Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn minh Châu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

[NL VH]Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”

Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư-thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.[1] Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn.[2] Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình chính thức Sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 12 bắt đầu từ năm học 2008 – 2009 qua một đoạn trích phần giữa truyện.

I . .Xuất xứ và nội dung

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu tiên trong tập “ Bến quê “, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987.

Tác phẩm còn được đưa vào tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh – tuyển tập truyện ngắn Việt Nam đương đại do hai nhà văn Wayne Karlin và Hồ Anh Thái chủ biên, được nhà xuất bản Curbstone ấn hành ở Hoa Kì (bằng tiếng Anh).[1]

Chiếc thuyền ngoài xa thuộc dạng truyện luận đề với việc Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Tuy vậy, nhà văn không biến nhân vật thành cái loa phát biểu luận đề.[1] Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như những vấn để phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.[1]

I . .Tóm tắt

Phóng viên Phùng một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa,có niềm đam mê với nghề và có một tâm hồn nhạy cảm,được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh về cảnh biển có sương để bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh đến một vùng biển miền Trung vào giữa tháng bảy. Ngoài Đẩu, người đồng đội cũ giờ làm chánh án tòa án huyện, anh đã quen thân với Phác, một cậu bé thường đi cùng ông ngoại chở gỗ từ trên rừng về bán cho xưởng đóng tàu. Sau khoảng tuần lễ chưa chụp được bức ảnh ưng ý, tình cờ anh thấy cảnh một chiếc thuyền ngoài xa,đang lái vó trong làn sương sớm "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào,vài bóng người ngồi yên phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ" tạo nên một khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng nhanh chóng bấm liên thanh một hồi, thu vào chiếc máy ảnh của anh “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” ,một vẻ đẹp thật đơn giản nhưng đạt đến sự hoàn mỹ và toàn bích khiến cho tâm hồn Phùng như được gội rửa và trong ngần trong khoảnh khắc.

Tuy nhiên, khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng chứng kiến một cảnh tượng nghiệt ngã, phi thẩm mỹ: hai vợ chồng người dân chài bước vào bờ, người đàn bà mặt rổ dáng người thô kệch, người đàn ông đôi mắt nhìn chằm chằm vào lưng người đàn bà đang đi như mắt con gấu khổng lồ, rồi người chồng rút thắt lưng ra đánh vào lưng người đàn bà tới tấp.Vừa đánh hắn vừa chửi chúng mày chết hết đi, chết hết đi cho ông nhờ, rồi Phác, chính là đứa con của cặp vợ chồng kia, xông vào ngăn cản, đánh lại bố. Cảnh tượng này những ngày sau đó lại tiếp diễn, chỉ khác là lần này khi lão đàn ông vừa rời khỏi thuyền thì có thêm đứa con gái cũng bơi vào bờ, rượt theo em nó và giành được con dao găm thằng bé giấu trong cạp quần. Phóng viên Phùng đánh nhau với lão đàn ông và bị thương nhẹ. Tòa án gọi người đàn bà đến.

Tại đây, chánh án Đẩu vì căm giận người đàn ông vũ phu nhiều lần đánh vợ "ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng", đã khuyên người đàn bà ly hôn, nhưng bà ta còn xin Đẩu đừng bắt tù chồng bà mà hãy bắt bà bỏ tù. Nhưng không ngờ người đàn bà đã van xin Đẩu con lạy tòa tòa đừng bắt con bỏ nó. Sau đó, chị kể lại cuộc đời, gia cảnh của mình, lí do chị không muốn bỏ chồng vì gia đình họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba và nuôi cả một đàn con. Người đàn bà chấp nhận sống nhẫn nhục trong sự ngược đãi của chồng là vì những đứa con. Một người đàn bà có tình thương con vô bờ bến, sự cảm thông cho chồng, thấu hiểu lẽ đời đó chính là quyền uy có sức công phá lớn nhất để cảm thông cả pháp luật mà một người lao động lam lũ có được. Qua đó, chánh án Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống còn phóng viên Phùng lại hiểu thêm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.Cuộc đời còn nhiều góc khuất mà nghệ thuật chưa vươn tới,ẩn chứa nhiều ngang trái oái oăm mà khi đến gần mới có thể nhận được, chỉ có lòng tốt và kiến thức sách vở thì không thể giải quyết được vấn đề thực tế,mà phải có một cái nhìn sâu sắc đa diện và nhiều chiều về một vấn đề trong cuộc sống. Tấm ảnh của Phùng trong năm ấy và nhiều năm về sau vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng cứ mỗi lần Phùng nhìn bức ảnh, những ám ảnh, trăn trở về hình ảnh người đàn bà vùng biển lại đến với anh.

II. . .Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm

Dựng lên sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền trên bức ảnh nghệ thuật và tấn bi kịch của gia đình người ngư dân bên trong chiếc thuyền đẹp đẽ ấy, nhà văn thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của mình : nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn tử cuộc sống, phục vụ cuộc sống ; tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ là những nhân tố không thể thiếu được trong sự sáng tạo nghệ thuật.[3]

Nguyễn Minh Châu đã không trực tiếp phát ngôn cho quan niệm nghệ thuật của mình nhưng hệ thống nhân vật của tác phẩm và đặc biệt quá trình tự ý thức của người nghệ sĩ nhiếp ảnh (ở đoạn kết) đã toát ra điều đó (xem phần trích tác phẩm).[3] Bằng hành động tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn thiện. Đây cũng chính là khát vọng kết nối Chân – Thiện – Mĩ mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm kiếm.[3]

III. . . Giá trị nhân đạo

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm giàu giá trị nhân đạo.[4] Viết truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu muốn bày tỏ sự thông cảm đối với cuộc sống của con người nơi vùng biển vắng. Tư tường nhân đạo của truyện ngắn thể hiện ở thái độ quan tâm đến con người đến con người bất hạnh của nhà văn. Phê phán hành động vũ phu của người chồng, đồng thời Nguyễn Minh Châu muốn cho người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại. Nhà văn còn mạnh dạn nêu lên phản ứng dữ dội của đứa con để nhấn mạnh hậu quả trầm trọng của tệ nạn này.[4] Chính người vợ đã gửi đứa con lên ở với ông ngoại để khỏi chứng kiến cái ác hoành hành ngay trong gia đình. Người vợ hy sinh cũng để bảo vệ cho hạnh phúc gia đình. Dẫu viết về bạo lực gia đình, nhưng Nguyễn Minh Châu đã báo động những vấn đề xã hội nhức nhối. Gióng lên một tiếng chuông báo hiệu điều ác, Nguyễn Minh Châu đã đấu tranh cho cái thiện. Tư tưởng nhân đạo của truyện chính là ở điểm ấy.[4]

Ngoài ra, giá trị nhân đạo còn được thể hiện qua việc xây dựng nhân vật người đàn bà.[5] Hình ảnh người đàn bà vùng biển xấu xí, nhẫn nhục vẫn toát lên vẻ đẹp của tình mẫu tử, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn nghèo đói, lạc hậu. Như vậy ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nhưng khát khao hạnh phúc bình dị của người lao động. Dẫu nghiệt ngã những phận đời, dẫu còn nhiều nghịch lý, nhưng ẩn chìm trong những trang văn của Nguyễn Minh Châu vẫn là chất nhân văn lấp lánh.[5]

IV Một số nhận xét

…Vậy nên, có thể nói hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.[6]

…Trong truyện ngắn tuyệt vời của Nguyễn Minh Châu, một người chụp ảnh lịch năng nổ và mệt mỏi vì công việc, nhận thêm một việc rõ ràng là bất khả : chộp cho được bí ẩn của màn sương mù dâng lên trên mặt nước trong một tấm ảnh có phần hoàn chỉnh… Cuối cùng anh đã thành công với một bức ảnh như vậy, chỉ để nhận ra hàng triệu người ca tụng vẻ đẹp tác phẩm của anh sẽ không bao giờ biết được sự tàn ác và nét xấu xa thực sự của con người mà anh đã chụp ảnh – một ngư dân dã man hay đánh đập vợ và người vợ nô tì của ông ta. Trong tay của một nhà văn kém cỏi, một truyện ngắn như vậy thất nhạt nhẽo, nhưng ở đây bức ảnh trở nên in dấu sâu đậm trong tâm khảm chúng ta đến mức tác phẩm vang vọng với ý nghĩa thật mới mẻ thật lâu sau khi đọc.[7]

…Trước đây, trong Trăng sáng, Nam Cao đã nêu quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của mình : nhà văn phải thấy rằng dưới cõi nhân gian mà ánh trăng đang bao phủ ruột nà, nơi người nghệ sĩ mặc sức cho trí tưởng tượng của mình bay bổng là bao cuộc đời cực nhục, vất vả. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có thể coi như là một sự minh họa tiếp tục cho quan điểm ấy. Việc chứng kiến cảnh một người chồng vũ phu đánh đập dã man vợ mình, còn người đàn bà đó hoàn toàn chấp nhận và chịu đựng quả là một nghịch cảnh đối với tất cả những gì trước đó người phóng viên được nhìn thấy. Tình huống càng trở nên "đắt giá" hơn khi người phóng viên hiểu được cái lí do sâu xa khiến cho cuộc sống vợ chồng của những người ngư dân này luôn luôn là như vậy : những ngưởi đàn bà sống trên thuyền không thể thiếu chỗ dựa là đàn ông, còn việc người đàn ông thỉnh thoảng lôi vợ vào chỗ vắng người mà đánh chẳng qua cũng chỉ để giải tỏa nỗi ức chế vì cảnh đông con bắt đắc dĩ và sự nghèo khổ triền miên của cuộc đời mình. Tình huống đó đã buộc người phóng viên phải thay đổi quan điểm về đối tượng nghệ thuật...[8]

...Chiếc thuyền ngoài xa là những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp hài hòa, muốn làm cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ đơn giản hóa, không nhận ra cái thực tế khắc nghiệt, hoặc nói như Ăng-ghen là một thứ chủ nghĩa lãng mạn, vị trí lí tưởng mà quên mất hiện thực. Đó là bài học của người nghệ sĩ nhiếp ảnh...[9]

Bài viết cần đảm bảo các ý sau:

- Dựng lên sự đối lập giữa "Bức tranh nghệ thuật đẹp như mơ" và tấn bi kịch của gia đình ngư dân phía sau bức tranh đẹp đẽ đó. Ông đã thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của mình:

        + Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống (bức tranh có con thuyền, có con người, có nhiều yếu tố thiên nhiên đẹp đẽ khác như sương mù, ánh bình minh…nhưng thiếu hơi thở cuộc sống, nó chỉ là bức ảnh thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của cuộc sống). Nghệ thuật đích thực phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu của cuộc sống. Ông đã từng khẳng định "Nhà văn không có quyền nhìn sự thật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử" . Đó là một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đi sâu khám phá sự thật của đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự để hiểu đúng bản chất bên trong của hiện thực.

        + Người nghệ sĩ phải có tài năng và lòng dũng cảm trong quá trình phản ánh hiện thực: Tài năng nhìn nhận, đánh giá cuộc sống và phải dũng cảm để chỉ ra những điều tốt đẹp lẫn sự xấu xa, độc ác. Viết về "những vùng tối của hiện thực đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn".

         + Nhà văn phải tự mình ý thức, phải đấu tranh để tự hoàn thiện mình vươn tới: Chân - Thiện - Mỹ.

Chính những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong công cuộc đổi mới Văn học mà trước hết là quan điểm nghệ thuật, cho nên ông được đánh giá là "Người mở đường tinh anh và tài năng" của Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. 

Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”

Đây là 1 nhan đề mang ý nghĩa biểu tưng, hé mở tình huống và thể hiện được chủ đề của tác phẩm.

-Với 2 tầng nghĩa:

+ “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” -> hình ảnh 1 cánh buồm nhòa mờ trong màn sương huyền ảo của buổi sớm mai trên biển xa. Vẻ đẹp hài hòa, toàn bích như trong “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” khiến người nghệ sĩ xúc động như vừa “khám phá thấy chân lí của sự toàn thiên, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”

+ dẫn đến tầng nghĩa thứ 2: đằng sau vẻ đẹp tuyệt diệu ấy lại là cuộc sống của những người dân chài bị giam cầm bở đó nghèo tăm tối và bạo lực gia đình. -> sự đối lập giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống.

- ý nghĩa về cách nhìn cuộc sống: k phải bao giờ cái đẹp cũng tồn tại song song với cái thiện, k phải cái bên ngoài lúc nào cũng thể hiện bản chất bên trong và muốn hiểu đúng 1 con người, hiểu cuộc sống cần có cái nhìn thấu đáo, đa chiều, sâu sắc ở nhiều góc độ.

