Chép đê

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỷ lục và có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những phong tục tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau, đặc biệt là đối với cuộc sống và con người miền núi khiến những tác phẩm viết về đề tài miền núi Tây Bắc trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị của Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của bọn phong kiến vùng cao. Đặc biệt Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó thể hiện niềm tin, sự trân trọng yêu mến vào bản chất tốt đẹp, sức sống mãnh liệt của những người dân lương thiện bị áp bức tất yếu sẽ vùng lên đấu tranh, thay đổi cuộc đời.

“Vợ chồng A Phủ” được mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị với hình ảnh :” Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suốt lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cách giới thiệu đã vẽ ra trong đầu người đọc hình ảnh của một người đàn bà âm thầm câm lặng với khuôn mặt gợi ra một số phận nhọc nhằn, đau khổ.

Mị vốn là một người con gái xinh đẹp và tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi rất tài :” Mị uốn chiếc lá trên mổi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “trai làng vì mê tiếng sáo mà ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” đến nỗi” đứng nhẵn cả chân cách đầu buồn Mị”. Sức quyến rũ mạnh mẽ của tiếng sáo cho thấy cái tài và cái tình của người thổi sáo. Có lẽ, Mị đã gửi gắm biết bao tình cảm, khát khao vào tiếng sáo ấy, khiến vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết tha yêu cuộc sống của cô đã thông qua tiếng sáo mà làm rung động, mê đắm lòng người.

Mị còn là một người con gái mạnh mẽ tự chủ. Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khao khát yêu và đã có người yêu theo sự lựa chọn của trái tim mình. Trước món nợ của cha mẹ và ý định bắt Mị về làm dâu gạt nợ của nhà thống lí, Mị tha thiết xin được cuốc nương làm ngô trả nợ thay cho cha- cô muốn tự quyết định số phận của mình mà không chấp nhận biến mình thành hàng hóa bán cho nhà giàu. Hơn thế nữa, Mị còn có một trái tim nhân hậu vị tha. Ở nhà với cha mẹ, Mị là người con rất hiếu thảo, nết na, chăm chỉ. Mị tự nguyện làm việc trả nợ thay cho bố, tới khi bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí, không chịu nổi kiếp sống đọa đày đau khổ, Mị đã muốn tự giải thoát bằng cái chết. Vậy mà vì thương bố, vì “bố có chết thì nợ vẫn còn”, Mị lại chấp nhận quay về nhà thống lí, sống tiếp cuộc đời nô lệ nhọc nhằng khổ ải – chốn địa ngục trần gian. Mị thực sự đã có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Nhưng Mị đã không được sống với tình yêu của mình, không được tự quyết định cuộc đời mình. Vì món nợ của cha mẹ, Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Bề ngoài Mị là con dâu nhưng thực chất bên trong thì là con nợ. Nếu chỉ là con dâu, có thể Mị còn có một chút vị trí nào đó trong nhà thống lí; nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng trả xong nợ mà được giải thoát. Nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc của cả cường quyền và thần quyền. Mị hiểu rằng cô sẽ phải sống trong thân phận nô lệ khốn khổ của mình cho đến hết đời. Mị không dám chết vì sợ làm liên lụy đến cha, cũng không dám nghĩ đến việc thoát ra khỏi kiếp sống trâu ngựa khổ sở vì sự ám ảnh trói buộc của thần quyền:” Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ chờ ngày rũ xương ở đây”. Giai cấp phong kiến vùng cao với chế độ cho vay nặng lãi và sự vây bủa lừa bịp của thần quyền đã đẩy người con gái xinh đẹp hiền thảo vào kiếp sống nô lệ nhục nhằn.

Cũng như bao người phụ nữ miền núi khác, Mị phải chịu cảnh áp bức bóc lột nặng nề trong kiếp sống làm dâu gạt nợ. Cô phải làm việc liên miên như một người ở không công cho nhà thống lí, “ con trâu, con ngựa còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ”, còn Mị và những người đàn bà khác trong nhà thống lí thì vùi mặt vào việc cả đêm cả ngày.

Không những thế, Mị còn bị hành hạ đau đớn cả về tinh thần và thể xác. Mị sống cô đơn thầm lặng trong căn buồng chỉ có “một chiết cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng, là ngày hay đêm”, căn buồng ấy như một ngục thất giam cầm người từ chung thân, như một nấm mồ chôn vùi tuổi thanh xuân của Mị. Đã chịu những hành hạ về tinh thần, Mị còn phải chịu những đau đớn tột cùng về thể xác. Bất cứ lúc nào Mị cũng có thể bị trói, bị đánh một cách dã man, vô lý. Định đi chơi trong đêm hội mùa xuân như những người đàn bà khác ở Hồng Ngài, Mị bị A Sử trói đúng vào cột nhà. Xoa thuốc cho A Sử suốt đêm, khi kiệt sức mà thiếp đi liền bị nó đạp chân vào mặt và thậm chí, ngay cả khi Mị chỉ ngồi sưởi lửa hơ tay, không động chạm đến ai, chỉ biết có mình với ngọn lửa, A Sử đi qua ngứa tay cũng “ đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp”. Như vậy, khi sống trong nhà thống lí, Mị đã bị đối xử, bị đánh đập, hành hạ như với con vật, như với đồ vật và khokong vì bất cứ một lí do gì.

Sự thấu hiểu và xót thương sâu sắc với số phận bất hạnh của nhân vật đã được Tô Hoài thể hiện qua việc miêu tả chân thực những biến đổi xót xa của Mị khi bị đày ải trong kiếp sống làm dâu gạt nợ. Những năm tháng sống trong nhà thống lí đã khiến người con gái có ý thức tự chủ mạnh mẽ ngày xưa dường như không còn sức sống, sức phản kháng. Cuộc sống của Mị chỉ còn như sự tồn tại của cỏ cây, chỉ là chuỗi ngày mòn mỏi với những ý nghĩ buông xuôi, phó mặc, đầu hàng số phận:” Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Không còn mong mỏi, chờ đợi hay khát khao, mọi suy nghĩ mệt mỏi của Mị chỉ hướng đến cái chết như đoạn đường cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi :” Đời người đàn bà đã có chồng ở Hồng Ngài chỉ biết cầm roi đi theo đuôi con ngựa của chồng” cho tới chết. Trong căn buồng tăm tối, Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra cho đến bao giờ chết thì thôi.

Tâm lí cam chịu buông xuôi cũng biến người con gái yêu đời nhân hậu, người con gái luôn khát khao tình yêu và hạnh phúc ngày xưa trở thành người đàn bà lạnh lùng vô cảm trong ngôi nhà thống lí. Mị vô cảm với nỗi đau khổ của người khác. Trong những đêm đông lạnh lẽo ở Hồng Ngài, khi A Phủ bị trói tới mấy đêm bên đống lửa, hàng đêm Mị vẫn “thản nhiên” ra ngồi thổi lửa hơ tay, dửng dưng và thờ ơ. Thậm chí Mị còn ý thức được sự vô cảm của mình khi cô nghĩ rằng “ nêu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi”.

Nhưng đáng sợ và đáng buồn hơn khi Mị trở nên vô cảm với nỗi đau khổ của chính bản thân mình. Nếu trước đây Mị giãy giũa phản kháng, thậm chí muốn dùng cái chết như một cách tiêu cực nhưng quyết liệt để chống lại số phận, để tự giải thoát thì bây giờ, ngay cả khi cha đã chết, không còn gì ràng buộc, Mị cũng chẳng còn tưởng đến sự chết nữa. Mị không thiết sống mà cũng chẳng thiết chết, “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Khi không còn ý thức được nỗi đau khổ, Mị chẳng còn thiết nghĩ đến việc tự giải thoát khỏi cái số kiếp mà cô coi là đã an bài, Mị cứ tiếp tục cuộc sống như đang chết.

Từ tâm lí cam chịu buông xuôi đến cách sống của Mị cũng thay đổi đến xót xa. Ngày xưa Mị say mê thổi kèn lá, thổi sáo, Mị hào hứng chăm chỉ làm nương đỡ đần cha mẹ. Bây giờ Mị sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, Mị làm việc như một cái máy vô hồn vô cảm, một công cụ lao động biết nói câm lặng. Mị không còn những ý thức tối thiểu về thời gian hay không gian. Mị tính thời gian bằng chuỗi những công việc nhàm chán và nhọc nhằng, những công việc triền miên tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại:” Tết xong thì len núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.” Không gian đối với Mị chỉ là cái buồn lạnh lẽo tối tăm có ô cửa vuông nhỏ bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng, là ngày hay đêm.

Tính cách cùng cách sống thay đổi khiến dáng vẻ bên ngoài của Mị cũng trở nên cô độc và âm thầm. Tâm lí cam chịu, cách sống thầm lặng đã in đậm lên dáng vẻ bên ngoài của Mị. Những đêm đông giá rét ở Hồng Ngài, Mị chỉ biết làm bạn với ngọn lửa, tìm kiếm hơi ấm, sự an ủi ở ngọn lửa, cô độc âm thầm như một cái bóng. Còn ban ngày, lúc nào cũng vậy, dù làm gì, ở đâu, “Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Người ta thường trông thấy Mị lặng lẽ bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Cuộc sống đau khổ tủi cực đã lấy đi của Mị tất cả sức sống, niềm vui khiến cô câm lặng như một tảng đá “bên tảng đá”, u tối âm thầm như trâu ngựa “cạnh tàu ngựa”.

Sau những tháng ngày chịu đày ải trong nhà thống lí, sức sống của Mị dường như mất đi . Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người . Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp , bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan . Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu . Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người ở Hồng Ngài năm ấy được miêu tả thực trữ tình, giàu chất thơ làm nền cho sự hồi sinh sức sống của Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống. Đó là những yếu tố ngoại cảnh góp phần làm thức dậy những khát vọng tình yêu và hạnh phúc vẫn âm ỉ đâu đó trong Mị.

Tác nhân quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị chính là tiếng sáo “từ xa vọng lại bổi hổi”. Người đàn bà bao lâu nay vô cảm thờ ơ với tất cả nay đã chú ý lắng nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, không những thế, người đàn bà âm thầm câm lặng ấy còn nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Bằng cách ấy, Mị đã trở vê với quá khứ, đã bắt đầu mở lòng mình để đón nhận và hòa vào âm thanh nồng nàn của tình yêu được gửi trong tiếng sáo.

Một tác nhân khác không kém phần quan trọng đó là rượu. Ngày Tết năm đó Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy rượu ra uống “ực từng bát”. Uống như để say, để quên, uống như muốn dùng cái men say của rượu để dìm đi những nuối tiếc khát khao, những đau khổ phẫn uất đột ngột trào dâng trong lòng, uống như muốn mượn cái đắng cay của rượu làm vơi đi những cay đắng trong lòng- những cay đắng bao lâu nay dường như Mị đã nguôi quên. Người đàn bà luôn sống chỉ như để chờ cái chết, không bận tâm đến tương lai nay lại đang lắng nghe tiếng sáo của hiện tại, đã “lịm mặt” để “sống về ngày trước” với bao nhiêu khát vọng tuổi trẻ. Ảo giác của quá khứ mãnh liệt đến mức gần như xóa mờ những bất hạnh của thực tại khiến Mị thấy “phơi phới trở lại”, “lòng đột nhiên vui sướng”. Mị còn nhận ra mình còn”trẻ lắm, Mị vẫn còn rất trẻ”, Mị bỗng muốn được đi chơi, được đến những đám vui, được hòa vào không khí rạo rực của mùa xuân, của tình yêu và của hạnh phúc. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên của Mị là muốn được chết ngay:” Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Chết để không phải nhớ lại quá khứ, không phải nhớ lại những ước mơ khát khao của mình bởi “nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Muốn chết là biểu hiện mãnh liệt nhất của sự thức tỉnh lòing ham sống của sự khát khao hạnh phúc. Mị đã thoát ra khỏi tìnht rjang lầm lũi vô cảm suốt bao năm.

Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận và sau tất cả những khát khao phẫn uất, Mị đã đứng lên “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”  rồi “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” chuẩn bị đi chơi. Tất cả những việc làm đó Mị làm như trong cơn mơ, thậm chí Mị còn không nhận ra được sự có mặt của A Sử. Rồi cái gì đến đã đến . A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ , gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng.


Khi mâu thuẫn giữa thực tại phũ phàng và khát vọng sống tự do lên đỉnh điểm, thì tác giả đã cởi nút bằng cách đưa nhân vật A Phủ vào truyện. A Phủ là chàng trai mồ côi, vô tội, chỉ vì dũng cảm liều sống chết để bảo vệ lẽ phải mà đã thành kẻ tôi đòi trong nhà Thống Lí Pá Tra, rồi cũng bị trói đứng vào cột thay mạng cho con bò nhà Thống Lí Pá Tra, chờ chết.
Khi nhìn thấy A Phủ bị nhà thống lí bắt trói đứng ở cây cọc ngoài trời, Mị vẫn thờ ơ khi hàng đêm ra sưởi lửa hơ tay ở bếp lửa ngay gần đó. Thậm chí Mị còn ý thức được sự vô cảm của mình khi nghĩ:” Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đó thì cũng vậy thôi”. Nhưng một đêm ngẫu nhiên Mị quay sang và nhìn thấy:”Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Một thứ gì đó chưa chết hẳn trong lòng Mị lại bừng thức dậy, đột ngột kéo cô ra khỏi sự vô cảm.

Mị nhớ lại cảnh ngộ năm xưa mình bị trói đứng, nước mắt cũng” chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lâu đi được”. Dòng nước mắt của A Phủ đã giúp Mị nhận ra nỗi đau của chính mình, xót thương cho mình.

Mị nghĩ đến sự cam chịu của mình, mơ hồ nghĩ về A Phủ:” Mình là thân đàn bà, nó đã cúng trình ma nhà nó rồi chỉ còn chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng người kia việc gì phải chết? A Phủ”. Mị cắt dây và cởi trói cho A Phủ trong vô thức. Giải thoát cho A Phủ, Mị đồng thời cũng thoát ra khỏi trạng thái vô cảm lặng lẽ và cô nhận thức được: phải tự cứu mình. Lòng ham sống của một con người được thổi bùng lên trong Mị. Người đàn bà lặng lẽ vô hồn vô cảm đang hối hả tự cứu mình trong những hành động quyết liệt để chạy thoát khỏi số phận tù túng.

Khát vọng sống mãnh liệt đã thức tỉnh hoàn toàn, và cũng không dừng lại ở ảo giác hay khát khao như sự thức tỉnh khát vọng tuổi trẻ, tình yêu trong đêm tình mùa xuân mà đã trở thành những hành động quyết liệt, triệt để, chống lại số phận, chống lại vòng cương tỏa độc ác của cha con thống lí, giành lại cho mình quyền được sống và quyền được tự do.

Với những chi tiết miêu tả dáng vẻ, nét mặt, cử chỉ bên ngoài đầy ấn tượng, những đoạn độc thoại nội tâm thấm thía nỗi niềm, cách khắc họa nhân vật qua sự tương phản của quá khứ và hiện tại. Nhà văn Tô Hoài đã miêu tả sinh động và chân thực sự biến đổi của nhân vật Mị ở hai thời điểm trước và sau khi chịu kiếp sống làm dâu gạt nợ nhà thống lí. Những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực của sự tha hóa đã bộc lộ sự xót thương sâu sắc chân thành của nhà văn với cuộc sống con người, thể hiện một trong những bình diện quan trọng nhất của tư tưởng nhân đạo. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#chép#cà