For A.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng








Tôi gặp Andrew vào một ngày hè đầy gió và nắng.

Khoảnh khắc đó, thanh âm rì rào của biển và tiếng xào xạc của lá cây đang rung lên trong từng hồi gió, bóng râm lay động dưới chân tôi như chợt lặng câm. Chỉ còn anh ở đó.

Anh thu hút tôi trong chiếc sơ mi xanh kẻ trắng, mái tóc vàng rối tung vung vẩy những giọt mồ hôi, gương mặt ưa nhìn ở độ thanh niên thoáng đỏ bừng vì nắng nóng, tóc mai bết dính bên thái dương khi đang cưỡi trên chiếc xe đạp Martin, hẳn là đã chạy được một đoạn đường dài. Trong hướng nhìn tôi, anh dừng xe trước một cửa hàng tổng hợp, trong âm thanh kin kít chói tai phát ra khi thắng gấp từ cái xe, tôi thấy anh nhảy chân đôi xuống bên trái chiếc xe, dắt nó sát vào lề đường.

Khi đó tôi vừa bước ra từ cửa hàng bán 90’ đối diện, mua vài cuộn film dành cho chiếc máy ảnh polaroid mà cô Walker vừa tặng cho tôi nhân nhịp sinh nhật tuổi 17.

Trong một ngày trời đầy nắng hè và gió biển ấy, chiếc xe đạp Martin màu đen dựng ở góc đường trước cửa hàng tổng hợp sơn màu xanh dương đậm chính là bức ảnh đầu tiên mà tôi đã chụp trong máy. Như một cơn gió đột ngột rẽ hướng, đẩy cánh buồm của một con thuyền đang lênh đênh ra khỏi phạm vi an toàn của nó sang một ngã rẽ không thể hình dung được lối đi hay điểm dừng. Chiều hôm ấy, tôi không biết nếu tôi cứ đứng mãi ở đó nhìn anh bước ra thì chuyện gì sẽ tiếp diễn. Cũng như một buổi chiều trong tương lai nào khác, tôi không biết nếu chiều đó tôi không nán lại, thì mọi chuyện liệu có một bắt đầu và kết thúc khác không, hay nó còn không có bắt đầu.

Nhưng bây giờ thì tôi đã biết chuyện đầu tiên, tôi biết lúc ấy chuyện gì sẽ diễn ra.

Là lặng lẽ, trong từng nhịp thở tôi hồi hộp đợi chờ, anh bước ra khỏi cửa hàng tổng hợp với gói thuốc lá và một gói giấy đựng cà phê trên tay, anh bỏ gói thuốc vào túi áo, vuốt tóc mái mướt mồ hôi ra sau đầu, cái trán thanh tú lộ ra, và hàng mi anh trĩu xuống dưới ánh nắng mặt trời, sáng rỡ, nhấp nháy như cánh bướm đang sắp bay lên.

Giây phút tôi nhìn thấy được hết những cử động ấy từ anh, có con bướm nào đó như sắp thoát ra từ lồng ngực. Tôi quên bấm nút máy ảnh, còn anh đã vội vã lên xe.










.













Khi tôi trở về từ nhà sách với cuốn Lie With Me của Philippe Besson trên tay, tôi nghe bố bảo Andrew đã chết.

Đó là mối rung động đầu đời của tôi. Nó đã chết theo anh, nhưng nó vẫn còn ở đó.

Anh gieo mình xuống bờ biển mà anh đến trong kỳ nghỉ cùng gia đình. Vỏn vẹn chỉ vậy, đó là tất cả điều mà người ta ngoài gia đình biết về sự ra đi của anh, không bệnh hiểm nghèo, không lý do.

Tôi không hay biết gì vì chúng tôi không mấy gặp nhau từ khi nghỉ hè hay cả trước đó, một cảnh báo nào rằng anh sẽ ra đi. Nhưng nếu trên đời này có một điều mong muốn nào sau từ “nếu” có thể giúp tôi quay lại, tôi nghĩ mình sẽ cố nói gì đó với anh, dù chỉ một lần đó.

Khi tôi thổ lộ với anh, anh không đáp lại, cũng chẳng hoàn toàn từ chối. Anh chỉ nói với tôi rằng anh cảm thấy hoàn toàn ổn với những người bạn ấy, anh không đáp lại tôi, nhưng anh mong chúng tôi vẫn bên nhau như những người bạn thân nhất. Anh quý mến tôi, theo kiểu một người bạn, còn tôi, thì tôi vẫn thích anh, thậm chí thích anh nhiều hơn nữa dẫu sau khi biết rằng mình không thể bước qua một giai đoạn nào hơn nữa.

Tôi không thể gặp Andrew lần cuối cùng, nhưng đó không phải điều duy nhất khiến tôi chìm trong nuối tiếc mà cả vì tôi không có bất cứ thứ gì liên quan đến anh còn sót lại dù là một tấm ảnh. Chúng tôi từng chụp ảnh cùng nhau, nhưng đều là Andrew giữ. Tôi không biết nơi đâu. Tôi không còn gì để có thể tưởng nhớ đến gương mặt anh ấy ngoài một chút ấn tượng còn sót lại trong tôi, như một chút bụi tro còn sót lại trên vùng cỏ cháy xém giữa rừng.

Mái tóc vàng rối tung, đôi mắt xanh trong vắt và bờ vai cao lớn. Những điểm đó ở anh, dường như là duy nhất, cũng dường như bất kỳ một chàng trai nào cũng có thể có. Tôi không tự tin rằng với trí nhớ ngắn hạn của mình, tôi có thể nhớ mãi hình ảnh anh. Thực tế là vậy. Thời gian o bế mọi vết thương, vì thời gian sẽ lãng quên anh, và thời gian rồi sẽ khiến con người thay đổi.

Ba ngày sau đó, mẹ Andrew đến, bà trao lại cho tôi bức thư, ghi người nhận là William Baumer. Khi ấy tôi không ở nhà, bố đã nhận.

Bố đưa tôi bức thư, vỗ vỗ vai tôi, bảo rằng là Andrew đã viết nó và gửi cho tôi, được để lại trên bàn trước khi anh tự sát. 

Trong sự ngạc nhiên, và cảm giác không thực. Hiểu về sự ra đi của anh, tôi không nghĩ anh để lại lời nhắn, ít nhất là tôi nghĩ sẽ không phải dành cho tôi.

Tôi lên phòng và khép cửa lại, mở cửa sổ để ánh nắng rọi vào bức thư, một con chim liền bay đến đậu trên bậu cửa. Nó không hót, chỉ đứng lặng im cạnh bóng nắng của những chiếc lá thông. Một cảm giác nặng nề khó tả đột nhiên chen lấn cả những cảm xúc trước đó trong tôi, trong một giây nào đó vụt qua thôi, tôi đã muốn đóng lại bìa của bức thư, tôi thậm chí còn chưa thoát khỏi sự hoài nghi về chuyện anh đã mất. Đôi khi tôi cứ ngỡ khi tiếng gõ cửa vang lên, là anh với chiếc áo sơ mi màu xanh than đang chờ tôi ngoài cửa, chỉ cần tôi mở mắt ra sau một giấc mộng thật dài thôi, anh vẫn sẽ xuất hiện với nét cười hằn sâu bên khoé mắt.

Nhưng trước cả khi tâm trí tôi nhất quyết chối từ, đôi bàn tay đã dè dặt mở ra, những đôi con chữ nhìn ra được sự nắn nót của anh đập vào mắt tôi. Tim tôi lặng đi từng nhịp.

"Gửi William yêu dấu,

Với chuyện của anh, như một câu nói của Garcia Marquez, rằng: "con người không chết khi nên chết, mà là khi có thể chết."

Hãy vui cho anh, Liam."

Ký tên, Albert Andrew.

Brigham, 29/5/2008.










.










Brigham, 24/6/2009.

Về biển…

Vào một tuần trước, tôi có dịp về lại quê nội cùng bố. Từ ngày bà mất đã nhiều năm, nhưng căn nhà có thể nghe được tiếng sóng ngay cả trong phòng ngủ vẫn còn đó, thỉnh thoảng bố sẽ về dọn dẹp một lần.

Bố tôi là một người với nội tại sâu sắc, ông đọc nhiều sách, xem nhiều phim có chiều sâu, biết nhiều thứ tiếng, là một dịch giả khá có tiếng tăm. Tính cách của ông trầm lặng và dễ chịu, ít khi nghiêm khắc với tôi, kể cả khi tôi thừa nhận rằng với ông rằng tôi là một người đồng tính.

Quê hương của bố tôi ở một thị trấn ven biển, từ khi thành hình trong bụng mẹ, ông đã nghe tiếng sóng biển từ nhẹ nhàng cho đến dữ dội, âm thanh rì rào của ban ngày đột nhiên trở thành tiếng gầm gừ vào ban đêm. Và biển, như thể có cảm giác, như một vật thể sống cam chịu bị giam sâu bên dưới hàng triệu năm, tích tụ những khát khao tuyệt vọng, hoà tan những bụi tro không còn nguyên vẹn, gặm nhấm dần xác của những thuỷ thủ hay những người đến với biển để chết. Bố nói, biển như thể một chiếc hộp không đáy cất giữ rất nhiều bí ẩn, người ta không bao giờ có thể kể hết hay biết được hết những gì liên quan đến biển.

Và vào những thời khắc khác nhau mà biển rất lạ, dưới cái nắng cháy bỏng của ban ngày, những đợt nước dồn dập đánh lên những bọt sóng gợi lên cho bất cứ ai ham muốn được xoa dịu bởi cảm giác mát lành ấy, trong khi vào ban đêm, bóng tối bao trùm lên phần lớn mặt nước. Biển ẩn nấp trong bóng tối, như thể trở thành một hình hài khác của những câu chuyện mà biển được nghe thấy và cất giữ. Những lời trăn trối, những trắc trở còn dằm mãi trong những thân xác khổ đau.

Với những người đến sau, nó gợi lại một cảm giác thôi thúc đến cái chết lạ kỳ, từ lúc là một suy nghĩ còn mập mờ trong tâm trí, và khi những đợt sóng khơi nó lên, cả tâm trí ta trống rỗng khi âm thanh đó tràn vào, khiến ta ảo tưởng về một thế giới tự do, ta đang đứng trước nó, rồi chỉ cần vài hơi hít sâu để bản thân có thể với đến thiên đường.

Những cơn sóng khi thì lặng thinh, khi thì trào lên dữ dội như thể một con thú gầm gừ chực chờ cấu xé bất cứ ai lại gần, nhưng ta hãy hiểu rằng đó là khi con thú ấy tuyệt vọng, và ngoài vùng vẫy, la hét ra, nó không thể làm gì được để thoát khỏi bóng sóng trong đêm kia.

Nỗi rung động với Andrew chính là một trong những bí mật mà biển đã cất giữ, và sẽ chẳng bao giờ mà biển trả lại cho tôi. Nhưng tôi, tôi sẽ thấu hiểu cho bí mật ấy mà không tự vấn nữa, cũng có thể là anh không còn muốn về, và tôi sẽ thấu hiểu cho anh.








.











Khép quyến nhật ký lại, cất chiếc bút máy Nhật bố tặng tôi vào hộp, tôi xuống phòng sách tìm bố.

Ánh nắng mùa hè của Brigham tràn vào qua khung cửa sổ gỗ, qua khoé mắt, tôi thấy một con ong trên bậu cửa dát gỗ, thân xác nhỏ bé của nó cứng ngắc, ngắc ngoải dưới ánh nắng chói chang. Một cái chết lặng im.

Nghe tiếng bố gọi, tôi nhanh chóng xuống lầu.

Mở cửa phòng sách, tôi thấy bố ngồi trên ghế và chăm chú vào những tài liệu trên chiếc bàn giữa phòng gần cửa sổ. Gần đây bố đang nhận dịch một tác phẩm sang tiếng Pháp. Tôi biết cuốn sách có tựa đề là Biển Đen, do một tác giả người Bỉ chắp bút năm 2006, cũng là một người bạn cũ của bố.

"Con ngồi đây." Bố vẫn chăm chú vào tờ giấy gì đó trên bàn, ông vẫy tay gọi tôi.

"Vâng."

Khi tôi ngồi xuống ghế, ông mới ngẩng đầu nhìn tôi. Ông hỏi:

"Con vẫn còn ngày nghỉ chứ?"

Tôi nhìn bố, có dự đoán câu trả lời của mình sẽ chẳng đưa cuộc trò chuyện đạt được kết quả gì êm đẹp, “Không bố ạ, 1 tuần nữa con phải trở lại trường."

"À…vậy ư?" Bố cúi đầu, chỉnh lại mắt kính.

Tôi nhìn những nếp nhăn và đồi mồi trên gương mặt ông dưới những bóng nắng xuyên qua tán lá ngoài cửa sổ chiếu vào, trong chiếc áo len gile mỏng màu nâu cũ đã có vài chỗ bong ra, bóng hình của bố trong mắt tôi như thể nhuốm màu của một tương lai gần nào đó. Tôi có một dự cảm như thế, lại như chợt nhận ra, quá khứ đã rất xa xăm, và bố ngày càng trầm lặng như một con chim già nằm bên bệ cửa dưới bầu trời mà ông đã từng bước dạo.

Ông xếp những tài liệu lộn xộn trên bàn lại, cởi cặp mắt kính ra. Đôi mắt ông lại xót lên vì đọc chữ quá lâu, ông xoa mắt một lúc rồi mới nói.

"Đành vậy. Ta muốn bảo trước với con rằng hai ngày nữa, ta sẽ đến nơi đó một thời gian cùng người bạn kia để có thể hiểu sâu hơn về bối cảnh tác phẩm qua những chi tiết hơn từ ông ấy, chúng ta dự định ở lại ít nhất hai tuần…con sẽ ổn chứ?"

“...Vâng, không sao cả. Con có thể tự lo cho mình.”

Có một bóng cánh nâu vụt ngang cửa sổ. Nó đáp xuống mặt bàn, nhìn tôi bằng đôi mắt nâu to tròn non dại.

Ánh nắng cố với tới tay tôi, trong khi sự nóng nực xâm chiếm. Khi đáp bố, tôi vẫn đang nhìn ra cửa sổ, chợt ngẩn ra, tôi kéo tầm mắt của mình qua gương mặt ông.

Bố nhìn tôi bằng đôi mắt đục ngầu sau mắt kính, giọng bố khàn khàn, ông chầm chậm đứng dậy và cầm lấy xấp tài liệu đi đến chỗ kệ sách. Quay lưng lại với tôi, ông nói tiếp:

"Bố đã thực sự mong nếu có thể thì con sẽ đi cùng ta? Đã lâu rồi con không đi đâu xa nhà ngoài trường học, nhưng lại quên mất thời gian đã gấp rút lắm rồi, mà đôi khi lại như dừng lại vậy. Con phải lo nghĩ nhiều thứ trong năm qua. Bố biết con vẫn cố gắng. Đúng không?”

Trong phút chốc, tôi đã hiểu ý ông. Đã hơn một năm trôi qua, trông tôi đã khá hơn nhiều so với khoảng thời gian Andrew vừa mất. Nhưng bố vẫn là bố tôi, ông thừa hiểu rằng đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên Andrew được, dẫu bóng dáng ấy qua từng tháng từng năm đã bị ánh sáng trong tâm trí che khuất từng chút một, nhưng tên anh vẫn mãi mãi tồn tại trong tâm trí tôi, như một vết phế tích đã lên rêu mọc cỏ.

Sức khỏe của bố đã giảm nhiều, thời gian ông làm việc cũng ít lại, và có thể tác phẩm lần này là bản dịch cuối cùng mà ông làm trong sự nghiệp dịch giả của mình.

Có tiếng gõ cửa ngoài cửa chính, bố lặng lẽ nhìn tôi, tôi khẽ cười rồi gật đầu với bố, như một lời hứa với ông.

Tôi vẫn ngồi lại tại phòng đọc sách, ngẩng đầu nhìn kệ sách cao hơn mình cả nửa người, đã lâu rồi tôi không đọc gì ngoài sách ôn tập. Tôi chợt nhớ lại cảm giác khi ấy, một cảm giác dấn thân vào một dòng thời gian, một tâm trí, một câu chuyện như thể diễn ra song song trước mắt mình, lãng quên đi thực tại tôi đang đứng.

Sách gạt đi những nỗi buồn bâng quơ tuổi mới lớn, những đau đáu tuổi trưởng thành, những chán chường của tuổi già, và đọc sách khiến tôi cảm thấy lặng yên. Như thể một cây thông đứng trầm lặng trong khu rừng, để mặc những tác động bên ngoài diễn ra, chỉ chăm chú vào bầu trời trên cao đó.

Tôi không yêu sách được như bố, nhưng một phần nào đó tôi vẫn xem những tác phẩm ấy là những sự tồn tại sâu sắc đáng để ta tìm tòi, những suy nghĩ vượt thời đại, hay chỉ đơn giản là một câu chuyện khiến ta không thể dứt mắt ra. Cuốn sách dang dở cuối cùng mà lần trước tôi đọc trước khi phải tập trung vào kỳ thi là La Dame aux camélias của Alexandre Dumas. 

Tôi có nhớ một đoạn trích rằng: "Tôi thuộc vào loại người tin tưởng rằng cái to lớn xuất phát từ cái nhỏ bé. Đứa trẻ nhỏ bé, nhưng nó chứa đựng con người; khối óc nhỏ bé, nhưng nó chứa đựng tư duy; con mắt chỉ là một cái chấm, nhưng nó nhìn xa tới chục dặm trường…"

Khoảng cách từ nhỏ bé đến lớn lao ấy không chỉ đơn giản là một khoảng cách, mà là những sự giao thoa, những đổi thay, chấp nhận, và đôi khi ta cho đi, hy sinh một thứ gì đó để trở thành hình hài của ta bây giờ.

"Hãy sống như một con chim."

Andrew từng nói: "Trong mỗi lần vấp ngã, em hãy nghĩ rằng mình là một con chim, một con chim đang trong giai đoạn tập đập cánh, và dẫu có bất kỳ sự ngoài ý muốn nào, mọi con chim đều sẽ có thể bay đi."

Trong một bộ phim tôi từng xem, cũng có một lời thoại rằng: "Tôi đã từng nghe kể về một loài chim không chân. Loài chim ấy cứ bay mãi, khi mệt thì lại tựa vào gió để nghỉ ngơi. Nó chỉ đáp xuống duy nhất một lần trong đời. Đấy là khi chết.”

Con chim trên bàn ấy cất lên đôi cánh, ra khỏi cửa sổ và dấn thân vào những vùng ánh sáng. Có lẽ nó sẽ qua được mọi vùng biển, mọi khu đất liền, qua dòng người, hoặc chỉ đơn giản là ra khỏi tầm mắt tôi. Liệu nó sẽ bay đi mãi mãi như thế, hay rồi sẽ có một lúc chẳng bao giờ cất cánh nữa như anh?







.










Văn chương là một trong những phương thức cứu rỗi với nhiều người.

Ai đó đã từng nói như thế. Hoặc chỉ là đột nhiên nó vang lên trong đầu và thôi thúc tôi.

Ngày đi nhà sách ấy, tôi có mua một quyển của Philippe Besson, sau đó nghe tin Andrew mất, đến giờ tôi vẫn chưa thể bắt đầu đọc, nhưng ngay lúc này, chỉ sau suy nghĩ đó thôi, tôi đã cầm cuốn sách lên tay và mở nó ra.

Nhân vật Thomas trong Lie With Me và Andrew khác nhau hoàn toàn.

Anh là kiểu người không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, nhưng ở Andrew, có lẽ không phải chấp nhận hay đã quen với những câu miệng đời, mà là bản thân anh đã chấp nhận buông xuôi. Anh biết rõ bản thân mình hơn bất cứ ai, và anh luôn làm những gì mình thích khi anh còn có thể vui vẻ. Anh không sống cho ai và anh không lo lắng bất cứ điều gì ở tương lai, một tương lai mà hẳn là đã không có cơ hội đến. Đây là điểm duy nhất giống nhau giữa anh và Thomas, đều chấp nhận buông bỏ, nhưng trong định nghĩa của hai sự buông bỏ ấy, anh và anh ta lại khác nhau. Anh đã buông xuôi lòng đáp trả và không quan tâm đến thành kiến của người khác về mình, còn anh ta chấp nhận gạt bỏ bản ngã của mình, cả hai người đều không có một tương lai, một tương lai mà họ mong muốn đó, họ biết rằng nó sẽ không bao giờ đến được. Nhưng trong cuộc đời ngắn ngủi này, anh sống vì những khoảnh khắc ít ỏi lướt qua, anh vui cho anh, không trăn trở vì một ai và không có cái cớ nào hết.

Anh hay dành cho tôi những cử chỉ thân thiết như xoa đầu, bẹo má hay thỉnh thoảng, anh nắm tay tôi khi chúng tôi đi dạo dọc con đường về nhà. Anh kể cho tôi những bí mật của anh, và anh cho tôi một cảm giác dự đoán mà tôi có thể tự tin nghĩ đến phần trăm hình thành của nó. Mà khi ấy tôi đã nghĩ rằng, dù kết quả cuối cùng của chuyện này có không như thế đi chăng, thì nó vẫn mãi mãi là một trong những ngày tôi hạnh phúc nhất. Đối với Andrew, tôi không bao giờ hối tiếc.

Khi còn sống, trong ánh nhìn của một người trầm lặng như tôi, anh như một con chim chao liệng thật tự do dưới vầng ráng chiều. Anh cười nhiều và nụ cười anh rạng rỡ hơn cả ánh mặt trời sau lưng chiếc áo sơ mi kẻ sọc xanh anh thích nhất ấy. Anh làm mọi điều anh thích, tập thổi harmonica, vẽ graffiti, tưới nước cho khóm hồng sau vườn mà tôi và anh cùng trồng, đôi lúc, tôi cảm thấy anh phấn khích quá mức, anh có thể chạy qua vài con phố chỉ để đến một ngọn đồi ngắm mặt trời lặn, phóng xe mà không đội nón bảo hộ chỉ để hóng gió thật nhanh. Anh hay rủ tôi trốn nhà để đến một bãi cỏ hoang ở ngoại ô có những thùng xe bán tải, chúng tôi leo lên cao và ngắm hoàng hôn chìm ngoài biển cả, đôi khi là cùng nhau đếm những vì sao. Anh hay reo hò và hát lên, để tiếng nói của anh như vùng vẫy giữa đất trời, không gì có thể đè nén nội tại của nó.

Và đôi khi tôi thấy anh buồn bã.

Bố mẹ anh ít khi ở nhà, tôi thỉnh thoảng sẽ qua gặp anh để cùng làm bài tập được giao về nhà (đó dường như là cái cớ thực tế nhất, và cũng duy nhất mà tôi nghĩ ra). Tôi mở cửa phòng Andrew, thật ra là một gác mái, luôn gọn gàng và sạch sẽ, đó là ấn tượng lần đầu của tôi về "nơi riêng tư" của anh. Nhưng chỉ duy nhất một lần ấy, tôi mở cửa ra và thấy một đống lộn xộn đập vào mắt mình, bài vở bị lật tung lộn xộn trên bàn học, quần áo ở khắp nơi, ga giường bừa bộn, và Andrew thì nằm quay tấm lưng trần về phía tôi. Anh dường như không nghe thấy tiếng mở cửa (hoặc khi đó anh không muốn để ý), tôi thử gọi tên anh, nhưng anh chẳng đáp gì. Tôi gọi đến lần ba, anh bảo tôi về, tôi phải cố lắm mới nghe được câu trả lời như thầm thì đó từ anh. 

Vài ngày sau đó chúng tôi phải tập trung cho kỳ thi. Tôi không được thấy anh nhiều nữa. Sau khi thi môn cuối cùng, tôi ghé lớp anh và bạn cùng lớp bảo rằng một tuần nay anh đã không đến lớp, bỏ cả kỳ thi. Và sau đó là nghỉ hè, rồi tôi nghe tin anh tự sát.









.









Từ lúc bố rời khỏi Brigham, tôi đã đọc hết sách về chủ đề bệnh tâm lý trong nhà, dành hằng đêm để ăn hết số kem tôi theo thói quen tích trữ trong tủ lạnh, đem hết chăn đệm ra phơi ngoài khi trời đầy nắng, nghe hết nhạc trong danh sách đã lưu trong một lần, vẽ hết quyển ký họa còn dở dang.

Tôi không rõ cảm giác ấy là gì, một cảm giác mà từ khi Andrew mất, đã bị đắm chìm đâu đó trong mớ cảm xúc tiếc nuối và nhớ nhung dai dẳng trong lòng, cũng như là một sự can đảm tôi cố gom góp lại, khi tìm đến bãi cỏ hoang nơi quen thuộc của tôi và anh. 

Tôi không cố lý giải nó, thứ cảm giác ấy.

Nhưng khi được bao bọc bởi những mảng úa vàng trải rộng của những hàng cỏ cao, giữa bầu trời ánh vàng ấm áp, và hơi thở mát lành của biển cả phả từng hồi tiếp bước những cơn gió lướt qua tóc mai, cảm giác đó như đang len lỏi từng chút trong tâm trí tôi, theo mọi nhịp thở đều đặn và nhịp nhàng.

Lúc này tôi nhớ đến Andrew, và tôi nghĩ nếu như có anh ở đây, anh hẳn sẽ thích bầu không khí này, dẫu có đôi lần, anh bảo thích nơi này khi nó chìm về một tông màu lạnh hơn, hoang sơ và buồn bã. Nhưng đôi khi thật sự cảm nhận được niềm vui, anh lại thích cảm giác chúng tôi cùng nhau đắm chìm vào ánh vàng ươm của mùa hè ngỡ đâu bất tận.

Nếu anh đang ở đây, liệu anh sẽ nói gì với tôi?

Nếu bầu trời hôm nay nhiều sao, liệu anh có cùng tôi ngồi đây ngắm chúng, nếu gió thổi mạnh, liệu anh có đứng bên tôi không, dang rộng hai tay ra và hét lên thật lớn, nếu một mùa hè nữa lại đến, liệu anh có còn nhớ lời hứa kia không?

Thỉnh thoảng tôi nhớ, chỉ là thỉnh thoảng mà thôi, nhưng luôn và sẽ luôn có những lần như vậy, tôi nhớ đến mùi hương trên người anh khi đứng trước biển cả đang vẫy chào, trước một mùa hè đang đến và chìm dần theo ánh hoàng hôn, trước những cơn gió sẽ không lần nào quay lại bên tôi nữa. Một mùi hương phóng khoáng bất kham, đôi khi nó thoảng qua mũi tôi, nhưng tôi không còn nhìn thấy tàn ảnh của mái tóc vàng hoe ấy lướt qua khoé mắt mình.

Anh là một cơn gió, là một mùa hè duy nhất không bao giờ quay trở về với tôi.






.










Tôi từng nghĩ rằng thời gian sẽ thay đổi tất cả, tất cả rồi sẽ đều đổi thay, nhưng nếu Andrew vẫn còn sống, biết đâu lại đúng như vậy, có lẽ sẽ có lúc tôi phải chấp nhận rằng anh không còn là “anh” trong tâm thức tôi.
Nhưng anh đã mất. Ngay thời khắc ấy, anh sẽ mãi mãi là người mà tôi thích, là người con trai mãi mãi không đổi thay từ dáng hình nụ cười, bờ vai rộng lớn trong chiếc sơ mi xanh.

Khi trời dần về chiều, tôi nằm dài xuống bãi cát ngắn sau bãi cỏ, để từng đợt sóng biển rì rào đẩy cát phủ lên chân mình, nhắm mắt để chối từ hình ảnh mình đâu đó ngoài kia. Tôi chỉ muốn lặng lẽ nhớ về anh ở nơi này.

Màng trời vàng sậm giao thoa với màu xanh của sóng nước, gió lướt qua người tôi, tách nhau ra khi dấn bước vào những thân cỏ cao ngang hông người trưởng thành, phát ra tiếng rì rào như một dư âm vọng lại chóng vánh.

Tôi nhắm mắt lặng nghe, như cố tìm lại tiếng harmonica ngày nào, sẽ phát ra lần nữa, âm thanh thoát ra từ thanh quản anh, hoà vào gió trời, tan ra đâu đó trên những dải nắng vàng còn đọng lại trên mái tóc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro