổi tiếng, nhưng điều này không bao giừo ngăn cô là một bà mẹ tốt bụng và cảm thông. Cô

luôn luôn tìm ra cách giúp đỡ con gái vượt qua những "cơn buồn vui thất thường" nho nhỏ của nó, nói theo cách của cô. Nhưng tâm trạng của Olivia trong hai mươi bốn giờ qua sắp sửa hạ gục cô.

"Hoa đẹp lắm, Olivia, cảm ơn con!" Cô Vivienne nói.Olivia không nhìn lên.

"Ôi, Livvie tội nghiệp." Cô Vertigo lai bên con gái và ngòi cạnh nó, trên giường. "Mẹ cũng đã rớt đài trong lần thử vai đầu tiên, con biét không. Đó không phải là vai thích hợp cho con. Sẽ còn có những cơ hội khác nữa. Con đừng thoái chí như vậy."

"Con không thoái chí," Olivia làu bàu.

"Vậy thì là cái gì?"

"Một cái gì đó xảy đến với con, mẹ à."

"Con đang lớn đấy cưng."

"Không phải CÁI ĐÓ!" Olivia hét lên. "Một cái gì đó khác cơ. Nó khiến con... ôi, con không biết. Con ghét nó.

Con không muốn nó xảy ra."

Cô Vertigo ráng kiềm chế để không làm một cử chỉ bấn lọan. Thay vào đó, cô nhún vai một cách khiêm nhường

nhất và nói:

"Mẹ không hiểu lắm, cưng."

Olivia buông một tiếng thở dài thượt.

"Khi con về nhà cùng với bó hoa đó, con cảm thấy muốn ăn táo. Vì vậy con lấy một trái tao từ cái thố ở trong nhà bếp. Nhưng con không thể nào gọt được nó. Con cố gọt thêm bốn trái nữa. Nhưng... nhưng vỏ táo không bao giờ hết."

"Sao con không ăn cả vỏ luôn?" Cô Vertigo hỏi. "Nó tốt cho tóc của con mà."

"Con không thích vỏ táo," Olivia thét lên, phát khùng vì sự thiếu hiểu biết của mẹ mình. "Nhưng đó không phải là điểm chính. Tại sao vỏ táo không bao giờ hết? Con cứ gọt quanh gọt quanh mãi và nó không bao giờ hết." Cuối cùng, cô Vertigo nói:

"Những trái táo đó hái từ cây táo ở cuối vườn nhà mình. Trước giờ mẹ chưa từng thấy có chuyện gì với chúng

cả."

Olivia không nói đến táo nữa... "Và rồi có hoa."

"Hoa đẹp lắm," mẹ nó vọt miệng. "Nhưng con kiếm được chúng ở đâu vậy? Mẹ nghĩ con ở quán Cà Phê Thú

Kiểng cơ mà. Mẹ lo quá khi ông Onimous bảo với mẹ là con không có ở đó."

"Đó, điều đó đó mẹ. Những bông hoa đã tìm con. Có một ngõ hẻm mà trước đây con chưa bao giừo thấy và con cảm thấy con cần phải đi tới đó. Rồi sau đó con thấy tiệm bán những bông hoa này, tiệm hoa Thiên Thần. Khi con đi vô, người phụ nữ trong tiệm nói cô ấy biết con, điều đó đáng sợ quá bởi vì con không biết cô ấy. Tên của

cô ấy là Alice Angel."

"Alice Angel... Alice Angel," cô Vertigo từ tốn lặp đi lặp lại.

"À phải," cuối cùng cô nói. "Alice Angel kết hoa đám cưới, lễ đặt tên thánh, lễ kỷ niệm. Cô ấy đã trang trí nhà mình trong bữa tiệc đặt tên thánh của con, Livvie. Mẹ đã không gặp cô ấy kể từ đó, nhưung cô ấy sống ở ngay

đằng kia."

"Đâu?" Olivia nhảy bắn ra khỏi giường và dõi theo ngón tay mẹ nó chỉ ra cửa sổ. "Đâu? Đâu?"

"Ở phía bên kia bức từong có một khu vườn. Nó đâu lưng lại với vườn nhà mình. Cô Alice Angel sống trong ngôi nhà ở đầu kia khu vườn. Ít ra là cô ấy đã từng sống ở đó."

"Mẹ, con sẽ tới xem ngay bây giờ."

"Ừ, Livvie," cô Vertigo vuimừng tháy gương mặt buồn bã của con gái đã sinh động trở lại. "Nhưng làm ơn đừn

leo tường đấy nhé. Nhà đó giừo có thể là nhà của người lạ."

"Không sợ," Olivia nói rạng rỡ. Nó chạy xuống cầu thang và ào ra vườn.

Một màn sương mù trắng tháng chín phủ trên mặtcỏ và không khí thấm đẫm hương thơm. Olivia tiến đến bụi cây ở cuối vườn. Nó thấy có bức tường nhô qua khỏi bụi cây, nhưng trước khi tới được, nó loạc choạc dẫm phải một trái tao rụng. Gần đó có mấy trái nằm lăn lóc. Đúng hơn, mặt đất rải ác đầy táo. Táo từ một nánh cây dài

thò qua tường rụng xuống. Cây táo mọc ở bên kia bờ tường.

Olivia lách mình băng qua bụi cây. Nó không đủ cao để nhìn qua được bức tường, vì thế nó phóng lên và ngồi trên thành tường. Khi thoạt nhìn xuống khu vườn bên kia , nó cứ ngỡ như bất ngờ có tuyết rơi, bởi vì khu vườn phủ đầy hoa trắng. Hoa mắc cả lên cây, vương kín những bờ rào và len lỏi trên lối đi hẹp lát đá. Những cánh hoa trắng rải khắp mọt nơi, tựa hồ như những mảng tuyết.

Cuối con đường, một căn nhà rất xinh ẩn dưới một thảm hoa hồng trắng. Chỉ trông thấy một cánh cửa lớn và một khung cửa sổ. Ngay cả ống khói cũng chìm trong những tràng dây leo.

Olivia hầu như không để ý lắm đến quang cảnh lạ kỳ này khi mắt nó hướng tới một cấu trúc tròn tròn bằng gỗ mà nó phát hiện ra ngay bên trên biển hoa. Olivia nheo mắt trong hoàng hôn. Đó là một chiếc xe mooc, một ngôi nhà di động chính cống của dân Di-gan.

Ngay lúc nó, cánh cửa của ngôi nhà mở ra và ánh sáng tràn khắp lối đi. Một bóng người bước ra. Nhỏ nhắn và rất mỏng mảnh, bóng người mặc áo khoác dài có mũ trùm và bước lê trên lối đi, đầu cúi xuống và vai rụt lại. Và rồi, bóng người rời khỏi lối đi và lội qua biển hao cho tới khi đến bên chiếc xe mooc. Olivia nghe tiếng bước chân cố leo lên những bậc thang gỗ. Nó mở căng mắt và cúi nhoài xuống bức tường, cố nhìn kỹ xem bóng người lạ là

đàn ông hay phụ nữ.

Một giọng cất lên:

"Ngủ ngon nhá, anh yêu."

Hiện ra nơi ngưỡng cửa của ngôi nhà phủ hoa hồng, một người phụ nữ có mái tóc bạch kim óng ánh đang đứng.

Cô Alice Angel.

"Chúa ban phước cho em!" Hình hài đội mũ trùm đáp lại.

Rồi người đó bước vào trong cái xe mooc và đóng cửa lại.

Cô Alice Angel vẫn đứng tại chỗ một hồi. Và rồi cô gọi:

"Phải cháu đó không, Olivia?"

Olivia giật mình và rớt phịch xuống vườn nhà nó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro