chien tranh phap - pho

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thời gian 19 tháng 7, 1870 - 10 tháng 5, 1871

Địa điểm Pháp và Phổ

Nguyên nhân bùng nổ Mâu thuẫn kế vị ngai vàng ở Tây Ban Nha

Kết quả Phổ/Đức chiến thắng

Hiệp ước Frankfurt

Thay đổi lãnh thổ • Liên minh miền Bắc Đức và các tiểu quốc Đức được hợp thành đế chế Đức

• Đức sát nhập Alsace-Lorraine

• Đệ nhị đế chế Pháp chấm dứt

• Đệ tam cộng hòa Pháp thành lập

Tham chiến

Đệ nhị đế chế Pháp

Phổ

Liên minh Bắc Đức

Đế quốc Đức

Chỉ huy

Napoléon III

François Achille Bazaine

Patrice de Mac-Mahon

Otto von Bismarck

Helmuth von Moltke

Lực lượng

492.585 quân tham chiến[1]

417.366 Vệ binh cơ động[2]

300.000 quân chính quy[3]

900.000 quân dự bị và Landwehr (dân vệ)[3]

Tổn thất

138.871 chết hoặc bị thương[4]

474.414 bị bắt[5]

116.696 chết hoặc bị thương[6]

.

Chiến tranh Pháp-Phổ (19 tháng 7 năm 1870 - 10 tháng 5 năm 1871) hay chiến tranh Pháp-Đức, thường được biết đến ở Pháp là Chiến tranh 1870, là một cuộc chiến giữa Pháp và Phổ. Phổ được hỗ trợ bởi Liên bang Bắc Đức và các bang miền Nam Đức như Baden, Württemberg và Bavaria. Chiến thắng của quân Phổ và Đức đã đem lại sự thống nhất của Đế quốc Đức dưới sự cai trị của vua Wilhelm I. Trận chiến cũng đánh dấu sự sụp đổ của Napoléon III và dấu chấm hết cho Đệ nhị đế chế Pháp, sau đó được thay thế bởi Đệ tam cộng hòa. Vùng Alsace-Lorraine bị Phổ chiếm và hợp thành một phần của nước Đức cho đến khi Đệ nhất thế chiến kết thúc.

Cuộc chiến là kết quả của sự căng thẳng kéo dài nhiều năm giữa hai cường quốc, mà ngòi nổ là mâu thuẫn về việc một hoàng thân nhà Hohenzollern ứng cử ngai vàng của Tây Ban Nha bị bỏ trống sau khi Isabel II bị phế truất năm 1868. Việc bản tuyên cáo Ems bị để lộ ra cho báo chí, trong đó cường điệu sự lăng mạ giữa đức vua Phổ và đại sứ Pháp, đã như châm thêm dầu vào lửa ở cả hai phía. Pháp tổng động viên quân đội, và đến ngày 19 tháng 1 tuyên chiến với Phổ. Các tiểu quốc Đức nhanh chóng đứng về phía Phổ và tham chiến chống Pháp.

Sức mạnh vượt trội của Phổ và Đức hiển hiện nhanh chóng, một phần bằng việc sử dụng hiệu quả vận chuyển bằng đường sắt và pháo binh tân tiến hiệu Krupp. Liên quân Đức-Phổ nhanh chóng giành được một loạt thắng lợi tại miền đông nước Pháp, mà đỉnh điểm là Trận Sedan, trận chiến mà Napoléon III và toàn bộ đạo quân dưới quyền bị bắt vào ngày 2 tháng 9. Tuy nhiên, cuộc chiến chưa chấm dứt: Đệ tam cộng hòa được tuyên bố thành lập ngày 4 tháng 9 tại Paris, và người Pháp tiếp tục kháng cự dưới sự chỉ huy của Chính phủ Vệ Quốc (Le Gouvernement de la Défense Nationale) và sau đó là Adolphe Thiers.

Trong vòng 5 tháng, quân đội Đức-Phổ đánh bại những đạo quân mới được tuyển mộ của Pháp trong một loạt trận chiến dọc miền Bắc nước Pháp. Thủ đô Paris của Pháp thất thủ ngày 28 tháng 1 năm 1871 sau một cuộc vây hãm kéo dài. Mười ngày trước đó, các tiểu quốc Đức đã tuyên bố hợp nhất dưới sự trị vì của Vua Phổ, thống nhất nước Đức thành Đế quốc Đức. Hiệp ước Frankfurt được ký ngày 10 tháng 5 1871 chấm dứt chiến tranh, trong giai đoạn máu lửa của Công xã Paris năm 1871.

[sửa] Nguyên nhân

Nguyên nhân chiến tranh Pháp-Phổ có gốc rễ từ sự phân chia quyền lực giữa các cường quốc kể từ sau cuộc Chiến tranh Napoleon. Pháp và Phổ từng là hai quốc gia ở hai phe đối địch nhau trong cuộc chiến, với kết quả là nước Pháp thất trận, Napoleon đệ nhất bị đày ở đảo Elba. Với việc Napoleon đệ tam lên ngai vàng sau cuộc đảo chính ở Pháp, và việc Otto von Bismarck trở thành Thủ tướng vương quốc Phổ, căng thẳng giữa hai nước ngày càng lên cao kể từ cuộc chiến tranh Áo-Phổ năm 1866.

Sau khi thắng trận Königgrätz, đàm phán hòa bình giữa Áo và Phổ diễn ra. Một phần do Pháp đứng trung lập, không can thiệp vào cuộc chiến cũng như quá trình đàm phán, nên Hoàng đế Áo Franz Joseph I chấp nhận những đòi hỏi mà Bismarck đưa ra, theo đó Bismarck tuyên bố Liên minh các quốc gia Đức thành lập từ năm 1815 không còn giá trị, thay thế vào đó là một tập hợp các tiểu quốc Đức dưới quyền lãnh đạo của Phổ. Các tiểu quốc như Frankfurt-am-Main, Hannover, Hesse-Kassel (còn gọi là Hesse-Cassel), Holstein, Nassau, và Schleswig bị sát nhập vào Phổ, trong khi Đại công quốc Hesse-Darmstadt, Mecklenburg, Saxony, và công quốc Thuringian, cũng như các thành phố Bremen, Hamburg, và Lubeck phải hợp nhất vào Liên minh bắc Đức, trên thực tế là do Phổ kiểm soát.[7]

Đại sứ Pháp tại Phổ là Vincent Benedetti ngay sau đó xin được hội kiến với Bismarck. Benedetti mang theo đề nghị bí mật của Napoleon III, theo đó Pháp sẽ chấp thuận để Bismarck thâu tóm các tiểu quốc miền bắc Đức và quyền điều khiển các tiểu quốc nam Đức, để đổi lại việc Pháp sát nhập Bỉ và Luxembourg, dù trước đó Pháp đã cam kết bảo vệ nền độc lập của Bỉ trong Hiệp ước London năm 1839. Bismarck hết sức kinh ngạc, vì Đức đã vươn lên hàng cường quốc châu Âu sau khi ký kết bản hòa ước, và gọi đề xuất của Napoleon là sự vòi vĩnh hoa hồng của một anh hầu bàn. Ông yêu cầu Benedetti viết đề xuất này ra giấy trắng mực đen, và tài liệu này sau trở thành một con bài quan trọng trong tay Bismarck. [8]

Vị thế của Pháp trên chính trường châu Âu vốn đã trở nên lung lay vì việc nước Phổ trỗi dậy, nay càng yếu thế trước những thắng lợi mà Bismarck gặt hái được. Thêm vào đó, tình hình chính trị ở nước Pháp cũng rất không thuận lợi cho hoàng đế Napoleon III, với việc những người cộng hòa gia tăng sức ép đòi hỏi cải cách dân chủ[9], cùng với những tin đồn về khả năng cách mạng bùng nổ. Hơn nữa, cuộc can thiệp vào Mexico thất bại, với việc hoàng thân gốc Áo Maximilian đệ nhất, vua Mexico bị bắt và bị xử tử năm 1867.[10]. Tình thế khiến chính quyền Pháp phải tìm kiếm thắng lợi từ bên ngoài, để xoa dịu quần chúng. Nếu như Pháp có thể đánh bại Phổ và giành được các lãnh thổ trên sông Rhine, và sau đó là Luxembourg và Bỉ, thì đó sẽ là cơ hội tốt nhất tập hợp sự ủng hộ của dân chúng cho vương triều Bonapart[11]

Nước Phổ cũng phải đối mặt với những khó khăn của họ. Một mặt, khả năng xảy ra cách mạng ở Phổ là không đáng kể, nhưng kể từ sau chiến thắng Áo năm 1866, Phổ giành thêm được hàng triệu thần dân mới. Các tiểu quốc Đức khác có thái độ hẹp hòi, cục bộ, hờ hững với Phổ và mong muốn thống nhất nước Đức dưới ngọn cờ của Phổ. Các công vương Đức khăng khăng đòi duy trì sự độc lập của mình, phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm xây dựng một liên bang Đức với thủ phủ đặt tại Berlin (thủ đô Phổ). Họ càng tỏ ra lo ngại với chiến thắng chớp nhoáng của Phổ và việc Phổ tiến hành sát nhập một số tiểu quốc Đức sau đó[12] Trước khi chiến tranh Pháp Phổ nổ ra, chỉ có một vài tiểu quốc Đức tỏ ra mong muốn thống nhất nước Đức.

Von Bismarck vốn có quan điểm riêng, ông chỉ quan tâm vào việc thống nhất nước Đức nếu nó giúp củng cố vị thế của Phổ[13] Bismarck trước chiến tranh đã đề cập đến việc cắt cho Pháp các lãnh thổ dọc sông Rhine, và Napoleon III, bị thúc giục bởi các cố vấn của mình, trên cơ sở đó đòi thêm các lãnh thổ mà Phổ giành được sau chiến tranh với Áo. Các cuộc đàm phán đó bị Bismarck để lộ ra ngoài, khiến cho các tiểu quốc Đức vốn thù nghịch với Phổ nhanh chóng đổi thái độ, cam kết với Phổ đặt quân đội của họ dưới quyền chỉ huy của Phổ trong trường hợp chiến tranh với Pháp nổ ra[14]

Tình hình châu Âu cũng tỏ ra thuận lợi cho Phổ. Các tiểu quốc Đức vốn thù nghịch với Phổ và thân thiện với Pháp nay e ngại tham vọng lãnh thổ của Pháp dọc sông Rhine và tìm kiếm sự bảo vệ quân sự từ Phổ. Đan Mạch từng thua Phổ trong hai cuộc chiến tranh trước đó, và chưa sẵn sàng tham chiến. Áo muốn báo thù trận thua vừa rồi, nhưng ra điều kiện chỉ tham chiến nếu Ý cũng tham gia liên minh. Tuy nhiên dư luận Ý đang hết sức không thân thiện với Pháp, do việc Hoàng đế Pháp gửi quân bảo vệ Giáo hoàng tại Rome, cản trở việc sát nhập Rome vào quá trình thống nhất nước Ý. Nước Nga ủng hộ Phổ, cam kết gửi quân đội chống lại Áo trong trường hợp Áo tiến hành các hoạt động quân sự chống Phổ. Như vậy Phổ có thể yên tâm dốc lực lượng về mặt trận Pháp. Anh không hài lòng với tham vọng lãnh thổ của Pháp ở Bỉ và Luxembourg, nên sẽ không làm gì để giúp Pháp hết.

Nguyên nhân trực tiếp xảy ra chiến tranh là vấn đề ngai vàng nước Tây Ban Nha. Hoàng gia Tây Ban Nha muốn chọn hoàng thân Đức Leopold dòng Hohenzollern-Sigmaringen kế vị, nhưng Pháp không chấp thuận để một hoàng thân Đức họ hàng với vua Phổ lên làm vua Tây Ban Nha, vì lo ngại Pháp sẽ bị kẹp giữa hai gọng kìm. Lời qua tiếng lại trên bàn ngoại giao làm căng thẳng gia tăng ở cả hai phía. Bị thúc giục bởi cả ngoại trưởng Pháp và Phổ, vua Phổ Wilhelm đệ nhất chấp thuận thuyết phục hoàng thân Leopold từ chối đề nghị ngai vàng Tây Ban Nha. Tuy nhiên phía Pháp tỏ ra thất vọng Phổ bỏ cuộc quá dễ dàng, nên tiếp tục lớn tiếng đe dọa chiến tranh nếu việc một hoàng thân nhà Hohenzollern trên ngai vàng Tây Ban Nha được đặt lên bàn thương lượng trở lại. Vua Phổ Wilhelm gửi điện trả lời, với lời lẽ nhã nhặn, nhưng cương quyết, bác bỏ tối hậu thư của Pháp, nhưng Bismarck khôn khéo sửa chữa lời lẽ của bức điện, khiến nó trở nên khó mà chấp nhận được với chính phủ Pháp. Bức điện nhanh chóng được để lộ cho báo chí, với kết quả là người Pháp cho rằng vua Phổ đã lăng mạ ngoại trưởng Pháp, bá tước Benedetti, trong khi người Phổ thì lại cho rằng chính bá tước Benedetti là người đã làm nhục vua Phổ. Chính phủ Pháp nhanh chóng nhóm họp và tuyên bố "tiến hành ngay tức khắc các biện pháp để bảo vệ quyền lợi, an ninh và danh dự của nước Pháp."[15]. Pháp chính thức tuyên chiến với Phổ ngày 19 tháng 7 năm 1870, chỉ vài giờ sau khi lời tuyên bố được đưa ra. Thể theo các hiệp ước bí mật được ký với Phổ và theo đòi hỏi của dân chúng, các vương quốc Đức như Bavaria, Baden, và Württemberg tổng động viên quân đội để tham chiến chống Pháp[16]

[sửa] Lực lượng hai phía

[sửa] Quân đội Pháp

Sau chiến thắng chớp nhoáng của quân Phổ trong cuộc chiến tranh với Đế quốc Áo năm 1866, Thống chế Adolphe Niel, bộ trưởng Bộ chiến tranh của Pháp, quyết định tiến hành một chương trình tái cơ cấu để tăng cường sức mạnh binh lính. Ông hủy bỏ tất cả những ưu đãi dành cho các cựu binh tái nhập ngũ, với kết quả tai hại - một số lớn cựu binh rời bỏ quân đội, cùng với một số đáng kể (lên tới một phần tư) quân dự bị tìm cách hối lộ để trốn quân dịch. Luật Quân sự năm 1868, được soạn bởi Thống chế Niel theo mẫu của Phổ, tăng thời gian tại ngũ từ 7 lên 9 năm. Tuy nhiên, Quốc hội Pháp chỉ cấp một số kinh phí rất nhỏ để hỗ trợ cho chương trình Vệ binh Cơ động, và ban hành một số qui định làm giới hạn nghiêm trọng chương trình huấn luyện của các đơn vị này. Họ bị cấm không được đi khỏi địa phương của mình, và không bị buộc phải ở lại doanh trại trong thời gian huấn luyện[17].

Quân Pháp tới tháng 7 năm 1870 bao gồm 492.585 quân chính quy, một số là những binh lính dày dặn kinh nghiệm chiến trận từ các cuộc chiến trước đó như Chiến tranh Crimea, Chiến tranh Algérie, Chiến tranh giành độc lập Italia, và cuộc can thiệp của Pháp vào Mexico. Trong số đó, có 300.000 quân sẵn sàng tham chiến trong vòng 3 tuần, theo như tân Bộ trưởng Bộ chiến tranh, Thống chế Edmond Le Bœuf (Thống chế Niel mất vào năm trước đó). Số này sẽ tăng lên đến 662.000 quân trong trường hợp tổng động viên quân dự bị, cộng thêm chừng 417.366 quân trong các đội Vệ binh Cơ động - Garde Mobile, với tổ chức lỏng lẻo và cần thêm thời gian để huấn luyện[2].

Sau khi nhận được báo cáo về sự hiệu quả của loại súng trường đạn nạp hậu mà Phổ sử dụng trong cuộc chiến tranh 1866, người Pháp vội trang bị cho bộ binh của mình súng trường hiệu Chassepot, một trong số những vũ khí hiện đại nhất thế giới được sản xuất hàng loạt khi đó. Loại súng trường này sử dụng vòng đệm cao su, với đạn có kích thước nhỏ hơn, tầm bắn 1600 thước (hay 1463 mét), tốc độ bắn nhanh hơn.[18] Thêm vào đó, quân Pháp còn được trang bị "tiền thân" của súng máy - súng mitrailleuse. Loại súng này được bí mật sản xuất từ năm 1866, với 25 nòng súng, vận hành bởi một vòng quay tay, có khả năng bắn ra 150 viên đạn một phút với tầm bắn 2.000 thước (1.829 mét). Mặc dù mẫu thiết kế này mang tính đột phá và có khả năng tiềm tàng to lớn, nó vẫn không phát huy được hiệu quả do binh lính không được huấn luyện sử dụng đầy đủ, được bố trí trong đội hình quá chật hẹp, và bắn ra ở khoảng cách quá xa nên độ chính xác rất thấp[19].

Pháo binh Pháp không thể tiến hành tái trang bị vì Nghị viện không bỏ phiếu cấp tiền, và kết quả là bao gồm 3 loại cỡ nòng cơ bản: 4 bảng, 12 bảng và súng mitrailleuse. Loại pháo nòng 4 bảng có tầm bắn 1.300 thước (1.189 mét) ở tầm ngắn, và khoảng 2.500 thước (2.286 mét) ở tầm xa, trong khi loại cỡ nòng 12 bảng (đều là đạn nạp tiền) được dùng cho các cuộc bắn phá tầm xa hơn[20]. Dân chúng Pháp đến dự Triển lãm thế giới 1867 tại Paris xem loại đại bác khổng lồ Krupp của Đức, nhưng đa phần đều tỏ ra bàng quan, vì cho rằng loại đại bác này quá cồng kềnh và tốn kém, nên không thực tiễn, hoặc cho rằng chiến tranh là chuyện không liên quan gì đến tiến bộ khoa học công nghệ[21]. Đầu năm 1868, các chuyên gia vũ khí Pháp chứng kiến sự ưu việt của pháo nạp hậu Krupp trong cuộc trình diễn tại Bỉ. Mặc dù nhận được sự hậu thuẫn tích cực của họ, nhưng Thống chế Le Bœuf vẫn viết "Rien à faire" (Không có gì để làm) trong đơn đặt hàng với Krupp và việc này bị xếp lại. Mãi đến sau chiến tranh, người ta mới phát hiện ra là ông ta và phe cánh tìm cách bảo hộ hãng Schneider của Pháp khỏi sự cạnh tranh[22].

Trên danh nghĩa, quân đội do Hoàng đế Napoléon III chỉ huy. Thống chế Bazaine, MacMahon và Canrobert ban đầu được chọn để chỉ huy các quân đoàn. Họ cũng như các sỹ quan tùy tùng vốn giành được nhiều vinh quang do sự anh dũng và tài chỉ huy trong các cuộc chiến tranh Crimea, chiến tranh Pháp-Áo và nhiều cuộc chiến tranh thuộc địa khác[23].

Trên thực tế, quân đội Pháp dù đã tiến hành các cải cách khẩn cấp vì kết quả cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, vẫn bị tê liệt bởi sự điều hành yếu kém và việc lên kế hoạch thiếu rõ ràng. Dù bộ trưởng Le Bœuf tuyên bố Quân đội Pháp đã sẵn sàng "tới chiếc đinh giày cuối cùng", khi chiến sự nổ ra, nhiều đơn vị vẫn còn thiếu quân vì quân dự bị còn sống vất vưởng tại các khu tuyển quân và nhà ga vì họ vẫn còn phải loay hoay tìm trung đoàn của họ. Trong số rất nhiều trang bị và quân nhu bị thiếu, phải kể đến phần lớn thuốc men tiếp tế vẫn còn nằm lại tại Điện Invalides ở Paris, chờ được vận chuyển[24]. Trong suốt cuộc chiến, sự hành quân của các đơn vị quân Pháp được tiến hành rất dở và hỗn độn.

[sửa] Quân đội Phổ

Tổ chức quân đội Phổ được hoàn toàn biến đổi nhờ công sức Tướng Albrecht von Roon và Vua Wilhelm I của Phổ trong khoảng năm 1858 và về sau. Sau khi cải cách được tiến hành, Quân đội Phổ bao gồm toàn lính quân dịch và quân dự bị[25]. Nghĩa vụ quân sự trở thành bắt buộc cho tất cả đàn ông trong độ tuổi quân dịch, và do đó Phổ và đồng minh miền Nam và Bắc Đức có thể huy động đến 1,2 triệu quân nếu chiến tranh nổ ra[26], trong vòng chỉ vài ngày. Quân Phổ có ưu thế tuyệt đối về sự cơ động người cũng như vật tư chiến tranh, và không vấp phải cơn ác mộng về tiếp liệu làm vướng chân quân Pháp[27].

Quân đội vẫn trang bị loại súng trường nạp hậu Dreyse nổi tiếng sau trận Königgrätz, nhưng tới lúc này không còn hữu hiệu so với súng trường Chassepot của Pháp. Tầm bắn súng Dreyse ngắn hơn tầm bắn của súng Chassepot, nghĩa là bộ binh Phổ phải vượt qua lưới lửa của quân Pháp trước khi có thể nổ súng vào quân Pháp. Tổng tham mưu trưởng, Nguyên soái Helmuth von Moltke, có lẽ không duy trì việc cập nhật công nghệ vũ khí với loại súng này vì thành công vang dội của nó trong cuộc chiến tranh chống Áo[28]. Khiếm khuyết này của súng trường Kreyse được bù lại bởi loại pháo của hãng Krupp cỡ nòng 6 bảng (3 kg) đạn nạp hậu mà pháo binh Đức sử dụng. Pháo Krupp có tầm bắn xa hơn, tốc độ bắn nhanh hơn, và cũng chính xác hơn loại pháo nạp tiền của Pháp rất nhiều[20].

Tổng chỉ huy quân Phổ là vua Wilhelm I, với nội các gồm những nhà quân sự như Bismarck, Roon và các chuyên gia quân sự khác. Các hoàng thân và sỹ quan thuộc giới quý tộc khác như Thái tử Frederick chỉ huy các đạo quân lớn. Trên thực tế, tất cả các chiến dịch đều được chỉ đạo bởi Nguyên soái von Moltke[29]. Quân Phổ là quân đội duy nhất ở Châu Âu có Bộ chỉ huy mà hoạt động duy nhất là chỉ đạo hướng hành binh, tổ chức tiếp tế, liên lạc và triển khai chiến thuật. Các sỹ quan thuộc Bộ chỉ huy phải trải qua một quá trình tuyển chọn và huấn luyện khắt khe, thực hiện chức năng tương tự tại tất cả các bộ tham mưu chính yếu. Một Tham mưu trưởng trong Quân đội Phổ phải là một nhân vật quan trọng, vì ông ta là người duy trì sự liên kết tin cậy giữa chỉ huy và thuộc cấp[30].

[sửa] Hoạt động của hải quân Pháp - Phổ

Khi chiến tranh bùng nổ, chính phủ Pháp hạ lệnh phong tỏa bờ biển miền bắc Đức, mà hạm đội Bắc Hải của Đức nhỏ yếu không thể kháng cự lại được. Dù vậy, cuộc phong tỏa không hoàn toàn thành công vì sự sơ suất của những nhà hoạch định kế hoạch tại Paris. Nhiều lính hải quân đúng ra phải sẵn sàng tham chiến khi chiến tranh nổ ra thì lại có mặt tại các ngư trường ở Newfoundland, hay ở Scotland, nên nhân lực phía Pháp bị sút giảm. Vì lẽ đó mà chỉ một phần hạm đội Pháp gồm có 470 tàu, chỉ huy bởi Đô đốc Bouet-Villaumez xuất phát ngày 22 tháng 7 năm 1870. Chưa được bao lâu thì hạm đội Pháp bị thiếu than đốt trầm trọng, khiến Đô đốc Bouet-Villaumez hết sức lo lắng. Hải quân Pháp phong tỏa Wilhelmshafen nhưng không thành công, cộng với những mệnh lệnh rối rắm chỉ thị tiến về biển Baltic rồi lại hạ lệnh quay trở về Pháp khiến cho hoạt động của hải quân Pháp mất hiệu quả[31].

Để giảm sức ép của quân Đức mà người Pháp dự kiến sẽ đánh vào vùng Alsace-Lorraine, Napoléon III và bộ Tổng chỉ huy Pháp vạch kế hoạch mở cuộc đổ bộ đường biển đánh vào miền bắc Đức khi chiến tranh nổ ra. Họ hy vọng rằng cuộc đổ bộ sẽ không chỉ khiến người Đức phải rút bớt quân từ mặt trận về, mà còn sẽ kích thích quân Đan Mạch đông tới 50.000 người cộng với hạm đội đáng kể của họ tham chiến. Tuy nhiên người ta phát hiện ra là Phổ đã cho thiết lập một hệ thống phòng ngự bờ biển đáng gờm dọc theo các cảng biển chính miền Bắc Đức với các trận địa đại pháo Krupp có khả năng nã đạn vào chiến thuyền Pháp từ khoảng cách 4.000 thước. Hải quân Pháp không có loại trọng pháo hạng nặng có thể đương đầu với hệ thống pháo phòng thủ bờ biển của Phổ, trong khi địa hình bờ biển Phổ khiến việc đổ bộ là bất khả thi[32].

Hải quân Pháp và thủy quân lục chiến vốn được giao nhiệm vụ đổ bộ đánh vào miền bắc Đức, nay được thuyên chuyển tăng cường cho Quân đoàn Châlons, để rồi bị bắt sống trong trận Sedan cùng với Hoàng đế Napoléon III. Pháp thiếu nghiêm trọng sỹ quan, do phần lớn quân đội chính quy của Pháp bị bắt sống trong cuộc vây hãm pháo đài Metz và trận Sedan, nên buộc phải thuyên chuyển những sỹ quan hải quân từ chiến thuyền sang chỉ huy các đội quân gardes mobiles - vệ binh cơ động, hay các đơn vị quân dự bị[33].

Khi các trận bão mùa thu ở Biển Bắc làm hư hại các thuyền tuần tiễu còn lại của Pháp, cuộc phong tỏa trở nên ngày càng kém hiệu quả. Tới tháng 9 năm 1870, người ta phải bãi bỏ cuộc phong tỏa khi mùa đông tới, hạm đội Pháp rời về các cảng dọc theo eo biển Manche và ở lại đó cho tới khi kết thúc cuộc chiến[33].

Ngoài ra một số cuộc chạm trán lẻ tẻ giữa chiến thuyền Pháp và Đức cũng xảy tại các chiến trường khác, như cuộc phong tỏa bởi tàu Dupleix của Pháp với tàu của Hertha của Đức tại Nagasaki, Nhật bản[34], và cuộc đấu pháo giữa tàu Meteor của Đức với tàu Bouvet của Pháp bên ngoài cảng Havana, Cuba vào tháng 10 năm 1870[35].

[sửa] Quân Pháp bất ngờ tiến công

[sửa] Chuẩn bị tấn công

Ngày 28 tháng 7 năm 1870, Napoléon III rời Paris đi Metz và nắm quyền chỉ huy đạo quân mới được đặt tên là Đạo quân sông Rhine, với 202.448 quân và dự tính còn tăng thêm nữa khi cuộc động viên tiếp tục[36]. Thống chế MacMahon nắm quyền chỉ huy Quân đoàn 1 (gồm 4 sư đoàn bộ binh) gần Wissembourg, Thống chế François Canrobert mang Quân đoàn 6 (4 sư đoàn bộ binh) tới Châlons-sur-Marne ở miền bắc Pháp làm lực lượng dự bị và đề phòng một cuộc tấn công của Phổ qua hướng Bỉ.

Theo kế hoạc trước khi chiến tranh nổ ra của Thống chế Adolphe Niel, quân Pháp sẽ tấn công từ Thionville tới Trier và tiến vào vùng Rhineland của Phổ. Kế hoạch này bị bãi bỏ, thay bằng kế hoạch phòng ngự của tướng Charles Frossard và tướng Bartélemy Lebrun, theo đó Đạo quân sông Rhine sẽ phòng ngự gần biên giới với Đức và đẩy lùi các cuộc tấn công của Phổ. Vì họ tính rằng Áo, cùng với Bavaria, Württemberg và Baden sẽ tham chiến để trả thù Phổ, Quân đoàn 1 sẽ tiến chiếm vùng Palatinate thuộc Bavaria rồi từ đó sẽ phối hợp với quân Áo-Hung "giải phóng" các tiểu quốc Nam Đức. Quân đoàn 6 sẽ tăng viện một trong hai cánh quân này nếu cần thiết[37].

Không may cho kế hoạch của tướng Frossard, quân Phổ động viên quá nhanh. Quân Áo-Hung, vốn bị thua đau trong chiến tranh với Phổ, thận trọng theo dõi tình hình trước khi cam kết với Pháp là họ sẽ chỉ tham chiến nếu các tiểu quốc nam Đức ủng hộ Pháp. Khả năng này không xảy ra vì các tiểu quốc nam Đức đều ủng hộ Phổ và động viên quân đội tham chiến chống lại Pháp[38].

[sửa] Chiếm đóng Saarbrücken

Napoléon III do sức ép từ trong nước phải chọn tấn công trước khi tướng Moltke có thể tổng động viên và triển khai lực lượng. Trinh sát của tướng Frossard phát hiện chỉ có duy nhất sư đoàn bộ binh số 16 Phổ trấn giữ thị trấn biên giới Saarbrücken, đối diện với toàn bộ Đạo quân sông Rhine. Tiếp đó, ngày 31 tháng 7, quân Pháp tiến về phía sông Saar để chiếm Saarbrücken.[39]

Quân đoàn 2 của tướng Frossard và Quân đoàn 3 của Thống chế Bazaine vượt biên giới Đức ngày 2 tháng 8, bắt đầu đẩy lui lực lượng thuộc trung đoàn 40 của sư đoàn 16 bộ binh khỏi thị trấn Saarbrücken sau một loạt cuộc giáp chiến. Súng trường Chassepot của Pháp tỏ rõ tính ưu việt so với súng trường Dreyse của quân Phổ, khi tầm bắn quân Pháp thường vượt quá tầm bắn quân Phổ trong các cuộc chạm trán quanh Saarbrücken. Tuy nhiên, quân Phổ chống cự ngoan cường, và quân Pháp phải chịu 86 thương vong so với 83 thương vong về phía quân Phổ. Saarbrücken cũng là một trở ngại về mặt hậu cần, vì chỉ có một tuyến đường sắt duy nhất nối liền thị trấn với vùng nội địa Đức, đồng thời hệ thống sông ngòi ở vùng này lại chạy song song với biên giới, thay vì hướng về phía nội địa[40]. Trong khi quân Pháp hoan nghênh chiến thắng này như là bước đầu của sự chinh phục vùng Rhineland và tiếp theo là Berlin, thì tướng Le Bœuf và Napoléon III lại nhận được những báo cáo nguy cấp từ báo chí nước ngoài về việc quân Phổ và Bavaria đã hội quân ở phía đông nam, cùng với các lực lượng ở hướng bắc và đông bắc[41].

Moltke trên thực tế đã hội 3 cánh quân - Đệ nhất đại quân (hay Binh đoàn) Phổ với 50.000 quân, chỉ huy bởi tướng Karl von Steinmetz đối diện Saarlouis, Đệ nhị đại quân Phổ với 134.000 quân chỉ huy bởi Hoàng thân Phổ Friedrich Karl đối diện với tuyến Forbach-Spicheren, và Đệ tam Đại quân Phổ với 120.000 quân chỉ huy bởi Thái tử Friedrich Wilhelm, sẵn sàng vượt biên giới tại Wissembourg[42].

[sửa] Quân Phổ tiến công

[sửa] Trận Wissembourg

Khi biết được Đệ nhị đại quân Phổ chỉ còn cách Saarbrücken 30 dặm Anh (48,28032 km), gần thị trấn Wissembourg, Tướng Le Bœuf và Napoleon III quyết định rút lui về những vị trí dễ phòng thủ hơn. Tướng Frossard, dù chưa nhận được mệnh lệnh, đã vội vã rút các đơn vị của Đạo quân sông Rhine từ Saarbrücken về Spicheren và Forbach.[43]

Thống chế MacMahon, cho tới lúc này ở gần Wissembourg nhất, dàn bốn sư đoàn của mình trên một diện rộng 20 dặm để đề phòng một cuộc tấn công của quân Phổ. Việc bố trí binh lực này xuất phát từ việc hậu cần cho quân đội không được bảo đảm, khiến cho các sư đoàn phải tự lo kiếm lấy lương thực cho mình. Tình hình đã xấu còn bị làm cho trở nên tồi tệ hơn bởi tướng Auguste-Alexandre Ducrot, chỉ huy sư đoàn 1 của Thống chế MacMahon. Ông ta thông báo với tướng Abel Douay, chỉ huy sư đoàn 2 ngày 1 tháng 8 rằng "Thông tin mà tôi nhận được cho thấy không có những lực lượng đáng kể địch quân ở các vị trí tiền phương, và quân địch không có ý định chuyển sang tấn công".[44] Hai ngày sau, ông ta cho MacMahon biết là ông ta không phát hiện ra "dù chỉ 1 vị trí địch quân[...], theo tôi thì mối đe dọa từ quân Bavaria chỉ là trò bịp bợm". Dù tướng Ducrot coi nhẹ khả năng quân Đức tấn công, nhưng Thống chế MacMahon vẫn tìm cách cảnh báo các sư đoàn dưới quyền, nhưng không có kết quả.

Trận giao chiến đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp Phổ nổ ra ngày 4 tháng 8 năm 1870. Cuộc giao chiến này nhỏ, nhưng đẫm máu, với sư đoàn đơn lẻ của Tướng Douay, thuộc Quân đoàn 1, cùng với các toán quân kỵ binh phối thuộc, với nhiệm vụ chính là canh gác biên giới, bị Đại quân 3 của Đức tấn công ào ạt, dù các đơn vị Đức phối hợp kém. Trời về chiều, các đơn vị của 1 quân đoàn Bavaria và 2 quân đoàn Phổ cũng bị cuốn vào cuộc giao tranh, được pháo binh Phổ hỗ trợ khoét những chỗ hở vào hàng phòng ngự của thị trấn. Douay thoạt đầu phòng ngự khá chắc chắn, vì có lợi thế súng trường Chassepot với tầm bắn xa và rất chính xác, nhưng lực lượng của ông ta quá mỏng và dàn trải rộng, nên khó phòng ngự được các vị trí của mình, bản thân tướng Douay cũng bị giết khi một xe đạn phát nổ. Dù ai lên nắm quyền chỉ huy thay ông ta đi chăng nữa, thì việc thị trấn bị quân Đức vây kín cũng đã đặt toàn bộ sư đoàn vào một tình thế hiểm nghèo. [45]

Cuộc giao tranh bên trong thị trấn trở nên hết sức dữ dội, giao tranh diễn ra trên từng căn nhà, từng góc phố. Dù bộ binh Phổ liên tục tấn công, binh lính sư đoàn 2 vẫn ngoan cường phòng ngự các vị trí của mình. Tuy nhiên dân chúng Wissembourg tỏ ra tuyệt vọng, đầu hàng quân Đức vì cho rằng tiếp tục kháng cự là vô ích, từ chối hỗ trợ cho binh lính Pháp tiếp tục kháng cự. Những binh lính Pháp không chịu đầu hàng rút lui về phía tây, bỏ lại chừng 1000 người bị bắt làm tù binh, cùng tất cả số đạn dược. [46] Quân Phổ đã sẵn sàng thừa thắng xông lên, trong khi người Pháp vẫn tiếp tục tỏ ra hết sức mù quáng về sức mạnh cỗ máy chiến tranh Phổ đang dần hiển hiện.

[sửa] Trận Spicheren

Trận Spicheren, diễn ra ngày 5 tháng 8, là trận thua thứ hai trong ba trận đại bại của quân Pháp. Tướng Moltke ban đầu định cầm chân đạo quân của Thống chế Bazaine bên bờ sông Saar cho tới khi ông ta có thể tấn công với Đệ nhị đại quân đánh đằng trước và Đệ nhất đại quân đánh tạt sườn trái, trong khi Đệ tam đại quân đánh vòng tập hậu. Viên tướng già nua Karl von Steinmetz vì ganh tỵ nên cứ cho tiến quân không theo kế hoạch, dẫn Đệ nhất đại quân về hướng nam từ vị trí đóng quân bên bờ sông Moselle. Ông ta tiến thẳng về hướng thị trấn Spicheren, và trong quá trình hành quân khiến cho Hoàng thân Frederick Charles bị cắt rời khỏi các đạo kỵ binh tiền phương của ông[47].

Về phía quân Pháp, việc lên kế hoạch sau trận thảm bại tại Wissembourg trở thành vấn đề sinh tử. Tướng Le Bœuf, giận dữ điên người, dự định mở cuộc tấn công theo hướng Saar để bù đắp lại thua thiệt. Tuy nhiên, việc lên kế hoạch cho trận giao tranh kế tiếp lại dựa chủ yếu vào tình hình thực tế đang diễn ra, hơn là vào cảm xúc bảo vệ danh dự bị thương tổn, như tướng Wolff nhắc nhở ông và bộ chỉ huy của mình là việc tiếp tế xa hơn vùng Saar là bất khả thi. Do đó, các cánh quân Pháp phải tiến hành chiếm lĩnh các vị trí phòng thủ đề phòng ngự mọi hướng tấn công có thể của địch, nhưng đồng thời việc này cũng làm cho quân Pháp không thể hỗ trợ cho nhau được[48].

Trong khi đạo quân Pháp dưới quyền tướng MacMahon nghênh chiến với Đệ tam đại quân Đức trong trận Worth, Đệ nhất đại quân Đức dưới quyền tướng Steinmetz hoàn tất cuộc hành quân về hướng tây từ Saarbrücken. Quân tuần tiễu của Đệ nhị đại quân Đức dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Phổ Friedrich Karl phát hiện các đám cháy nghi binh lân cận và đạo quân của tướng Frossard ở đằng xa, trên một bình nguyên phía nam thị trấn Spicheren, nên coi đó là dấu hiệu đạo quân của Frossard đang rút chạy. Lờ đi kế hoạch của tướng Moltke, cả hai đạo quân Đức tiến công Quân đoàn 2 của Pháp phòng ngự ở khoảng giữa Spicheren và Forbach[49].

Quân Pháp không biết rằng mình chiếm ưu thế về binh số khi trận đánh nổ ra, vì Đệ nhị đại quân Đức không đồng loạt tấn công. Tướng Frossard cho là cuộc tấn công của quân Đức chỉ là những cuộc đụng độ lẻ tẻ, nên không gọi viện binh từ các đạo quân khác. Cho tới khi ông nhận biết được các lực lượng đối địch thì đã quá muộn. Liên lạc giữa tướng Frossard và các sỹ quan chỉ huy quân dự bị dưới quyền Thống chế Bazaine chậm chạp đến mức tới khi các lực lượng dự bị nhận được lệnh tiến về Spicheren thì binh lính Đức thuộc Đệ nhất và Đệ nhị đại quân đã tấn công lên đến các cao điểm[50]. Vì quân dự bị chưa đến nơi, nên tướng Frossard nhầm lẫn một cách tai hại là quân mình đang đứng trước nguy cơ bị đánh tạt sườn, vì quân Đức của tướng von Glume xuất hiện ở Forbach. Thay vì tiếp tục phòng ngự cao điểm, khi trận đánh dịu đi lúc trời xẩm tối, ông ta cho quân rút về hướng nam. Quân Đức bị nhiều tổn thất vì súng trường chassepot hiện đại của Pháp, nên họ hết sức ngỡ ngàng sáng hôm sau khi phát hiện ra nỗ lực của họ không phải là vô ích - tướng Frossard đã rút chạy khỏi các vị trí phòng ngự trên bình nguyên[51].

[sửa] Trận Wœrth

Chỉ hai ngày sau (6 tháng 8 năm 1870), gần Wœrth tại thị trấn Frœschwiller, chưa đầy 16 km từ Wissembourg, hai đạo quân lại giao chiến một lần nữa. Quân Đức của Đệ tam đại quân được tăng thêm quân dự bị, tổng số lên đên 140.000 quân. Quân Pháp cũng nhận được viện binh, nhưng viện binh của họ đến rất chậm, nên tổng số quân Pháp chỉ có 35.000 quân. Mặc dù phải chống lại đối phương đông gấp bội, quân Pháp vẫn cầm cự ở ngay ngoại vi Frœschwiller. Tới trưa, cả hai phe tham chiến đều phải chịu 10.000 thương vong, quân Pháp do bị tổn thất nhiều quá nên không thể tiếp tục kháng cự. Nguy hơn nữa là quân Đức đã chiếm được thị trấn Frœschwiller tọa trên đỉnh đồi nằm ngay ở trung tâm phòng tuyến quân Pháp. Không còn hy vọng giành chiến thắng và đứng trước nguy cơ bị tàn sát bởi quân Đức, quân Pháp rút lui khỏi chiến trường về phía tây, hy vọng liên hợp được với các cánh quân Pháp khác ở phía bên kia dãy núi Vosges. Đệ tam đại quân Đức không truy kích quân Pháp mà dừng lại ở Alsace rồi chậm rãi di chuyển về phía nam, tấn công và tiêu diệt các đơn vị trú phòng Pháp ở các khu vực lân cận.

Trận Wœrth là trận chiến quan trọng đầu tiên của cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, với hơn 100.000 quân tham chiến. Đó cũng là trận giao tranh đầu tiên mà binh lính từ khắp các tiểu quốc Đức (Phổ, Baden, Bavaria, Saxon...) hợp đồng tác chiến. Vì việc này mà một số sử gia gọi chiến trường Wœrth là "cái nôi của nước Đức". Cái giá của chiến thắng không phải là nhỏ, quân Phổ mất 10.500 binh lính chết hoặc bị thương. Tình hình quân Pháp của tướng MacMahon còn bi đát hơn, họ mất 19.200 người chết hoặc bị thương và bị bắt làm tù binh[52].

[sửa] Trận Mars-La-Tour

Với thế tiến công quân Phổ như chẻ tre, 130.000 quân Pháp bị mắc kẹt lại tại pháo đài Metz sau khi bị thua trong vài trận chiến. Họ định rời Metz để bắt liên lạc với các lực lượng Pháp tại Châlons, nhưng bị kỵ binh trinh sát của đại tá Oskar von Blumenthal phát hiện. Bốn ngày sau khi quân Pháp bắt đầu rút lui, ngày 16 tháng 8, lực lượng Phổ có mặt tại vùng này, chỉ khoảng 30 ngàn quân của Quân đoàn 3 (Đệ nhị đại quân), dưới quyền tướng Konstantin von Alvensleben phát hiện ra quân Pháp gần Vionville, ở về hướng đông Mars-la-Tour.

Dù ít quân hơn quân Pháp đến 4 lần, quân đoàn 3 vẫn mở cuộc tấn công. Quân Pháp bị đánh tan, quân Phổ chiếm được Vionville, chặn đường rút về hướng tây của quân Pháp. Không còn đường rút, quân Pháp không còn cách nào khác ngoài việc tấn công, dẫn đến cuộc giao tranh lớn bằng kỵ binh cuối cùng ở Tây Âu. Giao tranh bùng nổ, quân đoàn 3 bị tổn thất nặng nề bởi hết đợt xung phong kỵ binh này đến đợt xung phong khác, mất hơn nửa quân số. Quân Pháp cũng mất bằng ngần ấy, khoảng 16 ngàn người, nhưng vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối về binh số so với quân Phổ.

Ngày 16 tháng 8, quân Pháp có cơ hội chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu trong hệ thống phòng ngự của Phổ để rút lui. Hai quân đoàn Phổ tấn công cánh quân tiền phương của Pháp vì tưởng rằng đó là cánh quân đoạn hậu của Đạo quân sông Meuse. Dù bị nhầm lẫn, nhưng hai quân đoàn Phổ vẫn cầm chân được toàn bộ quân Pháp trong suốt ngày hôm đó. Chống lại đối phương đông gấp 5 lần, nhưng với tinh thần hăng hái tuyệt vời, cộng với sự do dự tai hại từ phía quân Pháp, quân Phổ vẫn chiến thắng.

[sửa] Trận Gravelotte

Trận Gravelotte, hay còn gọi là trận Saint-Privat, là trận chiến lớn nhất trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ. Trận chiến diễn ra về phía tây Metz khoảng 10 km, thuộc tỉnh Lorraine, Pháp, nơi mà một ngày trước đó, sau khi chặn đường rút lui của quân Pháp theo hướng tây sau trận Mars-La-Tour, quân Phổ hội quân lại nhằm tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng Pháp.

Lực lượng liên hợp Đức, dưới sự chỉ huy của Thống chế, Bá tước Helmuth von Moltke, gồm Đệ nhất và đệ nhị đại quân Liên minh miền bắc Đức, bao gồm 210 tiểu đoàn bộ binh, 133 liên đội kỵ binh và 732 cỗ trọng pháo, tổng cộng 188.332 sỹ quan và binh lính. Đạo quân sông Rhine của Pháp, chỉ huy bởi Thống chế François-Achille Bazaine, gồm 183 tiểu đoàn bộ binh, 104 liên đội kỵ binh, hỗ trợ bởi 520 cỗ trọng pháo, tổng cộng 112.800 sỹ quan và binh lính, đào chiến lũy dọc theo một triền đất cao, với sườn trái là thị trấn Rozerieulles, và sườn phải là Saint-Privat.

Ngày 18 tháng 8, trận chiến bắt đầu từ lúc 8 giờ khi Moltke hạ lệnh cho Đệ nhất và đệ nhị đại quân tiến công các vị trí quân Pháp. Tới 12 giờ, Tướng Manstein cho pháo binh của sư đoàn 25 bộ binh Đức bắn vào quân Pháp ở làng Amanvillers. Tuy nhiên quân Pháp trong suốt đêm và rạng sáng ngày hôm đó đã đào chiến hào và hố cá nhân, đồng thời bố trí che chắn pháo binh và súng máy mitrailleuse. Khi biết hướng tấn công của quân Phổ, quân Pháp bắn ra như mưa vào các hàng dày đặc quân Phổ đang tấn công. Ban đầu, trận chiến nghiêng về phía quân Pháp vì súng trường Chassepot họ sử dụng lợi hại hơn súng trường của quân Phổ. Tuy nhiên, pháo binh Phổ với pháo đạn nạp hậu hiệu Krupp bằng thép của Phổ lại vượt trội hơn pháo của Pháp.

Tới 14 giờ 30, Tướng Steinmetz, chỉ huy Đệ nhất đại quân Phổ, đơn độc tung quân đoàn 8 của mình vượt qua khe hẻm Mance Ravine, nhưng quân Phổ ngay tức khắc bị cầm chân vì hỏa lực dữ dội từ các vị trí quân Pháp. Tới 15 giờ, các quân đoàn 7 và 8 tập hợp trọng pháo lại rồi nổ súng yểm trợ cho quân Phổ tấn công. Nhưng tới 16 giờ, cuộc tấn công dứng trước nguy cơ bị chặn đứng, tướng Steinmetz hạ lệnh cho quân đoàn 7 tiến công, theo sau bởi sư đoàn kỵ binh số một.

Tới 16 giờ 50, cuộc tấn công của quân Phổ ở hướng nam đứng trước nguy cơ đỗ vỡ, Lữ đoàn 3 bộ binh Cận vệ Phổ thuộc Đệ nhị Đại quân mở cuộc tấn công vào các vị trí quân Pháp tại Saint-Privat, do tướng Canrobert chỉ huy. Tới 17 giờ 15, Lữ đoàn 4 bộ binh Cận vệ Phổ cũng xung trận, theo sau là Lữ đoàn bộ binh Cận vệ số 1 lúc 17 giờ 45. Tất cả các cuộc công kích của quân Cận vệ Phổ đều bị hỏa lực khủng khiếp của quân Pháp từ chiến hào và công sự bắn lên cầm chân. Tới 18 giờ 15, Lữ đoàn bộ binh Cận vệ số 2 Phổ, đơn vị cuối cùng của Sư đoàn bộ binh số 1 Đức cũng được ném vào Saint-Privat, trong khi tướng Steinmetz huy động những lực lượng dự bị cuối cùng của Đệ nhất Đại quân vượt qua hẻm Mance Ravine. Tới 18 giờ 30, một bộ phận đáng kể Quân đoàn 7 và 8 rời trận địa và rút lui về các vị trí đóng quân Phổ tại Rezonville.

Các cuộc tấn công của Đệ nhất đại quân bị đánh bại, Thái tử Friedrich Karl von Preußen hạ lệnh dồn pháo bắn vào các vị trí quân Pháp của tướng Canrobert tại Saint-Privat để hỗ trợ cho cuộc tấn công của lính Cận vệ Phổ. Tới 19 giờ, sư đoàn 3 Phổ thuộc Quân đoàn 2, Đệ nhị Đại quân của tướng Fransecky vượt qua được hẻm núi, trong khi Quân đoàn 12 quét sạch quân Pháp khỏi thị trấn Roncourt lân cận, rồi cùng những binh lính sống sót của Sư đoàn 1 bộ binh Cận vệ mở cuộc tấn công mới vào những đống đổ nát ở Saint-Privat. 20 giờ, Sư đoàn 4 bộ binh Phổ thuộc Quân đoàn 2 tiến vào trận địa, đồng thời quân Phổ cũng thiết lập được cánh trái tại hẻm núi Mance Ravine, mặt trận trở nên cân bằng. Cho tới lúc đó, quân Phổ thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 cùng Quân đoàn 12 và 2 chiếm được Saint-Privat, buộc các lực lượng Pháp bị hao tổn nặng nề phải rút lui. Với việc quân Phổ kiệt sức sau cuộc giao chiến, thời cơ đến cho quân Pháp mở cuộc phản công, tuy nhiên tướng Bourbaki không chịu tung các lực lượng dự bị Cựu Cận vệ Pháp xung trận, vì ông ta đánh giá tình hình là thất trận.

Từ 22 giờ, tiếng súng yên dần trên toàn trận địa cho tới hết đêm. Sáng hôm sau, Đạo quân sông Rhine của Pháp, thay vì tiếp tục trận đánh và mở cuộc phản kích vào các cánh quân Phổ kiệt sức sau trận giao chiến, lại rút lui về Metz và bị bao vây, cho tới khi họ buộc phải hạ vũ khí đầu hàng hai tháng sau.

Tổn thất sau trận đánh hết sức khủng khiếp, đặc biệt là với các đội quân Phổ tham gia tấn công. Tổng cộng 20.163 quân Đức bị giết, bị thương hoặc mất tích trong riêng trận chiến diễn ra ngày 18 tháng 8. Quân Pháp mất 7.855 người bị giết, bị thương cùng 4.420 quân bị bắt làm tù binh - trong số đó một nửa bị thương - tổng cộng là 12.275 người. Trong khi phần lớn thương vong của quân Phổ gây ra bởi súng trường Chassepot của quân Pháp, phần lớn thương vong của quân Pháp là do đạn pháo Krupp. Chi tiết thiệt hại có thể kể đến: Quân đoàn 2 của tướng Frossard thuộc Đạo quân sông Rhine bị thương vong 621 người, nhưng giáng vào quân Phổ thuộc quyền tướng Steinmetz của Đệ nhất Đại quân 4.300 thương vong tại Pointe du Jour. Các sư đoàn bộ binh Cận vệ Phổ còn tổn thất nặng hơn nữa, mất 8.000 người trong tổng số 18.000 binh lính. Lực lượng Cận vệ đặc biệt Jäger mất 19 sỹ quan, một bác sỹ quân y và 431 binh lính trong tổng số 700 người. Lữ đoàn 2 bộ binh Cận vệ mất 39 sỹ quan và 1.076 binh lính. Lữ đoàn 3 bộ binh Cận vệ mất 36 sỹ quan và 1.060 binh lính. Về phía quân Pháp, các đơn vị phòng ngự Saint-Privat mất hơn nửa quân số.

[sửa] Trận vây hãm pháo đài Metz

Sau khi Đạo quân sông Rhine Thống chế Bazaine bị đánh bại tại Gravelotte, quân Pháp phải rút về Metz và bị hơn 150.000 quân Phổ thuộc Quân đoàn một và Quân đoàn hai vây hãm. Metz là một pháo đài kiên cố bậc nhất của Pháp lúc bấy giờ, được bảo vệ bởi 7 pháo lũy bao quanh, cách trung tâm thành phố khoảng 2, 3 km để giúp cho thành phố khỏi bị pháo uy hiếp. Trong thành phố có dự trữ một lượng khả dĩ lương thực có thể dùng trong nhiều tháng. Quân Pháp vài lần định tổ chức phá vây, nhưng đều bị quân Phổ đánh lui. Thống chế Bazaine dù trước đó có tiếng là thống chế trẻ tuổi và tài ba bậc nhất nước Pháp lúc bấy giờ cũng bị vướng chân bởi nạn quan liêu trong bộ máy hành chính, nên quân Pháp hoạt động rất chậm chạp và thiếu hiệu quả, thêm vào đó, bộ tham mưu và những phụ tá của ông lại mâu thuẫn với nhau.

Thống chế Bazaine dự định cố thủ tại Metz, chờ quân Đức tấn công vào các vị trí kiên cố, được bố phòng cẩn thận của mình, để cầm chân gần 200.000 quân Đức. Tuy nhiên sức ép công luận tại Paris buộc Napoléon III phải đưa các lực lượng dự bị cuối cùng của Pháp là Đạo quân Châlons đánh giải vây cho Metz. Kết quả hết sức tai hại, Đạo quân Châlons bị đánh bại và phải hạ vũ khí đầu hàng tại Sedan, tình hình Metz trở nên tuyệt vọng vì Pháp không còn lực lượng dự bị nào để ứng cứu cho Metz. Tệ hơn là do sự quan liêu của quan chức Pháp mà hậu cần cho quân Pháp hóa ra hết sức bất cập. Lương thực tuy đủ dùng nhưng không hợp với binh lính Pháp, nên đến cuối cuộc vây hãm, rất nhiều binh lính Pháp bị ốm, bị bệnh. Pháo đài Metz tuy kiên cố nhưng vốn được thiết kế cho một lực lượng đồn trú nhỏ, nay phải căng ra để chứa một đạo quân rất lớn, cộng với 60.000 dân bản địa và một số dân chúng quanh vùng chạy nạn, nên những vật tư thiết yếu bị thiếu nghiêm trọng. Quân Phổ do nắm được tình hình quân Pháp nên không tổ chức tấn công vào pháo đài để tránh thiệt hại, mà vây hãm quân Pháp cho tới khi quân Pháp hoàn toàn kiệt quệ. Tới ngày 27 tháng 10, 180 ngàn quân Pháp buộc phải hạ vũ khí đầu hàng.

Với Metz thất thủ, các lực lượng còn sót lại duy nhất của Pháp đầu hàng, Pháp không còn quân đội chính quy, đồng thời các lực lượng Phổ bao vây Metz cũng được giải phóng để tham gia các mặt trận khác, kết cục chiến tranh đã được định đoạt. Thống chế Bazaine bị xử án vắng mặt và bị buộc tội phản quốc, kết án tử hình, nhưng về sau Thống chế Mac-Mahon, lúc bấy giờ là Tổng thống Pháp giảm án thành đi đày biệt xứ 20 năm. Sau này có ý kiến cho rằng Thống chế Bazaine cũng chỉ là một nạn nhân, vì ông đã làm hết những gì có thể, và ông chẳng qua là vật tế thần để trút nỗi hận thua trận của người Pháp. Sau một thời gian đi đày, ông trốn thoát khỏi nơi giam cầm và đi tỵ nạn chính trị.

[sửa] Trận Sedan

Napoléon III, cùng Thống chế Mac-Mahon, thành lập Đạo quân Châlons tiến về Metz để giải nguy cho Thống chế Bazaine. Napoléon III đích thân chỉ huy quân đoàn với Thống chế Mac-Mahon, hành binh theo cánh trái theo hướng biên giới Bỉ để tránh đụng độ với các lực lượng Phổ trước khi quặt về hướng nam để hội quân với Bazaine.

Quân Phổ, dưới quyền chỉ huy của Thống chế, bá tước Helmuth von Moltke, tận dụng sự yếu kém của cuộc hành binh này để kẹp quân Pháp trong một gọng kìm. Để lại Đệ nhất và đệ nhị đại quân Phổ tiếp tục vây hãm Metz, Moltke thành lập Đạo quân sông Meuse dưới sự chỉ huy của Thái tử Saxony bằng cách tách ra 3 quân đoàn từ các cánh quân này, rồi đưa đạo quân này cùng Đệ tam đại quân Phổ tiến lên hướng bắc cho tới khi bắt kịp quân Pháp tại Beaumont ngày 30 tháng 8. Sau một trận kịch chiến, quân Pháp mất 5.000 người và 40 khẩu pháo, phải rút về Sedan. Sau khi vừa tập hợp lại lực lượng, Đạo quân Châlons đã ngay lập tức bị các đạo quân Phổ hợp vây. Napoléon III hạ lệnh nhanh chóng phá vây. Do Thống chế Mac-Mahon bị thương một ngày trước đó, tướng Auguste-Alexandre Ducrot nắm quyền chỉ huy quân Pháp.

Ngày 1 tháng 9 năm 1870, trận chiến mở màn khi Đạo quân Châlons, với 202 tiểu đoàn bộ binh, 80 khối kỵ binh và 564 pháo, tấn công Đệ tam đại quân Phổ và Đạo quân sông Meuse với tổng cộng 222 tiểu đoàn bộ binh, 186 khối kỵ binh và 774 pháo. Tướng De Wimpffen, chỉ huy Quân đoàn 5 dự bị, hy vọng mở cuộc tấn công kết hợp bộ binh và kỵ binh vào Quân đoàn 11 Phổ, nhưng tới 11 giờ, pháo binh Phổ gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp trong khi ngày càng nhiều quân Phổ tiến về chiến trường. Kỵ binh Pháp, chỉ huy bởi tướng Marguerite, xung phong ba lần vào làng Floing gần đó, nơi Quân đoàn 11 Phổ tập trung. Tướng Marguerite bị giết ngay từ cuộc xung phong đầu tiên khi đang chỉ huy kỵ binh, và hai cuộc xung phong kế tiếp cũng bị đẩy lui với tổn thất rất nặng nề.

Tới cuối ngày, khi hy vọng phá vây không còn, Napoléon III hủy bỏ lệnh tấn công. Quân Pháp mất hơn 17.000 người chết và bị thương, với 21.000 người bị bắt sống. Quân Phổ mất 2.320 người bị giết, 5.980 bị thương và 700 người bị bắt hoặc mất tích.

Ngày hôm sau, ngày 2 tháng 9, Napoléon III đầu hàng và bị bắt làm tù binh cùng 104.000 binh lính Pháp. Đó là một chiến thắng toàn diện với quân Phổ, vì họ không những bắt làm tù binh hoàn toàn quân đội Pháp, mà cả thủ lĩnh của người Pháp. Thắng trận Sedan là người Phổ đã thắng trong cuộc chiến tranh. Với đạo quân Pháp bị cầm chân và vây hãm trong thành phố Metz, người Pháp không còn lực lượng nào có thể cản nổi sức tấn công của quân Phổ, tuy vậy cuộc chiến sẽ vẫn còn tiếp diễn trong 5 tháng nữa.

[sửa] Chính phủ Vệ quốc Pháp

Khi tin tức truyền về Paris rằng Hoàng đế Napoléon III đã bị bắt sống, Đệ nhị đế chế Pháp nhanh chóng bị lật đổ trong một cuộc đảo chính không đổ máu, lãnh đạo bởi Tướng Louis Jules Trochu, và các Nghị sỹ như Jules Favre và Léon Gambetta tại Paris ngày 4 tháng 9. Họ phế bỏ vương triều Bonaparte và thiết lập nền cộng hòa lãnh đạo bởi Chính phủ Vệ quốc, tiến tới việc hình thành nền Đệ tam cộng hòa. Napoléon III bị đưa về Đức, rồi sau đó được trả tự do. Ông đến Anh sống lưu vong và chết năm 1873.

Sau chiến thắng của quân Đức tại Sedan, đại bộ phận quân thường trực của Pháp bị loại khỏi vòng chiến, một đạo quân bị cầm chân và bị vây hãm tại Metz, đạo quân chỉ huy bởi Hoàng đế Napoléon III thì đầu hàng. Tình hình đó khiến người Đức hy vọng một cuộc ngưng bắn sẽ nhanh chóng được thông qua để chấm dứt chiến tranh. Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đặc biệt kỳ vọng vào cuộc ngưng bắn, vì ông muốn chấm dứt chiến tranh càng nhanh càng tốt. Với một quốc gia bị bao quanh bởi quá nhiều nước láng giềng, một cuộc chiến dai dẳng mang lại nguy cơ can thiệp từ phía một cường quốc khác, và von Bismarck quyết tâm không đánh liều.

Thoạt đầu, triển vọng cho hòa bình khá sáng sủa. Người Đức tính rằng chính phủ mới của Pháp không muốn tiếp tục cuộc chiến tranh gây ra bởi vương triều mà họ vừa lật đổ. Để dọn đường đàm phán hòa bình, Thủ tướng Phổ von Bismarck mời tân chính phủ Pháp đến dự đàm phán tại Ferrières và đưa ra những yêu sách vừa phải, bao gồm yêu cầu một số vùng lãnh thổ nhỏ tại tỉnh Alsace. Những đòi hỏi về lãnh thổ khác về biên giới Pháp dọc theo sông Rhine tại vùng Palatinate đã được Adolphe Thiers đưa ra từ năm 1840, trong khi người Đức thề chiến đấu bảo vệ cả hai bờ sông Rhine (là nguồn gốc bài Die Wacht am Rhein, Deutschlandlied, tạm dịch Hành khúc sông Rhine và Nước đại Đức). Cũng vì nước Phổ (đạo Tin lành) vừa giành được một vùng lãnh thổ lớn có cư dân là người Công giáo La Mã, nên Bismark không muốn tiếp tục chiếm thêm những lãnh thổ theo Công giáo mới.

[sửa] Lệnh ngưng bắn đổ vỡ và giao chiến tiếp diễn

Trong khi chính phủ cộng hòa có vẻ cam chịu trả chiến phí hoặc nhượng lại các vùng lãnh thổ thuộc địa ở châu Phi hoặc Đông Nam Á cho Phổ, thì Jules Favre nhân danh Chính phủ Vệ quốc tuyên bố ngày 6 tháng 9 là nước Pháp sẽ không "nhượng một viên đá, một tấc đất lãnh thổ"[53]. Cộng hòa Pháp sau đó tiếp tục chiến tranh, kêu gọi động viên từ khắp các miền lãnh thổ, thề đuổi quân thù khỏi nước Pháp.

Trước tình hình đó, người Đức buộc phải tiếp tục chiến tranh, dù không có bất kỳ lực lượng quân sự nào ở các vùng lân cận để đương đầu với họ. Vì phần lớn các lực lượng Pháp đang đào hào đắp lũy gần Paris, các chỉ huy Đức quyết định tăng sức ép lên đối phương bằng cách tấn công Paris. Tới tháng 10, quân Đức đã tiến tới ngoại vi Paris, lúc này đã được phòng ngự cẩn mật. Quân Đức bao vây thành phố và thiết lập chướng ngại vật xung quanh, như đã làm với Metz.

Khi chiến tranh nổ ra, đại bộ phận dư luận châu Âu ủng hộ người Đức. Ví dụ như rất nhiều người Ý định đăng ký tình nguyện chiến đấu cho Đức tại sứ quán Phổ ở Florence, và một nhà ngoại giao Phổ tới gặp mặt Giuseppe Garibaldi ở Caprera. Tuy nhiên đòi hỏi của Bismarck về vùng Alsace làm dư luận Ý thay đổi đột ngột, mà ví dụ cụ thể nhất là phản ứng của Garibaldi ngay sau khi cuộc cách mạng nổ ra ở Paris: ông nói với tờ Movimento tại Genoa ngày 7 tháng 9 năm 1870 là "Hôm trước tôi tuyên bố: đánh lại Bonaparte tới hơi thở cuối cùng. Hôm nay tôi nói: bằng mọi cách phải cứu nguy cho nền Cộng hòa Pháp"[54]. Tiếp đó, Garibaldi đến Pháp và nắm quyền chỉ huy Đạo quân Vosges, một đạo quân bao gồm quân tình nguyện, và đạo quân này chưa bao giờ nếm mùi thất trận bởi quân Đức.

[sửa] Cuộc vây hãm Paris

Cuộc vây hãm Paris (19 tháng 9 năm 1870 - 28 tháng 1 năm 1871) dẫn tới thất bại cuối cùng của Quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ. Ngày 18 tháng 1, Đế chế Đức được tuyên bố thành lập tại điện Versailles.

Đối đầu với cuộc phong tỏa Paris của quân Đức, tân chính phủ Pháp hạ lệnh thành lập mấy đạo quân lớn tại các tỉnh của Pháp. Các đoàn quân này sau đó sẽ tiến về Paris và tấn công quân Đức đồng loạt từ nhiều hướng. Thêm vào đó, dân chúng Pháp cũng vũ trang và thành lập các đội du kích, gọi là - Francs-tireurs - để tấn công đường tiếp tế của quân Đức.

Những biến chuyển đó khiến cho công luận Đức lên tiếng đòi pháo kích Paris. Tướng Leonhard Graf von Blumenthal, người chỉ huy cuộc vây hãm, không đồng ý cho pháo kích vì lý do nhân đạo. Ông nhận được sự ủng hộ từ một số chỉ huy cao cấp khác như Thái tử Phổ và tướng Moltke. Những vị này đều có vợ là người Anh, nên họ bị coi là chịu sự chi phối của tư tưởng tự do Anh.

[sửa] Ngưng chiến

Ngày 28 tháng 1 năm 1871, Chính phủ Vệ quốc tại Paris đàm phán ngưng bắn với Phổ. Với tình hình lương thực cạn kiệt tại Paris, và các đạo quân địa phương của Gambetta thua hết trận này đến trận khác, bộ trưởng ngoại giao Jules Favre đến Versailles ngày 24 tháng 1 để đàm phán hòa bình với Bismarck.

Bismarck đồng ý chấm dứt cuộc phong tỏa và cho phép các đoàn xe chở lương thực tiến vào Paris ngay tức khắc (bao gồm cả các chuyến xe chở hàng triệu khẩu phần quân đội Phổ), với điều kiện là Chính phủ Vệ quốc giao nộp các pháo đài trọng yếu ở ngoại vi Paris cho quân Phổ. Không có các pháo đài này, Quân đội Pháp không thể tiếp tục phòng giữ Paris. Mặc dù dư luận Paris chống lại mạnh mẽ bất kỳ một sự đầu hàng hay thỏa hiệp nào với quân Phổ, Chính phủ Pháp nhận thấy là họ không thể tiếp tục cầm cự lâu hơn nữa, và các đạo quân địa phương của Gambetta có lẽ sẽ không bao giờ có thể phá vây được cho Paris. Tổng thống Jules Trochu từ chức ngày 25 tháng 1 và được thay thế bởi Jules Favre, người ký kết biên bản đầu hàng hai ngày sau tại Versailles, với lệnh ngưng bắn đi vào hiệu lực nửa đêm hôm đó. Một số nguồn kể lại trên chuyến xe chở ông về Paris, Favre òa lên khóc và đổ vào vòng tay con gái mình khi tiến súng quanh Paris trở nên câm lặng vào lúc nửa đêm.

Tại Tours, Gambetta nhận được tin từ Paris ngày 30 tháng 1 rằng Chính phủ đã đầu hàng. Giận điên lên, ông từ chối đầu hàng và hạ lệnh ngay tức khắc tấn công vào các đơn vị quân Phổ tại Orléans, và dễ đoán được là cuộc tấn công thất bại. Một phái đoàn ngoại giao từ Paris đến Tours bằng tàu hỏa ngày 5 tháng 2 để đàm phán với Gambetta, rồi đến ngày hôm sau Gambetta từ bỏ chức vụ và quyền chỉ huy các đạo quân địa phương cho Chính phủ Vệ quốc, để rồi Chính phủ nhanh chóng ban bố lệnh ngưng bắn trên toàn nước Pháp.

Hiệp định Frankfurt được ký ngày 10 tháng 5, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh Pháp-Phổ.

[sửa] Kết quả cuộc chiến

[sửa] Phản ứng của Phổ và cuộc rút quân

Quân đội Phổ cử hành một cuộc diễu binh mừng thắng lợi ngắn gọn tại Paris ngày 17 tháng 2, đồng thời Bismarck tuân thủ cuộc ngưng bắn bằng cách cho đưa nhiều toa xe chở thực phẩm vào cứu trợ Paris, cũng như rút quân Phổ về phía đông thành phố, chuẩn bị rút quân ngay khi Pháp chấp thuận trả 5 tỷ quan Pháp tiền chiến phí[55]. Cùng thời gian, các lực lượng Phổ rút khỏi Pháp và tập kết tại các tỉnh Alsace và Lorraine. Ở thủ đô diễn ra một cuộc tản cư lớn với chừng 200.000 người, phần lớn thuộc tầng lớp trung lưu, về miền thôn quê. Paris được Vương quốc Anh nhanh chóng cung ứng lương thực và nhiên liệu miễn phí, nên theo một số tài liệu thì cuộc sống trong thành phố dần trở lại bình thường.

[sửa] Phản ứng của Pháp với sự thất trận

Cuộc bầu cử toàn quốc diễn ra với kết quả là một chính phủ với đại bộ phận thành viên là những người bảo thủ được bầu ra, Tổng thống là Adolphe Thiers, trụ sở đặt tại Versailles, vì người ta e ngại là không khí chính trị tại Paris đang trở nên quá nguy hiểm cho việc đặt chính phủ tại thủ đô. Chính phủ mới này, với đại bộ phận thành viên thuộc thành phần bảo thủ và phú nông, thông qua một số loạt đạo luật làm dân chúng Paris hết sức tức giận, như Luật thanh toán, theo đó buộc tất cả các khoản tiền thuê nhà, vốn đã được hoãn lại từ tháng 9 năm 1870, và tất cả các khoản nợ nhà nước, vốn đã được cho hoãn nợ từ tháng 10 năm, phải trả đủ, cộng với lãi vay trong vòng 48 giờ đồng hồ. Paris vốn đã phải gánh vác một phần lớn khoản tiền chiến phí phải trả cho Phổ, nên dân chúng Paris hết sức phẫn nộ với chính phủ Versailles. Do Paris được quân đội cách mạng Vệ binh Quốc gia bảo vệ, và có rất ít binh lính chính phủ đóng tại Paris, nên các thủ lĩnh cánh tả đã có thể chiếm Tòa thị chính làm đại bản doanh và thiết lập Công xã Paris, dẫn đến cuộc đàn áp Công xã đẫm máu khiến cho 20.000 người thiệt mạng.

Trong những năm 1890, vụ án Dreyfus diễn ra trong hoàn cảnh hậu chiến, nhiều bản báo cáo mật gửi cho Đức bị người ta phát hiện ra trong một thùng rác tại sở mật vụ Pháp, khiến cho viên sỹ quan Alfred Dreyfus, sinh quán Alsace bị buộc tội phản quốc một cách oan uổng.

Theo Hiệp ước Frankfurt, ngoài việc thành phố Strasbourg và pháo đài Metz bị cắt cho Đức, Đức còn được sở hữu tỉnh Alsace và phần phía bắc tỉnh Lorraine (Moselle), cả hai vùng đất này (đặc biệt là Alsace) có đa phần dân cư là người Đức. Sự mất mát lãnh thổ này là nguồn gốc của sự thù hận trong nhiều năm tiếp tới, góp phần khiến dân Pháp ủng hộ việc tham chiến trong Thế chiến thứ nhất để giành lại Alsace-Lorraine. Sự bại trận cũng làm nảy sinh tư tưởng báo thù, khiến cho quan hệ Đức-Pháp luôn ở trạng thái căng thẳng, là một trong những nguyên nhân dẫn đến Thế chiến thứ nhất.

[sửa] Nước Đức thống nhất và trở thành cường quốc châu Âu

Sự hình thành Đế quốc Đức thống nhất phá vỡ cán cân quyền lực tại Châu Âu được thiết lập sau Đại hội Wien sau cuộc Chiến tranh Napoléon. Các quốc gia trước kia không có Bộ Chỉ huy hoặc chế độ quân dịch nhanh chóng dập khuôn, cùng với triển khai công tác hậu cần, tàu hỏa dùng cho mục đích quân sự, cũng như hệ thống điện tín, được chiến thắng của Đức minh chứng là không thể thiếu được. Nước Đức nhanh chóng giành cho mình vị trí cường quốc Châu Âu, với quân đội nhà nghề mạnh nhất thế giới. Mặc dù Vương quốc Anh vẫn là cường quốc số một thế giới, nhưng Anh quốc rất ít can thiệp vào nội tình Châu Âu trong khoảng cuối thế kỷ 19, tạo điều kiện cho Đức vươn tầm ảnh hưởng lên toàn lục địa Âu châu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro