chieu toi (hades)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trước tiên phải khẳng định đây là 1 bài thơ viết theo lối Đường thi, sử dụng những bút pháp của thơ cổ, vậy tinh thần thời đại sẽ ở đâu?

- "cánh chim", "chòm mây" -> "lấy động tả tĩnh, lấy điểm vẽ diện" -> 1 bút pháp của Đường thi.

+ Sự xuất hiện của hình ảnh thiên nhiên ngay từ đầu bài thơ gợi dáng dấp cổ điển trong thơ xưa.

+ Dẫn chứng: cánh chim, chòm mây xuất hiện trong thơ Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Lý Bạch, Thôi Hiệu...

+Ta bỗng nhận ra 1 nét chung trong tâm hồn, cốt cách các bậc "tiền phong đạo cốt" xưa và Bác: ung dung, thanh cao như muốn vượt lên cuộc sống tầm thường.

+Tuy nhiên vẫn mang tinh thần thời đại: Nếu như cánh chim trong thơ thi sĩ thời xưa gợi về xa xăm, phiêu bạt, bay vào vô tận rồi mất hút; thì trong thơ Bác cánh chim ấy lại tìm về cánh rừng để ngủ sau 1 ngày mệt mỏi, tìm về với nhịp sống vẫn tuần hoàn. Trong câu thơ thoáng buồn, nhưng ta đồng cảm với nỗi lòng của Bác... vaf càng nhận thấy Bác có 1 tinh thần thép (khác với cái tôi trữ tình tuyệt vọng trong thơ xưa nếu đặt tâm trạng Bác vào hoàn cảnh thực tế): dù đang bị lưu đày vẫn ung dung cảm nhận thiên nhiên -> điều này cũng phản ánh chất hiện đại trong thơ Người.

- Từ phông thiên nhiên trên kia, đột ngột 2 câu sau hiện ra 1 bức tranh sinh hoạt của con người:

"Sơn thôn...hồng"

+ Hình tượng trung tâm: người thiếu nữ trong LĐ mang nét đẹp tươi trẻ, khoẻ khắn, bình dị => điều này khác lạ với thơ xưa, vì thơ xưa thường lấy những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp cao sang, quý phái, mẫu mực mang tính ước lệ tượng trưng. Bác đã đưa hình ảnh người LĐ vào trong thơ. --> hiện đại.

+ Ko 1 chút hoa mĩ, cầu kì nhưng ko hạ thấp giá trị thơ => Hình ảnh người con gái toả sáng trong từng động tác xay ngô => con người trở thành chủ thể (trong khi thơ xưa con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng trước thiên nhiên). => hiện đại.

+ Bứt tranh thiên nhiên hiu quạnh phía trên đã chuyển mình thành bức tranh sự sống => Sự gắn bó với cuộc sống và những con người LĐ bình dị của Bác => hiện đại.

+ Bút pháp: láy âm, vắt dòng (mới lạ so với cổ thi) -> vòng quay của cối xay ngô -> câu thơ có sự vận động: "ma bao túc/ bao túc ma" -> sự vận động tự nó đã toát lên sự sống qua nhịp điệu xay ngô. -> giàu chất tạo hình.

+ Khi vừa xay xong -> thì lò than rực hồng -> ko 1 chữ tối viết ra trong câu thơ ta vẫn nhận ra trời đang tối, bởi trời tối thì ánh sáng của lò than mới rực sáng ánh lửa hồng => Bút pháp lấy sáng tả tối của thơ xưa (vd: ngõ tối đêm sâu đóm lập loè của Nguyễn khuyến trong "thu ẩm"). Tuy nhiên trong thơ xưa ánh sáng trong bóng tối thể hiện sự leo lét, yếu ớt; còn ở đây, trong thơ Bác, ánh sáng lại là hội tụ, kết tinh sự sống của toàn bài khi trời vừa chọt tối, ánh sáng trở thành điểm nhấn, điểm nổi bật giữa bóng tối. => hiện đại (điều này cũng thể hiện sự hoà quyện giữa bút pháp cổ điển và hiện đại). => Và đây cũng chính là "thi nhãn" của toàn bài thơ.

Câu thơ trên thể hiện sự vận động trong thơ Bác (trong khi thơ xưa chỉ ghi nhận sự tĩnh tại, những điều đã sẵn có, là kết quả cuối cùng của 1 quá trình vận động nay đã dừng lại) -> tính hiện đại. Sự vận động từ tối -> sáng, lạnh lẽo -> ấm áp, buồn -> vui.

Ánh sáng hồng ấy bừng lên hắt vào làm tôn lên vẻ đẹp khoẻ khoắn của cô gái lao động. Ánh sáng làm dậy lên niềm yêu đời, lạc quan dù trong hoàn cảnh khốc liệt => tinh thần thép.

==> Dù bài thơ được viết theo thể Đường thi, với bút pháp cổ điển, nhưng ta vẫn nhận thấy trong đó có sự hoà quyện với tinh thần hiện đại rất rõ nét và tinh tế.

 Nét cổ điển thấy rõ qua việc tác giả vẽ lên không gian buổi chiều với những thi liệu quen thuộc: cánh chim, chòm mây, bầu trời... bên cạnh đó là thể thơ thất ngôn đường luật cùng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã giúp cho thi nhân phát triển ý đồ nghệ thuật của mình. Nét hiện đại: tất cả được vẽ nên thơ qua tình cảm bao la của Bác. Ví dụ: cánh chim trong thơ cổ thường xuất hiện và bay hút vào vũ trụ, là cánh chim phiêu dạt, vô định trước bầu trời... thì trong thơ Bác cánh chim rất gần gũi với con người. Bác thấy được trong cánh chim chiều muộn bay về tìm chốn dừng chân là cánh chim "mỏi". Phải yêu thiên nhiên, cảnh vật và có mối đồng cảm bao la thì mới nhìn được cái dáng mỏi mệt của cánh chim kia... 

Bị trói, bị tù đày, bị giải đi " Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày". Nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than van. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh. 

Tháng 10 năm 1942, trên đường bị giải đi từ nhà tù Thiên Bảo đến nhà ngục Long Tuyền trên đất Quảng Tây, Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết bài thơ "Chiều tối" (Mộ). Đây là bài thơ số 31 trong "Ngục trung nhật kí", bài thất ngôn tứ tuyệt mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".

Bài thơ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ và thể hiện cảm xúc, nỗi niềm của người chiến sĩ trên con đường đi đày.

1. Bức tranh thiên nhiên xóm núi lúc chiều tối được miêu tả bằng hai nét rất gợi cảm. Một cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng tìm cây trú ẩn. Một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) lơ lửng giữa bầu trời. Cảnh đẹp và thoáng buồn (mệt mỏi, cô đơn), đối nhau rất hài hòa. Chỉ hai nét vẽ, tả ít mà gợi nhiều đã làm hiện lên cái hồn của cảnh vật. Cánh chim nhỏ nhoi nhẹ bay, áng mây cô đơn nhẹ trôi; tác giả đã vận dụng thi pháp cổ rất sáng tạo, đã lấy điểm để vẽ diện, lấy động để tả tĩnh, gợi lên một bầu trời mênh mông, bao la, một không gian vô cùng tĩnh lặng, vắng vẻ. Bức tranh thiên nhiên chiều tối mang vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không".

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không).

Ngoại cảnh đã thể hiện tâm cảnh của nhân vật trữ tình. Cánh chim và áng mây, chữ "quyện" (quyện điểu) và chữ "" (cô vân) có giá trị biểu hiện cảm xúc mệt mỏi, nỗi niềm cô đơn của nhà thơ sau một ngày dài bị giải đi nơi đất khách quê người. Bức tranh thiên nhiên "Chiều tối" mang tính ước lệ tượng trưng đặc sắc, nó đem đến cho ta bao liên tưởng về những vần thơ đẹp:

"Chim hôm thoi thót về rừng"

("Truyện Kiều")

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa".

("Tràng giang")

2. Hai câu thơ cuối bài "Chiều tối" tả cảnh dân dã đời thường nơi xóm núi. Hai nét vẽ vừa trẻ trung vừa bình dị hiện đại: thiếu nữ xay ngô và lò than đã rực hồng:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".

Ba chữ "ma bao túc" được điệp lại, đảo lại thành "bao túc ma hoàn" có giá trị thẩm mĩ đặc sắc. Nó vừa gợi tả sự chuyển động liên tục, mải miết của cái cối xay ngô, vừa thể hiện đức tính cần mẫn của cô thiếu nữ nơi xóm núi, đồng thời tạo nên âm điệu nhịp nhàng của vần thơ. Hình ảnh "lò than đã rực hồng" (lô dĩ hồng) gợi lên một mái ấm gia đình yên vui. Trên đường đi đày nơi đất khách xa lạ, tâm hồn nhà thơ vẫn gắn bó với nhịp sống cần lao, hướng về ngọn lửa hồng, làm vợi đi ít nhiều cô đơn lẻ loi, thầm mơ ước về một cảnh gia đình đoàn tụ đầm ấm. Chữ "hồng"đặt cuối bài thơ, thi pháp cổ gọi là "thi nhãn", làm sáng bừng bức tranh xóm núi trong chiều tối. "Hồng" là ánh sáng của lò than rực cháy, cũng là ánh sáng của tâm hồn Hồ Chí Minh. Một tâm hồn rất lạc quan, yêu đời.

Bức tranh "Chiều tối" từ tư tưởng đến hình tượng, từ không gian, thời gian đến cảm xúc đều được miêu tả, diễn tả trong trạng thái vận động. Vận động từ cảnh sắc thiên nhiên bầu trời đến bức tranh sinh hoạt trong gia đình, từ ngày tàn đến tối mịt, từ nỗi buồn mệt mỏi cô đơn đến niềm vui ấm áp đoàn tụ, từ bóng tối hướng tới ánh sáng. Nghệ thuật lấy sáng, lấy ánh lửa hồng để tả bóng tối màn đêm rất đặc sắc. Trong nguyên tác bài "Mộ" không có chữ "tối" mà người đọc vẫn cảm thấy trời đã tối hẳn rồi. Câu thơ dịch đã thêm vào một chữ "tối", đó là điều ta cần biết:

"Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng".

Bài thơ tứ tuyệt "Chiều tối" mang vẻ đẹp cổ điển, hiện đại. Ngôn ngữ hàm súc gợi cảm. Hình tượng cánh chim, áng mây mang tính ước lệ, đẹp mà thoáng buồn. Bút pháp tinh tế, điêu luyện. Một tâm hồn trong sáng, hồn hậu, giàu cảm xúc: yêu thiên nhiên và yêu đời. Đi đày mà phong thái nhà thơ thật ung dung tự tại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hades