Nhan đề còn đưa đến 1 quan niệm về trách nhiệm của người nghệ sĩ: chỉ khi nào người nghệ sĩ có trách nhiệm trong cái nhìn hiện thực cuộc sống, có “mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh” thì khi ấy tác phẩm nghệ thuật mới đạt được giá trị cao nhất. Ấy là “giá trị nhân đạo” 

mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống nữa.Cuộc sống là cha đẻ,là cái nôi của nghệ thuật.Vì thế nghệ thuật phải vì cuộc sống mà làm đẹp cho cuộc sống.Chính Phùng đã được qua 1 khóa “huấn luyện” về ý thức người nghệ sĩ chân chính phải thấu hiểu mối quan hệ đó.

V. . Phân tích tác phẩm

Đề 1: Suy nghĩ về nhan đề truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Đề 2: Bút pháp ẩn dụ đc thể hiện như thế nào trong truyện?

Đề 3: Cảm nghĩ về truyện ngắn

Đề 4: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Đê 5: Giá trị tư tưởng mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua truyện ngắn này

·         * * * **********************************************

Đề 1: Suy nghĩ về nhan đề truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản. Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy - Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?

Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người “ thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung học phổ thông.

Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật chính- Nguyệt thì “ Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế

1- Chiếc thuyền ngoài xa là chiếc thuyền thực hay chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật?

Truyện gồm 5 phần. Phần đầu nói về chiếc thuyền thực tại một vùng đầm phá ven biển miền Trung và phần cuối hoàn toàn nói về chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật, một trong 12 cảnh tĩnh vật thể hiện chủ đề thuyền và biển cho một cuốn lịch năm mới.

Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh. Nguyên là người trưởng phòng của nhân vật “ tôi” ( tên là Phùng - nhân vật người kể chuyện) “là người sâu sắc , lại cũng lắm sáng kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu “ Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng ròng làm việc khá thông đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về không biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp mắt xanh của viên trưởng phòng “ sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh thiếu hụt oái oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho “ tôi” phải săn tìm cho được. Mà là tấm ảnh chụp có “ sương biển” giữa mùa tháng bảy – dường như thường “ chỉ có bão táp với biển động”. Thật là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tôi” quá biết “ Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.

Nhưng rồi “ khi nên trời cũng chiều người”, “ tôi” đã trở lại vùng biển chiến trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy nằm “phục kích” ở chính cái nơi mà “ dường như trong suốt dải bờ biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù”. Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ của “ tôi”, giờ đang là Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời , địa lợi , nhân hoà”. Và “ tôi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc “ đắt” trời cho”. Đó là cảnh “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…”. Nhà nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc yên-sĩ –phi –lí thuần tuyệt diệu: “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tòan bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? (…) . Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác đã ra đời trong sự hưng phấn nghệ thuật - “ cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Rất cần chú ý thành phần phụ chú “ do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời

Như thế , xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tôi” lúc này đã hoàn thành. “Tôi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như đặt hàng của trưởng phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tôi” đã có thể ung dung “ nhảy lên tàu hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí, ta dễ thấy nếu như “ tôi” về ngay lúc đó khác nào cô Nguyệt ( trong Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.

Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của bức ảnh nghệ thuật đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho bộ môn lí luận nghệ thuật khái quát về công phu lao động của nghệ sĩ.

Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với bức ảnh và bức ảnh không chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch năm mà “mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Mở và kết truyện như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong “ chiếc thuyền ngoài xa” là chiếc thuyền vừa có thực trong đời , vừa là chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt, không dễ trong đời cầm máy “ tôi” đã có được may mắn thứ hai.

2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa” ?

Theo dòng kể của ‘ tôi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong một cự li tương đối gần – “ một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”- nhà nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó”. Người thưởng thức bức ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận chiếc thuyền đang được chụp trong một cự li gần như thế . Thế nhưng vì sao tác giả lại đặt nhan đề truyện là “ chiếc thuyền ngoài xa”?

Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản : Nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối tượng thì hẳn chiếc thuyền trong ảnh không phải là ngoài xa ! Phải chăng nhan đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng , bức ảnh phải săn tìm lần này “Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức ảnh chụp được lại có ‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như không sao, dù có người thì người cũng chỉ “ ngồi im phăng phắc như tượng”!

Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì? Quả là một bức ảnh đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái cách tiếp cận “ thực tế”, tiếp cận “ nguyên mẫu” như thế là cách tiếp cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được cái hình hài bên ngoài , cái thơ mộng bên ngoài của cảnh và người. Bởi vì ngay sau khi nhà nghệ sĩ “ săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực, ngang trái mà không một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ , nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm, đa mang!

Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính , chứng kiến cảnh thằng con – Phác- vì thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà người cha của nó dùng để đánh mẹ nó , khi thì định dùng cả “ám khí” là một con dao găm lận ‘ trong cạp quần đùi”, “ tôi” đã không khoanh tay ngồi nhìn vì “ bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo chio hắn đánh” . Và hậu quả là ‘ tôi” đã bị thương vì người chồng kia chống trả quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà “ tôi” thu được vào ống kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà trong tư cách cựu chiến binh “ tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp chiếc thuyền thơ mộng kia chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ xa ư? Chiếc thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy đó!

Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên “ tôi” nán lại thêm mấy hôm và chính lần này “ tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu – người đồng đội cũ của “ tôi” , giờ là Chánh án toàn án huyện- và người phụ nữ khốn khổ kia , ‘ tôi mới vỡ ra nhiều lẽ . Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là “ từ xa” thì cái cảnh “ tôi” chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình nhà chài nọ. Vì sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận “đòn chồng” và cũng không chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là không chịu “ giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người cựu chiến binh tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh là một Bao công- đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:

-“ Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ , khó nhọc…”

- “ Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”

- “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông …Cũng có khi biển động sóng gió chứ?”.

- ‘ Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó- vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ”.

Cái vòng luẩn quẩn của những kiếp người cần lao quả thật đầy bất ngờ đối với “ tôi”, vốn đã trải qua mấy năm chiến đấu tại mảnh đất này, đã giải phóng mảnh đất này và hiện đang là nhà báo từng dong ruổi nhiều nơi! Và “ tôi” cũng nhận ra rằng vì sao ông lão ( cha người phụ nữ) làm nghề sơn tràng “ ở tận trên miền rừng A So” và thằng cháú ngoại lại hay xuất hiện ở miệt biển này và tại sao trong buổi sáng chia tay “ tôi” ông lão luôn “đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền”. Vậy , với tất cả những điều ấy, “chiếc thuyền nghệ thuật” của “tôi” nói được cái gì cận nhân tình chưa hay cũng chỉ là “ chiếc thuyền ngoài xa”? Nhan đề ấy phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Tóm lại, qua thiên truyện và cách đặt tên nhan đề, ta thấy nhân vật “ tôi” vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn với những gì ống kính của mình đã thu được. Đằng sau bức ảnh chiếc thuyền thơ mộng ấy còn là những cuộc đời , những con người lầm lụi, khốn khổ đến quẫn trí và giải toả cái quẫn trí ấy bằng những giải pháp hết sức kì quặc. Bức ảnh “thuyền và biển” kia đã nói được gì đâu. Và đó là cách để nhà văn Nguyễn Minh Châu bộc lộ thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín chứa đầy những nghịch lí , mâu thuẫn của đời sống hậu chiến tranh và đó cũng là đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu, người tiên phong tinh tường và tài ba trên hành trình đổi mới văn học nước nhà. Có thể hiểu “ Con thuyền ngoài xa” là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp, cái hài hoà, muốn làm cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ giản đơn hoá không nhận ra cái thực tế khắc nghiệt thì suy cho cùng cũng chỉ là một kiểu “ lướt nhẹ trên bề mặt cuộc sống” chứ đâu đã là thứ nghệ thuật “ là tiếng đau khổ…thoát ra từ những kiếp lầm than” ( Nam Cao- Trăng sáng).

Từ đó, có thể phát hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa: Khi con thuyền là đối tượng của nghệ thuật thì có thể được chiếm lĩnh từ xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời cần phải được chiếm lĩnh ở cự li gần. Đừng vì nghệ thuật thuần tuý mà bỏ quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét , vui buồn trước cuộc đời, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người . Với ý nghĩa ấy, phần nào gợi ra những liên tưởng tương đồng với truyện “ Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao./.

                            Đề 3: Cảm nghĩ về truyện ngắn

Nếu những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh Nguyễn Minh Châu đã

xây dựng thành công hình tượng người anh hùng và phản ánh chân thực

cuộc chiến đấu của nhân dân, thì những tác phẩm viết trong thời kỳ đổi mới

Nguyễn Minh Châu lại chú ý thân phận, tính cách nhân vật, vào những phận

đời, phận người trong cuộc sống trăm cay nghìn đắng. Ông đã lấy con người

làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống, ông muốn thể hiện một

quan niệm văn chương trước hết là câu chuyện của con người, với muôn

mặt phức tạp, phong phú với cả chiều sâu. Chiếc thuyền ngoài xa nằm trong

mạch sáng tác đó. Hiện thực bây giờ không đơn giản là một vết xước rướm

máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh niên xung phong kia mà có lẽ,

phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể, một sở

hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cất nó khiến sự nhận thức mãi mãi

không đưa ra một hệ số bằng lòng. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được

tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhân vật trong tác phẩm là

nhiếp ảnh gia Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và

thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc họa khá sắc sảo để lại

cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghệ

thuật và sự thật trần trụi của đời thường.

Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi săn một tấm hình

chụp bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ

nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc.

Phùng rời Hà Nội tới một bờ biển, nơi vẫn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là

bãi chiến trường. Cảnh biển buổi sáng có sương mù vào tờ lịch tháng bảy

nằm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã

gặp may khi gặp một cảnh trời cho, có lẽ suốt cuộc đời cầm máy của anh

chưa bao giờ dám mơ tưởng đến: Trước mắt tôi là một bức tranh bằng mực

Tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào

bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời

chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng

trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy

nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện

ra dưới một hình thù y hệt cánh cột con dơi… Toàn bộ khung cảnh từ đường

nét đến ánh sáng đều hài hòa vẻ đẹp, một vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn

bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp

thắt vào. Đối diện với bức tranh ấy, nghệ sỹ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh

phúc, anh mới thấm thía bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức như ai đó

đã phát hiện ra. Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã

bấm liên tục hết gần một phần tư cuộn phim. Nơi nhà nhiếp ảnh ghi lại

khoảnh khắc tuyệt vời của thiên nhiên ấy không phải là lầu Hoàng Hạc,

cũng chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển đầy tàn tích

chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua bỏ

lại. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã ngộ ra

một điều – hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp của ngoại cảnh

vừa mang lại. Những cảm xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp

thiên nhiên làm cho ta cảm động. Nó là niềm hạnh phúc, nỗi vui sướng của

kẻ luôn sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ tinh thần mà mình hằng tâm

nuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái lên đồng, một trạng thái cần có trước

khi sinh thành những cảm xúc sáng tạo. Trong giây phút bối rối ấy, tôi

tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, cái đạo

đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc.

Một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ

phàng và cũng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, vào

ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đang đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy được,

chứng kiến được, mà còn tham dự vào những chuyện trớ trêu đau lòng.

Đúng là sau khoảnh khắc trời cho để Phùng có một bức tranh đẹp thì Phùng

cũng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống hiện thực cuộc sống ban cho.

Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ còn nghiệt ngã

hơn sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố, lý giải, nhận thức, hiện thực.

Còn đâu nữa màu trắng, màu hồng của bức tranh toàn bích khi một

người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá

đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: Cứ ngồi nguyên đấy,

động đậy tao giết cả mày đi bây giờ. Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi,

cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt… Người đàn ông đi sau lưng

rộng và cong như một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông

mày cháy nắng, rũ xuống… Lão đàn ông hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc

nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân áo

ướt sũng của người đàn bà.

Những gì đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở

thành nơi hành tội. Chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy

bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa

đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két. Thật ngạc nhiên khi

thấy người đàn bà khốn khổ đó với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không

hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn.

Cảnh tượng đau lòng đó làm cho người nghệ sỹ nhiếp ảnh kinh ngạc đến

mức trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết

từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Phùng lao tới

nơi người đàn ông đang dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào lưng người

đàn bà. Nhưng ngay lúc đó, một bóng đen chạy vụt qua mặt Phùng, đó là

thằng bé Phác, con trai của cặp vợ chồng nọ. Thằng bé giận dữ như một viên

đạn lao vào đích đã nhắm, lao thẳng vào lão đàn ông. Đứa bé với sức mạnh

ghê gớm của lòng uất ức pha lẫn sự bất bình đã giằng được chiếc thắt lưng,

vung chiếc khóa sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những

đám lông đen xoăn xoăn của lão đàn ông. Không giằng lại được chiếc thắt

lưng, lão dang thẳng cánh cho thằng bé hai cát tát tai khiến thằng bé ngã dúi

xuống đất. Rồi lão lẳng lặng trở về thuyền. Kết thúc cái cảnh tượng ấy, bãi

cát lại trở về cái vẻ mênh mông và hoang sơ, chỉ có Phùng, cậu bé và tiếng

sóng ngoài khơi, tất cả chìm vào cõi im lặng. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra như

trong truyện cổ quái đản, chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho

cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sỹ Phùng thay đổi.

Bức ảnh trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu khắc họa, đã được nhà

nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng

về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng

tô son hiện thực là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt.

Những gì Phùng chứng kiến chính là hiện thực, có điều anh không thể nào

lý giải được. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của người

chồng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm với

bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha mẹ

chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa đi qua. Tất

cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích của thiên nhiên.

Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh phúc của người

nghệ sỹ. Một nỗi đau và kìm nén nỗi đau, một bình yên phá hoại bình yên,

một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữa muôn trùng tiếng

sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quái đản, tất cả đều biến

mất, tất cả cứ lặp lại…

Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh quật ngã người

đàn ông vũ phu bằng cú đánh của người không cho phép hắn đánh một

người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín đáo

cho hắn đánh. Phùng nhân danh một người lính – những người đã đổ máu

để giành lại bình yên cho đồng bào mình chăng? Hay anh còn một động cơ

đạo đức người nghệ sỹ – người biết thưởng thức và giữ gìn cái đẹp toàn

thiện chứ không phải là tàn ác, tha hóa.

Với Phùng, có thể coi đây là một chuyến đi đầy ý nghĩa: chiếc thuyền

nghệ thuật thì ở xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần

trụi, ở rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lý cuộc đời có

lúc, có nơi không phải là chân lý nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua chiếc

thuyền ngoài xa đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá

trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sỹ chân chính giàu bản lĩnh.

Sau nhiều lần chứng kiến cảnh người đàn ông hành hạ người phụ nữ,

Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án tòa án huyện phụ

trách địa bàn, can thiệp vào trường hợp gia đình thuyền chài này. Những cú

đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần tiếng nói công lý của

quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Phùng và Đẩu chỉ là những đứa trẻ, đi hết bất

ngờ rồi phẫn nộ trước việc người đàn bà chắp tay vái lia lịa cầu xin vị quan

tòa kia đừng bắt mình bỏ chồng, có trách tội, có bắt giam, có phạt tù thì chị

ta cũng chấp nhận, rồi im lặng trước lời thú tội, kể lể của người đàn bà: Đây

là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Các chú có lòng tốt nhưng các

chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái

việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc. Hóa ra, người đàn bà xấu xí và tội

nghiệp này là một hiện thực bất khả tri. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ

của chồng như chức phận mà mình có được, thỏa nguyện chức phận đó.

Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như

thế vì một lý lẽ rất đơn giản là bà đẻ nhiều quá. Điều đó đồng nghĩa với cái

đói, cái nghèo bám riết lấy gia đình này. Nhưng thực tế đẻ nhiều đó không

phải lỗi thuộc về người phụ nữ mà chính là thiên chức tạo hóa đã ban tặng

cho họ. Lời thú tội của người đàn bà đầy vẻ ngậm ngùi, chân thực mà tê tái,

có những câu hỏi không dễ trả lời, có những mâu thuẫn khó giải quyết: yêu

thương và sống qua muôn vàn khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp

nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức. Sự nhẫn nhục, đức hy sinh của

người phụ nữ kia thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị cũng

hết sức tế nhị khi xin chồng đừng đánh mình trước mặt con. Chị ta sợ đứa

con trai tên Phác làm điều gì dại dột với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở

với ông ngoại. Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới hiểu được nỗi

khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hy sinh thầm lặng, tình thương con mênh

mông của người đàn bà làng chài đáng thương: ta mới thấu hiểu được cái

căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo hành trong các gia đình nghèo cực. Người

chồng ấy vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh trong

cuộc sống chài lưới đã biến ông ta thành người vũ phu. Có phải là một Chí

Phèo, một quỷ dữ bước ra từ cái làng chài hẻo lánh kia không? Hành động

vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con người tội nghiệp:

bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông

thuyền khác uống rượu. Một sự so sánh đầy bất ngờ nhưng cũng giản dị,

một sự so sánh rất đời thường việc ông ta đánh vợ cũng như những người

đàn ông khác uống rượu mà thôi.

Chính vì thế mà cả Phùng và Đẩu đã thốt lên không thể nào hiểu được.

Cũng đúng thôi, họ không thể nào hiểu nổi hai con người nhỏ bé kia lại chấp

nhận sống và yêu thương nhau theo kiểu lạ lùng như thế. Dù rằng lời kể của

người đàn bà đã phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ

vẫn dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực.

Phải chăng tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này

là tình huống dựng nên của nhà văn Nguyễn Minh Châu? Ông đã đặt nhân

vật và độc giả của mình vào một tình huống phải nhận thức. Nhưng nhân vật

đã không lí giải được hiện thực, tiếng nói của quan tòa cũng trở nên lạc

lõng. Họ chấp nhận nó bằng những thỏa thuận bên ngoài. Cơn bão biển khơi

lại nổi lên, biển động, gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn đói.

Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi nhất là trong gia

đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bức tranh thì

không thể xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia là nỗi đau vĩnh viễn.

Nghệ thuật che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo đức? Hay nghệ thuật bất

khả tri trước hiện thực? Cũng như chiếc thuyền ngoài xa, nghệ thuật chỉ

nắm bắt được cái bóng của nó, cái bóng của hiện thực. Vẻ ngoài của nghệ

thuật đôi khi như làn sương làm mờ hóa khả năng tri nhận ở chúng ta. Cả

Phùng và Đẩu không đủ sức lý giải, chấm dứt bi kịch của gia đình thuyền

chài kia. Họ chưa đủ ánh sáng để xua đi vùng tối trong tâm hồn những con

người bé nhỏ, khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên Phùng hoàn toàn thấu

nhận. Nhưng trước số phận của người đàn bà, Phùng là người ngoài cuộc.

Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành trình sáng tạo của nghệ thuật.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa có nhiều tình huống bất ngờ hấp dẫn, giàu

chất điện ảnh do có sự gia tăng kiểu chi tiết – hình ảnh. Mỗi một tình huống

xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu.

Trường đoạn Phùng chứng kiến người chồng hành hung vợ là trường đoạn

được kể bằng hình ảnh. Nó được diễn ra dưới góc quay toàn cảnh và kéo

dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng. Yếu tố động của chi

tiết được bao bọc trong sự yên tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di

chuyển. Lời thoại rút giảm tối đa, những hình ảnh khô khốc và bạo liệt cứ

tiếp nối. Tiếng nghiến răng ken két của người đàn ông vũ phu, tiếng thắt

lưng quất tới tấp vào người đàn bà ngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ

âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc – người xem vào những mao mạch trí

nhớ khác nhau, hoặc rát buốc hoặc tê cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường

đoạn cảnh vật trở nên bình lặng, yên ả như chưa hề có sắc thái bạo lực khốc

liệt. Một sự trả về hờ hững của tự nhiên. Chiếc thuyền ngoài xa hay là sự bất

khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất sau những điều chúng ta có thể

kiểm soát và chứng kiến được? Chiếc thuyền ngoài xa mãi mãi là một khát

vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi chiếc thuyền vẫn còn ở

ngoài xa, những định giá và huyễn tưởng về nó vẫn chỉ nằm trong lớp sương

mờ ảo mà thôi.

Đề 4: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Mở bài

Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Điều đó được thể hiện qua tình huống truyện độc đáo.

Thân bài

HCST:Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

GTC: Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc. 

Tên gọi:Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

Ngoại hình:Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. 

Số phận Bất hạnh:Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

Phẩm chất, tính cách: Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. 

Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.

Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng

Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. 

Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Đánh giá chung:Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh

Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng

Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời[Tố Hữu]

Bằng biện pháp đồi lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”. 

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".( Đây giống như 1 dàn bài đã đủ ý nhưng cách diễn đạt thế nào đẻ đạt điểm cao,tùy thuôc vào các bạn.)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro