Chtranh bgioi 1979-su3sao vang-1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

chương bảy

ĐỊA BÀN MỚI, NHIỆM VỤ MỚI, KẺ THÙ MỚI

1. THẾ TRẬN [/b]

Khi truy kích giặc tới phần đất cuối cùng của bán đảo Vũng Tàu cũng như khi vượt biên đi giải phóng Côn Đảo trong chiến địch Hồ Chí Minh lịch sử, các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng ít ai nghĩ rằng, để bảc vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ Quốc, bốn năm sau, họ lại bước vào một cuộc chiến đấu mới, chống một kẻ thù mà hôm qua còn là đồng chí, còn là người bạn.

Tháng 6 năm 1976, trước những âm mưu mới của giới cầm quyền Bắc Kinh, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều sư đoàn Sao Vàng của Quân khu 5 ra phía bắc, làm nhiệm vụ thường trực cơ động của Quân khu 3 và của Bộ.

Lúc này, tình hình biên giới phía tây-nam Tổ Quốc đã có những diễn biến phức tạp. Ngay từ cuối tháng 4 năm 1975, bọn phản động Pôn Pốt - lêng Xa-ri, theo lệnh của Bắc Kinh đã tập kích đánh chiếm nhiều đồn biên phòng Việt Nam ở biên giới giữa hai nước, tổ chức nhiều vụ đột nhập vũ trang sâu sang lãnh thổ Việt Nam, gây nên nhiều tội ác man rợ đối với đồng bào ta sống dọc theo biên giới ở địa phận Quân khu 5, Quân khu 7 và Quân khu 9.

Ở biên giới phía bắc, những cuộc khiêu khích vũ trang của quân Trung Quốc cũng liên tiếp xảy ra tại các đồn biên phòng, các cột mốc biên giới. Bọn người theo chủ nghĩa Mao đã không từ bất kỳ một thủ đoạn hèn hạ nào để lấn chiếm từng thước đất, kể cà việc lén lút di chuyển các cột mốc đến những vụ đột nhập sâu sang lãnh thổ Việt Nam.

Như vậy, trong cùng một lúc, bè lũ phản động Bắc Kinh đã nham hiểm thọc hai mũi dao vào hai đầu Tổ Quốc ta, kết hợp với việc âm mưu gây rối trong nội địa, hy vọng có thể làm suy yếu, tiến tới khuất phục nước Việt Nam, một đất nước vừa trải qua 30 năm chiến tranh gian khổ và ác liệt nhất trong lịch sử của mình.

Nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược do bọn bành trướng Bắc Kinh gây ra đối với Tổ Quốc ta đang đến gần. Một lần nữa, cùng với quân dân cả nước, với trách nhiệm thiêng liêng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối đầu với quân Trung Quốc xâm lược. Và họ đã tổ chức cuộc hành quân trở lại phía bắc với tỉnh thần khẩn trương nhất.

Trong buổi gặp mặt thân mật chia tay với cán bộ sư đoàn, Thiếu tướng Đoàn Khuê thay mặt Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã trao tặng sư đoàn lá cờ mang dòng chữ: "Phát huy truyền thống,sẵn sàng chiến đấu, sản xuất qiỏi, đoàn kết quân dân tốt". Nhân dịp này, với tình cảm của những người ruột thịt, tỉnh ủy và nhân dân Bình Định đến thăm và tặng sư đoàn lá cờ với dòng chữ "Nghĩa tình sắt son". Hai lá cờ đã nói lên tất cả tấm lòng của Bộ tư lệnh Quân khu, của quân dân miền Trung đối với sư đoàn.

Ngày 13 thăng 7 năm 1976, chuyến xe đầu tiên của sư đoàn lên đường. Đoàn xe lần lượt qua Phú Yên, vượt đèo Cù Mông xuống thung lũng Vân Canh. Một vùng đất quen thuộc, hiện ra trước mắt các chiến sĩ. Từ đây, mỗi địa phương đều gợi lên một chiến công, đều gắn bó với một thời kỳ oanh liệt trong trang sử mười năm trưởng thành và chiến đấu của sư đoàn. Lòng các chiến sĩ bồi hồi khi xe qua ngã ba đường số 19, con đường đẫm máu bọn lính đánh thuê Nam Trịều Tiên và đã kết thúc số phận bi thảm của sư đoàn 22 ngụy vào mùa hè năm trước.

Xe chạy qua những miền đất trù phú của tỉnh Bình Định, các chiến sĩ nhớ tới những tháng năm nóng bỏng hoạt động độc lập ở phía nam tỉnh, ở Phù Mỹ miền đất gợi nhớ những năm tháng vẻ vang với những người mẹ, người chị khi gặp các chiến sĩ vượt "ranh" xuống chỉ biết ôm lấy họ mà khóc để rồi vài hôm sau, kéo đi bao vây bức hàng, bức rút hàng loạt chốt điểm địch. Xe vượt qua Bồng Sơn, Đệ Đức, Tam Quan, Hoài Châu. Lòng mọi người nhói lên một niềm day dứt, sự day dứt của một đứa con đi qua nhà mà không kịp dừng lại để thăm những người mẹ, người cha đã thắt lưng buộc bụng nuôi mình, hôm nay đã kiên nhẫn cày cuốc, xây dựng lại làng mạc bị chiến tranh tàn phá.

Trong suốt những năm trụ bám ở vùng đất này cho tới khi dừng lại ở bán đảo Vũng Tàu lộng gió, lòng các chiến sĩ không lúc nào nguôi nỗi nhớ đất, nhớ người Nghĩa Bình. Họ luôn thầm mong sẽ có dịp trở về vùng đất ấy cùng với đồng bào trồng lại từng gốc dừa, dựng lại từng ngôi nhà, xóa dần đi những vết tích đau thương cũ. Nhưng bọn bành trướng Bắc Kinh đã không cho họ kịp làm công việc đó.

Đoàn xe nối nhau chạy qua những vùng đất sâu nặng nghĩa tình, gắn bó sắt son. Trước mắt các chiến sĩ là nhiệm vụ, là một cuộc chiến đấu mới, sau lưng họ là chiến công. Họ tin một cách mãnh liệt rằng, đã có những tháng năm như thế, họ sẽ không lùi bước trước bất kỳ một kẻ thù nào nếu chúng dám đụng đến Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mới ngày nào, họ còn phải làm cuộc trường chinh vào phía nam, hôm nay họ lại hành quân cuồn cuộn ra phía bắc. Miền đất hôm qua là hậu phương lớn, hôm nay đang đứng trước một kẻ thù mới.

Cuộc hành quân lịch sử vượt 1.400 ki-lô-mét bằng cơ giới của sư đoàn kết thúc vào những ngày đầu tháng 8 năm 1976. Tỉnh ủy và các cơ quan tỉnh Hà Bắc cũng như chính quyền và nhân dân hai huyện Lục Nam, Lục Ngạn, nơi sư đoàn đứng chân, bằng mọi cách đã giúp đỡ sư đoàn ổn định nơi ăn, chốn ở, vui mừng đón sư đoàn như đón những người con thân yêu đi chiến đấu xa trở về.

Từ tháng 8 năm ấy, sư đoàn vừa làm nhiệm vụ thường trực cơ động, sẵn sàng chiến đấu vừa làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và huấn luyện chiến sĩ mới cho Quân khu 3, một công việc hết sức mới mẻ đối với sư đoàn.

Lúc bấy giờ, bọn bành trướng Bắc Kinh thông qua bọn tay sai Pôn-pốt-lêng Xa-ri đang đẩy cuộc xâm lấn ở biên giới tây-nam thành một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc trên mốt quy mô lớn. Bọn Pôn-pốt đã huy động hàng vạn quân tràn sang lãnh thổ Việt Nam, tàn sát, cướp bóc, hãm hiếp gây nên những tội ác tày trời đối với nhân dân ta. Chúng ngang ngược đòi chủ quyền đảo Phú quốc, các tỉnh miền Tây và đe dọa tiến quân vào Sài Gòn. Kết hợp với mũi dao thọc vào bên sườn ấy, bọn cầm quyền Bắc Kinh đơn phương tuyên bố cắt viện trợ, rút chuyên gia về nước, đình chỉ hơn bảy mươi công trình đang xây cất dở dang, xúi giục bọn xấu trong người Việt gốc Hoa chống lại Chính phủ ta, rời bỏ nơi họ đang sinh sống, vượt biên giới về Trung Quốc. Đối với các tỉnh phía nam, chúng gây nên một làn sóng di tản ồ ạt. Một chiến địch tiến công vào nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã được triển khai trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao. Chúng hy vọng trong một thời gian ngắn có thể bẻ gãy được ngọn cờ Việt Nam, lực lượng chủ yếu ngăn chặn làn sóng bành trướng của chúng xuống Đông-nam Á.

Những điều kiện chuẩn bị cho một cuộc xâm lược vũ trang lớn đang được chúng đẩy tới mức độ cao.

Thời gian này sư đoàn đang làm nhiệm vụ huấn luyện tân binh, tham gia xây dựng kinh tế và thực hiện chính sách phục viên, xuất ngũ cho cán bộ chiến sĩ. Nắm vững nhiệm vụ chính của mình, nhận thấy được những khó khăn, phức tạp nếu đơn vị bước vào chiến đấu ngay bởi sự trống thiếu đội ngũ cán bộ cơ sở và chuyên môn kỹ thuật do phải thực hiện ra quân hàng loạt, đảng ủy và chỉ huy sư đoàn chủ trương động viên số cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm chiến đấu; có trình độ chuyên môn khá ở lại giúp sư đoàn đào tạo các cán bộ tiểu đội, pháo thủ, y tá, thông tin và huấn luyện chjến sĩ mới. Hai tiểu đoàn huấn luyện chiến sĩ mới và đào tạo hạ sĩ quan được tổ chức; các lớp đào tạo y tá, báo vụ, pháo thủ liên tục mở. Chỉ một thời gian ngắn sư đoàn đã có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ nòng cốt đủ khả năng chỉ huy và phục vụ chiến đấu, đây là một chủ trương mà sau này được đánh giá là nhạy bén và kiên quyết, bởi vai trò to lớn của nó trong những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc.

Mọi công việc vừa hoàn thành thì trung tuần tháng 7 năm 1978 sư đoàn được lệnh về Quân khu 1 làm nhiệm vụ phòng thủ ở đông-nam tỉnh Cao Lạng, một địa bàn trọng yếu của quân khu và của Bộ.

Nếu như hai năm trước, tỉnh ủy và nhân dân Hà Bắc đón sư đoàn như đón những người con đi chiến đấu xa trở về thì hôm nay, tỉnh ủy và nhân dân Lạng Sơn đã nồng nhiệt đón sư đoàn như đón những người con đến đứng chung một chiến hào, một trận địa, chia sẻ từng nỗi lo toan và cùng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ từng quả đồi, từng con suối, từng màu áo của các dân tộc trên mảnh đất địa đầu của Tổ Quốc.

Cũng như nhiều tỉnh biên giới khác, địa hình Lạng Sơn chủ yếu là đồi núi kế tiếp, xen kẽ nhau: Tỉnh có 10 huyện thì năm huyện nằm dọc theo biên giới với chiều dài 253 ki-lô-mét (từ cột mốc 1 đến cột mốc 61). Phía bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc), phía đông giáp Quảng Ninh, tây giáp Cao Bằng và phía nam giáp Hà Bắc với các con đường chiến lược quan trọng là 1B, 4A, 4B. Tuyến đường sắt chạy song song với đường 1A từ Hà Nội đến cột mốc số 0 ở Hữu Nghị Quan (cũ).

Lạng Sơn là tỉnh biên giới gần Thủ đô Hà Nội nhất( 150 ki-lô-mét), lại có đường sắt, đường bộ, thuận tiện cho việc di chuyển lực lượng. Vì vậy, khi cuộc chiến tranh với bọn bành trướng Bắc Kinh xảy ra, nhất định chúng sẽ chọn Lạng Sơn làm hướng tiến công chủ yếu.

Chính tại vùng đất cửa ngõ hiểm trở này, đến nay vẫn còn ghi lại những kỳ tích lịch sử nổi tiếng gắn liền với chiến công của tổ tiên ta trong hàng ngàn năm chống quân xâm lược phương bắc. Tại đây, Thoát Hoàn đã phải chui vào ống đồng thoát thân. Liễu Thăng phải bỏ xác tại Mã Yên, Tôn Sỹ Nghị sau trận đại bại ở Đống Đa cũng bỏ chạy thục mạng qua đất Lạng Sơn để thoát về bên kia biên giới. Có thể nói trong những cuộc chiến tranh chống bọn xâm lược phương bắc ấy, đồng bào các dân tộc Lạng Sơn là người cầm vũ khí đứng lên đánh tên xâm lược đầu tiên và cũng là người quét sạch tên địch cuối cùng ra khỏi đất nước. Lạng Sơn còn nổi tiếng với cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940), với chiến địch Biên giới (1950) trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã gửi hàng vạn con em đi các chiến trường chiến đấu và cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Cảnh giác, đoàn kết và anh dũng chống giặc ngoại xâm là truyền thống, là niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn.

Nói đến Lạng Sơn, không thể không nói tới động Tam Thanh, chợ Kỳ Lừa, thị trấn Đồng Đăng... mà phiên chợ nào cũng là một ngày hội tưng bừng của các dân tộc Tày, Nùng, Dao. Tại miền đất này, tiếng đàn tính, tiếng hát then, hát lượn, hát xli đã vang lên trong cuộc sống thanh bình, êm ả từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Giờ đây, cuộc sống ấy đang bị bọn phản động Bắc Kinh đe dọa. Chúng không muốn có một tỉnh Cao Lạng giàu đẹp ở bên cạnh, cũng như bọn phong kiến phương bắc trong lịch sử không muốn có một nước Việt Nam độc lập ở phương nam.

Trung tuần tháng 7 năm 1978 toàn bộ đội hình sư đoàn Sao Vàng cùng với trung đoàn 166 pháo mặt đất và trung đoàn 272 pháo phòng không của quân khu và nhiều đơn vị trực thuộc khác của Bộ đã có mặt ở Lạng Sơn.

Ngày 9 và 10 tháng 8, đảng ủy sư đoàn họp xác định quyết tâm xây dựng phương án phòng thủ cơ bản. Khác với cuộc kháng chiến chống Mỹ - ngụy trước đây ở miền Nam, đối tượng tác chiến lần này của sư đoàn Sao Vàng là một đối tượng hoàn toàn mới. Làm thế nào để có thể phòng ngự được thật vững và giữ được thế chủ động ngay từ đầu?. Làm thế nào để có thể kết hợp được những kiến thức mới về phòng ngự trận địa, về phản kích, với những kinh nghiệm tiến công và phòng giữ trước đây, khi trận địa phòng ngự sư đoàn đang đảm nhiệm là một vùng quan trọng của biên giới quốc gia? Đó là những câu hỏi đặt ra không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng mà cả trong công tác tổ chức, chỉ huy, chiến thuật và chiến đấu cụ thể.

Sau hai ngày làm việc, hội nghị khẳng định: "Chủ động, sẵn sàng đánh địch nhất định sẽ tìm ra cách đánh. Và phương án phòng ngự cơ bản của sư đoàn được thông qua.

Những ngày sau đó, một đợt mở đường xây dựng trận địa đã diễn ra sôi nổi và khẩn trương. Bộ đội và nhân dân các dân tộc ở Lạng Sơn với cuốc xẻng, xe gạt, xe ủi tất cả đều đổ ra mặt đường, đổ lên các điểm cao. Mỗi ngày mỗi giờ đối với sư đoàn lúc này hết sức quý giá... Khẩu hiệu hành động của bộ đội là: Nằm sương ngủ đất để hoàn thành trận địa phòng ngự. Bộ tư lệnh sư đoàn vừa đôn đốc xây dựng trận địa, vừa tổ chức cho các đơn vị tranh thủ ôn luyện chiến thuật cũ cũng như học tập các chiến thuật mới. Kết quả, sau năm tháng lao động quên mình, hơn 113.500 mét khối đất đá được đào đắp, gần 20 nghìn công sự được xây dựng, hàng chục bãi mìn hỗn hợp, bãi vật cản đã được bố trí và ngụy trang dọc theo biên giới. Các lớp học bồi dưỡng kỹ thuật, chiến thuật cho cán bộ các cấp cũng đạt kết quả tốt.

Cùng với việc nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự bộ tư lệnh sư đoàn và cơ quan chính trị còn tổ chức những đợt học tập chính trị sâu rộng trong toàn sư đoàn mà trọng tâm là xác định rõ nhiệm vụ mới, kẻ thù mới, trên địa bàn mới. Hai cuộc vận động: "phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân" và "Bồi dưỡng, rèn luyện, lựa chọn những quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng" do Ban Bí thư Trung ương Đảng và đảng ủy quân khu phát động được các đơn vị trong sư đoàn nhiệt liệt hưởng ứng. Các chỉ tiêu thi đua phấn đấu trở thành chiến sĩ ưu tú, đơn ại quyết thắng, cá nhân diệt 30 - 40 tên địch trở thành phổ biến hầu khắp các đơn vị.

Đầu tháng 10, Bộ chỉ huy, Mặt trận thống nhất nam Cao Lạng được thành lập do đồng chí Nguyễn Duy Thương, sư đoàn trưởng sư đoàn Sao Vàng làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Trường Minh, ủy viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy Cao Lạng làm chính ủy. Thành phần của Bộ chỉ huy Mặt trận còn có các đồng chí đại diện ủy ban nhân dân tỉnh, bộ chỉ huy quân sự tỉnh, ty công an và thị đội Lạng Sơn. Song song với việc thành lập Bộ chỉ huy Mặt trận, ban chỉ huy thống nhất các huyện cũng được thành lập gồm huyện ủy, huyện đội và cán bộ chỉ huy trung đoàn. Theo chỉ thị của trên, Bộ tư lệnh Mặt trận thống nhất nam Cao Lạng chủ trương rút một số cán bộ sư đoàn Sao Vàng về tăng cường cho các trung đoàn của tỉnh, tiểu đoàn của huyện đồng thời đảm nhiệm việc bồi dưỡng huấn luyện kỹ chiến thuật cho các lực lượng địa phương. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương thị xã Lạng Sơn và các huyện Văn Lãng, Cao Lộc được bố trí trong đội hình các trung đoàn chủ lực do trung đoàn chỉ huy.

Cho đến cuối tháng 1 năm 1979, trận địa phòng ngự thê đội 1 của sư đoàn căn bản được xây dựng xong với chiều dài 60 ki-lô-mêt. Trận địa thê đội 2 cũng đang được triển khai. Khu vực phòng ngự của sư đoàn tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã được chuẩn bị súng đạn, công sự, lương thực, nước uống khá chu đáo. Các chiến sĩ đều tin chắc rằng, trong trận quyết chiến sắp tới, một lần nữa, chiến thắng sẽ lại thuộc về họ.

*

* *

Ở bên kia biên giới, bọn giặc cũng ráo riết đào đắp công sự, tập trung xe pháo chuẩn bị cho một cuộc xâm lược lớn.

Thời gian này, Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia đã được thành lập. Quân đội nhân dân Việt Nam cùng lực lượng cách mạng Cam-pu-chia đã đánh bại quân của bọn Pôn-pốt ra khỏi biên giới Việt Nam Cam-pu-chia. làm chủ nhiều vùng đất đai rộng lớn.

Vào đầu tháng 7 năm 1978, bọn phản động Bắc Kinh gây ra vụ "nạn kiều" cưỡng bức hàng vạn gia đình người Việt gốc Hoa công khai kéo qua cửa khẩu Hữu Nghị Quan về nước. Đoàn người khốn khổ bị chúng lừa gạt này nối nhau đi trên các ngả đường, đói khát, bệnh tật không ngừng giày vò, hành hạ họ. Ngày 12 tháng 7, chúng đột ngột đóng chặt cửa khẩu, khiến đám người đi từ các nơi đến đây bị dồn cục lại, phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Nhiều lần đại diện của ta yêu cầu chúng mở cửa nhưng chúng không chịu. Xúi giục người ta đi rồi giở trò không cho người ta đi tiếp là một thủ đoạn thấp hèn nhằm vu khống Đảng và Chính phủ ta. Ngày 25 tháng 8, chúng còn cho côn đồ từ bên kia biên giới tràn sang, dùng dao quắm, gậy gộc hành hung các nhân viên y tá, các mẹ, các chị đang chữa chạy, cung cấp thuốc men cho những người Hoa đau yếu. Hôm đó, các chiến sĩ đồn 193 bộ đội biên phòng ở Hữu Nghị Quan đã kiên quyết đánh trả bọn địch và Lê Đình Chinh, người chiến sĩ ưu tú đã anh dũng hy sinh trong lúc trừng trị những hành động côn đồ của giặc.

Cái chết anh hùng của người chiến sĩ biên phòng ấy đã gây xúc động lớn trong toàn sư đoàn. Một phong trào thi đua trở thành chiến sĩ ưu tú, phấn đấu trở thành đảng viên, đoàn viên dấy lên khắp các đơn vị. Học tập Lê Đình Chinh, chiến sĩ trinh sát mới nhập ngũ NguyễnVăn Tân thuộc trung đoàn 12, trong một lần đi tuần tra bị một toán lính Trung Quốc nhảy ra bắt cóc; một tên giặc lao tới ôm chặt lấy Tân; rất nhanh, Tân lộn người né tránh, rút dao cắm vào giữa lưng hắn. Đó là tên lính Trung Quốc đầu tiên bị các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng tiêu diệt. Mũi dao của Tân đã mở đầu cho những đòn trừng trị địch đáng sau đó đối với bọn lính Trung Quốc xâm lược.

Cuối tháng 10 năm 1978. Thượng tướng Chu Huy Mân, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cùng với đoàn cán bộ Tổng cục Chính trị lên kiểm tra trận địa phòng ngự của sư đoàn. Đến trận địa của tiểu đoàn 4 trung đoàn 12, đồng chí hỏi các chiến sĩ:

- Các đồng chí rời đồng bằng lên canh giữ những dải đồi trọc, khí hậu khắc nghiệt này có ý nghĩa gì?"

- Đồi trọc nhưng là lãnh thổ của đất nước ta. Có giữ được dải đồi này mới giữ được đồng bằng, mới bảo vệ được Tổ quốc ạ? - Một chiến sĩ trả lời.

Thượng tướng gật đầu nói:

- Đúng, dù là đồi trọc nhưng cha ông ta đã phải đánh đổi biết bạo xương máu mới có được. Dù là đá sỏi, nhưng đó là chủ quyền của Tổ quốc. Các đồng chí nhận thức như thế là rất đúng, rất tốt.

Tiếp đó là những lần kiểm tra của Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng, Trung tướng Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Giám dốc Học viện quân sự cấp cao Hoàng Minh Thảo. Các đồng chí đều đi khắp lượt các điểm tựa phía trước, tham gia ý kiến với bộ tư lệnh sư đoàn, cán bô các cấp và chiến sĩ về bố trí trận địa và cách đánh. Sự quan tâm của các đồng chí đã củng cố thêm thế trận của sư đoàn và tăng thêm niềm tin đối với cán bộ, chiến sĩ.

Cùng với sự chỉ đạo, theo dõi thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Quân khu, tỉnh ủy và nhân dân tỉnh Lạng Sơn cũng đánh cho sư đoàn sự chăm sóc đặc biệt. Ngay sau vụ Trung Quốc cho côn đồ sang hành hung ở Hữu Nghị Quan ngày 25 tháng 8, tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ thị cho các xưởng cơ khí trong toàn tỉnh ngừng sản xuất các mặt hàng trong một thời gian, tập trung làm chông sắt, cọc sắt chi viện cho sư đoàn xây dựng trận địa phòng ngự. Các đội dân quân sát cánh cùng với các chiến sĩ, các đồn biên phòng đi tuần tra ngày đêm, sẵn sàng trừng trị bọn thám báo đột nhập vũ trang, khiêu khích.

Các đoàn đại biểu của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân, tỉnh hội phụ nữ, tỉnh đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thường xuyên đến các trận địa, thăm hỏi, động viên chiến sĩ. Chị Đường Thị Kim, tỉnh ủy viên, hội trưởng hội phụ nữ tính, mỗi lần cùng với đoàn cán bộ phụ nữ đến thăm các điểm tựa, ngoài quà bánh, các chị còn mang theo gà con, hạt giống rau để các chiến sĩ phát triển chăn nuôi, sản xuất.

Từ Hà Bắc, Hà Nội, với vị trí là hậu phương trực tiếp của các tỉnh biên giới phía bắc, đặc biệt, với tinh thần chuẩn bị đánh quân Trung Quốc xâm lược từ xa, đã huy động hàng trăm chuyến xe, chở hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, hàng hóa cho sư đoàn Sao Vàng và quân dân Lạng Sơn đủ dùng trước mắt và chiến đấu lâu dài. Rồi các cơ quan trung ương, các trường đại học, trung học, các trường phổ thông cơ sở ở Hà Nội, ở các tỉnh miền Nam, ở Thành phố Hồ Chí Minh liên tiếp gửi lên biên giới, gửi đến sư đoàn Sao Vàng nhiều quà tặng, thư thăm hỏi, khích lệ ân tình.

Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử chiến đấu của mình, chiến sĩ sư đoàn lại thấy được gần gũi với hậu phương lớn, được sự chăm sóc, động viên của cả nước kịp thời như lúc này. Niềm phấn chấn, niềm tin, niềm tự hào tràn ngập trong lòng chiến sĩ.

Những ngày chuẩn bị trận địa khẩn trương và ấm tình quân dân nhanh chóng trôi qua. Rồi mùa xuân đến trên các triền đồi bao quanh các điểm tựa, hoa mận nở bung từng mảng trắng xóa xén kẽ với những mảng hoa đào đỏ tươi. Nhân dịp năm mới, sư đoàn Sáo Vàng vui mừng được nhận lẵng hoa của Bác Tôn gửi tặng. Trong buổi lễ đón nhận lẵng hoa của Bác Tôn, chính ủy sư đoàn Nguyễn Khắc Hào bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của toàn thể cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn trước sự quan tâm chăm sóc của Đảng, Chính phủ và Bác Tôn nhân dịp năm mới và hứa: "Nếu kẻ thù liều lĩnh xâm phạm biên giới Tổ quốc, sư đoàn kiên quyết đánh thắng chúng ngay từ trận dầu, thắng liên tục, thắng giòn giã để bảo vệ biên giới Tổ Quốc, xứng đáng với sự chăm sóc của Đảng, Chính phủ và Bác Tôn kính mến"

Lời hứa ấy, hơn một tháng sau, đối với các chiến sĩ Sao Vàng đã trở thành một lời thề.

2. NGÀY 17 THÁNG 2 NĂM 1979

Đầu tháng giêng, khi cuộc chiến đấu ở biên giới phía tây-nam bước vào giai đoạn kết thúc (ngày 7 tháng 1 theo yêu cầu của bạn, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với Quân giải phóng Cam-pu-chia tiến vào giải phóng Phnôm Pênh) thì ở biên giới phía bắc, các lực lượng vũ trang nhân dân ta cũng được lệnh tăng cường cảnh giác, sẵn sàng giáng trả bất kỳ hành động điên cuồng nào của bè lũ phản động Bắc Kinh.

Bấy giờ đang là mùa xuân, nhưng bầu không khí ở biên giới Việt - Trung lúc nào cũng căng thẳng. Một cuộc tiến công xâm lược trên quy mô lớn của địch đang được gấp rút chuẩn bị. Tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979, chín quân đoàn thuộc năm đại quân khu trong số 11 đại quân khu của chúng, bốn sư đoàn địa phương, 1.908 khẩu pháo từ 85 đến 152 mi-li-mét cùng với hàng trăm dàn hỏa tiễn của 41 trung đoàn đã được lệnh chuẩn bị tiến công ồ ạt sang lãnh thổ Việt Nam.

Với một lực lượng quân số và vũ khí to lớn như vậy, bọn bành trướng Bắc Kinh chủ định tiến công trên hai hướng: Hướng chủ yếu từ Cao Bằng đến Quảng Ninh, hướng thứ yếu từ thị xã Lào cai đến Phong Thổ, Hà Tuyên. Trên hai hướng này, chúng sẽ tiến công vào sáu khu vực trong đó có ba khu vực trọng điểm là ba thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Trong ba khu vực kể trên, thị xã Lạng Sơn, nơi sư đoàn Sao Vàng bố trí trận địa bảo vệ được coi là khu vực chủ yếu nhất vì đó là bàn đạp tốt nhất để tiến tới Thủ đô Hà Nội và vùng đồng bằng bắc bộ

Hứa Thế Hữu, nguyên tư lệnh đại quân khu Quảng Châu, người cộng sự thân thiết của Đặng Tiểu Bình được bổ nhiệm làm tư lệnh mặt trận. Dương Đắc Chí, tư lệnh đại quân khu Vũ Hán, người đã từng chỉ huy cuộc chiến tranh ở Triều Tiên trước đây được giao nhiệm vụ đặc trách chỉ huy các cuộc hành quân trực tiếp xâm lược Việt Nam. Cả hai tên tướng cáo già này đinh ninh chỉ trong hai ngày 17 và 18, với một lực lượng quân sự áp đảo, chúng sẽ làm chủ Cao Bằng - Lạng Sơn - Lào Cai để tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Sở dĩ chúng chọn thời gian này và chọn ngày 17 tháng 2 là ngày khởi đầu cuộc tiến công vì cho rằng, lúc đó, đại bộ phận lực lượng của ta còn đang giải quyết hậu quả ở mặt trận tây nam và ngày 17 còn là ngày cuối tuần, ngày mà dư luận thế giới thường ít quan tâm đến tình hình quốc tế. Nếu giành được thắng lợi trọn vẹn trong hai ngày, chúng sẽ đặt dư luận vào một việc đã rồi. Mặt khác, bất ngờ tiến công trên toàn tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, chúng hy vọng có thể buộc các lực lượng chủ lực của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia phải rút về nước. Nhờ thế mà bọn tàn quân của Pôn Pồt sẽ thôi bị truy kích và có điều kiện hồi phục trở lại.

3 giờ 30 phút sáng ngày thứ bảy, 17 tháng 2, mặt đất ba huyện Trà Lĩnh, Hà Quảng, Quảng Hòa (Cao Bằng) rung lên dữ dội trong tiếng nổ tội ác của đạn pháo đủ các loại từ bên kia biên giới bắn sang, mở đầu cho cuộc tiến công xâm lược quy mô trên toàn tuyến biên giới của bọn phản bội Bắc Kinh.

Sau loạt pháo đầu tiên đó của quân Trung Quốc, bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng nhận được điện khẩn của Bộ tư lệnh Quân khu 1: "Địch bắn pháo và có khả năng tiến công Cao Bằng. Hướng sư đoàn 3 cần tăng cường cảnh giác và nhanh chóng tổ chức đơn vị sẵn sàng chiến đấu".

Ngay sau đó, cán bộ chủ trì các cấp đang tập huấn ở sư đoàn và quân khu được lệnh nhanh chóng về đơn vị và mệnh lệnh chiến đấu được chuyển ngay xuống các điểm tựa, các trận địa hỏa lực toàn sư đoàn.

5 giờ sáng, giữa lúc bầu trời còn dày đặc sương mù, đạn pháo địch bắt đầu bắn phá trên đất Lạng Sơn. Dọc tuyến biên giới từ mốc số 15 (Văn Lãng) trên mốc số 45 (Lộc Bình); dọc trục đường 1A từ Hữu Nghị Quan đến Tam Lung, dọc trục đường 1B từ Thâm Mô đến Đồng Uất và các điểm cao bao quanh thị trấn Đồng Đăng dày đặc khói đạn.

Mở đầu cuộc tiến công vào Lạng Sơn, địch dùng lực lượng của hai quân đoàn 55 và 43, một trung đoàn bộ binh địa phương, ba tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, được pháo binh chi viện tối đa tiến công trên hai hướng: Hướng chủ yếu do hai sư đoàn tăng cường hai tiểu đoàn xe tăng của quân đoàn 55 đảm nhiệm đánh chiếm thị trấn Đồng Đăng, Tam Lung, Khôn Làng Tân Yên, tổ chức thành ba cánh: Cánh chủ yếu do sư đoàn 163, tăng cường một tiểu đoàn xe tăng bắt đầu từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan tiến theo đường bộ, đường sắt đánh chiếm Đồng Đăng, Pháo đài, điểm cao 339, Thâm Mô, 505, 423 và ngã ba đường 1A, 1B. Cánh phối hợp do sư đoàn 164 tăng cường một tiểu đoàn xe tăng, xuất phát từ mốc 15, 16 đánh chiếm xã Tân Yên, Tân Thanh, cắt đứt đường 4A từ Đồng Đăng đi Na Sầm, chiếm các điểm cao 386, 438 thọc ra Con Khoan chiếm Khôn Làng. Cánh vu hồi do một trung đoàn bộ binh được trang bị gọn nhẹ xuất phát từ mốc 19, 20 bí mật luồn lách vượt qua điểm cao 811, 675, 611 đánh chiếm điểm cao 409, khu đồi Chậu Cảnh, cắt đứt đường 1A tại ngã ba Tam Lung, cô lập Đồng Đăng.

Hướng thứ hai do quân đoàn 43 đảm nhiệm tổ chức thành hai cánh. Một cánh do sư đoàn 127 từ mốc số 32, 33 đánh vào Bản Xâm, Lục Quyên, Bản Trang, Ba Sơn...Cánh còn lại do sư đoàn 128 và một tiểu đoàn xe tăng từ mốc số 43, 45 đánh chiếm Chi Ma, điểm cao 392, 623, bản Khoai, bản Khiêng... Ngoài ra còn một trung đoàn địa phương đánh chiếm Bản Rọi (Cao Lộc) để mở đường tiếp tế bằng ngựa thồ cho cánh vu hồi vào Tam Lung.

Với ưu thế về lực lượng, lại chủ động về thời gian tiến công và có "lực lượng thứ năm" cài cấy từ lâu trên đất Việt Nam, thê đội 1 gồm quân đoàn 55 và quân đoàn 43 được lệnh bí mật bất ngờ bao vây tiêu diệt 2 trung đoàn 12 và 141 của ta ở sát biên giới, tạo bàn đạp cho thê đội 2 (quân đoàn 54) thọc vào tiêu diệt trung đoàn còn lại của sư đoàn Sao Vàng và chiếm thị xã Lạng Sơn vào ngày hôm sau, ngày 18.

Chúng dự tính, với thủ đoạn bí mật luồn sâu tạo thế chia cắt kết hợp với đòn tiến công áp đảo ở chính diện, đối phương sẽ nhanh chóng bị cô lập, rối loạn, chỉ có đầu hàng hoặc bị tiêu diệt

Ngay sau khi địch bắn những loạt pháo đầu tiên vào Lạng Sơn, các đơn vị pháo binh ta đã lần lượt giội đạn xuống các trận địa pháo và đội hình tiến công của bộ binh địch. Trên các điểm tựa, cán bộ chiến sĩ nhanh chóng ra các chiến hào đánh trả quyết liệt với bộ binh và xe tăng địch. Nhiều nơi, bộ đội đánh giáp lá cà với giặc ngay trước cửa hầm, trước sân cỏ, hất chúng xuống sườn đồi. Các cây cầu từ Thanh Lòa, Bản Xâm về thị xã Lạng Sơn bị các chiến sĩ ta phối hợp với lực lượng địa phương phá sập.

Trên các huyện Tràng Đinh, Lộc Bình cũng như trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến Lai Châu, quân và dân các dân tộc cũng nổ súng chặn đánh quyết liệt các cánh quân khác của địch đang ỷ thế đông ồ ạt tràn qua các cột mốc biên giới.

Ngày 17 tháng 2, một ngày hết sức bình thường, một ngày mà mọi người dân Việt Nam đang lao động, xây dựng đất nước trong hòa bình bỗng trở nên một cái mốc trong lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của đất nước. Một kẻ thù mới đã lộ rõ nguyên hình với bộ mặt thâm hiểm ghê tởm, đầy tội ác, và một cuộc chiến đấu mới lại bắt đầu với dân tộc ta.

*

* *

Những ai đã từng một lần đi qua Đồng Đăng đều không thể nào quên được thị trấn biên giới nhỏ bé này. Vào những phiên chợ, trên những con đường rải đá, dồn dập tiếng vó ngựa và vang lên tiếng khèn của những chàng trai từ rẻo cao đổ xuống. Rồi những cô gái các dân tộc duyên dáng, những ông ké bán thuốc nam, những bát hủ tiếu ngon nổi tiếng.

Đồng Đăng nằm cách cửa Hữu Nghị Quan ba ki-lô-mét về phía nam và cách thị xã Lạng Sơn 14 ki-lô-mét về phía bắc. Ở phía nam thị trấn là các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339, ở phía đông-nam là Phai Môn, Chậu Cảnh...

Đồng Đăng, Văn Lãng là hướng phòng ngự do trung đoàn 12 đảm nhiệm. Địch đã chuẩn bị hết sức công phu cho cuộc tiến công vào khu vực này nhằm tiêu diệt nhanh chóng trung đoàn 12, chiếm gọn thị trấn Đồng Đăng trong chốc lát. Ngoài việc tập trung vào đấy hai sư đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng có chi viện của sáu trung đoàn pháo binh, trong đêm 16 tháng 2, chúng đã tung các tổ thám báo mang theo bộc phá lọt vào Đồng Đăng móc nói với bọn phản động lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn lực lượng ta từ phía sau chi viện lên. Trong khi đó, trước giờ nổ súng, bọn điệp ngầm bí mật cắt các đường dây điện thoại giữa trung đoàn 12 với sư đoàn và với các tiểu đoàn, các trận địa pháo. Chúng định dáng vào trận địa phòng ngự của ta không chỉ bằng lực lượng bộ binh áp đảo mà còn định đẩy trung đoàn 12 vào tình thế cô lập, xé lẻ, không chỉ huy, không liên lạc được với mọi chi viện của cấp trên.

Mờ sáng ngày 17 tháng 2, khi đồng bào ta còn đang ngủ ngon giấc, bất thần hàng ngàn quả đạn pháo địch giội xuống thị trấn Đồng Đăng và các điểm cao khu vực phòng ngự của trung đoàn 12. Lợi dụng tiếng nổ và khói đạn, bộ binh địch nhào tới dùng bộc phá phá hàng rào biên giới cho xe tăng tràn qua. Đạn pháo vừa dứt, bọn lính Trung Quốc đã xuất hiện trong tầm bắn của súng bộ binh. Nhiều nơi, bộ đội vừa nhảy xuống giao thông hào là cưỡi lên đầu địch. Trung đoàn trưởng và chính uỷ trung đoàn trên đường ra vị trí chỉ huy phía trước cũng bị địch phục đánh, xe bị hỏng. Các anh phải xuyên rừng lên sở chỉ huy. Ở đây các sĩ quan tác chiến báo cáo địch cũng đã vào tới khu vực đài quan sát. Điện thoại đi các nơi không liên lạc được. Rõ ràng chúng định bưng tai bịt mắt, xé lẻ trung đoàn ra để tiêu diệt ngay trong trận đấu này. Nhưng vốn đã từng hoạt động độc lập ở vùng sâu trong những năm đánh Mỹ, ban chỉ huy trung đoàn một mặt ra lệnh cho cán bộ cơ quan cùng các chiến sĩ vệ bịnh, trinh sát tổ chức đánh hất địch khỏi sở chỉ huy, mặt khác cho các chiến sĩ thông tin đi nối đường dây và dùng liên lạc bộ để chỉ huy các đơn vị.

Điều làm cho sở chỉ huy trung đoàn yên tâm là trừ khu vực đại đội 41 đã im tiếng súng còn hầu như tất cả các điểm tựa trên trận địa phòng ngự của trung đoàn tiếng súng vẫn nổ rát. Ở điểm cao 339, xen lẫn tiếng la của địch còn vang lên tiếng reo hò của bộ đội ta, chứng tỏ không những bộ đội ta đang đánh địch mà còn đánh thắng nữa.

Đúng như vậy, mặc dù không bắt liên lạc được với trung đoàn nhưng theo phương án các tiểu đoàn, đại đội đều chủ động chặn đánh quân địch đang như những cơn lũ hung dữ tràn tới. Cũng như trận đánh Mỹ đầu tiên trước đây ở Thuận Ninh, các chiến sĩ ngạc nhiên khi thấy bọn giặc dàn hàng ngang lao lên trận địa như những con thiêu thân. Tiếng kèn đồng, tiếng còi rúc kéo theo những tiếng hô "tả, tả" điên dại phát ra từ miệng bọn lính cùng với những loạt đạn bắn như xé lên đỉnh đồi.

Ở khu vực Tân Yên, Tân Thanh, trong trạng thái như vậy, tiểu đoàn 5 phải đánh trả với hơn một trung đoàn địch có hàng chục xe tăng yểm trợ. Cán bộ tiểu đoàn, cán bộ đại đội vừa chỉ huy đơn vị, vừa cầm súng chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ để nhắc nhở những điều cần thiết đối với những đồng chí lần đầu ra trận. Chính nhờ đó, ở các điểm tựa của tiểu đoàn, chiến sĩ ta đã đánh lui mọi đợt tiến công ồ ạt của địch. Ở Bản Thấu, phó trung đội trưởng Nguyễn Văn Vĩnh, cùng tiểu đội trưởng Bùi Viết Bình đã xách B.40, B.41 vận động xuống sườn đồi chặn đánh một cánh quân thọc sườn có bốn xe tăng dẫn đầu bắn cháy liên tiếp hai chiếc. Hai chiếc còn lại vội vàng tháo chạy bị các chiến sĩ đồn biên phòng Tân Thanh bắn cháy một chiếc, chiếc cuối cùng hốt hoảng nhào xuống chân đồi nhưng lại sa vào hầm chống tăng của các chiến sĩ công binh. Đó là những chiếc xe tăng đầu tiên của quân Trung Quốc xâm lược bị tiêu diệt trên trận địa sư đoàn Sao Vàng. Các chiến sĩ ta ở các điểm tựa xung quanh đều đứng lên reo hò trước chiến công xuất sắc ấy ở đại đội 1 cao xạ 37, chiến sĩ thông tin Nguyễn Đức Thuần trên đường nối đường dây phát hiện xe tăng địch đang tiến vào trận địa ta đã cùng tổ diệt tăng của đại đội quần nhau với chiếc xe tăng địch, bị chúng dùng nòng pháo gạt xuống nhưng vẫn tìm cách nhảy lên và cuối cùng đã nhét được lựu đạn vào trong xe tăng; sau đó cùng đồng đội truy đuổi tiêu diệt tên chỉ huy, thu súng đạn và tài liệu.. .

Ở khu vực Hữu Nghị Quan, bọn địch dùng một tiểu đoàn, lợi dụng thế dốc của đồi Ra Đa ồ ạt tiến công sang đồn biên phòng 193 và dùng hai tiểu đoàn bộ binh kết hợp với xe tăng đánh vào cụm điểm tựa của đại đội công binh trung đoàn 12. Đây là vị trí địch cố sống cố chết chiếm cho bằng được để đưa xe tăng và các phương tiện kỹ thuật chi viện kịp thời cho mũi tiến công chủ yếu của chúng vào thị trấn Đồng Đăng.

Tại khu vực này, cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu tiên. Bọn địch từ đồi Ra Đa tràn xuống cùng với một chi đội xe tăng lợi dụng suối cạn tổ chức đánh thọc vào sườn phải của đồn 193 nhưng cả hai mũi chính diện và thọc sườn đều bị những đồng đội của anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh chặn đứng lại.

Cách Hữu Nghị Quan 500 mét, ở khu vực cống Ba Cửa, đại đội công binh trung đoàn 12 và đơn vị dân quân xã Bảo Lâm do đồng chí Sáu, bí thư đảng ủy xã trực tiếp chỉ huy cũng chặn đánh dữ dội một mũi tiến công khác của địch. Do địa hình quá rộng, đại đội công binh phải căng mỏng lực lượng ra nhiều hướng. Tiểu đội Trần Ngọc Sơn đảm nhiệm một hướng phòng ngự ở phía tây-bắc phải giãn thưa đội hình để đối phó với một đại đội địch. Các chiến sĩ trong tiểu đội của Sơn còn rất trẻ, phần lớn quê ở Hà Bắc, chỉ có mình Sơn quê Hà Nội. Vào các buổi tối, Sơn thường tự hào kể cho các chiến sĩ trong tiểu đội nghe về chiến công của người chú ruột Trần Ngọc Xuân, anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân và thầm hứa sẽ chiến đấu thật xứng dáng với chú nếu quân Trung Quốc dám tràn vào trận địa của tiểu đội.

Sau một hồi đánh địch, vào đợt tiến công thứ ba của chúng, tiểu đội Sơn chỉ còn lại một phần ba quân số và đến lần tiến công thứ năm, chỉ còn lại một mình Sơn, lúc đó cũng bị thương vào cánh tay phải. Sau khi băng tại vết thương, như một con sóc, Sơn di chuyển nhanh nhẹn từ phải qua trái, vừa bắn tiểu liên, B.40 vừa tung lựu đạn xuống đội hình dày đặc của địch. Cứ như vậy cho đến 14 giờ, địch không sao vượt qua được cống Ba Cửa để tiến vào Đồng Đăng. Bên phải Sơn, tiếng súng ở trận địa trung đội dân quân xã Bảo Lâm vẫn nổ rát. Trước mặt Sơn, 75 tên lính Trung Quốc chết gục. 16 giờ, Sơn lại bị thương vào chân và trong tay chỉ còn một quả lựu đạn. Bên dưới, bọn địch đang la hét tràn lên, Sơn bình tĩnh ném quả lựu đạn cuối cùng và một vầng lửa màu da cảm của đạn B.40 địch đã trùm kín người anh. Chiều ngày hôm ấy, Sơn đã cùng với đồng đội của mình dừng lại mãi mãi ở tuổi hai mươi. Sơn đã sống và chiến đấu xứng đáng với người chú của mình mà anh luôn lấy làm mẫu mực.

Cụm điểm tựa Hữu Nghị Quan sau này được đánh giá rất cao vì đã chặn đứng được một lực lượng đáng kể của địch trong một thời gian nhất định, giảm bớt được lực lượng của chúng trên hướng phòng ngự chủ yếu của sư đoàn. Đặc biệt là đơn vị dân quân xã Bảo Lâm đã bám trụ suốt cả quá trình chiến đấu, tổ chức những trận đánh nhỏ, lẻ vào đội hình địch, gây tình trạng căng thẳng, bất ổn ở sau lưng chúng. Cụm chốt Hữu Nghị Quan là một biểu hiện hết sức sinh động của tình đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa ba lực lượng dân quân, bộ đội biên phòng và bộ đội chủ lực.

Cũng trong buổi sáng ngày 17 tháng 2 lịch sử ấy, tại cụm điểm tựa Đồng Đăng, hai trung đoàn địch phối hợp với xe tăng và pháo binh cố sống cố chết chiếm các điểm cao Pháo Đài, 339, Thâm Mô. Ở điểm cao 339, ngoài lực lượng phòng ngự chủ yếu là đại đội 61 và một trung đội của đại đội 62 còn có hai khẩu pháo 85 của tiểu đoàn 12 trung đoàn 68.

Các chiến sĩ ở cụm điểm tựa này hiểu sâu sắc rằng mất các điểm cao họ đang chiếm giữ, Đồng Đăng sẽ hoàn toàn lọt vào tay giặc, và thị xã Lạng Sơn sẽ bị uy hiếp từ phía bắc. Vì vậy bằng mọi giá họ quyết hy sinh chiến đấu để bảo vệ các điểm cao ấy. Hai khẩu pháo 85 trên điểm cao 339 đã đóng góp một phần quan trọng trong việc bảo vệ trận địa phòng ngự chủ yếu này của sư đoàn.

Ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Lạng Sơn, rút kinh nghịệm trong chiến đấu phòng giữ Hoài ân năm trước, bộ tư lệnh sư đoàn đã nghiên cứu bố trí thế trận pháo binh thành nhiều tầng, xen kẽ với đội hình bộ binh để chi viện cho toàn khu vực, nhất là hướng phòng ngự chủ yếu. Theo đề nghị của các cán bộ chỉ huy trung đoàn 68, sư đoàn không chỉ đưa pháo 85 lên chiếm lĩnh điểm cao 339 mà tất cả các trận địa pháo của trung đoàn đều được đưa lên chiếm lĩnh các điểm cao. Ai cũng biết, sức mạnh của pháo binh sẽ được tính bằng cấp số nhân nếu có thế trận hoàn chỉnh, hiểm hóc, tạo được bất ngờ, tập trung được sức mạnh trong phòng ngự cũng như khi phản kích .

Hôm ấy, khi địch ồ ạt tiến lên điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339, phó đại đội trưởng Nguyễn Văn Điền quyết định cho các khẩu đội đánh theo phương án 2: rút một số pháo thủ dùng súng bộ binh bảo vệ trận địa, số còn lại sử dụng hai khẩu 85 chi viện cho Pháo Đài và bắn xe tăng địch. Nhưng mới bắn được đến viên đạn thứ 7 thì một quả pháo địch nổ ngay bờ công sự, khẩu đội 2 hỏng thiết bị ngắm phải dừng lại. Khẩu đội 1 được lệnh tăng tốc độ bắn. Độ chính xác và hiệu quả cao của pháo bắn thẳng đã có tác dụng cùng với các chiến sĩ trên Pháo Đài đánh bật nhiều đợt tiến công của một tiểu đoàn địch.

9 giờ sáng, khi phát hiện bốn chiếc xe tăng đang bám đuôi nhau lên điểm cao 300, phó trung đội trưởng Hoàng Hữu Yên chỉ huy khẩu đội bắn cháy hai chiếc. Hai chiếc còn lại hốt hoảng bỏ chạy.

Bằng lối đánh đó, lát sau trung đội của Yên lại bắn cháy một trong hai chiếc xe tăng ở hướng Na Sầm xuống; đến 16 giờ, bắn tan một cụm địch ở sân bóng Đồng Đăng và bắn cháy hai xe chở đầy lính từ Hữu Nghị Quan chạy tới.

Trận địa 339 với các dũng sĩ kiên cường suốt ngày 17 đã trở thành một chướng ngại trên đường tiến quân của bộ binh và xe tăng địch. Chúng tập trung rất nhiều pháo tầm xa, pháo đi cùng, pháo xe tăng quyết tiêu diệt trận địa này. Vào lúc 17 giờ, ba chiến sĩ bị thương, khẩu đội 2 hỏng nòng, khẩu đội 1 hỏng kim hỏa và bệ khóa nòng. Thấy trận địa pháo 85 của ta im lặng đột ngột, bọn giặc ào ạt mở một đợt tiến công vào các điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, điểm cao 300... Trên đường số 4, bốn chiếc xe tăng địch gầm rú tiến vào Đồng Đăng.

Trước tình hình đó, Yên đề xuất tháo kim hỏa của khẩu 2 lắp vào khẩu 1 ngắm bắn trực tiếp qua nòng pháo. Ý kiến đơn giản nhưng đưa ra đúng lúc làm mọi người hết sức phấn chấn. Một lát sau, trận địa 85 lại sống dậy, sôi động. Bằng ba quả đạn, Hoàng Hữu Yên lại bắn cháy một chiếc xe tăng trên đường số 4. Ba chiếc còn lại chưa kịp phản ứng thì những loạt đạn pháo của đơn vị bạn đã kịp thời trút xuống tiêu diệt toàn bộ tốp xe tăng này. Đó là trận địa pháo Cồn Chủ do trung đội trưởng Nguyễn Trường Sơn chỉ huy.. Phát hiện thấy xe tăng địch đông mà trận địa 339 chỉ bắn phát một, Sơn chủ động ra lệnh cho các khẩu đội lấy phần tử kịp thời nổ súng chi viện cho bạn. Sau khi toàn bộ tốp xe tăng địch bị tiêu diệt, khẩu đội của Hoàng Hữu Yên còn bắn được 18 viên đạn nữa, làm tê liệt trận địa pháo 122 của địch mới kéo đến chân điểm cao 402. .

Trong lúc các cán bộ và chiến sĩ ở cụm chốt Đồng Đăng nổ súng đánh địch quyết liệt thì Hoàng Quý Nam, đại đội trưởng đại đội 42 cùng với một số đông cán bộ chủ trì các đơn vị dự lớp tập huấn của sư đoàn đang trên đường cấp tốc trở về đơn vị.

Hoàng Quý Nam là một cán bộ trẻ. Anh nhập ngũ năm 1971 mới tốt nghịệp sĩ quan và về trung đoàn được hơn một năm nay. Đó là một cán bộ sôi nổi, tự tin và quyết đoán, những đức tính cần thiết đối với một cán bộ chỉ huy quân sự. Hôm đó, Nam, Minh và một số cán bộ trong tiểu đoàn 4 về đến doanh trại thì cả khu nhà trước đây nhộn nhịp giờ vắng tanh, vắng ngắt. Nam xuống bếp, gặp mấy chiến sĩ nuôi quân đang nấu cơm, anh lấy một khẩu AK vài băng đạn rồi cùng với Minh chạy về điểm cao Pháo Đài, nơi đại đội của Nam đang chốt giữ.

Hai người chạy tới ngã tư đường sắt và đường 1B thì gặp ba chiếc xe tăng địch đang bắn về phía trường cấp một gần đấy. Anh và Minh vội tạt xuống con suối nhỏ để tránh đạn. Tại đây, Nam lại mượn được khẩu B.40 và ba quả đạn.

Nam và Minh nhanh nhẹn chạy vòng lên đón đầu ba chiếc tăng. Hai tiếng nổ của đạn B.40 dội xuống khe suối và lát sau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của Nam hiện ra ở chân dốc. Anh đưa trả khẩu B.40 tiếc rẻ: "Bực quá, chỉ có ba quả đạn thì quả thứ ba lại bị thối". Mọi người nối nhau vượt qua đường. Cách họ một quãng ngắn, hai chiếc xe tăng đang bốc cháy.

Đó là chiến công đầu tiên của Hoàng Quý Nam.

*

* *

Trong cuộc tiến công của địch vào trận địa sư đoàn Sao Vàng của quân Trung Quốc xâm lược, điều làm cho bộ tư lệnh sư đoàn suy tính nhiều là quy mô, lực lượng lớn ngoài dự kiến và thủ đoạn vu hồi khá sâu, khá phổ biến của chúng. Qua sơ bộ nắm tình hình, sư đoàn đang phải đương đầu với gần hai quân đoàn địch có xe tăng, pháo binh yểm trợ. Đó là lực lượng quá lớn so với khả năng sư đoàn hiện có. Chúng đã thực hiện các mũi vu hồi nguy hiểm ở Tam Lung (cách thị xã Lạng Sơn bảy ki-lô-mét) và Con Khoang, sau lưng trận địa phòng ngự chủ yếu. Ngày đầu chiến đấu, do được tập dượt nhiều lần theo phương án từ trước, với tinh thần tích cực tiến công, trận địa sư đoàn vẫn được giữ vững. Nhưng liệu các đơn vị có đứng vững được trong những ngày tiếp theo không?

Vấn để cấp bách là phải xác định rõ mũi tiến công chủ yếu của chúng để tập trung sức đánh bại nó. Không khẳng định rõ được vấn để này hoặc phán đoán sai lệch nhất định chúng sẽ nhanh chóng chọc thủng trận địa ta. Các cánh quân vu hồi của địch hết sức nguy hiểm: Không những nó tạo thế chia cắt trận địa của sư đoàn mà còn ngăn chặn chi viện của ta từ phía sau lên phía trước. Tuy nhiên, tổ chức những mũi vu hồi quá sâu vào khu vực phòng ngự của ta, bọn địch đã gặp những trở ngại lớn và bộc lộ nhiều mặt yếu: Chúng nằm quá xa sự chỉ huy của cấp trên. Địa hình xa lạ, việc tiếp tế trở nên khó khăn trong điều kiện vận chuyển còn lạc hậu, rất dễ bị ta chặn đánh, chia cắt, cô lập và tiêu diệt. Những trận đánh trong ngày đầu của ta ở Tam Lung và Song Áng là những biểu hiện cụ thể.

Ở ngã ba Tam Lung, bọn giặc vừa xuất hiện đã bị tiểu đoàn 1 và đại dội công binh trung đoàn 2 chặn đánh phía trước, tiểu đoàn địa phương thị xã nổ súng phía sau, toàn bộ quân địch phải dừng lại không dám tiến ra đường 1A phải kéo ĐKZ và trọng liên 12,8 lên sườn đồi khống chế mặt đường, đồng thời giờ thủ đoạn tàn sát đốt phá đối với nhân dân ta ở Bản Phân, khu công nhân địa chất.

Trên cánh đồng Song Áng, khu vực Con Quyền, Con Khoang, mũi vu hồi chiến thuật của địch đã bị một trận thua rất đậm. Hôm ấy, sau khi các chiến sĩ trinh sát, vệ binh chặn bọn bộ binh địch trước sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 438. Bọn địch ùn ùn theo đường hẻm đổ vào Song Áng để tiến ra đường 1B thực hiện ý định vu hồi và chia cắt toàn bộ trận địa phòng ngự của trung đoàn 12 với hậu phương. Nhận thấy tính chất nguy hiểm của cánh quân này, trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Khánh và chính ủy Đồng Sĩ Tài quyết định dùng đại đội 63, lực lượng cơ động còn lại của trung đoàn do cán bộ chỉ huy tiểu đoàn 6 trực tiếp chỉ huy, cơ động từ điểm cao 339 về Con Khoang, hình thành thế vây cắt tiêu diệt cụm quân chủ yếu trên cánh đồng Song Áng, một thung lũng nhỏ hẹp nằm lọt giữa dãy núi Con Khoang, Con Quyền và điểm cao 438. Mệnh lệnh được chuyển đi qua các chiến sĩ chuyền đạt.

20 phút sau khi nhận lệnh, đại đội 63 đã bố trí hoàn chỉnh một trận phục kích vận động, lối đánh sở trường của đơn vị. Việc đầu tiên được đặt ra với cán bộ chỉ huy tiểu đoàn 6 là phải nhanh chóng cắt địch ra không cho chúng dồn vào Song Áng quá đông (lúc đó địch ở Song Áng đã có khoảng một tiểu đoàn và đang tiếp tục tràn vào theo hướng Mỹ Cao), đồng thời phải đánh từ phía sau và bên sườn, đẩy chúng ra đồng trống để tiêu diệt.

9 giờ sáng. Giữa lúc bọn địch đang nghênh ngang xếp hàng dọc kéo vào Song Áng thì mũi khóa đuôi của trungđội 3 đã ' luồn rừng bất ngờ đánh thốc vào dội hình địch.dùng đại liên vịt chặt con đường độc gạo từ Mỹ Cao vào Song Áng. Ngay lúc đó, từ bìa rừng, hai trung đội còn lại được lệnh xuất kích dưới sự chi viện của đại liên. Bị đánh một lúc từ nhiều phía, đội hình địch rối loạn. Chúng la hét, nằm bẹp giữa đồng trống bắn trả. Các chiến sĩ đại đội 63 chia thành từng tổ, cắt địch ra từng mảng để tiêu diệt. Từ phía sau, địch vẫn cố tràn lên cứu nguy cho đồng bọn nhưng chúng đã bị tổ khóa đuôi chặn đứng lại. Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn cũng quay nòng bắn thốc vào lưng bọn viện binh địch.

Trận đánh một chọi bốn chọi năm của đại đội 63 trên cánh đồng Song Áng diễn ra ngày một quyết liệt. Các chiến sĩ quân khí , y tá vừa làm nhiệm vụ của mình vừa cầm súng chiến đấu. Chính trị viên Phạm Bồng Giỏi bị thương, phó chính trị viên Việt, một học viên sĩ quan về thực tập lên thay thế.

Càng cố gắng chống dỡ, bọn địch càng lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đường rút lui bị chặn, quân viện đang bị đánh tơi tả, không còn cách nào khác, chúng liều mạng tổ chức một bộ phận đánh lên Con Khoang, định dựa vào hang đá cầm cự. Nhưng ở sườn núi Con Khoang, chúng đã gặp trung đội dân quân xã Hồng Phong do Trần Văn Trung chỉ huy đánh bật trở xuống. Hôm ấy Trần Văn Trung vừa cho anh em đưa bà con còn lại trong xã sơ tán vào hang đá, vừa lo tổ chức lực lượng chốt giữ ngoài của hang. Mọi việc vừa xong thì tiếng súng bên ngoài đã rộ lên. Vài giờ sau, bọn địch liều lĩnh đánh lên của hang nhưng cả ba lần tiến công chúng đểu bị đánh bật ra đồng trống. Đến đây, toàn bộ cụm quân của mũi vu hồi vào Song Áng đã bị tiêu diệt và tan rã. Một số tên chạy lên phía bắc định vòng ra đường 1B nhưng bị các chiến sĩ vận tải, thông tin của tiểu đoàn, đánh tiếp một trận nữa. Tối hôm đó, bọn giặc bắn hàng ngàn quả đạn vào cánh đồng Song Áng để xóa đấu vết thất bại. Một tên tù binh sau này bị tiểu đoàn 5 bắt ở cầu Khánh Khê đã thú nhận: "Hôm 17 tháng 2, một tiểu đoàn của chúng tôi đã bị tiêu diệt gần hết ở chân điểm cao 438.".

Đối với đại đội 63, đây là một trận đánh không cân sức nhưng với ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, tận dụng được lợi thế về địa hình và vận dụng chiến thuật thích hợp nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Những trận đánh trên đã mở ra khả năng tổ chức phản kích của ta và thấy được những mặt yếu của địch. Tuy vậy chúng có tới năm sư đoàn tiến công trong khi sư đoàn Sao Vàng chỉ có thể huy động tối đa được năm tiểu đoàn cơ động phản kích để làm chùn bước tiến của chúng. Đánh vào đâu, với quy mô nào là một tính toán căng thẳng.

Đêm 17 tháng 2, thường vụ đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn họp, xác định: Hướng tiến công chủ yếu của địch sẽ là Đồng Đăng - Lạng Sơn và các mũi vu hồi Tam Lung, Con Khoang chính là để giải quyết nhanh việc chiếm Đồng Đăng, làm bàn đạp thọc vào Lạng Sơn. Bẻ gãy các mũi vu hồi này thì thế trận của ta ở Đồng Đăng sẽ được giữ vững. Cuộc họp đang sôi nổi thì có điện của Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Các đồng chí khen ngợi sư đoàn đã giữ được thế trận, diệt được hàng ngàn tên địch, bắn cháy 13 xe tăng, xe bọc thép của địch trong ngày chiến đấu đầu tiên; thông báo cho sư đoàn những thắng lợi của quân dân ta trên toàn tuyến biên giới và nhắc sư đoàn phải đặc biệt chú ý tới hướng tiến công Đồng Đăng và mũi vu hồi vào Tam Lung của địch; phải tăng cường công tác chính trị tư tưởng và công tác bảo đảm vật chất để bộ đội đánh thắng.

Từ phân tích cụ thể về địch ta, qua chỉ đạo của Bộ, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định: Dựa vào trận địa có sẵn, trụ bám kìm địch trên tất cả các hướng; sư đoàn sẽ tập trung lực lượng cơ động mở những trận phản kích vào hướng tiến công chính của địch. Trước mắt, đánh bật cánh quân vu hồi của chúng để giữ vững thế trận của ta ở Đồng Đăng. Đây là một chủ trương kịp thời và chính xác làm căn bản cho xác định mục tiêu, sử dựng lực lượng của sư đoàn trong quá trình chiến đấu; tránh được tình trạng rải đểu lực lượng, "be bờ" đối đầu với địch. Ngay đêm đó. tham mưu trưởng sư đoàn Bùi Quốc Miện, chủ nhiệm chính trị Lê Văn Quýt cùng một số cán bộ cơ quan xuống trung đoàn 12 tăng cường chỉ huy, tổ chức lại mạng thông tin liên lạc từ sư đoàn đến trung đoàn và các điểm tựa. Tiểu đoàn cao xạ 37 được lệnh bám giữ Thâm Mô. Lực lượng cơ động của trung đoàn 2 bước vào chiến đấu ở Tam Lung. Cũng đêm đó. Bộ tư lệnh quân khu điều tiểu đoàn 1 trung đoàn 197 Bắc Thái tăng cường cho sư đoàn Sao Vàng.

Suốt đêm 17, cả sư đoàn thức trắng chuẩn bị cho những trận đánh ngày hôm sau. Trên những con đường lớn 1A, 1B, 4A, 4B, người đi lại cuồn cuộn. Nhân dân sơ tán xuống các làng bản ở phía sau, bộ đội đổ ra phía trước. Xe đón dân, xe chuyển quân nối nhau chạy trên mặt đường. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải đỗ cạnh một đoàn quân. Ba bốn cô nữ nhân viên mặc tạp dề màu xanh đứng trên thùng xe gọi to: "Đồng chí chỉ huy cho anh em mua hàng bách hóa. Của hàng bách hóa thị xã đây".

Thị xã Lạng Sơn sôi động. Những cơn gió mùa ào ạt tràn lên các mái nhà, các đường phố không chỉ mang theo hơi lạnh mà còn cuốn theo mùi thuốc súng nồng nặc, mùi khét của cỏ cây bị đốt cháy từ phía trước tràn về. Trên đường, từng đoàn người gồng gánh, dắt díu nhau qua cầu Kỳ Lừa xuôi theo đường 1A. Đó là những người dân từ Cao Lâu, Xuất Lễ, Thanh Lòa... suốt một ngày chạy giặc mới về đến đây. Có người chẳng kịp mang theo một thứ gì ngoài bộ quần áo mặc trên người. Có trẻ em chưa đầy tháng. Họ kể cho nhau tội ác quân Trung Quốc đối với bản làng mình. Chuyện chúng vây trưởng phổ thông cấp 1 rồi xả súng bắn chết cả giáo viên và học sinh, chuyện những chiếc xe ca trên đường đi Lộc Bình bị chúng chặn cướp của cải rồi bắn chết hành khách. Chuyện của hàng bách hóa và nhà ga Đồng Đăng bị chúng xông vào cướp hàng hóa và hãm hiếp nhân viên... Cứ thế, người phía trước nói với người phía sau, nhân dân nói với bộ đội, làm nung nấu thêm mối căm giận quân Trung Quốc xâm lược.

Đêm hôm ấy, đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát đi bản tuyên bố của Đảng và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông báo cho nhân dân cả nước và nhân dân thế giới về hành động điên cuồng trắng trợn của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Bản tuyên bố tố cáo tội ác của 60 vạn quân Trung Quốc dã man đốt phá nhà của phá hoại các công trình kinh tế, trường học, bệnh viện, đánh đập hãm hiếp; bắn giết, vơ vét tài sản... Bản tuyên bố kêu gọi: "Theo lời dạy của Hồ Chủ tịch kính yêu, không có gì quý hơn độc lập tự do, một lần nữa toàn quân, toàn dân ta, gái, trai, già trẻ đoàn kết một lòng, triệu người như một, nhất tề đứng dậy quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... ".

Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng ấy, một lần nữa cả nước lại vào trận.

3. NHỮNG ĐIỂM CAO BẤT TỬ

Trong khi những tiếng thét phẫn nộ: "Hãy chặn đứng bàn tay của bọn Trung Quốc xâm lược", "kiên quyết bảo vệ Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chiến đấu", "Không được đụng đến Việt Nam"... đang vang lên ở khắp nơi trên thế giới, thì ở Lạng Sơn, hưởng ứng lời kêu gọi của tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, một phong trào thi đua "Quyết đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược" đã diễn ra ở khắp nơi.

Các đơn vị tự vệ, dân quân được bổ sung thêm quân số trang bị; nhiều đại đội, trung đội được điều lên tăng cường cho tuyến một. Cơ quan an ninh tỉnh được lệnh tăng cường hoạt động, phân loại những phần tử xấu, lập các phương án, quét sạch "lực lượng thứ năm" của địch, đập tan kế hoạch gây bạo loạn từ bên trong của chúng.

Từng đoàn xe tải của Hà Bắc, Bắc Thái, Hà Nội... chở đạn, chở hàng nối nhau ngược lên Lạng Sơn. Đoàn tàu lửa Hà Nội - Đồng Mỏ được lệnh tăng chuyến, chở quân chở phương tiện lên biên giới, chở đồng bào sơ tán về phía sau. Lực lượng vũ trang các tỉnh thành phố từ Bình Trị Thiên trở ra được lệnh chuẩn bị gấp rút đi chiến đấu. Nhân dân khắp nơi trong cả nước sục sôi khí thế đánh giặc bảo vệ quê hương. Trước họa xâm lăng, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên siết chặt đội ngũ.

Sáng ngày 18 tháng 2, sư đoàn mở trận phản kích đầu tiên với quy mô trung đoàn thiếu vào cánh quân vu hồi của địch ở Tam Lung. Một trong những mục tiêu chủ yếu của trận tiến công là phải chiếm lại các điểm cao Chậu Cảnh, đồi Địa Chất và Bản Phân, những vị trí quan trọng tại Tam Lung vừa bị địch chiếm.

Chậu Cảnh là một ngọn đồi cao gồm bốn mỏm nằm án ngữ ngay bên cạnh khúc lượn của đường 1A, Đại đội 5 tiểu đoàn 2, sau khi pháo ngừng bắn đã lao thẳng lên đánh chiếm tầng công sự thứ nhất. Một loạt đại liên của địch bắn chặn, đại đội trưởng Đồng Văn Sinh hy sinh, chính trị viên Hải ra lệnh cho bộ đội xung phong tiếp. Cả đại đội tràn lên đánh chiếm tầng công sự thứ hai. Chính trị viên Hải vừa dẫn đầu mũi chính diện vượt qua một sườn đồi bỗng đứng khựng lại lảo đảo rồi ngã vào lòng phó đại đội trưởng Dự. "Trả thù cho anh Hải, anh Sinh", Dự hô lớn rồi bật dậy dẫn tổ chính diện đánh thốc lên tuyến công sự địch. Khí thế tiến công của chiến sĩ ta làm cho quân địch khiếp sợ.

30 phút sau, đồi Chậu Cảnh im hẳn tiếng súng. Xác giặc nằm rải rác ở cả bốn mỏm đồi. Những tên sống sót vất súng chạy tộuc mạng về điểm cao 409. Ở hướng quan trọng, tiểu đoàn 1 cũng đã làm chủ Bản Phân, đồi Địa Chất.

Vậy là hai cánh quân vu hồi của địch ở đường 1A - và đường 1B bị giáng đòn đau ở Chậu Cảnh và Song Áng. Trên các điểm tựa, bộ dội ta vẫn trụ bám kiên cường đẩy lui hàng tiểu đoàn, trung đoàn địch tiến công. Điều đó làm cho bọn chỉ huy địch cay cú. Ngày 18 tháng 2 đã trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn, nơi kế hoạch hội quân của chúng sau 48 tiếng đồng hồ vẫn còn quá xa và đầy nguy hiểm. Chúng tiếp tục ném thêm hai trung đoàn bộ binh nữa để chia cắt bằng được con đường 1A, 1B. Rạng sáng ngày 19 lợi dụng sương mù và sử dụng một lực lượng pháo chi viện dày đặc, bọn giặc đã chiếm lại được đồi Chậu Cảnh và điểm cao Khôn làng.

Phải tránh những trận phản kích với quy mô lớn hơn trên cả hai hướng; tiêu diệt cả bọn địch phía trước và bọn địch phía sau không cho chúng ùn lên để giữ vững được thế trận. Đó là quyết định của bộ tư lệnh sư đoàn đêm 19 tháng 2. Theo kế hoạch này, ngay sáng ngày 20 tháng 2, sư đoàn mở hai khu vực tiến công. Khu vực 1 (hướng chính), dùng trung đoàn 2 có chi viện trực tiếp của hỏa lực sư đoàn, tiêu diệt bọn địch ở đồi Chậu Cảnh mở thông đường 1A lên Đồng Đăng. Khu vực 2, dùng tiểu đoàn 15 công binh và tiểu đoàn 7 quét sạch quân địch từ Khôn Làng đến Con Khoang mở thông đường 1B lên cụm điểm tựa 339, Thâm Mô, Pháo Đài, nơi vẫn dang diễn ra những trận chiến đấu giằng co quyết liệt từ sáng ngày 17. Các trận địa pháo được điều chỉnh để vừa chi viện trực tiếp cho bộ binh tiến công vừa bắn phá các trận địa pháo và các cụm quân địch ở phía sau.

Một cuộc chạy đua với thời gian, với địch diễn ra căng thẳng suốt đêm 19. Nhiều trận địa pháo được bố trí lại trên hướng chủ yếu. Sở chỉ huy trung đoàn 2, các đài quan sát pháo binh cũng tiến lên phía trước áp sát khu vực chiến đấu của trung đoàn. Các đơn vị bộ binh tăng cường cho các hướng cũng được lệnh gấp rút đến vị trí chiếm lĩnh trước khi trời sáng. Riêng tiểu đoàn 7 phải vượt quãng đường Đài hơn 50 ki-lô-mét trong điều kiện thiếu xe vận chuyển. Nhưng nhờ xử trí linh hoạt của cơ quan tham mưu và hậu cần sư đoàn, nhờ chi viện kịp thời của tỉnh Lạng Sơn nên đơn vị đã đến trận địa đúng kế hoạch bằng những chiếc xe kéo pháo, xe tải và đội xe Hải âu của tỉnh.

5 giờ ngày 20, tiểu đoàn 7 và đại đội 1 công binh sư đoàn do trung đoàn 12 chỉ huy bất ngờ đánh chiếm điểm cao Khôn Làng. Các chiến sĩ xung kích do đại dội trưởng Nguyễn Nho Bông chỉ huy đã táo bạo thọc thẳng lên trận địa địch, tiêu diệt gần hết một đại đội, mở đầu cho những đợt phản kích mới. Trong khi đó, tiểu đoàn 3 trung đoàn 2 đang nôn nóng chờ sương mù tan để đánh chiếm đồi Chậu Cảnh. Đây là trận đầu tiên của tiểu đoàn đánh quân Trung Quốc xâm lược. Lực lượng của tiểu đoàn còn rất sung sức cả về số lượng lẫn chất lượng. Trăm phần trăm cán bộ chiến sĩ xung phong nhận nhiệm vụ chiến đấu ở tuyến một.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro