Chopin

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chopin

(22/2/1810 - 17/10/1849)

Frédéric François Chopin là một nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan.

Tiểu sử

Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1810 tại làng Żelazowa Wola (Ba Lan) dưới tên Fryderyk Franciszek Chopin; bố là Mikołaj Chopin, một nhạc sĩ gốc Pháp , mẹ là Tekla Justyna Krzyzanowska, một người Ba Lan. Tài năng của Chopin nảy nở từ rất sớm, và được so sánh với thần đồng âm nhạc Mozart. Khi mới 7 tuổi, Chopin đã là tác giả của 2 bản polonaise cung Sol thứ và Si giáng trưởng. Ông cũng đã tham gia một số buổi hòa nhạc từ thiện. Những buổi học piano chuyên nghiệp của ông bắt đầu từ năm 1816 đến năm 1822, khi mà tài năng của cậu bé đã vượt qua cả người thầy Wojciech Zywny của mình. Sự phát triển tài năng của Chopin được theo dõi bởi Wilhelm Würfel, giáo sư, nghệ sĩ piano danh tiếng tại Nhạc viện Warsawa, người đã cho cậu một số lời khuyên có giá trị trong biểu diễn đàn piano và organ.

Từ năm 1823 đến năm 1826, Chopin học tại Warsawa Lyceum, nơi bố cậu là một trong những người giảng dạy. Cậu bé đã dành những kì nghỉ ở những căn nhà của gia đình những người bạn học ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Nhà soạn nhạc trẻ tuổi đã nghe và ghi lại những bài hát dân ca, tham gia vào những đám cưới của những người nông dân và những lễ hội đồng quê, đồng thời chơi một thứ nhạc cụ dân gian giống như cây đàn contrabass. Và tất cả những hoạt động này đã được cậu bé miêu tả trong những lá thư của mình. Chopin đã trở nên gắn bó với âm nhạc dân gian của vùng đồng bằng Ba Lan, với sự thanh khiết, đặc sắc, giàu tính giai điệu và âm hưởng dân vũ. Khi sáng tác những bản mazurka đầu tiên và một số bản khác sau này, Chopin đã dựa vào nguồn cảm hứng được ông lưu giữ đến cuối đời này.

Mùa thu năm 1826, Chopin bắt đầu học lí thuyết âm nhạc và sáng tác âm nhạc tại trường trung học phổ thông về âm nhạc tại Warsawa, một bộ phận của Nhạc viện Warsawa và Đại học Warsawa. Tuy nhiên, Chopin đã không theo học lớp piano. Nhận thấy tài năng xuất chúng của Chopin, Józef Elsner - nhà soạn nhạc và hiệu trưởng của trường - đã cho phép Chopin tập trung vào piano nhưng vẫn buộc ông học các môn lí thuyết. Chopin, vốn có khả năng trời phú về sáng tác âm nhạc, đã học được ở trường sự kỉ luật và chính xác trong kết cấu tác phẩm, cũng như hiểu được ý nghĩa và logic của từng nốt nhạc. Đây là thời gian ra đời của những tác phẩm có tầm cỡ đầu tiên của Chopin, ví dụ như bản Sonata cung Đô thứ, những khúc biến tấu opus số 2 dựa trên một chủ đề trong vở Don Giovanni của Mozart, bản Rondo á la Krakowiak op. 14 và bản tam tấu cung Sol thứ, opus 8 cho piano, violin và cello. Chopin kết thúc quá trình học tập của mình tại trường phổ thông vào năm 1829 và sau 3 năm học tại trường, Elsner đã viết trong một bản báo cáo: "Chopin, Fryderyk, học sinh năm thứ 3, một tài năng lớn, thiên tài âm nhạc".

Mikołaj Chopin,vẽ bởi Mieroszewski, 1829

Khi trở về Warsawa, Chopin cống hiến cho sự nghiệp sáng tác và đã viết một số tác phẩm, trong đó có 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc cung Fa thứ và Mi thứ. Bản concerto số 1 đã được gợi cảm hứng rất lớn từ cảm xúc của nhà soạn nhạc đối với Konstancja Gladkowska, sinh viên thanh nhạc tại nhạc viện. Đây cũng là thời kì Chopin cho ra đời những bản nocturne, étude, waltz, mazurka đầu tiên. Trong những tháng cuối cùng trước ngày Chopin dự định ra nước ngoài sinh sống, Chopin đã có một số buổi biểu diễn trước công chúng, chủ yếu là ở Nhà hát quốc gia Warsawa, nơi 2 bản concerto lần đầu tiên được biểu diễn. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1830, ông đã có một buổi hòa nhạc chia tay tại Nhà hát quốc gia Warsawa, trong đó ông đã biểu diễn bản concerto cung Mi thứ, và K. Gladkowska đảm nhiệm vai trò ca sĩ. Ngày 2 tháng 11, cùng với người bạn Tytus Woyciechowski, Chopin đã đến nước Áo, với dự định đi tiếp sang Italy.

Mùa thu năm 1831, ông đến Paris. Ở Paris, ông chọn nghề chơi và dạy đàn cùng lúc soạn nhạc, và ông lấy tên tiếng Pháp là Frédéric-François Chopin. Cả cuộc đời, sức khoẻ ông không được tốt . Ông có mối quan hệ gần gũi nhưng đầy trắc trở với nhà văn Pháp George Sand trong suốt 10 năm trước khi ông qua đời do lao phổi ngày 17 tháng 10 năm 1849 tại Paris, thọ 39.

(Thêm)

Bệnh dịch tả lại hoành hành ở Paris, những người học trò cuối cùng của Chopin lần luợt rời Paris. Chopin đứng trên bờ vực thẳm khốn cùng và thiếu thốn. Chopin tự tay thiêu hủy rất nhiều bản thảo cua rmình. Ông còn dịnh đốt cả bản sonate bất hủ viết cho đàn violoncello. Năm 1849, một người bạn của ông, bà bá tước Potocka đến bên giường nhạc sĩ thiên tài đang hấp hối và hát cho ông nghe những bài ca của Mozart. Trong di chúc của mình, nhạc sĩ thiên tài người Ba Lan cầu mong được chôn cất ở nghĩa địa Chaleser, còn trái tim thì đưa về tổ quốc Ba Lan xa xôi của mình. Lời nguyện ước ấy của Frederich Chopin đã được toại nguyện.

Frederich Chopin sinh ở Ba Lan, cha là người Pháp, mẹ là người Ba Lan. Con người Chopin chính là sự hòa trộn giữa tính cách Slave và tâm hồn La tinh. Những giai điệu dân ca, những vũ khúc thôn dã thấm vào dòng sữa mẹ nuôi dưỡng cậu bé, nhà soạn nhạc thiên tài không chỉ của riêng đất nước Ba Lan. Đó là những tố chất làm nên một thiên tài âm nhạc thuần khiết, đôn hậu, mãnh liệt và da diết.

Khi còn nhỏ, cậu bé Chopin đã tự kê ghế ngồi trước cây đàn piano. Khúc nhạc đầu tiên của cậu là một khúc ứng tác. Lớn lên một chút, Chopin học nhạc dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Voisech Gipnew. Năm lên 7, sáng tác đầu tiên của Chopin là một bản polonaise. Đó là một trong những giai điệu dân ca quen thuộc của ngưòi nông dân Ba lan chân chất và sôi nổi, giai điệu ấy thấm vào trong máu Chopin từ bé, đến năm lên 9 tuổi Chopin đã nôi tiếng là một nghệ sĩ tài ba trong các buổi biểu diễn trước những người hâm mộ và có vẻ sùng bái. Năm ông 14 tuổi, giáo sư Voisech thú nhận rằng ông "không còn gì dể dậy cho cậu bé thiên tài". Giáo sư nhận xét: "đối vói một thiên tài lớn các quy tắc sinh ra là để bác bỏ". Chopin chính là con người như thế. Sau đó, Chopin được giới thiệu đến học nhạc sĩ sáng tác nổi tiếng Guizep Enxe. Năm 15 tuổi, Chopin đã rong ruổi trên khắp đất nước Ba Lan, cậu bé vừa biểu diễn, vừa quan sát, học hỏi và lắng nghe, thu lượm các làn điệu dân ca. Âm nhạc các miền đất, vùng quê thấm dần vào cậu bé. Năm 1826, vừa tròn 16 tuổi, Chopin vào học trường cao đẳng âm nhạc .Năm 18 tuổi Choipin đã sáng tác hai bản rondo cho đàn piano. Trong chuyến đến thủ đô Viên biểu diễn lấn đàu tiên liến trong hai buổi, cả kinh đô Âm nhạc Châu Âu nồng nhiệt đón tiếp và ngưỡng mộ tài năng của nhạc sĩ trẻ thiên tài trên cây đàn piano với một sức hút kỳ diệu. Từ Viên, Chopin tiếp tục hành trình lưu diễn ở Dresden (Đức)

Vừa tròn 20 tuổi, chàng thanh niên lòng tràn ngập tình yêu quê hương, phải dứt áo từ giã tổ quốc Ba Lan. Đó là năm 1830, Chopin mang theo bên mình nắm đất quê hương đựng ttrong một chiếc cốc bằng bạc .Trước khi ròi tổ quốc, Chopin chơi bản concerto giọng mi thứ như một lời vĩnh biệt người thân, bạn bè để sang sinh sống tại Pháp, quê hương của cha mình. Ông đến Paris đúng vào thời kỳ rực rỡ nhất của chủ nghĩa lãng mạn. Tại đây, ông gặp Liszt, nghệ sĩ chơi piano điêu luỵện người Hung và nhà thơ vĩ đại người Đức Heine. Ngay lập tức, Chopin trở thành thần tượng trong các phòng nhạc của giới quý tộc và quyền quý. Đây cũng là nơi những tâm hồn nhạy cảm, ngây ngất khi được nghe những bản polonaise bất hủ hoặc những điệu vũ mazurka của Chopin.

Thời đó, người ta gọi Chopin là nhà thơ - nhạc sĩ điêu luyện trên cây đàn piano đầy uy quyền. Hơn thế, ông còn là một người luôn tìm tòi khám phá những tính năng tiềm ẩn của nhạc cụ này. Khi biểu diễn piano, ông thường có một người thợ đàn để cân chỉnh lưỡng từng sợi dây, từng nốt nhạc.

Năm 1836, Chopin gặp nữ văn sĩ George Sanz.Thế là bắt đầu một cuộc tình kéo dài suốt 10 năm ròng rã. Hai người trải qua những ngày hè cháy bỏng yêu đương ở Nohan, miền trung nước Pháp. Giai diệu dào dạt, da diết tràn đầy tình yêu cuộc sống, thiên nhiên và con người trong bản concerto giọng Si giáng thứ được ông ấp ủ vào mùa hè cháy bỏng tình yêu này. Sau khi từ Malorca trở về, Chopin đã hoàn thành tác phẩm tuyệt vời này. Toàn bộ bản concerto chứa chan nỗi khát khao, lòng nhiệt tình như ngọn lửa rực cháy. Tính chất mạnh bạo khác thường trong kết cấu các chương của bản concerto mà Choipin sử dụng để hợp nhất thành một thể thống nhất gồm 4 phần, dường như tương phản nhau. Bản nhạc khiến những người đương thời quen với thể loại này cũng phải sửng sốt. Mỗi chương có một cuộc sống riêng đầy rạo rực nhưng đều thấm đẫm một thứ tình cảm tràn trề. Đó là cảm giác về một cuộc đấu tranh căng thẳng, mãnh liệt. Ngay hợp âm đầu tiên đã báo hiệu điều đó. Đồng thời những nét nhạc tương phản dữ dội lại hết sức hợp lý .Những giai điệu hợp lý nhưng chứa đầy ý nghĩa và tuyệt đối .Chính George Sanz đã nhận xét "bản concerto tuyệt đẹp và nghe đau đớn như xé ruột " Chương hai với những hồi ức xiết bao sung sướng và xa xôi, khiến cho giai điệu tươi sáng ở đoạn giữa phần Schetzo. Chương 3 trở lại giai điệu này và sau đó, gần như ở phần cuối, âm nhạc lại ngoái nhìn một lần nữa bức tranh phong cảnh thanh bình thời ấu thơ niên thiếu.Tuyệt vọng, lo lắng và buồn rầu, những tình cảm đó, Chopin không bao giờ thể hiện trong Âm nhạc mặc dù những năm đó,Chopin mắc bệnh lao. Nhạc sĩ người Đức Medelssohn thốt lên "Chopin là cả một lò lửa. Ông nung nóng chảy tất cả những gì mà cuộc sống ban cho. Và ông ấy đã rút ra từ đó kho báu hết sức quý giá"

Suốt cả mùa đông hai năm 1838-1839, George Sanz đưa ông đến đảo Balearet - vùng Marloca. Nàng hy vọng rằng với sóng gió,nắng biển và bầu trời trong xanh, Chopin sẽ sớm khỏi bệnh, song vô vọng. Thời gian này Chopin đã sáng tác 25 bản prelude và các bản marzurka. Năm 1843, nhạc sĩ Liszt hết sức thán phục và nói "khác với Chistopher Columb, cậu đã phát hiện ra, không phải một thế giới má là nhiều thế giới"

Thời gian Chopin mắc bệnh nặng, ông thay đổi nhiều, sức khỏe giảm sút, yếu đi rất nhanh. Năm 1844, khi vào tuổi 34, Chopin sáng tác bản polonaise giọng Fa giáng thứ. Đó là bản polonaise ảm đạm nhất trong các bản polonaise nổi tiếng của ông. Giới phê bình âm nhạc thế giới đặt tên là "Hành khúc tang lễ ". Tác phẩm súc tích toát lên nỗi đau thương vô hạn. Song âm hưởng của khúc nhạc cũng gợi lên trong lòng người niềm xúc động sâu thẳm nuôi dưõng tinh thần và dấn bước đi lên vượt qua những mất mát đau thương. Bản nhạc không có đoạn kết hân hoan, thực ra mỗi bản nhạc trong thể loại này đáng giá bằng một bản concerto hoặ sonate. Thậm chí, khi tác phẩm khép lại thì cùng lúc mở ra cả một thế gíới âm nhạc đồ sộ. Đôi khi người ta ví nó như những giao hưởng tầm cỡ

Những bản mazurka của Frederich Chopin thực sự là những bức tranh xinh xắn, những bức họa bằng những âm thanh mỹ lệ. Mỗi bản nhạc chứa đầy mầu sắc lung linh huyền diệu, giới phê bình âm nhạc đương đại đánh giá là cuốn" bách khoa toàn thư" âm nhạc về những tình cảm của con người. Đặc biệt, thể loại étude, trước thời Chopin vốn là những bài tập cho người nghệ sĩ trên cây đàn piano, nhưng đến khi qua bàn tay kỳ diệu của Chopin hầu hết các étude đã trở thành những tác phẩm âm nhạc đích thực. Giá trị của nó cũng sánh ngang với bất cứ thể loại âm nhạc nào, trước đó và sau này.

Trái tim nằm trong lòng đất mẹ

Những năm sống ở Paris cho đên ngày cuối đời, đối với Chopin là những năm tháng dài dằng dặc. Nhất là những ngày mùa thu và đông giá lạnh, khi dịch cúm hoành hành dữ dội. năm 1845, khi Chopin 38 tuổi, sau 17 năm sống ở Paris, ông quyết định chuyển sanhg sống ở London. Âm nhạc của ông lập tức được gười dân Anh quốc đón nhận và yêu thích. Công chúng ở xứ sở sương mù đón nhận những bản nhạc viết cho đàn piano của nhạc sĩ thiên tài người Ba Lan như những dòng suối tuôn trào không bao giờ cạn.Sống giữa thủ đô nước Anh ảm đạm, ẩm ướt và khó chịu,nhưng Chopin vẫn phải vừa dạy đàn piano, vừa biểu diễn để kiếm sống. Quả thật ở đây, ông không làm sao có cảm hứng mà sáng tác nổi một dòng nhạc dù là nhỏ nhất.Trái tim ông vẫn hằng mơ về Paris,về những cánh rừng,những ngày hè chan hòa ánh nắng. Nhất là lòng ông không sao nguôi ngoai nỗi nhớ về chuỗi ngày sống tràn đầy yêu thương với bạn bè và những người thân thiết. Cuối cùng,nỗi mong nhớ Paris đã buộc nhạc sĩ rời bỏ London, vĩnh viễn không bao giờ trở lại đất nước ảm đạm, dầy đặc sương mù, luôn thiếu ánh mặt trời và những nụ cười.

Trở lại nước Pháp, nhưng Chopin vẫn không sao quên được nỗi lo sợ bị chôn sống luôn ám ảnh tâm trí. Amadeus Mozart mất năm 36 tuổi, Franz Schubert chết sớm hơn, vào tuổi 31.Còn Ludwig van Beethoven cuộc sống kéo dài hơn 50 năm. Những năm cuối cuộc đời đối với nhạc sĩ thiên tài thật nặng nề, khủng khiếp. Ông chiến đấu với bệnh điếc cùng những nỗi bất hạnh triền miên. Còn Johan S. Bach, mặc dù sống đến già nhưng cuộc sống hoàn toàn cách biệt với thế giới bởi mắt hoàn toàn bị mù. Frederich Chopin thường bị ám ảnh trước những số phận tài danh bạc mệnh ấy. Những ngày cuối đời, ông sống ở Paris hoàn toàn cô đơn,cách biệt. Bản polonaise cuối cùng của nhạc sĩ chính là lời từ biệt cuộc đời. Bản nhạc này toát lên những cảm xúc mỏng manh, nhẹ nhàng, tựa như 1 hơi thở, một làn gió.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#chopin