chinh tri anh hop

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CÂU 1: Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa vềvật chấ của Lênin ?

Câu hỏi 2:Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn?

CÂU 1: Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa vềvật chấ của Lênin ?

Trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán , V.I Lênin đã định nghĩa : "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, nó đem lại cho con người trong cảm giác , được cảm giác của chúng ta chup lại , chép lại , phản ánh và tòn tại không lệ thuộc vào cảm giác ."

Với định nghĩa này , Lênin đã chỉ rõ:

"Vật chất là một phạm trù triết học"_ xác định rõ góc độ về việc xem xét mọt phạm trù rộng và khái quát nhất , không thể hiểu theo nghĩa hẹp hnư các khái niệm về vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hay đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là " thực tại khách quan", "tòn tại không lệ thuộc vào cảm giác" .Vật chất là vô cùng , vô tận nó có vô vàn những thuọc tính khác nhau , song mọi dạng ,mọi đối tượng của vật chất đều có những thuộc tính ấy. đó cũng chính là đặc điểm để phân biệt được cái gì thuộc về vật chất , cái gì không thuộc về vật chất. do đó , tất cả những gì tồn tại độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật chất. Như thế , những quy luật kinh tế _ xã hội , những quan hệ sản xuất xã hội ... tuy không tồn tại dưới dạng vật thể , không có khối lượng , năng lượng , có cấu trúc lý - hoá , nhưng chúng tồn tại khách quan không lệ thuộc vào ý muốn ,vào cảm giác của con người . Do đó , chúng là một loại vật chất dưới dạng xã hội.

Vật chất "dược đem lại cho con người trong cảm giác , được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh lại". Thế giới vật chất tuy tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác của con người , nhưng đó khong phải là sự tồn tại trừu tượng mà là sự tòn tại hiện thực, cụ thể, cảm tính. Khi một dạng vật chất nào đó tác đọng đến con người , gây ra những cảm gicá, và đem đến cho con người sự nhận thức, sự phản ảnh về chúng. Vì vậy, thế giới vật chất tu vô tận nhưng chỉ có cái con người chưa nhận thức được chứ không thể không nhận thức được.

Vật chất "dược đem lại cho con người trong cảm giác"nó là nguồn gốc của cảm giác, của ý th ức, có trước ý thức, nên vật chất phải là cái có trước, cảm giac và ý thức là cái có sau.

Định nghĩa về vật chất của Lênin đã giải quyết được hai mặt của vấn đề cơ bản theo lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng , mang lại ý nghĩa lớn lao trong mặt nhận thức koa học cũng như trong thực tiễn .

Định nghĩa của Lênin về vật chất đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc cũng như biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, của các nhà tư tưởng tư sản hiện đại. Do đó làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển lên môt trình độ mới, tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng à chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Cùng với việc làm cơ sở khoa học và vũ khí lý luận để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết: định nghĩa của Lênin đảm bảo sự thuyết phục của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước sự phát triển không ngừng của khoa học tự nhiên.

Đã hơn hai thế kỷ, khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lý học, đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng cuói thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và đã tiến những bước rất dài, nhưng định nghĩa của Lênin vẫn còn nguyên ý nghĩa. Cho nên, dù giá trị của dịnh nghĩa có được công nhận ở mọi nơi hay không thì nó cũng đã và đang trang bị một thế giới quan, và phương pháp luận của các nhà khoa học, cỗ vũ họ đi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.

Câu hỏi 2:Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn?

1 Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức

Lịch sứ của triết học cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề cơ bản của triết học với hai phạm trù lớn : vật chất và ý thức. Song, để đi đến được những quan niệm , định nghĩa khoa học và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng phải đến một giai đoạn lịch sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghỉa duy vật biện chứng.

Vật chất , theo Lênin. "là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan , được đem lại cho con người trong cảm giác , được cảm giác của chúng ta chép lại , chụp lại , phản ánh lại , và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"

Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình . Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất . Đồng thời vật chất vận động trong không gian và thời gian . Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất , là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .

Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội . Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan , là sự phản ánh tích cực , tự giác , chủ động , sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn . Chính vì vậy , không thể xem xét hai phạm trù này tách rời , cứng nhác , càng không thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc , ý chí , tri thức,....)là cái có trước ,cái sinh ra và quyết định sự tồn tại ,phát triển của thế giới vật chất.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức . Vật chất là cái có trước , nó sinh ra và quyết định ý thức:

Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi - cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh , sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi , tạo thành nguồn gốc tự nhiên .

Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói , chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành , tồn tại và phát triển của ý thức .

Mặt khác , ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan . Vật chất là đối tượng , khách thể của ý thức , nó quy định nội dung , hình thức , khả năng và quá trình vận động của ý thức .

- Tác động trở lại của ý thức

Ý thức do vật chất sinh ra và quy định , nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó . Hơn nữa , sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần , phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động , máy móc , nguyên si thế giới vật chất , vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người .

Dụa trên các tri thức về quy luật khách quan , con người đè ra mục tiêu , phương hướng , xác định phương pháp , dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy . Vì vậy , ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất , hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy hoạt tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất . Ngược lại , nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khach s quan , do đó , sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.

Tuy vậy , sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoạt tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được .Và suy cho cùng , dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất .

Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội , đồng thời ý thứ xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội .

Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu , xem xét các mối quan hệ khác như : lý luận và thực tiễn , khách thể và chủ thể , vấn đề chân lý ...

Ý nghĩa phương pháp luận .

Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đung đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xts nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào đấy . "tính khách quan của sự xem xét" chính là ở chỗ đó .

Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.

Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện kách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò nâng động của các nhân tố tinh thần , tạo thành sứ mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.

Không chỉ có vậy, việc giải quýet đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thúc.

CÂU 3hân tích luận điểm của Lênin: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan". Ý nghĩa của luận điểm trên.

Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, nghĩa là đến tri thức có nội dung phf hợp với hiện thực khách quan .Vì vậy, nhận thức phải dựa trên cở thực tiễn nhưng nhận thức diễn ra như thế nào, vấn đề này được Lênin diễn tả qua luận điểm : "Từ trực quan sinh động đến tư duy trưu tượng đến thực tiễn"- đó là con đường biện chứng hiện thực khách quan.

Nhận thức không phải là một sự phản ảnh nguyên si, sao chép máy móc hiện thực mà là một quá trình phát triển theo từng giai đoạn, những giai đoạn này liên hệ với nhau và giai đoạn này là tiền đề của giai đoạn kia.

Trực quan sinh độnghay nhậnn thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức được biểu hiện dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.

Khi các sự vật trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta thì gây nên trong ta những cảm giác .Mỗi cảm giác giúp ta nhận thức một thuộc tính nào đó của sự vật hiện tượng. Khi tiếp xúc với sự vật mà cùng một lúc tác động lên nhiều giác quan của chúng ta, chúng ta cảm nhận được nhiều thuộc tính của nó một cách toàn vẹn trực tiếp. Sự tỏng hợp nhiều thuộc tính khác nau của sự vật do những cảm giác đem lại được gọi là tri giác. So với cảm giác,tri giác đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn và hoàn chỉnh hơn.

Trên cơ sở cảm giác và tri giác trong óc con người xuất hiện một hình thức cao hơn, đó là biểu tượng .

Bộ não của con người có khả năng tái tạo, sản sinh ra trong ý thức hình ảnh của đối tượng đã được tri giác phản ánh trước đây . Biểu tượng là một hình ảnh được tái hiện, được hnhf dung lai với những thuộc tính nổi bật của sự vật.

Giai đoạn nhận thứccảm tính đem lại cho ta những hiểu biết còn dừng lại ở bề ngoài, cái hiện tượng, cái đơn nhất mà ở đó chưa thể phản ánh khám phá được những thuộc tính bản chất, những quy luật vận động của sự vật, hiện tượng . Nhận thức chỉ thực hiện được điều đó trong giai đoạn kế tiếp của mình, đó là tư duy trừu tượng .

Tư duy trừu tượng hay nhận thứclý tính được đặt nền móng từ nhận thức cảm tính, nhưng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn, rõ nét hơn, tức là có thể phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất, mang tính quy luật của sự vật trên cơ sở trừu tượng hoá và khái quát hoá những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp.

Tư duy trừu tượng bao gồm ba hình thức cơ bản : khái niệm, phán đoán, suy luận.

Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những thuộc tính bản chất và chung của một sự vật hay một nhóm sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Khái niệm là kết quả của sự tổng hợp, khái quát biện chứng những tài liệudo nhận thức cảm tính đem lại . Các khái niệm hình thành, phát triển và nằm trong mối quan hệ, liên hệ nào đó với các khái niệm khác trong quá trình nhận thức dẫn đến sự hình thành khái niệm mới, phản ánh sâu sắc hơn bản chất sự vật, hiện tượng.

Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, liên kết các khái niệm đã có lại với nhau nhằm khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, quan hệ nào đó của sự vật, hiện tượng.

Nếu như khái niệm phản ánh những thuộc tính chung, bản chất các sự vật, hiện tượng thì phán đoán phản ánh những mối quan hệ, liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và các mặt của chúng. Như vậy phán đoán là hình thức biểu đạt các quy luật khách quan . Một phản ánh dúng đắn hiện thực khách quan sẽ mang giá trị chân thực, nếu phản ánh không chân thực là giả dối.

Suy luận là sự liên kết một số phán đoán đã biết ại với nhau để tạo ra một phán đoán mới . Trong suy luận, ta nhận thức thế giới một cách gián tiếp, thể hiện quá trình vận động của tư duy từ những tri thức đã đạt được để suy ra tri thức mới .

Như vậy, tư duy trừu tượng với nhữn hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận mà nhờ có chúng, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan . Những hình thức này tồn tại không tách rời nhau, giữa chúng có mối liên hệ biện chứng, tác động và quy định lẫn nhâuphnr ánh những thuộc tính bản chất, tính quy luật của sự vật.

Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng, tuy có những đặc điểm khác nhau, nhưng chúng thống nhất biiện chứng với nhau. Mỗi giai đoạn, mỗi hình thức có vị trí, vai trò của nó trong quá trình nhận thức và luôn luôn hỗ trợ lẫn nhau, đem lại cho con người nhưng hiểu biết sâu sắc về sự vật. Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn cảm tính thì con người không thể khám phá được bản chất , quy luật của sự vật . Cho nên, trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn, hai yếu tố không thể tách rời của một quá trình nhận thức thống nhất.

Tuy nhiên quá trình nhận thức, mục đích của nó không phải chỉ là để nhận thức, hơn nữa tư duy trừu tượng là sự phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan, muốn biết kết quả của nhận thức ấy là đúng đắn hay sai lầm phải trở về thực tiễn để kiểm nghiệm, đồng thời áp dụng vào thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả .

Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến tực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chânlý mà thực tiễn là điểm bắt đầu cũng là điểm kết thúc của một quá trình . Như thế sự kết thúc này lại là sự bắt đầu của một quá trình mới và cứ thế ận động mãi mãi, làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu sắc hơn, nắm bắt được bản chất và các quy luật của thế giới khách quan phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người .

Ý nghĩa của luận điểm trên:

Đứng trên lập trường khoa học về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, chúng ta tránh được những sai lầm có khuynh hướng tách rời và tuyệt đối hoá một trong hai giai đoạn nhận thức : hoặc cường điệu vai trò của nhận thức lý tính, không thừa nhận vai trò của tri thức do nhận thức cảm tính đem lại sẽ rơi vào chủ nghĩa duy lý hoặc đề cao tri thức do nhận thức cảm tính đem lại, hạ hấp vai trò của nhận thức lý tính của chủ nghiã duy cảm dẫn đến sự xem xét quá trình nhận thức một cách phiến diện, sai lầm .

Vì vậy, một nguyên tắc cơ bản trong quá trình nhận thức hiện thực khách quan đó là sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn, nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Từ thực tiễn và trở về với thực tiễn chúng ta mới có thể nhận thức được các quy luật khách quan chi phối sự vận độngvà phát triển của mỗi cá nhân, gia đình, xã hội, trên cơ sở đó tạo ra những hướng đi, những giải pháp phù hợp với cuộc sống cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.

CÂU 4: NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY?

Tập trung sản xuất và hình thức độc quyền mới, sự xuất hiện của những công ty độc quyền khổng lồ (trong đó đáng chú ý là hàng loạt công ty xuyên quốc gia) bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ . Hiện tượng liên kết đa ngành dạng những con_sơn (concern) và công lô mê rát (conglomerat) khổng lồ thâu tóm nhiều xí nghiệp và công ty thuộc những ngành rất khác nhau xuất hiện phổ biến, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia . Đồng thời ngược lại ở các nước Tư Bản Chủ Nghĩa phát triển, số xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số các doanh nghiệp .

Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính . Để vươn ra thị trường thế giới và thích ứng với quá rình quốc tế hoá đời sông kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập ngân hàng đa quốc gia, xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào các nớc khác, đặc biệt là ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) . Hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của các trung tâm tài chính thế giới như Nhật, Mỹ, Đức, Hồng Kông, Singapo...

Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở độc quyền quốc tế sau chiến tranh, nhưng quy mô, chiều hướng và kết cấu của xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới . Từ sau chiến tranh, việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển rất nhanh và quy mô của nó ngày càng lớn .Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt . Trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%) . Nhưng từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt sau những năm 70 của thế kỷ XX, ¾ tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước phát triển với nhau. Đồng thời trong nền kinh tế của các nước tư bản phát triển cũng diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn cho các nước tư bản phát triển .

Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của Chủ Nghĩa Tư Bản _ xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hoá nền kinh tế . Cùng với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế diễn ra hiện tượng khu vực hoá, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên hiệp Châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á _Thái Bình Dương (APEC)...Ngày càng có nhiều nước tham gia vào các liên minh mậu dịch tự do (FTA) hoặc các liên minh thuế quan (CU) .

Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh ranh và thống trị mới . Mặc dù chiến tranh lạnh đã kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa vẫn ngấm ngầm giành nhau phạm vi ảnh hưởng . Những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại, những chiến tranh sắc tộc, tôn giáo vẫn xảy ra . Đứng đằng sau các cuọc đụng đọ dó vẫn là các cường quốc, đế quốc .

Với năm đặc điểm nói trên dã cho thấy thị trường thế giới đang có những biến động rất lớn và bên cạnh đó cũng có các xu hướng mới trong cơ chế điều tiết kinh tế .

Tỷ trọng kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân được tăng lên rõ rệt bao gồm cả các xí nghiệp thuộc nhà nước trong các ngành sản xuất vật chất và các ngành tài chính, ngân hàng và ngành kinh tế dịch vụ...

Kinh tế thuộc nhà nước và tư nhân kết hợp với nhau tăng lên một cách mạnh mẽ .

Chi tiêu tài chính của nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết quá trình tái sản xuất xã hội tăng lên đáng kể .

Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt mềm dẻo hơn . Công cụ và phạm vi điều tiết được mở rộng hơn : điều tiết bằng chương trình kế hoạch, điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường, điều tiết tiến bộ khoa học và công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển (R&D), điều tiết thị trường lao động, điều tiét thị trường tài chính tiền tệ, điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại.

CÂU 5: KHÁI NIỆM PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT ? TÍNH HAI MẶT CỦA PTSX_ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT?

Phương thức sản xuất là phương thức khai thác nhữn của cải vật chất (tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển xã hội .

Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất, tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong sự thống nhất biện chứng này, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất . Quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triênr của lực lượng sản xuất . Tuy nhiên quan hệ sản xuất không hoàn toàn thụ động mà có tác động trở lại lực lượng sản xuất . Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển . Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Tiêu chuẩn căn bản để xem xét sự phù hợp giữa chúng, là ở chỗ quan hệ sản xuất có thể thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,cải thiện đời sống nhân dân và tạo điều kiện thực hiện công bằng xã hội hay không . Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng . Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến chiến tranh giai cấp, cách mạng xã hội mà kết quả là sự thay thế quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn, từ đó ra đời phương thức sản xuấtcao hơn .Lịch sử loài người đã trải qua các phương thức sản xuất : công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ , phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ lên phương thức sản xuất Cộng Sản Chủ Nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ Nghĩa Xã Hội.

Tư liệu sản xuất và lực lượng lao độngtrong một xã hội hợp thành lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất là toàn bộ năng lực sản xuất _ bao gồm các yếu tố vật chất và con người trong sản xuất, là nội dung vật chất của nếnản xuất xã hội. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người .

Các thành pần của lực lượng sản xuất luôn tương ứng với nhau theo một cơ cấu nhất định và có quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau . Trong đó, người lao động là thành phần chủ đạo quyết định.

Để tiến hành sản xuất, con người không chỉ tác động tự nhiên mà còn quan hệ , tác độnglẫn nhau. Những quan hệ xã hội nhất định giữa người với người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất hựp thành quan hệ sản xuất.

Nếu lực lượng sản xuất là nội dung vật chất thì quan hệ sản xuất là hình thức xa hội của sản xuất, được biểu hiện trên 3 mặt cơ bản:

• Quan hệ sở hữu : là quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong việc định đoạt tư liệu sản xuất và những sản phẩm làm ra từ tư liệu sản xuất ấy.

• Quan hệ tổ chức, quản lý : là quan hệ giữa người với người (giữa chủ thể với khách thể) trong việc tổ chức, điều hành, quản lý snả xuất .

• Quan hệ phân phối : là quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong việc phân phối các yếu tố sản xuất và kết quả sản xuất .

Các mặt nói trên có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định .

Quan hệ sản xuấ mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người . Sự thay đổi các kiểu quan hệ sản xuất do tính chất và trình độcủa lực lượng sản xuất quyết định.

CÂU 6: QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG?

Trong hàng ngũ lãnh đạo cách mạng thế giới thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là một trong ít người nhấn mạnh nhiều nhất về vấn đề đạo đức . Người quan tâm đến nó từ rất sớm . Một trong những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên trí thứ yêu nước đầu tiên của Việt Nam những năm 20 là bài giảng về "Tư cách một người cách mạng" .

Sự quan tâm của Bác về đạo đức thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt từ giải phóng dân tộc đến cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa . Đến khi viết "Di chúc", Người vẫn dành một phần trang trọng để bàn về vấn đề đạo đức . Người không chỉ yêu cầu mỗi Đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, mà còn dặn dò Đảng phải quan tâm, chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đoà tạo họ thành những người thiết kế, xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội vừa "hồng" vừa "chuyên" .

Hồ Chí Minh quan tâm tới đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn . Về lý luận, Người đã để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức . Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là việc không thể thiếu của cán bộ, đảng viên . Cũng như Lênin, Bác đào tạo các chiến sĩ cách mạng không chỉ bằng chiến lược mà còn bằng chính tấm gương đạo đức trong sáng của mình .

Khi đánh giá vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, Người từng nói: "Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn . Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Con người có đạo đức, trí tuệ là động lực quan trọng đưa cách mạng đến thắng lợi . Cách mạng cũn hướng tới xây dựng một xã hội phát triển, bao gồm cả đời sống vật chất và văn hoá . Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hướng con người tới chân_thiện_mỹ .

Phải coi đạo đức là nguồn gốc, là nền tảng . Vì giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại là một công việc to lớn, nặng nề nhưng vẻ vang mà mỗi người không giữ được đạo đức, tính nhân văn thì không thể nớití việc tự giải phóng cho mình, cho nhân loại được .

Người luôn trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo đức cách mạngcủa cán bộ, đảng viên . Đảng cầm quyền nên Đảng có quyền lực về chính trị, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh dạo nhà nước . Nếu cán bộ, đảng viên không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hoá con người nắm quyền lực . Vì vậy, Người dạy Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" . Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin : "Đảng Cộng Sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại mình" Người lại nói : cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải "viết trên trán chữ Cộng Sản là được quần chúng yêu mến . Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức" .

Vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ là thước đo lòng cao thượng của con người . Theo quan điểm của Bác, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng .

Đạo đức góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột, đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản, xây dựng xã hội mới của nhân dân lao động .

Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phụ thuộc một chiều vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế . Nó có khả năng tác động tích cực trở lại, cải biến xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất. Chính Bác đã làm cho kẻ thù thấy rằng con người có thể chiến thắng vũ khí "tinh thần mà chiến thắng vật chất", "văn minh thắng bạo tàn" . Người viết : Đảng ta theo chủ nghĩa Mác_Lênin, chúng ta không những nhìn vào hiện tại, mà còn nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng quần chúng, của dân tộc .

Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại thì cũng không sợ sệt, rụt rè, chán nản, lùi bước...khi gặp thuận lợi, thành công cũng giữ vững tinh thần, chất phát, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hư hoá...

CÂU 7: TRÌNH BÀY NỘI DUNG Ý NGHĨA QUY LUẬT THỐNG NHẤTVÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP ?

Quy luật thống nhất và đấu tranhcủa các mặt đối lập là quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật . Lênin gọi quy luật này là "hạt nhân" của phép biện chứng, vì nó là cơ sở để hiểu rõ mối quan hệ giữa các phạm trù khác nhau như các quy luật cơ bản khác của phép biện chứng .

Để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập _ tức những mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, có liên hệ với nhau, thống nhất với nhau trong sự vật, ta dùng khái niệm mâu thuẫn . Mâu thuẫn vừa là sự thống nhất vừa là sự đấu tranh của hai mặt đối lập . Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến .

Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực nên có tính phổ biến . Chính vì vậy, mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp . Mỗi sự vật, mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những mâu thuẫn khác nhau và ngay cả bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn . Mỗi mâu thuẫn, mỗi mặt củamâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tuy tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật .

Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ quy định, ràng buộc lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình . Không có sự thống nhất, không tạo thành sự vật . Sự thống nhất ở đây là sự thống nhất từ bên trong, do nhu cầu tồn tại, nhu cầu vận động và phát triển của các mặt đối lập, nếu bị phá huỷ thì sự vật không tồn tại nữa .

Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp, sự thống nhất được hiểu là sự đồng nhất, sự phù hợp, sự tác động ngang nhau . Thống nhất trong trường hợp này được hiểu là một trạng thái mà những yếu tố chung của hai mặt đối lập giữ vai trò chi phối . Đó là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn .

Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau .

Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời khỏi sự đấu tranh của các mặt đó, bởi trong sự liên hệ, quy định lẫn nhau chúng luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau .

Tất nhiên "đấu tranh" có rất nhiều hình thức, trong mỗi lĩnh vực, mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi trình độ và bản thân từng mâu thuẫn ũng khác nhau . Song, tính chất chung và cơ bản của mọi cuộc đấu tranh đều đi đén cái mới, xoá bỏ cái cũ, cái không phù hợp . Vì vậy, dấu tranh là động lực của sự phát triển .

Quá trình đấu tranhcủa các mặt đối lập ban đầu thể hiện dưới dạng khác biệt, sau đó phát triển thành xung đột giữa hai mặt đối lập với nhau, cuối cùng xung đột đó chuyển thành mâu thuẫn . Khi mâu thuẫn nảy sinh, buộc phải giải quyết để dẫn đến các kết quả sau: cả hai cùng mất, một mất một còn, cả hai cùng còn hoặc khi có điều kiện hì giữa chúng có sự chuyển hoá với nhau, mâu thuẫn được giải quyết . Chuyển hoá của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập . Do sự đa dạng của thế giới nên các hình hức chuyển hoá cũng rất đa dạng : chuyển hoá từng phần, chuyển hoá toàn bộ . Và mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành, quá trình mới bắt đầu . Sự vật không ngừng vận động và phát triển trong quá trình biện chứng : sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập, trong đó thống nhất là tương đối, là tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối .

Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự thân, diễn ra liên tục . Tính tương đối của sự thốg nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới phân thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp và gián đoạn . Như thế mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập và sự chuyển hoá giữa chúng là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển .

Ý nghĩa phương pháp luận:

Luôn luôn nhìn sự vật trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập . Sự vật nào cũng bao hàm, tổng hợp những mâu thuẫn và chính các mâu thuẫn bên trong, cơ bản, chủ yếu của chúng là cái quy định cơ bản nhất và quá trình tồn tại, phát triển của chúng, cho nên để nhận thức sự vật trước hết phải nhận thức mâu thuẫn đó của chúng .

Nguyên tắc của sự phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn, cho nên để tác động vào sự vật, hiện tượng, phải biết vận dụng quy uật này, tạo cho các mặt đối lập của chúng những hình thức đấu tranh .

Mọi mâu thuẫn đều có quá trình phát sinh, phát triển và biến hoá . Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải phân tích mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể, bằng những con đường đấu tranh với nhữn điều kiện chín muồi, thích hợp . Trong hoạt động, tuỳ hoàn cảnh cụ thể phải biết lợi dụng mâu thuẫn .

CÂU 8: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT ?

Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới tự nhiên bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, là cái nói lên năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội .

Lực lượng sản xuất được tạo thành do sư kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất mà trước hết là với công cụ lao động, cũng như khoa học .

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái sản xuất, bao gồm : các quan hệ sở hửu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chứcquản lý và sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất .

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội .

Sự biến đổi cửa sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho cũng bắt đầu từ sự biến đổivà phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động . Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản

xuất . Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của cũng phát triển theo .

Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố:

• Trình độ của công cụ lao động

• Trình độ tổ chức lao động xã hội

• Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất

• Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người

• Trình độ phân công lao động

Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu sản xuất và của lao động . Ứng dụng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội được thể hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất cũng biến đổi . Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó .

Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người : khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất .

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển . Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của ực lượng sản xuất .

Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển thành không phù hợp . Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Điều này sẽ dẫn tới sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ và sự ra đời của phương thức sản xuất mới .

Như vậy, lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất, một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới .

Tuy vậy, quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lượng sản xuất . Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ . Tren cơ sở đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một lực lượng sản xuất . Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển . Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển . Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết, song con người không phát hiện được, hay khi đã phát hiện được mà không giải quyết, hoặc giải quyết một cách sai lầm ...thì không thể phát triển được lực lượng sản xuất, thậm chí còn phá hoại lực lượng sản xuất .

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản nhất trong hệ thống các quy luật xã hội .

CÂU 9: KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ?

Khái niệm của công nghiệp hoá và hiện đại hoá:

Công nghiệp hoá, hiện đại hốa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động và công nghệ phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao .

Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phân phối những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho Chư Nghĩa Xã Hội .

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội có những nội dung chủ yếu sau:

Thực hiện cuộc cách mạng Khoa học_Công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất . Sau khẳng định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm, Đảng ta chỉ rõ : con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt . Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, dặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu về khoa học và công nghệ .

Do vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất kx thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội, nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất : ứng dụng những thành tựu mới tiên tiến về khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu.... phục vụ đắc lực cho sự cong nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước . Sử dụng công nghệ mới phải gắn liền với việc giải quyết việclàm, kết hợp với công nghệ truyền thông với công nghệ hiện đại . Tăng cường đầu tư cho việc nghiên cứu khoa học và công nghệ . Cần có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh, đồng thời chỉ xây dựng những công trình có quy mô lớn khi cần thiết và có hiệu qủa .

Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội .

Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần . Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế... Trong các hệ thống các cơ cáu đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất, bao gồm những ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản và các ngành trong lĩnh vực phân phối lưu thông .

Cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ảnh đúng yêu cầu của quy luật khách quan cho phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước, tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế .

Ở nước ta hiện nay, việc bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế _xã hội . Trong những năm mắt cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng phát triển Nông_Lâm_Ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến . Dây là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội . Phát triển ông nghiệp đi đôi với mở rộng kinh tế dịch vụ, mở rộng sản xuất tiêu dùng và hàng xuất khẩu thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí... Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên phát triển diện, giap thông, thuỷ lợi, thông tin liên lạc . Coi trọng xây dựng kết cấu hạ tầng ở cả nông thôn và thành thị . Thực hiện chuyên môn hoá và liênkết giữa các vùng, các địa phương, xây dựng các trung tâm kinh tế của vùng và sử dụng có hiệu quả cơ cấu kinh tế nhiều thành phần .

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tất yếu phải phân công lao động xã hội . Phân công lao động là sự chuyên môn hoá sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân .

Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn trong việc sử dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học_kỹ thuật và công nghệ hiện đại, góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý .

CÂU 10: THỰC TIỄN LÀ GÌ ? PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI NHẬN THỨC ?

Trong lịch sử triết học C.Mác là người đầu tiên nêu rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức, cũng như xem xét khái niệm này một cách đầy đủ nhất .

Chủ nghĩa duy vật trước Mác có hạn chế lớn là thiếu quan điểm thực tiễn, xem xét nhận thức tách rời hoạt động thực tiễn của con người, vì thế nó mang tính chất trực quan . Chủ nghĩa duy tâm đã đề cập đến vai trò sáng tạo tích cực của con người, song lại chỉ giới hạn vai trò đó trong lĩnh vực tinh thần, chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần và thực chất đã gạt bỏ vai trò của thực tiễn .

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là khái miệm dùng để chỉ nhữnghoạt động vật chất có tính lịh sử _xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội .

Thực tiễn biểu hiện dướ nhiều hình thức, song có thể quy về ba hình thức cơ bản :

• Hình thức đầu tiên của hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ sở của tất cả hình thức khác của hoạt động sống của con người là hoạt động sản xuất vật chất .

• Một dạng cơ bản nữa của hoạt động thực tiễn là hoạt động cải tạo xã hội _ hình thức cao nhất của thực tiễn xã hội, bao gồm những hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị_xã hội .

• Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn . Thực nghiệm khoa học không chỉ có vai trò quan trọng đối với quá trình nhận thức mà ngày càng có ý nghĩa thiết thực trong việc đưa khoa học kỹ thuật thành sản phẩm phục vụ đời sống .

Trong các hình thức trên thì hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong mọi thời kỳ lịch sử và suy cho cùng các hình thức hoạt động khác cũng từ hoạt động đó mà ra và chúng luôn tác động, liên hệ với nhau .

Thực tiễn không đơn giản chỉ là những hoạt động vật chất của từng con người cá biệt, riêng lẻ mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người . Không chỉ mang tính xã hội, hoạt động thực tiễn là một quá trình lịch sử, là sản phẩm lịch sử toàn thế giới thể hiện những mối quan hệ đa dạng và vô tận giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người.

Hoạt động thực tiễn được xem như phương thức đặc biệt của mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh . Con người vừa tự thích nghi với môi trường, vừa thông qua hoạt động của mình tác động một cách tích cực để biến đổi, cải tạo thế giới . Đồng thời với quá trình đó con người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình . Hoạt động nhận thức của con người nảy sinh, phát triển và tác động một cách biện chứng với hoạt động thực tiễn . Trong mối quan hệ đó thực tiễn giữ vai trò sau đây:

*Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu của nhận thức . Bằng hoạt động thực tiễn, con người trực tiếp tác động vào sự vật, bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới phải bộc lộ những bản chất và tính quy luật của chúng . Điều đó có nghĩa là thực tiễn đã cung cấp những tài liệulàm cơ sở cho nhận thức . Tri thức của con người có thể thu nhậnđược dưới dạng trực tiếp . Nhưng xét đến cùng thì mọi tri thức của con người đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn . Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để phát huy tính tích cực sáng tạo của con người, là cơ sở của sự phát triển trí tuệ của con người .

*Thực tiễn không ngừng phát triển và biến đổi, luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi nhận thức phải trả lời, đòi hỏi những tri thức mới, nhưng khái quát mới để lý giải những vấn đề mới nảy sinh . Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển . Trong lịch sử các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn của loài người nhằm đáp ứng nhu cầu do sự phát triển của thực tiễn đề ra .

*Thực tiễn là mục đích của nhận thức . Tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn . Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thực khách quan phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội . Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận thức hướng tới giải quyết, là nơi thể hiện sức mạnh của tri thức, biến tri thức khoa học thành phương tiện hùng mạnh giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả .

*Thực tiễn là tiêu huẩn để kiểm tra tri thức . Để đánh giá, kiểm nghiệm tính đúng đắn hay sai lầm của những tri thức đã thu nhận, không có con đường nào để thay thế được vai trò của thực tiễn . Những kết quả của tư duy trừu tượng phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn, mặt khác chịu sự kiểm tra, đánh giá tính xác thực của thực tiễn . Từ đó có thể khẳng định, bbổ sung hoàn thiện và phát triển những kết quả nhận thức thu được . Vì vậy, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#koibito