Chum chuyen ma

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

--------------------------------------------------------------------------------

Người Con Gái Tỉnh Bắc Phạm Cao Cũng

Người Con Gái Tỉnh Bắc

Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồi. Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.

Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.

Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thị Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.

Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấỵ Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.

Tường cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượị Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.

Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:

- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà "oan gia".

Ngay buổi chiều, Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rợị Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: "Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gái "đón gió" nàỵ

Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng, Xã rượu say rồi lên phá quấỵ

Thật là tĩnh mịch. Tiếng huyên áo trong hàng cơm vẳng xa hẳn bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.

Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.

Vũ bực mình quá, vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậỵ Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.

Đêm hôm sau, Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rợị Tiếng cười nói văng vẳng xa...

Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.

Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đã ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửa. Vũ giận mình vô cùng. Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữạ Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.

Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại, và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.

Vũ hoảng hốt nhìn lạị Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17, có vẻ như một nữ học sinh. Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường. Nữ lang mỉm cười và nhắc:

- Anh châm thuốc.

Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thụ Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:

- Cô, cô đến đây ? Đêm khuya...

Nữ lang ngắt lời:

- Nhà em ở gần đây. Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lại. Vừa toan quay về, thì anh chợt tỉnh...

Vũ nhìn lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chống sách! Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:

- Xin cảm ơn cô. Nhưng cô là...

Nữ lang mỉm cười: - Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!

Vũ hỏi tiếp:

- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?

Nàng mỉm cười:

- Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chi. Ngừng một lát, nàng lại tiếp:

- Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng a cứ vui khi chúng nhau gần gũi.

Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:

- Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng hay. Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vã lại, tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai, tôi có thì giờ rỗi rãi, tôi sẽ tiếng chuyện với cô.

Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:

- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những "hình học không gian" những "phân tích hóa học" kia của anh là ghê gớm lắm rồi sao? Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!

Vũ sốt ruột:

- Cô muốn tranh luận gì, xin cũng hãy để đến trưa mai!

Nữ lang không nói gì hơn nữa, quay ngoắt đi. Vũ xiết nỗi ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.

Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.

Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.

Buổi tới hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.

Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng.

Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lã lơi trách:

- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?

Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:

- Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phải ? Vũ thẳng lời cự: - Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa, muốn nói năng gì, sao cô không lại ?z Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu: - Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay sao? Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế riễu.

Vũ lắc đầu:

- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngàỵ

Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:

- Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...

Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.

Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:

- Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!

Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình.

Ngọc Bách vùng đứng dậỵ Nàng biến sắc, nói:

- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứu. Lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.

Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất.

Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể tìm, hoặc tránh được dễ dàng...

Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợ rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...

Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, dập dờn đi lại.

Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Đã suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.

Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.

Thoáng cái, bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:

- Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổi ?

Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên trần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.

Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:

- Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quý người phái yếu

Vũ thẳng lời, cự lại:

- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xư của hạng người có giáo dục hay không?

Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động lòng, hỏi:

- Cô là ai, xin nói thật: Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.

Ngọc Bách hỏi lại:

- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?

Vũ cười:

- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhác thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.

Nữ lang gật đầu:

- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là ma

Vũ thản nhiên:

- Tôi cũng đã đoán biết ngaỵ

Rồi Vũ lại nói:

- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực, hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?

Ngọc Bách rơm rướm nước mắt, thưa: - Sự đời man mác những nỗi oan khiêng nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng...

Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình, chớ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:

- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái "bất tương thân", nhưng thiển nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!

Nữ lang bùi ngùi nói:

- Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.

Vũ gật gù, tán thưởng: - Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu

Ngọc Bách lau nước mắt thưa:

- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quên ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...

Mỉm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:

- Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồi.

Vũ nghĩa thầm trong bụng:

- Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phai

Nữ lang lại kể tiếp:

- Trong gia đình, tuy em là lớn nhất, nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, sau khi đỗ bằng cơ thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nội Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà nàỵ

Nhừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:

- Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi.... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngói. Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm ran, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm, tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không, vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang, treo ẩn lên trên trần căn gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.

Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uốn đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngàỵ Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực hình, giống hệt như người bị lạc lõng giữa nơi xa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.

Vũ nói tiếp: - Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!

Ngọc Bách thở dài:

- Rồi ngày tháng trôi qua. Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa. Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.

Vũ ngắt lời:

- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...

Ngọc Bách rơm rớm nước mắt: - Anh quở trách như vậy, em xin nhận lỗi, nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó, định hiện nguyên hình người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh.... nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho anh sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bại... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.

Vũ ngắt lời hỏi:

- Bây giờ cô muốn gì?

Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:

- Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy, em không còn phải oán hận gì nữa...

Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ ơn, nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi, vì âm dương cách biệt, lần lửa lâu lai, cũng e hại cho cả đôi bên.

Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành... Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!

--------------------------------------------------------------------------------

Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới Dịch Giả: Nguyên Phong

Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới

Bác sĩ Alizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó được".

Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La revue spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: "Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa.

Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Được thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cơ bút này. Một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội.

Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mõi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Đang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.

Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặc câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Điều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được.

Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Điều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương thơ phú v.v....

Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau lại bị coi là "cổ hủ, lỗi thời"; và như cha được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang nhũng thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vất chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ đến.

Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên các nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sực của nó. Cũng như sống biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề khổ sở.

Bác sĩ Henri Desrives.

--------------------------------------------------------------------------------

Người Bạn Ma Phương Dung

Người Bạn Ma

Hồi còn nhỏ tôi thường thích đọc truyện ma và không bao giờ suy nghĩ đến những chuyện ma Đã đọc qua. Vào một buổi tối khi tôi đọc xong một truyện ma mà nó đã làm tôi sợ muốn chết, có thể vì truyện ma này có thật nên nó ám ảnh tôi.

Câu chuyện là như vầy: Ở vùng ngoại ô xa thành phố có một đứa con gái tên Nhi 11 tuổi Vì cha mẹ rất là nghiêm ngặt không cho đi đâu chơi nên Nhi không có ai để làm bạn. Mỗi ngày Nhi thường đi bộ từ nhà đến trường, trên đường đi Nhi phải qua một ngôi biệt thự kiến trúc rất là đẹp nhưng hơi cũ kỹ đã lâu rồi không thấy một bóng người lui tới. Lúc nào Nhi cũng dừng chân trước ngôi biệt thự để ngắm nghía và mơ mộng được sống ở đó hay chỉ vào trong nhà để xem mà thôi.

Vào một buổi chiều khi tan học về, như thường lệ Nhi đứng trước ngôi biệt thự mơ mộng thì nghe có tiếng người gọi từ cửa sổ của tầng lầu cao nhất. Nhi ngước lên nhìn thì thấy một đứa con trai trạc độ tuổi mình.

- Có muốn lên đây chơi không? Đứa con trai hỏi Không biết có phải là bị hoa mắt không, hay là mơ mộng quá nhiều cho nên ... Nhi vội chớp mắt một cái rồi nhìn lần nữa nhưng vẫn thấy đứa con trai còn đứng đó.

- Lên đây nhanh! Đứa con trai réo gọi Khi đó mừng quá, mơ ước của mình thành sự thật rồi. Nhi vội đẩy cái cổng sắt nặng nề để vào bên trong, nhưng khi đến trước cửa nhà thì Nhi dừng lại.

Nhi suy nghĩ: Đợi một chút, mình thấy nhà này mỗi ngày, không thấy có xe cộ gì đậu ở đây mà ... nhưng ... Chắc là mình nghĩ không ai ở.

Vừa nghĩ như vậy thì Nhi lấy tay đẩy cánh cửa bằng gỗ bước vào bên trong. Trong nhà thật là đẹp như là đã tưởng tượng vậy, Nhi nhìn chung quanh khoảng 5 phút rồi chợt nhớ đến đứa con trai, Nhi vội bước nhanh lên cầu thang dẫn đến phòng của tầng cao nhất. Khi đẩy cánh cửa phòng ra, Nhi thấy trong phòng chứa đầy đồ chơi tuyệt đẹp với tất cả những đồ chơi mà Nhi đã suy nghĩ đến, còn đứa con trai thì ngồi ngay ở giữa phòng.

Tôi tên là Thạch, có muốn chơi chung với tôi không? Đứa con trai hỏi. Nhi không nói gì hết mà chỉ từ từ tiến đến gần đứa con trai và ngồi xuống chơi. Từ đó ngày nào Nhi cũng đến đó chơi và hai đứa trở thành đôi bạn thân.

Rồi một hôm, đứa em trai út của Nhi bỗng dưng bệnh nặng, Nhi phải ở nhà phụ giúp mẹ săn sóc đứa em, không có thời giờ để đến chơi với Thạch nữa. Sau sáu tuần bệnh nặng, em trai út của Nhi qua đời. Nhi rất đau buồn và cần một người bạn để an ủi nhưng khi em tới trước cổng ngôi biệt thự đó thì thấy Thạch ló đầu ra cửa sổ và la lớn với giọng trách móc:

"Đi chỗ khác chơi. Tao không muốn mày đến đây nữa!"

Có thể bạn giận mình vì mình không đến đây chơi, nên Nhi đã quyết định đi vào nhà để gặp Thạch và nhất định giải thích cho bạn y hiểu. Nhưng khi Nhi đi đến tầng lầu cao nhất thì thấy Thạch đã ngồi ở trước cửa phòng tự bao giờ. Nó nhìn Nhi với cặp mắt thật là ghê gớm và trên khuôn mặt chứa đầy hờn giận.

"Đi chỗ khác ngay," Thạch hét lớn và xua đuổi Nhi đi chỗ khác.

"X ...i ...n ... đừng đuổi Nhi, em của Nhi mới chết và tôi cần nói chuyện với bạn" vừa khóc em vừa nói.

Đứa con trai tên Thạch ra vẻ không thương tiếc mà còn lạnh lùng nói: "Bây giờ tao đã có một người bạn khác rồi" Nói xong đứa con trai đi vào trong phòng và khép cửa phòng lại.

Đứng ở ngoài phòng, Nhi nghe được tiếng cười đùa từ trong phòng vọng ra, tò mò muốn biết người bạn mới này là ai nên Nhi nhẹ bước đến gần cửa phòng và lén nhìn vào bên trong.

Khi nhìn vào phòng, Nhi đã sợ hãi đến độ vừa la vừa chạy thẳng một mạch về nhà. Mẹ của Nhi thấy Nhi sợ quá độ nên gọi bác sĩ đến và chích một mủi thuốc ngủ cho Nhị Khi bác sĩ ra khỏi phòng, ông y rất là bối rối. Mẹ của Nhi liền hỏi ông chuyện gì đã xảy ra cho Nhi, thì ông nói với bà ta rằng con của bà cho biết nó đã đến ngôi biệt thự cũ để gặp một người bạn nhưng khi đến đó và nhìn vào bên trong thì gặp bạn của nó đang đùa giỡn với đứa em vừa mới chết.

- Không thể như vậy, bà ta nóị Trong nhà đó chỉ có một đứa con trai 11 tuổi tên là Thạch đã bị bệnh và qua đời cách đây trên 100 năm, sau đó đâu còn ai đến đó ở nữa .

--------------------------------------------------------------------------------

Đầm Lầy Trăng Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Đầm Lầy Trăng

Tôi không biết giờ đây Dennis Barry đang ở đâu, ở cái nơi xa thẳm khôn cùng và ảm đạm nào? Vào cái đêm khi chàng còn sống với mọi người lần cuối cùng, tôi cách chỗ chàng không xa và nghe thấy tiếng người ta đến bắt chàng đi, cùng những tiếng kêu xé lòng xé ruột của chàng. Nông dân và cảnh sát hạt Meath không tìm thấy cả Barry lẫn những người khác, mặc dầu họ đã kiên nhẫn sục sạo mọi nơi, mọi chốn. Còn tôi, sau tất cả những chuyện đã xảy ra, cứ mỗi khi nghe tiếng động ộp oạp của lũ ếch nhái đầm lầy vang tới hoặc bỗng nhiên tôi lạc tới một vùng đầy ánh trăng ở một chốn đồng không mông quạnh nào là bất giác tôi lại thấy khắp người nổi gai ốc vì sợ hãi.

Quen thân với Dennis Barry từ khi còn ở đất Mỹ, nơi chàng đã phất lên giàu có, nên tôi rất vui khi biết chàng đã chuộc lại tòa lâu đài của dòng tộc mình tại vùng đầm lầy hoang vắng Kilderry. Chính đó là nơi chôn nhau cắt rốn của chàng, và chàng những muốn được tận hưởng những thành quả giàu có của mình giữa những bức tường thân thuộc của cha ông. Thuở xưa, tổ tiên chàng sở hữu xứ Kilderry, tại đây họ đã xây cất một tòa lâu đài và sống hạnh phúc trong tòa lâu đài ấy, nhưng nay tất thảy những điều đó đã trở thành quá khứ xa xăm. Đã bao tháng trôi qua kể từ khi tòa lâu đài trở nên hoang phế hoàn toàn. Sau khi trở về Ireland, Barry thường gửi thư cho tôi và kể chuyện việc quần thể kiến trúc cổ kính đó được tái sinh dần dần, hết ngọn tháp này đến ngọn tháp khác. Và sau bao thế kỷ những bức tường lâu đài lại được trang trí lại đẹp đẽ như xưa, còn nông dân thì không ngớt lời ca ngợi và tỏ lòng biết ơn chàng đã bỏ vốn đầu tư cho sự thịnh vượng của chốn quê hương. Nhưng sau đó mọi việc đã thay đổi, đám nông phu thôi không ca ngợi ông bạn tôi nữa, mà trái lại, họ bắt đầu tìm cách tránh xa chàng như tránh xa kẻ mang bệnh dịch hạch. Chính lúc đó Dennis đã viết thư cho tôi, yêu cầu tôi tới thăm vì chàng rất cô đơn trong tòa lâu đài, thậm chí chẳng có ai để mà nói chuyện nữa, ngoại trừ những người giúp việc và đám gia nhân chàng thuê từ miền bắc xuống.

Khi tôi đến nơi, Barry kể cho tôi hay rằng nguyên do mọi chuyện là ở những đầm lầy bên cạnh. Tôi đến Kilderry lúc hoàng hôn, ánh mặt trời lúc chiều tà vẫn thếp vàng lên các ngọn đồi xanh và những cánh rừng, cũng như lên màu lục của khu đầm lầy. Nó chiếu sáng cả những phế tích cổ kính kỳ lạ trên hòn đảo nhỏ xa xa. Cảnh hoàng hôn thật đẹp, song nông dân ở Ballylow đã kịp phần nào khiến tôi lưu ý đến niềm tin của họ, khi họ quả quyết rằng Kilderry thật đáng nguyền rủa, và tôi dè dặt liếc nhìn những ngọn tháp nhỏ của tòa lâu đài đang ánh lên vàng rực dưới nắng chiều. Tôi rời Ballylow bằng chiếc ô tô do người ta sai đến đón, vì Kilderry nằm cách đường xe lửa khá xa. Những người nông dân cố tránh xa chiếc ô tô và người tài xế quê miền bắc, nhưng khi thấy tôi chuẩn bị đi tới Kilderry, họ vẫn không kìm được vào báo trước cho tôi phải đề phòng nguy hiểm. Buổi tối, tôi đã có mặt trong tòa lâu đài, Barry đã kể tôi nghe mọi chuyện.

Nông dân lũ lượt rời bỏ Kilderry chỉ vì Dennis Barry quyết định cho hút cạn cái đầm lầy lớn. Mặc dù tình yêu quyến luyến với xứ sở Ireland quê hương thật sâu đậm nhưng những lề thói quen thực dụng Mỹ đã ăn sâu bám rễ trong con người Barry, bởi thế chàng không chịu được với ý nghĩ để cho mảnh đất màu mỡ kia bỏ phí dưới làn nước đầm lầy, bời đó chính là đầm than bùn và đất dưới nó còn có thể được sử dụng một cách không ngoan để sinh lợi nữa chứ. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những câu chuyện truyền thuyết và những lời đồn đại mê tín gắn với khu đầm lầy. Chàng chỉ thấy tức cười khi lúc đầu, nông dân chối từ tham gia công việc, rồi sau đó khi thấy sự bướng bỉnh của chàng, họ bắt đầu nguyền rủa ông chủ của mình và bỏ đi tới Ballylow, chỉ mang theo những thứ thiết yếu nhất. Thấy vậy Barry bèn tuyển những người thợ từ miền bắc về, và khi cả đầy tớ gia nhân cũng bỏ tòa lâu đài ra đi, thì chàng lại phải thuê những người mới. Giờ đây xung quanh chàng toàn những kẻ xa lạ, bởi thế chàng thấy cô đơn và đã mời tôi về sống với chàng.

Sau khi nghe kể chi tiết chuyệc dân cư ở Kilderry sợ hãi điều gì, tôi cũng cả cười cùng ông bạn mình: hóa ra những mối e sợ của họ liên quan tới điều mê tín về vùng đầm lầy và kẻ canh giữ cau có nơi đây mà linh hồn của nó dường như sống ở chính trong đám phế tích cổ kính nhất mà tôi đã trông thấy lúc hoàng hôn là những mối lo sợ vớ vẫn. Người ta cũng truyền tụng những lời đồn đại về những tia lửa ma trơi nhảy múa trong bóng tối, về những cơn gió lạnh như băng giá lúc vào đêm hè nóng nực, về những bóng ma bận xiêm y trắng lơ lửng trên mặt nước và về những thành phố đá được che dấu dưới lớp bèo xanh của đầm lầy. Đám nông dân tin chắc rằng sự trả thù đang rình rập chờ đợi kẻ nào dám phávỡ sự yên tĩnh của vùng này, hay toan tính hút khô cạn khu đầm lầy mênh mông. Những nông dân nơi đây còn nói chớ nên động đến một số điều huyền bí ở đây. Những điều huyền bí ấy tồn tại từ thời xa xưa khi một đại họa đã ập lên đầu con cháu của vua Partholan. Trong cuốn "Chinh phục tùng thư" có kể rằng những con dân xứ Hy Lạp đã chết ở Thollat, song các cụ già ở Kilderry lại khẳng định rằng dù sao một đô thị cuối cùng cũng đã được cứu thoát bởi vị thần phù trì cho nó, là nữ thần Mặt Trăng. Thần đã che giấu đô thị ấy trong cánh rừng rậm trên các ngọn đồi và bởi thế đã giúp tránh thoát được quân xâm lược Nemed từ xứ sở Skif đến đây trên ba chục chiến thuyền.

Chính những truyền thuyết ấy đã buộc những người nông dân rời bỏ Kilderry! Đến giờ thì tôi chẳng còn ngạc nhiên gì nữa cái ý định của Dennis Barry không đếm xỉa đến những lời đồn nhảm nhí ấy. Vả lại, chính chàng cũng có mối quan tâm sâu sắc tới thời xa xưa và chàng dự định nghiên cứu kỹ lưỡng cẩn thận vùng này sau khi tát khô đầm lầy. Chàng thường lui tới thăm khu phế tích trên đảo: tuổi của nó rõ ràng rất xưa rồi. Di tích hoang phế ấy có lối kiến trúc khác hẳn các công trình cổ xưa khác, nhưng vì cái vẻ ngoài tàn tạ kinh khủng của nó hiện giờ, nên khó có thể hiểu được khu hoang tàn ấy đã từng là như thế nào vào thời hoàng kim của nó. Mọi công việc bơm hút khô phải bắt đầu chuẩn bị rồi, những công nhân quê miền bắc sắp sửa dọn sạch khu đầm lầy bí ẩn khỏi rêu và bèo mầu đỏ nhạt, phá bỏ những con suối nhỏ đầy vỏ ốc, vỏ hến và làm mất đi vĩnh viễn cái mặt nước mầu xanh da trời mọc đầy lau sậy.

Sau tất thảy những biến động trong ngày tôi đã thấy mệt và muốn đi ngủ. Đêm khuya và tôi thấy khó khăn phải nghe Barry kể nốt câu chuyện của mình. Một gia nhân dẫn tôi đến căn phòng dành riêng cho tôi ở một trong những ngọn tháp nhỏ. Qua khung cửa sổ nhìn thấy khu làng, cánh rừng thưa bên đầm lầy và xa hơn chút nữa là đầm lầy. Dưới ánh trăng tôi trông thấy những căn nhà chìm sâu trong giấc ngủ, nơi đang cư ngụ những người công nhân làm thuê từ miền bắc đến thế chỗ cho đám dân địa phương, tôi cũng thấy ngôi nhà thờ nhỏ xíu với cái nóc nhọn cổ kính, và phía xa sau cánh đầm than bùn ngái ngủ thấp thoáng khu phế tích trên hòn đảo nhỏ. Khi đang chìm vào giấc ngủ tôi bỗng nghe thấy, hay là tôi mường tượng thấy chăng? , tiếng tiêu nhè nhẹ yếu ớt vọng từ nơi xa, thanh âm ấy là một giai điệu hoang sơ, nguyên thủy nào đó. Điệu nhạc ấy khiến tôi lo lắng một cách lạ lùng khi nó đi vào những giấc mơ của tôi. Song buổi sáng khi tỉnh giấc, tôi hiểu tiếng nhạc đó là do mộng mị sinh ra, những giấc mộng thật lạ kỳ mà nếu so sánh với chúng thì ngay những âm thanh bí ẩn của tiếng tiêu cũng trở nên mờ nhạt hẳn đi. Có lẽ do ảnh hưởng từ những truyền thuyết do Barry kể mà tôi mơ thấy linh hồn mình lơ lửng trên cái đô thị hùng vĩ chìm trong đủ mọi loại cây xanh, nơi đây là những con đường lát đá cẩm thạch, những tòa biệt thự cùng những ngôi đền, những pho tượng, những họa tiết điêu khắc cùng những bài văn bia, tất cả đều nói lên sự vĩ đại xa xưa của xứ Hy Lạp. Tôi đã cùng Barry cười ngất trước giấc mơ đó, nhưng tiếng cười của tôi nghe to hơn vì lúc đó ông bạn tôi đang lo lắng trước thái độ của đám công nhân miền bắc. Đã sáu ngày liên tiếp họ ngủ dậy rất muộn, họ đi lại uể oải như đang ngái ngủ, và cả hôm nay nữa họ nom như hoàn toàn chưa được nghỉ ngơi, mặc dù đêm trước họ đều đi nằm sớm.

Suốt cả buổi sáng tôi đi dạo trong ngôi làng tràn ngập ánh nắng mặt trời và nói chuyện với những người công nhân. Họ chẳng có công việc gì đặc biệt lắm để làm vì Barry đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị cuối cùng trước khi bắt đầu khởi sự, nhưng thâm tâm tất cả mọi người đều thấy hồi hộp, xao xuyến vì những giấc mơ bất an, khó hiểu mà họ đã thấy khi sáng sớm. Tôi cũng kể cho họ nghe về giấc mơ lúc đêm của mình, song họ tỏ ra hờ hững khi nghe tôi kể. Chỉ mãi tới khi tôi nhắc tới tiếng nhạc ma quái kỳ lạ thì họ mới trở nên chăm chú: chính họ cũng nhớ là đã nghe thấy điệu nhạc gì tương tự.

Buổi sáng, sau bữa ăn chiều, Barry tuyên bố rằng mọi công việc sẽ bắt đầu sau hai ngày nữa. Tôi vui mừng khi nghe lời thông báo đó, mặc dù trong thâm tâm thấy tiếc nuối tất cả mọi thứ rêu và thạch thảo, mọi con suối và những cái hồ đầm nơi đây. Nhưng cũng rất muốn được thâm nhập vào những bí mật ấp ủ hàng bao thế kỷ nay có thể được chất chứa trong lòng cái đầm lầy than bùn kia. Đêm đó, tôi lại mơ thấy tiếng tiêu réo rắt và thành phố đá cẩm thạch, nhưng lần này giấc mơ bị ngắt đoạn đột ngột và kinh sợ. Tôi đã nhìn thấy một tai họa ập tới thành phố nơi thung lũng xanh tươi ấy, một trận sụt lỡ đất đá ghê gớm đã ào tới và chôn vùi mọi sinh vật và con người. Chỉ duy nhất ngôi đền nữ thần Arteuris ở trên đồi cao là không bị trận thiên tai khủng khiếp tàn phá. Tại ngôi đền này thần Mặt Trăng, bà Kleis, đức bà tư thế già nua đã nằm sóng sượt lạnh giá và im lặng với chiếc mũ miện bằng ngà voi trên mái đầu bạc.

Như tôi đã kể, giấc mơ của tôi bị đứt quãng. Một cảm giác lo âu khó tả cứ bám riết không rời tôi dù chỉ một khoảnh khắc. Một lúc rất lâu tôi không hiểu tôi đang ngủ hay tôi đang thức nữa. tiếng tiêu cứ tiếp tục văng vẳng trong tai. Song khi nhìn thấy những vệt ánh trăng lạnh giá trên sàn lỗ chỗ hình bóng chấn song của khuôn cửa sổ gôtích, tôi hiểu rằng dẫu sao mình vẫn đang trong tòa lâu đài Kilderry. Khi đâu đó đàng xa có tiếng chuông đồng hồ điểm hết lần này đến lần khác thì rốt cuộc tôi thấy rõ mình không ngủ. Nhưng mọi âm thanh của tiếng tiêu vẫn tiếp tục, ấy là một điệu nhạc lạ lùng, xa xưa, nó gợi trí tưởng tượng tới những vũ điệu của các vị thần Satyr ở xứ Menadus xa xôi. Nhạc điệu ấy không cho tôi ngủ, và thế là sau khi nhỏm dậy khỏi giường, tôi bắt đầu lo lắng đi đi lại lại trong phòng. Hoàn toàn ngẫu nhiên tôi bước tới khuôn cửa sổ phía bắc, nhìn về phía ngôi làng đang ngủ mơ màng và cánh rừng thưa bên mép đầm lầy. Tôi hoàn toàn không định nhìn qua cửa sổ vì đang buồn ngủ chết đi được, nhưng những âm thanh của các cây tiêu đanh thổi đã hành hạ tôi đến nỗi buộc tôi phải tìm cách lãng quên nó đi. Song những gì tôi trông thấy đã khiến óc tưởng tượng của tôi phải sửng sốt.

Trên khoảng rừng thưa tràn ngập ánh trăng đang diễn ra một cảnh tượng mà một khi đã mục kích thì ai cũng phải ghi nhớ đến trọn đời vì quá đỗi kinh ngạc. Dưới tiếng tiêu vang vọng khắp trên vùng đầm lầy là những hình dạng kỳ ảo đang chuyển động nhịp nhàng và câm lặng trên khoảng rừng trống. Lúc đầu họ đu đưa mình theo nhịp, nhưng dần dần chúng đạt tới mức khoái cảm tột độ mà thời xa xưa đã từng choán ngợp các vũ công Sicilia trình diễn vũ điệu dâng hiến thần Demeter vào đêm trăng rằm trước tiết thu phân ở gần thần Kyan. Khoảng rừng thưa phơi rõ dưới ánh trăng suông bàng bạc, những bóng ma khiêu vũ, tiếng tiêu lanh lảnh đơn điệu, tất thảy những cái đó cùng một lúc khiến tôi gần như bị tê liệt, song dẫu sao tôi vẫn nhận ra rằng, một nửa những vũ công không hề mệt mỏi ấy là những người công nhân làm thuê mà theo sự hình dung của tôi thì nhẽ ra họ phải đi ngủ từ lâu rồi, một nửa còn lại là những con ma kỳ lạ bận đồ trắng, với chút ít đầu óc tưởng tượng thì có thể coi chúng là các nữ thần sông suối đang sống ở những chiếc hồ nhỏ vốn nuôi dưỡng cả khu đầm lầy. Tôi không biết đã đứng bên cửa sổ bao lâu để ngắm nhìn cảnh tượng ấy, chỉ nhớ vào một thời khắc nào đó, tôi bỗng chìm vào một giấc ngủ sâu nửa ngất lịm mà chỉ có ánh sánh chói lòa của mặt trời mới đưa tôi ra khỏi trạng thái ngủ mê mệt ấy thôi.

Niềm mong muốn đầu tiên của tôi khi thức dậy là đi tìm Dennis Barry để kể lại cho chàng giấc mơ quá đỗi sửng sốt kia, nhưng dưới ánh mặt trời mọi sự nom khác hẳn, và tôi bèn tự nhủ đó chỉ là một giấc mơ. Có thể tôi đã bị ảo giác, nhưng ảo giác ấy đâu mạnh đến nỗi khiến tôi không còn kiểm soát nổi mình nữa và cho rằng tất cả những gì trông thấy chỉ là giấc mơ. Tôi chỉ giới hạn ở việc gặng hỏi những người công nhân, nhưng quả như tôi đã tiên liệu, họ chẳng hề nhớ điều gì đặc biệt, ngoài tiếng nhạc. Tôi đã suy nghĩ hồi lâu về những âm thanh lạ lùng đó, tôi đoán chừng phải chăng lủ dế đã cất lên bài ca mùa thu của chúng sớm hơn thời điểm tự nhiên đã khiến cho người ta phải bồi hồi xao xuyến. Đến trưa tôi gặp Barry đang xem xét một lần nữa các bản vẽ của mình trước khi khởi sự công việc. Như vậy, sáng mai các công nhân sẽ bắt tay vào việc... Lần đầu tiên tôi thấy tim mình thắt lại vì khiếp sợ, và đã hiểu vì sao nông nhân chạy trốn khỏi nơi đây. Vì một lý do mơ hồ nào đó tôi cũng thấy không chịu nổi với ý nghĩ rằng có ai đó sẽ quấy rầy, phá bĩnh khu đầm lầy cổ xưa này với biết bao điều huyền bí của nó được ẩn giấu khỏi ánh sáng mặt trời. Tôi bỗng hình dung ra những bức tranh kỳ ảo dưới lớp than bùn dày hàng thế kỷ này. Không nên bất cẩn mà phô bày cho bàn dân thiên hạ thấy tất cả những gì đã được giấu kỹ ở nơi đấy suốt bao thế kỷ như thế.Tôi những muốn tìm ra một nguyên cớ tiện lợi để từ giã khu lâu đài và cả chính ngôi làng này. Thậm chí tôi định nói về việc đó với Barry, nhưng tôi nhanh chóng kìm được vì bối rối trước tiếng cười nhạo báng của chàng. Tôi im lặng quan sát vầng mặt trời đang tỏa những sắc màu rực rỡ lên những ngọn đồi xa và tỏa xuống Kilderry thứ ánh sáng chói lọi màu vàng đỏ, một hiện tượng có vẻ như điềm gở.

Tôi không biết những sự kiện diễn ra đêm qua là trong mơ hay thực. bất luận thế nào đi nữa thì một trí tưởng tượng tinh tế nhất cũng không tài nào có thể sản sinh được điều gì hơn thế. Chẳng hạn, tôi không đủ sức nghĩ ra những lời giải thích tỉnh táo và hợp lý cho cái lẽ là sau đêm ấy mọi người trong lâu đài và khu làng đã biến đi đâu mất. Tôi về phòng mình sớm, nhưng trong lòng nặng trĩu những dự cảm nặng nề nên không tài nào ngủ được. Sự im lặng báo điều dữ ngự trị trong ngọn tháp xa này cứ hành hạ tôi. Mặc dầu trời tối nhưng quang đãng: những ngày này là lúc trăng hạ huyền và trăng mọc rất muộn. Tôi nằm và suy nghĩ về Dennis Barry, về những gì sẽ xảy ra với đầm lầy khi trời sáng, và cuối cùng những trăn trở ấy đã đẩy tôi tới trạng thái khiến tôi saÜn sàng vùng dậy, ngồi vào chiếc ô tô của bạn tôi, chủ nhân tòa lâu đài, lao thẳng tới Ballylow và thoát khỏi cái chốn đáng nguyền rủa này. Nhưng, chưa kịp đi đến quyết định cuối cùng thì tôi đã ngủ thiếp đi. Thế là trong cơn mơ tôi lại thấy thành phố nơi thung lũng, ảm đạm và thẩn thờ vì mối đe dọa diệt vong đang lơ lửng trên đầu.

Có thể tôi lại bị đánh thức bởi những âm thanh của tiếng tiêu, song sau khi tỉnh dậy thì không phải tiếng nhạc làm bận trí tôi. Tôi nằm quay lưng về phía cửa sổ hướng đông nơi mặt trăng sắp mọc và bởi vậy tôi chờ đợi được nom thấy ánh hồi quang của trăng trên bức tường đối diện. Nhưng tôi đã nhìn thấy một sự khác hẳn. Trên tường có những vệt sáng, nhưng đó không phải những hồi quang do ánh trăng phản chiếu. Tôi kinh sợ khi hiểu rằng đó là ánh sáng đỏ tươi lọt qua khuôn cửa sổ gôtích. Nó tràn ngập cả căn phòng bằng một ánh hào quang chói chưa từng thấy. Hành vi lúc đó của tôi thực đáng sợ, và điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì chỉ có nhân vật trong sách mới xử sự một cách có tính toán tỉnh táo trong tình huống như thế. Thay vì nhìn xuống vùng đầm lầy để hiểu xem nguồn ánh sáng mới ấy từ đâu đến thì tôi thậm chí không quay lại phía cửa sổ mà liền vội vã mặc quần áo với niềm hy vọng mơ hồ nhanh chóng trốn chạy khỏi nơi đây. Tôi nhớ là đã mang theo khẩu súng lục và cái mũ, nhưng chúng chẳng hề hữu dụng cho tôi. Tôi đã đánh mất cả hai sau khi chẳng bắn được phát nào và cũng chẳng đội đến mũ. Dẫu sao trí tò mò vẫn mạnh hơn sự kinh sợ, cho nên tôi lén bước tới cửa sổ để nhìn vào vầng hào quang đỏ sậm khó hiểu kia, tôi vươn người ra ngoài và đúng phút ấy tiếng tiêu cất lên đến váng tai, khắp tòa lâu đài và ngôi làng tràn ngập những thanh âm ấy.

Dòng ánh sáng rực rỡ màu đỏ sậm báo điều gở ấy xoáy thành tia trên mặt đầm lầy, nó phát ra từ đống phế tích hoàn toàn bí ẩn trên hòn đảo. Song khu hoang phế ấy đã thay đổi một cách lạ lùng. Tôi thật khó lòng mô tả được điều gì xảy ra, có thề tôi hóa điên, song tôi cảm thấy ngôi đền lại đang tọa lạc nơi đó với toàn bộ vẻ đường bệ oai nghiêm của nó mà chưa hề bị một thời gian làm phôi pha với những cây cột bao quanh. Những ánh hồi quang của ngọn lửa đang cháy trên mặt đá cẩm thạch của mũ cột vươn lên cao. Tiếng sáo ngân lên, tiếng trống vang vọng và trong khi tôi như một kẻ bị mê hoặc nhìn ngắm cảnh tượng ấy thì trên những bức tường cẩm thạch được chiếu sáng rõ bắt đầu xuất hiện hình dáng các vũ công. Tất cả những cảnh ấy nom thật phi thường khó tin là thật, ấn tượng tác động thật vô cùng sửng sốt. Tôi đứng lặng người tại chỗ, không thể rời mắt khỏi bức tranh kỳ dị, đồng thời ở bên trái tôi vang lên rất to tiếng tiêu dồn dập. Trong cơn phấn khích khó hiểu và choáng ngợp những dự cảm nặng nề, tôi liền băng ngang phòng đến chỗ cửa sổ phía bắc mà từ đó ngó thấy ngôi làng và cánh rừng thưa. Chính đó là điều mà tôi đã thấy trước đây và lý trí của tôi đã chối từ chấp nhận và hiểu thấu, nhưng bây giờ thì tôi sửng sốt vô chừng: dọc theo cánh rừng thưa đẫm ánh sáng màu đỏ máu đang chầm chậm chuyển động một đoàn diễu hành mà có lẽ chỉ có thể hiện trong cơn ác mộng mà thôi.

Lúc thì trượt trên mặt đất, lúc thì trôi trong không khí, những bóng ma đầm lầy chậm rãi đi theo hướng dẫn tới vùng hồ đầm lầy êm đềm nước lặng và đi tiếp tới khu phế tích, những bóng ma ấy choàng những bộ đồ mầu trắng, chúng cứ đi và tạo ra những hình thù phức tạp, dường như đang biểu diễn một điệu vũ nghi lễ cổ xưa. Những cánh tay không chút thịt da của chúng lắc lư nhẹ theo nhịp giai đệu the thé xé màng tai của những cây sáo vô hình, những cánh tay ấy mời chào, thu hút theo chúng cả những người công nhân làm thuê mà giờ đây đã xếp thành hàng lần lượt đi sau một cánh mù quáng và tuân phục như những chú chó ngoan, dường như họ phải phục tùng một sức mạnh ma quỷ nào đó. Khi các nữ thần sông suối đi đến đầm lầy thì những nạn nhân mới đi ra khỏi lâu đài, họ lảo đảo với bộ điệu yếu đuối, xiêu vẹo, Họ xuất hiện từ chiếc cửa ra vào nằm ngay dưới cửa sổ phòng tôi, họ đi qua khu sân như đang trong cơn mơ ngủ, sau đó theo con đường làng hẹp họ tiếp nối hàng công nhân đang đi lảo đảo ở quãng cánh rừng thưa. Mặc dù có một khoảng cách giữa tôi với họ nhưng tôi hiểu ngay rằng đó là những gia nhân đến đây từ miền bắc, thậm chí ở một trong số những hình người quái đản và thê thảm nhất tôi đã nhận ra chị đầu bếp mà những cử động vụng về bình thường của chị ta lúc này với tôi thật bi thảm. Những cây sáo vẫn phát ra những thanh âm khó mường tượng như trước, và từ phía hòn đảo lại vang lên tiếng thôi thúc giục giã của những chiếc trống, và chính lúc này các nữ thần sông suối chầm chậm và duyên dáng bước xuống làn nước của khu đầm lầy cổ xưa. Còn những người đi theo sau các nữ thần ấy không hề chậm bước cũng bắt đầu xuống nước và chẳng bao lâu mất hút dưới làn nước vô tình. Trong ánh sáng hồng trên mặt đầm lầy thật khó nhận ra những vệt bong bóng khí lan trên nước. Người cuối cùng mà vực thẳm kia nuốt chửng là chị bếp béo, con người đã gợi nên nơi tôi sự thương cảm. Khi chị ta khuất hẳn dưới làn nước thì những cây sáo cùng trống im hẳn, cái ánh sáng do đống phế tích phát ra làm chói mắt cũng tắt; ngôi làng lại lặng đi trong ánh sáng thanh bình của vầng trăng vừa mọc.

Tôi hoàn toàn bối rối. Liệu tôi có mất trí hay không đây? Tôi đang ngủ chăng? Liệu có phải những điều đó đã xảy ra trên thực tế hay không? Tôi nghĩ chính sự sững sờ mà tôi bất ngờ chìm đắm vào đã cứu tôi khỏi cái số phận bi thảm chung cho đám người ấy. Có lẽ tôi đã cầu nguyện thần Arteuris, thần Latona, thần Persephone và thần Pluto. Tóm lại tôi đã cầu xin tất cả các vị thần mà tôi nhớ được trong văn học cổ điển, nỗi kinh hoàng vừa nếm trải đã biến tôi thành một kẻ mê tín. Tôi hiểu rằng tôi đã trở thành người chứng kiến cái chết của cả làng, không còn nghi ngờ gì nữa: trong tòa lâu đài chỉ còn lại có tôi và Dennis Barry, chính sự khinh suất rồ dại của chàng đã dẫn đến thảm họa. Khi nghĩ về chàng thì trong tôi lại choáng ngợp nỗi khiếp đảm đến nỗi đôi chân khuỵu ngã xuống và tôi ngã lăn trên sàn nhà, mặc dầu tôi không hề bị ngất. Bất thình lình tôi cảm thấy một cơn gió lạnh buốt từ phía đông nơi mặt trăng vừa mọc và tôi cũng nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng ở tầng dưới của tòa lâu đài. Chẳng bao lâu sau tiếng kêu chuyển thành tiếng la hét thất thanh ghê gớm đến mức bây giờ tôi cũng còn thấy kinh hoàng khi nghĩ đến tiếng la hét ấy. Tôi có thể nói ngay rằng đó chính là tiếng gào thét của ông bạn tôi.

Có lẽ, làn gió lạnh giá và những tiếng kêu khủng khiếp đã buộc tôi phải đứng dậy bởi vì, như tôi còn nhớ, tôi chạy hồi lâu dọc các căn phòng tăm tối và các dãy hành lang tối om cho đến khi lọt ra bên ngoài. Người ta tìm thấy tôi lúc rạng sáng cách Ballylow không xa. Tôi đã đi lảo đảo như một kẻ không nhà không cửa, miệng lẩm bẩm điều gì trong trạng thái hoàn toàn mê man. Sự cố cuối cùng tôi thấy ở Kilderry đã đẩy tôi tới trạng thái khốn đốn cùng cực đó. Cái cảnh ấy thật quái đản, ghê sợ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ quên được cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Cảnh đó luôn luôn hiện lên trước mắt tôi nếu tôi bất thần đứng gần một đầm lầy vào đêm trăng nào đó.

Vậy là sau khi rời bỏ tòa lâu đài khủng khiếp, đang phóng đi dọc bờ đầm lầy bỗng nhiên tôi nghe thấy những âm thanh gì mới lạ, chẳng có gì đặc biệt, nhưng ở đây, tại Kilderry, thì cho đến nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Làn nước tù hãm mà trong đó chẳng có chút sinh khí nào giờ thật khoái hoạt, sinh động. Mặt đầm lầy nhung nhúc biết bao những con ếch kềnh kêu ồm ộp liên tục. Ánh trăng lấp lóa hai bên lườn phồng mọng màu xanh của chúng, nhưng ánh sáng còn tia ra từ một nguồn sáng, và có lẽ những con ếch kềnh ấy đang chú ý dõi nhìn về phía tia sáng ấy. Tôi theo dõi một con ếch đặc biệt béo mỡ và xấu xí và nhìn thấy chính cái điều đã khiến tôi hoàn toàn mê muội.

Một tia sáng nhấp nháy yếu ớt không phản chiếu trong mặt nước đầm lầy trải dài từ công trình bí ẩn trên hòn đảo nhỏ tới vầng trăng khuyết. Còn tôi thót tim khi nhìn thấy trên con đường mòn nhợt nhạt chết chóc một hình người quằn quại, một cái bóng mờ ảo đang cố sức cưỡng lại những con quỷ vô hình đang kéo cái bóng đó theo sau. Có thể là tôi điên, nhưng cái bóng dáng đó, một bức biếm họa quái đản man dại, đã khiến tôi nhớ một cách lạ lùng đến con người đã từng là Dennis Barry.

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Chiếc Gương Đen

Ông Thorndye chủ nhân thư viện khu Steplinn, đã nhiều lần nhìn sang mấy ngôi nhà kỳ quái có mặt tiền ốp gỗ đối diện với cửa sổ với cửa sổ phòng ông.

Phòng đọc kê những dãy bàn gỗ đen ngổn ngang sách báo giờ đây không còn một bóng người và ông không thể nào được nói dăm câu ba điều với một người nào đó rằng ông đánh giá hết sức đặc biệt phong cách kiến trúc tuy đo của những công trình này, rằng chỉ riêng những công trình đó mới có thể trụ lại được qua bao nhiêu lần hỏa hoạn và chấn động mà Siti phải chịu đựng từ thế kỷ mười lăm.

Không một bóng người...

Nói chung thì cũng hoàn toàn không phải như vậy, nhưng cái ông khách duy nhất đang uể oải lần giở những tập sách nhaÜn bóng vì dầu mỡ không được người thủ thư tính đến.

Bác sĩ Baster Brown là một thầy thuốc bình thường trong khu; ông sống ở phố Nhà thờ, thuê hai phòng trong một ngôi nhà cao tầng u ám ở ngoại vi công viên Clissold, ông không có riêng một tủ sách, một phòng thí nghiệm, còn những người khách bệnh nhân ít ỏi thì ông tiếp khám trong cái phòng khách xoàng xĩnh có mấy cái ghế bành đen đủi nhồi lông ngựa. Mỗi tuần hai lần ông lê gót xuyên qua thành đô đến Hallborn để vào cái phòng đọc đầy bụi của ông Thorndye, tại đây ông ngồi một vài giờ và cuối cùng ra về với một cuốn sách nhỏ với giá đặt cược là sáu pence.

Ngoài trời mưa lâm thâm, mà cái bàn ông ngồi lại kê vào góc tối nhất của thư viện. Tuy thế ông Thorndye cũng không nghĩ đến chuyện thắp lên một trong số những cây đèn chao xanh vì một độc giả chẳng lấy gì làm giàu có như ông.

Ông Baster Brown không đọc mà chỉ ngồi lật qua lật lại những trang sách "Lịch sử nước Anh", và từng tí một ông dần dần nhét xuống dưới tập sách này một cuốn sổ mỏng lấm tấm những chấm rỉ sắt và đã bị bọ sách cắn thủng.

Đúng lúc này cô Boze bước vào và ông Thorndye trịnh trọng cúi chào. Cô Boze chẳng những đã mượn của thư viện những sách quý hiếm, mà cô còn thích chuyện trò với ông chủ, những lúc như thế ông lại có dịp trình bày nhận thức của mình về mặt lịch sử.

- Cô Boze này, lần trước khi tôi được vinh hạnh và được sung sướng tiếp kiến cô trong tệ xá của mình, chúng ta đã nói đến Ren, đến việc sau vụ cháy năm một ngàn sáu trăm sáu mươi sáu ông ấy đã xây lại Hild Hall.

Ông Baster Brown đứng dậy, cuốn sổ mỏng ông nhẹ nhàng cho vào túi áo bành tô, còn một tay ông cầm một cuốn tiểu thuyết gì đó mới được xuất bản.

- Xin cám ơn ông, chào ông - người thủ thư vừa nói mấy tiếng khô khan, vừa đưa hai ngón tay kẹp lấy đồng xu mà ông thầy thuốc đưa ra.

Cái bóng dáng thấp bé của ông bác sĩ nhòa đi trong màn mưa bụi của Hallborn.

- Làm việc như thế thì cũng chả lấy gì làm no đủ ông Thorndye lẩm bẩm.

Sau đó ông lại mỉm cười và tiếp tục bài giảng của mình cho cô khách hàng thường nhật.

Tuy nhiên cũng cần phải thừa nhận rằng những ngọn tháp mà Ren xây dựng cho Tu viện Westminster không được hài hòa lắm với cái vẻ hùng vĩ của Tu viện...

Đứng ở góc phố Hallborn chờ xe buýt giữa cái đám người âu sầu chịu đựng, quần áo ướt sũng, ông Baster Brown lấy tay giữ khư khư cái túi căng phồng của mình, dường như trong đó có cái ví đầy tiền. Thế nhưng trong đó chỉ vẻn vẹn có một cuốn lịch thư cổ của Warren năm một ngàn tám trăm năm mươi bảy mà cho đến nay thật là may mắn ông Thorndye không đem ra nhóm bếp hoặc không rơi vào tay gã Do Thái buôn đồ cổ Paans cứ mỗi năm hai lần đến mua tất cả những cuốn sách không còn cho mượn được nữa.

Ông Baster Brown về đến nhà thì đã muộn, ở lối cầu thang ông đụng phải cô chủ nhà Skinner, cô xì ra một tiếng không hài lòng và không đáp lại lời chào của ông.

Lẽ ra mình phải tìm cách trả cho cô ấy một phần tiền nhà, ông thầy thuốc lẩm bẩm một cách chán chường khi leo lên tầng tư về phòng mình trên những bậc cầu thang trải một tấm thảm đã trụi lông xơ xác.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Lửa trong lò sưởi đã hết cháy, còn ở cái vòi hơi có cái màn chắn rách nát bằng amiăng thì chỉ còn một chút ánh sáng loe lét.

Ông Baster Brown đặt cuốn lịch thư Warren xuống cái bàn tròn có lớp vécni đã hơi tróc nham nhở bên cạnh chai rượu Uýtxki và một cái ống điếu cáu bẩn vì nước bọt; sau đó ông thận trọng kiểm tra xem cửa đã đóng chặt chưa, ông vo một mảnh giấy nhét vào lỗ khóa và cẩn thận kéo bức rèm vải bông màu xanh che kín cửa sổ.

- Chà..., ông thở một hơi dài, nhưng đầu tiên phải gọi cái điếu Polli giúp đỡ cái đã.

Ông vớ cái ống điếu, nhét vào đó một dúm thuốc vo tròn lồng phồng lấy ra từ một túi giấy màu xám và rít một hơi khoan khoái.

Nàng Polli tốt bụng của tôi ơi! Ông thốt lên với cái giọng dịu dàng thô thiển.

Nàng Polli phần nào đã tô điểm được cho cuộc đời đơn côi của ông, con người ít ỏi về tiền nong mà lại bị bao nhiêu rủi ro khăng khăng theo đuổi; còn ông thì bắt chước nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết trinh thám của ông đã đọc được hồi nào để đặt cho ống điếu một cái tên nghe thật phụ nữ, thậm chí còn khắc lên đầu nó ba dấu thập ác, ông làm thế chỉ cốt để đánh dấu quyền sở hữu của mình và sự ràng buộc đặc biệt.

"Một thứ siêu đẳng" đã có lần ông tự nói với mình khi nhớ lại cái ngày ngẫu nhiên có tiền ông đã mua cái ống điếu theo kiểu "chesterfild" bằng thứ vỏ bạch dương dày cộp của Anh này với giá khá đắt.

- Chà...

Baster Brown đọc sách, hai tay ôm đầu và cắn môi vì căng thẳng: "Năm một ngàn tám trăm bốn mươi hai bộ sưu tập đồ quý hiếm của Horas Wallpo ở Stroberri Hill được đem ra bán đấu giá. Trong những thứ khác lạ có một chiếc gương đen của bác sĩ John Dee, một người thầy thuốc, một nhà phẩu thuật và một nhà chiêm tinh của nữ hoàng Anh Elizabeth. Đó là một tấm than đá màu đen cực kì, được đánh bóng và đẻo gọt tinh xảo hình bầu dục có cán bằng một khúc ngà voi màu sẫm.

Ngày trước tấm gương này được lưu giữ trong bộ sưu tập của các bá tước Peterborough, cũng như trong dòng họ Wallpol chưa bao giờ có ai có ý định sử dụng cái đồ vật bé nhỏ này, họ chỉ thờ ơ lưu giữ, đề phòng có những tai họa lớn có thể gây ra sự tò mò không đúng chỗ của ai đó.

Alias Ashmol, tác giả cuốn sách kì lạ và rùng rợn "Theatrum Chemicum" có kể về một chiếc gương đen theo những lối nói sau đây: "Nhờ khối đá thần thông này có thể nhìn thấy mọi gương mặt mà ta muốn, dù gương mặt đó ở phương trời nào đi nữa, dù nó có lẩn trốn vào những hang sâu khuất nhỏ nhất nằm sâu tít trong lòng đất."

"Cần biết rằng mãi về sau này những người giữ chiếc gương vì khiếp sợ cái uy lực đó mà không dám đem thử..."

Ông Baster Brown thôi không đọc phần cuối bài báo nói đến số phận bi thảm của ông John Dee bí ẩn, mà đi lấy một chiếc kính lúp để soi xét mấy dòng chữ bé líu xíu bên lề sách:

"Phải, nhưng tên đạo tặc Edward Kelli đã theo sát như hình với bóng cái lão Dee khôn ngoan ăn người, tên đạo tặc này đã sử dụng gương để đi tìm kho báu và để gây ra những tội ác bí ẩn.

Trong tay tên bất lương cái vật nhỏ kì diệu này, không còn nghi ngờ gì nữa... (đến đây mảnh giấy bị mọt đục, vì thế mất một đoạn)... cái được Giấu Kín trong gương".

Hai chữ Giấu Kín được gạch chân và viết đậm.

Đoạn ghi chú bên lề được kết thúc bằng mấy dòng viết thân bằng một loại nét chữ khác.

"Gương này đã bị bọn Kwaiter feidzi ăn trộm. Chúng dùng gương để tìm các kho báu (đoạn này lại bị mọt ăn)... nguyền rủa chúng suốt đời".

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Ông thở một hơi dài và sâu theo thói quen, ông ấn vào cái lò xo ở một chiếc hộp kín của chiếc bàn nhỏ kì cục làm theo kiểu dedlou, đặt cuốn lịch thư Warren vào đó bên cạnh một cái túi da. Trong túi này có những dụng cụ quý giá tinh xảo bằng thép bóng loáng. Đó là những vật đắc dụng đã một thời là tài sản của Stenton Miller biệt danh Con Dê mà một buổi sáng tháng Ba người ta đã treo cổ hắn ở nhà ngục Newgate, cũng vào lúc đó mưa lớn lẫn với mưa đá to đã đập vỡ hết kính của những ngôi nhà ở Paternos ter Road.

Ông thầy thuốc lắc đầu; ông đã ra tay cứu giúp Stenton Miller khi hắn được chở đến đồn cảnh sát ở Roterhight, thừa sống thiếu chết vì đòn thù của một đám đông.

- Ông bác sĩ, ông cầm lấy cái này thay cho tiền chữa con người bất hạnh ấy thều thào, lúc một viên cảnh sát bỏ đi giây lát, có lúc dùng đến đấy. Mà tôi cũng không muốn để người ta lục thấy trong túi tôi.

"Cái của nợ này" cũng chẳng thấy có ảnh hưởng gì đến kết cục vụ việc của chính Stenton Miller, thế nhưng nó cũng có chút ích lợi cho ông Baster Brown, bởi vì thường mỗi tuần ông không kiếm nổi lấy một đồng bảng.

- Chà, Polli, ông vừa thốt ra mấy tiếng, vừa nhả lên trần một làn khói.

Ba ngày sau ông được biết rằng hầu tước cuối cùng Kwaiterfeidzi đang sống ở Estis Road trong một ngôi nhà cũ nát lụp xụp với mấy cái cửa sổ bụi bậm nhưng lại được che hắn bằng những chiếc rèm gấm nặng nề, đắt tiền.

- À, cái lão bần tiện ma quỷ Kwaiterfeidzi, trời tru đất diệt cái lão ấy đi! một cô bán rau kêu lên đúng lúc Baster Brown vô tư dạo chơi trên đường Estis Road.

Và ông nhìn thấy cái lão già đầu nhỏ xíu, ăn mặc chỉnh tề theo kiểu Bremmel đang lần bước trên bực thềm nhà.

Estis Road là một phố nhỏ heo hút ở Kenonberi, đến ban ngày cũng ít người qua lại, còn đêm khuya thì hoàn toàn không có bóng người.

Lối vào biệt thự của nhà Kwaiterfeidzi; có một cánh cửa chắc chắn có then cài và hai vòng khóa xích, ngược lại thì cánh cửa sân vườn, lối ra kênh đảo Olvin không sâu lắm, chỉ cần một que sắt năm mươi phân thì có thể mở được. Ông Baster Brown đi qua một vạt sân nhỏ đọng đầy nước mưa, tựa như một nhánh sông nhỏ, mở cái chốt cữa sổ phòng giặt và dễ dàng tìm được đường vào các phòng tầng trên.

Phải, cái thằng cha Steton Miller nói đúng, những dụng cụ của hắn cũng có ích thật sự đấy chứ! Ông Baster Brown tin như thế khi ông cắt tấm ốp bằng tấm thép của cái két sắt kỳ cục được trang trí bằng một thứ sợi mạ vàng và những hình hoa văn cầu kỳ diễm lệ.

Ông đang sắp hoàn thành công việc của mình thì hầu tước Kwaiterfeidzi bước vào, trong tay cầm một que chọc lò.

Bác sĩ giật ra khỏi tay ông cái vũ khí nực cười ấy và đập một nhát vào cái hộp sọ bé nhỏ hình trái lê của ông.

Ông già rít lên một tiếng như tiếng chim rồi ngã vật xuống; kinh nghiệm nghề nghiệp mách bảo Baster Brown rằng không cần đến nhát thứ hai nữa.

Không hề vội vã lúng túng, ông lục soát hết mọi thứ trong tủ và phát hiện trong đó có mười hai đồng bảng tiền giấy, một vốc đồng shilling mới và chính cái gương của bác sĩ Dee đựng trong một cái túi bằng lụa màu đỏ.

Về đến nhà ông Baster Brown nốc hết ba phần tư chai Uýtky rồi rút cái gương trong bao ra.

Thở một hơi dài ngao ngán, ông đặt Polli lên bàn vì trong túi ông không còn một chút thuốc nào. Sau đó ông thận trọng bắt tay vào việc nghiên cứu cái vật kỳ quái ma thuật.

Cái khuôn bầu dục nhỏ hẹp và tăm tối ánh lên như một mảnh trời đêm không trăng sao, ông nhận thấy rằng nó lấp lánh, không phản chiếu một thứ ánh sáng nào, vả lại trong cái bề sâu u tối của gương ông cũng chẳng phát hiện thấy có gì đặc biệt.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Để tập trung tư tưởng và tinh thần ông bắt đầu nhắc lại tên tuổi của con người bí hiểm tạo ra chiếc gương, đôi khi ông còn kết hợp cả vào đó tên của Kwaiterfeidzi.

Một giờ sau lưng, ông bắt đầu toát mồ hôi, tay ông thì run rẩy lập cập vì một sức nóng không biết từ đâu sinh ra.

Gần đến sáng ánh đèn hơi đã yếu đi bởi vì ông Baster Brown quên không thả một đồng xu vào cái khe đồng hồ tính tiền.

Ánh sáng tắt hẳn và bây giờ ông thầy thuốc mới thấy một ánh xanh tuyệt vời hắt ra từ lòng gương.

Động tác đầu tiên của ông là cử chỉ run sợ, ông chạy vội sang phòng bên và khóa trái cửa lại.

Tuy nhiên, gần như ngay lập tức ông nguyền rủa mình vì tội nhát gan, và mặc dầu toàn thân run rẩy một cách thiểu não, ông vẫn quay về chỗ bàn.

Ánh sáng ấy vẫn tiếp tục hắt ra, dù không mạnh lắm.

- Cần phải... nghiên cứu hiện tượng này... nhằm mục đích khoa học. Ông thầy thuốc lẩm bẩm. Cái ánh xanh này dường như là ánh xanh từ một đầu cực... Vậy thì, nếu ta đứng sang bên trái gương, ta sẻ nhìn thấy...

Ôi chao, quả đúng như thế! Ông đã nhìn thấy, dù rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ ông chỉ mong sao trên cái mặt đen lạ lùng kia không hiện ra một hình ảnh nào nữa, mặc dấu ông đã từng ham muốn được chính mình sử dụng cái sức mạnh bí hiểm của nó.

Hình ảnh hiện ra khá là mờ mịt và ông Baster Brown phải vận dụng hết trí lực của mình mới có thể phân biệt được một số đường nét.

- Có vẻ giống như là... hừm, nhưng rất rõ ràng đó là một cái gì như thể một bộ áo dài... mà có lẽ, như là một chiếc áo blu. Hừm, ... à à, đây là cái đầu... còn đây là chân.

Hình ảnh dần dần nét hơn.

Cái đầu đội mũ hiệp sĩ lộ ra phía trên một chiếc khiên rộng không rõ hình thể. Cặp chân khẳng khiu dài quá khổ, bên ngoài mặc một thứ quần kỳ dị mà người ta dùng để mô tả trên những bức chạm khắc cổ xưa các nhà hiệp sĩ cuối cùng của cuộc chiến tranh Hoa hồng đỏ và Hoa hồng trắng.

- Đẹp thì chả đẹp, mà ý nghĩa thì không có gì, ông Baster Brown kết luận trong một giây lát hăng hái.

Tuy nhiên, ông cũng không có ý định hăng máu vịt trước một kiểu bất trí, ông hiểu rằng bức tranh khó hiểu và không mạch lạc sẽ tạo ra quanh mình một không khí ghê sợ hãi hùng. Cái ánh sáng xanh kia đủ mạnh để soi các vật xung quanh và ông đã nhìn thấy chai rượu uýtxky và chiếc điếu Polli được bao phủ bởi một lớp ánh lân tinh mờ mờ.

Đó là những đồ vật quen thuộc, thậm chí còn rất đáng yêu của ông, những đồ vật sinh hoạt bình thường, thế mà giờ đây ông nhìn chung một cách khiếp sợ, tựa hồ chúng cũng là một bộ phận của sự bí ẩn nguy nan đã nảy sinh ngay bên cạnh ông.

Đúng lúc này cái hình ảnh nhòe nhoẹt kia chợt đậm đặc lại mấy giây rồi lại nhanh chóng giãn ra; đầu tiên là cái khiên biến đi, bộ quần áo bỗng thảng thốt như sương, rồi sau đôi chân như hai con rắn chợt tan hòa vào thứ bóng tối lung linh. Thế rồi, thoắt một cái, giống như sau tiếng "tách" của công tắc điện, tất cả đồng loạt tối thui và căn phòng chìm vào bóng đêm.

- Đồng hồ tính tiền, mau lên! Ông Baster Brown kêu lên và điên cuồng chạy khắp phòng tìm những đồng xu.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Ông kịp bỏ tiền vào khe đồng hồ khi nghe thấy sau lưng tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng và tiếng nước chảy đổ.

Một phút sau chiếc đèn hơi sáng lên rực rỡ.

Chai rượu đã vỡ vụn chảy thành hai dòng trên mặt bàn. Chiếc gương đen lại giống như một chiếc đĩa thường.

- Có thể đó là do trí tưởng tượng bệnh hoạn của ta sinh ra mà thôi. Ông bác sĩ ca cẩm.

Nhưng ngay lập tức ông lắc đầu:

- Vậy tại sao cái chai lại vỡ, lại còn...

Ông mở to mắt, đứng như trời trồng, nhìn chằm chằm lên bàn: chiếc điếu Polli đã biến mất.

Phải mất một tuần trôi qua ông Baster Brown mới lấy lại được can đảm để thử nghiệm điều bí ẩn của chiếc gương ma quái trong một đêm đen tĩnh mịch.

Không có gì xảy cả.

Dũng cảm hơn, đêm nào ông cũng thử nghiệm; để có vẻ ly kỳ thậm chí ông đã bắt đầu kêu gọi cả đến bóng dáng của Dee và Kelli, hơn thế nữa, cả những thực thể của thế giới bên kia, khi tìm thấy tên tuổi của họ trong sách thảo luận cổ xưa về ma thuật Nodzerx.

Ông đã thất vọng. Ông đã thôi mơ ước có những cuộc tìm kiếm thần hiệu những kho báu và thậm chí ông đã tự nói với mình rằng thật sự ông không bao giờ tin vào chuyện đó.

- Liệu có đáng công hay không... liệu có đáng công hay không... đôi lúc ông cứ lẩm bẩm như vậy. Tuy nhiên, ông không nói ra hết ý nghĩ của mình và chắc tự ông cũng không thể nói được rằng liệu sự hối tiếc của ông có liên quan đến vụ giết người ở Estis Road hay không.

Dù thế nào đi nữa thì tội ác cũng đã mang đến cho ông mười hai đồng bảng và mấy shilling; nhưng những đồng tiền ấy đã tiêu veo đi như tuyết tan dưới ánh mặt trời.

Vào cái ngày khi đồng shilling cuối cùng được đem ra để mua một ít đường và trả thì ông được cô Skinner cho hay là cô sẽ tới thăm ông.

Cho hay là tới thăm, nói như thế thì trang trọng quá; trên thực tế thì cô chỉ sai người đấy tớ gái Diana Pabsi chuyên làm những việc bẩn thỉu đến báo cho bác sĩ biết rằng ông không được ra khỏi nhà, khi chưa nói chuyện với cô Skinner, nếu ông không muốn thì quay về nhà phải nhìn thấy trên cửa nhà mình những dấu niêm phong lớn màu đỏ.

Cô Skinner là một cô chủ nhà khá giàu tính chịu đựng và cô chưa bao giờ tuyên chiến một mất một còn với người ở thuê vì cái chuyện chậm trả tiền nhà, nhưng ông Baster Brown nợ tiền cô đã tám quý, ấy là chưa kể những khoản lặt vặt mà cô cho vay vào những phút tâm hồn sảng khoái.

Cô chủ đến đúng hồi mười một giờ, tức là hai tiếng sau Diana Pabsi, cô đeo trên mũ chiếc kính đồi mồi và cầm trên tay một sổ nợ khổ lớn.

- Thưa bác sĩ Brown, cô mở đầu, việc này không thể kéo dài hơn nữa. Sức chịu đựng của tôi thì rất lớn, tôi còn có thể chịu đựng được hơn nữa, nếu như tôi không có một nhu cầu rất lớn về tiền. Xin ông vui lòng nhìn bảng kê này, ông sẽ thấy rằng ông còn thiếu của tôi...

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Bỗng nhiên cô ngừng bặt, cô hít ngửi một hơi, vẻ tởm lợm rồi kêu lên:

- Trời đất ơi, quái quỷ thật... Có cái gì thối tha trong cái ống điếu của ông thế, hả ông bác sĩ? Tôi không thể ngồi đây được nữa. Thối tha quá... Ông đi ngay đi, ông cút ngay khỏi nhà tôi đi...Ôi! Làm sao lại có cái mùi như thế được chứ?

Cô vùng chạy ra ngoài, còn cái sổ nợ (trường hợp không tiền khoáng hậu trong biên niên sử của ngôi nhà này) trượt khỏi tay cô, rơi tung tóe xuống sàn nhà.

Ông Baster Brown mừng vì thoát khỏi những lời chỉ trích và đe dọa của cô, tuy vậy ông nhíu trán ngồi yên sau cái bàn tròn như chết lặng: từ khi mất Polli, để tiết kiệm tiền ông đã không mua điếu mới, và vì thế ông đã bỏ hút!

Mặt khác, dú ông có đánh hơi ngửi khắp nơi đi nữa, ông cũng không thấy một chút mùi khói thuốc nào, có chăng chỉ là mùi nặng nề của cái xô rác trong bếp và chút mùi của mấy lọ thuốc.

Ông nhún vai nhìn vào cái ngăn kéo bí mật trong góc bàn.

Chiếc gương đen vẫn nằm đó, vẫn tăm tối và lấp lánh, nhưng chẳng có gì hấp dẫn và lạ kỳ; nó vẫn là những công cụ bằng thép nằm trong bao da.

Baster Brown mỉm cười cầm chúng lên tay.

Đúng giây phút đó từ tầng dưới nhà có tiếng rú lên kêu cứu:

- Bác sĩ, bác sĩ ơi! Cô ấy sắp chết rồi!

Người thầy thuốc nhận ra ngay cái giọng the thé của Diana Pabsi.

Ông bắt gặp người hầu gái trước cửa phòng bếp mở rộng. Cô ấy la khóc và mặt mũi ướt đẫm nước mắt.

- Cô chủ về phòng và bảo: "Cái mùi thuốc... chà, sao mà nó thối đến thế!" sau đó cô ấy ngã xuống. Rồi cô ấy không động đậy được nữa! Trời ơi là trời!

Ông Baster Brown đã nhìn thấy cô Skinner nằm xỉu trên nền gạch nung trắng đỏ; cặp kính của cô văng xa vào một góc đã vỡ vụn.

Gương mặt cô chủ nhà méo mó một cách thảm hại.

- Cô ấy không động đậy nữa, ông thấy đấy! Cô hầu gái nức nở.

"Cô ấy sẽ không bao giờ động đậy được nữa" người thầy thuốc tự nhủ, bởi vì ông đã xác định được rằng kẻ bất hạnh đã chết.

Ông ngồi viết một tờ kết luận ngắn gọn cho các chuyên viên y tế của sở cảnh sát thành phố rồi lên gác về phòng mình, sau đó ông cất cả túi da vào chỗ cũ. Vì ông là người đầu tiên xác nhận cái chết của cô Skinner cho nên theo luật pháp ông sẽ phải tham gia điều tra, và với cả hai tư cách ấy ông sẽ được một khoản tiền thù lao là ba bảng sáu shilling.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Với số tiền ấy ông có thể ung dung kéo dài cuộc sống thêm mấy ngày nữa.

Vì sao kể từ ngày đó ông cứ luẩn quẩn với ý nghĩ phải bán đi cái ông điếu Polli?

Cái ống điếu ấy đối với ông dần dần trở nên một cái gì tựa như một cô bạn gái mà trong thời độc thân khốn khó của mình ông không thể nào có được, còn bây giờ thì ông lại gắn bó với nó đến mức không muốn tìm vật thay thế, thậm chí ông đã không còn ham muốn hút nữa.

Nhưng mối quan tâm bé nhỏ ấy chẳng bao lâu đã bị che lấp đi bởi những điều phiền toái lớn lao hơn: chẳng những ông ngồi không không kiếm được đồng nào, mà hơn thế nữa ông còn mắc nợ đầm đìa đến nỗi ông chẳng còn hy vọng nuôi nổi thân mình.

Những khách bệnh nhân trước kia thỉnh thoảng còn đến thì nay hết hẳn; một bọn du đãng nào đó ban đêm đã gỡ đi khỏi cửa cầu thang tấm biển kẽm có ghi họ tên ông và giờ tiếp khách.

Ông cũng chẳng nghĩ đến chuyện gặp lại nó nữa, vì chưng ông đã tin điều ấy vô bổ.

- Chao ôi, Stenton Miller, ông lẩm bẩm, tôi lại phải nhớ đến anh, người anh em sống hèn chết khổ của tôi.

Ông lại lấy từ trong ngăn kéo ra túi đựng những dụng cụ bằng thép bóng loáng.

Bên cạnh đó, trong cái túi riêng bằng lụa đỏ là chiếc gương của bác sĩ John Dee.

Ông ném sang bên ấy một cái nhìn bực dọc và khinh bỉ.

- Mày đấy à! ông càu nhàu, mai ngày kia thì mày xuống đáy sông mà tác oai tác quái!

Từ trước tới nay, trong những lần trộm vặt ban đêm, ông gần như toàn tâm toàn ý tin vào một ngôi sao hạnh phúc vô hình nào đó. Nếu có ngoại lệ thì chỉ là chuyến làm ăn đổ máu ở Estis Road khi ông cướp trắng gương đen này.

Còn chuyện hành nghề lần này nhằm cứu ông khỏi rơi vào cảnh khốn cùng thì ông đã chuẩn bị cẩn thận hơn thế.

Ông đã tìm thấy một ngôi nhà ở Blumsfild không có người ở. Chủ nhân của nó, bà Aberllou đang phải điều trị trong bệnh viện Kosuell Road và mang tất cả đầy tớ theo mình. Ông biết được tất cả những điều đó qua cuộc trò chuyện của các bác sĩ đồng nghiệp, họ không hề chú ý hoặc quan tâm đến việc ông lắng nghe câu chuyện một cách chăm chú.

Một trong những cửa sổ tầng dưới không được đóng kín, còn ông thì lại có thừa kinh nghiệm để biết rằng nó không gây trở ngại gì lớn cho một cuộc đột nhập về đêm.

Khi ông rời xe buýt trên đường Cornhill thì trời đã lạnh và tối. Khi ông đi bộ tới London Wall, một đường phố u ám và sầu muộn đấn nỗi ông thấy như chính mình là quỷ uất hận, thì đường phố đã dần dần tràn ngập sương mù. Ở chỗ này chỗ kia những cây đèn đường thỉnh thoảng lại nhỏ xuống những giọt nước mắt màu nâu đỏ vào trong cái lớp sương mù đầy những bóng ma ấy; thậm chí ở đây những tiếng động cũng âm u đi và những tiếng còi tàu dọc đường bờ sông Victoria cũng tựa hồ bị sương mù nhét giẻ vào mồm, chỉ u u rền rĩ ở phương xa.

Ông Baster Brown thở một hơi dài khoan khoái. Cho dù ông có bịt kín mắt bằng vải đen ông cũng tìm ra được đường đi tới phố Blumsfild, nhà bà Aberllou, tới cái cửa sổ có cánh cửa đóng không chặt.

Ông lẻn vào được trong nhà không mấy khó khăn, cây đèn pin nhỏ hắt ánh sáng trắng trên những tấm vải bao giường màu trắng như màu tang tóc và những tấm thảm cuộn lại trong cái phòng khách nghiêm trang thời Victoria.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Ông bước lên cầu thang xoắn ốc khổ rộng dựa tít lên trên cao, tới một nơi nào đó trong bóng tối, ở tầng hai ông thấy một cái cửa, xem ra thì hình như nó dẫn vào phòng ngủ của bà Aberllou. Ông mở cửa và đứng khựng lại vì cơn khiếp đảm đột ngột, dường như trước mắt ông có con quái vật nào đó vùng dậy.

Thực ra căn phòng làm ông khiếp sợ chỉ vì một lẽ là nó sáng quá.

Ngọn đèn chùm mười hai bóng với các loại râu tua vẫn rực rỡ, đằng sau chiếc ghế nhưng vàng là cây đèn đứng có chao hồng. Người khách không mời mà đến, tức là ông, không thể dự liệu được rằng khi ra đi những người trong nhà đã quên không tắt đèn, căn phòng vẫn nguyên trống vắng, và mặc dù có ánh sáng như trong một ngày hội, nó vẫn hoàn toàn là không có người ở.

Ông Baster Brown lắc lắc đôi vai tựa hồ có một gánh nặng đang khiến ông nghẹt thở trong lồng ngực.

- Thôi, cứ thế, cứ thế. Ông lẩm bẩm, cần phải làm vậy... nếu không thì hỏng hết.

Cái nhìn của ông gắn vào một tấm gương trong xanh kiểu Venise, treo ở tường hậu. Ông bước tới và nhấc lên: có bốn chiếc nút đồn hiện ra như bốn con mắt trên cánh cửa nhỏ một chiếc két chìm trong tường.

Những dụng cụ bằng thép liên tiếp được sử dụng và chẳng mấy nỗi ông đã vượt qua được chướng ngại vật.

- Có thế chứ... có thế chứ, ông Baster Brown đắc chí, và quả thật trên má ông ướt nhòe những giọt nước mắt sung sướng không gì tả nổi khi ông nhìn thấy trước mắt những gói ngân phiếu lớn và ba đồng tiền vàng.

Ông nhét đầy chặt các túi rồi đắc thắng khua lên cái que thép đã giúp ông phút cuối cùng mở khóa.

Bỗng nhiên toàn thân ông bị một cơn co giật: ở tầng dưới một cánh cửa đóng sầm lại, có những bước chân vội vàng đi lên cầu thang; thậm chí ông còn nghe thấy tiếng cò súng lên đạn.

Toàn thân ông hóa đá. Ông không nhích được một bước ngay cả khi có bóng một người đàn ông lực lưỡng, nặng nề xuất hiện trong khuôn cửa mở rộng, ngay cả khi cái nòng dữ tợn, tròn trặn và bé nhỏ của khẩu súng lục tự động đã đặt vào trán ông.

Thế nhưng cái tiếng nổ khốc liệt đã không vang lên, còn người đàn ông thì không kịp kêu bắt cướp hoặc kêu cấp cứu.

Cây gậy thép rời khỏi tay ông Baster Brown, nó rít lên cái tiếng xé gió của tên lửa trong không khí rồi văng vào một nơi nào đó trong bóng tối. Ông Baster Brown không đụng đậy nữa, cái cơ thể kia đổ rụi xuống sàn, mặt úp sấp, từ một mảng đầu máu tuôn xối ra.

Căng thẳng đến khủng khiếp, ông nhón chân khỏi sàn nhà, chân ông tựa như mắc trong đám sình lầy vô hình. Nhưng rồi ông lấy lại được sức mạnh và nhẩy đại một cái qua được xác chết.

Đến chiếu nghỉ cầu thang ông mới nhìn lại.

Mười hai ngọn đèn vẫn đang rót những ánh sáng chói lòa vào cái tủ két đã bật mở và cái hộp sọ đã vỡ óc của người gác cổng bị đập chết, trong ánh sáng dịu dàng của chiếc đèn cây...

Trời ơi! Baster Brown, con người mà đến cảnh ghê sợ của cái chết bạo tàn cũng gần như không làm động tâm, thì đúng giây phút này lại suýt bật kêu lên vì khiếp đảm: ở cái khoảng không gian giữa chao đèn và mấy cái gối đi văng, đang treo lơ lửng cái ống điếu Polli của ông ở cái tư thế như có một người hút thuốc vô hình cắn chặt vào răng.

Ông nhận ngay ra nó một cách chính xác nhờ cái mỏm đầu của nó bị cháy đen và ba cái dấu thập ác.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Bây giờ ông bỗng khát khao được quay ngược lại chỗ cũ, được nhẩy ngược trở lại qua xác chết máu me và được giằng lấy cái ống điếu yêu quý của mình, cái ống điếu bị mất đi một cách kỳ quặc, thì bỗng nhiên đúng lúc đó từ cái ống điếu bay ra một vòng khói tròn, rồi đến vòng thứ hai, thứ ba, và giờ đây cái ống điếu được hút hết sức, nó tỏa vào không khí một đám sương mù xanh đặc; nó tự hút một mình... trong căn phòng trống vắng đến rợn người.

Và thế là ông Baster Brown cắm đầu cắm cổ chạy, ông lao vào bóng tối và sương mù, ông lạc đường trong bóng đêm mỗi lúc một đặc quánh lại, phải mất suốt ba tiếng đồng hồ ông mới mò về được Clissold Park, về căn phòng lạnh băng của mình.

Trong lúc ông đi vắng một cơn gió mạnh đã mở toang cửa sổ, và bây giờ xung quanh ngọn đèn là một quầng sương mù bao bọc và di động như trong một điệu luân vũ ma quỷ.

Mười năm sau, làm quen với bác sĩ Baster Brown, liệu ai có thể nghĩ được rằng trong cái ngăn kéo chứa đầy những thứ tạp pí lù kia ông lại vẫn còn đang lưu giữ cái thứ vũ khí hùng mạnh nhất và dữ dội nhất mà hồi trước những sinh thể từ thế giới vô hình đã để lại cho mọi người, chiếc gương đen của bác sĩ John Dee?

Dù chúng ta có nói gì đi nữa về chiếc nhẫn của Tot, về những cuốn sách kỳ bí của Salon, về những chiếc ống nghiệm cao cổ của Carpenter, thì chỉ riêng chiếc gương đen cũng đã khiến mọi người phải thoát ra khỏi cái lồng xác thịt thô thiển của mình để hòa vào những đám mây đậm đặc căm thù, yêu đương hay trí tuệ mà bay đi khắp nơi không hề lạc bước, những đám mây mà Đấng trí tuệ tối cao đã dùng để tạo ra các loại ma quỷ và những thần linh bất tử.

Ông Baster Brown đã mua được ở Kemdeltown một phòng nhỏ dùng để khám chữa bệnh. Ở tuổi bên kia dốc núi, người thấy thuốc cấp quận huyện chỉ mơ ước có một căn nhà nhỏ ở một nơi nào đó cạnh một dóng sông có cá hồi tại quê hương Devolshear của ông.

Bây giờ ông thấy hoàn toàn hạnh phúc và yên tĩnh.

Ông béo đẫy ra, để ria mép theo kiểu gall, da mặt bóng nhẫy, bởi lẽ ông đã quen ăn uống ngon lành.

Ông mặc những bộ quần áo kẻ carô của anh em nhà Kerzon, ăn ở nhà hàng Bakki, nơi ông rất thích nhắm món thỏ rừng với thịt lươn rán và rượu mạnh.

Ông cũng tham gia vào hội chơi bài uýt ở quán "Kingfisher" và ông chơi không đến nỗi tồi.

Trong suốt những năm tháng ấy chỉ có ba bốn lần ông phải rút gương đen kỳ diệu khỏi chiếc bao màu đỏ.

Không tò mò và cũng không sợ hãi ông lại cúi mình trước vật kỳ bí câm lặng ấy và ông cũng không hề tỏ ra có ham muốn cầu xin sức mạnh ẩn tiềm trong lòng khối đá đen kia.

Mặc dù thờ ơ như thế nhưng ông không hề quên điều gì, và đôi khi trước đôi mắt vô hình của ký ức ông lại thấy thoáng hiện về hình bóng lạ kỳ của con người hiệp sĩ mang khiên và mặc giáp.

Còn về phần Polli thì có một số sự cố rất đáng quan ngại làm ông không sao quên được.

Đầu tiên là câu chuyện đau buồn của Slamber.

Ở Kemdeltown ông Baster Brown thuê được một trong những căn nhà nhỏ xinh xắn, mà những ông chủ cho thuê thường lấy làm tự hào vào khoảng năm một ngàn tám trăm hai mươi và họ đã giữ được trong từng viên đá hiền lành cũ kỹ của mình khá nhiều những điều ma giáo và lần nào họ cũng thông minh không để bị rơi vào tay những bọn làm ăn hám lợi, những kẻ thướng phá đi những ngôi nhà cũ để dựng thay vào đó những tòa nhà mới cao tầng.

Tầng một là dãy phòng liên thông trần thấp gồm có tiền sảnh để chuẩn bị đón khách, một phòng tiếp khách và một phòng thí nghiệm nhỏ xíu, trong đó chính tay ông Baster Brown đã chế ra gần một tá các loại thuốc cao và thuốc xirô khá là nổi tiếng và được nhiều người ưa dùng.

Trên tầng hai có một phòng khác với những đồ gỗ mới tinh bóng loáng và những thứ đồ kim loại giả theo kiểu dinan, tại đây ông thường nghỉ ngơi thoải mái trong khu nội thất tuyệt vời của mình.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Ông rất ít tiếp khách ở đây, bởi vì mặc dù là một con người cường tráng và luôn luôn thành đạt, nhưng ông vẫn cứ là kẻ cô đơn ẩn dật như xưa.

Trong số rất ít những người bạn mà ông vui lòng mở cổng khu thiên đàng nhỏ bé nơi trần thế của mình có ông Slamber hết sức đáng yêu mà ông đã được làm quen ở "Kingfisher".

Trước đây ông Slamber là giáo viên trung học, sống nghèo khổ và lần hồi kiếm sống bằng nghề sửa bài cho các nhà xuất bản loại xoàng. Ở quán ăn không bao giờ cho phép mình bỏ ra quá hai đồng bạc để ăn bữa tối, còn nếu như ông uống đến đồng tiền thứ ba thì đó là lúc ông Baster Brown trả thay.

Người ta nói rằng khi ăn tối ở nhà ông cũng ít khi từ bỏ những món ăn quen: một quả trứng luộc duy nhất hoặc món kipper chính vì thế ông bác sĩ thường phải mời ông đến để cùng chia sẻ những bữa ăn đầy ắp thức ăn, món thịt gia súc hoặc gia cầm ướp muối lạnh mà bác sĩ đặt một nhà hàng gần đó mang đến tận nhà.

Trong lúc đó chuyện ông Slamber ít có gì nổi bật, nếu như câu chuyện không lái sanng một chủ đề đặc biệt, những phương thức chiếu sáng thời xưa. Ông Slamber thật thà tốt bụng đã trở thành hết sức lãng mạng khi nói đến những ngọn nến, những đĩa đèn hoặc những cây đèn của Karsel. Vì thế, trong con mắt mờ đục của ông giáo về hưu ông Baster Brown gần như trở thành thượng đế vào cái ngày mua được của lão bán hàng tạp hóa ở Triside một chiếc đèn cây thật cao bằng kính to màu xanh có lắp một thấu kính chứa nước đặt trên một đòn tay bằng đồng và tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh mướt mát.

- Tôi cam đoan với ông rằng đó là Kanterpruk! ông Slamber phấn khích kêu lên.

- Kanterpruk?

- Đó là tên của một nghệ nhân hàng thiếc nổi tiếng, ông Slamber tự hào đáp, ông ta sống ở Borough khoảng năm một ngàn bảy trăm chín mươi và đã được vang danh vì tài chế tạo những cây đèn như thế.

Ông Baster Brown chẳng có gì để nói về chuyện ấy, và từ đó cứ mỗi lần ông giáo cũ tới thăm thì cây đèn Kanterpruk lại khiến trái tim nhân hậu, dịu dàng kia vui sướng vì thứ ánh sáng như ánh trăng huyền ảo của nó.

Một lần vào ban đêm, ông Baster Brown bị đánh thức dậy vì những đợt sóng lạ kỳ báo hiệu nguy hiểm.

Đã từ nhiều năm ông không dám ngủ trong phòng tối thui và vẫn để ở đầu giường một ngọn đèn đêm nho nhỏ có cả phao dầu; ánh lửa màu vàng mơ hồ của nó có sức chiến đấu chống lại những đạo quân âm thầm của bóng tối.

Ngọn lửa bé nhỏ ấy bỗng rọi sáng trước mắt ông Baster Brown vừa tỉnh ngủ một hình bóng tan loãng đầy đe dọa trong bóng tối và saÜn sàng tấn công ông; trong những tia sáng của nó loáng lên một hình lưỡi dao lạnh và dài.

Ông Baster Brown nhìn thấy con dao sáng loáng ấy được giơ cao lên một cách hung tợn và từ trong bóng tối có một khuôn mặt bịt băng đen hiện ra như hân hoan đón chờ cơn hấp hối của ông sắp đến.

Ông cảm thấy mình đã chết, nhưng bỗng có một điều khó hiểu xảy ra.

Con dao bỗng rơi xuống, cắm phập vào sàn gỗ, rung lên bần bật, từ bên trong mặt nạ thoát ra một tiếng xì nhỏ, sao tiếng xì là tiếng rên đau đớn và tuyệt vọng rồi cả cái thân hình dữ dội kia đổ vật xuống sàn.

Ông bác sĩ nhảy một bước tới chỗ tên dạ khách, lột chiếc mặt nạ đen, và một giọng hấp hối thều thào cất lên:

- Tha lỗi cho tôi. Tôi muốn lấy Kanterpruk...

Tên cướp tắt thở ngay sau lời thú nhận đáng thương, người ấy không phải ai khác, mà chính là ông Slamber xấu số.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Ông bác sĩ đã gần đoán ra được điều kỳ diệu nào đã gây ra cơn đau tim quật chết ông bạn cũ và cứu sống cuộc đời cho chính ông thì bỗng ông nhìn thấy Polli.

Cái ống điếu treo lơ lửng trong không khí bên trên ngọn đèn đêm đang nhả ra những vòng khói ở ngang chỗ đầu ông có hình ba dấu thập ác. Những vòng khói rất đẹp, đầy đặn và tròn trặn, tựa như chính chúng cũng thấy hài lòng với cái dáng tròn tuyệt vời của mình.

Ông Baster Brown kêu lên một tiếng gằn giọng và đưa tay về phía ông điếu, động tác của ông không được khéo léo khiến ngọn lửa nhỏ bé yếu ớt trong cây đèn đêm tắt ngấm. Khi ông châm lại được thì ống điếu không còn nữa, tuy vậy cả căn phòng vẫn còn đậm mùi thuốc cháy khét lẹt.

Ông phải mất nhiều thời gian để cứu lại thanh danh cho ông Slamber; ông cất dấu đi mặt nạ và con dao của ông bạn rồi kéo xác ông ấy đi cách nhau một trăm bước đến chiếc ghế đá ngoài khuôn viên.

Cô Eddy Bronks có thể đã là xinh đẹp, thậm chí là rất xinh đẹp, nếu như căn bệnh bướu cổ không làm cho đôi mắt màu xanh nhan nhát của cô có vẻ như là hơi dọa nạt người khác một chút.

Ông Baster Brown quen với cô tại nhà người bán hàng thuốc ở Korihill tên là Littelwood, người mà ông hứa chuyển cho cả phòng thí nghiệm và cả những công thức thuốc cao của mình.

Cô Eddy thích nói chuyện tào lao với cả hai người, và như cô thường nói ra không kém phần tự hào, cô là người "chuyện trò chuyên nghiệp".

Trên thực tế cô là hộ lý trong bệnh viện "New Charte".

Ông Baster Brown chưa bao giờ chú ý đặc biệt đến phụ nữ, nhưng hình ảnh cô Eddy Bronks chẳng mấy chốc đã không buông tha ông.

"Lần sau gặp nàng ta sẽ xin cưới nàng làm vợ", nhiều lần ông đã tự nói như vậy.

Lần gặp sau, rồi sau đó là nhiều lần gặp trôi qua, nhưng lời cầu hôn vẫn không sao thoát ra khỏi miệng ông, và mọi câu chuyện đều chỉ qui về việc xem xét các loại thuốc viên nhà Littelwood, các phương thức điều trị bệnh bướu cổ và các trường hợp mắc bệnh đặc biệt mà bác sĩ đã từng gặp trong thực tế.

Một buổi tối mùa thu, ông Baster Brown bắt gặp Littelwood ủ rũ tỳ tay trên quầy thuốc, môi run lên, bàn tay lạnh ngắt.

- Ông biết không, Littelwood rền rĩ, cô Bronks khốn khổ vừa mới ở đây, tâm thần hoảng loạn. Cô ấy mới bị đuổi khỏi bệnh viện sau một cuộc cãi cọ với thượng cấp. Cô ấy bảo rằng cô ấy muốn chết đi cho rồi... Không, không, ông Brown, tôi hiểu những chuyện này... Ông đừng quên rằng bệnh tình của cô ấy có thể dẫn đến thần kinh hỗn loạn. Cô ấy vừa chạy ra phía hồ nước.

Ông Littelwood có một chân tập tễnh nặng nên không thể chạy đuổi theo cô gái tuyệt vọng.

Như điên, ông Baster Brown cắm đầu chạy trên đường phố dài và tối, vừa chạy ông vừa thở dốc, tim đập thình thịch. Ông dừng lại khi thấy trước mặt mình làn nước hồ phẳng lặng dưới ánh trăng.

-Eddy! Eddy! Ông gào lạc giọng.

Và ông thấy cô cúi gập mình qua cái hàng rào ọp ẹp, đầu nghiêng xuống mặt nước tối đen.

- Cô Eddy yêu quý ơi... tôi hết lòng mong muốn...

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Chính ở cái nơi không bình thường này, trong cái hoàn cảnh hết sức không bình thường này ông đã tỏ tình với cô và xin đính hôn.

Cô Eddy Bronks đã theo ông về, người phờ phạc và mắt đẫm lệ.

Ông nhóm lửa trong lò sưởi phòng khách, thắp hết mọi đèn, kể cả cây đèn mặt trăng Kanterpruk và với đôi bàn tay lóng ngóng ông đã pha được hai ly rượu kiểu coctail.

- Em thân yêu, ngày mai anh sẽ đi xin giấy phép thành hôn.

Cô không nghe ông nói mà ngửa đầu nhìn lên trần nhà, trong giây lát cái bướu cổ càng khắc họa nét buồn bực sâu sắc trong đôi mắt cô.

- Anh có cái gì thế này, bác sĩ Brown?

Cô vừa thở vừa hỏi.

- Cái gì ấy à?

Cô để rơi mình xuống một chiếc ghế bành sâu lõm bên cạnh lò sưởi.

- Em xin lỗi... em chóng mặt... buồn nôn. Ôi, bác sĩ ơi, anh đừng hút thuốc nữa!

Ông Baster Brown để rơi xuống sàn ly rượu mới pha.

- Nhưng anh có hút đâu, em yêu!

Cô Eddy Bronks đứng bật dậy.

- Kìa kìa, trong góc nhà kia kìa... có người đội mũ sắt... nó trốn... em nhìn thấy chân nó dưới bàn... trời ơi, chân nó như con rắn.

Rồi bỗng cô rít lên:

- Nó ra đây này... nó châm thuốc ở chỗ đèn ấy! Lạy chúa cứu thế!

Cô vùng chạy ra phía cửa; ông Baster Brown muốn giữ cô lại, nhưng cô đã đẩy ông ra với một sức mạnh khủng khiếp.

Ông lảo đảo, mất cân bằng và ngã giúi đầu vào chiếc ghế bành nơi cô vừa ngồi.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Chiếc Gương Đen Dịch Giả: Đức Mẫn

Lúc kịp đứng dậy thì ông nghe tiếng cửa ra vào đập mạnh và ông chỉ còn cách lao ra chỗ cửa sổ.

Trong ánh trăng rực rỡ ông nhìn thấy cô gái đang chạy trên đường phố vắng lặng, ông thò đầu ra gọi cô, xin cô quay lại, nhưng bỗng nhiên ông nhìn thấy một bóng đen dữ dội khủng khiếp lướt đuổi theo cô không một tiếng động trên đường phố ngập tràn ánh trăng.

Hôm sau người ta vớt được thi hài cô Eddy Bronks ở hồ nước số hai khu Kemdeltown.

Một năm sau cái chết bi thương ấy ông Baster Brown qua đời. Có một thời gian ông bị bệnh hen và không thể chữa dứt được. Ông Littelwood vẫn thường đến thăm. Ông là người cho chúng tôi biết về những phút cuối cùng của bác sĩ.

Ông ấy hành động rất thiếu lý trí, điều đó làm hại ông người bán thuốc nói: Bạn ông là bác sĩ Ressendl đã kê đơn chỉ định chế độ sinh hoạt và ăn uống, còn ông ta thì lại cứ mãi đi những đâu đâu.

Mưa trút nước và ông trở về như chuột lột.

Tôi mắng cho ông một trận kịch liệt rồi bắt lên giường nằm ngay. Ông điên hay sao mà đi phố bây giờ tôi gắt lên! Không thể hiểu được làm sao trời này lại dám ra đường.

- Tôi vừa thoát được một gánh nặng.

Tôi cặp nhiệt cho ông: gần bốn mươi độ, và tôi hiểu rằng ông đang mê sảng.

Ông bắt đầu lảm nhảm gì đó, đặc biệt là về một cái gương mất bao nhiêu năm tôi mới hiểu được... Trong đó có... cô ấy... cô ấy...

Hai chữ cô ấy ông nhắc lại mỗi lúc một to đến nỗi mấy lần tôi phải lên tiếng bắt ông thôi nói và nằm yên.

Đến gần sáng ông dịu đi, tôi cho rằng ông đã ngủ say, hơn nữa nhiệt độ cũng đã giảm.

Tôi nghĩ, tôi cũng có thể nghỉ một lát, tôi bèn thu mình vào ghế bành và chẳng bao lâu thiếp đi.

Bỗng tôi bừng tỉnh vì ông thét lên.

Ông đã bật ngồi dậy trên giường thở hổn hển, ngực phập phồng như bể lò rèn, và một điều thật là kì lạ tôi chưa từng thấy là ông hút thuốc, quanh người ông là một đám mây thuốc đậm đặc.

- À, đúng nó rồi... đúng nó rồi... bây giờ thì tôi hiểu, tôi hiểu cô ta là ai... Chà, đồ chết tiệt, nó ăn cắp của tôi cái điếu!

Ông đổ vật xuống nằm bất động và không bao giờ tỉnh lại nữa. Nhưng khi đổ xuống ông đã dùng tay làm một cử chỉ lạ lùng, tựa như bắt một cái gì trong không gian. Và đến khi cánh tay rơi xuống thì trong đó có một cái ống điếu dày bằng vỏ bạch dương, trên đầu có khắc ba dấu thập ác.

Người ta không thể nào rút được cái ống điếu ra khỏi tay ông, và có lẽ người ta đã đưa nó theo ông xuống huyệt.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

--------------------------------------------------------------------------------

Bên Hồ Kim Minh Dịch Giả: Nguyễn Huy

Bên Hồ Kim Minh

Ngô Thanh Gặp Ái Ái

Dưới đèn Lưu Sảnh gặp Chu Văn

Sư Hậu Yên Sơn ngộ cố nhân.

Sống chết tách rời luôn thế mãi,

Thâm tình cần nhất chốn nhân gian.

Năm Trung Hòa thời Đại Đường, ở Bắc Lăng có một người tài tử, họ Thôi tên Hộ, rất mực phong lưu tuấn nhã, tài mạo vô song. Bỗng gặp lúc triều đình mở khoa thi, Thôi Hộ thu xếp đàn kiếm hòm sách, đi đến Trường An dự thi. Lúc đó đã cuối xuân, Thôi Hộ tạm rời chỗ trọ, đến khu vực Nam Giao ngoài thành du ngoạn. Bỗng cảm thấy miệng khát họng khô, môi bỏng mũi nóng. Thôi sinh miệng khát, chẳng có suối đầm để uống. Chỉ thấy có một chỗ: hoa đào rực rỡ như lửa, thùy liễu biếc xanh như khói, hàng rào trúc, nhà tranh, tường đất vàng, cửa sổ trắng, tiếng chó gâu gâu trong đào nguyên, tiếng vàng anh lýu lo trong liễu biếc. Thôi Hộ đến gõ cửa, tìm một ngụm nước uống. Đứng hồi lâu, không thấy ai ra. Đang lúc không biết làm thế nào, bỗng nghe thấy trong nhà có tiếng cười. Thôi sinh vội tiến đến nhìn qua khe cửa: tiếng cười đó nguyên là của một cô gái, khoảng mười sáu tuổi. Người con gái đó ra mở cửa. Thôi sinh nhìn thấy, miệng rất rát, họng thấy khô, môi thấy bỏng, mũi thấy nóng. Vội vàng vòng tay tiến lên thi lễ, nói: "Xin bái chào tiểu nương tử". Người con gái cất giọng thánh thót du dương đáp lễ chúc lời vạn phúc, nói: "Quan nhân chiếu cố đến nhà tranh, có gì dạy bảo?". Thôi sinh nói: "Tiểu nhân là Thôi Hộ ở Bác Lăng, chẳng có việc gì khác, chỉ vì đường xa miệng khát, đến xin một thìa nước để uống rồi đi". Cô gái nghe xong, không nói gì. Vội vàng đi vào trong, dùng bàn tay ngọc, lấy âu sứ, rót ra nửa âu trà, đưa cho Thôi sinh. Thôi sinh nhận lấy, đưa lên miệng, thật là mát thấu ruột gan, cảm ơn rồi ra đi. Vì muốn mưu cầu công danh, nên phải đi thi. nào ngờ vận may chưa đến, bảng vàng không thấy tên, liền rời Trường An, vội vội vàng vàng trở về quê nhà. Thoắt đã một năm. lại đến khoa thi. Thôi sinh lại lên đường đi dự thi. Nhớ tới cố nhân, tạm xếp việc thi cử sang một bên, vội đi đến phía nam đô thành, trên đường đi ngó đông ngó tây, chỉ sợ không nhận ra chỗ ở của cô gái năm ngoái. Chẳng mấy chốc đã đến trước cửa nhà tranh, vẫn đào thắm liễu xanh, chó sủa oanh kêu. Thôi Hộ đi đến trước cửa, thấy vắng vẻ không người, trong lòng nghi hoặc. Đi đến khe cửa nhìn vào, cũng chẳng thấy bóng dáng một ai. Bồi hồi một lúc, đi đến bên cửa sổ gỗ trắng, viết một bài thơ bốn câu:

Ngày này, năm ngoái, cửa đây,

Hoa đào, mặt ngọc, hây hây ánh hồng.

Mặt ngọc đâu, để vắng không?

Hoa đào bỡn cợt gió đông vẫn cười.

Để rồi, đi về. Ngày hôm sau, thấy lòng không yên, lại đến xem sao. Bỗng thấy kẹt một tiếng, cửa mở, một người bước ra. Thấy: Râu mày như cước, tóc lưa thưa. Thân mặc đạo bào trắng, tay cầm cây gậy trúc vân hoa: Tựa như khách bốn biển ngao du, giống như người ngồi trên bàn đá, một mình bên suối buông câu.

Ông lão nói với Thôi sinh: "Quân có phải là Thôi Hộ?". Thôi sinh nói: "Xin bái chào trượng nhân, chính là kẻ thấp hèn này. Không rõ làm sao trượng nhân biết được?". Ông lão nói: "Quân đã giết con gái ta, làm sao không biết?". Thôi Hộ nghe nói sợ hãi tái mặt, nói: "Kẻ thấp hèn chưa từng vào trong nhà lão trượng, sao lại nói vậy?". Lão trượng nói: "Con gái ta năm ngoái chỉ có một mình ở nhà, gặp quân đến xin nước uống. Quân đi rồi, mê man như say, không rời giường chiếu. Hôm qua bỗng nói: "Ngày này năm ngoái đã gặp Thôi lang, ngày hôm nay chắc sẽ lại đến". Đi ra trước cửa, đứng đợi một ngày, không thấy. Quay mình ngẩng đầu, bỗng thấy bài thơ trên cánh cửa gỗ trắng, khóc to một tiếng, ngã lăn ra đất. Lão đỡ vào trong phòng, suốt đêm không tỉnh. Buổi sớm, bỗng mở mắt nói: "Thôi lang đến rồi, cha hãy ra nghênh tiếp". Hôm nay, quả nhiên quân đến, chàng phải liệu định sao. Giờ xin mời vào trong nhà xem". Ai ngờ khi Thôi sinh bước vào trong cửa, bên trong bỗng có tiếng khóc. Khi nhìn kỹ, nàng đã chết rồi. Lão trượng nói: "Lần này chàng phải đền mạng!". Thôi sinh lúc đó vừa sợ vừa đau đớn. Liền đi đến bên giường, ngồi duỗi chân bên cô gái, nâng đầu nàng, đặt trên đùi, thơm vào mặt nàng mà nói: "Tiểu nương tử, Thôi Hộ đây". Khoảnh khắc, cô gái ba hồn lại tụ, bảy vía lại trùng sinh, chỉ trong một giây phút, đã đi lại được. Lão trượng mưòi phần hoan hỉ. Liền đem hộp đồ trang sức ra, nhận Thôi Hộ làm rể. Về sau Thôi Hộ phát tích làm quan, vợ chồng một đời đoàn viên. Thực là:

Trăng khuyết lại tròn,

Gương vỡ lại lành,

Hoa rụng lại nở,

Người chết hồi sinh.

Tại sao ngày nay nói đến đoạn này? Đây là truyện từ cái chết sống lại. Nay nói về một cô gái đa tình, không may gặp một thiếu niên phong lưu, không thể kết hôn, mất đi tính mệnh, biến thành một người khác động phòng hoa chúc. Thực là:

Có duyên nghìn dặm gặp nhau,

Không duyên đối mặt mà sao cách vời!

Cô gái này gặp người nào vậy? Nguyên ở phủ Khai Phong, Đông Kinh triều Tống, có một viên ngoại, họ Ngô tên Tử Tư. Bình sinh là một người chân thực, chỉ sinh được một người con trai, tên gọi Ngô Thanh. Đúng là con một, rất được yêu quý nuông chiều. Vị viên ngoại này yêu quý con trai đến mức một ngày cũng không cho ra khỏi cửa. Người con trai này lại là một kẻ phong lưu phóng túng, chỉ thích kết giao bằng hữu, kiếm liễu tìm hoa. Bỗng một hôm, có hai người bạn đến thăm, thuộc dòng dõi lá ngọc cành vàng, con rồng cháu phượng, là con tôn thất Tiết độ sứ Triệu Bát, anh em hai người, anh tên là Ứng Chi, em là Mậu Chi, đều là những kẻ ném tiền qua cửa sổ. Hai anh em nhờ người trong viện thông báo. Ngô tiểu viên ngoại mời trà xong, hỏi: "May được ân giáng, không biết sẽ phải thực hiện lệnh gì đây?". Hai người nói: "Nay là tiết Thanh Minh, ở chỗ hồ Kim Minh, trai gái tấp nập, người đi chơi đông như kiến. Muốn cùng túc hạ đi du ngoạn, tôn ý thế nào?". Tiểu viên ngoại rất mừng, nói: "Ơ hai huynh không chê hàn tiện, xin được cùng đi". Tiểu viên ngoại liền gọi tiểu đồng gánh rượu và các thức nhắm, chuẩn bị ba con ngựa, cùng hai người đến hồ Kim Minh. Đào Cốc học sĩ có thư đề:

Vạn chỗ sênh ca tỉnh nối say,

Quanh hồ rèm lụa khói lam quây.

Cửu trùng cung điện che mây biếc,

Nhật chiếu càn khôn ngũ sắc vây.

Mặt sóng cầu vươn đường thượng giới,

Bên bờ du khách ngắm mê say.

Thuyền rồng ngự giá vua ban yến,

Vạn tuế gió thuyền tiếng hô bay.

Ba người du ngoạn quanh hồ, chỉ thấy:

Như gấm đào hồng, như khói liễu xanh. Từng đôi bướm phấn bay giữa hoa, từng cặp hoàng anh nhảy trên cành. Giẫm cỏ gái trai lũ lượt đến, thưởng ngoạn du nhân đoàn lại đoàn.

Ba người kiếm một chỗ trống, ngồi uống rượu một hồi. Ngô tiểu viên ngoại nói: "Hôm nay trời rất đẹp, chỉ tiếc thiếu một người mời rượu". Hai anh em họ Triệu nói: "Rượu uống đã đủ rồi, ngồi mãi một chỗ không bằng đi dạo chơi tiêu khiển, xem trai gái du xuân". Ba người dắt tay nhau cùng đi. Vừa được mấy bước, bỗng một làn gió thơm thoảng qua, giống như xạ hương, lại có mùi son phấn. Ngô tiểu vương ngoại tiến lên đón làn gió thơm đó. Chợt thấy một tốp phụ nữ, như trăm hoa đua sắc, vạn cỏ khoe tươi. Ở giữa có một vị nương tử, chừng mười lăm, mười sáu tuổi, mình mặc áo hạnh hoàng, người trông: Mắt như nước mùa thu, mày tựa núi mùa xuân, tóc như mây cuộn, chân tựa nhụy sen, hai quả anh đào phân môi thắm, một nhành liễu dương đấu lưng ong. Chưa biết mùi hương của tấm thân ấm áp, đã thấy rõ là một giai nhân phong nhã mười phần.

Ngô tiểu viên ngoại trông thấy chỉ lăm le muốn giáp mặt. Nhưng bị anh em họ Triệu kéo lại, nói: "Con gái nhà lành, không được đùa cợt. Sợ rằng ở đây tai mắt rất nhiều, sẽ dẫn đến tai họa". Tiểu viên ngoại tuy nghe theo, nhưng chẳng khác gì một kẻ hồn vía đã ra đi. Vị tiểu nương tử đó theo đám phụ nữ đi mất. Tiểu viên ngoại và hai anh em họ Triệu chào biệt nhau rồi về. Tiểu viên ngoại về nhà suốt đêm không ngủ, nói: "Thực là một cô gái mười phần xinh đẹp. Chỉ tiếc một điều là không hỏi rõ họ tên và chỗ ở. Nếu biết được, nhờ người làm mối đến cầu thân, chắc cũng có thể được ba phần may mắn". Ngày hôm sau, lòng dạ không yên, mặc quần áo đẹp, lại hẹn hai anh em họ Triệu, đến hồ Kim Minh để tìm tung tích người đẹp đã gặp ngày hôm qua.

Rõ ràng đường chốn Dương Đài,

Mà sao không gặp được người làm mưa.

Ngô tiểu vương ngoại đi trong đám du nhân, tìm đi tìm lại, không thấy vị tiểu nương tử đã gặp ngày hôm qua, trong lòng buồn phiền không vui. Triệu đại ca nói: "Túc hạ trong lòng không vui, muốn tìm hứng xuân mà chiêu đạt. Lúc này trong các quán rượu, thường có thiếu phụ bán rượu. Hai anh em ngu đệ xin dẫn túc hạ đến đó, nếu thấy vui mắt, sẽ mua ba chén, cũng coi như hưởng một trận gió xuân, thế nào?". Tiểu viên ngoại nói: "Bọn kỹ nữ này, hoa tàn liễu gẫy, người có học thường ngày không để ý". Triệu nhị ca nói: "Nhà số năm phố bắc, có một quán rượu nhỏ, rất chi tinh nhã. Ở đó có một cô gái đong rượu, rất có nhan sắc, tuổi chừng đôi tám, chỉ có điều là thường không xuất hiện". Tiểu viên ngoại bỗng nhiên nói: "Phiền dẫn đến xem". Ba người đi đến phố bắc, quả nhiên thấy một quán rượu nhỏ, bên ngoài hoa trúc tốt tươi đều đặn, bên trong chén đĩa bày la liệt. Triệu nhị ca chỉ tay nói: "Nhà đó đây rồi". Ba người đi vào trong cửa, im lặng không một tiếng người. Liền gọi một tiếng: "Có ai không? Có ai không?". Trong giây lát, như có như không, cảm thấy có một cô gái tuổi chừng mười lăm, mười sáu yêu kiều xinh đẹp như hoa, đi ra. Vừa thấy cô gái, ba chàng trai đã cùng cúi đầu vòng, nói: "Xin bái lễ tiểu nương tử". Cô gái đa tình thấy ba người, lòng xuân bỗng dậy, không kìm giữ nổi, chân đã bước ra, trở vào không được. Nàng bèn ngồi xuống bên cạnh ba người, rồi gọi Nghênh Nhi mang rượu đến. Cả bốn người đã biết mừng vui là thế nào! Bốn miệng cùng cất tiếng, ai cũng nói về chuyện chọn bạn trăm năm. Vừa uống cạn chén rượu, bỗng nghe tiếng la hí, tiếng bánh xe lọc cọc, hóa ra là cha mẹ cô gái đi viếng mộ đã trở về. Ba người mất hứng đành vội chia tay.

Sắc xuân nhanh chóng phai tàn, không còn đi chơi cảnh đẹp được nữa, trong lòng nhớ nhung, mộng thấy mỹ nhân. Chớp mắt, lại một năm trôi qua. Ba chàng trai không hẹn mà gặp, lại tìm đến nơi cũ. Thoáng chốc đã đi đến cái nơi định đến. Nhưng chỉ thấy cửa nhà vắng vẻ, không biết người đong rượu ở nơi đâu. Ba người nghỉ ngơi một chút, rồi đi hỏi tin tức, thấy ông lão và bà lão năm ngoái đi ra, ba người nói: "Xin bái lễ hai cụ. Có rượu xin cho một bình". Rồi lại hỏi: "Trượng nhân, năm ngoái đến đây, thấy có một tiểu nương tử đong rượu; hôm nay sao không thấy?". Ông lão nghe hỏi, rơi hai hàng lệ, nói: "Bẩm quan nhân, già này họ Lư tên Vinh. Cô gái đong rượu năm ngoái mà quan nhân trông thấy chính là con gái già này, tiểu danh là Ái Ái. Ngày này năm ngoái cả nhà tôi đi viếng mộ, không biết có ba đứa chết tiệt từ đâu đến, cùng nó uống rượu, thấy tôi về liền bỏ đi. Giữa hai bên đã xảy ra những gì, không được biết. Hai vợ chồng già chúng tôi có trách mắng nó mấy câu, ai ngờ tính nó quá tự trọng, thoắt buồn thoắt vui, không ăn không uống, mấy ngày sau thì chết. Cái gò nhỏ ở sau nhà, chính là mộ của nó đó". Nói rồi, nước mắt lã chã tuôn rơi. Ba người không dám hé miệng hỏi thêm, vội vã trả tiền rượu, lên ngựa ra về, suốt dọc đường đi, thấy lòng thương cảm. Quay đầu nhìn lại, lệ rơi ướt áo, không thể nguôi lòng. Thực là:

Đêm khuya tiếng ồn tạm lắng,

Đài hồ trăng sáng lung linh.

Đọng ngưng cảnh trời thanh vắng,

Ban ngày có sự hoàn sinh.

1 2

--------------------------------------------------------------------------------

Bên Hồ Kim Minh Dịch Giả: Nguyễn Huy

Trong lúc ba người đang đi, bỗng thấy một phu nhân, lụa trắng trùm đầu, lắc la lắc lư, nửa tiến nửa lui. Phu nhân nhìn ba người, khe khẽ chúc lời vạn phúc. Ba người như say như mê, không biết nên làm thế nào. Nếu nói phu nhân đó là ma, sao quần áo có đường khâu, thân hình có bóng trên mặt đất; nếu nói là mộng, sao véo thịt thấy đau. Chỉ thấy phu nhân đó nói: "Các quan nhân hẳn nhận ra nô gia, người năm ngoái đã gặp bên hồ Kim Minh. Hôm nay các quan nhân đến gặp nô gia, cha mẹ nói dối rằng nô gia đã chết, đắp một cái mộ giả, cốt để đánh lừa các quan nhân. Nô gia nghĩ rằng kiếp trước có duyên, may mà tương ngộ. Nay nô gia đã dọn đến một cái lầu nhỏ ở trong một ngỏ hẹp trong nội thành, vẫn rót rượu trong. Nếu không chê bỏ, cố xin mời hạ cố". Ba người liền xuống ngựa cùng đi bộ. Chẳng mấy chốc đã đến nơi cần đến. Đi vào trong cửa, chỉ thấy: Lầu nhỏ liền vườn, sau trướng ẩn xuân. Mái hiên thấp đẹp mắc rèm hồng, gác uốn xa xa rủ trướng gấm. Nửa sáng nửa tối, người ở chỗ khuất ánh sáng soi; trăm tía ngàn hồng, xuân tràn cảnh vật nơi nơi.

Lên tới trên lầu, cô gái gọi: "Nghênh Nhi, mau bày rượu, để chúc mừng ba vị thư sinh". Thời gian như ngừng trôi, rượu uống thích khẩu. Cô gái khéo léo chuốc rượu. Hát một bài hát du dương, nhảy một điệu múa yêu kiều, gảy một khúc đàn thánh thót, nói những lời êm dịu ngọt ngào. Hai anh em họ Triệu uống xong, chào biệt ra về. Ngô tiểu viên ngoại quay mình vươn tay, bá đôi vai thơm, ôm tấm lưng ong, coi lầu là giường, nổi trận mây mưa. Ngủ đến khi trời sáng, trở dậy rửa mặt chải đầu, hai người quấn quýt, chẳng chịu rời nhau. Ngô tiểu viên ngoại đốt hương thề nguyện, cắn tay thề ước. Cô gái che mặt, tủm tỉm bước vào nhà trong. Ngô tiểu viên ngoại về nhà, trong lòng buồn bã. Cha mẹ thấy Ngô Thanh về, hỏi: "Con trai, đêm qua nghỉ ở chỗ nào? Làm cho cha mẹ suốt đêm không ngủ, mộng mị lung tung". Tiểu viên ngoại nói: "Thưa cha mẹ, có hai vị hoàng thân quốc thích muốn con ở lại, con đành phải nghe theo". Cha mẹ nghe nói là các vị hoàng thân, lại đã từng đến nhà chơi, không ai nghi ngờ gì. Ai ngờ mối tình đã vướng, không thể gỡ ra. Có thơ làm chứng như sau:

Gai gốc rẫy bằng, lầu dựng xây,

Trên lầu đàn hát, đỉnh vui say.

Tiếng cười chưa dứt đã ly biệt,

Gai gốc xưa kia lại mọc đầy.

Tiểu viên ngoại và cô gái, tình cực sâu đậm, không sao tả xiết. Thực là:

Giai nhân yểu điệu đang xuân sắc,

Tài tử phong lưu lúc thiếu niên.

Tiểu viên ngoại tình ý vương vấn, không quá hai ngày, lại đến qua đêm cùng cô gái. Chỉ có một điều là, mỗi khi gặp cô gái thì tự thấy tinh thần phấn chấn gấp trăm lần, dung mạo hơn hẳn lúc bình thường; nhưng khi về đến nhà thì sắc mặt tiều tụy, thân thể khô cằn, dần dần giống như ma quỷ trông không còn ra dáng con người. Chẳng thiết ăn uống, chẳng cần thuốc thang. Cha mẹ thấy con trai như vậy, phụ tử tình thâm, chẳng cần quan tâm đến tình bằng hữu, cũng chẳng quản là hoàng thân hay quốc thích, mời hai anh em công tử họ Triệu đến, nói rằng: "Không biết hai huynh những ngày trước đây đã đem con tôi đi làm những điều gì không phải? Đến nỗi nay nó bị bệnh nặng. Nếu chữa trị được, một lời cũng không dám nói; vạn nhất có điều gì không lường trước được, thì không thể không đi đánh trống kêu oan, lúc đó xin đừng trách già này là không phải". Hai anh em họ Triệu nghe xong, thì thầm bàn với nhau: "Chúng ta tuy là cành vàng lá ngọc, nhưng quốc pháp rất nghiêm: nếu ta ngay thẳng như mọi người bình thường thì chẳng sao; nếu có điều gì sai phạm, tội không phải nhỏ. Vạn nhất bị ông lão cáo giác, thì chúng ta đều không có lợi". Vội vã trả lời: "Thưa cụ, bệnh của hiền đệ, vốn không phải do lỗi của anh em chúng tôi". Rồi đem chuyện gặp người con gái đa tình đẹp như hoa ở quán rượu gần hồ Kim Minh, từ đầu chí cuối thuật lại một lượt. Ông lão cả kinh, nói: "Nói như vậy, con tôi bị ma ám rồi! Hai vị có kế hay gì xin hãy chỉ bảo". Hai người nói: "Có Hoàng Phủ Chân Nhân, ông ấy có kiếm trảm yêu, hãy mời ông ấy đến trổ tài pháp thuật, đuổi con ma này đi, mới lành bệnh được". Ông lão bái tạ, nói: "Trăm sự đều nhờ hai vị". Hai người liền đi ngay.

Họ đến một ngọn núi xa, tới một nơi sâu kín, có mây trắng bay ra, trông thấy một cái am tranh: Nóc lợp tranh vàng, tường xây đá trắng. Rừng tùng xanh tốt đêm hạc bay về, ao nhỏ trời soi rùa ra phơi nắng. Ngô đồng liễu rủ bóng bên đường, vượn xanh hạc trắng, trước cửa chờ trông.

Trong giây lát, có tiểu đồng từ trong am đi ra, nói: "Có phải hai vị đến tìm sư phụ đi cứu người không?". Hai người nói: "Chính phải, nhờ tiểu đồng vào báo giúp". Tiểu đồng nói: "Nếu là bệnh khác, sư phụ tôi không đi đâu, người chỉ chuyên trừ con yêu tinh tình dục. Tại sao vậy nào? Tình có thể sinh ra người, cũng có thể là chết người. Sinh người là cái tâm của đạo gia, chết người là điều kỵ của đạo gia". Hai người nói: "Chính là trừ con yêu tinh tình dục, cứu người khỏi chết". Tiểu đồng vội quay vào, mời Hoàng Phủ Chân Nhân ra. Chân Nhân nghe tiểu đồng nói bèn bảo: "Ta phải đi một chuyến". Rồi cùng theo đường quanh co đi đến nhà Ngô viên ngoại. Vừa đến trước cửa đã nói: "Tà khí quá nặng, chín phần chết một phần sống, chỉ có một con đường có thể cứu mệnh". Hai vợ chồng Ngô viên ngoại nghe nói sợ hãi vội quỳ xuống nói với Chân Nhân: "Xin ra oai pháp thuật, cứu tính mệnh cho nhà chúng tôi". Chân Nhân nói: "Viên ngoại hãy làm theo lời tôi, mau đến một nơi ở phía tây cách đây ba trăm dặm để lánh nạn. Nếu đến nơi đó, con ma này chắc chắn cũng sẽ đến theo. Nếu trong vòng một trăm hai mươi ngày, con ma này không đến, thì không thể cứu được". Viên ngoại tuân theo. Dọn bữa cơm chay, mời Hoàng Phủ Chân Nhân ăn. Chân Nhân ăn rồi chào từ biệt mà đi. Lão viên ngoại vội thu xếp hành lý cho tiểu viên ngoại đi đến Tây Kinh phủ Hà Nam tránh nạn.

Tiểu viên ngoại mời hai vị công tử họ Triệu cùng đi. Trên đường đi, do phải leo núi vượt khe, lội suối qua cầu, nên lúc có bạn lúc không có ai bên cạnh, nhưng mỗi khi tiểu viên ngoại ăn cơm thì cô gái ở bên cạnh đưa các món ăn. Khi tiểu viên ngoại đi ngủ thì cô gái ở bên cạnh cởi quần áo; nếu tiểu viên ngoại đi nhà xí thì cô gái cầm quần áo. Ở đâu cũng không tránh được, lúc nào cũng không chịu xa rời. Thoáng cái đã ở Lạc Dương được mấy ngày. Rồi một hôm, chợt nhớ ra đã được một trăm hai mươi ngày. Làm thế nào cho tốt đây? Hai vị công tử và những người đi bảo vệ tiểu viên ngoại, đưa nhau đến tửu lâu giải buồn, vừa lo sợ, ai nấy đều nước mắt lưng tròng. Sợ tiểu viên ngoại trông thấy, vội vàng lau đi. Tiểu viên ngoại đờ đẫn, không biết làm thế nào. Đang lúc cúi đầu dựa lan can, thì vừa khéo, Hoàng Phủ Chân Nhân cưỡi la đến. Tiểu công tử trông thấy, vội vàng chạy xuống lầu, bái lạy giữa phố, rồi níu lấy Chân Nhân, cầu xin cứu độ. Ngô Thanh và những người cùng đi đều đến quỳ lạy cầu cứu. Chân Nhân liền lên tửu lâu, lập pháp đàn, đốt hương, chân bước tay múa, mồm miệng chú lầm rầm. Làm lễ xong, lấy một thanh bảo kiếm đưa cho tiểu viên ngoại, nói: "Tính ra, viên ngoại hôm nay phải chết. Hãy cầm lấy thanh kiếm này, cho đến tối phải đóng chặt cửa. Lúc hoàng hôn sẽ có người đến gõ cửa. Không cần hỏi xem là ai, cứ cầm thanh kiếm này chém ngay lập tức. Nếu may ra, chém được con ma đó, viên ngoại sẽ sống; nếu không may chém phải người khác, viên ngoại đành phải đền mạng. Đằng nào cũng chết, làm sao mà thoát được". Dặn dò xong, Chân Nhân cưỡi la ra đi. Tiểu viên ngoại nhận kiếm, đóng chặt cửa, đợi trời tối. Hoàng hông dần đến, bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa lộc cộc. Tiểu viên ngoại không lên tiếng, bất chợt mở cửa ra, vung kiếm chém liền, cảm thấy có người theo đường kiếm bay ngã xuống. Tiểu viên ngoại vừa sợ, vừa mừng, tim đập thình thịch. Gọi liên tiếp: "Mau thắp đèn lên". Mọi người dốt đèn lên soi, cả chủ quán cũng đến.

Chủ quán nhận ra người bị chém, đó là tên hầu nhỏ A Thọ, mới mười lăm tuổi. Vì có việc phải ra phố, bị nhốt ở bên ngoài, nên phải gõ cửa, vừa lúc đó thì bị kiếm chém chết. Lúc đó, trong quán ồn ào náo động, người có trách nhiệm ở địa phương đến, thấy có án mạng, liền trói ngay tiểu viên ngoại lại. Hai vị công tử họ Triệu cũng bị trói. Đợi đến sáng hôm sau, sẽ đưa đến phủ Hà Nam. Quan Đại doãn nghe có vụ giết người, đọc tờ trình, giao cho Ngục tư xét hỏi. Ngô Thanh đem việc Hoàng Phủ Chân Nhân dặn chém yêu quái, kể ra một lượt. Ngục tư nói: "Đây là lời nói hoang đường. Nay đã chém chết tên hầu nhỏ, rõ ràng là mạng người, làm sao chối được!". Liền thét thủ hạ dùng hình. Nhưng những người đi theo tiểu viên ngoại đã đút lót tiền bạc đầy đủ cả rồi. Cho nên ngục tốt vội bẩm: "Ngô Thanh ốm đã lâu chưa khỏi, không thể chịu hình. Còn hai vị tôn thất, chỉ mắc tội nhỏ liên can mà thôi". Ngục quan mượn gió bẻ măng, ra lệnh giam Ngô Thanh lại, đợi khi khỏi bệnh sẽ xét xử, hai vị công tử họ Triệu thì cho tại ngoại. Ra lệnh cho địa phương đặt xác tên hầu nhỏ vào quan tài, đợi trên xét nghiệm, trảm yêu kiếm là hung khí thì đưa vào trong kho. Lại nói Ngô tiểu viên ngoại ban đêm ở trong ngục rơi lệ than rằng: "Cha mẹ sinh ra chỉ có một ta, từ nhỏ nửa bước không rời, sao hôm nay phải chết ở quê người! Nếu sớm biết thế nào cũng chết, thỉ rời quê ra đi làm gì cho khổ đến nỗi này!". Lại than tiếp: "Tiểu nương tử, chỉ thấy được khi sống yêu nhau, chứ ai biết được sự quyến luyến sau khi chết, ân biến thành oán, làm cho ta cốt nhục phải chia ly, chết không có nơi chôn cất, ta khổ biết bao! Ta hận biết bao!". Than vãn đến nửa đêm, ngủ say lúc nào không biết. Mộng thấy cô gái đa tình đẹp như hoa, diêm dúa yêu kiều, tiến đến gần, cúi mình chúc lời vạn phúc, nói: "Tiểu viên ngoại đừng căm giận tiện thiếp. Tiện thiếp từ sau khi chết, đã làm cảm động Thượng Nguyên phu nhân lúc đó đang đi qua trên không, thương tiện thiếp vô tội chết yểu, truyền cho thuật thái dương luyện hình, giữ nguyên được hình hài như khi sống, được đi rong chơi trên khắp thế gian. Cảm tấm lòng tiểu viên ngoại còn thương nhớ, vì thế mới không biết xấu hổ mà theo. Cũng là số phận tiền duyên, có một trăm hai mươi ngày làm vợ chồng. Nay đã trọn vẹn, tiện thiếp sẽ tự đi. Đêm trước, tiện thiếp đến chào từ biệt, không ngờ viên ngoại lại sinh lòng ác, vác kiếm chém tiện thiếp. Hôm nay bác lại, phải chịu một đêm lao tù. Tên hầu nhỏ A Thọ, đang ở trong mộ cổ ở bên ngoài Đông Môn, chỉ cần quan phủ xét nghiệm lại tử thi, thì sẽ thoát tội. tiện thiếp cũng đã xin Thượng Nguyên phu nhân được hai viên ngọc tuyết đan, tiểu viên ngoại hãy thử dùng một viên, bảo đảm trăm bệnh tiêu trừ, nguyên khí trở lại như cũ; còn một viên, phải cất giữ cẩn thận, đợi đến ngày khác, nó sẽ giúp tiểu viên ngoại kết mối tơ duyên đẹp đẽ, báo đáp cái ân huệ một trăm hai mươi ngày vợ chồng vừa qua". Nói rồi, lấy ra hai viên thuốc, to bằng hạt đậu, màu đỏ, rõ ràng là hai viên thần dược. Cô gái lấy một viên cất vào ống tay áo tiểu viên ngoại một viên đút vào mồm tiểu viên ngoại, rồi nói: "Tiện thiếp đi đây, ngày chàng trở về quê ngàn lần cầu xin đến thăm mộ hoang của tiện thiếp, cũng là thể hiện tấm lòng của lang quân không quên mối tình cũ". Tiểu viên ngoại đang định hỏi cho tường tận, bỗng nghe thấy tiếng chuông kêu bên tai, giật mình tỉnh giấc. Trong miệng cảm thấy có mùi thơm lạ, trong bụng như có một cục lửa quay chuyển, mồ hôi ra như tắm. Phải đợi đến khi trời sáng mới hết mồ hôi, thân thể bỗng thấy khỏe mạnh. Tìm trong ống tay áo, viên ngọc tuyết đan vẫn còn, giống hệt như viên thuốc đã thấy trong mộng. Tiểu viên ngoại giấu biệt mối tình, chỉ nói lại lời nói của người trong mộng rằng cần xét nghiệm thi hài tên hầu nhỏ, là có thể biết được thật giả. Ngục tư bẩm lên quan Đại Doãn. Mở quan tài ra xem, chỉ thấy một cái chổi cũ, chẳng có một vật nào khác nữa. Đến tìm ở ngôi mộ cổ ngoài Đông Môn, thấy tên hầu nhỏ A Thọ như đang đắm chìm trong giấc ngủ say trong một cái quách đá vỡ, mọi người lấy nước gừng đổ cho uống, A Thọ tỉnh lại, hỏi tai sao lại đến đây và đến như thế nào, tên hầu nhỏ chẳng biết chút gì. Ngục tư đem A Thọ và cái chổi cũ đến trình trước mặt quan Đại doãn, gọi chủ quán đến nhận, quả thực A Thọ chưa chết, lúc đó mới biết tất cả đều do yêu nữ làm ra. Đại doãn đuổi mọi người lui ra. Hoàng Phủ Chân Nhân biết trảm yêu kiếm không linh, bỏ lên núi tu đạo. Hai anh em công tử họ Triệu đến đón tiểu viên ngoại, mồm liên tục nói: "Chúc mừng! Chúc mừng!". Chủ quán cũng đến tạ tội. Ba người từ biệt chủ quán, dẫn đám người hầu, hoan hỷ trở về phủ Khai Phong.

Cách thành hơn năm mươi dặm, có một thị trấn lớn, đoàn người đến nghỉ ở một quán trọ. Trông thấy trên tường của ngôi nhà lớn bên cạnh, dán một bảng yết thị mời danh y như sau:

"Nhà tôi có ái nữ bị bệnh nguy cấp, mê man, bất tỉnh. Danh y bốn phương, nếu ai chữa trị được, xin hậu tạ mười vạn bạc, hoa hồng rượu dê phụng nghênh, quyết không dám sai lời".

Ngô tiểu viên ngoại xem xong, hỏi tiểu nhị: "Nhà bên cạnh là nhà ai? Bị bệnh gì? Không có người biết sao?". Tiểu nhị đáp: "Đất này gọi là Chử gia trang, nhà bên cạnh là nhà của Chử viên ngoại. Có một người con gái đẹp như hoa như ngọc, tuổi mới mười sáu. Đã có nhiều người đến cầu hôn, nhưng lão viên ngoại vẫn chưa gả cho ai. Trong vòng một tháng, bỗng mắc một bệnh, phát điên nói nhảm, không thiết ăn uống. Rất nhiều thái y xem bệnh bốc thuốc, bệnh chỉ tăng không giảm. Thật đáng tiếc cho cô gái nết na, khó gặp trên đời. Nay xem ra sắp chết, hai vợ chồng lão viên ngoại ngày đêm kêu khóc, chỉ còn biết cầu thần lễ Phật, làm việc thiện để giải phúc, đã chi không biết bao nhiêu là tiền bạc rồi". Tiểu viên ngoại nghe nói, trong lòng mừng thầm, nói: "Tiểu nhị ca, phiền môi giới giúp, tôi muốn cưới cô gái này làm vợ". Tiểu nhị nói: "Tiểu nương tử đang thập tử nhất sinh, quan nhân nếu muốn cầu thân, hãy đợi khi khỏi bệnh". Tiểu viên ngoại nói: "Tôi biết trị bệnh cuồng. Không cần tiền bạc tạ ơn, chỉ cần đồng ý cho tôi thành hôn, tôi mà ra tay, bệnh ắt khỏi liền". Tiểu nhị nói: "Xin mời quan nhân ngồi, tiểu nhân lập tức đi chuyển lời". Chỉ trong giây lát, đã thấy tiểu nhị dẫn Chử công đến quán, cùng ba người tương kiến. Chử viên ngoại hỏi: "Chẳng hay vị tiên sinh nào có thể trị bệnh?". Hai anh em họ Triệu chỉ tay nói: "Vị Ngô tiểu viên ngoại này". Chử công nói: "Nếu tiên sinh chữa khỏi bệnh cho tiểu nữ, những lời viết trên tờ yết thị kia, quyết không sai một ly". Ngô tiểu viên ngoại nói: "Vãn sinh họ Ngô tên Thanh, nhà ở một phố lớn trong thành thuộc bản phủ. Cha mẹ đều còn, gia tư nhỏ bé, lẽ nào lại cho tiền thưởng vạn bạc là ít ỏi. Nhưng vãn sinh tuổi mới hai mươi, chưa thành gia thất. Từ lâu đã ngưỡng mộ tiểu nương tử dung mạo đức hạnh vẹn toàn, nếu được kết duyên Tấn Tần, sẽ xin nhận việc chữa trị, khỏi phải đi tìm Lư Biển". Hai anh em họ Triệu đứng bên cạnh, cũng nói nhiều lời tốt đẹp, Khoe nhà họ Ngô là danh môn phú thất, lại khoe tiểu viên ngoại là người trung hậu. Chử công yêu con gái, không việc gì không làm, nên cũng ưng thuận. Liền nói: "Nếu quả chữa khỏi bệnh cho tiểu nữ, già này xin đem hòm nữ trang nho nhỏ, gửi đến quý phủ thành hôn". Ngô Thanh nói với hai anh em họ Triệu: "Nay nhờ hai huynh làm mối, không thể chối từ". Chử công nói: "Đâu dám". Ngay sau đó, Chử công mời cả ba người đến nhà, thiết tiệc khoản đãi, Ngô Thanh nôn nóng, nói với lão viên ngoại: "Xin dẫn đến phòng của lệnh á, để xem bệnh cho thuốc". Chử công đi trước, Ngô Thanh theo sau. Cũng là duyên phận đương nhiên, Ngô tiểu viên ngoại vừa vào cửa, cô gái lập tức không điên nữa. Ngô tiểu viên ngoại giả vờ xem mạch, nhũ mẫu vén màn lên, chỉ nghe tiếng vòng vàng leng keng, một cánh tay ngọc ngà đưa ra. Thực là:

Chưa biết rõ mặt hoa,

Thấy trước bàn tay ngọc.

Tiểu viên ngoại xem mạch hai tay xong, như trông thấy thần thấy quỷ, nói: "Bệnh này do tà ma ám hại, ngoài vãn sinh ra, không ai có thể chữa khỏi". Nói rồi, lấy ra viên ngọc tuyết đan, hòa với nước giếng khơi, cho tiểu nương tử uống. Cô gái bỗng nhiên thấy tinh thần sảng khoái, bệnh đã khỏi hẳn. Chử công cảm tạ hết lời. Ban ngày, cả ba người cùng vui uống rượu tại nhà Chử công. Ban đêm, Chử công mời ngủ trong thư phòng. Sáng hôm sau, lại mời rượu. Hai anh em họ Triệu nói: "Quấy quả nhiều rồi, xin được cáo từ. Chỉ có điều là đối với việc hôn nhân của Ngô tiểu viên ngoại, không nên thất tín". Chử công nói: "Tiểu nữ mang ơn cứu bệnh, lẽ nào dám vong ân phụ nghĩa. Đâu dám coi lời hứa không bằng mạng sống của mình". Tiểu viên ngoại liền bái tạ nhạc phụ. Chử công bày lễ tiễn đưa. Ba người không nhận bất cứ một vật nào, chào từ biệt về nhà. Ngô lão viên ngoại thấy con khỏi bệnh trở về, mừng vui như thế nào, khỏi phải nói. Hai anh em họ Triệu đem việc hôn nhân nói ra, lão viên ngoại mười phần mỹ mãn. Chọn ngày ăn hỏi, sáu lễ đã xong, Chử công chuẩn bị đồ cưới nghìn vàng, thân tiễn con gái qua cửa thành thân. Ngô tiểu viên ngoại dưới ánh nến hoa, nhìn cô dâu, giật mình: thật giống mỹ nữ mặc áo màu hạnh hoàng đã gặp gỡ ở bên hồ Kim Minh trước đây. Qua năm bữa nửa tháng, vợ chồng quen hơi. Ngô tiểu viên ngoại hỏi vợ, quả là hai ngày trước tiết Thanh Minh năm ngoái, có vào thành thăm hỏi người thân, mình mặc màu áo hạnh hoàng, và có đến hồ Kim Minh du ngoạn. Thực là lòng người ước nguyện, trời cao xui khiến. Vị tiểu nữ họ. Chử cũng có tiểu danh là Ái Ái. Ngô tiểu viên ngoại đem chuyện này nói cho hai anh em họ Triệu biết, cả hai người đều cho là kỳ lạ: "Mối nhân duyên này đích thị do Lư nữ tác thành, không được quên ơn". Ngô tiểu viên ngoại ngay ngày hôm đó đến Lư gia điếm ở bắc hồ Kim Minh, kể chuyện về con gái của Lư gia, dân vàng gấm, bái nhận hai vợ chồng Lư Vinh làm nhạc phụ nhạc mẫu, xin được bốc mộ, mua quan tài cải táng. Lư công là dân thường nơi chợ búa, được viên ngoại nhận thân, nói gì cũng nghe. Tiểu viên ngoại xin âm dương chọn ngày tốt, trước tiên dùng ba con vật tế lễ, đốt đồ cúng, rồi sau đó đào mộ mở áo quan. Vị tiểu nương tử Ái Ái sắc mặt vẫn như lúc sống, mùi hương vẫn chưa tan, đó là nhờ thuật Thái Âm luyện hình mà có kết quả như vậy. Ngô tiểu viên ngoại ca ngợi hồi lâu. Cải táng xong, mời cao tăng cúng lễ bảy ngày bảy đêm. Đến đêm lại mộng thấy Ái Ái đến tạ ơn, từ đó mất hẳn tung tích. Về sau Ngô tiểu viên ngoại cùng Chử Ái Ái bách niên giai lão. Hai vợ chồng Lư công nhờ tiểu viên ngoại lo việc hậu sự, đó cũng là cái đức của tiểu viên ngoại.

1 2

--------------------------------------------------------------------------------

Căn Phòng Áp Mái Dịch Giả: Tô Đức Huy

Căn Phòng Áp Mái

Họ dò dẫm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn phòng áp mái bụi bặm. Alastair cẩn thận đặt từng bước lên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh ta đẩy hai cánh cửa khép hở ra. "Hãy tự nhiên như ở nhà", anh ta nói, vẫy họ vào qua cánh cửa bên phải. "Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ tạp nham. Nếu cần mời anh sang đấy xem qua.

Bên trong căn buồng ngủ đêm của anh tối mịt, ngoại trừ chút ít ánh sáng yếu ớt mùa đông hắt vào qua ô cửa sổ bé xíu duy nhất. Anh bước về phía đó, sát góc buồng, mặt biển trải rộng ngút tầm mắt.

Alastair cúi xuống bật đèn bàn. "Nguồn ánh sáng duy nhất", anh ta nói. "Tôi hy vọng nó đủ sáng".

Anh đặt va ly xuống giường.

"Còn một chiếc đài nữa. Có thể làm anh vui được".

"Cám ơn". Anh nhìn chiếc đài cổ lỗ, thô kệch.

"Dù sao cũng xuống nhà làm ngụm nhỏ đã, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm, gặp người đến bắt con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước?".

"Tôi xem qua mấy phút thôi". Anh cẩn thận rà soát cánh cửa, ổ khóa to, chìa khóa cắm bên ngoài. Then cửa bên trong khá to, đã gỉ sét. Anh ngó qua cái tủ tường ở góc buồng, to bằng một gã đàn ông. Ngó ra sau lưng nó, những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường, nhún lên nhún xuống, nhìn vào gầm giường. "Được rồi", anh nói. "Sẽ xong thôi".

"Tốt quá. Thôi, xuống nhà đi".

"Ta quên một thứ", Duncan nói. "Chiếc chuông...".

"Đúng rồi". Alastair vương về phía trước túm lấy sợi dây treo từ trên trần dài độ vài phân, lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau. "Để báo hiệu, Kevin cáo già ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó có ở đây lâu lắm rồi, nhưng vẫn kêu tốt".

"Này", Kevin nói, "tôi cóc cần cái chuông đỏ như máu kia của anh".

"Được rồi, anh sẽ không cần đến nó".

"Khoan một chút", anh nói. "Tốt hơn nên nói với anh điều này". Anh mở va ly lấy ra khẩu súng ngắn. "Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy". Rồi anh đặt nó xuống bàn. "Con ma nào dám trêu ngươi sẽ lĩnh ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt đầu".

"Mày nghe rõ chưa ma?". Alastair ngửa cổ lên trần nhà nói vui. "Nếu mày ló mặt, mày sẽ ăn đạn vào bụng đấy".

Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ không đủ ánh sáng.

"Mẹ, đây là Kevin Donaldson. Anh ấy đến từ Australia".

Bà mẹ già cười tươi hỏi han. Trước kia bà đã đến nước Australia, từ khi chồng bà còn sống, và bà rất yêu đất nước đó. Còn giờ đây, làm sao để bắt được con ma của ngôi nhà Drumkattle?

1 2 3

--------------------------------------------------------------------------------

Căn Phòng Áp Mái Dịch Giả: Tô Đức Huy

Alastair phân bua. Đó chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm bà người hầu ngủ trên giường bất ngờ bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kevin sẽ ngủ, hoặc là cố để ngủ, trong căn buồng đó.

"Năm mươi pao thì nhiều đấy", bà Moncrieff nói.

"Nhiều, nhưng với con thôi. Còn Kevin, anh ấy giàu có, chính anh ấy mới là người sẽ phải trả...".

Kevin cười. "Tôi không tin thế".

Đã hơn mười một giờ đêm, một mình anh ở rong căn buồng áp mái, cửa khóa trái bên ngoài. Khẩu súng để ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ nếu bóng ma xuất hiện trong trang phục quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng Mười hai không trăng. Căn buồng tối đen lại nếu anh tắt chiếc đèn bàn bên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.

Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn trang bìa sách nhưng tâm trí vang mãi lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ trôi qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông, họ sẽ bẽ bàng ra sao trước mắt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ, họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.

Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có ai để người trong nhà này đi thông báo; Drumkattle là ngôi nhà duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe được tiếng chuông. Vậy thì khỏi rung chuông nữa.

Anh đã thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc đài bên cạnh, lắng nghe chương trình "Nhạc đêm khuya" trên sóng đài Home. Anh chuyển sang sóng đài Light đang phát bản nhạc jazz, cuối cùng chọn đài Hamburg với nhạc valse. Anh ngồi dậy cởi quần áo mặc ngoài.

Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần cuối và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp, có thể tình trạng không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh, với tay tắt đèn.

Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh tắt nốt chiếc đài.

Không dám chắc có phải mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe thấy tiếng động vào lúc một giờ sáng. Thoạt đầu anh không tài nào định hướng được âm thanh đó, dần dần như mái nhà thủng ra và nước nhỏ xuống sàn. Anh đợi một lúc cho chắc chắn và bất ngờ bật đèn.

Thật lạ, không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn.

Lần này, chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe thấy âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.

Anh thấy lạ khi có một tiếng động ngay cạnh đầu, bực mình quá, anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập rộn, hai bên thái dương rần rật. Tiếng động của thứ chất lỏng nọ giờ thành đối âm với nhịp lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước rỉ đổi vị trí cứ như có một lỗ thủng khác ở trên mái. Anh bật đèn lên, âm thanh nọ lại ngừng bặt.

Anh bật dậy, nhìn qua ô cửa sổ, lại gần thò tay ra ngoài: trời có mưa đâu nhỉ. Quái lạ! Tìm thế nào đi nữa anh vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ, mở toang hai cánh ra, ngỡ tưởng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng.

Để nguyên đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ, ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.

Chắc anh đang ngáy, bỗng nhiên giật mình vì có tiếng người nói, anh bật thẳng dậy, tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ, giọng một cô gái, du dương. Anh căng tai, và từ rất xa, rất nhẹ, dường như nó gọi "Kevin".

1 2 3

--------------------------------------------------------------------------------

Căn Phòng Áp Mái Dịch Giả: Tô Đức Huy

Thật vô lý. Anh sẽ không tự biến mình thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh lại bật đèn, mọi thứ chìm vào im lặng.

Anh nguyền rủa. Hơi mệt và bực dọc. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng, ran rát, tai nghe rõ nhịp đập của tim, anh thoắt với lấy khẩu súng.

"Anh đang nằm", giọng nói lại vang lên, "Giữa vũng máu đỏ còn ấm. Máu của tôi, Kevin ạ".

Anh mở miệng hỏi lại giọng nói kia nhưng sao không lời nào thốt ra được. Mãi sau, bằng một giọng nói hoàn toàn không phải của mình, anh hỏi: "Sao..., sao lại thế...".

"Không làm ồn, Kevin. Tôi tới đây để giết anh".

Anh cười, tỏ vẻ can đảm. "Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao?".

"Kevin, bởi vì căn buồng này, chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó".

Mọi thứ ngưng lặng chốc lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.

"Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kevin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi, khi tôi đang khóc tức tưởi...".

Một tia ý nghĩ vụt qua óc khiến anh chú ý đến chiếc công tắc đài. Nó vẫn ở vị trí tắt.

Giọng cô gái lại cất lên. "Hãy tạo mối quan hệ hòa bình với Người Sáng Tạo ra anh, hỡi Kevin Donaldson, vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh".

Lạ thay, tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao, đúng, tai sao không nghĩ đến việc mang theo chiếc đèn pin?

Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm, anh nguyền rủa bản thân vì sự thực đó, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson tỏa ánh sáng dầu tù mù, anh không thấy gì cả.

Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Lần nữa anh chú ý tới chiếc đài và chắc chắn nó phát ra từ đó, thậm chí công tắc vẫn tắt. Tức quá anh vung cú đấm vào mặt chiếc đài. Giọng nói vẫn tiếp tục nhưng có lẽ lúc này anh đã quá phấn khích và mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc đài rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.

Như cố tình trêu ngươi, giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng mới thật hãi hùng ập đến, nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc đài xuống sàn làm nó nứt ra, chưa thỏa anh còn lấy đập loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục miếng nhỏ.

Giọng nói lại càng rõ hơn. "Có ích gì hơn đâu, Kevin. Anh không thể thay đổi được số phận, mà số anh là số chết. Chết ngay trong đêm nay".

Anh bật lửa, trong phòng trống rỗng.

Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt, nhìng chong chong vào một điểm trong bóng tối.

Anh nhìn không biết bao lâu, như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường lại gần nó, ở đấy chắc chắn có một cái gì đấy. Phát điên lên anh mắm môi mắm lợi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.

Anh kêu lên kinh hãi, hơi thở dồn dập. Ánh sánh quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Khuông mặt, nếu được gọi đó là khuôn mặt, màu xanh tái, và quần áo, nếu cũng có thể gọi là quần áo, màu tối, có lẽ là màu máu đỏ. Hình như người ấy đang nói, vẫn giọng nói nọ, giọng nữ, nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.

Anh quỵ xuống giường, người cứng đơ. "Ai... cút...", anh thét lên hoảng hốt. "Cô là ai? Sao vào được đây? ... Tôi sẽ giết cô đấy, cô bạn. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi"... "Lời cảnh cáo cuối cùng...".

"Đạn không giết được tôi đâu, Kevin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa, và không còn viên đạn nào đâu..."

"Tôi cảnh cáo lần cuối!". Anh rít lên.

Anh nổ súng, bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Một ý nghĩ đen tối vẫn lên trong đầu anh.

Khói súng vừa hết anh nhìn thấy một khuôn mặt trắng bợt, vẫn nguyên chỗ cũ.

Anh thét lên, bắn, bắn tiếp, bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người, đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không báo nguy cho mọi người. Nghĩ vậy, tay trái rung chuông, tay phải vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch... cạch... khô khốc. Hình người đã đè lên hình anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm, không phải vị ngọt, máu, anh biết đó là máu.

Tay chạm được dây chuông, anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Tối mịt mùng.

Mấy tháng sau kevin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không còn được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng cho tới khi cả tòa nhà đổ sụp xuống, hai, ba mươi năm sau này.

1 2 3

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Con Nhện

Chính nơi ấy là ý chí không hề báo cái chết.

Ai hiểu thấu được bí ẩn của ý chí với tất thảy sức mạnh của nói?

Joseph Glanvill.

Chàng sinh viên y khoa Richard Brakemon đã chuyển đến phòng số bảy tại khách sạn nhỏ "Stevence" ở số sáu phố Alfred Stevence sau khi liên tiếp vào ba ngày thứ Sáu trước tại chính căn phòng đó có ba người treo cổ tự tử trên cái xà ngang cửa sổ.

Người thắt cổ đầu tiên là một tay chào hàng người Thụy Sỹ. Chỉ mãi đến tối thứ Bảy người ta mới phát hiện ra xác anh ta, bác sĩ đã xác định được rằng anh ta chết vào quãng giữa năm và sáu giờ chiều thứ Sáu hôm qua. Cái xác treo lủng lẳng dưới một cái móc to được đóng chặt vào khung cửa sổ ở đúng chỗ mà cái khung ấy tạo ra một cái giá chữ thập, và có lẽ nó được dùng để treo áo. Kẻ tự vận đã treo mình bằng cái dây rèm, cửa sổ đóng. Bởi lẽ cửa sổ rất thấp nên hai dầu gối của kẻ xấu số thõng chạm sàn phòng, điều đó chứng tỏ anh ta phải bộc lộ sức mạnh ý chí ghê gớm lắm để thực hiện cái ý định quyên sinh của mình. Sau đó người ta biết thêm được là anh ta đã có vợ và cái chết này khiến anh ta bỏ lại bốn đứa con; ngoài ra, người ta cũng biết hoàn cảnh kinh tế của người chết là hoàn toán sung túc và anh ta là người vui tính và vô tư lự.

Vụ tự tử thứ hai trong căn phòng này không khác lắm với vụ thứ nhất. Nghệ sĩ Krauze vốn biểu diễn các trò ảo thuật tung hứng trên xe đạp cho một rạp xiếc và tiết mục ảo thuật của anh rất ăn khách, anh ta cũng chuyển tới phòng số bảy hai ngày sau đó. Vì anh ta không tới rạp xiếc vào ngày thứ Sáu sau đó nên ông giám đốc cử một nhân viên soát vé và xếp chỗ đến gọi anh ta. Ông nhân viên đã thấy nhà nghệ sĩ ảo thuật chết treo dưới cái xà ngang cửa sổ trong căn phòng số bảy không khóa: đúng như cái khung cảnh mà vị khách trọ đầu tiên đã chết. Vụ tự vẫn này chẳng kém bí ẩn hơn vụ đầu. Nhà nghệ sĩ rất được công chúng ái mộ này được trả lương rất cao, anh mới chỉ hai mươi lăm tuổi và đã nếm đủ mọi niềm vui sướng của cuộc đời. Và người quá cố cũng chẳng để lại một dòng thư tuyệt mệnh cũng như bất kỳ lý do gì giải thích hành vi của mình. Sau cái chết của mình anh không còn ai thân thích, trừ bà mẹ mà cứ ngày đầu tiên hàng tháng cậu con trai đều cẩn thận gửi hai trăm mark về chu cấp cho bà.

Đối với bà Dubonnais, nữ chủ nhân khách sạn này, nơi rất hãn hữu có khách hàng là người thuộc đám nghệ sĩ của các nhà hát tạp kỹ ở khu Monmartre kế cận, thì vụ tự sát bí ẩn thứ nhì kia quả đã có những hậu quả thật tồi tệ. Một số khách trọ đã rời khách sạn. Còn những khách hàng thường xuyên khác của bà thôi không còn ghé lại đây nữa. Bà liền tới hỏi ý kiến và lời khuyên của ông bạn thân, ngài chánh cẩm khu vực chín, ông này hứa với bà là sẽ làm tất cả những gì thuộc thẩm quyền mình. Và trên thực tế, ông ta không chỉ bắt tay điều tra nguyên do tự vẫn của hai vị khách trọ một cách mẫn cán, nhiệt tâm mà còn tìm được cho bà ta một khách trọ mới cho căn phòng bí ẩn kia.

Charles Maria Cheaumie phục vụ ở cục cảnh sát và tình nguyện đồng ý đến ở phòng số bảy, ông ta từng là một con sói biển già đời đã tòng ngũ thủy quân mười một năm ở hạm đội. Khi ông ta còn mang hàm trung sĩ thì đã ngược xuôi tới vùng Bắc kỳ và Trung kỳ Việt Nam nhiều lần, từng một mình đứng gác trên vọng gác nhiều đêm ròng và nhiều lần chơi cho bọn cướp biển hàng tràng đạn liên thanh khi chúng mang cờ vàng mon mem đến gần chòi gác trong bóng tối mịt mùng. Bởi thế nên người ta có cảm giác ông ta sinh ra trên đời để saÜn sàng đón gặp "những bóng ma" mà bây giờ đã làm cho dãy phố Alfred Stevence trở nên khét tiếng. Ông Cheaumie dọn vào phòng ở chiều tối Chủ nhật và sau khi ngủ ngon lành, thầm cảm ơn bà chủ khách sạn Dubonnais đã khoản đãi bữa ăn tối thật ngon và thịnh soạn.

Hàng ngày vào buổi sáng và buổi chiều tối Cheaumie phải đến gặp chánh cẩm để báo cáo ngắn gọn về mọi sự. Mấy ngày đầu những báo cáo ấy chỉ giới hạn ở lời thông báo rằng tất cả đếu ổn thỏa và ông không hề thấy gì hết. Song vào chiều tối thứ Tư thì ông ta cho biết bắt đầu dò được những dấu vết nào đó. Với yêu cầu của ngài chánh cẩm cần trìng bày rõ hơn thì ông ta chối từ và nói thêm rằng hiện thời ông ta chưa tin chắc kiệu sự phát hiện đó có mối liên hệ nào với hai vụ tự tử trong căn phòng này hay không. Vả lại ông cũng bảo rằng ông sợ trở nên lố bịch, buồn cười và rằng ông ta sẽ kể tỉ mỉ hơn khi có đủ tự tin. Ngày thứ Năm ông ta xử sự kém tự tin hơn và đồng thời có vẻ nghiêm trọng hơn, nhưng ông ta chẳng kể ra điều gì mới mẻ cả. Vào sáng thứ Sáu ông có vẻ bị kích động mạnh, ông ta nói nửa đùa nửa thật rằng dù thế nào đi nữa thì cái cửa sổ đó thực sự có một sức thu hút kỳ lạ nào đó. Song ông Cheaumie khẳng định điều này tuyệt nhiên không có mối liên hệ gì đến việc tự sát và chắc người ta sẽ chế nhạo ông nếu ông nói thêm điều gì đó vào những gì đã kể. Buổi chiều hôm ấy ông không đến đồn cảnh sát nữa: người ta thấy ông chết treo cổ ở thanh xà ngang cửa sổ trong căn phòng đã ở.

Lần này thì cảnh huống tự tử cũng hệt như hai vụ trước đến từng chi tiết nhỏ: hai chân kẻ thắt cổ chạm sàn nhà, thay vì dây thừng thì một sợi dây lấy từ rèm cửa được dùng để tự vẫn. Cửa sổ mở, cửa ra vào không khóa; cái chết đến vào lúc sáu giờ chiều. Mồm kẻ chết treo cứ há hốc, lưỡi thè lè ra ngoài.

Hậu quả của vụ chết người thứ ba ở trong căn phòng số bảy là vào hôm ấy, tất cả các khách trọ của khách sạn "Stevence" đã ra đi; ngoại trừ một ông giáo người Đức ở phòng số mười sáu, song việc ở lại này có lý do của nó: ông ta lợi dụng việc này để giảm được tiền thuê phòng xuống một phần ba: một sự an ủi quá nhỏ nhoi cho bà Dubonnais là việc ngày hôm sau cô Mari Garder, minh tinh nhà hát Opera Comique đã đi một cỗ xe ngựa rất sang trọng đến gặp bà và trả hai trăm frăng để mua sợi dây màu mà kẻ xấu số đã dùng để treo cổ tự vẫn. Cô ấy làm như vậy là vì cái vật đó sẽ mang lại hạnh phúc và hơn nữa, người ta sẽ viết về việc này trên báo chí.

Nếu việc nói trên lại xảy ra ngay vào mùa hè, tháng Bảy hay tháng Tám chẳng hạn thì bà Dubonnais chắc sẽ nhận được số tiền bán nhượng sợi dây kia gấp ba lần vì lúc đó báo chí có thể dành trọn cả một tuần viết kín các cột báo về chủ đề này. Nhưng vào giữa mùa chính trị sôi nổi này thì báo chí còn vướng bận biết bao đề tài: nào bầu cử, nào các sự kiện ở Marốc, ở Ba Tư, nhà văn vỡ nợ tại New York, rồi ba vụ án chính trị, và thực tế báo chí không còn chổ để đăng tải sự vụ kia nữa. Kết quả là biến cố trên phố Alfred Stevence thu hút ít sự chú ý hơn là nó đang có. Nhà đương cục đến lập biên bản ngắn ngủi, và chỉ có thế là vụ án kết thúc.

Chàng sinh viên y khoa Richard Brakemon chỉ biết có biên bản đó thôi khi quyết định thuê cho mình căn phòng ấy. Chàng hoàn toàn chẳng biết một yếu tố, một chi tiết nhỏ, vả lại chi tiết đó lại nhỏ nhoi và tầm thường đến nỗi ngài chánh cẩm và chẳng ai trong số những nhân chứng thấy cần thiết phải thông báo cho các phóng viên biết đến. Chỉ mãi sau này, sau khi câu chuyện kỳ lạ xảy ra với chàng sinh viên, người ta mới sực nhớ đến sự việc bé nhỏ ấy. Sự thể là khi các nhân viên cảnh sát gỡ viên trung sĩ Charles Maria Cheaumie ra khỏi cái thòng lọng oan nghiệt thì một con nhện đen to kình bò từ mồm ông ta ra. Người hầu phòng lấy ngón tay búng con nhện và thốt lên:

- Quỷ tha ma bắt, lại cái con côn trùng độc địa này.

Sau đó trong thời gian điều tra vụ việc liên quan đến Brakemon, anh ta thông báo rằng khi lôi xác người chào hàng Thụy Sỹ kia ra khỏi sợi dây thắt cổ thì đúng con nhện này đã bò từ vai ông ta xuống. Nhưng Richard Brakemon không hề biết việc đó.

Chàng đã dọn tới ở phòng số bảy hai tuần sau vụ treo cổ tự tử thứ ba, ấy là vào ngày Chủ nhật. Chàng ghi vào nhật ký tất cả những gì đã nếm trải trong căn phòng ấy.

Nhật Ký Của Richard Brakemon, Chàng Sinh Viên Y Khoa.

Thứ Hai, ngày Hai mươi tám tháng Hai.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Mình bắt đầu ở căn phòng này ngày hôm qua. Sau khi mở hai gói đồ mình bỏ các đồ đạc ra và sau đó đi nằm nghỉ. Mình ngủ thật ngon, đồng hồ điểm chín giờ khi có tiếng gõ cửa đánh thức mình dậy. Đó là bà chủ mang bữa ăn sáng lên cho mình. Bà ấy đặc biệt quan tâm đến mình, điều đó được thấy rõ theo món trứng, món giăm bông và ly cà phê tuyệt ngon mà bà đích thân mang vào phòng. Mình rửa mặt và mặc quần áo, rồi sau đó bắt đầu quan sát xem người hầu phòng dọn dẹp phòng mình thế nào. Đồng thời mình châm tẩu.

Thế là mình đã ở đây rồi. Mình hiểu rõ là mình đã can dự vào một trò chơi nguy hiểm, nhưng cùng lúc ấy mình nhận thức được rằng sẽ đạt được nhiều điều nếu lần ra được dấu vết đích thực. Nếu như trước đây Paris thật dễ sống, giờ đây để tồn tại ở Paris ấy đâu có rẻ như trước, thì mình bất luận thế nào cũng có thể đặt cược cái cuộc đời chẳng lâu dài gì của mình. Nhưng chính ở đây có một cơ hội: thật là tuyệt, mình sẽ thử vận may của mình.

Tuy nhiên cả những người khác cũng muốn được thử vận may. Không ít hơn hai mươi bảy người, một số tới cơ quan cảnh sát, một số khác tới thẳng chỗ bà chủ để yêu cầu được ở căn phòng đó. Trong số những kẻ kỳ vọng có cả ba phụ nữ. Như vậy chẳng thiếu người trong cuộc cạnh tranh này: có lẽ tất thảy mọi người đó cũng nghèo kiết như mình.

Nhưng mình "đã được cuộc". Vì sao nhỉ? Chà, có lẽ, mình là người duy nhất đã phỉnh được cảnh sát nhờ một "ý tưởng". Còn phải nói, ý tưởng ấy quả là hay! Tất nhiên, đó chẳng gì khác hơn một tin vịt mà thôi.

Chính những lời tường trình ấy là được dành cho cảnh sát, và bởi thế nên giờ đây mình khoái trá muốn nói với các ngài ấy rằng mình đã khéo phỉnh phờ được họ. Nếu ngài chánh cẩm là một con người khôn ngoan thì ông ta sẽ nói: "Hừm, chính vì thế mà tay Brakemon ấy là người thích hợp hơn cả".

Tuy vậy mình cũng thờ ơ, chẳng xao động gì nếu sau này ông ta có nói như thế. Giờ đây, dù thế nào đi chăng nữa, mình đã ngồi đây rồi. Và mình cho cái việc mình xỏ mũi được các đức ông ấy là một điềm tốt đẹp.

Mình bắt đầu từ việc đến gặp bà Dubonnais, nhưng bà đẩy mình lại cơ quan cảnh sát. Suốt một tuần mình lui tới đó và hàng ngày chỉ nhận được độc một câu trả lời rằng đề nghị của mình đã "được nhận để cứu xét" và rằng mình phải đến vào ngày mai. Phần lớn những kẻ tranh đua với mình đã nhanh chóng lùi bước, rất có thể là họ muốn làm việc gì đó khác hơn là cứ ngồi trong cơ quan cảnh sát ngột ngạt để chờ đợi hàng giờ liền. Còn đối với mình thì có lẽ sự kiên trì của mình đã khiến thậm chí ngài chánh cẩm không thể Énhẫn nại hơn được nữa. Cuối cùng ông ta tuyên bố với mình một cách kiên quyết để mình không còn tới đó nữa, vì việc này sẽ chẳng dẫn đến kết quả gì hết. Ông ta bảo là rất cảm ơn mình cũng như cảm ơn mọi người khác do thiện ý của mình, nhưng những "lực lượng tài tử, không chuyên nghiệp" không hề cần thiết cho công việc này. Nếu như mình chẳng hề có một kế hoạch hành động được soạn thảo kỹ lưỡng thì sẽ chẳng ăn nhằm gì hết...

Mình đã bảo ông ta rằng có một kế hoạch hành động. Lẽ đương nhiên mình đã chẳng có kế hoạch nào sất và mình không thể nói cho ông ta hay dù chỉ một lời về cái kế hoạch ấy. Nhưng mình đã tuyên bố với ông ta rằng mình sẽ công bố kế hoạch của mình, một kế hoạch rất hay, nhưng rất nguy hiểm, có thể đem lại các kết quả mà hoạt dộng của các viên cảnh sát nhà nghề vẫn dẫn tới, chỉ trong trường hợp nếu ông ta hứa với mình rằng sẽ đích thân nhận thực hiện kế hoạch đó. Nhờ có thế mà ông ta hết lòng cảm ơn mình và bảo ông ta có chút thì giờ nào để soạn ra được một kế hoạch như thế. Nhưng ở đây mình đã nhận thấy là có chỗ dựa, hơn thế nữa, ông ta hỏi liệu mình có thể tiết lộ kế hoạch đó cho ông ta biết hay không.

Mình đã làm điều đó. Mình kể cho ông ta nghe một thứ huyễn hoặc vô cùng mà trước đó một giây mình chẳng có một chút khái niệm nào hết, tự mình cũng chẳng hay điều đó xuất hiện từ đâu mà lọt vào đầu mình. Mình bảo ông ta rằng trong mọi thời khắc của một tuần thì nổi bật lên một giờ có ảnh hưởng thần bí, kỳ lạ nào đó đến con người ta. Ấy là giờ chúa Kitô biến khỏi ngôi mộ của Người để xuống địa ngục, tức là giờ thứ sáu buổi chiều ngày cuối cùng của tuần lễ theo lịch Do Thái. Mình cũng nhắc ông ấy rằng chính vào giờ đó, thứ Sáu, giữa năm và sáu giờ đã xảy ra ba vụ tự sát. Mình không thể nói gì hơn nữa với ông ta, mình nhắc ông ta như thế, nhưng sau đó có đề nghị ông ấy chú ý đến Mặc Khải của thánh Giăng.

Ngài chánh cẩm nhíu mày tựa hồ như đã hiểu được điều gì đó, ông ta cảm ơn mình và đề nghị đến buổi chiều lại đến nữa. Mình vốn là người chính xác về giờ giấc nên đã đến đúng giờ hẹn tại văn phòng ông ta. Trước mắt ngài cẩm ở trên bàn có cuốn Kinh Tân Ước. Vào thời gian xảy ra chuyện ấy mình cũng có phần khảo cứu tương tự: mình đã đọc hết sách Khải Huyền và chẳng hiểu lời nào trong đó cả. Rất có thể ngài chánh cẩm thông thái hơn mình, bất luận thế nào thì ông ta cũng rất nhã nhặn tuyên bố rằng bất chấp sự ngụ ý tối nghĩa của mình thì ông ta cũng đoán định được kế hoạch mình đưa ra. Sau đó ông ta bảo là saÜn sàng ủng hộ ý muốn của mình và trợ giúp mình ở mức có thể được.

Phải thừa nhận rằng ông ta cực kỳ ân cần, cởi mở với mình. Ông ta đã ký kết với bà chủ khách sạn một điều kiện mà theo đó bà ta có bổn phận chăm nưôi mình hoàn toàn trong khách sạn. Ngài chánh cẩm cũng giao cho mình khẩu súng lục rất nhạy và một chiếc còi cảnh sát; các viên cảnh sát trực ban được lệnh phải thường xuyên hơn nữa đi tuần phòng dọc con phố nhỏ Alfred Stevence và saÜn sáng tới chỗ mình ngay khi có một dấu hiệu mình đưa ra. Nhưng quan trọng hơn hết là việc ngài đã đặt trong phòng mình một chiếc điện thoại để bàn, tạo cho mình điều kiện có thể luôn luôn liên lạc được với đồn cảnh sát. Đồn cảnh sát cách đây cả thảy có bốn phút đi bộ, và bởi thế mình sẽ được trợ giúp rất nhanh nếu có xảy ra chuyện gì khẩn trương. Sau khi lưu ý đến tất cả những lẻ nói trên thì mình không thể hình dung mình sợ cái gì cơ chứ.

Thứ Ba, ngày mồng Một tháng Ba.

Cả hôm qua lẫn hôm nay chẳng có chuyện gì xảy ra. Bà Dubonnais đã đem đến một sợi dây mới để lồng rèm cửa lấy từ phòng bên cạnh, vì giờ đây trong khách sạn này phần lớn phòng là trống vắng. Nói chung, bà tận dụng bất cứ dịp nào đến chỗ mình, và mỗi lần ấy bà đếu đem một cái gì đó tới. Mình đề nghị bà kể lại một lần nữa cho mình nghe toàn bộ chi tiết về những gì đã xảy ra trong căn phòng mình đang ở, song mình chẳng biết thêm điều gì mới nữa cả. Bà ta có một ý kiến độc đáo riêng về nguyên nhân các vụ tự sát. Đối với nhà nghệ sĩ thì bà nghĩ rằng ở đây có dính líu đến một cuộc tình bất hạnh: trước vụ việc đó một năm thì anh này cũng đã từng sống ở đây và có một thiếu phụ trẻ thường ghé thăm anh ta, nhưng lần này thì chẳng thấy bóng dáng cô ta đâu nữa. Còn về ông người Thụy Sỹ thì bà ta không rõ điều gì đã buộc ông ta đi đến một quyết định chết người đến thế, nhưng làm sao mà hiểu hết lòng người? Chà, còn ông trung sĩ thì chẳng nghi ngờ gì nữa, ông ta tự tử chỉ là để chọc tức cô gái ấy mà thôi.

Phải nói rằng những lời giải thích của bà Dubonnais mang cái nét nông cạn nào đấy, nhưng mình cứ để bà ta thả sức nói dông nói dài vì dẫu sao điều đó cũng khiến mình được giải trí.

Thứ Năm, ngày mồng Ba tháng Ba.

Vẫn chưa có điều gì mới. Ngài chánh cẩm gọi điện cho mình chừng hai lần một ngày, mình đáp lại rằng mình thấy rất khỏe, có lẽ lời báo cáo ấy không hoàn toàn làm ông ta thấy thỏa mãn. Mình lấy các cuốn sách y học ra và bắt đầu nghiên cứu, như vậy sự giam hãm tự nguyện sẽ mang lại cho mình ít ra một lợi ích nào đó chứ.

Thứ Sáu, ngày mồng Bốn tháng Ba, hai giờ chiều.

Mình ăn trưa thật ngon miệng: bà chủ đã đãi mình một nửa chai sâm banh cho bữa trưa. Đó quả là nữa ăn thịnh soạn đích thực dành cho kẻ tử tội. Bà ấy nhìn mình tựa hồ mình đã chết đến ba phần tư rồi. Khi rời phòng, nước mắt lưng tròng, bà ấy đề nghị mình đi theo ra cùng: có lẽ bà ấy sợ mình cũng sẽ treo cổ tự vẫn "để chọc tức cô ấy".

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Mình cẩn thận xem xét cái dây mới treo rèm cửa. Như thế có nghĩa là bây giờ mình phải thắt cổ bằng nó chăng? Hừm, mình có quá ít mong muốn để làm việc đó. Hơn nữa, cái dây này cứng quèo và thô nhám khó mà buộc thành thòng lọng được; cần phải có một ham muốn lớm lao để mà theo gương ba kẻ xấu số kia. Giớ mình ngồi bên bàn, bên trái là cái điện thoại, bên phải có khẩu súng lục. Mình không hề cảm thấy dù chút ít hoảng sợ, nhưng trong thân tâm có sự tò mò.

Sáu giờ chiều.

Chẳng gì xảy ra cả, suýt chút nữa mình nói: thật tiếc! Cái giờ độc địa chết chóc ấy đã đến và đã qua, và nó hoàn toàn giống như các thời khắc khác mà thôi. Tất nhiên mình sẽ không phủ định rằng có những khoảnh khắc mình cảm thấy một nỗi ham muốn không gì chế ngự nổi được lại gần cửa sổ, quả đúng như vậy, nhưng mà hoàn toàn vì những động cơ khác! Ngài chánh cẩm đã gọi điện dễ đến mười lần vào khoảng giữa năm giờ và sáu giờ, ông ta cũng tỏ vẻ sốt ruột như chính mình vậy. Nhưng đối với bà Dubonnais thì bà ta thấy hài lòng: qua suốt một tuần rồi mà tay khách trọ ở phòng số bảy vẫn không treo cổ tự vẫn. Thật không tin được!

Thứ Hai, ngày mồng Bảy tháng Ba.

Mình bắt đầu tin rằng sẽ chẳng phát hiện ra điều gì hết và mình có khuynh hướng nghĩ về việc tự tử của ba người trước đây ở căn phòng này là một sự ngẫu nhiên đơn giản. Mình đã yêu cầu ông cẩm thông báo lần nữa toàn bộ các chi tiết của ba vụ tự sát, bởi vì mình thấy rõ là nếu thâm nhập kỹ vào toàn bộ các cảnh huống thì cuối cùng có thể đối mặt với nguyên nhân thực sự. Còn đối với mình thì mình sẽ ở đây lâu chừng nào có thể tùy theo sự việc. Tất nhiên mình không biết Paris, nhưng mình ở đây không mất tiền và được cấp dưỡng rất tốt. Cần phải nói thêm là mình học nhiều, tự cảm thấy rất hài lòng với việc học tập. Và cuối cùng còn có một nguyên nhân níu giữ mình ở đây nữa.

Thứ Tư, ngày mồng Chín tháng Ba.

Như vậy, mình đã tiến thêm một bước. Nàng Clarimoda. Chà, chính mình còn chưa kể gì về nàng Clarimoda cả. Thế là, nàng là "nguyên nhân thứ ba" của mình mà vì đó mình muốn ở lại đây, và vì nàng mà mình đã muốn lại chỗ cửa sổ vào cái giờ "tai ương" ấy, song tuyệt nhiên không phải là để treo cổ. Clarimoda, nhưng vì sao mình lại gọi nàng như vậy? Mình không có một khái niệm nào dù nhỏ bé nhất về tên gọi của nàng, nhưng vì sao lúc đó ở nơi mình bỗng xuất hiện ý muốn gọi nàng là Clarimoda. Và mình saÜn sàng đánh cuộc rằng chính tên nàng là như thế nếu như khi nào có dịp hỏi tên nàng.

Mình đã nhận ra Clarimoda vào ngày đầu tiên. Nàng sống ở phía bên kia của con phố rất hẹp mà khách sạn nơi mình ở nằm tại đó: cửa sổ nhà nàng ở đối diện đúng cửa sổ phòng mình. Nàng ngồi sau tấm rèm bên cửa sổ. Tiện đây cần nói rằng nàng bắt đầu nhìn mình trước khi mình nhàn nàng, rõ ràng là nàng quan tâm đến mình. Ở đây chẳng có gì đáng ngạc nhiên, cả phố biết vì sao mình ở đây, bà Dubonnais đã săn sóc cho việc mình cư ngụ nơi bà.

Cam đoan rằng mình không thuộc số những người rất đa tình, mình luôn thận trọng trong những mối quan hệ với phụ nữ. Khi mà người ta từ tỉnh lẻ tới Paris để học nghề y khoa và túi tiền vơi cạn thậm chí cũng không đủ để ít ra được ăn no một lần trong ba ngày thì đâu còn dám nghĩ tới tình yêu. Như vậy, mình không nổi trội về kinh nghiệm ái tình và lần này, có lẽ, mình đã xử sự thật quá ngốc nghếch. Dù thế nào đi nữa thì nàng khiến mình bởi vì nàng đúng là con người như thế. Lúc đầu mình đâu có dám nghĩ đến việc gây dựng quan hệ với cô nàng hàng xóm sống đối diện phòng mình. Mình quyết định là sống ở đây chỉ để tiến hành các quan sát; nhưng nếu là như vậy thì dù mình có muốn thì ở đây cũng chẳng có gì mà làm, thế cho nên mình liền bắt đầu quan sát cô hàng xóm. Người ta không thể nào mà cứ suốt ngày cắm cúi đọc sách chẳng dứt ra để ngẩng đầu lên. Hơn nữa, mình đã nói là có lẽ Clarimoda sống một mình trong căn phòng nhỏ ấy. Phòng có ba cửa sổ, nhưng nàng luôn luôn ngồi bên cánh cửa sổ đối diện cửa sổ phòng mình, nàng ngồi và kéo sợi nên cái xa quay sợi cổ xưa xinh xinh. Mình đã từng được thấy một cái xa quay sợi như thế ở nhà bà mình, nhưng bà không bao giờ sử dụng nó mà giữ gìn nó như một hoài niệm về một người thân nào đó của bà đã đi xa; thậm chí mình còn không biết là thời nay người ta dùng những cái xa quay sợi như thế. Cần nói thêm là cái xa quay sợi của Clarimoda nhỏ xinh và duyên dáng, màu cái xa ấy trắng hết và có lẽ nó được làm bằng ngà voi; có thể nàng xe những sợi chỉ cực thanh mảnh bằng cái xa quay sợi ấy. Nàng ngồi sau rèm cửa suốt ngày và làm việc không nghỉ, nàng chỉ ngừng việc khi trời đổ tối. Dĩ nhiên vào những ngày trời ảm đạm này thì ở trên phố mình ở chóng tối lắm, vào lúc năm giờ chiều là đã nhập nhoạng rồi. Nhưng chẳng bao giờ mình nhìn thấy ánh sáng đèn trong phòng nàng cả.

Vẻ ngoài của nàng thế nào nhỉ? Điều đó thì mình chẳng biết rõ ràng. Mái tóc đen của nàng vồng lên như sóng, còn khuôn mặt nàng nom rất xanh xao. Mũi nàng hẹp và nhỏ với đôi cánh mũi phập phồng, đôi môi nàng cũng lợt lạt và mình có cảm giác hàm răng nhỏ của nàng sắc như răng dã thú. trên đôi mí mắt có những vết quầng thâm, nhưng khi nàng ngước mắt nhìn lên thì cặp mắt to đen thẫm của nàng long lanh. Song mình cảm nhận tất cả những vẻ ấy có lẽ nhiều hơn là thực tế. Vì thực khó mà nhận ra cái gì đó rành rẽ sau tấm rèm buông.

Có một chi tiết. Nàng luôn luôn vận chiếc áo váy màu đen cao cổ có những chấm hạt đỗ màu tím nhạt. Nàng lúc nào cũng mang đôi găng tay dài màu đen, có thể nàng làm vậy do sợ hỏng đôi bàn tay vì công việc. Những ngón tay thanh mảnh và dài ấy thoăn thoắt lựa các sợi chỉ và kéo căng chúng gợi lên nơi mình một ấn tượng lạ lùng: nom chúng hệt như những con côn trùng nào đó có những cái cẳng dài.

Còn quan hệ giữa chúng mình với nhau thì sao đây? Phải thừa nhận rằng hiện thời những quan hệ ấy rất hời hợt, nhưng dẫu sao mình vẫn cảm thấy trên thực tế chúng sâu sắc hơn rất nhiều. Mọi sự bắt đầu từ việc nàng nhìn sang cửa sổ phòng mình và mình nhìn sang cửa sổ phòng nàng. Và có lẽ mình được nàng thích bởi vì có một đôi lần khi mình đi lại nhìn nàng thì nàng mỉm cười với mình, và tất nhiên mình mỉm cười đáp lại. Vậy là suốt hai ngày bọn mình mỉm cười với nhau nhiều hơn. Sau đó gần như cứ một tiếng mình lại quyết định cúi chào nàng, nhưng mỗi lần định như thế thì, một tình cảm vô thức nào đó lại bảo mình chớ có làm.

Cuối cùng thì mình cũng quyết định thực hiện ý định này: hôm nay sau bữa ăn trưa. Và Clarimoda đã đáp lại cái cúi chào của mình. Tất nhiên khó nhìn thấy vẻ gật đầu của nàng nhưng dù sao mình cũng nhìn thấy điều đó thật rõ.

Thứ Năm, ngày Mười tháng Ba.

Hôm qua mình đã ngồi lâu với đống sách vở. Mình không thể nói rằng mình đã học thật chuyên tâm. Không, mình đã xây những lâu đài cát và ước mơ về Clarimoda. Mình ngủ không yên giấc, nhưng mình đã ngủ quá giấc đến gần trưa.

Khi mình đến gần cửa sổ thì mình nom thấy Clarimoda. Mình chào nàng và nàng gật đầu đáp lại. Nàng mỉm cười và nhìn mình hồi lâu không rời mắt.

Mình muốn học, nhưng mình không thể tìm được sự yên tĩnh trong tâm. Mình ngồi bên cửa sổ và bắt đầu ngắm nàng. Lập tức mình thấy nàng cũng đặt hai bàn tay lên đầu gối. Mình bèn giật sợi dây để kéo tấm rèm sang bên. Nàng cũng làm y hệt như thế hầu như cùng một khoảnh khắc. Cả hai bọn mình đều cười và nhìn nhau.

Mình mường tượng cả hai ngồi như thế suốt cả một giờ.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Sau đó lại bắt tay vào việc xe chỉ của mình.

Thứ Bảy, ngày Mười hai tháng Ba.

Thời gian trôi nhanh quá. Mình ăn, uống và ngồi bên bàn viết. Hút xong một điếu tẩu, mình cắm cúi đọc sách. nhưng mình chẳng đọc được một dòng nào hết. Mình cố gắng tập trung, nhưng mình đã biết trước rằng việc đó chẳng dẫn đến đâu cả. Sau đó mình tiến lại cửa sổ. Mình gật đầu, Clarimoda đáp lại. Bọn mình mỉm cười với nhau không rời mắt suốt hàng giờ.

Hôm qua vào lúc sáu giờ chiều có một cảm giác lo âu choáng ngợp lấy mình. Trời đổ tối rất sớm và mình cảm thấy ghê sợ thế nào ấy. Mình ngối bên chiếc bàn viết và chờ đợi. Mình cảm thấy có một sức mạnh nào đó không thể cưỡng nổi hút mình lại cửa sổ, tất nhiên, mình không có ý định treo sổ đâu mà chỉ đơn thuần muốn nhìn Clarimoda. Cuối cùng mình nhảy ra khỏi ghế và nấp mình sau tấm rèm. Mình có cảm giác chưa bao giờ lại nhìn thấy nàng rõ ràng đến thế mặc dù trời đã khá tối rồi. Nàng vẫn đang xe sợi nhưng đôi mắt nàng đã hướng về mình. Cảm giác hạnh phúc tràn ngập trong lòng mình, nhưng đồng thời mình nếm trải một nỗi khiếp sợ mơ hồ.

Tiếng chuông điện thoại reo vang. Mình nổi cáu với lão chánh cẩm khó chịu này, người ta đã cắt đứt dòng suy tưởng của mình khỏi những phút mộng ảo kia bằng những câu hỏi xuẩn ngốc liên miên.

Sáng nay ông ta cùng bà Dubonnais đến phòng mình. Bà chủ rất hài lòng với mình, bà ta thấy hoàn toàn vui vẻ với việc mình đã sống hai tuần trong phòng số bảy. Song ngài chánh cẩm đòi hỏi có những kết quả cụ thể. Mình đã nói với ông ấy một số ngụ ý bí ẩn về việc mình đã lần ra một dấu vết rất lạ lùng và con lừa đó đã tin mình. Bất luận thế nào thì mình cũng sẽ còn sống ở đây lâu, và đấy chính là điều mong muốn duy nhất của mình. Nhưng mình mong ở đây không phải vì những món ăn và cái hầm rượu của bà Dubonnais, lạy Chúa, mình mau chóng trở nên thơ ơ tất cả những điều đó khi mà hàng ngày được ăn được uống đến no nê. Cái lý do chính chỉ là vì cái cửa sổ mà bà ta ghét cay ghét đắng và sợ hãi, nhưng mình lại yêu quý vì từ đó mình thấy được Clarimoda. Khi bật đèn phòng mình thì mình không còn nhìn thấy nàng nữa. Mình căng mắt để xem liệu nàng có ra khỏi nhà không, nhưng chưa bao giờ mình nom thấy nàng ngoài phố cả. Mình có một cái ghế bành tiện lợi và êm ái cùng một cái chao màu xanh là cây che ngọn đèn, và cái đèn ấy tỏa cho mình sự âm áp và tiện nghi. Ngài chánh cẩm đã mang cho mình một gói thuốc hút, chưa bao giờ mình được hút loại thuốc ngon như thế... Tuy nhiên mình cũng không thể học hành được cho dù có tất cả những thứ đó. Mình tự bắt mình phải đọc hết hai hay ba trang, nhưng sau đó trong đầu mình xuất hiện một ý nghĩ cho thấy mình chẳng hiểu chữ nào trong số những điều vừa đọc. Mắt mình ghi nhận các con chữ nhưng đầu óc mình chối bỏ tư duy. Thật lạ lùng! Cứ như trong đầu mình đã treo tấm khẩu hiệu: "Cấm vào" vậy. Cứ như trong đầu chỉ cho phép vào độc một ý nghĩ: Clarimoda.

Chủ nhật, ngày Mười ba tháng Ba.

Sáng hôm nay mình nhìn thấy một cảnh tượng nhỏ. Mình đi đi lại lại ngoài hành lang khi người hầu phòng đang dọn dẹp phòng mình. Trên khuôn cửa sổ bé trông ra sân có một cái mạng nhện, con nhện vườn béo mẫm đang ở giữa mạng. Bà Dubonnais không cho phép quét bỏ đi vì giống nhện mang vận may mắn tới, và nếu trong nhà không có nhện thì sẽ gặp điều kia xuôi xuống theo một sợi tơ, nhưng người yêu của nó giờ đây cũng làm theo cách đó. Cả hai con nhện rơi xuống bệ cửa sổ; con đực gắng hết sức bình sinh để thoát khỏi sự tróc nã. Nhưng muộn mất rồi, bạn tình của nó đã dùng những cặp cẳng mạnh khỏe quặp chặt lấy nó và kéo nó về giữa tấm mạng. Đó chính là nơi vừa mới hoan lạc của chúng, giờ trở thành nơi xử trảm. Thoạt đầu gã tình nhân kia toan kháng cự, nó nguều ngoào co giật những cái chân yếu mềm của nó nhằm cố thoát ra khỏi những gọng kìm ghê khiếp kia. Song cô bạn tình không nhả nó ra chút nào. Nó dùng tơ nhện quấn chặt con đực trong vài phút để nó không thể động cựa được dù chỉ một cái chân. Sau đó con cái dùng những gọng kìm bám chặt kia đè con đực và bắt đầu ngấu nghiến hút dòng máu tươi trẻ từ cơ thể gã bạn tình của nó. Mình đã nom thấy lúc cuối cùng con cái khinh bỉ hất ra khỏi tấm mạng nhện cái cục lầy nhầy méo mó kia gồm những cái cẳng và lớp da bị những sợi tơ quấn chặt.

Ái tình của những con côn trùng kia là như vậy đấy! Chà, mình rất mừng vì mình không phải là con nhện đực trẻ trung đó.

Thứ Hai, ngày Mười bốn tháng Ba.

Mình hoán toàn thôi không nhìn vào sách vở nữa. Suốt ngày mình ngồi bên cửa sổ. Thậm chí khi trời sập tối mình vẫn tiếp tục ngồi đó. Những lúc ấy mình không còn thấy nàng nhưng mình nhắm mắt lại và hình ảnh của nàng hiển hiện trước mắt.

Chà, trong nhật ký mình đã kể về bà Dubonnais, về ngài chánh cẩm, về hai con nhện và về nàng Clarimoda. Nhưng chưa có lời nào về những phát hiện mà mình phải có trong căn phòng này. Mình có lỗi trong việc ấy hay không nhỉ?

Thứ Ba, ngày Mười lăm tháng Ba.

Bọn mình đã nghĩ ra một cuộc chơi lạ lùng gồm Clarimoda và mình, và hai đứa mình chơi trò chơi ấy cả ngày. Mình gật đầu với nàng và nàng cũng đáp lại ngay bằng một cái gật đầu. Sau đó mình bắt đầu gõ các đầu ngón tay lên mặt kính; khi nàng vừa nhận ra điều đó là nàng thực hiện cũng hệt như thế ngay. Mình ra hiệu với nàng bằng tay, nàng cũng đáp như vậy; mình mấp máy môi như đang nói chuyện với nàng và nàng bắt chước ngay lập tức. Mình vuốt mái tóc lại đằng sau gáy và nàng cũng đưa tay lên trán tức thì. Những điều đó có vẻ hoàn toàn như con trẻ vậy, thế là cả hai bọn mình đều cười, mà chỉ khẽ mỉm cười, còn mình cũng có cảm giác mình cũng mỉm cười y hệt như thế.

Song tất thảy những điều đó tuyệt không đếm mức mù quáng, ngốc nghếch như đã có vẻ là vậy. Đó không phải là một sự bắt chước nhau một cách đơn thuần vì nếu vậy thì cả hai chúng mình sẽ mau chán lắm. Không, ở đây sức mạnh ái tình cùa các ý nghĩ giữ một vai trò tích cực. Sự thể là Clarimoda tức thời bắt chước cử động dù chỉ nhỏ nhoi nhất của mình: khi nàng vừa nhìn thấy điều mình làm thì nàng làm điều đó ngay tắp lự; đôi khi mình mường tượng thấy toàn bộ các cử động của nàng trùng đồng thời với các cử động của mình. Chính điều đó đã khiến mình thán phục vì mình luôn luôn thực hiện những gì mới mẻ, không lường trước, bởi vậy có thể thực sự sửng sốt khi thấy nàng nắm bắt tất cả thực nhanh. Đôi khi mình bỗng nảy ý định làm cho nàng bối rối. Mình làm vài cử động liên tiếp nhau, sau đó lặp lai lần nữa và lần nữa. Cuối cùng, đến lần thứ tư mình vẫn làm cùng điều đó nhưng theo trình tự khác hay cố ý bỏ sót một động tác nào đó và làm một cử động mới thay vào.

Việc đó tựa hồ trò chơi của trẻ con "Đàn chim bay". Và thực khó lòng tin được khi thấy Clarimoda không khi nào nhầm hết, mặc dù mình thực hiện các cử động ấy nhanh đến mức dường như không thể nào nắm bắt ngay được những cử động đó.

Suốt nhiều ngày trôi qua như thế. Nhưng chưa bao giờ mình có cảm nghĩ đang tiêu phí thì giờ, ngược lại, mình có cảm giác chưa bao giờ lại làm một công việc quan trọng hơn thế.

Thứ Tư, ngày Mười sáu tháng Ba.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Liệu có lạ lùng hay không khi mình chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ chuyển những mối quan hệ của mình với Clarimoda sang một cơ sở thực tế hơn chứ không chỉ giới hạn bằng tró chơi này? Đêm qua mình nghĩ lâu về điều này. Vì mình chỉ cần đội mũ, mặc áo bành tô rời tầng hai xuống đất. Chỉ cần đi năm bước qua phố và sau đó lại leo thang gác lên tầng hai. Trên cửa ra vào dĩ nhiên có treo tấm biển nhỏ có đề chữ "Clarimoda". Chà, cái tên Clarimoda, và sau đó là gì nữa? Mình không biết phải làm chính điều gì nữa, nhưng tên nàng Clarimoda được viết trên tấm biển cơ mà. Sau đó mình gõ cửa và...

Mình hình dung tất cả những điều ấy hoàn toàn rõ ràng, mình tưởng tượng thật rành rẽ, rõ ràng từng cử chỉ nhỏ nhất mà mình sẽ thực hiện. Thế nhưng mình không tài nào hình dung được điều gì sẽ xảy ra sau đó. Cánh cửa ra vào mở ra, điều này mình có thể tưởng tượng được. Nhưng mình dừng lại trước cửa và nhìn sâu vào bóng tối nơi mà mình không tài nào nhận thấy cái gì cả. Nàng không xuất hiện vì mình chẳng thấy gì hết, vả lại, nói chung thì ở đó chẳng có gì cả. Mình chỉ nhìn thấy bóng tối đen kịt.

Đôi khi mình có ý nghĩ rằng có lẽ chỉ tồn tại có nàng Clarimoda người mà mình nom thấy ở đó bên cửa sổ và đang cùng tham gia trò chơi với mình. Thậm chí mình không thể hình dung người đàn bà ấy sẽ có dáng vẻ thế nào khi đội mũ hoặc vận chiếc áo váy khác chứ không phải bộ áo váy điểm các chấm màu tím nhạt; mình không tài nào tưởng tượng được ra nàng khi chẳng có đôi găng tay màu đen ấy. Nếu như mình có gặp nàng ngoài phố hay khi nàng đang ăn hay uống trong tiệm, hoặc đơn thuần khi nàng đang tán gẫu, không, thậm chí nghĩ đến điều đó cũng thật nực cười rồi, mình không thể hình dung bức tranh ấy đến mức như vậy được.

Thảng hoặc mình tự hỏi xem mình có yêu nàng không. Mình không thể trả lời điều này được vì mình đã được yêu bao giờ đâu. Nhưng nếu cái tình cảm mà mình đang trải nghiệm với Clarimoda thực tế là tình yêu thì đây là cái gì đó hoàn toàn khác những gì mình đã biết nơi bạn bè hay mình đã đọc trong tiểu thuyết.

Mình quả là khó hiểu rõ những cảm giác của chính mình. Nói chung là khó suy nghĩ về một lý do gì đấy không liên quan trực tiếp đến Clarimoda, hay đúng hơn, đến trò chơi của bọn mình. Bởi không thể phủ nhận rằng thực chất trò chơi này là choán hết tâm khảm mình chứ không phải điểu gì khác. Và dù thế nào đi chăng nữa, mình hiểu ra cái lý do ấy.

Ôi nàng Clarimoda... Ôi chao, tất nhiên nàng quyến rũ mình phải khao khát nàng. Nhưng có một cảm giác khác hòa lẫn với điều đó, dường như mình sợ hãi một điều gì đấy. Mình sợ chăng? Không, không phải thế, đó có thể là sự ngượng ngùng, với mình thì nỗi hoảng sợ mơ hồ trước một cái gì đó vẫn chưa hề rõ rệt. Nhưng chính cái nỗi hoảng sợ ấy lại là cái gì đó đè nén, một cảm giác gì đấy ngọt ngào, nhưng nó không cho phép mình tiếp cận nàng. Mình cảm thấy dường như mình đang chạy quanh nàng trong một cái vòng rộng, thỉnh thoảng đến gần nàng, sau đó lại chạy xa khỏi nàng. lao tới một nơi khác, lại tới gần và lại chạy xa. Nhưng rốt cuộc, mình tin chắc như vậy, muốn gì thì gì mình cũng chẳng hề tiếp cận được với nàng.

Clarimoda ngồi bên cửa sổ và xe chỉ. Nàng xe những sợi chỉ dài, mảnh, mảnh vô cùng.

Từ những sợi chỉ ấy nàng sẽ dệt nên tấm vải. Không biết cái gì sẽ được làm nên từ vải đó. Mình thậm chí không hiểu làm sao nàng có thể dệt được vải từ những sợi chỉ mỏng mảnh êm ái đó mà không làm rối tung và làm đứt. Trên tấm vải nàng dệt sẽ có những hoa văn kỳ ảo, những con thú cổ tích và những khuôn mặt kỳ lạ.

Ồ; mình đang viết gì nhỉ? Thì đúng là mình cũng không thấy nàng đang xe cái gì vì những sợi chỉ của nàng quá mỏng mảnh. Tuy nhiên mình cảm nhận rằng công việc của nàng chính là việc mà mình đang hình dung khi mình nhắm mắt lại. Chính là công việc đó. Một cái lưới lớn với nhiều hình nơi ấy: những con thú cổ tích với bao khuôn mặt thực kỳ lạ.

Thứ Năm, ngày Mười bảy tháng Ba.

Mình có một trạng thái lạ lùng. Hầu như mình chẳng nói chuyện với ai, thậm chí cả với bà Dubonnais nữa, với người hấu phòng thì mình chỉ chào hỏi qua loa. Ngay thời gian dành để ăn cũng phải dè xẻn vì mình chỉ muốn ngồi bên cửa sổ và tiếp tục trò chơi với nàng. Trò chơi đó gây hưng phấn, thực vậy, nó kích thích mình.

Và lúc nào mình cũng có cảm giác dường như ngày mai phải có một điều gì đó sẽ xảy ra.

Thứ Sáu, ngày Mười tám tháng Ba.

Đúng, đúng, hôm nay phải xảy ra một cái gì đó. Mình tự nhắc lại thật to để nghe thấy giọng nói của mình. Mình tự nhủ rằng mình ở đây chỉ là vì việc đó. Nhưng sự thể tồi tệ hơn cả là việc mình thấy hoảng sợ. Đó là nỗi sợ cái điều có thể xảy ra với mình chính là những gì đã xảy đến với những kẻ xấu số ở đây từ trước tại căn phòng này, nó hòa trộn với nỗi kinh sợ trước nàng Clarimoda. Mình không thể tách biệt được nỗi sợ này với nỗi sợ kia nữa.

Mình thấy hoảng hốt, mình những muốn kêu lên.

Sáu giờ chiều.

Lúc đầu là đôi lời, sau đó mình sẽ cầm lấy mũ và áo bành tô.

Khi đồng hồ điểm năm giờ, sức lực mình đã cạn. Ồ;, giờ đây mình biết rõ là có một điều đặc biệt nào đó vào sáu giờ của ngày trước ngày cuối trong tuần. Bây giờ mình đã không còn cười nhạo cái câu chuyện đùa cợt mà mình đã nghĩ ra để phỉnh ngài chánh cẩm nữa. Mình ngồi trong ghế bành và hết sức bình sinh cố gắng không rời khỏi ghế. Nhưng mình bị thu hút, bị giật ra tới cửa sổ. Mình muốn được chơi đùa với Clarimoda bằng bất kỳ giá nào, nhưng nỗi kinh hoàng trước cái cửa sổ đã len lỏi tới. Mình cũng thấy người Thụy Sỹ, vóc dáng to lớn với cái cổ mập béo và chòm râu bạc. Mình cũng thấy tay nghệ sĩ dáng cân đối và ông trung sĩ vạm vỡ, khỏe mạnh. Mình đã nom thấy cả ba người, người này tiếp sau người kia treo cổ trên cửa sổ dưới chính cái móc kia, mồm họ há hốc và những cái lưỡi thè dài ra. Rồi sau đó mình cũng nhìn thấy chính mình bên cạnh họ.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Ôi, thật kinh khủng! Mình cảm thấy nỗi kinh hoàng choáng ngợp trước cái thanh ngang cửa sổ và cái móc ghê khiếp kia cũng như trước nàng Clarimoda. Nàng hãy tha thứ cho mình, nhưng mọi sự là như thế, trong nỗi kinh hoàng khốn khổ của mình lúc nào hình ảnh nàng cũng lên đến cùng với hình ảnh ba con người bất hạnh bị chết treo, chân họ thõng quệt xuống sàn.

Sự thật là chẳng có khoảnh khắc nào lại xuất hiện sự mong muốn tự treo cổ nơi mình cả; vì thế nên mình không sợ mình sẽ làm điều đó. Không, đơn thuần là mình sợ một cái gì đó khủng khiếp, vô định mà chắc phải xảy ra. Nơi mình có một nỗi ước mong khát khao khó cưỡng được là đứng dậy và tiến lại chổ cửa sổ bất chấp tất cả. Và chính mình đã muốn làm điều đó...

Vừa khi ấy điện thoại réo vang. Mình nhấc ống nghe, và chẳng hề nghe thấy những gì người ta nói, mình liền kêu to: "Xin hãy đến ngay! Đến ngay bây giờ!".

Dường như tiếng kêu thất thanh ấy đã xua tan mọi bóng đen khủng khiếp trong mình ở một khoảnh khắc. Mình thấy yên tâm trong một phút giây ngắn ngủi. Mình lau mồ hôi rịn ra trên trán và uống hết cốc nước, đoạn bắt đầu suy tính xem cần nói gì với ngài chánh cẩm khi ông ta tới. Cuối cùng mình lại cửa sổ, gật đầu và mỉm cười.

Cả Clarimoda cũng gật đầu đáp lại. Năm phút sau ngài chánh cẩm đã có mặt trong phòng. Mình bảo ông ta rằng đã dò ra được dấu vết đích thực. Nhưng hôm nay ông phải chiều mình đừng gặn hỏi gì hết, mình sẽ kể ông ấy nghe vào thời gian gần nhất. Cái dáng tức cười nhất là ở chổ khi mình bịa ra điều đó thì mình đã tin tưởng chắc chắn là mình nói sự thật. Và bây giờ đây thì có lẽ mình thấy điều đó là trái với lương tâm mình.

Hoàn toàn có thể ông ta đã nhận ra trạng thái tâm thần lạ lùng của mình, và đặc biệt khi mình thấy khó khăn trong việc giải thích tiếng kêu trong điện thoại và toan tính một cách phí công muốn thoát ra khỏi cảnh huống khó khăn này. Ông ta chỉ nói với mình rất nhả nhặn để mình không bối rối trước ông ta vì ông hoàn toàn phục tùng mình, bổn phận của ông ta là như thế. Ông ta cứ đến một cách vô ích mười hai lần thì tốt hơn là cứ bắt mình phải đợi khi ông thấy có nhu cầu cần đến. Sau đó ông ta mời mình đi cùng ông vào buổi tối hôm ấy để nguôi ngoai đi phần nào vì cứ ở một mình lâu trong phòng thì chẳng khỏe khoắn chút nào. Mình nhận lời mời của ông mặc dù mình thấy điều này là rất khó chịu, thế là mình chẳng thích thú gì phải chia tay với căn phòng mình bây giờ.

Thứ Bảy, ngày Mười chín tháng Ba.

Mình và ngài chánh cẩm đã ghé quán "Gaite Rochehouart", sau đó đến "Cigale" và "Lune Rousse". Ngài chành cẩm nói đúng: với mình quả thật rất có ích khi được ra hít bầu không khí trong lành và mới mẻ. Lúc đầu mình có cảm giác khó chịu, dường như mình là một kẻ đào ngũ, trốn chạy là cái cớ của mình. Nhưng rồi sau đó cái cãm giác đó trôi qua: ngài chánh cẩm và mình đã uống nhiều, cười rồi tán gẫu.

Sáng nay khi bước tới cửa sổ, mình nhìn thấy Clarimoda và mường tượng rằng mình đã đọc được sự trách móc trong cái nhìn của nàng. Nhưng có thể đó là sự tưởng tượng của mình thôi vì thực ra làm sao nàng biết được việc mình chiều qua đi vắng? Vả lại mình chỉ cảm nhận thấy điều đó trong một khoảnh khắc, rồi sau đó lại nhận ra nụ cười nơi nàng.

Bọn mình đã theo cuộc chơi cả ngày.

Chủ nhật, ngày Hai mươi tháng Ba.

Chỉ có hôm nay mình mới viết được vì bọn mình chơi suốt ngày hôm qua.

Thứ Hai, ngày Hai mươi mốt tháng Ba.

Hai đứa mình chơi cả ngày.

Thứ Ba, ngày Hai mươi hai tháng Ba.

Vâng, hôm nay bọn mình vẫn tiếp tục việc thường ngày. Không có gì khác cả. Đôi khi mình tự hỏi: thực sự mình đang làm điều đó để làm gì? Hoặc: điều này sẽ dẫn đến cái gì, bằng việc ấy mình muốn đạt được điều gì đây? Nhưng chưa có khi nào mình trả lời những câu hỏi ấy bởi vì mình không hề muốn gì khác ngoài chỉ một điều mà thôi. Và điều phải xảy ra chính là cái mà mình đang khao khát.

Vào những ngày khi bọn mình nói chuyện với nhau, tất nhiên không hề phát âm một lời nào cả. Đôi khi hai đứa mấp máy môi, nhưng phần lớn thời gian bọn mình chỉ nhìn ngắm nhau. Nhưng cả hai đứa rất hiểu nhau.

Mình đã đúng: Clarimoda đã quở trách vì việc mình bỏ đi vào thứ Sáu tuần trước. Thế là mình xin lỗi và bảo rằng về phía mình như thế thật ngốc nghếch và tồi tệ. Nàng tha lỗi và mình hứa sẽ không đi chơi vào thứ Sáu tới nữa. Rồi bọn mình hôn nhau, áp chặt đôi môi vào cửa kính.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Thứ Tư, ngày Hai mươi ba tháng Ba.

Giờ đây mình đã hiểu là mình đang yêu nàng. Đúng, đúng là như vậy vì mình đã phải lòng nàng say đắm. Cứ để cho mọi người khác nghĩ tình yêu phải là cái gì khác hơn thế cơ. Nhưng chẳng lẽ lại có một cái đầu, một cái tai, một cánh tay lại giống hệt nhau ở hàng nghìn người chăng? Tất thảy mọi người đều khác nhau, bởi vậy tình yêu cũng luôn luôn chẳng giống nhau ở từng người. Thật ra mình biết tình yêu của mình hoàn toàn đặc biệt. Nhưng chẳng nhẽ vì thế mà cuộc tình này kém nồng cháy và tươi đẹp hơn sao? Mình hầu như hoàn toàn hạnh phúc trong tình yêu của mình.

Giá như chẳng có nỗi kinh sợ như thế! Đôi khi nỗi sợ ấy ngủ thiếp đi và lúc đó mình quên nó đi. nhưng điều này diễn ra chỉ vài phút thôi, sau đó nỗi sợ lại bừng tỉnh trong mình như một con chuột nhắt đáng thương đang tranh đấu với con rắn đẹp đẽ to lớn nhằm thoát ra một cách vô vọng khỏi những cái vòng quấn chặt chẽ. Bày hỡi nỗi sợ nhỏ nhoi ngu xuẩn kia, mi hãy cứ đợi, chẳng bao lâu tình yêu vĩ đại sẽ nuốt chửng mi.

Thứ Năm, ngày Hai mươi bốn tháng Ba.

Mình vừa có một phát hiện;không phải mình đang chơi với Clarimonda mà nàng đang chơi với mình.

Phát hiện đó nảy sinh thế này.

Hôm qua mình cứ nghĩ như mọi khi về cuộc chơi của bọn mình. Và mình đã viết ra năm loạt cử động mới khác nhau mà mình dự định dùng để khiến nàng ngạc nhiên vào hôm sau, mỗi động tác được đánh số nhất định. Mình đã luyện tập các cử động này để sau đó thực hiện nhanh hơn, lúc đầu sẽ theo trình tự thuận, sau đó sẽ theo trật tự ngược lại. việc làm đó rất khó, nhưng nó đem tới cho mình một nỗi khoan khoái cực lớn, điều này tựa hồ đã làm cho mình gần gũi với Clarimonda thậm chí cả vào những giây phút mình không nhìn thấy nàng. Mình luyện các động tác đó suốt nhiều giờ, cuối cùng mọi sự đã thuần thục như cháo chảy.

Và sáng nay mình đến gần cửa sổ. Bọn mình chào nhau và sau đó trò chơi bắt đầu. Thực là khó tin khi thấy nàng hiểu mình thật nhanh và bắt chước mình ngay lập tức.

Vào phút ấy có ai gõ cửa; đó là người hầu phòng mang đôi ủng vào cho mình. Sau khi nhận đôi ủng và trở lại chổ cửa sổ, mình ngẫu nhiên nhìn vào tờ giấy ghi các động tác mình đã luyện tập. Và ngay khi ấy mình đã hiểu rằng khi nãy đứng trước cửa sổ mình chẳng thực hiện bất kỳ động tác đã ghi nào hết.

Mình lảo đảo, vịn tay vào lưng ghế bành và thả mình xuống ghế. Mình không tin là như vậy, thế là mình lại nhìn vào những dòng ghi trên tờ giấy. Nhưng đó là sự thật: ban nạy, trước cửa sổ mình đã thực hiện cả loạt động tác, nhưng không có động tác nào là của mình hết.

Và nơi mình lại xuất hiện cái cảm giác ấy: cánh cửa, cánh cửa phòng nàng mở rộng. Mình đứng trước cánh cửa mở toang và nhìn: chẳng nhìn thấy gì hết trừ bóng tối mịt mùng dày đặc. Khi ấy mình đã thấy rõ một điều: nếu bây giờ mình bỏ đi thì sẽ được cứu thoát; và mình cảm thấy giờ đây mình có thể ra đi được.

Paris đã tỏ ra mạnh hơn nàng Clarimonda trong một khoảnh khắc.

Chà, giờ đây mình hoàn toàn chẳng nghĩ gì về điều đó nữa. Lúc này mình chỉ cảm nhận độc tình yêu của mình và nỗi sợ êm đềm sung sướng với nàng.

Nhưng vào thời khắc ấy, nỗi sợ này đã tiếp thêm cho mình sức mạnh. Mình đọc lại lần nữa bản ghi chép các động tác và cố gắng ghi nhớ chúng. Sau đó mình lại gần cửa sổ.

Giờ mình hoàn toàn hiểu rõ: mình đã không làm một động tác nào trong số những gì mình muốn làm.

Khi ấy mình quyết định lấy ngón tay trỏ để xoa mũi nhưng mình lại hôn cửa kính thay vì điều đó. Mình muốn gõ vào kính nhưng thay vì làm thế mình lại dùng tay xoa mái tóc. Vậy giờ đây mình đã thấy rõ: không phải Clarimonda bắt chước cái mình làm, mà ngược lại, mình bắt chước nàng. Và mình thực hiện những cái đó nhanh như chớp đến nỗi mình có ấn tượng dường như quyền chủ động xuất phát từ chính mình.

Còn mình vốn tự hào là có ảnh hưởng tới nàng, thì ngược lại mình lại chịu ảnh hưởng của nàng. Tuy nhiên, ảnh hưởng đó êm ái và trìu mến đến mức mình đã suy nghĩ rằng trên thế gian này chẳng có gì tốt đẹp như thế.

Mình còn tiến hành vài thử nghiệm nữa. Mình đút cả hai tay vào hai túi quần và quyết tâm không cử động; mình đứng và chăm chú dõi theo nàng. Mình thấy nàng giơ tay lên, nàng cười và nhẹ nhẹ dứ ngón tay trỏ dọa mình. Mình không động đậy. Mình cảm thấy tay phải cứ muốn thoát ra khỏi túi quần, nhưng mình áp chặt các ngón tay vào lớp vải lót. Sau đấy chầm chậm, chầm chậm sau vài phút, các ngón tay rời ra, thế là mình rút tay ra khỏi túi và giơ lên. Rồi mình mỉm cười và cũng dứ ngón tay dọa nàng. Mình cảm thấy không phải mình làm điều đó mà là một kẻ nào khác, cái kẻ mà mình đang theo dõi. Không, không, không phải là như vậy. Chính mình, mình đã làm việc đó, còn kẻ nào khác kia chính là gã đầy sức mạnh đã mong muốn có một phát hiện vĩ đại, nhưng đó không phải là mình đâu.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Mình, mình có thiết gì những phát hiện như thế đâu, mình ở đây là để làm theo ý chí của nàng Clarimonda, người mà mình đang yêu trong nỗi sợ ngọt ngào.

Thứ Sáu, ngày Hai mươi lăm tháng Ba.

Mình đã cắt đứt dây điện thoại. Mình không muốn ngài chánh cẩm xuẩn ngốc ấy quấy rầy mình bất cứ phút nào, vả lại mình làm việc đó vào đúng cái lúc giờ khắc khủng khiếp đó đã đến.

Trời ơi, mình viết tất cả những điều này để làm gì chứ? Trong toàn bộ những điều đó không có lời nào là sự thật. Mình có cảm giác như ai đó điều khiển cây bút của mình.

Nhưng mình muốn, rất muốn ghi lại những gì đang xảy ra với mình. Để làm được điều này mình phải hết sức tập trung ý chí. Nhưng mình sẽ làm được việc đó. Chỉ còn có một lần để làm điều mà mình mong muốn...

Mình đã cắt đứt dây điện thoại... chà! Mình đã phải làm việc đó! Thế đấy! Cuối cùng đã xong!Vì mình phải, phải làm.

Hôm nay hai đứa đứng bên cửa sổ và chơi. Từ ngày hôm qua cuộc chơi của bọn mình đã thay đổi tính chất. Nàng thực hiện một cử động nào đó, còn mình cưỡng lại đến chừng nào có thể được. Nàng thực hiện một cử động nào đó, còn mình cưỡng lại đến chừng nào có thể được. Hiện thời mình không chịu thua vẻ yếu ớt không tuân phục những gì mà nàng muốn. Và mình không thể diễn tả được cái niềm hoan lạc đến thế nào khi nhận thức mình đã thua, đã chiến bại, cái niềm hạnh phúc đến thế nào khi mình phài tòng phục ý chí của nàng.

Bọn mình đã tiếp tục cuộc chơi. Sau đó bỗng nhiên nàng đứng dậy và đi sâu trong phòng. Phòng nàng tối đến nỗi mình không còn nom thấy nàng nữa, dường như nàng đã tan ra trong bóng tối. Nhưng sau đó nàng lại xuất hiện bên cửa sổ, trong tay giữ một cái máy điện thoại để bàn hoàn toàn giống cái điện thoại đặt trong phòng mình. Nàng mỉm cười để cái điện thoại trên bậu cửa, đoạn lấy con dao và cắt đứt sợi dây và lại cất điện thoại đi.

Mình đã cưỡng lại nàng suốt mười lăm phút. Nỗi sợ của mình nặng hơn trước đây, nhưng chính thế khiến cho việc cảm nhận mình bị lệ thuộc, chèn ép trở nên ngọt ngào hơn nữa. Cuối cùng, mình lấy cái máy điện thoại ra, đặt nó lên cửa sổ, cắt đứt dây nối và lại để nó lên bàn.

Điều đó đã xảy ra như vậy.

Mình ngồi sau bàn viết, mình uống ly trà, người hầ phòng vừa mang cốc tách đi. Mình đã hỏi anh ta mấy giờ rồi vì đồng hồ của mình chạy sai. Năm giờ mười lăm, đúng năm giờ mười lăm.

Mình chỉ cần mình ngẩng đầu là Clarimonda sẽ làm động tác gì đó. Nàng sẽ làm một cử chỉ nào đó mà mình cũng sẽ phải làm theo.

Và dẫu sao mình cũng đã ngẩng đầu lên. Nàng đứng nơi cửa sổ và cười. Bây giờ, giá như mình có thể ngoảnh mặt đi, giờ nàng đã tiến lại gần cái rèm cửa sổ. Nàng tháo sợi dây, sợi dây màu đỏ giống hệt sợi dây rèm cửa sổ phòng mình. Nàng quấn thành cái thòng lọng. Nàng quấn sợi dây vào cái móc trên thanh ngang cửa.

Sau đó nàng mỉm cười và ngồi xuống.

Không, cái mà mình cảm nhận không phải là nỗi sợ. Đó là nỗi kinh hoàng lạnh lùng, tê tái mà dẫu sao mình sẽ chẳng đồng ý đổi lấy bất cứ cái gì trên thế gian này. Ấy là một sự nô dịch, cưỡng ép kỳ lạ nào đó, nhưng đồng thời trong nỗi kinh hoàng không gì chế ngự được ấy tiềm tàng một khoái cảm vô cùng độc đáo.

Mình rất có thể chạy lại gần cửa sổ và làm ngay cái mà nàng muốn, nhưng mình chờ đợi vì trong tâm khảm mình đang diễn ra cuộc tranh đấu, mình đang cưỡng lại. Mình cảm thấy từng phút một trôi qua là cái sức mạnh kia càng trở nên không thể cưỡng chống được mạnh hơn nữa.

Ồ;, giờ đây mình lại ngồi bên bàn. Mình đã nhanh chóng chạy lại cửa sổ và thực hiện cái điều mà nàng mong đợi ở mình: lấy sợi dây ra, làm một cái thòng lọng và treo nó lên móc.

Bây giờ mình sẽ không đứng dậy nữa, bây giờ mình sẽ chỉ nhìn xuống tờ giấy thôi. Mình hiểu rõ việc nàng sẽ làm nếu mình chỉ cần nhìn vào nàng vào giờ thứ sáu ngày trước ngày cuối cùng trong tuần đó. Nếu mình nhìn nàng thì mình sẽ phải làm theo điều nàng muốn, khi đó mình sẽ phải...

1 2 3 4 5 6 7 8 9

--------------------------------------------------------------------------------

Con Nhện Dịch Giả: Nguyễn Chiến

Mình sẽ không nhìn nàng.

Lúc này mình cất tiếng cười vang. Không, mình không cười, ấy là cái gì đó trong con người mình cất tiếng cười. Mình biết cười cái gì: nó cười nhạo cái "mình không muốn" của chính mình.

Mình không muốn, nhưng dù sao có lẽ cũng biết là phải làm việc đó. Nhưng mình phải nhìn nàng, phải, phải làm việc ấy... và sau đó là những gì còn lại.

Mình chỉ chờ đợi để kéo dài nỗi cực hình đau đớn, những nỗi đau khổ mà vì nó mình nín thở, mà đồng thời đem lại khoái lạc vô biên. Mình viết và cứ viết để ngồi lâu hơn bên bàn, để kéo dài những thời khắc đau khổ này, những nỗi thống khổ làm gia tăng hạnh phúc tình yêu của mình đến vô tận...

Thêm chút nữa, còn chút nữa...

Lại nỗi kinh sợ ấy, lại lần nữa! Mình biết mình sẽ nhìn nàng, sẽ đứng dậy, sẽ đưa cổ vào cái thòng lọng, nhưng mình sợ không phải điều đó. Ồ; không, điều đó thật đẹp đẽ, điều đó thật tuyệt vời.

Nhưng có một cái gì đó, cái gì đó khác lạ... cái đều đó sẽ xảy ra sau đó. Mình không biết đó là điều gì, nhưng chắc chắn sẽ xảy ra bởi vì hạnh pháu của những nỗi đau nơi mình thật vô cùng vĩ đại. Phải, mình có cảm giác, cảm giác là tiếp theo sau chuyện này sẽ xảy ra một cái gì đó thật khủng khiếp.

Chỉ cốt sao đừng nghĩ đến...

Phải viết ra bất cứ cái gì nảy ra trong đầu, cho dù là gì cũng được. Chỉ cần nhanh hơn nữa, không cần suy nghĩ...

Tên của mình là Richard Brakemon, Richard Brakemon, Richard... Trời, mình không thể viết hơn... Richard Brakemon... Richard Brakemon... bây giờ... bây giờ... mình phải nhìn nàng đã... Richard Brakemon... mình phải... chưa... Richard... Richard Brake...

Ngài chánh cẩm khu vực số chín đã không thể nghe được tiếng đáp lại sau nhiều lần ông ta quay số gọi điện thoại. Thế là ngài tới khách sạn "Stevence" lúc sáu gời năm phút. Trong căn phòng số bảy ông nhìn thấy chàng sinh viên Richard Brakemon đã chết treo dưới thanh ngang cửa sổ hoàn toàn giống như cái cảnh huống của ba kẻ xấu số trước đây đã thắt cổ tự vẫn trong căn phòng này.

Chỉ có điều là trên khuôn mặt chàng đọng lại cái vẻ mặt khác: nét mặt chàng bị biến dạng méo mó với một nỗi kinh hoàng, hai mắt chàng mở to trừng trừng và hầu như lồi ra hố mắt. Đôi môi chàng tòe ra, nhưng hai hàm răng chàng cắn chặt vào nhau.

Và giữa hai hàm răng ngậm chặt ấy là một con nhện đen to kềnh với những nốt lấm chấm màu tím nhạt lạ lùng bị xiết bẹp.

Trên bàn là cuốn nhật ký của chàng sinh viên. Ngài chánh cẩm đã đọc tất cả và sau đó lần xuống gác đi sang ngôi nhà bên dãy đối diện. Ở đó ngài chánh cẩm đã xác nhận rằng suốt vài tháng nay tầng hai ngôi nhà đó trống không chẳng một ai ở trọ cả.

1 2 3 4 5 6 7 8

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro