Chính trị

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

câu 1: 

Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cm nước ta hiện nay



Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau :khi nhận thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy tiện . 
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối tượng đó. 
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng . 
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học .Thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu . 
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác nhau ) của con người. Ơû đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ chính đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố quyết định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời sống vật chất của con người và các quan hệkinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó. 
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội .những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.




Câu 2 :Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn




Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển.

1. Phủ định biện chứng:

- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó sự vật, hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.

- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Cái mới làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này cũng không có mặt kia.

“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói không hoặc giả là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả năng thực hiện được hay trở thành có khả năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).

- Đặc trưng của phủ định biện chứng:

Thứ nhất: Tính khách quan

Thứ hai: Tính kế thừa

Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn vốn có của sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ định sạch trơn.

Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng.

2. Nội dung quy luật:

Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là quá trình phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là: cái mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.

a. Tính chu kỳ của sự phát triển:

Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường như lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.

┤A     →    B(n) ­→A’├ →

- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình độ mới của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai đoạn cao hơn (A).

- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.

- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển mới.

- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần phủ định biện chứng.

b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:

Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.

Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ, Maatsxcơva, 1981, tr.65).

- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.

- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, nhiều khâu trung gian.

- Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá trình diễn ra phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và phát triển cái mới.

- Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Tránh nhìn đơn giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.

Câu 3: những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế trong nhận thức và thực tiễn

h nghĩa phương pháp luận: Là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức xây dựng và nghệ thuật vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “ một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến
◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
- Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định...; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) bên trong cơ bản, tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên hệ, quan hệ ((hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) chi phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật chứ không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật, mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
- Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa,..) từ các thành phần kinh tế khác, từ các tổ chức, chính trị xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn điều, tức không thấy được trọng tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.

Câu 4 :  Phân tích luận điểm của Mác: “Tôi coi sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”


Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội:
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với LLSX ở một trình độ nhất định và với một KTTT được xây dựng lên trên những QHSX đó.
Phân tích: Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội có các đặc trưng: là một chỉnh thể sống, vận động, có cơ cấu phức tạp. Trong đó có 3 mặt cơ bản, phổ biến nhất là: LLSX, QHSX và KTTT. Các mặt đó gắn bó, tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển xã hội.
+ Trong các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế – xã hội thì LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật của mọi hình thái kinh tế – xã hội, QHSX là cơ sở kinh tế, CSHT của xã hội là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội với xã hội khác. KTTT có chức năng, vai trò duy trì, bảo vệ, phát triển CSHT và các mặt của đời sống xã hội.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, vì:
+ Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy luật khách quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong một hoàn cảnh khách quan nhất định mà họ hải tích ứng.
+ Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét đến cùng là quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của LLSX.
+ Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
+ Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm sự phát triển tuần tự theo xu hướng tổng quát chung, vừa bao hàm khả năng một quốc gia này hay một quốc gia khác trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này để lên một chế độ xã hội khác cao hơn (lấy ví dụ đối với lịch sử thế giới và Việt Nam).

Câu 5 : Từ góc độ triết học về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, anh (chị) hãy giải thích câu thành ngữ: Có thực mới vực được đạo. Từ đó trình bày ý nghĩa triết học và liên hệ với bản thân.

- Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng

- Lý giải câu thành ngữ trên từ vai trò của vật chất đối với ý thức

+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức; nội dung của ý thức là sự phản ánh đối với vật chất

+ Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức là sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất.

+ Vật chất quyết định khả năng sáng tạo của ý thức

+ Vật chất là nhân tố quyết định, phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn.

Vai trò của ý thức đối với vật chất

+ Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, nhưng sau khi đã hình thành, ý thức có tính độc lập tương đối và có sự tác động mạnh trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

- Ý thức tác động trở lại vật chất, trở lại hiện thực khách quan theo hai hướng (tích cực hoặc tiêu cực). Hơn nữa, trong những quan hệ và trong những điều kiện nhất định, ý thức có thể trở thành vai trò quyết định.

- Ý nghĩa phương pháp luận + Liên hệ với bản thân

+ Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình, phải dựa vào những điều kiện vật chất đã có, đang có.

+ Để cải tạo biến đổi hiện thực khách quan phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy tối đa vai trò của nhân tố con người, đồng thời phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ ngại đổi mới.

+ Liên hệ với bản thân

Quan điểm duy vật đó được thế hiện một cáchh đơn giản và sinh động: "Có thực mới vực được đạo”. "Thực" ở đây có thể là ăn, là lương thực, là kinh tế như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vận dụng trong những trường hợp cụ thể khác nhau. Nhưng dù sao, "thực" cũng là một cơ sở kinh tế, là đời sống vật chất là tồn tại xã hội, còn "đạo" nghĩa là sự nghiệp, là lý tưởng hoạt động thuộc lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần, là ý thức xã hội. "Thực" vực "đạo", nghĩa là vật chất quyết định tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro