Chức năng của tiền tệ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

- Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.

Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ

làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không

cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng

tượng. 

Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá

trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội

cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền

gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng

hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:

+ Giá trị hàng hoá.

+ Giá trị của tiền.

+ ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.

Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.

Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim

loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ

và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu

chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. 

Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự

thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá

tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó,

mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.

- Phương tiện lưu thông: 

Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi

giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có

tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.

Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi

hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và

không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng

kinh tế.

Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần

dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần

và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ

giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình

trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng

lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền

không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm

cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày

càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.

Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận

trong phạm vi quốc gia.

- Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông

đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã

hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức

năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ

làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho

lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu

thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút

khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

- Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,

nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến

trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước

tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán

chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.

Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách

thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu

người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ

phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ

gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng

lên.

- Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm

chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình

thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện

mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã

hội.

Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với

nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu

thông hàng hoá.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro