Chính trị

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu hỏi 1:Trình bày các tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Vận dụng chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng HCM trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta cần lưu ý những vấn đề gì?

Bài làm

vCác tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác-Lênin:

Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết lôi cuốn đông đảo quần chúng trên thế giới nhận thức và cải tạo xã hội phát triển, được hình thành từ những tiền đề:

Tiền đề kinh tế-xã hội: Từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển mạnh ở nhiều nước châu Âu. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát triển nhưng tình cảnh của họ rất khổ cực. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng phát triển gay gắt và đã bùng nổ các cuộc đấu tranh tự phát. Tiêu biểu nhất là các cuộc khởi nghĩa quy mô lớn của công nhân dệt thành phố Lyông ở Pháp (1831-1834), phong trào hiến chương của công nhân Anh (1838-1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Xilêdi nước Đức (1844), các cuộc khởi nghĩa tự phát bộc lộ nhiều hạn chế và đều thất bại. Tuy vậy, các cuộc đấu tranh đó đã mở đầu thời kỳ đấu tranh độc lập của giai cấp công nhân đặt ra những yêu cầu giải đáp về lý luận mới có thể dẫn đường cho nó đi tới thắng lợi. Những điều kiện kinh tế xã hội trong lòng xã hội tư bản và sự phát triển lớn mạnh của phong trào công nhân là “mảnh đất hiện thực” đòi hỏi cho sự hình thành và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác- Ăngghen.

Những tiền đề về lý luận và khoa học: Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XIX ở Châu Âu đã xuất hiện những đỉnh cao về tư tưởng lí luận mà tiêu biểu là trào lưu triết học cổ điển Đức (Hêghen, Phơbách), các học thuyết kinh tế tiến bộ ở Anh (Adam Xmít, Đavít Ricácđô) chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán Pháp (H. Xanhximông, C. Phuriê, R. Ôoen), C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển các đỉnh cao tư tưởng lý luận đương thời để xây dựng học thuyết mới.

Thế kỷ XIX đã xuất hiện nhiều học thuyết khoa học mới trên nhiều lĩnh vực. Tiêu biểu là học thuyết về sự tiến hoá các loài của Đacuyn, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Lômôxốp, học thuyết về sự phát triển của tế bào của Svác và Slayđen và các thành tựu khoa học khác nhau về hoá học, cơ học…Sự phát minh và ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học đã củng cố lý luận của Mác-Ăngghen.

Vai trò nhân tố chủ quan của C.Mác-Ăngghen.

Các Mác (1818-1883), Phiđich Ăngghen (1820-1895) có kiến thức thiên tài trên nhiều lĩnh vực khoa học, như triết học, kinh tế chính trị học, toán học, quân sự. Đặc biệt, họ là những người hoạt động gắn bó và hiểu biết sâu sắc phong trào công nhân và nhân dân lao động. Họ có điểm giống nhau là tìm thấy sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân hiện đại và quần chúng nhân dân lao động.

Từ tháng 8-1844 C.Mác và Ph.Ăngghen gặp nhau và nhanh chóng nhất trí về tư tưởng. Hai ông bắt đầu cộng tác với nhau trên nhiều lĩnh vực và chuyển biến từ lập trường duy tâm sang duy vật, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân. Qua nghiên cứu sâu sắc, kế thừa, phát triển những đỉnh cao lý luận đương thời, với tư duy khoa học và hiểu biết sâu sắc thực tiễn vận động của phong trào công nhân quốc tế, hai ông đã đưa chủ nghĩa xã hội không tưởng trở thành học thuyết khoa học. Triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học là ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.

vVận dụng chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng HCM trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta cần lưu ý những vấn đề:

Sau khi Liên Xô và chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sụp đổ, các loại kẻ thù tập trung chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa cơ hội nhiều màu sắc cũng tìm cách vào hùa với chủ nghĩa đế quốc xuyên tạc, vu cáo bôi nhọ lịch sử, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin là lỗi thời, lạc hậu, đồng nhất sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu với sự sụp đổ chủ nghĩa Mác-Lênin, kích động nhằm làm giao động tư tưởng, kêu gọi từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.

Cần thấy rõ, kẻ thù đã chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin ngay từ khi nó mới ra đời, và ngày nay chúng vẫn tiếp tục chống phá cũng không có gì lạ. Điểm mới cần nhận rõ là sự chống phá của chúng ngày nay quyết liệt và nguy hiểm hơn. Chúng lợi dụng chủ nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào để cho là chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, khoét sâu, thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của chủ nghĩa xã hội để tiến công. Chúng dùng chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng rêu rao vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để tổ chức các hoạt động gây rối chính trị, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Đây là một trong những nguy cơ của cách mạng nước ta.

Ngày nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiếp tục đổi mới dành nhiều thắng lợi. Các Đảng cộng sản và xu hướng cách mạng tả khuynh trong phong trào cách mạng thế giới đang tiếp tục bổ sung, phát triển phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới, làm cho học thuyết này có thêm sức sống mới, thực chất và năng động hơn, đi sâu vào thực tiễn cách mạng thế giới.

Bảo vệ, đổi mới và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin là yêu cầu khách quan, bắt nguồn từ bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết. Đảng cộng sản Việt Nam với tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo, bổ sung và làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước mình.

Nguyễn Ái Quốc, người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thành công, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Ngày nay Đảng đang tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới giành những thắng lợi quan trọng.

Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tập trung bảo vệ và phát triển những vấn đề cơ bản, có vị trí trung tâm và quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về thời đại ngày nay và tiến trình cách mạng thế giới. Những nội dung đó vừa có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng, lý luận, vừa định hướng chỉ đạo cách mạng nước ta. Đó cũng là những nội dung mà chúng ta thường có nhận thức tư tưởng lệch lạc, dễ có sai lầm trong vận dụng và tổ chức thực hiện.

Đảng ta đã tổng kết lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới và đề ra mô hình về về chủ nghĩa xã hội, nội dung, phương hướng cơ bản và cách thức thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (6–1991) được Đại hội XI khẳng định lại và bổ sung, phát triển: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.

Từ đó đến nay, Đảng ta đã đạt nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu, tuyên truyền và giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo dục lý luận chính trị trong Đảng và trong xã hội được đẩy mạnh, mở rộng phạm vi và đối tượng, có nhiều cố gắng đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chương trình giáo dục chính trị được đưa vào hệ thống giáo dục Đảng, các trường chính trị, trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề, trong hệ thống giáo dục quốc dân với trình độ khác nhau. Đội ngũ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị được củng cố, bổ sung, phát triển.

Tuy nhiên, trong việc vân dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin chúng ta phải nắm vững bản chất từng nguyên lý, không nên giáo điều, trích dẫn máy móc mà không rõ thực chất của nó. Phải luôn nghiên cứu, tổng kết, lấy thực tiễn đất nước, xem xét kỹ bối cảnh quốc tế để phát triển lý luận, nêu cao tinh thần độc lập sáng tạo, luôn đề phòng và khắc phục khuynh hướng giáo điều và xét lại, kịp thời bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận mới. Phải luôn đấu tranh chống lại các luận điểm và thủ đoạn chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin của các loại kẻ thù.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nêu cao ý thức học tập, năng lực suy nghĩ độc lập sáng tạo, năng lực vận dụng vào thực tiễn để bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Câu hỏi 2:Trình bày nội dung tấm gương đạo đức HCM. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM anh chị phải làm gì?

Bài làm

vNội dung tấm gương đạo đức HCM:

HCM, tấm gương đạo sáng ngời, tiêu biểu nhất của truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

ØTiếp thu những giá trị đạo đức của dân tộc, quê hương và gia đình, tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại, đạo đức tôn giáo và nhất là chủ nghĩa Mác-LêNin về đạo đức vô sản, với sự kiên trì rèn luyện và tu dưỡng cá nhân, HCM có phẩm chất đạo đức cách mạng, tiêu biểu nhất cho những truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.HCM đã tìm ra con đường cứu nước cho nhân dân ta, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta; Người sáng lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và là Chủ tịch nước đầu tiên trong 24 năm(1945-1969); Người sáng lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc. HCM là người sáng lập lực lượng vũ trang và nhiều tổ chức đoàn thể chính trị khác ở nước ta.

§   HCM là nhà văn hóa lớn. Đường lối chính trị của Người đặt nền tảng cho con đường cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở VN. Người là hiện thân tiêu biểu nhất cho sự trung thành với Đảng, với lợi ích dân tộc, với nhân dân.

§  HCM là nhà báo vĩ đại. Trong cuộc đời, Người đã tham gia sáng lập 9 tờ báo và viết trên 2000 bài báo. Người chỉ rõ báo chí có trách nhiệm là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức và lãnh đạo quần chúng.

§  HCM là nhà thơ lớn, tiêu biểu là tập thơ Nhật ký trong tù, các bài thơ chúc Tết và thơ viết trong thời gian hoạt động cách mạng. "Mỗi vần thơ Bác, vần thơ thép. Mà vẫn mênh mông, bát ngát tình".

§  HCM là nhà giáo, là người mở đầu nền sử học cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin ở VN.

ØTấm gương đạo đức HCM biểu hiện nổi bật phẩm chất tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo, có tầm nhìn xa trông rộng. Phong cách làm việc của HCM là khoa học, quý trọng thời gian, tôn trọng lời hứa, giữ gìn kỷ luật, sống mực thước, nêu gương.

ØTấm gương về cách diễn đạt. Cách diễn đạt nói và viết của Người rất ngắn gọn, không cầu kỳ mà trong sáng, chân thực, gọn gàng, rõ ý. Người chỉ cho mọi người chúng ta phương châm khi cầm bút, khi nói là phải rõ mục đích viết và nói cho ai? Viết và nói để làm gì và viết nói như thế nào?

ØVăn hóa ứng xử của Người tự nhiên, chân tình, cởi mở, chủ động và tế nhị. Lối sống sinh hoạt đời thường của Người là một mẫu mực và sự bình dị, khiêm tốn,"cần kiêm, liêm chính, chí công vô tư" ở mọi lúc, mọi nơi. Người luôn luôn gần gũi, hết lòng thương yêu con người, hi sinh tât cả chỉ quên mình.

ØNgười là tấm gương mẫu mực về rèn luyện, giữ mình trong sạch, không ham danh lợi; luôn hy sinh quên mình vì độc lập dân tộc. Lối sống và sinh hoạt đời thường của Người là mẫu mực về sự khiêm tốn, sự gần gũi với quần chúng và luôn giữ mình trong sạch, thanh đạm, không ham danh lợi, yêu thiên nhiên, tự rèn luyện mình về mọi mặt.

vHọc tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM:

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM là việc làm tự thân xuất phát từ vai trò vô cùng to lớn của đạo đức, mặt khác đó cũng là thực hiện chủ trương của Đảng.

ØKết hợp chặt chẽ công tác giáo dục chính trị, đạo đức và công tác tổ chức thi đua; nêu cao chủ nghĩa tập thể, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. HCM nói chống chủ nghĩa cá nhân phải đi song song với không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Mỗi một con người hôm qua còn vĩ đại, nhưng ngày mai sẽ không như thế nếu không rèn luyện thường xuyên, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

ØThanh niên là không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền; đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên. Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm.Gian khổ thì thanh niên đi trước, hưởng thụ sau mọi người. Khiêm tốn; không nên tự cho mình là giỏi, không khoe công, không tự cao, tự phụ. Đối với mỗi thanh niên, học sinh, sinh viên cần tích cực học tập lý luận chính trị trong Đảng. Tin tưởng và kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu không thay đổi của Đảng và nhân dân ta; ra sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.

ØMỗi người cần nắm vững nội dung tấm gương đạo đức HCM và tư tưởng HCM về đạo đức, trong đó cốt lõi là rèn luyện cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để phát huy tính tự giác, tiên phong, xung kích; giữ kỷ luật nghiêm trong học tập, rèn luyện và lao động; thường xuyên kiểm điểm tự phê bình và phê bình, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Thấm nhuần nội dung và tấm gương đạo đức HCM có ý nghĩa quan trọng về nhận thức và hành động trong rèn luyện của mỗi người chúng ta.

Câu hỏi 3:Nêu những nội dung tư tưởng HCM, phân tích tư tưởng về đạo đức Cách Mạng cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.

Bài làm

*Nội dung tư tưởng HCM:

Tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi.

Định nghĩa đó đã khái quát được bản chất và nội dung tư tưởng HCM, làm rõ tư tưởng HCM là một khoa học, chỉ ra bản chất và nội dung cơ bản của tư tưởng của Người; khẳng định nhất quán vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của tư tưởng HCM đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta.

Có thể khái quát tư tưởng HCM qua các nội dung chủ yếu sau:

- Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.

- Tư tưởng HCM là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

- Tư tưởng HCM là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng VN trong suốt 78 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường cách mạng VN tiến lên xây dựng một nước VN độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Khẳng định nội dung tư tưởng HCM là bước phát triển quan trọng trong nhận thứ và tư duy lý luận của Đảng ta.

* Tư tưởng về đạo đức Cách Mạng cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư:

Cốt lõi của đạo đức cách mạng là cần kiệm, liêm chính.

- Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, có tinh thần lao động sáng tạo, giữ kỷ luật, năng suất cao, có trách nhiệm và luôn tự lực cách sinh. Cần phải là một đức tính, là phẩm chất, là thói quen. Để có cần, phải rèn luyện thường xuyên; phải chống thói lười nghĩ, lười làm, ham chơi, ham vui.

- Cần tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của dân, của nước, của tập thể, của mình. Tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi, đi vào thực chất, có hiệu quả...Tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ. Luôn có ý thức chống hình thức liên hoan, chè chén lu bù, lãng phí của cải thời gian...

- Cần phải liêm là luôn luôn tôn trọng và bảo vệ của công, không xâm phạm đồng xu, hạt thóc của nước, của dân trong mọi hoàn cảnh. Không tham lam, không ham sung sướng, không ham người ta tâng bốc mình...Chỉ có một cái ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.

- Cần có cái tâm chính, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, quang minh chính đại. Chính là cái tâm thẳng thắn đối với người, với việc, không tự cao, tự đại, luôn thật thà, tự kiểm điểm mình. Đặt việc công trên việc tư; mỗi ngày làm một việc lợi; không sợ khó, không sợ khổ; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

HCM thường nói mỗi người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người tốt hoàn toàn. Mỗi người còn phải chí công vô tư với người, với việc. Khi nào cũng lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, khổ trước mọi người, hưởng sau mọi người. Cần, Kiệm, Liêm, Chính liên quan chặt chẽ với nhau và gắn với chí công vô tư. Thiếu một mặt nào đó thì không thể thành người có đạo đức cách mạng.

Câu hỏi 4:Trình bày đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN và mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là gì?

Bài làm

*Đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN:

"Giai cấp công nhân VN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp"

- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất vì họ đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, có trình độ xã hội hóa cao. Vì gắn với công nghệ và kỹ thuật hiện đại sống tập trung ở đô thị và tiếp cận với điều kiện làm việc công nghiệp nên giai cấp công nhân có ý thức kỷ luật cao, có sự đoàn kết chặt chẽ và tinh thần cách mạng triệt để. Giai cấp công nhân còn là lực lượng quốc tế nên nó mang trong mình bản chất quốc tế.

- Đặc điểm của giai cấp công nhân VN là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, họ bị ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và giai cấp tư sản; họ có quan hệ gắn bó tự nhiên với nông dân; sớm kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường của dân tộc. Khi họ vừa ra đời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thắng lợi Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và sự phát triển của chủ nghĩa Mác-LêNin. Điều đó làm cho đội ngũ giai cấp công nhân VN sớm có truyền thống đoàn kết, không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội quốc tế II.

- Những đặc điểm và hoàn cảnh ra đời đã nêu làm cho giai cấp công nhân VN sớm trở thành lực lượng chính trị độc lập, tự giác trong cả nước và nhanh chóng duy nhất nắm quyền lãnh đạo cách mạng VN. "Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân VN"

- Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi công nhân và của toàn xã hội.

Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:" Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xậy dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng".

*Mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020.

- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN. Nói chung, trong các doanh nghiệp đều có tổ chức cơ sở đảng,công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM và Hội Liên hiệp Thanh niên VN.

- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hóa: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao.

- Trước mắt, hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân( về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ..). Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong cá loại hình doanh nghiệp.

- Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân.

- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công nhân trẻ. Tăng tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. Tăng số lượng và chất lượng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; sớm thành lập tôt chức cơ sở đảng những doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức đảng tại doanh nghiệp phù hợp với từng thành phần kinh tế.

Câu hỏi 5: Vật chất là gì? Ý thức là gì? Trình bày mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa thực tiện của mối quan hệ đó.

Bài làm

*Vật chất là: Lênin định nghĩa  “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

*Ý thức là:  hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nói cách khác ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan được chuyển vào đầu óc con người và cải biến đi. Tuy xuất phát từ thế giới khách quan, nhưng do tâm sinh lý, mục đích, yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh chủ quan của con người phản ánh nên cùng một đối tượng nhưng kết quả phản ánh có thể khác nhau.

*Quan hệ: Triết học Mác-Lênin khẳng định vật chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại vật chất. Ý thức dù có năng động đến đâu, dù có vai trò to lớn đến đâu, xét đến cùng bao giờ nó cũng bị yếu tố vật chất quyết định.

Vật chất quyết định ý thức: Vật chất là tiền đề, là cơ sở và nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Khi cơ sở vật chất, điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Vật chất quyết định ý thức là quyết định cả nội dung, bản chất và khuynh hướng vận động phát triển của ý thức. Cơ sở và điều kiện vật chất là thực tiễn, là nơi hình thành công cụ và phương tiện kiểm nghiệm nhận thức thế giới của con người đúng hay sai.

Ý thức tác động trở lại vật chất: Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng ý thức có tác động to lớn đối với vật chất qua hoạt động thực tiễn của con người:

Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào con người, giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật hiện tượng để hình thành phương hướng, mục tiêu và những phương pháp, cách thức thực hiện phương hướng, mục tiêu đó.

Ý thức làm cho con người hoạt động đúng hay sai, hiệu quả hay không.

Nhờ có ý thức, con người biết lựa chọn những khả năng phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn.

Ý thức, tinh thần có vai trò quyết định đối với hoạt động thực tiễn chỉ đúng trong một giới hạn hẹp, ở một trạng thái, một tình huống, một thời điểm nhất định. Hơn nữa, yếu tố ý thức, tinh thần đó không thể vượt ra khỏi hoàn cảnh khách quan quy định, không thay thế được yếu tố vật chất khách quan. Nó chỉ là sự phát hiện và sử dụng có hiệu quả yếu tố vật chất.

* Ý nghĩa của quan hệ giữa vật chất và ý thức là, nhận thức của con người phải luôn luôn xuất phát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan. Mọi sự chủ quan, nôn nóng, lấy ý kiến của mình làm căn cứ cho lý luận dễ dẫn đến sai lầm và thất bại trong thực tiễn. Bài học mà Đảng ta nêu ra là mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.

Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất, đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển kinh tế là trung tâm”, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. “Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội.

Câu hỏi 6: Anh, chị trình bày nội dung của thời kỳ quá độ của cách mạng VN hiện nay.

Bài làm

Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991)

Cương lĩnh năm 1991 do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) của Đảng thông qua. Cương lĩnh đã tổng kết tiến trình cách mạng Việt Nam hơn 60 năm và nêu rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. “Xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.

Cương lĩnh năm 1991 đã nêu lên Chủ nghĩa xã hội mà ta xây dựng là xã hội có sáu đặc trưng cơ bản (do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa vào lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”).

Cương lĩnh năm 1991 nêu lên bảy phương hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

      - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

-   Phát triển lực lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn với phát triển công nghiệp toàn diện.

-   Xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất từ thấp đến cao.

-   Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá làm cho lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.

-   Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.

-   Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.

-    Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Cương lĩnh năm 1991 và cương lĩnh sửa đổi, bổ sung là ngọn cờ soi đường xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này nhất định nước ta sẽ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

2. Nội dung con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta

-   Đại hội X của Đảng (4-2006) đã xác định các phương hướng cơ bản. “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

-   Phương hướng tổng quát của giai đoạn 2006-2010. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. )

Phương hướng cụ thể là: Tiếp tục hoàn thiện và nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hộ công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước trong thực hiện các chức năng của mình. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển mạnh các thành phần kinh tế các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.

-   Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các ngành và sản xuất kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức. Đẩy mạnh công nghệ hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển; chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ; bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

-   Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

-   Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội. Khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách tạo việc làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá-thông tin, thể dục thể thao…

-   Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hoá. Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng. Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hoá. Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ. Tăng cường quản lý của nhà nước về văn hoá.

-   Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị; an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá thù địch. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh. Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh.

-   Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách dối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.

-   Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

-   Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân.

-   Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.

-   Tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Câu hỏi 7: Anh, chị trình bày những biểu hiện cụ thể truyền thống yêu nước của nhân dân VN. Anh chị phải làm gì để phát huy những truyền thống tốt đẹp đó.

Trả lời

* Biểu hiện:

Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, truyền thống yêu nước của dân tộc không ngừng được bồi đắp và phát huy. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”19

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây đắp nên nhiều truyền thống quý báu. Lòng yêu nước của mỗi người, mỗi thành phần dân tộc là một bộ phận của truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Yêu nước là truyền thống bao trùm và nổi bật nhất đã trở thành sức mạnh, động lực để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Yêu nước là cơ sở và biểu hiện thành các truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, thông minh sáng tạo, tự lực tự cường, kiên cường bất khuất, đánh giặc giữ nước, truyền thống kính trọng tổ tiên, ông bà cha mẹ; truyền thống hiếu học, kính thầy yêu bạn, quý trọng hiền tài; trọng nghĩa tình, thủy chung, hiếu khách… và nhiều truyền thống tốt đẹp khác.

1. Truyền thống lao động cần cù và sáng tạo

Cần cù vốn là bản chất của người lao động; là một trong những truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam, có sắc thái riêng. Sinh ra trên một địa bàn đất đai nhỏ hẹp, tài nguyên không giàu có, sản xuất nông nghiệp khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt lại luôn bị ngoại xâm đe dọa nên nhân dân Việt Nam sớm có bản năng và ý thức cần cù, kiên nhẫn, chăm chỉ lao động, giản dị và tiết kiệm trong cuộc sống.

Trong quá trình lao động, nhân dân ta có tinh thần sáng tạo rất cao; luôn sáng tạo kỹ thuật canh tác, dẫn nước, trị thủy; sớm biết nghệ thuật luyện đồng; có nhiều nghề thủ công cổ truyền, nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, các công trình đê sông Hồng, kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám, chùa Tây Phương… là thành quả lao động cần cù, trí tuệ thông minh sáng tạo và ý thức tự lực tự cường của con người Việt Nam.

Tính lạc quan, yêu đời là một nét đặc sắc, thể hiện bản lĩnh của tâm hồn Việt Nam. Người Việt Nam tin tưởng vững chắc vào sức lực và trí tuệ của mình, vào sức mạnh chính nghĩa trong đấu tranh chống ngoại xâm. Đây là động lực quan trọng để tổ tiên ta chịu đựng gian khổ, hy sinh, bền bỉ phấn đấu.

Ngày nay, biết phát huy truyền thống cần cù lao động sáng tạo, thông minh hiếu học, có đầy đủ cơ sở tiếp thu kỹ thuật hiện đại, người Việt Nam chắc chắc chắn sẽ không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giáo dục và động viên mọi người phát huy truyền thống lao động cần cù, trí thông minh, sáng tạo để tạo ra nhiều của cải vật chất làm giàu cho mình và cho đất nước.

2. Truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa

Đoàn kết, nhân nghĩa là truyền thống quý báu của dân tộc được hình thành và phát triển trên cơ sở luôn phải chế ngự thiên nhiên và chống trả các thế lực ngoại xâm mạnh hơn mình để tồn tại.

Trong quá trình dựng nước và giữ nước dân tộc Việt Nam sớm nảy sinh ý thức cộng đồng. Những câu “Sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau”, “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” đã sớm ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo thành tình thương người, sống có nhân, có nghĩa.

Ông cha ta từ hàng nghìn năm trước cũng đã biết để có yêu nước thì phải thương dân, “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”, “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”, “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao truyền thống đoàn kết dân tộc Người coi đó là một yếu tố quyết định đến sự sống còn của cả dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Người chỉ rõ nguồn gốc sức mạnh đoàn kết là phải quan tâm chăm lo đến dân. “Yêu nước thì việc gì có lợi cho dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”20. Người khái quát thành chân lý về sức mạnh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Ngày nay Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, đã đề ra đường lối đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

3. Truyền thống độc lập tự chủ, tự cường

Ngay từ rất sớm, nhân dân Việt Nam đã nhận thức đầy đủ rằng dù nhỏ bé, dân tộc ta hoàn toàn có quyền độc lập và bình đẳng. Đất nước Việt Nam phải do chính chúng ta làm chủ. Bất kỳ nước nào, dù dù lớn gấp nhiều lần, dù mạnh đến bao nhiêu hễ đến xâm lược nước ta thì quân giặc nhất định sẽ bị thất bại hoàn toàn. Câu thơ của Lý Thường Kiệt khẳng định “Sông núi nước Nam, vua Nam ở. Sách trời đã phân định rõ ràng. Quân giặc cớ sao xâm phạm tới. Nhất định sẽ bị đánh tơi bời” được coi như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Nguyễn Trãi cũng viết “Như nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác”… Tinh thần đó thể hiện sâu sắc lòng tự tôn dân tộc chính đáng của nân dân ta.

Độc lập tự do là nội dung cơ bản chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam. Đã nhiều thế kỷ dưới ách thống trị của nước ngoài, hơn ai hết, nhân dân ta ý thức rất sâu sắc rằng mất nước thì sẽ mất tất cả, mất cả quyền sống và đạo lý làm người, mất cả bản sắc văn hóa của dân tộc. Vì vậy đã từ lâu trong tình cảm của nhân dân ta, tình yêu Tổ quốc gắn chặt với tình yêu gia đình. Yêu nước, thương nhà gắn kết và hòa với nhau làm một. Nước mất thì nhà tan nên cứu nước, cứu nhà là nghĩa vụ thiêng liêng đối với tất cả mọi người.

Sự gắn bó xóm làng, tình làng nghĩa nước, nước nhà hòa quyện với tình yêu quê hương bắt đầu từ một nền văn minh nông nghiệp hình thành sớm, gắn với làng xóm, mái đình, cây đa, bến nước là cốt lõi văn hóa dân tộc đã trở thành triết lý “trung với nước, hiếu với dân”-cốt cách của con người Việt Nam.

Vì độc lập, tự do, nhân dân ta đã chiến đấu kiên cường, không sợ khó khăn gia khổ, chấp nhận hy sinh. Hai Bà Trưng thà tuẫn tiết không chịu để giặc bắt. Tướng Lĩnh nhà Trần đã xin nhà vua quyết tâm chống giặc “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hà đừng lo”. Trần Bình Trọng bị giặc bắt, dụ dỗ đã nói thẳng “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Lê Lai vì nghĩa lớn, liều mình cứu Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn; Nguyễn Trung Trực trước lưỡi gươm quân giặc đã khẳng định: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”, anh hùng Nguyễn Viết Xuân Viết Xuân kêu gọi: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Các tấm gương anh hùng, liệt sĩ đã tô thắm thêm trang sử vàng của dân tộc.

Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường đã trở thành một sức mạnh, một động lực tạo nên lợi thế về chính trị, tinh thần và chiến lược chiến tranh để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đã kết tinh truyền thống độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc; nó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử tư tưởng và tình cảm của dân tộc Việt Nam.

Yêu nước phải xây dựng đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước, đó là giá trị lớn của bài học phát huy truyền thống yêu nước.

4. Truyền thống đánh giặc giữ nước

Đánh giặc giữ nước là một trong những truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Từ truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, lịch sử đất nước còn ghi lại hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, thể hiện tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc.

 Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng đã mở đầu truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” của phụ nữ Việt Nam cho đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thế kỷ XX, Dân tộc ta đã chiến thắng hàng chục cuộc tấn công xâm lược với quy mô lớn của kẻ thù bên ngoài.

Những trang sử đánh giặc giữ nước của dân tộc ta đậm khí phách anh hùng. Trong điều kiện đất đai không rộng, người không đông, lại phải luôn đứng trước các đội quân xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần, dân tộc ta đã có sự nỗ lực phu thường, và có mưu trí sáng tạo rất cao. Biết dựa vào sức mạnh của toàn dân đánh giặc chứ không phải chỉ có quân đội. Nghệ thuật đánh giặc hết sức độc đáo là lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh, kết hợp khéo léo quân sự với ngoại giao… tài thao lược ngoại giao của ông cha ta đã hạn chế mọi cái mạnh, khoét sâu mọi chỗ yếu của địch để chiến thắng.

Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc được nâng lên tầng cao từ khi giai cấp công nhân Việt Nam có Đảng lãnh đạo, đã được tô thêm những trang vàng rực rỡ. Ngoài những truyền thống tiêu biểu nêu trên, dân tộc ta còn những truyền thống tốt đẹp khác. Mỗi địa phương, mỗi dòng họ còn nhiều truyền thống tốt đẹp khác.

Lịch sử Việt Nam là lịch sử của dân tộc anh hùng. Những truyền thống tốt đẹp mà tổ tiên ta để lại là tại sản quý báu và thiêng liêng nhất của dân tộc. Ôn cũ để biết mới, uống nước nhớ nguồn, hiểu biết về lịch sử dân tộc, chúng ta càng tự hào về dân tộc. Quý trong, giữ gìn, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp đó là động lực để chúng quyết tâm xây dựng, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu đẹp hơn.

*Để phát huy những truyền thống đó ta phải làm:

 

Câu hỏi 8: Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Trình bày mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Bài làm:

* Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo tiến trình phát triển của sản xuất vật chất.

* Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất, quan hệ của họ trong quá trình tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ của họ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu của người lao động đối với tư iệu sản xuất là mặt quyết định các mối quan hệ khác.

*Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất    

Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau. Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ nội dung và hình thức của quá trình sản xuất.

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:

- Lực lượng sản xuất như thế nào về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất phải phù hợp như thế ấy. Trình độ của lực lượng sản xuất thủ công, với công cụ thô sơ có tính chất cá nhân thì phù hợp với nó là quan hệ sản xuất cá nhân.

- Khi lực lượng sản xuất thay đổi tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Do con người luôn tích lũy sáng kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phương thức sản xuất nên lực lượng sản xuất luôn phát triển. Ngày nay khoa học và công nghệ phát triển đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó mà quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa nó sẽ cản trở lực lượng sản xuất.

Khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng mất đi, quan hệ sản xuất mới được xây dựng. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này ngày càng gay gắt đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.

Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất là phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản xuất (người lao động, công cụ, đối tượng lao động) kết hợp với nhau một cách hài hòa để sản xuất phát triển và đưa lại năng xuất lao động cao.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không phải chỉ thực hiện một lần là xong mà phải là quá trình. Mỗi khi sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất bị phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác cao hơn.

Ý nghĩa của lí luận này là ở đâu có đối tượng lao động thì ở đó cần có người lao động và công cụ lao động phải tương ứng với trình độ, kĩ năng của người lao động.

Vận dụng quy luật này, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương:

- Phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

- Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.

Một trong tám đặc trưng của CNXH ở nước ta là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

Câu hỏi 9: Trình bày hai thuộc tính của hàng hóa, tại sao nói hàng hóa sức lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư.

Bài làm

*Hai thuộc tính của hàng hóa:

Hàng hóa là sản phẩm do kết quả lao động của con người và nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi. Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu của con người. Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội cần thiết của con người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Do có sự khác biệt nhau về trình độ, điều kiện sản xuất, công cụ lao động nên hao phí sức lao động để sản xuất ra hàng hóa của mỗi người cũng khác nhau, do đó giá trị cá biệt của hàng hóa của mỗi người cũng không giống nhau. Do vậy khi trao đổi phải theo một giá trị chung, đó là giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hoá do thời gian lao động xã hội cần thiết tạo ra hàng hóa quyết định.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đủ để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường, với trình độ lao động thành thạo, cường độ lao động trung bình của xã hội. Giá trị của hàng hóa biểu thị quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá, là khái niệm trừu tượng, không nhìn thấy được và chỉ bộc lộ ra khi trao đổi.

* Nói hàng hóa sức lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư:

Giá trị thăng dư (thường ký hiệu là m) là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hóa sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Bản chất của chủ nghĩa tư bản chính là quan hệ bóc lột của tư bản đối với công nhân làm thuê dưới hình thức giá trị thặng dư.

Có hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động quá giới hạn thời gian lao động cần thiết khi các điều kiện khác không đổi. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng xuất lao động xã hội.

Để sản xuất toàn bộ số tiền ứng ra ban đầu phải mua tư liệu sản xuất (tư bản bất biến) và sức lao động (tư bản khả biến). Tư bản bất biến (ký hiệu là c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức là tư liệu sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu, vật liệu phụ… mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm.

Tư bản khả biến (ký hiệu là v) là bộ phận tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức sức lao động. Trong quá trình sản xuất nó được tăng lên về lượng, do giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có đặc điểm khi được tiêu dùng thì nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, quyết định năng suất lao động của công nhân.

Giá trị hàng hóa = c + v +m

 

 

Câu hỏi 10: Phân tích vì sao quá trình đổi mới ở nước ta phải lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm? Để thực hiện nhiệm vụ đó mỗi sinh viên cần phải làm gì?

Bài làm

* Quá trình đổi mới ở nước ta phải lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm:

Tầm quan trọng của phát triển kinh tế: Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ cái quyết định thắng lợi của xã hội này đối với xã hội khác là có nền kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển với năng suất lao động cao hơn hẳn. Kinh tế phát triển là cơ sở quyết định sự phát triển toàn diện và mạnh mẽ toàn xã hội.

Chủ tịch HCM nói:" Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa....Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội"

- Đất nước ta có những thuận lợi cho phát triển kinh tế:

+ Chúng ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật được xây dựng trước đây và trong 20 năm đổi mới đang phát huy tác dụng.

+ Chế độ chính trị tình hình kinh tế - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh giữ vững, quan hệ đối ngoại ngày cang mở rộng. Vị trí địa chính trị của nước ta rất quan trọng.

+ Nguồn nhân lực khá dồi dào, tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta có nhiều phẩm chất tốt đẹp.

+ Đảng và Nhà nước có thêm những kinh nghiệm hơn qua 20 năm đổi mới, có khả năng tiếp thu những thành tựu tiên tiến về phát triển kinh tế của các nước tiên tiến trên thế giới.

- Nước ta vốn từ nông nghiệp lạc hậu, nghèo và kém phát triển đi lên. Hiện nay lao động thủ công ở nước ta vẫn phổ biến, năng suất lao động thấp; cơ sở hạ tầng yếu kém, đời sống nhân dân còn khó khăn. Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm qua thấp hơn so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực ở thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Năng suất lao động tăng chậm và còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, chi phí kinh doanh cao, chất lượng và hiệu quả còn thấp.

- Chúng ta chưa thực hiện thật tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Môi trường ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế.

Chỉ có lấy phát triển kinh tế là trọng tâm mới đưa đất nước ta thoát ra khỏi nghèo nàn và khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển kinh tế là trọng tâm mới giữ được ổn định về chính trị, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, xu thế quốc tế hóa kinh tế tăng lên, sự phát triển nhanh của kinh tế tri thức, xu thế hợp tác quôc tế tăng lên tạo điều kiện khách quan cho các nước kém phát triển có thể đi tắt, đón đầu.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X cụ thể Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, khẳng định một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là " Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Đó là cơ sở của phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

*Để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế mỗi sinh viên cần phải:

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro