chinh sach tien te 2006-nay

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1.Chính sách tiền tệ năm 2006 :

·       Trong năm 2006, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất theo hướng thận trọng, linh hoạt nhằm ổn định mặt bằng lãi suất. Các mức lãi suất của NHNN công bố trong năm 2005: Lãi suất tái cấp vốn 6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu 4,5%/năm, lãi suất cơ bản 8,25%/năm.

·       So với cuối năm 2005, lãi suất huy động VND tăng khoảng 0,1 - 0,4%/năm; lãi suất cho vay VND tương đối ổn định; lãi suất huy động và cho vay USD tăng khoảng 0,2 - 0,6%/năm; lãi suất VND chênh lệch dương so với lạm phát khoảng +1%, lãi suất USD so với mức tăng tỷ giá USD/VND chênh lệch dương +3,2%.

·       lãi suất tiền đồng của các tổ chức tín dụng trong cả năm 2006 chỉ tăng 0,25%, tốc độ tăng trưởng tín dụng năm qua là 21,4%.

·       Đặc biệt, riêng năm 2006 tỷ giá VND/USD  lần đầu được điều hành thử nghiệm theo cơ chế tỷ giá thả nổi thận trọng, có quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu điều hành.

·       Năm 2006 tổng phương tiện thanh toán tăng 33,59%

·       Chu kỳ phát triển rực rỡ chưa từng có trong hơn 6 năm phát triển của TTCKVN "tụ lại" trong hơn 3 tháng cuối năm 2006 và đầu 2007, với việc chỉ số giá chứng khoán tăng từ 500 điểm lên trên 1.000 điểm. 

2.CS tiền tệ năm 2007 :

a. Mục tiêu:

Yêu cầu đặt ra là phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao ở mức 8,5%. Ngành Ngân hàng cần phải tranh thủ thời cơ, đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN, làm tốt hơn công tác tham mưu cho Chính phủ và triển khai điều hành tốt chính sách tiền tệ (CSTT) để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ trên tổng thể

b.Các giải pháp điều hành CS tiền tệ:

Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.

- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD

- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.

- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.

Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính.

- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp

- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây.

- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.

- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.

Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

c. Kết quả đạt được :

 - Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế

+lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.

+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ.

- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực

+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.

+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.

- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế

3. CS tiền tệ đầu năm 2008 :

a. Bối cảnh nền kinh tế:

- Thị trường BĐS chỉ trong vài tháng đã gia tăng chóng mặt,giá tăng từ 2-3 lần so với năm 2007, tạo thành những bong bong BĐS đe dọa NĐT.

- Thị trường CK biến động thất thường nhưng có xu hướng đi xuống với tốc độ 30%.

- Muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng vốn chủ yếu là vốn tín dụng ngân hàng, vô tình chúng ta vướng vào 1 vòng tròn mang tên “tín dụng” (NĐT A vay NĐT B, NĐT B lại vay mượn NĐT C, NĐT C trước đó lại vay mượn vốn của NĐT A ->  tạo nên vòng tròn khép kín và cái thực sự di chuyển giữa vòng tròn là tín dụng )

b. Mục tiêu :

kiềm chế lạm phát, hỗ trợ thì trường CK, kìm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường BĐS

c. Biện pháp của NHNN VN :

  Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát,chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2 năm 2008, các NHTM đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt tiền tệ của NHNN:

-      Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc.

-      Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Nếu như các loại tín phiếu trướcđây được GD trên thị trường mở vs NHNN để đc vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn. do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài, tới 364 ngày ® là 1 điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm thu hồi lượng tiền  mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các NHTM.

-      Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước: lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.

-      NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay CK, thắt chặt cho vay CK hơn.

® NHNN đã gây ra tác động sốc và tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của các NHTM.

d. Phản ứng của các NHTM :

-      Các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ.

-      Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên NH tăng cao chóng mặt ( 15/2/2008 ; ls lien Nh là 30,1%/năm, ngày 18/2/2008 là 33%/năm, ngày 19/2/2008 là 43%/năm)

e.Giải pháp của NHNN trước hiện tượng sốc thuốc :

-      Ngày 22/2/2008 : NHNN phải bơm thêm 6000 tỷ đồng qua NV thị trường mở cho 1 số NH trúng thầu với ls tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày,giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008.

-      Trong vòng tuần, NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trc đến nay.

f. Nhận xét :

* Nhược điểm :

·       Với mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng cói trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trc đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá  ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên chỉ có 1 số ít NHTM cổ phần quy mô lớn, NHTM Nhà nước, một số chi nhánh NH nc ngoài… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó,còn phần đông các NHTM cổ phần thì ko.

·       Do các NHTM cổ phần quy mo nhỏ và TB phải đi vay lại trên thị trg liên NH vs ls 30-40%năm, gấp 2-3 lần ls họ vay đc từ NHNN. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến GDP, đến hiệu quả nền ktế và tính an toàn của  hệ thống NHTM.

·       Tạo ra nhg thiếu  hụt trầm trọng về vốn của các NHTM,  đẩy lãi suất lên quá cao trong thời gian quá ngắn, gây hỗn loạn thị trg tạm thời.

*Ưu điểm :

·       CS tiền tệ thông qua điều hành ls tiền gửi và tỷ lệ dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp NH vượt qua thời kì sóng gió đó.

·       Nền tài chính QG ko sụp đổ.

·       CS tất nhiên chưa thể nói là cực chuẩn nhg việc điều hành đã đúng quy luật của ktế thị trg, đó là thành công.

® CS tiền tệ là thành công lớn nhất của năm 2008.

4. CS tiền tệ trong giai đoạn cuối năm 2008 :

   Sau một thời gian thắt chặt tiền tệ, ngày 17/05/2008, NHNN thông báo nhg điều chỉnh trong CS điều hành ls nhằm nới lỏng thị trg.

-        Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành ls cơ bản bằng VND : các tổ chức tín dụng ấn định ls kinh doanh ( ls huy động và ls cho vay) bằng đồng VN không vượt quá 150% của ls cơ bản.

-          Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành 1 loạt nhg thay đổi lớn trong điều hành CS tiền tệ.

-      Quyết định số 2316/QĐ-NHNN về mức ls cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Theo đó ls cho vay bằng VND của các NHTM trên thị trg từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5%/năm thay cho mức 21% trc đó.

-      Quyết định số 2317/QĐ-NHNN về quy định cho thanh khoản trc hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức TD.

-      Quyết định số 2318/QĐ-NHNN về ls tái cấp vốn, ls tái chiết khấu,ls cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối vs các ngân hàng, ls tái cấp vốn đc giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm,  ls tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm, ls cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối với các Ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm

-      Quyết định số 2321/QĐ-NHNN về ls tiền gửi dữ trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm

-Từ ngày 5/11/2008  ls  liên tục giảm cho đến cuối năm 

* Nhận xét :

· Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tăng mạnh như trên sẽ tạo một thuận lợi lớn, hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ cho mục tiêu lợi nhuận sắp tới; gián tiếp tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét tiếp tục giảm lãi suất cho vay đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

· Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.

· Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.

· Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.

5. Chính sách tiền tệ năm 2009 :

  Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

a.Biện pháp của NHNN:

· Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.

· NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 8%/năm xuống còn 7%/năm, ls tái chiết khấu từ 6% xuống còn 5%/năm, , ls tái chiết khấu, ls cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối vs các ngân hàng giảm từ 8% xuống 7%/năm

· Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn

b.Ảnh hưởng đến nền kinh tế :

-Thị trường ngoại hối :

Trong 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.Mặt khác, do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. 

CSTT được sử dụng ntn?

·  Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp, phải kể đến việc mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +3% lên +5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp  với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

· Đồng thời trình Thủ tướng CP giao bộ tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu CP cho NHNN, đề nghị một số DN nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ, phối hợp chặt chẽ với bộ công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ững các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.

-Giá vàng tăng chóng mặt :

Năm 2009 chứng kiến sự hỗn loạn giá trên thị trường vàng. Từ mức giá 18-19 triệu đồng/lượng hồi đầu năm, tới cuối năm 2009 có thời điểm giá leo lên 29 triệu đồng lượng, trước khi dao động 26-27 triệu đồng/lượng hiện nay. Bỏ qua sự tác động của giá thế giới thì giá vàng Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới và dường như trong những biến động này, các công ty kinh doanh vàng luôn là người hưởng lợi.

Trước thực trạng này, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chấm dứt toàn bộ hoạt động của các sàn vàng trên cả nước, kể từ 30/12/2009 đến hết ngày 30/3/2010.

-Thị trường ngoại tệ :

Cùng với vàng, thị trường ngoại tệ cũng căng thẳng và tăng giá chưa từng có. Hiện mặt bằng giá USD trên thị trường tự do đã dao động trong khoảng 19.000 -20.000 đồng/USD, trong khi giao dịch tại hệ thống ngân hàng cũng đã lên tới 18.500 USD, sau quyết định điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước ngày 26/11/2009. USD tăng giá đã gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất, thương mại, ảnh hưởng tới hàng loạt mặt hàng tiêu dùng…

-Thị trường chứng khoán phục hồi mạnh :

Chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường chứng khoán đã sụt giảm xuống thấp nhất trong vòng 4 năm qua và Vn-Index lập mức đáy 235,5 điểm vào ngày 24/2.

Tuy nhiên, sau hàng hoạt các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ, thị trường chứng khoán đã có những chuỗi ngày thăng hoa và Vn-Index leo một mạch lên tới gần 630 điểm hồi cuối tháng 10, trước khi giảm trở lại và trong những ngày cuối năm 2009 dao động trong khoảng dưới 500 điểm.

-Bất động sản sôi động :

Cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản Việt Nam cũng có những giai đoạn thăng hoa của quý II, quý III, trước khi trầm lắng trở lại trong quý IV.

c.Nhận xét :

Nền kinh tế việt nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp, tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện, mức thâm hụt ngân sách cao, lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nguyên nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế hồi phục.

Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt để ngăn chặn.

Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, … NHNN tác động điều tiết mức cung tiền nhằm ổn định tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn toàn không thể phủ nhận.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dùng