Chum truyen ngan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Anh không có lỗi

My Lan

Cu Trí mếu máo chạy từ ngoài ngõ về ôm chầm lấy mẹ, vừa khóc vừa kể lể :

Mẹ ơi, bọn thằng Hà nó gọi con là thằng "chí Phèo", hu hu hu. Chúng nó bảo con không phải là con của mẹ... hu hu hu,..

- Thôi nín đi, nín đi con, các bạn ấy đùa ấy mà, con không phải là con trai của mẹ thì là con ai cơ chứ?

Chúng nó bảo mẹ nhặt được con ở ngoài lò gạch ấy, hu hu hu... Con ứ thích tên là Trí đâu, ngày nào chúng nó cũng trêu con.

Ðể mai mẹ thưa cô giáo, cô sẽ phạt bạn nào hay trêu con. Thôi nín đi, con trai ngoan của mẹ nào, rửa mặt mũi chân tay rồi ăn cơm nhé!

- Vâng ạ!

Nhìn thằng bé ngoan ngoãn đi rửa mặt, chị băn khoăn tự hỏi : không biết sao bọn trẻ lại biết cu Trí không phảị là con đẻ của chị... và ai đã bịa ra cái tình tiết quái ác "nhặt được ở ngoài lò gạch" để trêu chọc thằng bé vậy?

Ðúng là cu Trí không phải là con đẻ của chị, nhưng không phải chị đã nhặt được nó ở ngoài lò gạch. Câu chuyện về thằng cu Trí là một trang bí mật trong cuộc đời chị mà cho tới nay chị vẫn giấu kín. Chị nghĩ đó là điều cần thiết để giữ trọn niềm hạnh phúc cho người chồng mà chị yêu quý suốt đời?

... Chị đã chờ đợi thuỷ chung suốt tám năm anh đi đánh Mỹ ở chiến trường miền Ðông Nam Bộ. Khi giải phóng miền Nam, anh trở về thì họ đã ở ngoài tuổi ba mươi và mới sinh con đầu lòng. Nhưng thật đau đớn, đứa con làm họ mong chờ với bao hy vọng lại chỉ là một quái thai!

Vì yêu thương chồng, không muốn anh phải đau khổ, thất vọng, chị đã đề nghị với các bác sĩ không cho ai biết sự thật phũ phàng đó. Cũng may là khi chị sinh con, anh đang làm nghĩa vụ quốc tế ở chiến trường Cam-pu-chia. Khi viết thư báo tin cho chồng, chị nói là do trở dạ lâu nên con bị ngạt không cứu được. Anh rất đau buồn, nhưng vẫn hy vọng rồi họ sẽ có đứa con như mong muốn. Vậy mà mãi đến bẩy năm sau khi anh chuyển ngành công tác tại một xí nghiệp gần nhà, chị mới sinh lần thứ hai. Lần này chị đã bốn mươi tuổi nên đẻ khó, phải mổ, nhưng hai anh chị đều rất vui mừng vì họ đã có một cậu con trai rất kháu, nặng những ba cân hai. Lúc ấy chị rất sung sướng, tưởng như mình là người hạnh phúc nhất trần gian!...

Rồi một hôm, cô bác sĩ sản khoa - người bạn thân nhất của chị - đến chào tạm biệt chị để đi công tác nước ngoài. Hai người bạn tri kỷ "dốc bầu tâm sự" rất vui vẻ , cởi mở và cô bác sĩ bảo :

- Mình nghĩ là cậu không nên đẻ nữa...

Chị cười rất tươi :

- Không đẻ nữa là thế nào, ông xã nhà mình đang gạ trong năm nay sẽ đẻ thêm cô con gái nữa đấy!

Thật trần đời có một người yêu quý con như anh ấy? Cậu biết không, anh ấy còn bảo, bây giờ nếu có ai đòi đổi thằng cu Trí lấy cục vàng nặng bằng nó, anh ấy cũng chả thèm! Ghê chưa? ừ kể có thêm một đứa con gái nữa cũng hay, nhưng riêng với cậu thì mình khuyên chân tình đấy, hãy nghe mình...

- Nhưng vì sao cơ chứ, hay là mình già rồi thì không nên đẻ nữa?

- Không, không hẳn là như vậy. Mình nói điều này chỉ mình cậu biết thôi, mà phải bình tĩnh đấy, có hứa không nào?

- Ôi, cậu làm mình hồi hộp đến chết đi được. ừ, thì xin hứa!

Lẽ ra không nên nói, nhưng vì mình sắp đi xa, nên không thể không nói với cậu. Thế cậu có biết vì sao lần đầu cậu sinh lại như vậy không?

- À có lẽ khi có thai mình ốm nên uống thuốc linh tinh....

- Cậu tin chắc như vậy ư? Không phải vậy đâu.

Các bác sĩ sau khi xét nghiệm đã kết luận, trường hợp của cậu là do chồng cậu bị nhiễm chất độc điôxin ở chiến trường miền Nam...

- Ôi! Thật vậy sao? Nhưng...

- Chắc cậu muốn nói về thằng cu Trí phải không?

- Ðúng vậy...

- Nó đâu phải con của cậu!

- Trời ơi! Lẽ nào nó không phải là con của tôi?

- Hôm ấy, các bác sĩ mổ cho cậu đã lấy ra một cái thai giống như lần trước, mình nhìn nó đã ngất xỉu đi vì sợ hãi...

Chị bỗng khóc nấc lên.

- Lẽ nào đời tôi lại bất hạnh đến thế nào? Vậy mà lần trước tôi cứ tưởng là lỗl tại mình... Trời ơi!.

Bình tĩnh lại đi, cậu đã hứa rồi cơ mà!

Vậy thì thằng bé ấy ở đâu ra?

- Ðêm hôm trước có một cô gái trẻ đến bệnh viện một mình. Ðẻ xong cô ta được đưa về phòng sản phụ, còn đứa con trai đưa sang phòng nhi theo quy định của Viện. Sáng hôm sau đến giờ cho con bú thì không thấy cô ta đâu nữa, chỉ thấy dưới gối một mảnh giấy vỏ bao thuốc lá ghi mấy chứ : "Em lỡ lầm, không có điều kiện nuôi con. Xin các bác sĩ cứu giúp cháu bé , em xin chịu ơn suốt đời...". Các bác sĩ đã biết rõ hoàn cảnh của cậu và yêu cầu mọi người hãy giữ kín chuyện này. Sự thật là như vậy. Ðến hôm nay, đã hơn một năm trôi qua rồi, mọi sự đều tốt đẹp gia đình cậu sống hạnh phúc. Vậy là tốt lắm. Những người thầy thuốc cũng chỉ mong có thế. Mình chỉ muốn khuyên cậu phải chú ý dùng biện pháp, đừng có thai nữa bởi vì cậu sẽ không bao giờ có được một đứa con nguyên vẹn với anh ấy đâu. Nói ra với cậu điều này thật tàn nhẫn, nhưng đó là lương tâm, là trách nhiệm người thầy thuốc để tránh cho cậu nỗi đau khổ. Hãy hiểu cho mình, mình chỉ muốn mọi điều tốt đẹp cho cậu thôi!

Mình hiểu và rất biết ơn cậu và các bác sĩ đã làm việc đó... Chỉ có điều xin đừng ai tiết lộ cho anh ấy biết, một mình mình đau khổ là đã đủ rồi...

Chị đã hết sức gắng gượng để không đổ sụp xuống trước sự thực đau đớn này. Chị hiểu rằng, hạnh phúc hôm nay chị có được là nhờ tấm lòng nhân hậu của những người thầy thuốc, chị phải ra sức vun đắp cho cái gia đình nhỏ của mình luôn được vui vẻ đầm ấm.

Anh tỏ ra mãn nguyện vì có đứa con trai khôi ngô, khoẻ mạnh mà anh yêu quý nó hơn mọi thứ ở trên đời. Mỗi khi rảnh việc, anh thường "kiệu" cu Trí trên vai đưa nó đi chơi quanh xóm. Hễ ai khen thằng bé khoẻ, đẹp trai như tranh, anh lại cười nói vui :

Khoẻ như con nhà lính mà lại! Tớ là tớ bác bỏ cái thuyết "cha già con cọc" của thiên hạ đấy!

Suốt mấy chục năm chinh chiến, cuộc đời anh phải trải qua bao gian nan, vất vả, giờ được về công tác gần nhà, quấn quýt bên vợ con và bằng lòng với những gì anh đang có trong tay. Hạnh phúc của người lính thật là giản dị. Anh chẳng còn mong gì hơn thế? Và cuộc sống cứ bình lặng trôi qua theo năm tháng. Ðôi khi chị cứ lẩn thẩn tự hỏi : Có phải là chị đã lừa dối anh, như lần đầu chị giấu anh sự thật về đứa con không nên người - lần ấy chị vẫn tưởng là lỗi tại chị. Còn lần thứ hai phải mổ nên chị không biết về sự thật, chỉ biết là khi tỉnh dậy, các bác sĩ đã báo cho chị biết đã sinh con trai! Chị đâu có ngờ chiến tranh đã cướp đi vĩnh viễn của anh cái khả năng và hạnh phúc làm cha của những đứa con bình thường. Hiểu theo một kiểu nào đó thì đúng là anh đã sống yên vui hạnh phúc trong sự day dứt của chị. Nhưng rồi sẽ có một ngày nào đó, sự bí mật này được khám phá và anh sẽ đau khổ như thế nào? Cái gia đình bé nhỏ này sẽ ra sao? Trên đời này liệu có bí mật nào chôn vùi mãi mãi được không? Chị luôn ám ảnh bởi mặc cảm rằng chị đã lừa dối chồng, nhưng chị không thể nói lên sự thật đau lòng đó, vì chị rất yêu anh. Trong tâm trạng ấy, chị càng ra sức vun vén và càng nỗ lực có thể của mình để anh luôn cảm thấy sự ngọt ngào của hạnh phúc, cho dù chị phải chịu muôn vàn đắng cay âm thầm. Ôi, giá như anh biết được rằng chị yêu anh đến chừng nào!

"... Ai gây nỗi bất hạnh này? Em không oán trách anh đâu, em hiểu rằng anh không có lỗi, mà chính là tội ác của chiến tranh!

... Nếu người có thể gọi đó là sự lừa dối thì em đã lừa dối anh, hãy tha thứ cho em! Em không phải là kẻ lừa dối. Tất cả chỉ vì em yêu anh!...."

Ðã bao lần chị thầm nghĩ như vậy khi nép mình trong vòng tay âu yếm của anh!

Anh phải sống

Khái Hưng & nhất Linh

Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ.

Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.

Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô trôi từ rừng về nổi lềnh bềnh, như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ không bến.

Ðứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:

- Gió to quá mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ!

Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng đứng dừng lại, hỏi vợ:

- Mình thổi cơm chưa?

Vợ buồn rầu đáp:

- Ðã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.

Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.

Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:

- Liều!

Vợ lắc đầu không nói. Chồng hỏi:

- Mình đã đến nhà bà Kí chưa?

- Ðã.

- Thế nào?

- Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước.

- Thế à?

Hai chữ "thế à" rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên tường đương xây: Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ:

- Này! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.

- Ðã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.

- Nhưng mình về thì vẫn hơn, cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó.

- Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về chứ đứng đây làm gì?

- Ðược, cứ về trước đi, tôi về sau.

Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.

Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng dừng lại ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.

Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đương cùng khóc lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.

Cái Nhớn vỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:

- Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.

Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chửi vừa kêu.

Chị phó Thức chạy vội ẵm con, nói nựng:

- Nao ôi! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.

Rồi chị ngồi xuống phản cho nó bú. Song, thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước.

Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:

- Nao ôi! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú!

Một lúc thằng bé vì mệt quá, lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.

Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phác của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có.

Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm...

Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh làm phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau rồi hai người lấy nhau.

Năm năm ròng trong gian nhà lụp xụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép về hai cái đời trống rỗng của hai người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba đứa con.

Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít, công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chật vật suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con.

Bỗng mùa nước mạn năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thãi.

Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày có nước to.

Thì hôm qua, cái ăn, trời bắt đầu đưa đến cho gia đình bác.

Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón rén bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.

Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.

Gió vẫn to, vù vù gầm hét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy nhanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời: da trời một mầu đen sẫm.

Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu phần phật như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông.

Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan, Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại cái nút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc mới bước vào thuyền hỏi.

- Mình định đi đâu?

Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt:

- Sao không ở nhà với con?

Lạc sợ hãi ấp úng:

- Con... nó ngủ.

- Nhưng mình ra đây làm gì?

- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?

- Mình hỏi làm gì? Ði về!

Lạc bưng mặt khóc, Thức cảm động:

- Sao mình khóc?

- Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.

Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:

- Mình không đi được... nguy hiểm lắm.

Lạc cười:

- Nguy hiểm thời nguy hiểm cả... Nhưng không sợ - em biết bơi.

- Ðược!

Tiếng "được" lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen. Thức hỏi:

- Mình sợ?

- Không.

Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại với sức nước, chống cho mũi thuyền quay về phía thượng lưu, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.

Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi.

Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét long trời đất lở.

Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu.

Hai người cố bơi, nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...

Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:

- Trời ơi!

Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp...

Chồng hỏi vợ:

- Mình liệu bơi được đến bờ không?

Vợ quả quyết:

- Ðược!

- Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng!

- Ðược! Mặc em!

Mưa vẫn to, sấm chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:

- Thế nào?

- Ðược! Mặc em!

Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh nàng lại mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ, một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu:

- Mỏi lắm rồi, mình vịn vào vai tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi mình nữa.

Mấy phút sau chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rã rời. Vợ khẽ hỏi:

- Có bơi được nữa không?

- Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.

- Em buông ra cho mình vào nhé?

Chồng cười:

- Không! Cùng chết cả.

Một lát, một lát, nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày, chồng lại hỏi:

- Lạc ơi! Liệu có cố bơi được nữa không?

- Không... Sao?

- Không. Thôi đành chết cả đôi.

Bỗng Lạc run run khẽ nói:

- Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!

Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.

Ðèn điện sáng rực bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng cạnh. Ðó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con.

Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.

Bà lão lòa

Vũ Trọng Phụng

76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, một bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng đã lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn.

Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con, tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn.

Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi thấy bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác.

Buổi chiều hôm ấy...

Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cà đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũa. Ðàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thằng cu con lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.

Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trán răn, má hóp, mắt kèm nhèm, mặc cái áo vải đã đến năm mười miếng mụn, đóng khố, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi:

- Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy đấy thôi. Gạo ăn bữa mai hết rồi...

- Hôm nay được thêm mẻ lươn thì, ác quá, gặp đứa nào cũng trả rẻ, lang thang khắp chỗ, mãi đến chiều chẳng thấy ma nào hỏi lại phải bán tống bán tá tháo đi... cả ếch cả cá cũng chỉ được ngót hai hào.

Vợ nhìn chồng thở dài rồi lại nhìn đến niêu cơm. Thằng cu lớn xới một bát nhường cho em, còn mình thì cầm cái đũa cả, gắp những hột còn dính lại. Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lẩy bẩy chìa bát ra toan xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát:

- Hết rồi...! Còn đâu nữa mà chìa mãi bát ra... Ðến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấy... Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được.

Bà lão giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng.

Mặt trời sắp lặn, còn xiên qua lũy tre xanh, tầu lá chuối mà rọi ánh sáng đỏ đó vào gian nhà. Dưới những đám mây thiên hình vạn trạng mầu cá vàng chăng dọc chăng ngang phủ kín một bầu trời, một đàn sếu xếp hàng chữ nhân bay từ Bắc về Nam, vươn cổ kêu oang oác. Trên mấy ngọn tre gió thổi ngả nghiêng, dăm ba con chèo bẻo tung tăng chuyền cành này sang cành khác, còn đua nhau hót như muốn cất giọng chào mặt trời trước khi vào tổ.

Bà lão lòa ngồi trầm ngâm chống tay lên trán, nhân hôm ấy chiều trời êm ả, gió thổi hây hây, chim kêu xào xạc mà một mảnh đời dĩ vãng như một luồng chớp nhoáng, trong trí bà lại hiện ra:

Ngoài cổng, một ông lão ăn mày lụ khụ đến ăn xin. Con vện con vàng đang nằm trong sân bỗng nhảy xổ ra cắn xa xả. Tiếng mặt bà ngồi trên sập gụ bên trong quát thằng nhỏ ra mắng chó, giắt ông lão ăn mày vào thết một lưng cơm.

Bác nhiêu B, vừa bị nạn hỏa, rủi đâu, vợ lại hậu sản mà chết. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh dưới đất với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái xác mẹ nó. Tiếng ba đứa trẻ khóc như ri. Cả đêm hôm trước, bố chúng nó ôm đầu mà khóc, sáng hôm sau mới bảnh mắt đã thấy đội nón ra đi, mặt trời lên đến đỉnh đầu rồi mà chưa thấy về, bụng chúng nó đói cào như muối xát. Bỗng thấy ai nói văng vẳng như tiếng bác nhiêu. Thằng cu lớn quệt nước mắt, lủi thủi bước ra... Quái thay! Một bà khách lạ nào miệng bỏm bẻm nhai trầu, váy sồi, áo lụa, xệ nệ trên đôi dép da cong, bước vào nhà ôm lấy thằng cu con mà kêu: tội nghiệp...! Rồi thấy bà khách cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc, bác nhiêu đưa hai tay nhận lấy, dòng dòng nước mắt tạ ân.

Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đưa bé chừng bốn năm tháng.

- Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ.

- Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!...

Người nọ xô người kia, chen nhau len vào. Có người đứng ngoài, không hiểu chuyện, tưởng họ mà cả gà, khi kiễng chân, nghển cổ nhìn vào mới rõ. Giọng nói phều phào một bà cụ già lụ khụ:

- Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngay...!

Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, người trông phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:

- Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế?

- Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con, mất đứa này còn mong đẻ đứa khác chứ để chồng chết thì rồi tất chết cả mẹ con cháu. Nước mắt chảy xuống dòng dòng, nỗi thương đưa lên nghẹn cổ, người đàn bà không nói được nữa, gục đầu xuống mặt con mà khóc nức nở.

- Này...! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác trai.

Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao, giơ tay ra nhận tiền, rồi không biết nói thế nào với vị ân nhân của mình, phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Ðám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ!

ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhờ cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chi đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói:

- Này bà! Bà đừng làm sốt ruột...! Bà ăn xong bà đã chẳng làm được việc gì thì cứ ngồi yên một chỗ hay ẵm cháu giúp tôi, bà đừng có sụt sùi khóc lóc, đây không ai chết mà bà phải khóc...

Giọng nói day dứt mà lanh lảnh như từng nhát búa bổ vào thành sắt vang động bên tai, bà lão hoảng hồn trong hai con mắt lòa trợn trạo cầm nước mắt cho khỏi chảy ra, trông rõ đôi tròng trắng đảo đi đảo lại...

- Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấy...

*

* *

Ðã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. Trong bọn những người chợ búa qua lại con đường cái quan, tạt vào đường đê, thấy một bà lão lụ khụ, hổn hển thở, ngẩng đầu chìa nón kêu van, cũng đôi khi có người vứt cho một vài đồng kẽm. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ:

- Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào...! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thằng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đi...? Bà liệu đấy...!

Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.

Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy người khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh. Trên cành cây, thỉnh thoảng lộp độp rơi xuống đường đê một vài bông hoa gạo, mỗi khi quạ cái tha mồi về tổ cho con lại đập cánh sập sè vươn cổ kêu: quà! quà...! như gợi một mối thương cho người ngồi dưới gốc.

Xa xa, trong cánh đồng bát ngát một màu xanh, mấy người làm ruộng nhễ nhại mồ hôi, chẳng ai buồn nói chuyện với ai. Một đàn chim vành khuyên trong bụi rậm kia đang chuyển cành này sang cành khác cũng không con nào kêu hót, kiếm ăn một cách rất lặng lẽ. Phong cảnh dường như mệt mỏi. Những tiếng vang động đều bị sức nóng mặt trời át mất hẳn đi. Trên con đường cái quan, thỉnh thoảng thấy tiếng một cái xe hơi như một mũi tên bay, vo vo chạy qua rồi biến mất vào trong đám bụi mù xa tít,... bốn bề im lặng như tờ.

Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.

Chợt có tiếng người dẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón:

- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại...! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm...

- Tôi đây...! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi...

- Ðã được đồng nào đâu...? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồi...?

- Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều này, rồi họ về qua đây nhiều... chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt...!

Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi, cái váy cũn cỡn để lộ hai ống chân trùng trục, đen thui, giỏ cua đeo sau lưng cũng theo nhịp từng bước mà lắc đi lắc lại... Về đến nhà, sung sướng thay đã thấy bác trai ngồi phì phèo thổi lửa làm cơm dưới bếp. Nghĩ thầm hẳn bố nó hôm nay được mẻ phát tài, bác ta rửa chân tay xong, vào hú hí ngay với con.

Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: thật vậy! ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! để bà ấy chết quách đi cho rảnh mắt...!

Rồi hiện ra lần lượt trong trí bác những ngày trở trời trái gió, những ngày lửa hạ chang chang, ruộng khô đồng nứt, kiếm chẳng ra tiền, hai đứa bé bò nheo bò nhóc, một niêu cơm ngô chia khắp cả nhà, bụng mẹ đã chẳng được no, còn lấy đâu ra sữa nuôi con... Mà bà lão lòa kia thì, ngày kiếm được một vài xu cũng như ngày không kiếm được đồng nào, chẳng nhịn được bao giờ, cứ đến bữa là ngồi vào mâm, chìa bát ra cho thằng cu sới. Không, không! Không thể thế được...! Bà lão ấy chỉ là một bà cô... mà lại là cô họ một người chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau...?

- Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào...? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ.

Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó:

- ối trời đất ôi...! ối trời đất ôi...!

- Chết chửa... làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó?

- Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! ối trời đất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôi...

- Chết chửa! Kìa thằng cu... ẵm em dỗ đi... dỗ đi cho nó nín đi rồi dậy đấm cho u mày một chốc... để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy... Rõ khổ chửa?

Bên ngoài mấy hạt mưa bắt đầu ném vào mái tranh lộp độp rồi trời đổi cơn xuống rào rào. Dần dần mưa càng to, gió càng mạnh, mỗi lần một luồng gió thổi trên không nghe ào ào là một lần nước đổ như trút xuống sân. Trời tối mịt. Thấy mẹ đã ngủ được yên, thằng cu bước xuống đất, phong phanh trong tấm áo vải, ra tựa cửa đứng nhìn.

Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoáng chớp nhoàng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Rồi thỉnh thoảng lại đánh "đoành" một cái, những tiếng sét vang trời đánh nhịp, hòa theo với tiếng mưa rả rích, tiếng sấm hục hặc, nổi sôi...

Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:

- Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu đê?

Nó chưa nói hết câu, bố nó đã như bị một luồng điện giật, nẩy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được.

- Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất...

- Thế thì chắc bà chết rét mất rồi... Còn gì nữa...

Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê - tình cháu đối với cô - bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy. Nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con:

- Ôi già... chả việc gì phải sợ... dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay sao...?

Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại.

Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.

Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiếu xuống, trông lại càng tươi càng đẹp. Trên mặt đường đê, nước đóng từng vũng, những người đàn bà gồng gánh ra chợ phải xắn váy vén quần, lội bì bõm, hễ ai hơi trượt, chân muốn ngã là cả bọn lại khúc khích cười. Những đám cỏ bấy lâu phơi nắng xám cả màu, sau một trận mưa rào đã trông thấy ngay cái vẻ tươi tốt. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông, kêu hót vang tai. Vệ đường loáng thoáng thấy cành cây rơi rải rác...

Phong cảnh trông có vẻ khoan khoái. Cái khoan khoái của phong cảnh sau trận mưa rào cũng như cái khoan khoái của người sau khi tắm gội. Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khố, cài rổ, vác vợt ra đi... Mon men ở dưới chân đê, lội lõm bõm qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Ðàn quạ vùng bay lên rồi tản mát đi... Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống cạnh một cái xác, cái xác một người đã bị quạ mổ nát nhừ, xác bà lão lòa bị gió thổi xuống ruộng đêm hôm trước.

1931

Bà mụ của búp bê

Quế Hương

Tiếng khóa cổng lách cách, tiếng xe nổ. Tiếng càu nhàu của con dâu ông. Ðó là những âm thanh cuối cùng mà ông lão đợi - ông biết chúng đã đi làm, hai con bé đã đi học mà bây giờ ông và con Lỡ sẽ tự do trong ngôi nhà vắng lặng.

Ông chui ra khỏi cái hộp của ông, một cái buồng nham nhở, hai mặt tựa vào hông tường và bếp, một mặt che tấm ván ép, một mặt trống hoác làm cửa ra vào. Ông đã quen đổi chỗ từ hai mươi năm nay, khi con ông trở thành chủ nhân trong ngôi nhà của cha mình. Từ lầu đến trệt, từ phòng trước đến phòng sau, từ phòng rộng đến phòng hẹp và bây giờ kề bên bếp. Lần này thì chính ông đề nghị: "Bây để tau xuống nhà sau ngủ. Tau hay đi tiểu đêm mà cửa thì bây khóa...".

"Không khóa để ông đi ra, kẻ trộm đi vào à?". ' Con ông càu nhàu. Còn vợ nó thủng thỉnh: "Mùa hè, nằm đó khác chi hứng gió biển". Nằm đó là nằm ở khúc nhà ngang nối liền nhà trên với bếp. ở đó có mái nhưng tường không che chắn kín đáo như nhà trên. Thồng lộng. Con ông che tạm cho ông cái buồng này và bảo: "Rồi thư thư... con xây thành phòng". Tối đến khi cánh cửa thông đã khép, cắt ông với thế giới "trên nhà", ông thấy dễ chịu khi được một mình với yên tĩnh và bóng tối. Ông có thể ngắm cả mảng trời sao nhấp nhánh. Cả vầng trăng viên mãn tròn đầy. Cả lúc trăng mỏi. Cả những bóng cây vật vã vào nhau trong đêm mưa gió. Cũng còn dễ chịu hơn rón rén đái vào bô, từng tí, từng tí để tiếng nước tiểu không làm con dâu thức giấc, còn hơn níu tiếng đằng hắng cứ chực vọt ra khỏi họng. ở đây, ông có thể tự do đi lại, uống nước khi không ngủ được. Người già uống nhiều hơn ăn, ông có thể uống trà trừ bữa. Nhắc trà ông lại nhớ chén - cái chén sứ men lam bắt tuấn mã ông thường dùng nay đã cất trong tủ buýp-phê trên nhà. Ông có thói quen vừa uống trà vừa ngắm cái vẻ dữ dằn tuấn vĩ của tám con ngựa ở tám tư thế khác nhau. Nét vẽ sống động bằng màu xanh đậm mà vẫn trong như ngọc bích. Men trắng xanh lơ quý phái. Trà sóng sánh vàng bốc khói, tám con ngựa oai phong lẫm liệt. Uống trà trong chén ấy mới tuyệt làm sao! Nhưng chúng nói phải. Chén quá quý mà tay mình thì run - vỡ uổng lắm. Ðể còn mà ngắm - ông lão lại chép chép miệng móm mém rồi đi tìm con Lỡ. Nó đang kéo lê đôi chân cong vòng, nhỏ như cây sậy đi tìm ông. Nó ngủ trên kia nhưng khi cả nhà đi hết, nó lại được thả xuống cho ông. Con và dâu ông mắc một chứng bệnh kỳ dị - bệnh sạch. Ði làm về là chúng dọn dẹp lau chùi cho đến khi bóng như lau như li. Ðồ không dám dùng. Ngồi không dám dựa. Con cái không được chơi làm bẩn đồ đạc bóng lộn. Chúng làm lụng cực nhọc nhưng chúng không thuê người giúp việc vì sợ thêm người thêm bẩn. Vả lại đời nay biết đâu mà tin.

Con Lỡ toét miệng cười với ông. Ông đến bế nó. Ngó nó lết mà thương. Nhưng ông không bế nổi con bé. Hai ông cháu lảo đảo. Ông ngồi chỗm hỗm cho nó bá cổ. Con Lỡ nằm bẹp trên lưng ông và hai ông cháu đi đến chỗ để thức ăn. Con Lỡ vừa ăn vừa "khóc" như mọi khi. Cũng như mọi khi, nó vừa ăn vừa đút cho con búp bê trụi tóc, gãy tay của nó. Cha mẹ nó chẳng chờ đợi nó ở ngôi nhà này. Họ đợi một đứa con trai. Mẹ nó đã quay lưng khóc khi cô đỡ chìa ra một cô bé gái nhăn nheo, đau khổ như một bà cụ. Ðứa con gái thứ ba! Lại xấu xí! Lại gầy gò vì thiếu cân, thiếu tháng! Lại bị què sau trận sốt tê liệt khi lên hai!. Ðôi lúc người mẹ cùng ăn năn. Giá chăm chút nó như hai đứa trước, uống, tiêm phòng đầy đủ. Thôi thì lỡ rồi. Lỡ sinh. Lỡ quên. Ngưòi ta gọi nó luôn là con Lỡ. Nó lại bị cái gì đó ở tuyến lệ nữa. Nước mắt cứ ri rỉ ngay cả khi nó cười: Trong ngôi nhà sạch bóng, tươm tất này, nó và ông thật lạc điệu - xấu xí, vô dụng - ông đọc điều đó trong cái nhìn. ăn xong, hai ông cháu ngồi chơi trên chiếc ghế mây dưới bóng cây. Một già một trẻ có thể ngồi đó suốt buổi cho đến khi có tiếng khóa lách cách trở lại. Con Lỡ lắng nghe ông nói, không hiểu, không khen chê nhưng vẫn nghe. Nó thường bắt lấy chữ cuối của ông làm chữ đầu của nó. Tuổi tác có ý nghĩa gì khi mọi sự đều trở về. Tóc trở màu, con người lại bắt đầu như một đứa trẻ, yếu đuối, bất lực, sợ hãi, ngây thơ. Thường ông kể chuyện cho nó nghe, chuyện đời, chuyện xưa nay, bày cho nó đếm, nó đọc. Còn nó bày cho ông bán hàng bằng lá, chơi búp bê. Sáng nay mặt con Lỡ đầy vẻ nghiêm trọng. Nó cứ nhìn chăm chăm con búp bê cũ kỹ hai đời chị quẳng lại cho nó và bảo ông:

- Sáng nay con búp bê sẽ đẻ con.

- Sao cháu biết?

- Nó nói.

- Nó nói sao?

- Nó nói nó đau bụng. Con nó ở chật bụng nó.

Ông lắc đầu. Bao giờ con bé cũng ao ước con búp bê đẻ. Mẹ nó biết đẻ. Con mèo biết đẻ thì tại sao con búp bê không đẻ? Nó sẽ đẻ một con búp bê tóc vàng, má hồng và lành lặn. Ðôi khi cả một bầy búp bê cũng có!

Giá mình có thể "đẻ" cho nó một con thế nhỉ! Ông lão lẩn thẩn nghĩ. Tia mắt già nua đậu trên con bé Lỡ. Ðậu trên những chiếc lá vàng nâu nằm uể oải trên mặt đất.

- Ông thấy không? Con Lỡ lắc tay ông - Bụng con búp bê sáng nay bự chác. Nó đựng đầy con. Nhưng con nó làm sao ra được?

- Thì... thì... cũng như bà cho ra ba cháu. Mẹ cháu cho ra cháu. Có một bà tiên người ta gọi là bà mụ. - Thế bà mụ của búp bê đâu?

- Cháu đấy!

- Cháu không biết làm bà mụ. Bà mụ phải làm gì?

- Gối lên chân ông ngủ và đợi.

- Không, cháu không ngủ. Con bé lắc đầu quầy quậy.

Ông nhớ lại lúc con mèo mun đẻ. Con bé đã ngồi bên nó suốt buổi để đợi xem em-bé-mèo.

- Cháu không ngủ. Có bé lập lại, nhìn ông bướng bỉnh. Chính lúc ấy ông mới thấy mắt con bé đẹp vô cùng - trong như nước hồ thu, ươn ướt. "Giống hệt mắt bà ấy" - Ông lão thì thầm.

- Bà ấy nào?

- Bà cháu.

Rồi ông lão nhìn đăm đăm vào khoảng trống trước mặt, dường như bà hiện ra ở đó, mãi mãi ở tuổi thanh xuân với những dải nước màu đen sóng sánh, đôi mắt trong ngần, đôi má vàng óng nắng, phơn phớn lông tơ.

- Này ông! Sao con búp bê lâu đẻ thế?

Bóng bà tan biến. Con Lỡ nhìn ông chăm chú:

- Ơ! Mắt ông cũng có nước. Mặt ông lại nhăn thêm nữa. Một, hai, ba, mười, mười lăm... Nhiều quá. Chẳng ai nhiều như ông, đếm bắt mệt!

- Tại năm tháng đó cháu. Năm tháng đi qua để lại dấu vết. Ông đã sống nhiều năm tháng quá rồi!

Và bà lại hiện ra, một bà lão khô héo, cái lưng nằm mãi vì bệnh đến lở lói. Khuôn miệng cay đắng thốt những lời cay nghiệt. Ðôi mắt mờ đục chất ngất mệt mỏi.

- Thế ông cất năm tháng của ông đó à? Khi hết chỗ ông sẽ cất ở đâu?

- Khi đó ông chết.

- Ðừng... cháu sẽ chơi với ai? Miệng con bé méo xệch - ông đừng chết. Cháu sẽ cất giùm ông nếu ông hết chỗ. Ông đừng chết!

- Chưa chết đâu! Con búp bê gọi cháu kìa!

Con bé lại quên ông. Nó quay qua con búp bê mất tay:

- Này đau bụng hả? Mày đẻ con thôi. Mày đẻ một con búp bê tóc vàng đẹp như công chúa, không trụi tóc, không gãy tay. Con mày sẽ đẹp dùm mày.

Con-mày-sẽ-đẹp-dùm-mày. Chao ôi! Con Lỡ nói một câu hay quá. Ông nhìn cháu ngạc nhiên. Ông nhìn hai cẳng chân cong vòng, nhìn thân hình èo uột, mái tóc lơ thơ và chợt nhận ra nó không ngô nghê như hai chị nó, rằng ông quá hoài phí năm tháng để hiểu điều này. Trong bản chất mỗi con người, mỗi sự vật, có cái người ta không thể học được. Ôi con Lỡ của ông! Từ khi bà mất, lòng ông nguội lạnh. Chính con bé què quặt ốm yếu này đã hâm nóng nó lại. "Ai mạc ư tâm tử". Mọi sự đau xót không gì bằng nguội lạnh con tim. Thật đúng!

- Ðúng là con búp bê sắp đẻ phải không ông?

- ừ.

- Nhưng lâu quá! Con bé rên lên nhìn ông nôn nóng.

Con - nó-làm-đẹp-cho-nó. Con người được cứu vãn nhờ sự tái sinh. Ông không thể dập tắt niềm tin ấy của con Lỡ. Ông lão trầm ngâm suy nghĩ rồi đứng phắt dậy:

- Nó sẽ đẻ! Ông lão dõng dạc tuyên bố. Có điều cháu phải kiên nhẫn chờ. Ông đi mời bà mụ đây. Cháu sẽ giúp ông bằng cách ngồi yên trên ghế, không được rời con búp bê.

- Mau lên ông! Cháu sẽ ngồi yên mà! Con bé rối rít giục. Ông lão tất tả ra cổng rồi đột nhiên ông khựng lại, quay lui. Cả hai ông cháu tuyệt vọng nhìn cái ổ khoá cổng to tướng. Con Lỡ bắt đầu thút thít.

- Ðừng khóc! Ông có cách rồi.

Ông đi tìm cái ghế cao con ông vẫn dùng để tỉa hoa giấy. Nó được dựng gần tường. Ông kéo nó sát hàng rào, vụng về, khó nhọc. Ông dặn con Lỡ lần cuối trước khi leo lên:

- Nhớ ngồi yên. Ðừng tụt xuống té nghe!

- Dạ! Ði nhanh ông nghe!

Ông già bắt đầu trèo lên chiếc ghế cao. Chân ông run run, lóng nga lóng ngóng nhưng lòng ông rạo rực. Thằng bé nghịch ngợm trong ông hồi sinh - cái thằng cu Ðen thề không đặt chân xuống đất khi ở nhà một mình. Nó chỉ nhảy từ bàn qua ghế, từ ghế qua giường... Ông ngồi trên bờ tường nhìn xuống đường. Bây giờ ông phải xuống đó không có ghế. Ông bấu tay vào gờ tường và tụt xuống. Cứ nghĩ mình đi - ngược-lại. Ông vừa tụt xuống vừa lẩm bẩm và niềm vui lẫn sợ của thằng cu Ðen trèo tường đi chơi cứ làm tim ông đập thình thịch. Thời gian không thực có. Nhảy đi, cu Ðen! Nửa thước chứ mấy. Ông lão nhảy. Thằng cu Ðen táo tợn vỗ tay. Còn ông lão đau quá, khuỵu xuống. Ông nhăn mặt nhưng sực nhớ con Lỡ, ông đứng dậy, ông vịn tường bước khập khiễng. Ðể đỡ đau, ông tụt dép cầm tay. Có năm năm rồi ông không ra đường. Phố xá bây giờ lạ quá. ông lại là đứa con nít sợ lạc trước dòng người và xe cộ nườm nượp.

"Này nằm yên đó. Ông sẽ về bây giờ với bà mụ và mày sẽ hết đau bụng, sẽ đẻ cho tau một con búp bê tóc vàng, lành lặn - con Lỡ thầm thì. Nó cảm thấy buồn đái, nhưng nó nhớ lời ông dặn không được rời con búp bê, không được tụt xuống té. Mày cũng khó chịu thế chứ gì. Như tau buồn đái thế thôi". Con bé ôm bụng nhăn nhó. Con búp bê mở to đôi mắt biếc có hàng mi cong vút nhìn trời. "Chịu khó đi rồi con mày sẽ làm đẹp cho mày. Con mày sẽ không rụng tóc và gãy tay như mày. Con tau... không biết rồi con tau có làm đẹp cho tau không? Chân tau không như mọi người. Tau không làm đẹp cho mẹ và mẹ không thương tau!" Con bé thở dài. Hoa nắng bắt đầu nhảy nhót trên áo nó. Con búp bê nhắm mắt ngủ. Con bé cũng thiu thiu.

Khi con Lỡ mở mắt, điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông nó ngồi cạnh nó. Con búp bê tóc vàng, má hồng nằm cạnh con búp bê trụi tóc, cụt tay. Còn nó, nó nằm trên vũng nước tiểu.

- Ôi! Nó đẻ rồi! Thế bà mụ đâu! Cháu muốn cảm ơn bà.

- Bà mụ đi rồi. Bà còn phải vội đi đỡ đẻ cho con búp bê khác.

- Sao ông không thức cháu?

- Rồi nó nhìn cái quần ướt sũng, bẽn lẽn: - Cháu không định tè trong quần, nhưng...

Ông vừa nhăn nhó vừa cười. Nom ông là lạ. Nửa như nó, nửa như ông.

Ông lão ngồi thở, ông còn mệt và còn đau chân lắm; khó lòng tưởng tượng những gì ông đã làm sáng nay. Nó cũng kỳ diệu và khó nhọc như con-búp-bê-đẻ-con vậy.

Con Lỡ nhìn sững con búp bê tóc vàng. Nó đẹp dễ sợ. Nó không như con mèo mới đẻ, lông bết dính và mắt nhắm tít. "Mày thích lắm nhỉ - Bây giờ mình có ba người - Ban ngày thêm ông là bốn. Tau sẽ giấu mày trong chăn - Chị tau mà thấy họ không để yên cho mày đâu".

Ðêm đó ông lão không ngủ được, ông gác hai cẳng chân đau nhức, mỏi nhừ lên thành giường. Ông đã đi bộ đến mấy con đường với cái chân đau. Chính thằng cu Ðen táo tợn, bướng bỉnh ấy kéo ông đi tới cửa hàng búp bê. Ông thò tay vào ngực - Bà vẫn nằm yên trong đó, gối đầu lên ngực ông. Chỉ có khác là bức chân dung hồi trẻ của bà lồng trong trái tim bằng ngọc bây giờ không được treo sợi dây chuyền vàng nữa - nó được thay bằng một sợi dây rút từ bao xi măng. Trong bóng tối đôi mắt đẹp như mắt con Lỡ nhìn ông cười có đuôi. Con Lỡ chắc ngủ ngon sau khi trò chuyện với lũ búp bê. Ông mơ màng thấy thằng cu Ðen kéo một toa tàu, một ông lão cà nhắc, một con bé cà thọt và một bà lão muôn thuở tuổi đôi mươi.

Trên nhà, con Lỡ ôm hai con búp bê ngủ. Nó mơ nó đẻ con. Ðẻ ra một con Lỡ con lành lặn, đôi chân tròn trĩnh xinh đẹp lộ trong chiếc áo đầm voan trắng. Con Lỡ con đẹp giùm mình. Mặc áo đầm giùm mình. Con bé ngủ thiếp với ý tưởng đó. Còn con búp bê trơ trụi tóc, gãy tay thì không ngủ. Nó thao thức nghĩ đến bà mụ của mình.

4-1994

Bài hát biệt ly

Phan Cao Toại

Căn phòng ấy có bốn người. Bốn người vô tội bị tử thần nhập vào bằng những bệnh thập tử nhất sinh. Nghề nghiệp của bốn người khác nhau. Tuổi tác khác nhau. Quê quán khác nhau. Họ gặp nhau tình cờ trong căn phòng cấp cứu hai mươi bốn mét vuông với máy móc lỉnh kỉnh, thuốc men đủ loại, những vũ khí của con người dùng chiến đấu chống thần chết.

Phía cửa đi vào, ngay bên trái là cô gái còn trẻ. Nhà cô ở làng hoa. Sáng sáng, không chồng cô thì em gái mang vào phòng những cánh hoa tươi. Hoa được chia đều cho bốn bình trên bốn đầu giường. Người đàn ông nằm đối diện với cô bị ung thư dạ dày. Khuôn mặt ông khi nào cũng thiểu não. Hễ ngủ thì thôi, chứ thức là ông rên. Rên ư ử cả ngày cho đến khi không còn sức để rên, ông thiếp đi. Vợ con vào thăm có phật ý gì là ông đuổi. Ông không đủ sức mạnh để quát lên như khi còn khỏe, nhưng vẻ nhăn nhó trên khuôn mặt xanh xao của ông, vợ con phải biết ý mà chuồn. Ðược cái ông rộng rãi. Người nhà thăm ông đồng quà tấm bánh, ông chia đều cho cả phòng. Ngay cả đối với tôi, bác sĩ điều trị cho căn phòng đặc biệt ấy nhiều khi cũng được dành phần. Ông bảo, căn phòng đó nhỏ như một gia đình, mọi người phải như anh em trong một nhà, vui buồn có nhau. Có hôm tôi đến, ông cầm tay tôi nở nụ cười khó nhọc chào tôi, than vãn: "Bao giờ ông giời mới dẫn tôi đi. Chờ lâu quá tiêu hết tiền hết của, khổ vợ, khổ con, phiền bệnh viện". Tôi cười không dám trả lời ông. Và tôi, người cứu chữa cho ông có phần xấu hổ vì sự bất lực của y học trước những căn bệnh hiểm nghèo.

Giường phía trong, bên trái là một cụ bà trên bảy mươi. Cụ bị liệt nửa người. Con cháu vào thăm, cụ vẫn tươi cười: "Thất thập là thọ lắm rồi, có "đi" cũng không ân hận". Cụ chăm chút lo toan, lặng lẽ chờ phút qui tiên. Người cuối cùng trong phòng là chị Lệ, đang bị xơ gan cổ trướng, có chồng là nhạc sĩ, anh Tôn Hoàng.

Những hôm trực đêm, tôi thường xuyên có mặt trong phòng này. Vào thời điểm đêm và ngày giao nhau, ánh hoàng hôn đỏ thẫm phía xa xa hiện qua cửa sổ căn phòng như một bức tranh tuyệt diệu của thiên nhiên. Tôi thường đứng bên cửa sổ ngắm những con chim sẻ bay vội vã vào các mái nhà, và những tán lá xanh trong khuôn viên bệnh viện đang chuyển thành mầu tím. Tôi muốn để bệnh nhân có chút thì giờ yên tĩnh bên thân nhân của họ. Thói quen ngắm trời chiều của tôi và những giây phút im lặng kia bị phá vỡ từ khi chị Lệ vào điều trị tại phòng này.

Tôi đang ngồi bên bàn đọc những sóng điện tim màu tím trên nền giấy ca rô trắng vừa đo cho chị, bỗng sau lưng có tiếng ai đang hát. Tiếng hát trầm đục lại bị nén xuống thành một âm thanh là lạ như được phát ra từ ống bơ rỉ. Tuy người hát cố rất nhỏ nhưng tôi cảm thấy rất khó chịu, nhồn nhột như cảm giác con mèo dùng bộ móng sắc nhọn cào lên da thịt, như một chiếc dùi thô thiển gõ lên mặt trống im lặng của căn phòng. Tôi quay lại. Một người đàn ông thấp đậm, tóc lốm đốm màu tro, ăn mặc xuyềnh xoàng trông rất cục mịch đang vừa hát vừa nhịp tay lên cửa sổ. Chị Lệ chau mày khi thấy tôi nhìn người đàn ông. Chị gượng cười, giới thiệu:

- Nhà em đấy, bác sĩ ạ.

Quả thật, tôi được coi là người dễ tính nhất bệnh viện nhưng vẫn bị dị ứng với tiếng hát của chồng chị. Với quyền hạn của người bác sĩ trực, tôi có thể nhắc nhở để "cảnh cáo" thậm chí có thể "mời" vị ấy ra để trả lại sự yên tĩnh cho phòng bệnh. Trong ba mươi phút ngắn ngủi người nhà được gần thân nhân, anh Tôn Hoàng đứng ngay phía đầu giường của vợ hát trọn ba mươi phút rồi trao tờ giấy chép nhạc cho chị. Chị mỉm cười, hàm ý cảm ơn rồi rướn mình nâng cánh tay khẳng khiu bỏ bài hát vào ngăn tủ đầu giường. Ðành rằng anh Hoàng chỉ hát cho một người nghe, tôi cảm thấy cần tìm cách vặn tắt chiếc đài biết đi kia. Người bệnh cần yên tĩnh cần sự chăm sóc dịu dàng thì anh Hoàng lại hát. Chướng quá!

Tôi đã nghe ý kiến phản ảnh của bệnh nhân trong căn phòng ấy. Người đàn ông khó tính mỗi lần tôi đi khám bệnh là than phiền về anh Hoàng bằng những lời lẽ cay độc:

- Nhờ bác làm ơn tống cổ cái anh chàng nhạc sĩ hấp hơi ấy. Không lẽ ông ta thi vị hóa bệnh tật, đau đớn thành tiếng hát. Thật là một anh chàng dở hơi!

Ông bày tỏ thái độ với tôi nhưng giọng rất nhỏ, vẻ khó chịu chỉ hiện ra bằng những rung động của các thớ cơ trên mặt. Còn cô hàng hoa thì mách lại với chồng. Anh chồng kéo tôi ra ngoài hành lang, nói với giọng đầy giận dữ:

- Thật không hiểu nổi! Người ốm cần thuốc men, cần đường sữa, cần cam, cần chuối chứ không ai cần nghe hát. Xin bác sĩ ra tay cho. Lão ấy vào đây là lên cơn tâm thần. Tôi người khỏe mạnh mà cũng không sao chịu được. Nói chi người ốm liệt giường.

Tôi hỏi thăm một số người quen bên hội văn nghệ, họ cũng không biết nhạc sĩ "Tôn Hoàng" là ai. Hay là, danh hiệu nhạc sĩ của anh là danh hiệu người nào đó vinh dự nghe anh hát rồi hứng lên phong bừa cho anh? Nếu đúng như vậy, nhạc sĩ Tôn Hoàng chiều nào cũng có một sáng tác mới, chẳng qua là anh nhạc sĩ rởm, đúng như lời than phiền của các bệnh nhân đã phải nghe anh hát?

Khi khám bệnh cho chị Lệ, tôi định tìm cách trao đổi với chị để chị nói lại với anh rằng, anh đừng... hát nữa. Nhưng tính tôi cả nể, nhiều lần định nói, lại thôi. Thấy tôi có lúc ngồi lâu bên chị, vẻ như lưỡng lự, đắn đo định nói điều gì mà không nói, chị Lệ ít nhiều hiểu ra câu chuyện. Chị nói với tôi rất chân thành:

- Anh nhà em tính khí vẫn vậy. Thích nhạc, thích hát lắm. Lúc trước, anh là anh chàng kỹ sư công binh lầm lì. Dạo ấy em là thanh niên xung phong trên đường 15B. Anh ấy quen em cũng vì một hôm Mỹ thả bom từ trường. Ðường tắc, xe ùn lại. Anh ấy được cử đến phá bom. Tiểu đội em cử em ra hát động viên anh ấy. Có hy sinh cho có đôi!

Nghe chị nói, tôi càng ngạc nhiên. Người kỹ sư công binh năm ấy vì sao hôm nay mang trên mình danh hiệu nhạc sĩ? Giữa công binh, vũ khí, cầu đường, những lĩnh vực của khoa học chính xác cách rất xa tính bay bổng, lãng mạn của âm nhạc, nếu không muốn nói trái ngược với âm nhạc. Tôi tò mò hỏi:

- Thế sao bây giờ anh ấy lại là nhạc sĩ?

Chị nở nụ cười kín đáo và tôi biết chị đang vui, đang trong cơn xúc động về sự hồi tưởng:

- Thế rồi, anh ấy "cảm" tiếng hát của em. Trong tiểu đoàn công binh của anh có một anh giỏi nhạc. Em đoán anh Hoàng đã học mót anh ấy. Một tuần lễ sau, các anh ấy đi vào phía trong, em chợt nhận được một lá thư. Mở ra, đó là một bản nhạc. Phía dưới, anh Hoàng ký tên mình, và tái bút dặn, bài hát ấy anh viết cho riêng em, mong em đừng cười và đừng cho bạn bè xem vì đó là bài hát đầu tiên trong đời của anh.

Em cũng biết chút ít về xướng âm liền nhẩm hát. Cách viết ấy rõ ràng của người không sành nhạc, khập khễnh lắm. Nhiều chỗ viết sai. Nhưng bài hát anh ấy viết cho em, em vẫn hát. Sau này, đã thành bài hát chung của cả tiểu đội. Nhân có một anh nhà thơ đi qua, tụi em mới biết anh ấy phổ thơ của một nhà thơ nước Nga. Thảo nào nghe hay và "mùi" đến thế. Giọng của em cũng nghe được cộng với ý thơ hay của nhà thơ Nga, hát lên nghe thích lắm: Em ơi đợi anh về. Mưa có rơi dầm dề. Ngày có dài lê thê. Thì em ơi cứ đợi.

Về sau, anh ấy vào sâu trong chiến trường, em vẫn nhận đều đặn những bài hát mới anh gửi cho em. Bài nào anh cũng dặn anh chỉ viết cho riêng em...

Và tôi, một người không ưa gì anh Tôn Hoàng với những bài hát không thể nào hiểu được của anh bỗng bùi ngùi, trân trọng quá khứ của anh. Tôi bắt đầu thông cảm với anh, tìm cách giải thích cho những bệnh nhân khác trong phòng để họ thông cảm với anh.

Anh Tôn Hoàng chiều nào cũng vào thăm vợ với những bài hát mới của mình. Anh viết rất khỏe, hình như sau ba mươi phút buổi chiều vào thăm vợ trong bệnh viện, thời gian còn lại anh dồn tâm lực cho những bài hát mới. Bài hát nào của anh cũng kèm theo những lời giải thích:

- Bài này tả cảnh quân đi. Anh sẽ thấy có bộ đội, thanh niên xung phong, xe tăng, xe tải. Tôi viết theo nhịp một (anh cười). Không phải một hai, một hai đi đều bước đâu nhé. Hành quân vào chiến trường mà đi một hai thì như duyệt binh. Nhịp một một, đi tự do mà. Bài này đệm gì cũng được.

Hôm sau, có bài hát mới, anh lại giải thích theo cách khác:

- Bài này viết về các cô gái thanh niên xung phong ở trọng điểm. Tả tiếng bom rơi tôi dùng nốt la. La... la... Là... la. Người hát phải có dàn nhạc có đàn giây để tạo tiếng rít...

Hôm sau nữa, cầm bài hát trong tay, anh lại giải thích:

- Bài này, tôi viết về tâm trạng một cô gái đang ngồi bên bờ suối, gửi lòng mình nhờ dòng nước mang đến người yêu. Rê mi... rê mi... rê mi... nghe như tiếng suối róc rách chảy. Bài này tiết tấu mềm mại, nhạc đệm phải có đàn violon kết hợp với bộ gõ Tây Nguyên.

Tôi và những người bệnh nhân trong phòng quen dần với sự có mặt và giọng hát của anh Hoàng. Người đàn ông khó tính nhất, từ chỗ ghét anh Hoàng, hễ thấy là muốn xúc đổ đi, đã mỉm cười khi nghe anh hát. Cô hàng hoa phía ngoài đề nghị anh hát to hơn để cô nằm xa nghe cho rõ.

Một chiều không thấy anh Hoàng vào thăm vợ. Tôi cũng lại trực đêm. Không thấy tiếng hát và dáng điệu nghệ sỹ khô khan của anh khi anh đưa tay bày tỏ cảm xúc. Một sự vắng lặng dâng tràn. Tôi vẫn đứng nhìn khung trời và hoàng hôn tím sẫm ngoài cửa sổ. Mọi ngày, anh Hoàng vẫn hát vào lúc này. Khi anh cất tiếng hát cũng là khi chim sẻ từng đôi trên ngọn phi lao ríu rít sà vào những tổ ấm của chúng dưới mái ngói của những ngôi nhà. Người phát hiện anh Hoàng vắng mặt là người đàn ông khó tính:

- Quái, cái lão hấp hơi hôm nay không thấy vào!

Cô gái làm nghề trồng hoa phía ngoài dành riêng một bông hồng rất đẹp chờ anh hát xong là cô sẽ tặng. Dạo này, theo đề nghị ấy lúc đầu cũng không dễ dàng gì, bởi như anh nói anh viết cho vui, viết cho riêng chị Lệ nên người khác nghe có thể thấy chẳng hay chút nào. Song anh Hoàng vẫn chấp nhận đề nghị của mọi người. Cũng như đối với tôi, anh giải thích rất kỹ về chủ đề bài hát, xuất xứ của bài hát, loại nhạc cụ gì đệm kèm theo với hy vọng khi nghe, mọi người cảm nhận thêm cái hay, cái đẹp. Cô hàng hoa đã nghe quen tiếng hát của anh Hoàng nên sự vắng mặt của anh làm cho cô chờ đợi. Cuối cùng cô phải hỏi chị Lệ sau một phút đắn đo:

- Chị Lệ ơi, sao hôm nay anh Hoàng không vào?

Tôi đoán mò, trả lời thay chị Lệ:

- Chắc anh ấy bận.

- Thế là bông hồng em để dành tặng cho nhạc sĩ sẽ héo mất thôi!

Tôi ngồi xuống cạnh giường chị Lệ. Người phụ nữ chưa đầy năm mươi tuổi teo tóp trong một tấm chăn mỏng, bụng như một chiếc trống lùm lên. Chị bùi ngùi:

- Chiều nay giỗ mẹ em. Anh ấy phải về dưới quê thắp hương cho mẹ...

Chị ngừng lại để lấy thêm sức vì chị quá yếu không thể nói một hồi dài:

- Em nghĩ mà thương anh Hoàng. Anh ấy vụng về lắm. Tụi em lại không con không cái, rủi em "đi", lấy ai chăm sóc...

Mắt chị rơm rớm:

- Không có bàn tay phụ nữ, không biết anh ấy sẽ sống ra sao. Em bảo sau khi em mất, anh tìm người khác người ta đỡ đần cho. Nhưng anh ấy cứ khăng khăng từ chối. Anh ấy là kỹ sư, giờ về mất sức nhưng kiếm tiền cũng khá. Mỗi tội không biết nấu ăn, đi chợ búa không biết mặc cả.

Giọng chị nhỏ dần. Tôi thông cảm với những lo toan của chị, tâm trạng của một người sắp vĩnh viễn chia ly người thân yêu của mình. Tôi cũng hiểu và thông cảm với hoàn cảnh của anh Hoàng về nỗi khắc khoải của người chồng sẽ không còn được bao lâu nữa bên vợ. Tiếng hát của anh cứ văng vẳng bên tai tôi, tiếng con chim trống sắp mất bạn nghe sao mà thương cảm thế.

Tôi nghỉ trực một ngày. Tôi ở nhà mà lòng dạ bồn chồn. Thông thường, có chút thời gian rảnh rỗi, tôi cùng vợ con đi chơi phố rồi cả nhà ghé vào một quán cơm bụi nào đó cho bà xã nhà tôi khỏi phải nấu nướng. Lần đầu tiên tôi nghỉ mà nằm lỳ ở nhà. Người tôi cứ nao nao. Vợ tôi tưởng tôi mệt ra chợ mua thức ăn rồi xuống bếp trổ tài nấu nướng. Cơm dọn ra, hai đứa con khen lấy khen để món giò hầm măng còn ngon hơn cả trong nhà hàng... Tôi ngồi vào mâm cơm, không thiết tha gì ăn uống mà vơ vẩn nghĩ về khoảnh khắc của đêm và ngày giao nhau, khung trời và hoàng hôn tím sẫm ngoài cửa sổ, về những cánh chim bay vội về tổ, về tiếng hát của anh Hoàng và nụ cười trên khuôn mặt chỉ còn da bọc xương của người vợ bất hạnh đang lắng nghe chồng hát. Lòng tôi cứ cồn lên những ý nghĩ vẩn vơ, mong sao cho chóng sáng.

Linh cảm của tôi đã không nhầm. Vừa đến cổng bệnh viện, anh Hoàng đã đứng đợi tôi ở đó. Mặt anh dại đi, mắt đờ đẫn như không có linh hồn, áo quần xộc xệch... Và với nhạy bén của người thầy thuốc, tôi đoán điều gì đã xảy ra. Tôi chạy tới ôm chầm lấy anh và không hỏi gì thêm...

Tôi dìu anh bước vào căn phòng quen thuộc. Vẫn bốn chiếc giường kê bốn góc. Vẫn cô gái làng hoa, người đàn ông và cụ già nằm đó. Tất cả đều im lặng. Chiếc giường trống trong cùng chỉ còn lại một màu trắng tang tóc. Trên chiếc bàn con, người nhà cô gái làng hoa vẫn cắm vào chiếc lọ quen thuộc một bông hồng mới nở. Khung trời màu xanh ngoài cửa sổ, từng đôi chim se sẻ đang ríu rít bay đi.

Tôi và anh Hoàng ngồi lại bên giường chị Lệ, y như lúc chị còn sống. Cả căn phòng không một âm thanh. Chợt anh Hoàng lên tiếng phá tan không khí lạnh lẽo đang băng giá cả căn phòng.

- Nhà tôi đi thanh thản lắm. Nhà tôi đưa tay cho tôi nắm, mơ màng nghe tiếng hát của tôi rồi dần dần đi vào giấc ngủ, như không hề có cuộc chia tay vĩnh viễn. Lúc ấy tôi đang hát cho nhà tôi nghe bài hát tôi mới viết.

Tôi nhìn anh. Trong mắt anh như còn đậm nét hình ảnh cuối cùng của người vợ thân yêu. Mãi sau, tôi mới dám đụng vào vết thương của anh, vết thương tôi tin chẳng bao giờ thành sẹo:

- Hình như bài hát hôm qua là bài hát cuối cùng anh viết cho chị?

Giọng anh trầm xuống:

- Không. Ðó không phải là bài hát cuối cùng. Bài hát cuối cùng tôi viết cách đây hai năm. Khi tôi biết tin nhà tôi lâm bệnh nặng. Tôi biết tai họa sẽ ập đến gia đình tôi. Vì thế tôi đã viết "bài hát biệt ly". Nhưng điều ân hận của tôi là tôi không đủ nghị lực để hát bài hát ấy cho nhà tôi nghe.

Anh đưa tay với chiếc ghi ta đã cũ, hàng ngày anh vẫn để bên giường của chị, so lại dây đàn và trên khuôn mặt đớn đau của anh, những nếp nhăn bỗng mờ đi khi anh lấy hết can đảm cất lên tiếng hát: "Em ơi đừng sợ lá thu rơi.

Ðừng vội tắt nụ cười. Em trong anh không bao giờ ly biệt.

Tình yêu của chúng mình như dòng sông chảy miết....

Tôi lặng đi trong tiếng hát. Anh Hoàng hát xong khi nào tôi cũng không hay. Trước đây, khi anh hát xong, dựng cây đàn ghi ta bên đầu giường của chị, anh nhận được bông hoa rất tươi của cô gái làng hoa, tiếng vỗ tay nhè nhẹ của người đàn ông khó tính, nụ cười yếu ớt của cụ già. Hôm nay, tất cả đều im lặng. Mãi đến khi cô gái làng hoa bật lên tiếng khóc, tâm tưởng của tôi mới trở về với hiện tại. Tôi xin anh Hoàng hát cho chúng tôi nghe một lần nữa, vì tôi biết anh sẽ không còn dịp trở lại căn phòng này. Lần này, anh hát to hơn, đầy xúc cảm đúng với giọng bình thường của người ca sĩ.

Tiếng hát của anh ngân lên. Những tia nắng ban mai chiếu xiên qua cửa, sưởi ấm căn phòng. Và tôi nhận ra, tiếng hát ấy chỉ có thể phát ra từ tấm lòng của một nghệ sĩ lớn. Anh Hoàng là một nhạc sĩ tài năng.

Ngoài kia, nắng trải vàng trên những lối đi và những đôi chim sẻ đang ríu rít chuyền cành.

Bài hát chim nhồng xanh

Ngô Thị Kim Cúc

... Bóng trăng ngã lộn bóng tre. Chàng ơi thức dậy mà nghe ta thề... Vườn đào vườn lựu vườn lê. Con ong vô hút nhuỵ con bướm xê ra ngoài. Bạn về nghĩ lại mà coi. Tấm tình ta ở gương soi không bằng...

Nàng hát, nàng hát đi hát lại bài hát ấy trong khi đứa bé hết vật mình sang phải lại sang trái. Tới lúc nàng giơ tay phát vào đít nó, nó mới chịu nằm yên, và yên luôn. Thế mà nàng vẫn hát, hình như quên mất mình đang làm gì.

- Thôi em, nó ngủ rồi.

Giọng anh hơi gắt. Anh chợt nhớ là lần đầu khi nghe nàng hát ru con anh thú vị dường nào. Một cô gái trông rất diện, rất thời thượng mà lại biết hát điệu ru con. Thế nhưng càng về sau, sự thích thú càng vơi đi, thay vào đó là nỗi ngao ngán. Ðứa bé dài ngoẵng, xanh rớt, cứ như một nỗi nhắc nhở đầy trách móc về bổn phận chủ gia đình của anh, của người cha, người chồng. Vì thế, anh không còn thích nghe những bài hát ru con ảo não, đầy vẻ thương thân, trách phận của nàng nữa.

Qua khóe mắt, anh thấy nàng đã nằm thẳng người lại và đang kín đáo liếc anh. Vẻ dò dẫm ấy làm anh bực bội. Thà nàng cứ rằn rực còn hơn.

- Anh ơi, anh nhớ hôm nay ngày gì không? - Vừa ngồi lên, nàng vừa nói bằng giọng tươi tỉnh.

- Ngày gì, ai nhớ nổi - Anh làu bàu trong miệng.

- Ngày một tháng tư... Hai năm rồi... Giọng nàng trải ra, chờ đợi.

Anh đứng lên, chỉ thấy bực dọc hơn. Nghĩa là hai năm ngày họ sống chung, với thằng con trai gần hai mươi tháng. Thế đấy! Sự sa sẩy của anh. Sự thắng thế của nàng. Người ăn mừng ngày ấy là nàng chứ chẳng phải anh đâu. Anh nhìn sững nàng. Không hẳn giận dữ, cũng không hẳn ngạc nhiên. Người từng trải như nàng, lẽ nào để xảy ra chuyện ấy.

- Thì đẻ vậy.

Anh buông thõng mấy tiếng. Mắt nàng kín đáo dò xét anh và từ đó đến nay không hề thay đổi. Họ thành một gia đình. Có khoảng năm tháng để nàng làm vợ. Buổi sáng sau khi ăn bún, mì hoặc xôi gì đó, anh đạp xe đến bệnh viện còn nàng đạp xe đến hiệu uốn tóc. Trưa nào anh cũng phải chờ nàng vì thợ uốn tóc phụ thuộc vào giờ giấc của khách. Họ nấu nướng và ăn uống một cách hối hả rồi lại chia tay nhau cho đến tối. Ðêm thì dễ chịu hơn vì nàng có vẻ thuộc về anh. Mùi xà phòng thơm. Chiếc áo ngủ nhẹ mầu xanh, thân thể nàng mát mẻ... Rồi nàng sinh con. Những lúc chỉ một mình, anh vẫn thường quan sát thằng bé để cố tìm ra điểm tương đồng thiêng liêng nào đó. Có lẽ nó chỉ giống anh ở nét già cỗi. Da nhăn nhúm, trán cau lại đau khổ, nó như hục hặc với những gì đang đợi mình. Nàng bán chiếc nhẫn vàng duy nhất. Còn anh bán chiếc cát sét, vật duy nhất trong căn phòng độc thân của anh. Sữa nàng khô, vì nàng chẳng có gì ăn, thằng bé cứ héo đi với những tiếng khóc ngằn ngặt, gân cổ. Nhiều đêm, từ chiếc giường cá nhân, anh nghe nàng hát ru con, lạ lùng nhận ra đời mình đã đổi thay đến thế. Ra là anh đã có vợ con rồi đấy. Thế mà chẳng biết làm gì hơn ngoài chuyện ngồi bên máy X quang từ ngày này sang ngày khác, để chụp và rọi phổi cho những người nghi có bệnh.

- Em có cái này tặng anh... Nàng nói vẻ dè dặt.

Anh chăm chú theo dõi khi nàng tiến đến chiếc bàn nhỏ, mở lấy cái túi và lại lục túi để đưa ra một gói nhỏ.

- Ðây này, anh thắt thử coi, lịch sự lắm...

Anh cầm chiếc cà vạt xanh nhạt điểm những đường sọc mờ đỏm dáng từ tay nàng, đột nhiên nghĩ đến cái thòng lọng. Phải rồi, anh đã đút đầu vào sợi dây mà nàng nắm giữ.

- Mua làm gì tốn tiền. Biết mặc áo nào với nó, mà thắt vào dịp nào - Giọng anh dấm dẳn.

   - À... Em sẽ mua cho anh miếng vải đen, loại hàng mới để may sơ mi. Mầu đen đi với mầu này rất nhã.

- Tùy em - Anh buông thõng, thầm nghĩ điều ấy chẳng bao giờ được thực hiện.

Tuy nhiên, để làm vui nàng, anh thắt chiếc cà vạt mới một cách thận trọng, sửa đi sửa lại, để khỏi phải trò chuyện. Anh biết nàng vẫn đang theo dõi anh. Ðến khi anh đã cất cà vạt vào ngăn tủ, nằm xuống giường, đã thấy nàng ngồi xuống cạnh mình. Tay nàng chạm nhẹ lên vai anh, giọng nàng chùng xuống:

- Anh có vẻ buồn... Sao vậy?

Anh không có cách nào khác là quàng tay ôm lấy nàng, kéo nàng nằm xuống.

- Có gì đâu...

Nàng ngoan ngoãn nép mình trong tay anh. Còn anh như cái máy, vuốt ve nàng mà tâm trí để tận đâu đâu. Như thể đã nhiều chục năm rồi. Không còn háo hức, không còn cảm xúc, không còn ngay cả sự vui vẻ giả tạo. Hình như nàng cảm nhận được điều đó mà vẫn không đòi hỏi gì hơn. Giờ đây, khi nàng chập chờn ngủ, bình yên, anh ngó nàng dưới ánh đèn xoi mói. Ðấy, người đàn bà đã chung chăn gối và đã cho anh một đứa con trai. Nàng là vợ anh, người vợ từ trên trời rơi xuống, chẳng tốn đồng trầu cau nào cả.

Lúc ấy, anh cũng như bây giờ, lang thang, bất định. Buổi sáng ấy, có hai phụ nữ trong số những người đến chụp hình phổi. Anh đã quá quen với việc ngắm nhìn các bộ ngực đàn bà nên cũng chẳng hơi sức đâu mà nhớ mặt họ. Lúc ra về, khi có người đến gần anh cũng chẳng buồn dừng xe. Cô gái đành lên tiếng gọi, sau đó lúng búng nhận rằng mình mới từ phòng X quang ra, và hỏi anh có phải tên Viên, bạn của anh Lân râu không. Thì ra nàng đã gặp anh ở nhà Lân râu một lần nào đó. Anh không thể không mời nàng đến quán nước, việc mà đã từ lâu anh quên LÀM VỚI BẠN GÁI. Ở QUÁN nước anh tóm tắt được tiểu sử của nàng. Nàng là vợ của Hỷ, bạn Lân, nhưng Hỷ đã bỏ nàng sau khi được vợ chính thức bảo lãnh sang Mỹ. Nàng sống với Lân, sau đó đến lượt Lân tự trốn đi bằng thuyền đánh cá. Hiện nàng đang sống một mình với nghề uốn tóc. Anh quan sát nàng: gương mặt trước đây hẳn cũng xinh đẹp nhưng đã hằn rõ nét héo úa sầu khổ. Thân hình nàng khá hơn, chắc là chưa sinh nở. Anh không an ủi, cũng chẳng tìm cách ve vãn nàng. Chính nàng đã tự tìm đến, ngã xuống giường anh một cách tự nguyện. Anh vẫn tự thấy mình không có gì để hấp dẫn phụ nữ: túi lúc nào cũng rỗng, công việc xoàng xĩnh, người thì teo tóp lại vì thiếu ăn. Chắc là cô ta cần đàn ông, anh lơ đãng nghĩ, và cũng lơ đãng hưởng thụ nàng, chẳng băn khoăn mảy may. Cho đến khi nàng có mang và dọn đến ở hẳn với anh. Sau đó, vì có con, nàng phải nghỉ việc. Ðồng lương thảm hại của anh phải chi tiêu cho cả ba người. Nàng không than vãn, không nêu lên một đòi hỏi nào cả. Nhiều bữa ăn anh thấy nàng lúc thúc với những việc chẳng đâu vào đâu, gọi cũng chẳng vào, cho đến lúc anh gần xong bữa. Khi phát giác ra nàng nhường cơm, nhường phần cá canh ít ỏi cho anh, anh lặng cả người. Những ngày sau, anh lân la đến từng bạn bè hỏi xem có việc gì làm thêm. Nhưng ngay cả chuyện dán bao bì, bện chổi hay chọn cà phê xuất khẩu cũng chẳng kiếm đâu ra. Anh đã đạp xe thồ mấy tối nhưng những bữa ăn tằn tiện và chiếc xe cà tàng khiến đêm về người anh cứ bã ra. Nàng bế con ra đường ngồi bán bắp nướng. Nhưng nàng không đủ mồm miệng để cạnh tranh với người buôn chuyên nghiệp, lại chuyển sang bán ổi dầm, rồi mực nướng. Vẫn thế. Một hôm, nàng hân hoan khoe với anh rằng đã có việc làm mới. Dọn dẹp nhà cửa cho một ông già. Một ông cán bộ gần bẩy mươi tuổi có con trai và con dâu đang công tác ở nước ngoài. Nàng đến để nấu nướng, giặt giũ, LAU CHÙI NHÀ CỬA. Ở ÐÓ, nàng có thể mang cả con đi theo để trông. Từ đó, sáng sáng nàng lo đi chợ sớm, về nấu ăn để sẵn cho anh cả trưa và chiều. Rồi nàng bế con đi, đến tối mới trở về. Anh yên tâm thấy nàng và đứa bé có da có thịt lên nhờ cơm nhà người khác. Dần dà, nàng sắm sửa thêm vật dụng gia đình mà đầu tiên là chiếc cát sét còn tốt hơn cả chiếc cũ của anh, như để đền bù. Từ bấy đến nay anh không phải nghĩ ngợi gì về chuyện tiền nong. Kể ra phụ nữ biết cách thu vén gia đình hơn, đôi khi anh phán quyết một cách hài lòng như thế.

- ... Xin mưa triền miên mãi không lắng đọng... cho đôi tình nhân đuối trong giấc mộng...

Giọng hát chanh chách, ma mãnh. Con nhồng nghiêng nghiêng đầu, nhấp nháy mắt, huýt gió lại điệu nhạc thêm lần nữa. Rồi nó nhẩy tâng trên những thanh ngang của chiếc lồng. Anh vừa thấy ngộ, vừa thấy kỳ quái. Một con chim biết hát giọng người.

- Em ơi... hun anh n...ữ...a... đi... n... ữ... a...

Con vật đã đổi sang giọng đàn ông, và lại nghiêng ngó, xem anh tán thưởng thế nào. Anh cười, búng tay tanh tách. Nó co người, nhảy lùi lại vẻ thủ thế. Anh cả cười, quay xe bỏ đi, lầm bầm:

- Con quỷ.

Từ đàng xa anh nghe giọng nó nheo nhéo:

- Ðồ đĩ ngựa...

Tiếng hát ma quái của con nhồng không hiểu sao cứ đeo đẳng anh, ngay cả bữa cơm ngon miệng ở nhà người bạn cũ. Họ đã đâm xe vào nhau và nhận ra nhau sau tám năm không giáp mặt dù sống trong một thành phố. Anh không thể không nhắc đến nó, sau những câu chuyện dầm dề về những ông to ăn chặn và ăn chơi ở xí nghiệp của bạn anh.

- Tôi thấy kinh kinh thế nào ấy, như có cái gì ma quỷ nấp trong cái xác chim của nó.

- Kinh là phải, vì nó được nuôi trong cái nhà ấy mà. Dân xóm này gọi đó là sự bí mật mà ai cũng biết. Một nhà chứa loại mới. Xe hơi và xe máy xịn dập dìu ngày đêm. Còn ai ngồi xe thì anh biết rồi. Thôi thì đủ các loại. Viên chức cải thiện có. Sinh viên học sinh cần ăn diện có. Thất nghiệp lang bang có... Nhưng mà này, đừng có dại dột dòm ngó gì vào đó, tụi nó thấy là rắc rối to.

- Vui miệng nói chơi chớ tôi để ý làm gì. Thời buổi này chán vạn cảnh hơn thế.

Lúc đạp xe trở ra để đi làm chiều, qua ngôi nhà ấy, anh chỉ lướt ngang một cách thờ ơ. Bỗng dưng tai anh bắt gặp tiếng khóc thật quen rồi mắt anh nhìn thấy thằng Bô còm nhom đang vùng vẫy trên tay một bà già. Tiếng khóc của nó inh ỏi, chói chang. Anh run lên dừng xe lại dòm sững vào. Ðúng rồi cái áo thun mầu xanh mực mà anh mặc cho nó ban sáng. Bà già nhìn thấy anh, lẳng lặng bế đứa bé đi. Con nhồng xanh ngoài hiên lại lảnh lót:

- ... Xin mưa triền miên mãi không lắng đọng... Cho đôi tình nhân đuối trong giấc mộng...

Cổ họng đau muốn toác ra, anh nhấn chân trên bàn đạp, lướt qua khỏi ngôi nhà. Ra đến đường, anh dừng lại, nghĩ ngợi. Quay lại chăng? Gọi to lên bắt nàng ra đối mặt, ném vào mặt nàng sự tức giận đang làm anh nghẹn thở? Rồi anh nghĩ: nàng sẽ chẳng ra đâu, mà biết đâu, lại một thằng ma cô nào đó...

Anh đến chỗ làm việc, uể oải, nhàm chán như mọi ngày với số người đến chụp hình phổi nhiều lên bởi đang mùa tăng vọt giá cả. Hết giờ, anh không về nhà mà đạp xe lang thang khắp phố, như một kẻ thất tình. Cơn đói khiến anh cuối cùng phải tấp vào một quán mì. Ðây là đồng tiền mà anh kiếm được một cách trong sạch. Thì ra bấy lâu nay anh vẫn nuốt những món mà nàng đánh đổi bằng thân xác. Ngay trong máu thịt anh đây, suốt cả năm trời qua đã được tạo thành từ thứ tiền có nguồn gốc đó. ?n xong anh vào ngồi trong một công viên khai sặc mùi nước tiểu, loáng thoáng nhìn thấy những đàn ông và phụ nữ lôi nhau vào những vòm cây tối. Ðến khuya, khi muỗi cắn bừng cả người, anh mới quay về. Nàng đang ngồi chờ trên bậc cửa.

- Sao anh... anh đi đâu... mà có vẻ mệt lắm...?

Không đáp, anh đi luôn ra nhà sau, múc nước dội ào ào lên cái đầu và thân thể đang nóng bừng. Nàng bế đứa bé nhìn anh. Mắt nàng lộ vẻ khiếp sợ. Anh chỉ muốn đập phá cái gì đó. Thì đây rồi.

Chiếc cát sét đang vẳng ra bài hát chết tiệt ấy:

- ... Cho đôi tình nhân đuối trong giấc mộng...

- Tắt ngay đi. Cái thằng Tuấn Tú hát như cứt phải trời mưa... - Lần đầu tiên anh ăn nói cục cằn như thế.

Nàng tắt ngay máy. Ðứa bé ọ ẹ phản đối, nàng chẳng hề quan tâm, mắt vẫn không rời anh.

- Em có cái này... cho anh... - Tay nàng giơ ra miếng vải đen.

   À, vải may sơ mi nàng nói hôm nào.

- ?n mặc theo kiểu bọn nó đó à? - Giọng anh gây gổ.

- Dạ... mầu này đang thịnh hành... - Nàng mừng rỡ tán thành.

- Rồi xức nước hoa gì đây? ?n nói kiểu nào? - Anh hỏi sấn sổ.

Mặt nàng ngây ra. Anh cảm thấy hả dạ. Ðược rồi, anh sẽ chẳng vội vàng gì. Chưa nên nói hết ra tất cả. Hãy cứ giữ ở cái mức hiện thời xem sao. Anh bỏ vải lên giường. Nàng nhỏ giọng:

- Mai anh đi may đi. Rồi em sẽ MUA THÊM VẢI QUẦN. ÁO QUẦN anh cũng cũ hết rồi.

Anh hơi nhếch mép, ngồi xuống mé giường, bật diêm châm thuốc. Mùi khói thuốc lại làm anh điên tiết. Anh nhớ đến mùi thuốc lá vướng trong tóc nàng mà bao giờ nàng cũng bảo là của ông già.

- Này cái ông già của em đó đi xe loại gì?

- Xe... hình như xe loại mới nhất... Em cũng không rành nên không rõ... - Nàng lúng búng.

- Có đúng ông ta bẩy mươi rồi không?

- Dạ... chắc cỡ đó... - Nàng có vẻ rất khổ sở.

- Một lũ khốn kiếp - Anh buông thõng.

Nàng co rúm người lại như bị đánh, hai tay bế đứa bé run run. Nếu đứa bé khóc, anh dễ có cớ để gây gổ hơn.

Mặt nàng cúi xuống và hát nho nhỏ những câu dỗ dành vô nghĩa. Thôi được, hôm nay thế đủ rồi. Anh sẽ còn tiếp tục. Ngày mai... ngày mốt... cũng chưa muộn.

Ðêm. Tiếng nàng thở nhẹ. Tiếng đứa bé trằn trọc, khóc quấy. Tiếng thạch sùng vang hơn. Tiếng gián xoè cánh... Anh trơ mắt ra đốt thuốc. Lạ lùng là anh không hề đau khổ như lẽ ra phải thế. Có lẽ chỉ là tí tự ái. Cũng có thể chỉ là sự thức giấc bất ngờ của một thứ giác quan đặc biệt nào đó. Có lẽ tại anh không yêu nàng, không gắn bó tinh thần và thể xác. Nhưng dù sao nàng cũng là vợ anh!... Lẽ ra anh phải lồng lộn, gào thét, sỉ nhục, làm đau nàng, phải đập phá toang hoang lên. Ðàng này... Anh kinh hãi thấy mình lạnh tanh như chuyện của ai khác. Mà... biết đâu... biết đâu đứa bé anh trông thấy lại chẳng phải thằng Bô... Nhưng thằng Bô... liệu nó có là con anh thực không? Thời gian dan díu với anh, liệu nàng có đi lại với ai khác? Tại sao nàng lại xộc vào đời anh một cách thẳng thừng như thế?

Anh bỗng nhớ lại những lời tỉ tê của nàng khoảng thời gian đầu còn thắm thiết. Rằng nàng bơ vơ nên chỉ mong có một mái ấm, chỉ muốn có chồng và có con. Nàng thèm khát thứ hạnh phúc bình thường đến xoàng xĩnh. Có lẽ vì thế, ngay thời gian túng thiếu nhất, nàng cũng xử sự với thái độ cam chịu của người nội trợ gương mẫu nhất. Cung cách đó khiến anh ban đầu thấy thương nhưng càng về sau càng thấy khinh thị. Hình như đối với nàng, nắm được anh là quá đủ. Anh ôn lại mọi chuyện để rồi cuối cùng nhận ra rằng trong cuộc sống chung này, anh chẳng mất gì hết. Từ một anh chàng cơm niêu nước lọ, quần lồng đèn, áo ống thụt, anh đã có người chăm lo bữa ăn, nơi ở. Giờ đây trong nhà còn có chút tiện nghi hơn hẳn ngày nào. Và nàng nữa. Nhưng khi anh cần đến nàng, bao giờ nàng cũng đáp lại một cách nồng nhiệt và âu yếm. Có phải nàng yêu anh không? Nhưng lẽ nào lại có một kiểu tình yêu như thế? Cái gì ở anh đã hấp dẫn nàng? Hình như chưa từng có người phụ nữ tử tế nào, loại mà anh mơ ước, ban cho anh chút hy vọng. Anh thừa biết lý do. Ở THỜI BUỔI MÀ NGƯỜI TA TIÊU HÀNG triệu đồng cho một bữa nhậu, đàn ông có thứ lương tháng chết đói như anh phải biết mình xếp ở thứ bậc nào. Anh đã dè xẻn đến mức cao nhất, để đến những ngày cuối tháng vẫn có cái gì để cho vào mồm. Nhưng anh thừa biết sẽ chẳng có phụ nữ nào sẵn sàng đến chia sẻ với anh sự dè xẻn đó, bởi đàn bà thường lấy chồng để nương nhờ. Ðã lâu rồi anh không còn suy nghĩ về tương lai, không bận tâm đến thời gian, tuổi tác. Cuộc sống với anh là một sự thả nổi. Mỗi ngày trôi qua là sự lặp lại. Anh thấy mình giống như cây cỏ. Trời nắng thì héo khô nhưng vẫn sống, đến mưa lại ngập dập nhưng cũng chẳng chết. Và cứ thế lay lắt dưới chân người khác, không ai nhìn ngó, chẳng ai thương tưởng.

Trời sáng. Nàng trở dậy, rón rén rời giường. Ngang chỗ anh nằm, nàng dừng lại. Anh nhắm mắt, vờ như đang ngủ. Hẳn nàng đã thấy những đầu thuốc đầy lên trong chiếc gạt tàn dưới đấy. Nàng sợ. Anh nghĩ. Và kinh ngạc thấy mình chẳng thích thú gì về điều đó, như anh tưởng tượng tối qua. Khi anh từ nhà sau đi lên, đã thấy tô bún bò bốc khói nàng để ở chỗ mọi ngày. Nàng cũng đang cho thằng bé ăn ở chiếc ghế bên cạnh. Nàng nói mà không nhìn anh:

- Em nấu canh chua trưa anh ăn nghe. Trời nắng nóng quá.

Anh ậm ừ. Nàng tiếp:

- Anh cố ăn uống lên. Anh vẫn gầy lắm.

Mắt nàng nhân cớ đó, lại nhìn anh. Vẫn cái nhìn dò dẫm sợ sệt. Tự dưng anh nổi giận. Anh dằn đũa xuống bàn: - Thôi đi, ăn năn mãi, nói không biết chán.

Nàng nhìn tô bún bỏ dở, nhìn anh phóng xe đạp khỏi nhà, đầy ngỡ ngàng.

Còn anh, suốt buổi sáng ngồi trước máy, anh cứ ngẩn ngơ mãi trong đầu câu hỏi: làm gì với nàng bây giờ? Chỉ cần anh nói thẳng ra là mọi chuyện xong ngay. Ai có thể chấp nhận việc vợ mình lại đi làm vợ bao kẻ khác? Anh sẽ nói thẳng ra và chắc chắn nàng sẽ khóc, sau đó nàng năn nỉ ỉ ôi, và nếu anh vẫn cương quyết thì nàng chỉ còn cách ra đi. Nàng làm gì còn cái quyền tiếp tục ở lại đây, sau cái tội tày đình như thế?... Và rồi, anh sẽ trở lại đời sống cũ, lại cơm niêu nước lọ, mỗi ngày chỉ đối diện với cái bóng của mình... Nồi canh anh bắc hâm trên bếp dầu sôi trào, tắt cả lửa. Anh chan canh vào tô cơm, ngồi nhai như máy. Một lúc anh mới chợt nhớ ra mình đang nhai nuốt những thứ mà nàng mua sắm bằng cái đồng tiền ấy. Anh nghẹn lại, nhìn quanh. Nhưng chẳng có ai hết. Chẳng có nàng. Chỉ có mình anh, mình anh thôi. Anh đưa mắt nhìn quanh nhà. Ðâu cũng có dấu vết của nàng. Chiếc màn cửa, chùm hoa vải trên tường, cây chổi trong góc nhà, bộ quần áo nàng phơi trên dây... anh vẫn hưởng thụ mọi thứ mỗi ngày mà không nhận biết. Sao ngay từ đầu anh không chịu để ý gì cả. Không để ý ngay cả bản thân nàng. Ðến bây giờ, nếu cần phải mô tả gương mặt nàng, anh không phải biết nói những gì. Hình như chưa bao giờ anh ngắm nhìn nàng một cách tường tận. Sao thế nhỉ? Sao lại như thế được? Hẳn đang có cái gì rất không ổn nhưng đó là cái gì thì anh chịu, không trả lời được.

Sau giờ làm việc chiều, anh lại đạp xe đến ngôi nhà ấy. Ðứng bên hàng rào với một sự hồi hộp kỳ lạ, anh chờ một điều gì đó thật kinh khủng. Anh chờ, chờ mãi... Vẫn chẳng có gì hết. Không hề thấy người, không hề nghe tiếng ai, không có cả con nhồng. Ai đã dẹp mất cái lồng chim vì lý do gì nhỉ? Anh đạp xe về, lòng tràn đầy hoang mang. Anh có nhầm nhà không? Hay là anh đã nằm mơ chuyện con nhồng, bài hát và thằng Bô? Hay ngày hôm qua là một ngày không thực?

Ðến nhà, đã thấy nàng đang chải tóc trước gương. Mái tóc ướt dán vải áo sát vào da thịt. Anh nhìn nàng như mới thấy lần đầu. Hình như đã quá lâu rồi anh không thấy nàng trong dáng vẻ này. Nàng luôn tắm gội sạch trước khi về nhà, sau lần anh nhăn nhó về cái mùi thuốc lá. Hừ!

Nàng quay ra, nhoẻn cười khi thấy anh trong gương:

- Anh biết không, hôm nay ông cụ cho em nghỉ sớm.

Anh dựng xe vào góc nhà, chiếc xe mới mà nàng đã sắm.

- Tối nay mình đi xem cái gì đi anh.

- Xem gì? - Giọng anh không ra săn đón, cũng không ra hững hờ.

- Xem ca nhạc vậy. Lâu rồi, mình không đi đâu cả - Nàng mừng rỡ.

- Thôi đi. Lại tới nhìn cái BỌN ÐIÊN VỪA HÁT VỪA GIẬT NHƯ MẤY CON RỐI. Ở nhà còn hơn.

- Anh không thích thì thôi. Mà em cũng chẳng thích đâu - Nàng tán thành ngay.

Bữa tối có xà lách trộn, canh măng, dưa leo ngâm dấm, và cả bia.

Giữa bữa, bỗng dưng anh lên tiếng, như bị ai xúi giục:

- Sao tôi khinh cái thứ chim nhồng thế không biết.

Mắt nàng tròn xoe nhìn anh. Anh quan sát nàng một cách nham hiểm. Tay nàng cầm chai bia hình như hơi run lên. Cũng có thể vì hơi nặng. Nhưng mắt nàng đã cụp xuống vội vã và nàng lẳng lặng rót bia vào ly anh. Anh ăn khá nhiều và cảm thấy no. Hình như ít khi nào anh ăn no đến thế. Lúc nàng bật cát sét, một giọng ru con Nam Bộ nổi lên. Anh díp cả mắt lại, lần đến giường. Thật là một thói quen tai hại: cứ hễ ăn no vào là anh muốn ngủ. Mà hình như lại còn say bia nữa.

Khi bị chạm mạnh vào người, anh thức giấc. Mùi dầu gội đầu phụ nữ đầy mời mọc sộc vào mũi anh. Tay nàng mát rượi vòng qua cổ anh. Anh để mặc nàng vờn mình, rồi đáp lại nàng theo kiểu một gã say đang thả lỏng hết bản năng.

Sáng. Anh dậy sớm. Nàng vẫn đang thở đều đều bên thằng Bô. Anh đứng ngắm nàng. Trong tư thế hở hênh với chiếc áo ngủ phanh ra, trông nàng thật khá với vẻ dè giữ nàng vẫn có ban ngày. Ðầu anh bỗng hiện lên cái hàng rào sơn trắng, con nhồng xanh, và nàng ở đâu đó sau những bức tường kín mít kia, chắc cũng trong tư thế ấy. Anh mím môi rồi buột miệng:

- Ðồ đĩ!

Thở dốc vì câu chửi của chính mình, anh mở cửa ra hiên, đứng lặng. Anh biết chắc đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng anh dám nói thế. Bởi từ trong thâm tâm, anh tự hiểu mình là người thua cuộc. Anh đã bị mài mòn đến mức có thể chấp nhận mọi thứ trên đời.

Sài Gòn, tháng 4 năm 1991

Bán chữ

Bùi Ðức Ba

Ðẩy cửa bước vào nhà gặp thầy Trọng, chẳng chờ mời ngồi, Kiếm nói:

- Vừa ở trường xem thông báo kết quả. Môn văn thầy dạy tôi xơi ngỗng. Thế là tôi tốt nghiệp phổ thông.

Nhìn xoi mói vào cặp kính cận lồi lồi của thầy Trọng, mắt nó nhướng lên, đôi lông mày xếch nhọn hình lưỡi kiếm. Rồi, kéo mạnh chiếc ghế tựa, ngồi chỉnh chệm đối diện với thầy Trọng, Kiếm nói rành rẽ:

- Thầy nhận lời, đến nhà làm gia sư, cày môn văn cho tôi thi tốt nghiệp. Giá cao. Hợp đồng đấy. Giờ thì đổ bể. - Nó dằn giọng : - Tôi nói thế có phải không thầy?

Thầy Trọng lẳng lặng nghe, đầu lẵc lắc, mắt chớp chớp. Hồng cầu trên mặt thầy vội vã di tản để cho nước da mái mái trong khoảnh khắc đổi màu tai tái. Kiếm xô ghế đứng dậy, tiến đến tấm lịch, nhìn ngày tháng, bóc một tờ lịch đánh "soạt" rồi nói:

- Ngày 20 tháng 6, thầy nhớ cho, hợp đồng phải được xét lại cho sòng phẳng.

Nó gằn giọng:

- Tiền thằng điên cũng hám.

Kiếm đút tờ lịch vào túi ngực, to giọng: "Chào thầy" rồi quay đít, mở cửa bước ra, đầu gật gù, dẩu mồm huýt sáo: "Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay, chưa có bao giờ lòng ta mê say..."

Lần đầu tiên trong đời nhà giáo, thầy Trọng được nghe cái giọng lạ lùng của một học trò như thế. Chao ôi! Thằng Kiếm trân trân nhìn vào mặt mình. Nó dám nói rằng có hợp đồng rồi, phải xem xét lại hợp đồng, giọng chửi đổng: "Tiền thằng điên cũng hám". à... mà nó không bịa... Ðó là hợp đồng. Mà cái gì chán chường, rệu rã trong người, sao mà đắng ngắt ở đầu lưỡi? Thầy Trọng cắm điếu thuốc lá vào miệng, châm lửa, hít một hơi rõ sâu, phả ra mùi khói khen khét của loại thuốc rẻ tiền, làn khói mờ mịt tuôn ra vật vờ bay trước mặt.

*

Hơn chục năm nay ở trường này, lớp lớp học sinh đã học môn văn thầy Trọng. Giờ giảng, lời sôi động dập dồn như hơi thở của áng văn hùng hồn, lúc ấm áp chậm rãi, lắng sâu như đi vào nguồn mạch của hơi văn trữ tình. Nó rót vào tai, hút lấy đôi mắt trong trẻo của đám học trò yêu văn. Học lớp thầy, học sinh đỗ cao, có học sinh lọt vào đội tuyển, thi học sinh giỏi cấp thành phố, cấp quốc gia. Học sinh bảo thầy Trọng "dạy siêu". Phụ huynh có người ngỡ tên thầy là Siêu nên khi gặp vẻ kính cẩn, miệng "Chào thầy Siêu". Thầy Trọng đỏ mặt mà vui vui.

Ðầu năm học, trò Kiếm được lên lớp 12, không ít người ngạc nhiên.

Giáo viên nói "Kiếm ngồi nhầm lớp", ý người ta bảo, kiến thức của nó đuối lắm, ù ù cạc cạc, không theo nổi lớp 12. Giáo viên toán bảo: "Trình độ của nó làm bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia còn chưa thạo, chỉ tài quay cóp". Có người xì xào: "Gõ cửa nhà thầy cô giáo, giọt nước mắt của mẹ nó rớt ra, làm mủi lòng người". Người khác lại nói: "Gói quà to tướng của mẹ nó đặt cạnh mâm cơm nhiều rau ít đậu của thầy. Từ chối sao đây? Thế là điểm ma được mấy cấy tua tủa vào sổ điểm cho nó. Kết quả điểm tổng kết cuối năm, vượt năm phẩy, được lên lớp theo đúng quy chế của Bộ".

ở lớp 12, Kiếm nổi danh là tay lãng tử, chịu chơi. Nhà giàu. Cặp sách thường sẵn bao ba số 5. Giờ ra chơi, vắng bóng giáo viên, nó xòe lửa ga, phì phèo thuốc lá. Nó sành bia, khen Tai gơ "uống đã", bia hơi mát bổ. Ngày sinh nhật, Kiếm rủ bạn đi chơi bằng xe taxi, lên phủ Tây Hồ ăn đặc sản rồi đến sàn nhảy tới đêm khuya.

Vợ chồng bà Quý băn khoăn về thằng Kiếm, đứa con một của mình. Băn khoăn về sự xài tiền của nó một phần, băn khoăn nhiều hơn là cái sự học của nó. Nó học tài tử, chẳng mấy khi ngó ngàng đến sách vở.

Giữa học kỳ một, nhằm ngày chủ nhật, Kiếm có nhà, vợ chồng bà Quý bàn chuyện học hành với con. Bà Quý thẽ thọt:

- Sức học mày đuối lắm, gay go đấy, phải cố gắng con ạ. Chăm chỉ vào. Lớp 12 cuối năm phải thi rồi cố thi đại học nữa chứ.

- Bà già chỉ lo xa, hát mãi cái điệp khúc "Cố gắng" "Chăm chỉ". Ðầu năm cứ tằng tằng, cuối năm dốc sức, lo gì.

- Bây giờ không học, đầu óc rỗng tuếch, cuối năm dốc sức, sao kịp?

- Bố yên tâm đi, con đã có bài bản...

Bà Quý tò mò, cắt ngang:

- Nói tao coi nào.

- Lũ bạn con cùng vần K, thằng Khánh, thằng Khôi, thằng Kính, chúng nó học siêu các môn tự nhiên và ngoại ngữ. Xếp số báo danh sẽ có đứa ngồi cạnh con. Lĩnh suất ăn theo, mắt con kém gì máy phô-tô đời mới. Các môn ấy thế nào mà chẳng điểm 5, đủ tốt nghiệp.

Bố nó vặn hỏi:

- Chỉ có thi môn tự nhiên và ngoại ngữ thôi à?

Kiếm thủng thẳng nói:

- Thi văn nữa ông già ạ. Cái môn chết tiệt ấy, dài dòng chữ nghĩa, phải thuộc thơ văn lại phân tích lằng nhằng. Rồi, còn phải chấm câu, viết đúng chính tả, rách chuyện.

Bà Quý quay sang nói với chồng:

- Thế là gay go rồi, vướng đấy, chẳng dễ nuốt đâu, phải tính nước cho con ông ạ, không vô tâm được đâu.

- Tôi lăn lộn lo kiếm tiền, bà ở nhà rỗi việc, người ta nói nhiều lò luyện thi lắm mà. Phí tổn chẳng lo, khoán việc ấy cho bà đấy.

Bà Quý chép miệng, cái sự học của nó lại phải thi mới khổ. Ông chồng bà thì vô tâm, đùn đẩy việc lo học của thằng Kiếm cho bà, lại vắng nhà như cơm bữa, về nhà như khách vãng lai, bảo rằng nó lên lớp 12 là giỏi, thưởng cho nó năm trăm nghìn.

Thế rồi cả tuần bà Quý cưỡi chiếc Dream II, lần tìm đến bao nhiêu là lò luyện thi. úi chao ôi! Sao mà nhiều lò luyện thi đến thế. Lò to, lò nhỏ. Lò học ở hội trường, lò học trong ngõ. Lò học có bàn, lò học ngồi xổm. Giá tiền học ở các lò như giá hàng ở chợ trời! Ba nghìn, mười nhìn, hai mươi nghìn một buổi, có cả. Bà hoang mang, đắn đo, chẳng biết nên gửi thằng Kiếm vào lò nào. Thằng Kiếm lại đòi học ở cái lò cỡ đại, ở hội trường, đông hai trăm học sinh, mỗi buổi học hai tiết, giá ba nghìn rưỡi một buổi. Nó bảo với bà:

- Thầy giỏi lừng danh, lớp đông vui, giá mềm!

- Lớp học đông như chợ phiên, mày dỏng tai nghe giảng họa chăng được chữ đực chữ cái, rồi lại chuyện riêng, cấu chí nhau. Hỏng. Hỏng. Vô tích sự.

Cũng may bà Quý tình cờ được nghe mấy đứa bạn của thằng Kiếm học cùng trường, khác lớp, nói chuyện về thầy giáo dạy văn. Chúng nói: "Thầy Trọng siêu, dạy hết ý". Lắng nghe, bà tiếc cho thằng Kiếm không được học thầy giỏi. Bà Quý nghĩ ra, con bà dốt, đụt nhất lớp lại mải chơi, phải mời thầy Trọng đến nhà kèm riêng. Một thầy, một trò, tốn kém một chút, chẳng đáng ngại. Bà thở phào như người chơi cờ, gỡ được nước bí.

Tìm đến nhà thầy Trọng, bà kể về ông chồng vô tâm, nhà dư giả mà con dốt chữ. Bà than thở về nỗi khổ tâm của người mẹ. Bà Quý nhìn thầy Trọng như lôi như kéo, như con chiên khẩn cầu đức cha, bà nói: "Nhờ thầy giúp em kèm cặp cháu Kiếm thi đỗ năm nay. Ơn thầy như trời biển, hàng tháng em xin bồi dưỡng có giá để thầy không thua thiệt, gia đình đỡ khó khăn.

Bà cười, nửa đùa, nửa thật:

- Hợp đồng với mẹ con em, thầy nhé!

Cái giữ "giá" rồi "thua thiệt" rót đến tai, làm da mặt, vành tai thầy Trọng ửng đỏ. Thế nhưng cái giọng nài nỉ khẩn cầu kia lại làm động lòng thầy. Nó êm êm, mơn man xoa dịu cái mầu ửng hồng của thầy. Thầy Trọng nghĩ mông lung khói thuốc phun mù mịt. Rồi thầy hạ giọng:

- Chị để tôi nghĩ đã.

*

* *

Gia cảnh thầy Trọng năm nay chẳng được may mắn. Vợ thầy làm nghề thêu ren, hai năm nay mặt hàng ế ẩm, công ty giải thể, mất việc. Bệnh thấp khớp chạy vào tim cứ đeo đẳng, hành hạ người vợ tội nghiệp, một năm hai ba lần nằm viện dài dài. Vợ nằm viện lần này, thầy Trọng đến vay tiền thầy Hào, giáo viên toán. Hào nói:

- Lại vay tiền à... Tôi khuyên ông mở lò luyện thi đi. Mấy năm nay nhờ mở lò, tôi mới có Dream, nhà lên tầng, sống lên người lại có tiền cho ông vay.

Hào lại bảo:

- Nghề giáo mà chỉ sống bằng đồng lương là một hành động kỳ quặc. Chán cho ông, có tài mà vùi trong cát.

- Mình nhận dạy phụ đạo cho các em trong "đội gà nòi" thi học sinh giỏi của trường đấy, phụ đạo cả cho các em học sinh yếu kém do nhà trường tổ chức mà.

- Phụ đạo kiểu bán công bán tư ấy, nhà trường bồi dưỡng bèo bọt lắm. Người lao động như ông được mấy, dạy như thế đâu phải mở lò.

Trọng biết, mấy năm nay lò luyện thi mọc lên như nấm, một buổi dạy thu vài trăm nghìn, rẻ cũng năm bảy chục nghìn. Anh đăm chiêu buông lời:

- Nghề thầy mở lò khác chi người mở hàng bán chữ tôi không hứng.

- Vấn đề đâu phải là hứng. Quên cái hứng nghệ sĩ đi, không đủ tiền nuôi miệng, nuôi con, buộc phải mở lò dạy thêm ông ạ.

Hào chậm rãi:

- Cuộc sống là một bài toán, phải tìm cách giải. Cứ sống cao đạo, tự hào nội tâm, suốt đời làm bạn với nhếch nhác, đói nghèo.

Là thân vay nợ, Trọng thấy mình đuối lý. Anh lẳng lặng nghĩ ngợi mắt nhìn trân trân qua cặp kính cận lồi lồi. Nhìn Trọng, mắt Hảo trở nên linh lợi khác thường, như nhà thương nghiệp vừa tìm ra một quy luật thương trường anh sôi nổi thuyết phục Trọng về cái thị trường mênh mông của lò dạy thêm:

- Trò dốt, trò lười, bố mẹ dúi con vào lò dạy thêm. Muốn đỗ tốt nghiệp, đại học, cao đẳng ư? Cũng vào lò dạy thêm. Lò luyện thi một trò, lò luyện thi 10 trò, lò luyện thi 100 trò. Ông thừa biết bộ đề thi của các bố ấy như đánh đố học trò. Ông và tôi vã mồ hôi hột mới giải nổi. Vậy là các bố ấy mở thị trường cho cánh mình bán chữ đấy.

Hào triết lý:

- Dạy thêm là hành động để tồn tại, "thế thời phải thế" để xóa đói giảm nghèo.

Cầm đồng tiền vay nợ, Trọng thấy tui tủi, bất giác nghĩ đến thơ Tú Xương: "Vạy nợ lắm khi trào nước mắt".

Thầy Trọng không mở lò mà một tuần ba buổi đến kèm cặp môn văn cho thằng Kiếm theo thời gian biểu cố định từ 7 giờ tối. Thế nhưng chẳng mấy buổi học đúng giờ. Kiếm đi chơi về muộn như cơm bữa. Vào giờ học nó thường ngái ngủ, ngáp liền mấy cái, 8 giờ rồi, thầy Trọng rút điếu thuốc ba số 5 mà bà Quý để sẵn trên bàn, châm lửa hút, nhẫn nại chờ thằng Kiếm. Còn đâu những giờ dạy văn đầy cảm hứng. Nào là lặng im để tâm thế nhập cuộc vào giờ giảng, nhập thản vào cái phập phồng hơi thở của chữ nghĩa, với nỗi buồn vui của nhà văn. Rồi, con mắt trong trẻo của đám học trò lên men say cho giọng điệu của thầy... Cái phút nhẫn nại của thầy Trọng chờ trò Kiếm tự nhiên dắt suy nghĩ của thầy về với những hồi ức trong những giờ giảng ngày nào. Lòng rưng rưng với thân phận của nàng Kiều, mắt nặng nước với cuộc đời của Nguyễn Trãi với áng văn Nguyễn Ðình Chiểu... Chao ôi! Ông Nguyễn Tuân viết về người tử tù Huấn Cao cho chữ. Ðạo lý làm người, làm thầy đấy. Còn mình bán chữ kiếm tiền. ý nghĩ ấy làm thầy Trọng ngán ngẩm, buột thở dài. Cặp kính của thầy chẳng nhìn vào bộ đèn chùm pha lê lóng lánh, chẳng để mắt vào những chai rượu thẫm mầu trong tủ kính kia mà nhìn vào khung cửa kính nhạt nhòa ánh đèn. Tất cả những cử chỉ u hoài và trầm mặc ấy của thầy Trọng dường như không lọt qua mắt bà Quý. Nhiều lần bà Quý để ý đến đôi mắt buồn bã qua cặp kính cận trong trong và đã nhiều lần bà tỏ rõ thái độ và tình cảm của mình. Bà Quý muốn san sẻ, an ủi. Bà nhích kề sát sạt bên thầy như đôi tình nhân, cầm cốc nước cam trao tận tay cho thầy.

8 giờ 30, Kiếm đẩy cửa bước vào. Cử chỉ ân cần của mẹ lọt vào cặp mắt ranh mãnh của con. Nó liếc xéo nhìn mẹ và gờm gờm nhìn thầy Trọng, buông lời:

- Tôi về muộn là để hai người tình cảm cho đỡ buồn...

Da mặt thầy Trọng ửng đỏ rồi chuyển màu trắng nhợt, tai tái. Thầy đáp:

- Em lầm lẫn. Nói năng phải đúng mực.

Tim thầy nhoi nhói, nó đập loạn xạ, có cái gì nghèn nghẹt, tưng tức trong lồng ngực. Nhịp thở gấp gáp như hắt hơi ra dù rằng thầy đã cắn chặt làn môi mím lại. Mẹ nó, mặt biến sắc, nói:

- Thằng láo. Bà ngượng ngập nhìn con, thèn thẹn liếc nhìn thầy Trọng. Nhưng rồi bà Quý sợ con thổi phồng chuyện này với bố nó. Tối hôm ấy bà ngon ngọt:

- Con đừng bép xép, điêu toa chuyện này với bố.

Nó cười khẩy:

- Con chẳng điêu toa. Thôi được. Nhưng mẹ phải thoáng với con. Hợp đồng đấy.

Kiếm thò tay móc xấp tiền trong túi mẹ nó một cách công khai, nói:

- Thỏa thuận đấy!

*

Cuối năm học, sắp đến ngày thi mà Kiếm vẫn chứng nào tật ấy. Giờ học nó ngáp vặt, mặt mũi đờ đẫn, mắt đỏ vằn vện. Chuyện nó hít hêrôin, mẹ nó không hay, thầy Trọng cũng chẳng biết.

Dạy nó thế nào đây? Phương pháp sư phạm khơi hứng thú ư? Vô hiệu. Dắt dẫn, khơi gợi? Nó rỗng kiến thức, đành chịu. Lựa cách để nó tích cực, chủ động làm bài? Nó lim dim ngủ. Thời gian gấp gáp, thầy Trọng buộc phải đọc bài giải sẵn, nó chép lia lịa. Thầy nhồi cho nó bao nhiêu là kiến thức mà đầu nó vẫn rỗng không.

Sau ngày hỏng thi tốt nghiệp, cứ năm bữa, nửa tháng, Kiếm lại tìm đến nhà thầy Trọng. Có hôm nó rủ bạn nó cùng đến như để phô trương thanh thế, dễ bề đe dọa.

Lần đầu đến, tay nó mân mê tờ lịch in ngày 20-6 rồi đặt xuống mặt bàn nói?

- Hỏng thi, đời buồn, cần tiền tiêu vặt, thầy thanh toán giúp.

Mặt thầy Trọng tái dại, môi mím chặt, bực dọc, dằn giọng:

- Anh cần đòi bao nhiêu?

- Cần vô biên, càng nhiều càng ít. Nhưng, rách như thầy, tôi nể tình, bao nhiêu cũng ô kê.

Thầy Trọng sục tay vào túi, móc tiền rồi quăng đánh bẹt xấp tiền lẫn lộn các tờ 5 nghìn, 2 nghìn, 1 nghìn, 5 trăm, 2 trăm lên mặt bàn. Kiếm vơ nhanh, tay tỷ mẩn đếm:

- Tiền cám, năm sọi bọ.

Những lần sau Kiếm đến, thầy Trọng chẳng nói chẳng rằng, vứt tiền ra mặt bàn, lúc hai chục, lúc ba chục, lúc năm chục nghìn. Thằng Kiếm vơ vội, hẹn lần sau gặp lại rồi ra về, miệng huýt sáo giai điệu "Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay, chưa có bao giờ lòng ta mê say".

Nửa năm sau, trò Kiếm không đến nhà thầy Trọng nữa. Nó bị công an tóm cùng với lũ bạn hút hêrôin, tham gia vụ án giết người cướp của, bị kết án tù giam.

Thầy Trọng vẫn đến trường, dáng khòng khòng hơn trước, vai nhô cao, mặt hốc hác. Trống vào lớp, chân thầy uể oải như chán mỏi bước đến lớp. Cặp kính cận lồi lồi vẫn không che được ánh mắt ngơ ngác, đờ đẫn, dài dại. Chỉ khi bước vào lớp thầy mới trở nên linh hoạt như xưa. Cầm viên phấn, đứng trước tấm bảng và chính ánh mắt trong trẻo của đám học trò ở lớp như có luồng điện thần diệu dẫn đến cái huyệt tâm linh của nghề thầy đích thực. Giọng thầy lại ấm áp, lúc truyền cảm tha thiết lúc hào sảng sôi động, hút lấy đám học trò yêu văn.

Bắt sấu rừng U Minh hạ

Sơn Nam

Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông sâu nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tĩnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm.

Tại sao vậy?

Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chánh. Rừng U Minh hạ thuộc về loại trầm thủy (1) cá sanh sôi nẩy nở rất nhanh chóng; lên đó tha hồ mà ăn.

Ðến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi phải trở về sông Cái. Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung (2), sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho là sấu đã giảm bớt... Mười phần chết bảy còn ba. Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong (3) chạy về loan báo:

- Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!

So sánh như vậy, không phải là quá đáng! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn (4). Sấu nổi lên, chen vào những bức tranh mầu xanh ấy những vệt đen chi chít: con thì nằm dài như chiếc xuồng lường (5), con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá. Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lịnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh (6). Nó là "sấu chúa" sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông (7), lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Ðằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì ao quá cạn, còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.

Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo (8), tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọng nhang trần (9) và một hũ rượu.

Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:

Hồn ở đâu đây?

Hồn ơi! Hồn hỡi!

Xa cây xa cối,

Xa cội xa nhành,

Ðầu bãi cuối gành

Hùm tha, sấu bắt

Bởi vì thắt ngặt

Manh áo chén cơm

U Minh đỏ ngòm,

Rừng chàm xanh biếc!

Ta thương ta tiếc,

Lập đàn giải oan...

Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Ðoán chừng ông lão nọ là người có kỳ tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.

Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo:

- Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này...

- Té ra ông thợ câu sấu!

Ông Năm Hên lắc đầu:

- Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau.

Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Ðó là ở dưới nước. Ðằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.

- Vậy chớ ông bắt bằng gì?

- Tôi bắt bằng... hai tay không.

Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:

- Bà con cô bác không tin sao?

Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.

- Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. ở xóm này thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

Ông Năm Hên đáp:

- Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở Ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của mình ngoài Huế.

*

* *

Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại:

- Ði nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.

Ðã quá giờ ngọ.

Ngóng về phía ao sấu U Minh hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó, bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời về xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:

- Bà con ơi! Ra coi sấu... Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.

Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.

- Diệu kế ! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.

Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.

Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kê trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.

Ðại khái Tư Hoạch trình bày:

- Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng (10) đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ông biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi (11), chặt ra khúc chừng ba tấc.

Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sau khi bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm Hên xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.

- Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. ổng đâu rồi? Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?

Tư Hoạch nói:

- Mà quên! ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng "đất đai vương trạch" (12) rồi đi bộ về sau.

Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:

Hồn ở đâu đây?

Hồn ơi! Hồn hỡi!

Xa cây xa cối,

Xa cội xa nhành,

Ðầu bãi cuối gành,

Hùm tha, sấu bắt,

Bởi vì thắt ngặt,

Manh áo chén cơm,

U Minh đỏ ngòm,

Rừng tràm xanh biếc!

Ta thương ta tiếc,

Lập đàn giải oan...

Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.

- Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên như vậy.

Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ?

--------------------------------------------------------------------------------

(1). Trầm thủy: Loại đất thấp ngậm nước.

(2). Lung: đầm nhỏ, sình lầy cạn

(3). ?n ong: lấy mật ong trong rừng

(4). Dây cóc kèn: loại cây dây leo ở rừng nước mặn bền chắc, dùng để trói buộc rất tốt.

(5). Xuồng lường: xuồng được làm bằng một cây đục thành (xuồng độc mộc)

(6). Tam tinh: điểm ở trán, giữa hai mắt.

(7). Mác thông: mác có cán dài.

(8). Kiên Giang đạo: đạo là đơn vị hành chính thời xưa tương đương một châu, một quận.

(9). Lọn nhang trần: bó (lọn) nhưng không có bao (trần). Nhà nghèo dùng loại nhang này, vì rẻ tiền.

(10). Xuổng: thuổng (dụng cụ để đào đất).

(11). Mốp tươi: loại cây như cây vông, gỗ xốp, dẻo, có thể làm nút chai hay cốt mũ. Cá sấu ngậm phải khúc gỗ mốp, hai hàm răng dính chặt không há miệng ra được nữa.

(12). Cúng "đất đai vương trạch": cúng thần cai quản đất đai (vương trạch, thực ra là viên trạch, nghĩa là vườn đất, dân gian nói trệch ra là vương trạch)

Bây giờ con mới hiểu

Y ban

Khoanh tròn trong chiếc kén thiếu nữ của ngày cuối cùng, tôi nhìn theo mẹ. Mẹ còn trẻ quá. Tóc mẹ chưa bạc sợi nào. Lưng mẹ thẳng và dáng đi nhanh nhẹn. Mẹ trân trọng bưng lễ vật để lên bàn thờ bố. Mắt mẹ dịu dàng vô biên. Và một nét cười bừng lên trong ánh mắt mẹ - "Con gái chúng mình đi lấy chồng rồi đấy". Rồi đột ngột nước mắt đã lại dâng đầy. Mẹ quay nhìn xuống ngực mình, rồi mẹ nhìn trải khắp gian phòng. Ngày mai, khi tôi chui ra khỏi kén, tôi thành ngài, sinh con đẻ trứng, mẹ sẽ chỉ còn lại một mình với căn phòng trống vắng. Mẹ còn trẻ quá, nỗi cô quạnh trùm lên mẹ trong quãng đời còn lại. Ai sẽ làm thay đổi được điều đó?

Sẽ chẳng thay đổi được số phận đâu. Chiến tranh qua đi để lại muôn vàn những góa phụ như mẹ tôi. Nhưng có lẽ một đứa con, một giọt máu thương yêu để lại giữa hai điểm ngắm sẽ làm dịu bớt phần nào. Và chính tôi, một con bé bảy tuổi ngày ấy đã không mang lại cho mẹ một cơ may cuối cùng.

*

* *

Bố nhập ngũ tôi còn bé lắm. Nỗi nhớ bố chỉ cất thành tiếng khóc chứ chưa biết nói lên lời. Người vợ trẻ nhớ chồng không biết san sẻ cùng ai cũng hòa thành tiếng khóc.

Hai mẹ con sống trong một căn hộ tập thể. Ban ngày mẹ đi làm, tối về hai mẹ con thủ thỉ nói chuyện về bố. Tôi lớn hơn một chút, mẹ thường mang tập album ra chỉ cho tôi ảnh bố. Cứ như bố vừa sang hàng xóm và sắp về đó thôi. Sự thực thì hai mẹ con mang hai nỗi niềm nhớ thương bố khắc khoải.

Buổi trưa hôm ấy bố về nhà đột ngột. Hai mẹ con đang ngồi ăn cơm. Mẹ sững sờ buông rơi chiếc bát. Con trân trân nhìn bố một lúc. Thấy đúng bố rồi, òa reo lên nhưng vẫn bẽn lẽn nấp vào vai mẹ. Bố bế bổng con lên, quay cuồng.

- Chao ôi, lớn thế này rồi kia à? Mà bảy tuổi rồi phải không? Bố vẫn đếm mà!

Rồi bố ôm lấy mẹ. Bố hít mãi vào tóc mẹ, thì thầm: - "Hai giờ thôi em ạ. Tàu đỗ ngoài ga, hai tiếng nữa.

Mẹ rối rít cứ chạy xung quanh bố. Mẹ bế lấy con rồi lại đưa cho bố. Ngoài cửa có mấy người đi qua thì thào:

- Hình như chú Quân nhà cô Nga về thì phải?

Mẹ như sực tỉnh. Mẹ chạy ra đóng chặt cửa.

Tôi ngồi trong lòng bố sung sướng. Nỗi sung sướng muốn trào ra ngoài. Tôi muốn chạy ra báo cho cái Hoa, thằng Tú biết rằng bố đã về. Tôi tụt xuống khỏi lòng bố. Tôi chạy ra mở cửa. Mẹ không bằng lòng kéo tay tôi lên. Mẹ bế tôi ôm chặt vào lòng ngồi xuống bên cạnh bố. Mẹ áp vào lưng bố. Bố ôm mẹ vào ngực. Mẹ thổn thức.

- Ðừng khóc em ạ.

Tôi ngơ ngác nhìn mẹ. Sao phải khóc kia chứ. Vì sao lại đóng cửa thế kia. Mở to ra cho các bác hàng xóm vào chơi uống nước. Các bác ấy cười nói vui lắm, mẹ sẽ hết khóc ngay. Con sẽ ngồi vào giữa lòng bố thế này, cho cái Hương hết hãnh diện nhé. Nó làm như chỉ có mình bố nó về hôm nọ.

- Sao mẹ lại khóc. Con chạy ra mở cửa gọi các bác hàng xóm sang chơi cho mẹ vui nhé.

Xong tôi tụt ngay khỏi lòng mẹ chạy ra mở cửa. Mẹ chạy theo định nắm tay tôi lại - Ðừng con! Rồi như mẹ chợt nghĩ ra điều gì đó:

- A, mẹ cho con năm hào này. Con sang rủ cái Hoa ra đầu phố mua kem mà ăn.

- Vâng ạ.

Tôi cầm tiền vung vẩy chạy. Cái kem trong phút chốc làm cho tôi quên mất bố. Tôi chạy ù sang rủ cái Hoa. Hai đứa vừa ra đến cổng gặp ngay bà bán kem rong. Tôi mua cho nó một chiếc, tôi một chiếc. Tôi đưa kem lên miệng rồi chợt nghĩ ra.

- Bố tớ về rồi đấy!

- Bố cậu về à? Sao không gọi cho tớ biết với.

- Vừa về xong. Sang nhà tớ đi.

- Ðể tớ về bảo cho mẹ tớ biết đã.

Thế rồi mồm nó hét toáng lên từ cổng.

- Mẹ ơi! Bố bạn Loan về rồi. Chú Quân đi bộ đội về rồi.

Tôi cũng chạy ào về nhà. Tôi muốn chạy vào lòng bố ngồi chễm chệ trước khi mọi người đến. Tôi muốn mọi người biết rằng, tôi có bố đây này, bố tôi về đây này. Bao nhiêu lần tôi thèm cái cảnh cái Hương ngồi giữa lòng bố nó.

Cánh cửa đóng kín sững trước mắt tôi. Tôi đẩy cửa, cửa chốt từ bên trong. Tôi đẩy cửa sổ, cửa sổ cũng cài kín. Tôi căng mắt nhìn qua lỗ khóa. Trong nhà tối om, tôi không sao nhìn thấy gì. Tôi đứng im băn khoăn, hay là bố mẹ đi vắng. Tôi nhìn chiếc khóa vẫn lủng lẳng một bên. Nếu bố mẹ đi đâu sẽ phải khóa cửa chứ. Tôi áp tai vào cửa nghe ngóng. Chợt tôi nghe thấy tiếng mẹ nho nhỏ. Thế là tôi biết bố mẹ vẫn ở trong nhà. Một nỗi dỗi hờn con trẻ áp vào lòng tôi. Tôi bị bỏ rơi. Tôi đập vào cánh cửa.

- Mẹ ơi, mở cửa cho con vào với.

Im lặng.

Tôi đập mạnh hơn.

- Mẹ ơi, mở cửa cho con.

Im lặng.

Tôi gào lên và chợt nhớ ra có cả bố ở trong ấy nữa.

- Bố mẹ ơi, mở cửa cho con vào nhà với.

Cái Hoa đã đứng bên cạnh tôi từ lúc nào. Nó ngơ ngác nhìn tôi.

- Sao bố mẹ cậu lại đóng chặt cửa không cho "ấy" vào.

Loáng thoáng vài ba người hàng xóm đi qua trước cửa nhà xem có chuyện gì. Tôi uất ức trào nước mắt. Tôi khóc ầm lên.

- Bố mẹ ơi cho con vào với.

Bố chạy xô ra trước. Bố ôm lấy tôi, úp mặt vào bụng tôi cù. Tôi đẩy bố ra. Mẹ đang vấn lại tóc cho gọn, rồi mẹ chạy ra mở toang cửa. Mẹ nhìn thấy cái Hoa đang ngơ ngác nhìn mẹ và mấy người hàng xóm nhìn mẹ cười. Mẹ cáu bất ngờ. Mẹ xông vào tôi phát lấy phát để rồi òa khóc. Thế là hai mẹ con tôi cùng khóc. Cái Hoa thấy thế cũng chạy lại bên bố tôi khóc. Bố bật cười gỡ mẹ ra.

- Bình tĩnh lại nào, con có lỗi gì đâu.

Mẹ ôm mặt khóc nức nở. Tôi bỗng sợ hãi. Tôi không khóc nữa. Tôi ngước mắt nhìn bố. Mặt bố sạm đen sắt lại như đang dồn nén một điều gì đó. Bố bỗng nhìn ra xa, vụt ra khỏi cửa. Tôi khẽ kéo áo bố. Bố như bừng tỉnh. Bố cúi xuống cười với tôi.

- Con ngoan của bố, con có nhớ bố không?

- Con yêu bố.

Mẹ vẫn khóc. Bố quàng tay ôm mẹ vào ngực. Bố ôm gọn cả mẹ và tôi.

- Ðừng khóc nữa nào. Em yêu của anh. Sắp đến giờ anh phải đi rồi. Ðừng làm cho con sợ.

- Em mong anh từng ngày. Em muốn có thêm một thằng cu... bom đạn nhỡ anh có mệnh hệ nào. Con bé này lớn lên sẽ đi lấy chồng... Còn có một mình em...

Bố cười rất tươi, bố thì thầm rất nhỏ vào tai mẹ:

- Anh sẽ quay về khi em còn rất trẻ. Sẽ không lâu nữa đâu.

- Vâng, lần trước anh cũng bảo thế. Vậy mà đã năm năm rồi. Năm năm nữa em sẽ ba hai. Bố lại cười:

- "Gái ba mươi tuổi đang xoan".

- Anh, mẹ dúi đầu vào ngực bố cười.

- Nào chúng ta cùng vui lên chứ.

Bố vòng tay kéo đầu con, đầu mẹ vào đầu bố, ba cái đầu đập nhẹ vào nhau. Cả nhà phá lên cười. Như chờ có tiếng cười ấy, hàng xóm bắt đầu kéo nhau vào. Họ đã ngấp nghé cả ở ngoài. Phút chốc cả nhà đầy ắp tiếng cười nói vui vẻ. Mỗi người góp một câu. Mắt mẹ long lanh sung sướng.

Hai tiếng đồng hồ trôi qua như một cơn mơ. Mẹ thảng thốt không biết xếp thêm thứ gì vào ba lô cho bố. Bố bế tôi và hàng xóm đưa tiễn, cả một đoàn người dài. Mẹ con tôi đi với bố ra tận bến tàu. Bố cứ liếc mẹ như định nói một điều gì, mẹ lại đưa mắt nhìn tôi, nên bố chỉ cười. Lúc bố lên tàu mẹ lại òa khóc. Tôi an ủi mẹ:

- Mẹ khóc làm gì, bố không chết đâu.

- Em nghe thấy không? Anh không chết được đâu. Lời nói con trẻ như lời tiên tri em ạ. Chờ anh nhé.

Rồi bố giơ ngón tay cái sát mặt mẹ:

- Một thằng con trai!

Chiến tranh không có ngoại lệ. Bố ra đi vĩnh viễn. Thế là đã ba lần năm năm bố không về nhà và đấy cũng chính là thời gian để tôi đã lớn khôn.

Sẽ trọn mười lần, hai mươi lần năm năm nữa, bố mãi mãi không bao giờ trở về để lại mẹ suốt đời với một niềm khao khát thiếu phụ dở dang.

Hà Nội

Ngày 26 tháng 11 năm 1993

Bến Phà Ðen lặng gió

Triệu Bôn

Bà Ðà thường đi làm từ sáng sớm, chiều chạng vạng mới về. Chiếc khăn thâm trùm cách nào đó mà bịt kín cả gáy cả cổ, ngoài cái khe rất nhỏ dành cho hai con mắt lấp loáng nhìn ra.

Dẫu là một người đẹp lộng lẫy mà trùm bịt như thế cũng thành khó hiểu, huống chi bà Ðà là con người có thân hình cứng cỏi, vai ngang dáng đàn ông, mà tính nết cứ mưa, nắng, nắng mưa luân chuyển nhau không ngừng.

Chiều nào không thấy đồ nghề của ông Ðà - chiếc gánh toòng teng một bên đựng bốn, năm hòn đá mài các loại, và một bên là cái chậu đồng sứt vành dùng đựng nước - để ngoài hè, bà Ðà liền rít lên:

- Mất thây mất xác ở đâu giờ này chưa chịu vác mặt về!

Còn như, nếu thấy ông Ðà ngồi hút thuốc lào trên cái giường do mấy tấm ván thùng kê sát nhau, việc đầu tiên của bà Ðà là lấy từ chiếc túi xách ra chai rượu, thuồi xuống trước mặt ông, kèm theo một lời đay đả:

- Này mồ hồi của tôi đấy. Nước mắt của tôi đấy. Nốc đi!

Không mấy khi bà để cho ông uống rượu suông, mà thường có thêm vài thứ nhắm đạm bạc; miếng đậu phụ bôi nghệ nướng lem nhem, một miếng vó bò quăn queo như vỏ cây, năm thì mười họa còn có quả trứng vịt lộn hoặc bộ lòng gà.

Mỗi tội thức nhắm càng ngon, ông Ðà càng phải nghe nhiều lời nhiếc móc của vợ.

- Ðội thúng than từ xà lan lên bãi được mấy, ông biết không? Ba hào! Thế mà một quả trứng vịt lộn những năm đồng. Không nhờ cái đận phát tiền năng suất thì có khối ra đấy mà hốc. - Bà Ðà vừa nói chồng sa sả vừa móc túi lên vách, cởi khăn trùm, nhen bếp, bắc nồi, lấy gạo đi vo... Công việc thoăn thoắt trôi chẩy qua đôi bàn tay ngấm bụi than đen kịt của bà.

Chai rượu trước mặt ông Ðà cạn, vừa lúc bà Ðà bưng mâm cơm lên, hai vợ chồng cùng ăn. Bấy giờ bà Ðà dù có nói trời nói đất, ông Ðà cũng không lấy làm điều, thậm chí ông còn thấy khoái nữa. Nhịn đói suốt ngày, mỏi rạc cẳng đi diễu qua các phố xá, được nhấm chút rượu là chất men chạy rần rật như kiến bò mười đầu ngón tay ngón chân và làm tê dại mang tai ông, khiến người ông lâng lâng.

Tuy vậy đã vài bận ông Ðà xô cả mâm cơm xuống đất rồi xông vào bà vợ khốn khổ mà đấm đá túi bụi. Ðó là những lần bà Ðà nhiếc ông là giết chết con để ăn một mình cho sướng mồm.

Cánh đàn ông hàng xóm tuy không phải là lũ ác bụng nhưng đều đồng thanh ủng hộ ông Ðà thẳng tay trừng trị bà vợ tai quái.

- Thế! Giã nữa!

- Vợ tôi mà thế tôi tẩn nhừ xương!

- Ðem mà trôi sông cái của nợ ấy đi!

Trước sự "chi viện" nhiệt tình ấy, ông Ðà quắc mắt đáp lại:

- Việc nhà tôi, ai mượn các ông chõ vào? Người ta khổ quá rồi phải để người ta nói cho hả bớt cái khổ đi chứ!

Nói vậy nhưng sau mỗi lần xô xát, ông Ðà sợ, không dám nhìn vào mặt vợ mấy ngày liền.

"... Cái năm Nhật kéo sang ta, ông Ðà đương làm anh chân sào trên một chiếc thuyền đinh bề thế chẳng kém ngôi nhà ngói năm gian. Cứ bẩy ngày một lần ông chủ lại chất đầy gạo, muối, dầu tây, vải, lụa lên thuyền, cho nhổ sào ở bến Lục Dầu để ngược lên mạn Ðồng Trâu, Hố Sếu, qua Ngàn Trâu Danh, lên tận Bãi Thải. Ðến Bãi Thải, nhiều khi dỡ hàng xong không kịp nghỉ, đã nhận khách vội vàng để bắt con nước trở xuôi luôn.

Cánh chân sào thuyền gồm mười tay trai lực lưỡng, năm người chạy be tả, năm người chạy be hữu. Công việc bao giờ cũng bắt đầu từ phía mũi thuyền, hai hàng người nhất tề lao phập những cây sào trẩy dài đầu bịt sắt xuống lòng sông, đuôi sào tỳ vào hõm vai, một người cất giọng: "Bớ dô hò..." chín người kia "dô huậy", mặt nước trước mũi thuyền rẽ thành hai làn sóng trắng hình mũi tên, mấy người chân sào cúi gầm mặt, gò lưng bước xuôi để con thuyền nặng nề lao ngược dòng. Tới đuôi thuyền, tất cả lại nhất tề rút sào, trở về đằng mũi, và lại bắt đầu đúng y như thế.

Một buổi sáng thuyền về đến bến Lục Dầu, hành khách chen nhau qua mảnh ván cầu để lên chợ, có một cô gái cứ quẩn quanh dưới khoang. Ðà bước lại gần cô, cất tiếng hỏi:

- Nhà chị này có hàng nặng, không ai đỡ, hử?

- Không không - Cô gái giật mình hoảng hốt - Tôi có hàng gì đâu!

- Sao còn loanh quanh mãi?

Cô gái bỗng òa khóc:

- Tôi sợ...

- Sợ gì?

- Sợ người ta đón bắt tôi trên ấy...

Ðà hiểu ngay ra tình thế của cô gái:

- à. Lại trốn chúa lộn chồng chứ gì? Phải thế cứ nói thật thì tôi giúp...

Việc nên vợ nên chồng giữa hai người đã bắt đầu một cách rất đơn sơ. Tới năm giáp khởi nghĩa, gặp nạn đói khủng khiếp, khắp nơi người chết xếp chồng đống thì đứa con trai đầu lòng của vợ chồng ông Ðà đã biết chạy lon ton theo bố mẹ đi xin ăn.

Vợ chồng ông Ðà dẫn cu Thấn - tên đứa con - phiêu dạt từ Phả Lại lên Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi quay xuống Hà Nội. Họ uống nước lã cầm hơi nằm ở sân ga một đêm, một ngày.

Tối hôm sau bà Ðà nói với chồng:

- Cái chết là cầm chắc rồi. Nhà xem còn cách nào cứu lấy con?

Ông Ðà lẳng lặng đứng dậy bỏ đi. Ông vào một cửa hàng ăn trước cửa ga đèn điện sáng trưng, đứng xòe hai bàn tay đợi hồi lâu không thấy ai cho mình chút gì. Ông đành liều thò tay vào thúng bún của chị chủ hàng, chộp một nắm. Nhưng ông vừa quay ra được vài bước, chưa xuống khỏi vỉa hè, đã ngã sấp mặt vì một cái ghế ném theo đúng giữa lưng. Vốc bún trên tay ông, không hiểu bị những người ăn mày chung quanh xô lại cướp hay bị chủ hàng giật lại lúc nào ông không hay.

Lê lết về được chỗ vợ con nằm, ông Ðà nghĩ ra được một kế để họa may cứu sống được bé Thấn. Ông bế nó đến giữa chỗ đông hàng quán nhất, cắn con một miếng chảy máu ở má rồi bỏ nó lại, vùng chạy.

Suốt mấy chục năm, từ thời Nhật rồi Việt Minh, rồi Pháp tạm chiếm, tới ngày thủ đô được giải phóng và mãi tận bây giờ bà Ðà trở thành công nhân ở cảng than, còn ông Ðà vẫn chỉ làm độc một cái nghề đi mài dao thuê.

Chẳng ai nghĩ chuyện làm giầu bằng cái nghề nhỏ mọn này. Nhưng với ông Ðà thì lại không thể bỏ mà tìm công việc khác. Ngoài cơm gạo ra, vợ chồng ông còn phải nuôi sống lẫn nhau bằng một nguồn hy vọng. Sáng sáng, ông quẩy chiếc gánh nhẹ tênh, một bên đá mài một bên chậu nước, thả bước đến khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, gặp bất kỳ người đàn ông trai tráng nào vào trạc tuổi bé Thấn năm xưa ông cũng nhìm chằm chằm vào bên má phải của họ.

Bé Thấn "khi xưa" giống mẹ nhiều nên nó cao lớn, vai hơi ngang, mắt lá răm, khi cười có một lúm đồng tiền ở bên má bị bố cắn, chắc là thành sẹo.

Hai mẹ con giống nhau ở cái dáng đi lúc nào cũng vội vàng "chân không bén đất".

Ông Ðà tin vào câu tục ngữ "trai giống mẹ thì khó ba đời". Nếu trời để bé Thấn qua cái nạn đói kinh sợ ấy mà còn tới ngày nay, may mắn nó chỉ đủ tay vo miệng lốm như bố mẹ nó là cùng. Vì vậy, hễ thấy có người đàn ông nào ăn mặc sang trọng lại có chút gì hao hao giống vợ mình là ông run lẩy bẩy vì hồi hộp. Ông như bị thôi miên, chân chạy theo, mắt nhìn, miệng lắp bắp: "Lạy trời! Biết đâu!..." Dĩ nhiên lát sau ông Ðà lại ỉu xìu và tự nhủ: mình mơ tưởng thế làm gì, nên để mắt vào đám làm thuê làm mướn, chữa xe đạp, đánh xe trâu, quạt bễ lò rèn, gác cổng, thợ nề, thợ mộc... thì hơn.

Chẳng bao lâu kể từ khi ông Ðà cất tiếng rao "Mài dao, mài kéo đây", ông đã có cả một đội ngũ bạn "áo ngắn" rải rác từ Gia Lâm xuống tới Ngã Tư Vọng, từ dốc Vĩnh Tuy lên tới làng Láng, làng Cót. Ông lân la nhờ các "chiến hữu" tìm thằng cu Thấn hộ mình. Những đứa trẻ bị cha mẹ bán, hoặc bị cha mẹ bỏ đường bỏ chợ trong nạn đói ất Dậu tới nay còn nhiều lắm, họ đều đã phương trưởng và đã có bố mẹ anh em gặp lại nhau. Duy có thằng cu Thấn màu da trắng, vai hơi ngang, và có nốt răng của bố để lại trên má, chưa ai gặp.

Ông Ðà vẫn rong ruổi qua các phố xá nội thành, cả những làng ngoại ô. Buổi sáng, vợ chồng ông mỗi người mỗi ngả ra khỏi nhà với chút hy vọng cầu may, để rồi buổi chiều về thấy căn nhà lợp giấy dầu vẫn trống lạnh như xưa, làm bà Ðà lại nổi tam bành, nhè ông chồng mà trút hết những lời cay độc.

Lâu dần hàng xóm đâm quen. Ðám đàn ông thôi làm hậu thuẫn cho ông Ðà "thi hành những biện pháp cứng rắn" đối với bà. Vài người phụ nữ vô công rồi nghề cũng thưa dần câu chuyện về bà trong những cuộc ngồi lê đôi mách. Mặc dù, khi tuổi mỗi ngày một nhiều thì sự căng thẳng giữa vợ chồng ông Ðà lại càng ngày càng khó gỡ hơn.

Một ngày chủ nhật, bà Ðà ở nhà một mình, ông vẫn quẩy gánh đi như mọi khi. Thoạt tiên bà lẩm bẩm nhiếc móc cho riêng mình nghe, sau đó ngọn lửa ma quái xông lên ngực bà, thế là bà bỏ hết mọi việc ngồi ghé mép giường mặc sức réo tên ông ra mà nguyền rủa.

"Cứ vác mặt về đây. Chuyến này thì bà xé xác!" - Bà tuyên án vắng mặt ông như thế, và nhăm nhăm đợi mặt trời chóng lặn để ông "vác mặt" về.

Bà Ðà chẳng phải đợi lâu. Xế chiều hôm ấy ông Ðà đã lử khử quẩy cái gánh thợ mài dao về. Ném cho bà một nắm tiền lẻ toàn loại năm xu, một hào, rồi ông đi nằm. Bà Ðà thấy chồng khang khác, không những đã quên những lời đay nghiến được mài dũa suốt từ sáng, bà còn sờ tay lên trán ông. Người ông Ðà nóng chín, làm bà Ðà cuống cuồng. Mấy chục năm nay, đây là lần đầu bà Ðà nói ra những lời dịu dàng với chồng:

- Nhà ơi. Tôi nấu cho nhà bát cháo đậu xanh ăn cho nó giã sốt, nhé?

Ông lắc đầu, mắt vẫn nhắm nghiền. Bà lại vuốt ve bộ râu lởm chởm bạc gần hết trên cằm ông.

- Dậy tôi bảo này! Chịu khó uống chén rượu. Nhé? Nhà bị cảm nắng đấy!

Ông Ðà thương vợ, ứa hai hàng nước mắt. Ông muốn ngồi dậy nhích nhắc tay chân cho bà vui, nhưng sức ông đuối quá rồi.

Sáng hôm sau thì ông "đi". Bà Ðà bật ngọn điện tù mù ở giữa nhà, ôm lấy thi hài ông mà lay, lắc, nhày nhã như đang đánh vật. Lúc đã kiệt sức mà vẫn không sao làm cho chồng sống lại được, bà Ðà rú lên:

- Ông ơi là ông! Chai rượu tôi mua còn kia. Từ nay mua cho ai uống nữa hở trời!

Tiếng khóc xé ruột gan của bà Ðà cất lên từ lúc còn tối đất. Nghe giọng bà, hàng xóm ngỡ ông bà lại xảy ra chuyện gì, nhiều người lẩm bẩm rủa bà vài tiếng rồi lại ngủ. Mãi lúc nghe kỹ, biết ông Ðà đã chết, mọi người mới choàng dậy chạy túa sang.

Xưa nay cái cảnh góa bụa vẫn thường xảy ra cho loài người. Nỗi đau dội lên, uất lên một thời gian rồi dịu dần. Sự quên lãng là một trong những bản năng tự vệ giúp cho con người tồn tại được.

Nhưng hình như ở bà không có cái "bản năng tự vệ" ấy. Liền mấy tháng, đêm nào bà cũng kêu thét gọi ông suốt từ đầu hôm đến sáng. Trời thì đã sang đông, gió lạnh từ mặt sông Hồng thổi thốc vào căn nhà giấy dầu thủng tan hoang do chính tay chủ nhân của nó xô, đập, cào, xé.

Sang tới mùa xuân, giữa lúc cỏ cây đến con người đều xanh tươi trở lại thì bà Ðà chỉ còn da bọc xương. Một đêm không nghe tiếng bà kêu thét, sáng hôm sau hàng xóm chạy sang đã thấy bà nằm bất tỉnh giữa những mảnh chăn rách, trên mình chỉ một tấm áo dệt kim đã mốc meo và chiếc quần bảo hộ lao động bạc phếch.

ở bệnh viện người ta hết lòng cứu chữa cho bà Ðà. Vài ngày sau, bà tỉnh lại biết thều thào cảm ơn những người hàng xóm đã mang cam, mang đường và luân phiên vào chăm sóc bà.

"Khổ đến thế. Con người cay cực suốt đời. Khi cái sung sướng nằm trong tay thì lại lăn ra chết" - Cả khu phố bờ sông tới nay mỗi khi nhớ đến bà Ðà, bà con lại chép miệng nói thế.

Số là, ở nơi bệnh viện bà Ðà nằm cấp cứu, có một bác sĩ trưởng khoa tên là Dũng, tuổi xấp xỉ bốn mươi, vai hơi ngang, nước da trắng và đôi mắt dài rất linh lợi. Một lần, khi bà Ðà đã qua khỏi cơn nguy kịch, bác sĩ Dũng đến khám bệnh cho bà theo thường lệ trong ngày. Bác sĩ bảo bà tháo áo để đặt ống nghe vào ngực bà. Anh đang chăm chú nghe tiếng tim dội thì thụp tự dưng bà già cứ nhổm người vừa nhìn sát mặt anh vừa sờ lên vết sẹo trên má anh. Bảo bà nằm yên mấy lần không được, bác sĩ Dũng phát bực gắt:

- Cụ làm sao thế!

Bà già không trả lời bác sĩ Dũng mà thét lên một tiếng: "Con!" làm cho cả phòng bệnh giật mình. Rồi bà tắt thở. Mọi cách cứu chữa của bệnh viện đều vô hiệu.

Khi phải tự thú nhận mình hoàn toàn bất lực, bác sĩ Dũng ngồi cạnh bà Ðà, ôm mặt khóc rưng rức.

Dũng là con nuôi của một cán bộ trong quân đội. Ông có tới sáu người con, thêm Dũng là bảy. Những khi gia đình tụ hội, con cháu chật nhà, ông vẫn kín đáo dành riêng cho Dũng chút chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên, càng lớn lên Dũng càng thấy mình đang âm thầm ngóng đợi một con người, dù sớm muộn thế nào sẽ có một ngày con người ấy tìm ra anh...

Nhiều năm về sau, vào những ngày giỗ ông bà Ðà, bác sĩ Dũng thường đưa vợ con về thăm những gia đình hàng xóm của ông bà, và thế nào anh cũng có quà đến thăm hỏi những người là bạn "hạt gạo cắn đôi" của bà Ðà hiện đang nghỉ hưu trong khu tập thể của cảng.

Những người bạn của bà Ðà đều gọi Dũng bằng con, và đối xử với anh đúng như cách xưng hô. Mặc dù bà Ðà không còn, nhưng tình thương bầu bạn bà để lại vẫn còn khắp nơi nơi. Ngày nay hễ nhắc đến bà là những người bạn già của bà lại nghẹn ngào.

Họ kể rằng: vào tiết đông và tiết xuân, lòng sông Hồng cạn rặc, những cồn cát nổi vờ vờ bên dưới mặt nước lắng trong dần dần, ấy là những ngày trời đất gió thổi vô hồi. Cứ sáng ra, những người công nhân phát khổ lên vì những ngọn gió lạnh như dao cắt vào da thịt. "ấy nhưng mà cháu ạ - Các bà già nói với bác sĩ Dũng - cái buổi sáng mẹ cháu "đi", trên mặt sông cũng như trên bến cảng, trời bỗng dưng lặng phắc, không một hồi gió.

Như thế là hồn thiêng lắm!".

19 - Hàng Buồm - Hà Nội

8-1985

Bia đá rìa làng

Văn Linh

Danh lợi ư? Quyền lộc ư? Tôi chán ngấy tất cả và đã đi đến quyết định trở về làng. ở đó tôi có mẹ, có người thầy đầu tiên từng dạy tôi những bài học vỡ lòng về đạo làm người. Tam tự kinh "Nhân chi sơ, tính bổn thiện..." ở làng còn có nấm mồ mối tình đầu của tôi... Nghĩa là về với làng, tôi sẽ có tất cả. Mỗi khi lòng mình lấn bấn, trí mình tù túng, bức bối, tôi lại trở về làng. Quê hương bao giờ cũng dành cho tôi lời mách bảo đúng đắn nhất để mình vững bước trên đường đời.

Về tới làng, việc trước tiên, tôi tới thăm thầy học. Thầy sống thọ, tuổi đã ngoài tám mươi mà da dẻ vẫn hồng hào, râu tóc dù đã bạc nhưng đầu óc còn minh mẫn.

Chỉ tội, đôi mắt thầy, vì bom đạn chiến tranh, giờ chẳng còn nom thấy gì.

Thầy tôi đang ngồi ở tràng kỷ với cái điếu bát đặt trên bàn. Tôi bước vào và lễ phép chào thầy.

Một nét mừng rỡ thấy rõ trên gương mặt thầy:

- Ai như anh Siêu? Lâu ngày anh mới về làng.

- Thưa thầy, thầy nhận ra con sao?

- Trời phú cho kẻ kém mắt. Tôi vẫn nhớ tiếng nói của anh.

Thầy đưa tay ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên, rồi sờ sờ lên mái tóc tôi, vuốt xuống má, xuống cằm, xuống cổ, xuống hai vai tôi... bao âu yếm cứ như với một cháu nhỏ.

Ðoạn thầy hỏi:

- Tóc anh bạc chưa?

- Thưa thầy, đã hết nửa mái đầu.

- Nghe ra tiếng nói của anh còn khỏe.

Thầy ngoái vào nhà trong, gọi cháu nhỏ đem nước chè xanh lên, và thầy trò chúng tôi bắt đầu câu chuyện hàn huyên... Hết chuyện nhà cửa họ hàng, sang chuyện xóm làng. Qua trò chuyện, tôi thấy lòng thầy toát lên một nỗi buồn: dân làng quá ít học hành, đã bao đời nay vẫn mang tiếng "làng dốt", "làng mít"...

Nhưng rồi, thầy trở lại an ủi:

- May còn có anh đi ra học được chữ nghĩa, làm nên nhà văn, cũng mở mày mở mặt cho xóm làng chút ít.

Qua lời thầy, tôi cảm thấy có gì xót xa trong lòng.

- Thưa thầy, con có đáng gì, chỉ là một nhà văn loại năm, loại sáu.

- Nhà văn cũng được xếp loại ư anh?

- Thưa thầy, đó là con tự biết và tự xếp lấy.

Thầy khẽ gật đầu:

- Khiêm tốn, tự biết mình đó là đức tính đáng quý.

Nhưng con nghĩ, thầy cũng đừng nên quá buồn, chẳng qua xóm làng mình chưa tới vận hội. Song chả đến nỗi nào, làng ta cũng đã có người làm nên chức nên quyền rồi đấy, thưa thầy.

- Anh muốn nói tới ông Gừng phải không?

- Dạ, thưa thầy, đó cũng là một ví dụ.

Thầy như chợt nhớ, đưa tay sờ lên trán và hỏi:

- Anh vẫn còn nhìn thấy vết sẹo ở đây chứ?

- Dạ, còn mờ mờ.

- Hồi nhỏ học với tôi, nhà ông Gừng ấy, đã lấy son tự khuyên vào bài mình. Thấy vậy, tôi mắng: "Ðừng hỗn thế". Vậy là ông ta cầm cả đĩa son ném thẳng vào trán tôi, chữ thầy trả thầy luôn. - Thầy chép miệng, lắc đầu và thở dài - Nhà ông ấy, đã không có chữ lại không có nghĩa.

Ðang lúc bên ngoài bỗng có tiếng ồn ào, rồi một đoàn người kéo thẳng vào sân nhà thầy. Trong đó có người lên tiếng hỏi:

- Cụ Mộc có nhà không?

- Có tôi đây. Ai như ông Riềng? Thầy tôi trả lời.

Người lên tiếng lúc nãy bước vào.

- Ðúng rồi, Riềng đây. Tôi có việc phải phiền đến cụ.

- Ông chủ tịch cần gì cứ nói!

Giờ tôi mới biết đây là ông Riềng chủ tịch xã. Ðoàn người đi theo ông vẫn đứng lố nhố ngoài sân, nam có, nữ có...

- Chả là... - Tiếng nói ông Riềng rõ to - mảnh đất xã vừa nhượng lại cho tôi, chẳng rõ từ đâu, có mấy đứa cháu đang đào hố để tôi vôi, bỗng thấy lồi lên một tảng đá xanh, cao khoảng sải tay, rộng chừng bốn gang, một mặt có chữ, toàn chữ Hán. Thấy vậy chúng nó sợ quá liền mua hương thắp, rồi khấn vái. Thế là cả làng chẳng hiểu gì cũng đua nhau đem hương hoa khấn vái tùm lum... Ai lại làm thế! Bởi vậy, tôi mới phải vào, mời cụ ra đọc hộ xem những chữ khắc ở hòn đá đó.

Thầy tôi sốt sắng:

- Ðược, tôi ra ngay. Nhưng ông chủ tịch ra trước đi, cho người rửa sạch mặt chữ tôi mới đọc được.

Thầy liền đi rửa mặt mũi chân tay, mặc áo dài tươm tất, như người dọn mình để đến trước bàn thờ. Ðoạn, thầy rủ tôi:

- Anh Siêu cùng ra chứ?

- Dạ, con đi với thầy.

Quả tình, dân làng đang tụ tập ở thửa đất ấy khá đông, khói hương vẫn đang nghi ngút, cùng với những lời bàn tán to nhỏ:

- Vận làng đã đến, chữ nghĩa mới nổi lên.

- Sông có khúc, người có lúc. Lẽ nào dân làng ta chịu dốt mãi.

- Nghe đâu, ngày xưa, đây còn có cả miếu thờ thiêng lắm.

Ông Riềng, chủ tịch xã lên tiếng:

- Cụ Mộc ra đây rồi. Mời cụ đọc cho, xem đây là hòn đá gì? Kẻo nữa... bà con chưa gì đã hương khói, vái lạy tùm lum như vái bia bà...

Thầy tôi với vẻ trang nghiêm, như thuở trước thầy vẫn dạy học trò "phải biết kính trọng chữ thánh hiền". Ðôi bàn tay gầy guộc, già nua của thầy run run sờ lên mặt đá, lần đọc theo dòng chữ từ phải sang trái... Tay thầy đi qua mỗi dòng chữ, gương mặt thầy một sáng lên. Tôi có cảm giác hai mắt thầy đang dần tỏ, có thể nhìn thấy sau những dòng chữ, trên mặt đá, có một điều gì khác, thiêng liêng lắm.

Thầy đọc xong, đứng lên, bắt thân áo dài lau mồ hôi trán.

Hàng trăm cặp mắt nhìn dồn vào thầy chờ đợi.

Thầy tôi chậm rãi báo:

- Ông chủ tịch ạ, đây là tấm bia kỷ niệm ngày mất của ông Ðặng Ðình Lân, người làng ta. Ông thi đỗ tiến sĩ, khoa Ðinh Mùi dưới triều Tự Ðức.

Số dân làng vây quanh bỗng "ồ!" lên cùng lúc, tỏ vẻ mừng rỡ trước một chuyện lạ chưa bao giờ được biết. Và tiếp đó là những lời đàm đạo, bàn tán đầy phấn chấn nổi lên:

- Vậy mà ai dám bảo dân làng mình nghìn đời vô học.

- Ðứa nào còn gọi làng mình là "làng dốt" "làng mít" đánh bỏ mẹ nó đi!

- Ðúng, vận làng đã đến, liệu mà cho con cháu học hành, theo chữ nghĩa... mai sau...

Các cụ về hưu còn tỏ ra hăng hái hơn:

- Ðề nghị đảng ủy, ủy ban làm đơn ngay lên Bộ Văn hóa xin công nhận di tích lịch sử.

- Phải rồi, nghe nói xưa còn có đền thờ hẳn hoi.

- Khó gì, ta xây lại đền.

- Ðâu đâu người ta cũng có di tích lịch sử, chỉ tiếc mỗi làng mình, trách chi con cháu cứ dốt đặc cán mai.

Riêng ông Riềng chủ tịch xã vẫn đứng đỏ mặt, đầy hồ nghi:

- Cụ đọc chính xác không đấy, cụ Mộc? Bao đời nay, tôi chưa hề nghe ai nói dân làng mình lại có người học cao, đỗ đến tiến sĩ. Việc này phải xem lại, khéo không "mồ cha chẳng khóc, lại khóc tổ mối". Ðược, ủy ban, cấp ủy sẽ làm sáng tỏ chuyện này.

Thế rồi, ngay ngày hôm sau, ông Riềng đã đáp xe lên tận Hà Nội, gặp ông Gừng là anh ruột, nghe đâu làm cán bộ gì ngoài đó, để thỉnh thị, xin ý kiến...

- ... Em lạ chi, ngoài bọn mê tín dị đoan, lại còn có đứa ghen ăn tức ở, chả là... dằm đất đó đẹp, mai đây đường mở sát vào đấy thì cứ gọi đất đó hót ra vàng. Ngán nhất mấy lão về hưu làm đơn trương kiến nghị đi khắp nơi, gửi cả lên đài, báo, để xin công nhận di tích lịch sử.

Thử hỏi, di tích lịch sử cái quái gì, làng ta đã có đền thờ tiến sĩ... Chẳng biết chữ trên đó, cụ Mộc đọc có đúng không. Em chưa tin!

Ông Gừng lim dim mắt, như xem thấu xa xưa, rồi khẽ nói:

- Hồi nhỏ tôi loáng thoáng nhớ, hình như đó còn cái nền miếu thờ, thờ ai thì không rõ. Nhưng làng mình từ buổi chiêu dân lập ấp đến nay, nặn đâu ra được ông tiến sĩ nào... Nếu điều đó không có, thì thứ miếu thờ thần linh ma quái vớ vẩn, bộ nào lại công nhận là di tích lịch sử. Chú sợ gì? Ðược, tôi sẽ giúp địa phương lo việc này...

- Anh tính, ngay cạnh trường cấp một, chả lẽ để các cháu ngày ngày cứ nhìn thấy cảnh người lớn chổng mông lên cúng bái, hương khói mê tín dị đoan. Lại ở ngay trước cửa trụ sở đảng ủy mới chướng làm sao!

- Chú về lo khâu chuẩn bị vật chất để đón các nhà khoa học đến làm việc.

Ông Riềng cười:

- Chữ nghĩa làng mình mới thiếu, vật chất anh chẳng phải lo. Nhưng, đến khi công bố kết quả nghiên cứu anh nhớ về. Có anh, nhiều tay phải nể mặt. Mấy tướng hưu về làng, công thần bỏ mẹ.

Họ nói và họ đã làm, một thời gian không lâu, có ngay một đoàn cán bộ gồm các nhà sử học, văn học, Hán nôm, văn hóa về làng tôi. Dịp này tôi vẫn còn tại làng. Làng bỗng trở nên vui hơn, mấy bà hàng phở, cô hàng quà ngoài phố bưng hàng vào tận làng bán cho đoàn cán bộ, họ cứ ăn, tiêu, tiền nong đã có xã chịu, bia hộp mở xìn xịt...

Ðáng nhớ nhất là ngày ủy ban xã đứng ra tập trung dân làng tại thửa đất có bia đá nọ để nghe đoàn cán bộ khoa học công bố kết quả nghiên cứu về "di tích lịch sử" của làng.

Hôm đó ông Gừng đánh xe con về dự. Xe đỗ ngay trước cửa đảng ủy. Ông Gừng bước xuống và đi ra trước mọi gương mặt hân hoan kính nể của dân làng. Không thể bắt tay hết từng người, ông Gừng chỉ đến với lớp người có tuổi, quen biết ít nhiều... và, ông ta đã đến trước thầy Mộc:

- Thầy còn nhớ tôi nữa không? - Ông chào thầy.

- Ông Gừng thì phải - thầy đáp lại.

- Giỏi! Thầy giỏi!

Thấy thầy Mộc sờ tay lên trán, chừng như ông Gừng chột dạ, nhớ đến chuyện cũ, đành cười và nói:

- Ngày xưa, tôi còn đi học chữ Hán với thầy, đến là nghịch như quỷ sứ. May có cách mạng giờ mới thành người.

Thầy Mộc cười:

- Nghe giọng, thấy ông vẫn còn trẻ như xưa.

Hình như ông Gừng nghe lọt ý đằng sau câu nói nên nụ cười trên mặt ông bỗng nhạt hẳn.

Giờ phút mọi người mong đợi đã đến. Một số người ra đây còn đem theo cả hương hoa, chờ kết quả nghiên cứu để thắp hương tưởng niệm luôn.

Một nhà khoa học, nom còn trẻ tuổi, nhưng đầu đã hói, làm cho đám con gái làng cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười, ung dung bước ra công bố kết quả nghiên cứu của đoàn. Ðoàn công nhận mặt chữ trên bia đúng như cụ Mộc đã đọc cho làng nghe...

Nghe vậy, dân làng vội hý hửng... Song về kết quả nghiên cứu, đoàn cho biết, bia này không đúng. Qua các khoa tiến sĩ, suốt các triều đại, không có vị nào đỗ tiến sĩ tên là Ðặng Ðình Lân. Cũng như không có một ông tiến sĩ nào quê ở làng này...

Sau khi nghe công bố rành rọt kết quả của đoàn cán bộ nghiên cứu, dân làng bỗng lặng cả lại, hương hoa vẫn trên tay. Thảy như đang chờ một điều gì khác.

Nhận thấy không khí trầm lặng, nặng nề quá, ông Gừng liền bước ra:

- Mời cụ Mộc, bậc lão thành có chữ có nghĩa của làng cho ý kiến, xem có gì khác không?

Theo lời mời, thầy tôi run run chống gậy bước ra, rồi nói:

- Ðúng như các cán bộ nghiên cứu vừa công bố, làng ta, chưa có ai đỗ tiến sĩ. Nhưng tôi nhớ ra rồi, ông tôi có kể, làng ta có một người tên là Ðặng Ðình Lân thật. Ông này là người có chí học hành. Nhưng "học tài thi phận" bao năm nhà nghèo, vợ phải bắt ốc hái rau nuôi chồng ăn học, ông ta đi thi cử nhân, không đỗ. Dân làng vốn yêu thương, quý trọng người hiếu học, nên đã góp cơm, góp gạo nuôi ông ăn học, chờ khoa thi sau. Thi lần thứ hai ông lại hỏng. Sự bất quá tam, dân làng lại nuôi ông thêm mấy năm nữa để dùi mài kinh sử. Ông thi khóa thứ ba, không đỗ nốt! Phẫn chí, vừa nghĩ tới công ơn và lòng mong mỏi của dân làng, ông thấy mình đã phụ lòng, không báo đáp được công ơn và lòng mong mỏi của nhân dân đành uống thuốc tự vẫn. Dân làng lấy làm thương xót, tiếc một con người hiếu thảo tiết nghĩa nên đã phong ông là tiến sĩ, tạc bia và lập đền thờ ông...

Không khí cuộc họp lúc này thật khó tả, là cả một sự im lặng kỳ lạ hẳn không phải ỉu xìu buồn bã, như thể một tâm tư, tình cảm mọi người đang nén lại đến căng thẳng.

Giữa lúc đó thì ông Gừng lên tiếng cười, nửa sảng khoái, nửa như có phần giễu cợt. Ðoạn, như cốt phá vỡ không khí im lặng đến khó chịu, ông nói:

- Bà con thấy chưa? Cứ gì thời buổi kinh tế thị trường này, thuở trước cha ông mình cũng từng tỏ ra chịu chơi đồ rởm - Ông cười ha hả - Theo như cụ Mộc vừa kể thì đây là một thứ tiến sĩ rởm - lại cười ha hả.

Ông Riềng và mấy người nữa cũng ha hả cười theo, văng cả nước bọt.

Tôi vốn là người không bao giờ thích, thậm chí còn hay tránh xa các cuộc tranh luận. Nhưng tại giờ phút này, không hiểu sao, lòng tôi bỗng sôi lên một cơn giận! Bản thân bị xúc phạm chăng? Cá nhân tôi chẳng đáng gì. Nhưng đây là quê hương! Quê hương bị xúc phạm, quả là điều không chấp nhận được. Tôi liền bước ra, xin phép dân làng, xin phép thầy, cho tôi với một tư cách con của dân làng được nói đôi lời.

Tôi như một kẻ nhập đồng:

- Thưa bà con dân làng! ở bên Tàu có "Viên ngọc họ Hòa". Người dân nọ đem dâng lên vua Sở một viên ngọc nói là quý. Thợ kim hoàn cho biết đó không phải là ngọc, nên người dân nọ đã bị chặt đôi tay. Qua mấy đời vua, mỗi lần dâng ngọc là một lần chịu tội, đến khi người dân họ Hòa nọ bị chặt cụt cả tay chân, vua mới biết đó là viên ngọc quý nằm trong đá. Ngay nước ta, xứ Nghệ có một người thi chín khóa cử nhân đều không đỗ. Ðến khóa thứ mười vua mới hiểu, chín khóa trước, hội đồng thi đã không chấm nổi bài của ông nên đã đánh hỏng. Do đó, nếu chúng ta cứ lấy xét nghiệm thi cử làm khuôn vàng thước ngọc để đánh giá vạn vật, khó mà chính xác; hơn nữa đây lại là trí tuệ, phẩm giá một con người - tôi phải ngừng một lát để giữ xúc động - Thưa với bà con, trong câu chuyện này, tấm lòng của ông Ðặng Ðình Lân đối với dân làng là hoàn toàn "thứ thiệt" - Không làm tròn trách nhiệm học hành, thi cử, đỗ đạt, trước công lao và mong mỏi của nhân dân thì ông tự vẫn. Còn tình thương yêu với sự trọng vọng của nhân dân đối với người con hiếu thảo, tiết nghĩa như ông hoàn toàn là thứ thiệt.

Ðến đây vì quá xúc động, tôi chưa nói thêm được gì, chỉ biết thụp xuống trước tấm bia, ứa nước mắt, tôi lạy tạ một linh hồn đẹp đẽ.

*

* *

Ngay lúc đó một em bé gái, rón rén đến bên tôi:

- Hương đây chú này!

Em bé trao cho tôi một nắm hương cháy nghi ngút. Tôi đến lấy hương từ tay em bé và dắt tay em cùng quỳ xuống trước bia.

Trong dân làng vọng lên một lời nói:

- Tiến sĩ hay không, công nhận di tích lịch sử hay không, đó là công việc của cơ quan văn hóa. Còn dân làng ta, đối với một con người như ông Ðặng Ðình Lân là đáng thờ phụng.

Hầu hết dân làng có mặt, trừ mấy ông trong đoàn cán bộ và mấy người lẻ tẻ, tất cả đều quỳ rạp trước tấm bia, cúi đầu xúc động tưởng niệm...

Trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác vô cùng tuyệt diệu, như thể mình đang được hóa thân giữa bốn bề khói hương nghi ngút. "Khi những gì đã thuộc về nhân dân đều trở nên bất tử thiêng liêng". Trong câu chuyện vừa xảy ra đó, phải chăng tôi đã nhận lời mách bảo trên của quê hương...

Bố vợ

Lê Ngọc Minh

Khi tôi quyết định ở rể, những người thân đều rất mừng. Thằng em nói thẳng ra rằng, cái tuổi Tý của tôi đúng là số "chuột sa chĩnh gạo", mà là chĩnh gạo tám thơm, chứ không phải là gạo thường, gạo tấm. Chả là nhà ông nhạc tôi chỉ có hai người con gái. Bà chị lấy chồng xa. Chồng chị là giám đốc sở tài chính ở một tỉnh phía Nam. Ông nhạc tôi là người Hà Nội gốc, có nhà riêng. Mẹ vợ tôi mất khi ông còn ở quân đội. Ðến tuổi 58, ông được nghỉ hưu với quân hàm thượng tá.

Về hưu rồi, ông ham đọc, ham viết. Lúc nào ông cũng có hai loại sổ: loại thứ nhất, ghi lại những điều hay trong sách vở, trong giao tiếp với người đời; loại thứ hai chép những suy nghĩ của mình trước thế sự hoặc những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp. Cứ chép đầy cuốn, ông cụ lại đánh số rồi chép tiếp cuốn khác. Lâu ngày hình thành hai bộ, mỗi bộ đã có trên mười cuốn. Tính ông nhạc tôi điềm đạm, nói năng chậm rãi, giọng ấm, vui buồn ít lộ ra sắc mặt. Tôi còn nhớ, sau ngày cưới một hôm, cụ gọi vợ chồng tôi ra, bảo tôi cùng ngồi, dặn riêng con gái :"Cúc con, cái quý nhất của người phụ nữ là phẩm hạnh. Chồng có yêu, đời có trọng cũng từ đấy mà ra. Anh Tôn (tức là tôi) bây giờ vừa là chồng, vừa là anh của con. Con hãy ghi nhớ lấy điều đó". Nghe ông cụ nói xong, tôi liền chắp tay thưa:"Chúng con cảm ơn bố", còn vợ tôi vội tiếp lời :"Con xin vâng lời bố".

Ðúng như lời thằng em trai tôi nhận xét, cưới vợ xong, tôi không phải lo một thứ gì, vì tất cả nhu cầu cho một cặp vợ chồng trẻ vợ tôi đã lo chu tất. Lương và thu nhập của ba thành viên trong gia đình dư hai triệu rưỡi mỗi tháng. Thỉnh thoảng anh chị vợ lại gửi cho vài triệu. Vợ tôi là người đảm theo lối cổ. Nàng không cho tôi đụng vào bất cứ một công việc nội trợ nào, kể cả việc đi đổ rác. Chiều chiều, khi ở cơ quan về, tôi chỉ có việc tắm táp, đọc báo và chờ cơm. Một tuần vài lần ngồi tiếp chuyện ông nhạc, khi thì nói về tình hình thời sự thế giới, khi thì trao đổi về một bài phóng sự mang tính cấp bách trên báo, hoặc một bộ phim nào đó được chiếu trên đài truyền hình. Thường thì quan điểm của hai người ít gặp nhau. Tôi luôn giữ chủ kiến của mình nhất là những vấn đề có quan hệ đến giới trẻ. Những lúc như thế ông nhạc tôi hay có câu vừa như dặn dò, vừa như thể hiện cái lý đuối của mình :"Anh cân nhắc xem có phải như thế không!" hoặc "Tôi thiếu thông tin nhưng chả lẽ vấn đề nó lại đơn giản như thế...". Tôi hăng hái khẳng định luôn ý nghĩ của mình chẳng cần suy nghĩ cân nhắc như ông cụ yêu cầu. Thú thật, có lúc tôi mù mờ biết mình sai, mình hấp tấp nhưng thấy ông cụ có vẻ như thỏa hiệp, như nhường nhịn nên tôi có lấn tới với vẻ hiếu thắng.

Vợ tôi nhận ra điều đó nên có lần nàng nhỏ nhẹ bảo tôi:

- Anh ạ, hình như... em cảm thấy... anh hay quá lời với bố.

Tôi vỗ vỗ vào lưng nàng:

- Ðã tranh luận thì phải bình đẳng, phải nói cho đến cùng lý lẽ. Với lại bố mình hiền ấy mà.

- Cụ không hiền đâu. Cụ biết hết đấy. Cụ nhường anh thì có.

- Biết, sao bố lại không tranh luận cho tới cùng đi?

- Nhưng để làm gì?

Sau câu hỏi của vợ, tôi lựa lời khuyên nàng đừng quá bận tâm với các cuộc trò chuyện của giới đàn ông chúng tôi. Ðó là thứ chuyện vừa quan trọng,vừa tầm phào, vui là chính, chứ có phương hại gì đến ai. Tôi vẫn khẳng định với nàng rằng ông nhạc là người hiền lành, là típ người cũ, bảo thủ và hoài cổ. Sau mỗi lần nghe tôi nói thế, Cúc, vợ tôi thường im lặng, có vẻ như tin lời tôi. Ðược thể, tôi càng cho thái độ sống của mình là đúng.

Cho đến một ngày tôi gặp tai ương, nói thế cũng là quá, vì chuyện đó do tôi gây ra mà sự vỡ lở lại bắt nguồn từ cái buzy, bộ phận đánh lửa của động cơ xe máy. Buổi tối hôm đó, tôi tháo cái buzy, lau chùi cẩn thận, thử "lửa" cẩn thận, lắp vào ổ máy đề, trăm lần máy nổ cả trăm. Cúc mang trà Lipton cho tôi, hỏi: "Sao hôm nay anh chăm thế?". "ờ, mai anh đi quay cái lễ hội, xe máy phải tốt". Vợ tôi không nói gì. Tôi đảo mắt nhìn về phía bố vợ, nhận ra ở môi cụ có một nụ cười. Tuy nhiên, lúc đó tôi chỉ cho là một nụ cười ngẫu nhiên. ít phút sau, thằng bạn nối khố của tôi đến. Nó dặn ngày mai, tôi sẽ đón nó vào lúc 7 giờ. Nó còn bảo camera và băng nó đã chuẩn bị xong rồi. Nó mua được băng ngoại chính gốc loại siêu. Nó hỏi thăm sức khỏe ông nhạc tôi rồi dặn lại tôi một lần nữa, lời dặn rất to muốn là vợ tôi cũng nghe được những nội dung ấy.

Ðúng là tôi đang có chuyện. Chả là lúc trưa trên đường đi làm về, tôi chợt nghe tiếng phụ nữ gọi :"Anh Tôn! Anh Tôn đấy phải không?", tôi ngoái lại, dừng xe gấp. ở chỗ ngã rẽ, một cô gái cao lớn, ăn vận rất bít-zít, váy ngắn, áo hồng, tóc nhuộm vàng, cắt theo mốt Thượng Hải. Tôi ngớ ra không biết người gọi là ai. Cô gái bảo :"Quên nhau rồi à? Noan - lương thực ngày xưa đây". "Ô, Loan à, khác quá, lộng lẫy quá! Cứ tưởng là một bà Tây nào đấy!" "Ðã từng là bà đầm nhưng chia tay rồi. Anh có rỗi không?". "Ðể làm gì?". "Anh chán bỏ xừ, phụ nữ hỏi mà trả lời kiểu đó thì nghỉ khoẻ nhé". Biết sự khiếm nhã của mình, tôi vội xun xoe :"Ngày trước, em hay đùa thì anh cũng lên gân, lên cốt tý thôi". "Chống chế như thế là loại xoàng, nhưng đang buồn, em tha. Có rỗi thì đi uống cà phê với em?". "Xong!" - tôi đáp một cách hứng thú tỏ vẻ ga-lăng.

Tôi và Loan vào quán cà phê, loại quán có ngăn, chia từng ô kín đáo. Loan hất mái tóc nhìn tôi, hỏi cộc lốc :"Hạnh phúc lắm hả?" "Nói hạnh phúc thì e tự phụ nhưng cuộc sống êm ấm, không có bão táp mưa sa". "Giỏi". "Còn em?" "Lấy chồng bỏ chồng, lấy chồng khác, chồng bỏ!". Loan nói tỉnh khô rồi lại hất mái tóc. Cử chỉ mà có lần đọc báo tôi biết đó là một dấu hiệu gợi tình của phái yếu. Tôi cúi đầu lúng túng không biết nên chọn một câu đáp lại thế nào cho hợp. Ngày trước, Loan là người yêu của tôi. Cô làm ở cửa hàng lương thực phường. Những năm còn sử dụng tem phiếu trong mua bán các mặt hàng thiết yếu thì tôi phải nói rằng, các ông, các bà, các chị, các cô ở bách hóa, lương thực, thực phẩm là những ông bà giời. Có lần, tôi đi xếp hàng từ bốn giờ sáng đến ba giờ rưỡi chiều mới mua được 10 cân gạo. Về đến nhà trông thấy tôi, ông chú họ bảo :"Ðộ này mày ốm hay sao mà gầy thế, cháu?" Tôi bảo không ốm đau gì nhưng khi soi gương thấy mặt mày hốc hác, hai gò má nhô hẳn lên phờ phạc. Sẵn có cái bàn cân thu mua sắt vụn của nhà bên cạnh, tôi xem lại trọng lượng của mình, thấy tụt đi ba ki lô. Mua được 10 cân gạo sút mất ba cân thịt, khiến tôi phải trằn trọc nghĩ cách. Tôi cố lượng xem mình có thế mạnh nào không? Tôi là thằng đàn ông có mẽ, có bằng cấp nhưng là con nhà nghèo. Bốn anh em trai lộc ngộc và một chị gái quá lứa chưa có ai "cẩu" đi cho. ở cơ quan tôi cũng có một chức vụ nhưng là chức vụ đoàn thể mà lại là cấp phó, phó tổ trưởng công đoàn của một tiểu ban có sáu người. Một lần thức giấc vào lúc nửa đêm, bởi một cơn mơ kinh hoàng do buổi chiều hôm đó tôi được xem bộ phim "Kinh Kông" của Mỹ (xin lưu ý rằng, đầu những năm 80 phim nước ngoài được xếp vào loại phim tư liệu, xem trong nội bộ hoặc khách mời diện hẹp là có giá lắm), tôi chợt nhận ra mình cũng có một thế mạnh. Ðó là tôi có thể kiếm được những cặp vé xem phim tư liệu. Ngay ngày hôm sau, tôi mạo hiểm xông thẳng vào phòng làm việc của ông viện trưởng, trình bày lưu loát và xin được cặp vé xem bộ phim "Cuốn theo chiều gió". Có được "thế mạnh" rồi tôi phóng thẳng ra cửa hàng lương thực, đứng ở gốc cây nhìn vào chọn một cô có gương mặt dễ coi nhất, đôi mắt có nét mơ màng nhất, vì tôi đoán là chỉ những cô như thế mới ham thích nghệ thuật, mới thấy cái giá của "phim tư liệu xem diện hẹp". Chọn xong, tôi đứng chờ cho đến 5 giờ chiều, khi cửa hàng đóng cửa vì hết gạo, chứ không phải vì hết người mua. Tôi tiến đến chỗ người con gái đó, chào như đã quen biết:

- Chào em, bận lắm phải không, em?

Cô gái ngước nhìn tôi, cái nhìn thăm dò. Khi thấy tôi không mang túi, tải gì và ăn mặc cũng không đến nỗi, cô ngờ ngợ hỏi:

- Chào anh. Anh là...?

- Anh là "dân" nghệ thuật. Cũng đã vài lần mua gạo ở đây. Thấy em bận bịu suốt ngày, nay mang đôi vé để em mời bạn trai đi xem phim tư liệu giải trí vào chủ nhật - Tôi nói và đưa hai tấm vé cho cô.

Cô sững sờ cảm động trước cử chỉ của tôi. Ðôi môi tươi tắn của cô run run một lúc mà chỉ nói được có hai từ:

- Em xin.

- Ðơn giản có thế thôi. Chào em. Nhớ chủ nhật đi xem em nhé.

- ở đâu ạ?

- Trong vé ghi rất nghiêm chỉnh rồi. Ðây là loại vé đặc biệt, hàng ghế ưu tiên.

- Em cảm ơn anh quá! Em xin!- Cô nhắc lại hai từ lúc nãy.

- Không có gì! - Tôi nói rồi bỏ đi ngay và thầm đoán rằng thế nào cô cũng sững sờ nhìn theo tôi.

Chủ nhật, ngày cô gái đi xem phim, tôi có đến nơi chiếu nhưng muộn hơn và xin người canh cửa cho đứng ghé ở một góc, vì tôi không có vé. Khi buổi chiếu sắp kết thúc, tôi ra trước tìm một chỗ quan sát. Dòng người từ cửa buồng chiếu chen nhau ra, ai nấy đều thì thầm với nhau, nét mặt rạng rỡ, chắc là họ đang nói về cái hay của bộ phim. Cô gái cũng đi xem phim. Ði có một mình. Ra khỏi cửa, cô có ý tìm ai đó. Tôi tiến lại chỗ cô. Cô rất mừng khi nhận ra tôi. Chào cô rồi tôi hỏi:

- Bạn trai em đâu?

- Em không có bạn trai. Em đã rủ cô cửa hàng trưởng đi nhưng cô ấy bận việc đột xuất, thành ra thừa vé, phí quá. Phim hay anh nhỉ. Các anh thích thật đấy.

- Ðây mới là phim hay vừa vừa thôi, có nhiều bộ còn mê ly. Nếu em thích, anh sẽ đưa vé cho em đi xem thường xuyên.

- Tên em là gì?

- Dạ Noan ạ - Cô gái tỏ vẻ ngượng, vì tôi biết cô nói ngọng tên của chính mình. Tôi hỏi chuyện cho cô khỏi lúng túng:

- Nếu Loan đồng ý, anh mời Loan đi ăn kem. ở chỗ kia có kem "Bắc Cực" ăn được lắm!

- Em phải về thổi cơm cho mẹ.

- ?n kem cũng nhanh thôi mà. Nhà Loan có xa lắm không?

- Cũng gần thôi, ở Hàng Bồ anh ạ.

- Bây giờ là 9 giờ 30 phút, mười giờ Loan về vẫn kịp.

Loan không đáp, theo tôi vào quán kem "Bắc Cực". Từ bữa đó, tôi và Loan quen nhau, rồi yêu nhau. Tất tật tem phiếu về lương thực của nhà tôi, của các bạn thân tôi có hộ khẩu trong phường đều gửi cả ở chỗ Loan, cứ cần lúc nào ra mua lúc ấy mà bao giờ cũng được ưu tiên bán cho loại ngon nhất. Tôi cũng đã chấn chỉnh thường xuyên để Loan không nói ngọng tên cô và những tên người có chữ "L" đứng trước. Mẹ tôi, bà chị quá lứa của tôi mừng cho tôi lắm. Mỗi khi Loan đến nhà tôi chơi, mẹ tôi nhìn cô bằng sự ngưỡng mộ. Cụ khen cô vừa có tướng phúc hậu, vừa có sự dịu dàng. Các em trai tôi thì bảo, giá chị Toàn (chị gái của tôi) mà được như chị Loan thì nhà tôi sẽ đổi đời. Mẹ tôi bảo :"Có voi đòi tiên, chỉ cần một cái Loan là đủ. Phúc lộc vào nhiều một lúc thường có họa". Chúng tôi yêu nhau được hai năm. Rồi vào một ngày giáp Tết, sau chuyến đi công tác ở Lạng Sơn về, tôi hớn hở mang đến nhà Loan cành đào phai thứ đặc sản của tỉnh biên giới, cành đào mà người láng giềng của tôi, làm ở ngoại giao đoàn, gạ tôi một tờ (100 USD) để anh đặt vào phòng khách ngôi nhà mới xây, tôi cũng từ chối. Loan đi vắng. Bốn cô em gái của Loan ngày thường hồ hởi với tôi bao nhiêu thì bữa nay vừa lạnh nhạt, vừa lúng túng bấy nhiêu. Cô thứ nhì, tuổi Dần tên cũng là Dần, cái cô rất có cá tính, trán dô, có duyên nhất nhà thẳng thắn bảo tôi :"Anh Tôn ơi, năm nay nhà em "chơi" quất, anh mang đào về cho cụ bên nhà. Nghe nói "chơi" cả đào, cả quất năm mới không hên". Tôi biết có chuyện rồi hỏi thẳng cô Dần :"Chị Loan đâu, Dần?". "Tối nay anh đến đi, chị Loan sẽ nói chuyện hoàn cảnh với anh". Dần bảo thế và nhắc tôi mang cành đào về.

Vừa bực, vừa tức, vừa tẽn, tôi vác cành đào đi ra. ở ngoài phố, tôi vứt cành đào đáng giá một tờ vào cái thùng rác. Chả ai hoài của quý, một bác qua đường nhặt lấy ngay. Bác ta cẩn thận gỡ những mụn rác bám vào cành đào khen đào đẹp và mang đi.

Ðúng như Dần nói, Loan không tránh tôi vào buổi tối. Cô mời tôi ra vườn hoa Hàng Ðậu. Cô đưa ra lý do. Tôi và cô yêu nhau hai năm rồi mà chưa một lần tôi nói đến chuyện cưới cô. Loan cũng nói thẳng ra rằng, nhìn bà chị tôi, nhìn ba thằng em trai tôi cô hãi lắm. Nếu tôi có cưới cô về thì vợ chồng sẽ ở đâu? Chả lẽ lại làm giường cưới trên gác xép? Mà cô thì cần phải lấy chồng để em gái bốn đứa của cô mới có cơ hội đi lấy chồng được. Loan nói xong thở dài não ruột. Tôi hét lên:

- "Rõ rồi".

Và đứng phắt dậy về thẳng, mặc dù Loan có gọi với theo tôi. Trong thâm tâm dù đã thề độc rằng, sẽ không bao giờ nhìn mặt Loan nữa nhưng ngày cưới Loan tôi vẫn đến, mừng một đôi vé đi xem phim. Tôi ngạo nghễ nhìn chú rể. Anh này trông hiền lành nghe nói là học ở Tiệp về. Loan xem tôi như nhiều người quen biết khác, hơn hớn cùng chú rể tiếp khách.

Một thời gian sau, chuyện tem phiếu được dẹp bỏ. Gạo ngon có người mang đến bán tận nhà, thậm chí mua chịu cũng được, vì thế, tôi chẳng phải đi đong gạo nên cũng không biết cuộc sống của Loan thế nào. Rồi tôi cưới vợ, ở rể.

   Ít lâu sau, chị Toàn tôi được một anh 46 tuổi yêu chết mê chết mệt, cứ đòi cưới tắp lự. Chị tôi có ngủng nghỉnh làm bộ vài lần rồi thuận tình lấy anh. Hai em trai tôi cũng theo gương tôi đi ở rể. Chúng nó không may bằng tôi, bởi rơi vào chỗ đông người, đất cát nhà cửa chia bôi thế nào chẳng rõ, cứ thấy ít bữa lại kéo nhau ra toà. Cuối cùng rồi họ phải bán nhà, chia mỗi người một ít, tản ra các phía rồi mới yên ổn được. Mẹ tôi ở với thằng út, nó thừa hưởng chỗ 20m2 nhà cấp bốn. Vợ nó đi làm "liên doanh" nên nhanh chóng xây được nhà ba tầng. Nó vẫn hay so bì với tôi. Nó bảo, nếu có chỗ đất như tôi, nó làm biệt thự năm tầng có khuôn viên, có gara ôtô, tầng chót thì làm bể bơi. Nghe nó nói thế, tôi chỉ cười.

Ngồi uống cà phê với Loan tôi được biết thêm, cô đã có căn hộ bốn phòng, sống độc thân, đã nghỉ "chế độ" nhưng mới nhận làm cố vấn tiếp thị cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Cô bảo cô rất buồn, rất cô đơn. Cô còn thổ lộ chỉ có tôi mới mang đến cho cô tình yêu đích thực, rằng hai năm yêu tôi, cô "được" nhiều lắm. Cô thừa nhận sự nông nổi, vô duyên của mình. Cô đề nghị tôi hãy đưa cô đi chơi xa một lần. Ðưa ra đề nghị ấy, cô nhìn xoáy vào mắt tôi đam mê chờ đợi. Tôi cảm động nắm lấy đôi bàn tay có những móng dài đỏ chót của cô, đưa lên môi hôn. Tôi thấy cô run lên, giọng lạc đi :"Hoàng tử của em". Tôi nuốt khan khối rạo rực, thảng thốt hỏi: "Em đã đi Ao Vua chưa?" "Ði đâu cũng được càng xa Hà Nội càng tốt". "Hay đi Suối Tiên". "Tuỳ anh". Chúng tôi chấp thuận cùng nhau đi Thiên Thai. Bảy giờ sáng hôm sau tôi sẽ đón Loan. Chia tay Loan, tôi rẽ vào nhà thằng bạn, cái thằng hay bảo tôi là "Chó chui gầm chạn", dặn nó như thế, như thế... Buổi chiều hôm đó, tôi lòng dạ bồn chồn như lửa đốt. Buổi tối không biết ma quỷ mê hoặc thế nào, tôi tháo buzy ra lau. Thật ra thì tôi lo xa thôi. Ði chơi với người tình cũ, người tình đang cô đơn, đang xem tôi như một cứu cánh mà xe lại tậm tịt thì hoài thời gian lắm. Khi thằng bạn đến, cụ thể cái sự "như thế, như thế...' của tôi bằng thông báo đi quay lễ hội vào ngày mai. Về rồi, tôi buồn tay thế nào lại ấn đề cho xe nổ không tải một cách ngu ngốc. Tắt máy xong, tôi đi vào, đi ra, huýt sáo vang nhà.

Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, lau sàn nhà, đun nước, đi mua đồ điểm tâm, mời ông nhạc ăn sáng. Thời gian trôi thật là chậm. Mãi kim đồng hồ mới nhích đến 6 giờ 45 phút. Tôi chào bố vợ và vợ đi trước. Ra khỏi nhà, tôi phóng như bay về phía Hàng Bồ. Loan đã chờ tôi ở đầu phố. Tôi dừng xe nhanh. Loan lên xe cũng nhanh. Cả hai lặng lẽ rời "toạ độ chết" đi về phía Yên Phụ, dọc theo đê Nhật Tân phóng với 60, 70km giờ hướng về đường cao tốc. Chỉ hết 55 phút chúng tôi đã đến Thiên Thai. Dừng lại trước một quán ăn, tôi định mua mấy thứ nhưng Loan bảo không cần, cô đã chuẩn bị đầy đủ cho hai đứa... cả ngày. Thuê phòng, nhận chìa khóa xong, Loan nhắc tôi là mang cả xe vào phòng. Khi cái thế giới riêng được chốt cài cẩn thận, chúng tôi vồ lấy nhau mà hôn. Loan trẻ trung cù vào ngực tôi:"Có ma kia! ma đấy!". "Không sợ", tôi đáp và siết cô vào ngực mình. Bỗng có tiếng gõ cửa rất gấp rồi giọng cô lễ tân :"Anh gì, chị gì ơi, em gửi phích nước". "Ðể đấy". "Anh ơi, có việc đấy!" "Gì cơ?" "Mở cửa em nói cái này". Chúng tôi vội rời nhau. Tôi thầm bực bõ với cách phục vụ của mấy cô nhà khách tỉnh lẻ.

- Gì đấy cô? - Vừa mở cửa, tôi cau có hỏi.

Cô phục vụ mặt tái mét, nói nhỏ với tôi:

- Hình như là vợ anh đi tìm anh. Chị ấy người cao cao, có một chú đầu húi cua, da đen đen đèo chị ấy. Họ vừa vào lễ tân đấy. Anh có để lại giấy tờ gì không?

- Thuê trọn gói trả tiền trước, không để lại gì?

- Vậy anh chị "thoát" nhanh lên. Ðây có lối vòng ra nhà 4C đi ven hồ ra đường lớn, chị ấy không phát hiện được đâu.

- Cứ đóng cửa ở trong này đã sao?

- Chị ấy biết anh đến đây rồi. Tuần trước có một trường hợp đánh ghen phải đưa đi bệnh viện đấy anh ạ. Lúc đầu, nói anh đừng giận, lễ tân cũng nghi anh nhưng... nể, thành ra...

Nghe xong, tôi bủn rủn cả người. Loan đến sau tôi, bảo: "Anh sợ thì đi về". Tôi trả lời liều :"Sợ thì không nhưng phiền phức lắm. Chả gì mình cũng phương diện...".

- Thôi về cho khỏi rách việc, chú thỏ, về!

Tôi dúi vào tay cô gái phục vụ tờ 20 ngàn rồi lập cập dắt xe ra. Cô gái hướng dẫn chúng tôi lối thoát như cô đã nói. Ra đường, mặt Loan nặng như chì, tôi phải động viên :"Mình về một khách sạn ven Hồ Tây có được không? ở đó, họa là trời có mắt mới tìm thấy.

- Xin lỗi. Anh đưa em về ngay đi! - Loan nói xong, quẳng cái gói đồ ăn, thức uống xuống hồ, môi mím lại chỉ còn một vệt như sợi chỉ.

Biết nói gì lúc này cũng chỉ là đổ thêm dầu vào lửa nên tôi chờ Loan ngồi lên xe là vù đi ngay. Tôi phóng hết cỡ vì như thông báo của cô phục vụ thì người thanh niên kia chính là cháu họ vợ tôi, thằng này có biệt tài đi xe máy. Nó đã rủ tôi lên đỉnh cầu Thăng Long, chờ lúc vắng người, phóng xe với tốc độ 160km một giờ để tìm cảm giác mạnh, tôi hy vọng trong trường hợp này, hắn vì "quyền lợi danh dự" của nam giới mà tìm kế hoãn binh hộ tôi, chứ với sức hắn, với cái Suzuky 350cm3 của hắn thì họa tôi có bay mới thoát. Ði được mười phút, thấy đã ra đến gần ga xe lửa tôi ngoái lại thấy không có cái đuôi nào bám đã mừng. Tôi nảy ra ý định đi ngược lên mạn trên. Thì chắc chắn là thoát. Nhưng cái ý nghĩ ấy chưa kịp thực hiện thì xe tôi ì ra, giống như là hết xăng. Tôi nhìn đồng hồ nhiên liệu, thấy kim vẫn chỉ ở con số 3 nghĩa là xăng trong bình vẫn còn đầy. Chiếc xe dừng lại, tôi mở cửa gió, đề. Máy ặc lên rồi tắt. Kiểu này là trục trặc ở buzy rồi. Tôi đẩy xe vào sau cái bảng tin. Mắt nhìn về phía Thiên Thai. Chỉ thấy có vài bóng xe nhỏ xíu đang phóng tới. Loan cắm cẳn dẫm chân, không muốn lại chỗ bảng tin. Tôi hét lên: "Muốn chết à! Có nép vào đây không thì bảo" - Hét xong, không đợi Loan có nghe hay không, tôi đẩy chiếc xe tậm tịt vào phía sau cái bảng tin. Khốn nỗi vì vội nên bánh trước sa xuống ruộng ngập đến tận moay-ơ. Loan đến, giúp tôi kéo nó lên, giúp tôi đẩy. Khi đã tìm được chỗ khuất, tôi ló đầu, kiễng chân nhìn về hướng cũ, thấy có người đi xe tới, nhưng không phải thằng cháu vợ tôi.

Tôi tháo buzy, lóng ngóng lau, mồ hôi túa ra. Loan thì tựa lưng vào bảng tin, khoanh tay cười. Tôi cáu, hỏi :"Cười gì?" Loan khủng khỉnh :"Cười đời". Tôi nhẫn nại gõ gõ cái buzy vào máy, thử xem nó có đánh lửa hay không. Những tia lửa xanh tí tách nổ. Mừng quá, tôi lắp nó vào, đang chuẩn bị đề cho nổi thì chiếc xe Suzuky 350cm3 tựa như từ trên trời rơi xuống, quành một đường rất khéo đến sát tôi, chỉ còn cách độ 60 phân. Thắng cháu họ trời đánh ngoan ngoãn :"Cháu chào chú Tôn ạ, cháu chào cô gì ạ". Tôi đứng như bị găm chân xuống đất. Vợ tôi nhẹ nhàng hỏi :"Anh Tôn, sao lại thế này? Xe đã sửa xong chưa, anh?" "Xong rồi", tôi đáp như một cái máy và đáo mắt nhìn Loan. Loan nhìn trừng trừng vào tôi. Tôi vội tránh cặp mắt ấy.

- Anh Tôn, sửa xong xe thì mời anh về.

- Về - Tôi đáp vu vơ rồi đẩy cái xe ra đường. Chả biết sức mạnh nào khiến tôi đẩy nó băng băng trên bờ mương gồ ghề. Ra đến đường cái, tôi mới sực nhớ là còn Loan nữa. Làm sao bây giờ? Tôi chưa nghĩ ra giải pháp thì vợ tôi lại giục.

Lời cô nàng lúc này kiên quyết hơn:

- Anh ngồi lên xe đi về.

- Thì về - Tôi "đề" và phóng xe đi.

Thằng cháu họ đèo vợ tôi "áp tải" phía sau. Khi tôi phóng nhanh thì thằng cháu lướt tới dặn:

- Chú Tôn ơi, cô bảo đừng phóng nhanh nguy hiểm.

Tôi không đáp cứ giữ tốc độ một cách ngang bướng, vì tâm trạng tôi vô cùng bực bội. Trời ơi, Loan sẽ về nhà bằng cách gì? Cô sẽ nghĩ về tôi như thế nào? Sao lúc vợ tôi giục tôi về, tôi không can đảm nói với Cúc rằng, dù gì thì gì cũng phải đưa Loan về? Sao tôi không chào Loan một câu? Cố nhiên là Loan sẽ không ngồi chung xe với tôi, bởi làm thế thì có khác nào trêu ngươi vợ tôi nhưng ít ra tôi cũng phải gọi cho Loan một "cuốc" xe ôm chứ?

- Anh Tôn, anh không cần phải phóng nhanh như thế- Khi thằng cháu chở vợ tôi vượt lên, Cúc nói như quát với tôi, điều mà mấy năm chung sống, cô chưa một lần dám thế.

- Chết thì thôi, cần quái gì! - Tôi trả lời liều. Vợ tôi không đáp, nói gì với thằng cháu rồi thấy nó cho xe lên chắn lấy xe tôi. Vợ tôi xuống, ngồi sang xe của tôi. Thằng cháu rồ ga đi chầm chậm phía trước cản đường không cho tôi phóng nhanh nữa.

Chúng tôi về đến thành phố, thằng cháu họ vụt biến mất vào dòng người đông đúc. Tôi gợi chuyện:

- Em với cháu đi từ lúc nào?

Cúc không đáp. Tôi lẳng lặng đi tiếp. Một lúc sau, tôi buồn mồm, lên tiếng thanh minh:

- Ðừng bực anh nữa. Chưa có chuyện gì đâu.

Vợ tôi vẫn im lặng.

Khi tôi định rẽ vào lối để về nhà, Cúc mới mở miệng:

- Ði thẳng đi anh Tôn

- Ði thẳng là thế nào?

- Ði thẳng là đi thẳng chứ còn thế nào nữa.

- Thế, em không muốn về nhà à?

- Về nhà! Anh không phải hỏi nữa!

Thì ra nàng bảo tôi đi thẳng, tức là "dong" tôi về nhà mẹ đẻ của tôi. Chà, mới cao tay làm sao! Khi về đến gần nhà mình, tôi lo cuống cả lên, nói như xin với vợ:

- Làm khổ anh thì em được cái gì? Cúc ơi, thương anh đi!

- Anh cứ về, không ai làm khổ anh đâu.

- Em muốn giao thằng con hư cho mẹ anh chứ gì? "Xấu chàng hổ ai " em ơi?

Vợ tôi không trả lời nhưng nghe tiếng chép miệng, tôi biết cô nàng cười khẩy, củng cố quyết tâm "riềng" tôi. Tôi phải nghĩ cách khác để tự bào chữa cho mình trước mặt mẹ đẻ. Cũng may cho tôi, vợ chồng thắng út đi vắng, chứ chường cái mặt của thằng đàn ông ngoại tình ra với em trai, em dâu thì còn ra thể thống gì nữa. Thấy mẹ tôi, vợ tôi nhào lại chỗ cụ, khóc nức nở như sắp chết đến nơi. Không cần hỏi, mẹ tôi đã hiểu có sự. Bà hỏi tôi:

- Thằng Tôn vụng trộm gì phải không?

- Mẹ ơi chưa có gì đâu ạ, cô ấy nông nổi..

Câu nói của tôi như ngọn gió bùng lên nỗi ức trong vợ tôi. Cúc khóc òa lên, rồi nói trong tiếng nghẹn:

- Mẹ ơi, anh ấy đưa người yêu cũ đi khách sạn, con bắt được quả tang mà anh ấy còn bảo con là nông nổi. Mẹ ơi, khổ con quá!

Mẹ tôi ôm lấy Cúc, vuốt tóc cho nàng và bà nhìn tôi nghiêm khắc, mắng:

- Thằng khốn, sao mày còn đứng đực mặt ra đấy? Mày còn không về đi, à? Về!

- Mẹ...!

- Tôi bảo anh về đi cho mẹ con tôi yên.

- Mẹ ...! Tôi cố giãi bày thì mẹ tôi đứng dậy, bà tát cho tôi một cái và tiếp tục đuổi tôi đi. Tôi lầu bầu, cắm cẳn, dắt xe ra khỏi nhà mẹ đẻ. Dọc đường, tôi mới nhận ra sự khéo xử của mẹ mình. ừ, liệu tôi ở đó thì giải quyết được gì, chỉ thêm ngứa mắt vợ tôi. Lúc này, nàng đang hết sức đau khổ, cần phải có nơi để dốc cho hết nỗi niềm. Tôi tin với bản tính hiền lành, khéo khuyên nhủ, mẹ tôi sẽ giúp nàng vợi đi. Yên được một phần, tôi lại phải lo đến phần tiếp. Về nhà sẽ nói với ông nhạc tôi thế nào đây? Ông đã quý tôi như thế. Tôi đã có lúc lấn lướt ông như thế. Nhà đã cháy, chuột đã lộ mặt. Ôi cái mặt chuột của tôi giờ đây lò dò về nhà! Tôi quyết định sẽ nói hết sự thật với ông cụ. May ra cụ sẽ thông cảm, cụ "ân xá" cái sự đam mê ma xui, quỷ mướn ngu muội của tôi.

Tôi về nhà, ông nhạc đang ngồi ghi chép. Tôi chào cụ, pha ấm trà, mời cụ uống nước. Khi cụ đã ngồi, đã uống trà và hỏi thăm công việc quay "lễ hội" của tôi, tôi ấp úng thưa lại với cụ câu chuyện vừa xảy ra và luôn nhấn mạnh câu :"Chưa có chuyện gì đâu ạ". Nghe tôi trình bày xong, ông cụ chưa phán xét ngay. Tôi lấm lét nhìn bố vợ. Nét mặt luôn điềm tĩnh của cụ buồn hẳn đi. Tôi hiểu rằng, cụ ít nhiều bị sốc, cụ đang thất vọng về tôi. Thấy cụ nhìn tôi, tôi vội cúi mặt xuống ấp úng:

- Con mong bố thương, vả lại cũng chưa có chuyện gì.

- Tối qua - ông nhạc tôi chậm rãi nói - nhìn anh loay hoay với xe pháo, nói anh thông cảm, tôi đã thấy sự bất thường. Cũng thật tiếc, anh lại để cho cái Cúc nó biết. Mà con bé cũng xốc nổi quá, tại sao lại phải đưa anh về bên cụ? Như thế là nó hỗn với cụ quá. Thôi thì đằng nào chuyện cũng xảy ra rồi, anh cứ "hoạt động" bình thường. Mọi việc anh để tôi lo. Mai kia rỗi tôi phải đến xin lỗi cụ bên nhà.

- Thưa bố, trăm sự là tại con. Cúc không có lỗi ạ.

- Anh không phải nói nhiều. Có phải đi việc gì thì cứ đi đi.

- Dạ.. cũng không có việc gì ạ. Con mời bố xơi nước.

Ông cụ nhấp môi chén trà tôi vừa rót thêm rồi đứng dậy, đi lại cái bàn, tiếp tục viết lách. Tôi cũng ngượng ngùng đứng dậy. Nhìn quanh chả có việc gì làm, tôi lại lau nhà, việc mà lúc sáng tôi đã làm. Lau xong tầng dưới, tôi lên tầng trên lau cửa kính, cửa sổ, đầu óc suy nghĩ mông lung, làm mà chả biết làm việc gì. Tôi đã nhầm thảm với nền nhà nên "lau" thảm một lúc mới sực nhớ ra, lại phải dùng quạt để quạt cho khô cái thảm ướt. Quạt không được, lấy bàn là ra là làm cho thảm cháy khét lẹt.

Vợ tôi về. Tôi rụng rời chân tay. Tôi lẻn ra chỗ cầu thang xem, nàng sẽ "tố" với ông nhạc những gì. Tôi thấy Cúc không khóc như lúc gặp mẹ tôi nên cũng có phần mừng. Chờ cho Cúc cất xong mấy thứ, tôi nghe tiếng ông nhạc gọi con gái:

- Cúc, con ra đây bố nói cái này.

Rồi tôi nghe tiếng ông nhạc vừa nghiêm khắc, vừa nhỏ nhẹ:

- Anh Tôn có lỗi với con nhưng con xử sự như vừa rồi là không phải. Còn có biết con làm thế là xúc phạm đến cụ bên nhà không?

- Bố lại nghe anh Tôn mách gì rồi! - Vợ tôi nói thế rồi khóc òa lên.

Ông nhạc tôi nói tiếp:

- Bình tĩnh con gái.

- Con bình tĩnh lắm, con mới xử sự như thế. Nếu là người khác..

- Con chưa bình tĩnh đâu. Nghe bố đã. Vậy con so con với người đàn bà kia ai hơn?

- Con kém cỏi nên anh Tôn mới làm khổ con thế.

- Khiêm tốn, nhún mình là quý nhưng con nói chưa thật lòng. Anh Tôn đã nghe con, đã phải theo con về nhà mẹ đẻ của anh ấy, thế là con đã hơn đứt người phụ nữ kia, đúng không?

- Chả qua là anh ấy bị con phát hiện.

- Dù sao thì anh Tôn đã nghe con. Nói cho phân minh ra, trong trường hợp này con thắng cả hai. Người thắng trận nên bao dung, đại lượng. Ngay ngày mai, con phải sang xin lỗi bà cụ, còn vợ chồng, lúc thấy được, con phải có lời với anh Tôn.

Nghe bố vợ nói thế, không đừng được, tôi vội chạy xuống chắp tay:

- Thưa bố, tại con, tại con tất cả. Con phải là người xin em Cúc tha thứ.

- Anh cứ đi lên nhà lo công việc. Trong chuyện này bố là người bình tĩnh nhất để phân xử đúng sai.

Tôi đành phải cun cút đi lên. Tôi không dám theo dõi cuộc trò chuyện của bố vợ và vợ tôi nữa. Ðến tối, tôi chủ động xin Cúc tha thứ nhưng nàng lặng im. Tiếp những ngày sau, trong bữa cơm hay lúc có ông nhạc, bao giờ Cúc cũng mời chào đúng phép, còn khi chỉ có hai vợ chồng, tôi có hỏi gì nàng cũng im lặng. Tôi rơi vào hoàn cảnh "chó chui gậm chạn" thật. Thôi thì đành lấy công chuộc tội, ngoan ngoãn, nhẫn nại "thi hành" đến cùng các tình tiết của kế khổ nhục. Mất đúng ba tháng mười tám ngày, tôi lăn đùng ra ốm, một trận cảm cấp. Lúc đó, vợ tôi mới mở miệng với tôi, mới chăm sóc tôi như xưa. Lựa lúc nàng dịu dàng nhất, tôi ngỏ lời xin tha thứ, nàng dí tay vào trán tôi bảo :"Chuyện cũ cho qua. Anh mà để xẩy ra chuyện gì nữa thì em không chịu đâu". "Biết tội đáng chết rồi!". Tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi thầm cảm ơn trận ốm. "Chiến tranh lạnh" đã qua, đám mây u ám nặng nề trong nhà tôi đã được sự khoan dung của Cúc xua đuổi. Ba tháng mười tám ngày chịu trận, tôi đã có thói quen rửa bát, quét nhà, chiều chiều cứ quanh quẩn bên vợ chờ sai vặt. Nhiều hôm, vợ tôi phải giục tôi ra hầu chuyện ông nhạc.

Cho đến một ngày, chỉ có tôi và bố vợ ở nhà, ông cụ bảo tôi:

- Thế, anh Tôn đã đến xin lỗi bạn gái dạo nào chưa?

- Bố lại trêu con! - Thấy ông nhạc nói vui nên tôi cũng đáp lại một cách thoải mái.

- Có dịp nào thì đến xin lỗi người ta đi. Bỏ rơi đàn bà, con gái giữa đường như thế là không phải. Tôi không dám bày tỏ tình cảm của mình trước câu nói của bố vợ. Song sau đó, tôi lại nghĩ đến Loan, nghĩ dến chuyện hồi ba tháng trước. Loan về nhà bằng cách gì? Loan có thông cảm cho hoàn cảnh của tôi không?... Và vài ngày sau, tôi có bí mật đến nhà Loan để xin lỗi cô. Tôi vào nhà. Loan đang làm bếp. Tôi chào cô. Cô im lặng. Khi tôi hỏi Loan :"Hôm trước Loan về nhà bằng cách gì?" thì cô quắc mắt nhìn tôi. Tôi cười trừ tỏ vẻ làm thân, tiến đến chỗ Loan. Bất ngờ, cô cầm cái chảo, trong đó có hai quả trứng đang sôi lên trong mỡ, hắt về phía tôi. Tôi tránh kịp. Hai quả trứng cùng với mỡ nóng lao thẳng vào tường, bám chặt và tỏa nhiệt nghi ngút.

- Loan - Tôi bàng hoàng kêu lên.

- Cút! - Loan nói và tìm cái gì đó như muốn ném vào tôi nữa.

Tôi vội ra khỏi nhà Loan. Hành động của Loan làm tôi buồn và nghĩ ngợi lắm. Bên tai tôi vang lên lời của vợ :"Bố không hiền đâu. Bố biết hết đấy!". Có phải ông nhạc tôi bảo tôi đến xin lỗi Loan hay là cụ muốn Loan dạy cho tôi một bài học? Nghĩ đi, nghĩ lại, tôi vẫn cho rằng, ông nhạc tôi sai tôi đi với dụng ý tốt, ông cụ chẳng thể đoán trước được cái kết cục mà Loan đã đối xử với tôi vừa rồi. Có điều từ bữa đó, mỗi lúc được hầu chuyện ông cụ, tôi đắn đo cân nhắc trước khi đưa ra chính kiến của mình. Vợ tôi khen tôi là ngoan, tôi đáp lời nàng như người từng trải :"Mỗi tuổi, mỗi khôn, em ạ".

Bóng người trong sương mù

Viết theo chuyện một người bạn kể lại

Nhất Linh

Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi: bây giờ lại gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.

Lúc nói chuyện, tôi thấy bên bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không bằng lòng, nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:

- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này?

- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài, nhưng đối với tôi...

Vừa nói đến đấy, xe rầm rập đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:

- Xe đi qua cầu N.G... Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay...

Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:

- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?

- Vâng, những sự tích buồn... chuyện đã ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Sài Gòn thì tôi còn là anh cầm lái tàu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.

- Cũng như tình cảnh tôi...

- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.

Về sau, nhà tôi bị bệnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan toàn quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào thưa với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn, đập ghế, gắt:

- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra.

Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.

Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi duyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên, bảo tôi rằng:

- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mau về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.

Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Ðến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.

Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:

- Ô hay! Hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?

Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.

Xe đi vào khe núi, hết lên cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một mầu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn, rồi hỏi:

- Bác có thấy gì không?

Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi:

- Chỉ thấy sương mù! Ông lại mê ngủ rồi.

- Không, rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sương mù nhưng vừa biến mất.

Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Ðược một lát, hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay vẫn dang thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.

Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy, cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật, mà ai nhìn cũng phải thấy. Tôi đến cầm lấy tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:

- Nhìn xem!

Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt hốt hoảng nói:

- Lạ thật!... Ma ông ạ!

Xe tiến đến đâu, cái hình người lui đến đấy, có lúc mờ, có lúc rõ, lơ lửng giữa lưng chừng trời.

Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.

Tôi bảo bác "ét":

- Bác này, có sự gì lại sắp xảy ra.

- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.

Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫy thật nhanh như người tỏ ra ý thất vọng vì bảo chúng tôi không nghe.

- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!

- Không được, tự nhiên vô cớ.

Còn tôi lúc bấy giờ hai tai ù như người mất trí khôn; tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:

- Ðỗ lại! Ðỗ lại!

Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái "phanh" như định hãm rồi lại không dám hãm.

Một lát, tôi lại nghe tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:

- Hãm lại! Hãm lại ngay!

Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn chạy lên hỏi:

- Việc gì thế?

Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ.

- Chắc có sự gì lạ. Ðể tôi cầm đèn đi xem đã.

Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan toàn quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G.

Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Ðến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gãy làm đôi.

Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan toàn quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai: tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính nhờ tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu ra sao cả.

Người "xếp tanh" mừng cuống quýt, hỏi tôi:

- Sao ông biết mà hãm?

- Tôi cũng không hiểu.

Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra. Quan toàn quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.

Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không, tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy con gì bám ở cái đèn để ở đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.

Trông thấy con bướm, tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cánh tay người vẫy.

Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi; sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...

Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.

Tôi không tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí là linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn đêm hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giàu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.

Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại rồi thẫn thờ nói:

- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn.

1937

Bức tranh thiếu nữ áo lục

Quế Hương

Ðó là một du khách đặc biệt, ông ta thường có mặt ở lăng rất sớm, không qua cửa chính, bởi người bán vé vào thăm lăng gần tám giờ mới làm việc, còn ông, bằng cách nào đó đã đi dạo trên những con đường rợp bóng thông, tùng, sứ, nhãn từ sớm tinh mơ, khi cái hoàng cung u trầm, diễm lệ của vị vua đã khuất còn chìm trong màn sương. Có khi ông còn làm việc trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt của đêm chưa hẳn qua, ngày chưa hẳn tới. Mắt mở căng, ông cố nắm bắt một chút lạnh lẽo, ẩm ướt, run rẩy, tái xám của thứ ánh sáng ma quái bằng những nhát cọ khắc khoải, bướng bỉnh cho đến lúc tóm bắt được nó trên lụa trước khi nó vuột vào rạng đông.

Khi hoàng cung của cõi chết bắt đầu hiện ra rỡ ràng, diễm lệ dưới ánh dương quang, họa sĩ ngừng tay. Ông ngồi dựa vào thân cây, trang nghiêm, tĩnh mặc như một kẻ thiền tọa, lắng nghe như uống từng giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ của lũ chim sớm. "Ta trồng nơi đây nhiều cây để gọi chim về...", vị vua chủ nhân lăng từng ước muốn như vậy ở văn bia. Ðối với họa sĩ, khoảnh khắc ấy thật kỳ diệu. Nỗi đời tan biến và ông đắm chìm trong bản hợp xướng tuyệt vời của các chú chim bé bỏng. Chính giữa lúc ấy ông bỗng nghe một tiếng thở dài, ông giật mình nhìn quanh. Chẳng có ai ngoài ông và lũ chim.

Càng ngày họa sĩ càng cảm thấy ông không chỉ một mình trong sớm tinh mơ. Có ai đó luẩn quẩn quanh ông. Một tiếng chân, một tà áo mơ hồ như ảo giác đã làm ông mất thanh thản. Ðôi khi ông tưởng như nhìn thấy một đôi mắt trong lùm cây trước mặt, một đôi mắt đen hơm mầu đêm, nhìn ông chăm chắm. Bấy giờ ông không làm việc được nữa. Cây cọ vẫn mơn man trên nền lụa nhưng trái tim ông thì đang rình rập. Ông chơi trò cút bắt với một cái bóng. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện, đằng trước, đằng sau... và bao giờ cũng đè nặng lên ông cái nhìn trĩu nặng và nóng bỏng. Thế mà chủ nhân cái nhìn là cô bé mười lăm mười sáu tuổi, một cô bé như bước ra từ một bức tranh cổ với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời, tay đầy hoa sứ, người sực nức mùi thơm ngọt đậm. Ông đang túm vạt áo mầu lục của cô, còn cô thì run rẩy như một cọng cỏ. Họa sĩ bật cười ha hả. Kẻ rình ông và ông rình lại chỉ là một cô bé đứng thấu ngực ông! Buông áo cô ra, ông ngắm cô từ đâu đến chân, lập tức cô bỏ chạy. Vệt cỏ sáng lung linh rồi khuất trong mầu cây. Ông mơ hồ nghe vọng tiếng lục lạc.

Họa sĩ ra đi thật sớm từ ngày gặp cô. Ông ước ao thực hiện một bức chân dung về cô bé lạ lùng kia, cô bé như một mảnh cổ kính vỡ ra từ đâu đó quanh đây. Thức dậy cùng tiếng chuông chùa, ông có mặt ở lăng khi nó chưa tỉnh ngủ. Ông biết ông không chỉ một mình nhưng nếu ông quay lại lập tức ông chỉ thấy một ảo ảnh, một mảng lục non mơ hồ thấp thoáng trong sương. Càng ngày ông càng thiết tha được vẽ ảo ảnh đó. Có lần ông thử vẽ phác cô căn cứ vào khoảnh khắc đối diện lần đầu nhưng ông không thể nhớ nổi. Gương mặt cô nhạt nhòa và ông chỉ phác họa một cái bóng cũng nhạt nhòa như thế dưới cây đại nở đầy hoa, giữa chòm lâu đài, miếu tạ nên thơ. Khi ra về, ông để phác họa lại. Sáng hôm sau, nó vẫn ở đấy nhưng được buộc bằng một dải lụa. Mở ra, ông thấy cô bé đã nhốt mình lại bằng một dãy tường thành lởm chởm gươm nhọn. Thỉnh thoảng, từ những viên gạch rêu phong ló ra một đầu người, khuôn mặt dữ dằn khắc nghiệt. Còn những công trình kiến trúc xinh xắn quanh cô thì bị bôi đen ngòm trông như những nấm mồ, ông sững sờ, cô bé chỉ đứng thấu ngực ông có phải là một cô bé không nhỉ? Tiếng thở dài, rồi bức tranh này nữa! Những gì ông thể hiện hoàn toàn đối nghịch với ông. Chốn lăng tẩm nên thơ dưới mắt ông trở thành một mộ địa thực sự dưới mắt cô - lạnh lẽo, âm u, tàn nhẫn. Ông lại nhìn bức tranh gần hoàn thành trên giá. Lềnh bềnh trong sương, nom nó như được vớt lên từ cõi chết, nhợt nhạt trong ánh sáng yếu ớt rồi dần ửng hồng, rõ nét, rõ ràng khoe với ngày một vẻ đẹp tang tóc mê hoặc, cổ kính yên bình. Ông đã ra đi bao ngày trong sương sớm giá buốt, trong tờ mờ tranh tối tranh sáng để cố bắt kịp khoảnh khắc giao thoa giữa ngày - đêm, sống - chết, vui - buồn... Nhưng bây giờ nom nó chỉ là một tác phẩm cùng - kiểu - với - mọi người, tái hiện một vẻ đẹp được thừa nhận. Còn cô, tại sao cô lại phủ nhận.

Mấy tuần nay, cô đã dám thơ thẩn nhặt hoa sứ gần ông. Thường khi ông vẽ thì cô ngồi chơi với đống hoa rụng. Cô sắp chúng thành một con chim xoạc cánh, một dãy núi, một cây thông...

Ông nói với cô:

- Em sẽ vẽ được đấy.

- Nhưng em không vẽ như ông. Chán chết!

- Em muốn vẽ gì?

- Cỏ.

Họa sĩ lấy quyển sổ phác họa, vẽ cho cô một con đường mờ mịt, khuất lấp sau ngọn cỏ. Cô lắc đầu:

- Cỏ đám cưới kia.

Rồi cô chạy đi và trở về bên ông với đôi tay đầy hoa dại. Cô tung chúng lên cỏ.

Thế là ông vẽ cỏ - đám - cưới. Hoa tóc tiên rực rỡ mầu nhưng thắm, hoa ngũ sắc đỏm đáng. Hoa bâng khuâng mơ màng. Hoa lồng đèn ngộ nghĩnh... Chúng cưới nhau trên cỏ, khiêu vũ, đùa chơi, gối đầu trên cỏ. Hai mươi năm cầm cọ, họa sĩ chưa bao giờ vẽ một cái gì tươi tắn giản dị, rạo rực sức sống dường kia. Mầu sắc cứ tuồn tuột khỏi tay ông, chạy ào vào bức tranh, chúng tự tìm chỗ, hối hả reo vui trên nền cỏ rạo rực. Họa sĩ như lành bệnh hẳn sau đợt tranh vẽ cỏ. Ông theo cô vào thế giới cỏ bất tận, đầy bí ẩn giàu tưởng tượng của cô. Sau này khi ông mất, người ta tìm thấy rất nhiều tranh cỡ nhỏ vẽ cỏ. Chúng chẳng bao giờ giống nhau và cũng chẳng chỉ mầu xanh. Họ đặt chúng sang một bên, chép miệng: "vớ vẩn".

Ðã đầu đông, trời có những ngày se lạnh, ông vẫn lên lăng, ông lên chơi với cô bé. Giữa họ không tuổi tác, khoảng cách, thời gian. Sáng nay, đứng cách nhau nửa sải tay, ông bàng hoàng nhận ra cô bé lớn nhanh quá. Cô thiếu nữ mười lăm mười bảy hai mươi và bây giờ, trước mặt ông, nom cô như một thiếu phụ héo hon, bất hạnh. Phải vẽ nhanh kẻo không kịp nữa, ông nhủ thầm.

- Này em, tôi muốn vẽ em trên cỏ và sau đó em đặt một cái tên gì đó tùy em. Nhưng phải mau lên, kẻo tôi vẽ bà già mất!

- Thì em "già rồi"! - Cô cười, hé những chiếc răng tựa ngọc.

Thiếu phụ biến mất. Trước mặt ông lại là cô bé, nom như cọng cỏ, một cô bé thơ ngây và xa lạ, cô đơn và lạc lõng, như đi ra từ một câu chuyện xa xưa. Ông bối rối ngơ ngác.

- Khi vui em trẻ, khi buồn em già. Ông đừng để ý.

- Bé như em có chi mà buồn?

- Em chẳng làm được chi theo ý em. Cô xịu mặt.

- Thế em muốn chi?

Cô nói lảng:

- Sáng nay cỏ rét đấy!

- Sao em biết?

- Chúng xanh ra.

- Em có rét không? Em mặc phong phanh quá!

Ông cởi áo khoác choàng lên vai cô. Cô rùng mình. Bàn tay cô như muốn hất ra, nửa như bấu chặt. Cô lắp bắp:

- ấm quá... ấm quá... Em chưa khi mô ấm như thế ni.

- Cho em luôn đó.

- Em không được nhận. Em phải đi đây. Mai ông đến không?

- Nếu em chịu ngồi cho tôi vẽ?

- Nhưng phải sớm nữa kia.

- Sớm quá làm sao thấy em. Ngày mai em có muốn tôi đem gì cho em không? Kẹo, búp bê? Cho em đừng mau lớn quá.

- Không! Em chỉ muốn ra ngoài kia. Cô chỉ tay về phía núi xanh xanh - và... đi với ông. - Em chưa hề đi với người đàn ông nào cả.

- Mai ta đi.

- Em không được phép.

- Trốn!

- Không trốn được.

- Tường thấp lắm. Tôi sẽ đỡ em trèo.

Nhưng cô sợ hãi thật sự. Mặt cô tái mét. Mắt nhìn ngược xuôi. Ông chợt nhớ những đầu người dữ dằn ló ra từ những viên gạch cô vẽ và sự khiếp sợ của cô như luồng gió tạt qua làm ông rùng mình. Ðó là buổi cuối cùng ông gặp cô trên lăng.

Khi cô đi rồi, ông trở về nhà, từ lăng đến chỗ ông ngụ ở làng Dương Xuân Thượng không xa lắm. Người bác già càu nhàu: "Mi là thằng điên. Ði chơi sớm rứa có đi chơi với ma. Ði về sớm rứa có vẽ người chết. Trời đất thì độc địa. Mấy chỗ đó thì đầy âm khí. Vua mô mất cũng hàng chục tá đàn bà con gái theo hầu, suốt đời hương khói...". Người bác bỏ lửng câu nói, vấn điếu thuốc Cẩm Lệ rồi bặt luôn, đứng dậy đi ra vườn.

Ông vào phòng mở tung mọi cánh cửa. Sớm mai phảng phất mùi mít chín cây. Chiếc bàn nhỏ bừa bãi thuốc lá, sơn cọ. Góc phòng có một bức tranh đậy sùm sụp mảnh vải. Ông đến giật tấm vải phủ. Người đàn bà trong tranh trần truồng tắm nắng mai, mắt nhắm nghiền, gương mặt nhăn nhúm. Thoạt đầu ông chỉ muốn tái hiện gương mặt người vợ khi bắt gặp nàng trong tay "vị - cứu - tinh". Mắt trừng trừng, những nhát cọ sắc như dao, ông rạch trên mặt vải những đường nét biến dạng của một gương mặt no nê khoái cảm để nó không còn trú ẩn trong tâm thức ông nữa. Mỗi ngày, ông đứng bảy đến tám giờ bên giá vẽ. Nhưng càng vẽ, nỗi căm thù, khinh bỉ càng biến mất. Chỉ còn ông và hội họa của ông. Người đàn bà trong tranh không còn là hình ảnh của vợ ông nữa, đó chỉ là một người nữ đang sống những phút mê đắm trần thế phù du, gương mặt nhăn lại như đau đớn. Một đợt sóng buồn âm u thương cảm trào dâng làm dịu dần những nhát cọ của ông, làm khinh phiêu những sợi tóc rối của người đàn bà, khiến nàng bơi trong làn ánh sáng dữ dội và mê hoặc.

Ngày cuối, khi đường cọ sau cùng, kiệt sức và trống rỗng, ông bàng hoàng nhận ra đó là một tác phẩm đẹp nhất của ông, ông đã trút cạn ở đó nỗi đắng cay và nguồn sinh lực, sự thống khổ và niềm đam mê. Từ lâu ông không làm việc như thế. Từ lâu ông đã vẽ - như ngủ. Ðôi tay tài hoa của ông điều khiển lấy mọi việc. Chúng làm đủ trò ảo thuật trên vải. Kỹ thuật càng tinh tế, tranh ông càng toát ra cái vị vô hồn. Chúng không có những ngóc ngách bí ẩn. Không có nguồn sinh lực tiếp máu cho hình khối, mầu sắc, đường nét. Những điều đó, dường như chỉ mỗi mình ông nhận thấy bởi chúng vẫn thường được ca ngợi, ham chuộng và biến thành những chồng tiền rất dày. Chúng nhìn ông với vẻ ngạo nghễ, xa lạ. Tranh ông ngày càng có mặt ở nhiều gallery trong nước và nước ngoài. Cha đẻ của chúng thì không hề thấy. Chỉ người vợ gương mặt trang điểm kỹ lưỡng như đeo mặt nạ, nụ cười đông cứng chuẩn mực trên môi và một người đàn ông lịch sự, nói tiếng Anh như gió, luôn tràn trề vẻ xót thương và lòng tận tụy trong việc bồi đắp tiền bạc, danh vọng cho ông. Vợ ông gọi hắn là "vị cứu tinh". Càng giàu có, người ta càng thấy họa sĩ lang thang trên đường phố, như một kẻ vô gia cư, áo quần lôi thôi, tóc tai bù xù. Có khi ông biến đi đâu cả hai ba ngày, đám bạn bè thừa thãi lời khen và bia bọt không thể nào thấy được. Chỉ có lũ chim sẻ biết. Ông cho chúng ăn, thì thầm trò chuyện với chúng. Sau hai, ba ngày, ông ló đầu ra, tóc tai đầy mạng nhện, quẳng xuống từ căn gác xép sát mái mấy bức tranh vẽ những mảng trời không yên tĩnh bé bằng manh chiếu, những bức tranh vợ ông cằn nhằn vì bán không chạy. Có lần bà bắt gặp ông ở họa phòng vào hai giờ sáng, ngọn nến trước mặt, lầm thầm trước một khung tranh trắng toát, còn những hình nhân trong bức tranh quanh ông thì như lũ âm binh, vàng vọt, dài thượt, leo lét nhảy múa dưới ánh nến. Họa sĩ cầm nến dí vào chúng với vẻ ghê tởm. Vợ ông hét lên. Từ đó ông trở thành bệnh nhân của bệnh viện tâm thần. Giới hội họa xôn xao bàn tán. Họ gọi đó là số phận thiên tài. Còn "vị cứu tinh" thì được dịp chứng tỏ lòng tận tụy.

Quả từ khi có hắn, tiền bạc vào nhà ông như nước và ngược lại, nước cuốn theo sự đói nghèo, yên bình, đam mê sáng tạo và cả hạnh phúc.

Vâng! Nếu không có "vị cứu tinh" xuất hiện vào một chiều mưa tám năm về trước, ở gallery tẻ lạnh của ông thì bây giờ ông không ở đây mà bên cạnh vợ con hoặc trong cái chòi nhỏ sau vườn, nơi ông đắm chìm trong đơn độc sáng tạo. Anh ta đến chỉ tình cờ núp mưa và chợt rùng mình trước những bức tranh ế ẩm của người họa sĩ vô danh có vẻ mặt đăm chiêu, khắc khổ. Vốn sống bằng nghề môi giới tranh, anh ta đánh hơi mình sẽ được gì từ cái gallery thưa thớt mấy người này. Anh ta trở lại với một trùm buôn tranh tầm cỡ quốc tế, đặc biệt sính tranh á Ðông. Ngày hôm đó, họa sĩ đem họ về nhà. Ông lôi ra từ dưới gầm giường, trên mái, trên vách những bức tranh chưa hề được triển lãm. Chúng nóng hôi hổi như những viên hồng ngọc thô mới lôi lên từ lòng đất. Hai vị khách ngồi chồm hổm, có khi gần như bò để xem tranh. Chúng nằm la liệt trên sàn nhà, chẳng khung, chẳng tên nhưng cõi người nặng trĩu, ngọn gió hư vô xào xạc trong vô thanh cứ làm họ bàng hoàng. Tất cả ngồn ngộn một sức sống mãnh liệt ứ trào khỏi mầu sắc và hữu hạn.

Từ đó cuộc sống ông không còn là của ông nữa. Tiền bạc, danh vọng ùa vào trong nhà ông như một lũ xâm lăng. Chúng làm mất quân bình mọi cái, khuân đi mọi cái, thay đổi mọi cái. Ngay cả ông cũng không còn nhận ra vợ con, bạn bè mình. Họ đẹp ra, sang ra, thân tình hết mực nhưng... hoàn toàn xa lạ!

Bây giờ ông ở đây sau khi li dị. Ra tòa vợ ông là kẻ thắng thế vì nghiễm nhiên ông là kẻ suy nhược thần kinh nặng trước mọi người và cả y học.

Thoạt đầu ông định nghỉ ngơi ở Huế vài tuần nhưng ông đã ở nửa năm và không muốn đi nữa. Ông không ngừng ngạc nhiên trước những tặng vật nho nhỏ của thành phố này. Một bông hoa dại hồn nhiên nở trong búi cỏ trên vỉa hè lát đá của một đại lộ. Ngôi nhà hoang phế liêu xiêu, cánh cửa rục rã, mái trĩu thời gian vẫn tự tại có mặt bên cạnh những ngôi nhà kiến trúc kiểu mới như một đại diện của quá khứ. Ông lãng đãng mơ màng trong không khí trầm lắng, êm ả, trong nhịp điệu từ tốn, chậm rãi của thành phố đứng bên lề sự chuyển động chóng mặt của thời đại. Ông lang thang khắp chốn Huế từ tốn, lặng lẽ hồi sinh cho ông.

*

Ông bắt tay vào việc thực hiện chân dung thiếu nữ áo lục lúc Huế thật sự bước vào mùa đông. Không gian trắng xóa mưa buồn, lê thê giọt vắn, giọt dài sướt mướt. Trời lạnh như cắt. Người bác già co ro xuýt xoa bên cái lồng ấp nhỏ bằng tre ủ những cục than hồng. Còn ông, ông đóng cửa và bắt đầu vẽ.

Chưa bao giờ ông làm việc khó khăn đến thế. Mấy lần thay lụa, cô vẫn như cái bóng không nắm bắt được. Khái niệm về thời gian và tuổi tác không tồn tại nơi cô. Ông hình dung cô lúc mới gặp, cô thiếu nữ trẻ măng, bối rối thì cô lại hiện trên vải như một thiếu phụ, khóe miệng cay đắng, đuôi mắt li ti vết chân chim. Có lúc người thiếu phụ ấy lại như cọng cỏ mùa xuân xao xuyến, áo mầu lục non, ánh mắt cháy bỏng... Cô hiện ra lung linh và bất định, lúc già, lúc trẻ, lúc buồn, lúc vui, lúc rõ như sờ nắn được, lúc nhạt nhòa mơ hồ như một ảo ảnh đến nỗi ông có cảm tưởng ông bệnh và cô chỉ là một ảo giác của người bệnh. Bức chân dung về cô mấy tuần rồi vẫn dừng lại ở cái nền và y trang. Buông cọ vì bất lực, ông mặc áo ấm và đi lên lăng. Từ sau buổi sáng ấy, ông không còn được gặp cô nữa. Lúc đó đã bốn giờ chiều. Trời thật rét. Chẳng có du khách, cũng chẳng có cô, chỉ có những tượng đá trầm mặc và ngàn thông rũ tóc khóc than. Sự quạnh vắng của cõi chết thật khủng khiếp. Ngồi một lúc ông đứng dậy ra về, và đúng lúc đó, ông trông thấy cô. Cô đứng trầm ngâm bên hồ bán nguyệt, lặng lẽ nhìn về phía núi. Trời lạnh mà cô vẫn phong phanh tấm áo mỏng. Mừng rỡ ông kêu lên. Ông vừa chạy vừa gọi. Tiếng chân ông dội vào hoang vắng. Tiếng gọi của ông loãng trong tiếng thông xào xạc. Ông chạy và cảm thấy khoảng cách giữa ông và cô không ngắn lại. Lật đật ông vấp té. Khi đứng dậy, cô không còn ở đó nữa. Tuyệt vọng, ông tựa vào bờ thành thở hổn hển. Hơi thở phả ra lập tức biến thành khói trắng tan trong lạnh giá.

Tối hôm đó ông bị ốm. Người bác già vừa nấu cháo hành giải cảm vừa lầm bầm gọi ông là thằng điên. Vùi trong chăn, ông mơ hồ nghe tiếng gõ vào cửa kính. Mưa đấy. Ông thầm nhủ. Nhưng không phải mưa. Một que diêm, hai que diêm lóe lên và ông thấy một gương mặt nhòe nhoẹt nước áp vào cửa kính. Ông nhận ra đó là gương mặt ông đã hoài công tái hiện trong tranh. Run rẩy, ông ngồi dậy. Không kịp bật đèn, đi chân trần, ông đến mở cửa. Một tấm thân mảnh mai, sũng nước đổ ập vào ông. Ông dìu cô đến giường và bật ngọn đèn ngủ. Cô tơi tả như một cành hoa trong mưa gió. áo quần ướt đẫm, tóc bết dính, cái lồng ấp nhỏ trong tay cô cũng tắt ngúm và đầy nước; chỉ có đôi mắt cô là như hai hòn than rực cháy sự liều lĩnh, thách thức. Ông lấy áo quần mình tự thay cho cô. Tay ông chạm vào làn da mịn bóng như sa tanh phảng phất hương trầm. Cô nhắm nghiền mắt, lả đi trên gối, phập phồng thổn thức dưới tay ông. Thay áo cho cô xong, ông kéo chăn lên tận cằm, bước xuống tìm nến. Ông tắt đèn thắp hết nến lên và quỳ xuống bên cô, nâng gương mặt cô trong tay. Bây giờ ông có thể chạm nó như một thực thể, thấy rõ từng nét mày, khóe môi, cả nốt ruồi son bên cánh mũi. Dưới ánh nến, được rửa bằng nước mưa và nước mắt, gương mặt đó sáng rỡ vì hạnh phúc, nồng nàn, trẻ măng. Ông kéo giá vẽ lại gần. Trong bức tranh gần hoàn thành ông vẽ gương mặt thiếu nữ áo lục. Ông làm việc mê man. Khi ông rời nó, cô đã ngủ. Trong giấc mơ, cô lắp bắp những lời vô nghĩa đối với ông:

- Tử Cấm thành... xin lửa... đêm đông chí...

Tắt những ngọn nến, ông nằm xuống bên cô.

*

Sáng hôm sau, họa sĩ dậy trễ. Người bác bưng ly sữa đến tận phòng. Ông càu nhàu khi thấy cửa không cài. Cái thằng đãng trí đã để gió lùa suốt đêm. Ông đến lay đứa cháu còn nằm trong chăn ấm. Lập tức ly sữa lai láng trên nền. Ông già mếu máo kêu lên. Nhưng căn phòng rộng trong khu vườn mít chỉ có hai người. Một nằm đó, bình yên như ngủ, thân thể lạnh giá. Một đứng đó, mếu máo cô độc. Bên cạnh họ là bức tranh chưa ráo sơn trên giá. Người thiếu nữ trong y trang mầu lục, cổ đeo kiềng vàng, tươi tắn như chiếc lá mùa xuân. Quanh cô, dờn dợn một biển cỏ. Trước mặt, một rặng núi xanh. Gió lạnh tạt vào phòng, gờn gợn bức tranh lụa. Người đàn ông già kinh hoàng dụi mắt. Ông thấy một cái bóng nữa bên cô, nhạt nhòa, cao lớn. Cả hai sóng đôi chạy về phía núi.

Nhận được tin ông mất, người vợ cũ và "vị cứu tinh" ra Huế ngay lập tức. Họ không để ý người chết. Họ để mắt tới những bức tranh nhất là bức tranh thiếu nữ áo lục. Họ gói ghém chúng cẩn thận. Chúng sẽ theo họ về bằng máy bay.

Khi hai người thận trọng tháo gỡ giấy bọc để trình bày với giới mua tranh kiệt tác cuối cùng của họa sĩ tài ba, họ kinh hoàng nhận thấy thiếu nữ áo lục đã mất mặt. Gương mặt diễm lệ, tươi tắn dường kia chỉ còn là một khoảng trống không đường nét, không mầu sắc, một khoảng trống thật tệ hại trong bức tranh đáng lẽ thật toàn bích.

11-1992

Câu chuyện một chiều thứ bảy

Trần Thanh Giao

Một chiều thứ bảy, bọn chúng tôi dắt nhau ra bờ sông Hồng chơi. Bấy giờ đã là cuối mùa thu rồi. Nước sông rút xuống và lặng lẽ trôi xuôi, cuốn theo vô số phù sa mầu gạch non đùng đục. Chúng tôi trèo lên một đống gỗ ngồi nhìn xuống lòng sông. Chẳng bao lâu mà mặt trời tắt hẳn. Trăng mồng mười treo trên cao. Gió lạnh làm sông Hồng nhăn mặt. Thỉnh thoảng mấy gợn sóng con con sáng lên, lấp lánh như những lưỡi búa vàng.

Cảnh sông thật đẹp nên chuyện cứ nở như gạo rang. Chúng tôi đi từ chuyện cá mè, tép bạc sang chuyện rươi đúc trứng, chuyện tôm tả-pi-lù... Mỗi người mỗi miền đều tranh nhau nói. "Danh cua" với giọng Nam Bộ hòa hợp giọng bắc, đang sôi nổi tán về món sò huyết nướng than hồng, bỏ vào một tý muối tiêu. Danh ngồi chồm chỗm trên khúc gỗ, tay giả vờ vắt một múi chanh vào con sò huyết tưởng tượng, đưa lên miệng húp một cái rồi trệu trạo nuốt làm cả bọn chúng tôi đứa nào cũng phải nuốt nước bọt theo một cách ngon lành.

Từ chuyện sò, chúng tôi bắt sang chuyện ngao, chuyện hến... Danh chợt quay sang một anh bạn miền bắc:

- Ngao à? Trong nam gọi ngao là vọp. Có một lần mình ăn vọp. Năm ấy cách đây vừa đúng bảy năm...

Danh bỗng trầm hẳn xuống rè rè như đang có vật gì mắc ở cổ họng:

- Bảy năm qua rồi mà mình không sao quên được...

Tôi bảo thầm trong bụng: Lại sắp có chuyện đây. Nhìn nét mặt Danh đang thừ ra nghĩ ngợi, nhìn đôi mắt Danh đang mơ màng trông xa xa, tôi đoán có lẽ là một chuyện tình. Các anh em khác chẳng ai bảo ai mà cũng đều ngồi yên chờ đợi. Một lúc, sốt ruột quá, tôi giục:

- Kể đi! Kể chuyện ăn vọp đi!

Danh "ừ" một tiếng, cho tay vào túi áo ngoài, moi moi khoắng khoắng cả hai bên chẳng biết là tìm bao thuốc hay là lục lại vật gì cũ kỹ. Tôi vội đưa cho anh chàng điếu thuốc và đánh diêm. Danh hít một hơi ngon lành, thở khói ra dày đặc, rồi lấy tay khoát nhè nhẹ như đang vén lên một bức màn:

"Câu chuyện này cũng bắt đầu bằng một chiều thứ bảy cuối thu. Lúc ấy cả phân xưởng mình đang đổ dồn vào một công việc đột xuất là đúc lựu đạn. Anh em thay phiên làm quần quật suốt ngày đêm không nghỉ để cho kịp chiến dịch. Trong hoàn cảnh ấy, lại hết củi để nấu cơm, làm bếp. Kể thì cũng nhỏ mọn thôi. Nhưng nguyên tắc bảo mật tuyệt đối cấm kiếm củi ở vùng gần xưởng. Bọn này thường phải đi xuống Vàm Ðầm, xa vài mươi cây số. Sau một bữa cơm nửa sống nửa chín-mà có anh mặt nhăn như bị, cô Miên, cấp dưỡng của bọn này, mới quyết định tự mình đi lấy củi. Ðó là một việc nặng. Mà để cho cô đi xa thì bọn này cũng không yên tâm. Ðịnh cắt một người cùng đi với cô. Nhưng anh em không ai rứt việc ra được. Miên xin cho mình đi theo. Mọi người quay lại nhìn mình. Hồi ấy mình vừa rời ghế nhà trường đi xuống miền tây kháng chiến, công việc trong xưởng cũng mới biết ti toe nên rỗi hơn anh em, hôm sau chủ nhật mình lại được nghỉ, nhưng mà công tác lao động có thể nói là mình dốt đặc cán mai. Tuy vậy, không thể để anh em chờ lâu, mình "xung phong" đi ngay với cô Miên. Xung phong thì cũng có nhiều lý do. Trước tiên nghĩ rằng "cả làng" người ta đang làm cật lực chẳng lẽ mình cứ "cà nhổng chống xâm lăng", "phất phơ làm cách mạng". Hai là thường ngày mình cứ nói vanh vách nào là yêu nước, nào là chủ nghĩa xã hội, nói chuyện Liên-xô kiến thiết cái này, xây dựng cái kia mà bây giờ không đi thì mang tiếng lý thuyết suông, để người ta chê mình là "lạc hậu" thì còn gì giá trị con người của mình nữa. Ba là một mình đi vào rừng với cô Miên thì cũng hay hay. Các cậu cười à? Cái đồ quỷ, cứ nghĩ tầm bậy! Hay, hay là thế này: Lúc bấy giờ mình nghĩ ngay đến cảnh rừng cây mọc vút cao, ánh nắng xuyên qua kẽ lá như rẻ quạt, sóc trên cành nhảy lon ton, có một đôi thanh niên nam nữ vừa đẵn gỗ vừa hát... ấy đại loại hay hay là như thế vậy."

Trong bọn tôi, bật ra những tiếng cười thú vị y như khi xem xiếc thấy anh chàng đi dây rất "chúa" mà lại giả vờ trượt ngã. Thật vậy, "Danh cua" thì ghê lắm! Ông ấy việc gì cũng sành và là tay tiện cừ nhất bọn trẻ trong kíp và cả trong xưởng chúng tôi. Nếu ai mới đi lao động công trường mà thấy Danh cứ xắn hai nhát mai một hòn đất và dạy rạch ròi cho anh em đổ nền, bện sọt thì lại tưởng Danh là nông dân chính cống. Danh năm nay chưa đầy ba mươi tuổi, nghĩa là "còn xoan", người tầm thước, đầu cắt "cua" nên được gọi là "Danh cua". Mà Danh là "cua" cũng vì có đôi tay chắc nịch, sờ vào rắn như sờ phải chiếc kìm càng cua. Ðặc biệt Danh cua "kẹp" đến mức "trời gầm không nhả" những anh chàng nào xem lợi riêng bằng cái hũ còn lợi chung chỉ bằng cái khu tô. Thế mà nay lại nghe Danh nói toàn giọng "đâm hơi" như vậy thì ai mà không cười cho được. Nhưng sau này ngẫm nghĩ cái điều trái ngược ấy chúng tôi mới dần dần hiểu ra tại sao Danh lại tốt và hết lòng lo cho anh em như bây giờ. Ðó cũng là cái đầu mối chính của câu chuyện mà Danh kể tiếp sau đây:

"Thế là sau khi cơm nước, cụ bị xong xuôi, mình và Miên xuống một chiếc tam bản xuất hành đúng vào chiều thứ bảy. Ði loanh quanh mấy con rạch bảo mật, bọn mình trổ ra sông to. Bắt đầu chèo. Mình ở phía sau, Miên đứng trước mũi. Theo nhịp đều đều, hai đứa thong thả chèo đi. Con thuyền chồm chồm, lướt nhẹ trên dòng nước. Mặt trời đã khuất. Gió sông lên. Sóng lưỡi búa đánh lách chách vào mạn thuyền. Gió thổi tung mái tóc ngắn trên vai Miên. Nói thật, ngày thường mình không chú ý đến Miên lắm. Miên tuy có một nước da mịn và trắng, người đầy đặn, nhưng lúc đầu mình trông có phần cục mịch. Vả lại lúc ấy mình cho rằng Miên suốt ngày chỉ hũ mắm, tép hành, hết nấu cháo cho bệnh thì lại đi bổ củi, khó thông cảm. Nhưng ở xưởng, nhiều anh chàng chết mệt với cô gái mười tám tuổi ấy, có đôi mắt mí lót và cái mồm luôn luôn cười cởi mở. Người ta khen Miên làm việc chí tình, khen Miên đẹp, nhất là khen đôi chân. Có người bảo đôi chân ấy mà cho đi múa thì phải biết. Mình thì cho Miên không đẹp. Nhưng tài làm việc và đôi chân của Miên thì mình cũng chịu, không tìm được chỗ nào để mà chê. Quả thật vậy. Gió chiều trên sông thổi ngược. Vạt áo và ống quần bà ba đen dán chặt vào chân Miên bay lật phật... Miên chèo, chân trái bước tới một tí, rồi chân phải nhẹ nhàng đá lên phía trước, thân người nghiêng chênh chếch. Ðôi chân đẹp uyển chuyển cứ như nhảy múa trên sạp thuyền. Máy chèo quạt nước xoáy tròn trôn ốc trôi về phía sau.

Lần đầu tiên mình buột miệng khen lên một tiếng:

- Chị Miên chèo chân đẹp quá!

Miên hất mái tóc về đằng sau, quay lại mỉm cười. Mình thấy đôi mắt Miên sáng lên và đôi gò má ửng hồng:

- Dữ ác! Anh đến đây năm tháng rồi mới thấy anh nói nghe được!

Rồi lại thêm một câu như đã có ý định từ trước:

- Mai vào rừng bắt vọp nướng ăn. Ngọt lắm! Dưới này vọp thật nhiều.

Các cậu hiểu câu ấy thế nào? Mình thì khi đó cảm thấy trong lòng là lạ: Miên chú ý đến mình từ lâu. Ðúng đấy chứ không phải chủ quan đâu. Chẳng biết sao mà mình lại huýt sáo vang lên và chèo thật mạnh.

Chúng mình tới Vàm Ðầm hơi khuya. Trăng đã xế xuống sát ngọn đước bên kia sông. Buộc thuyền lại chắc chắn hai đứa lên một trạm gác bỏ trống, trải chiếu ngủ dưới đất. Ðêm ấy mình suy nghĩ nhiều. Có lúc ngồi dậy nhìn dòng sông. Chung quanh toàn là rừng heo hút. Nhưng nói thật với các cậu là ma không dám đến...".

Danh cười một tiếng nhỏ, vất tàn thuốc lá ra xa. Ðám lửa bay vút đi như ma trơi, loé lên rồi rơi ngay xuống.

"Sáng hôm sau, Miên đánh thức mình dậy trước khi có ánh nắng mặt trời. Miên đem cơm nước xuống thuyền rồi đứng lái. Chèo một quãng, chúng mình bỏ sông to và bắt đầu đi vào rừng. Miên đưa thuyền sâu vào những rạch nhỏ, vào các ngả con, quanh qua quẹo lại mà không do dự một tý nào. Có lẽ Miên thuộc lòng vùng ấy. Ðến một nơi hơi quang. Miên hạ lệnh dừng lại và sửa soạn để lên rừng. Mình định bỏ quần dài ra vì nghĩ rằng lao động thì phải quần đùi, áo cộc cho ra vẻ "con nhà" chứ. Miên đoán được, cúi mặt xuống cười to:

- Bận vô! Bận vô đi ông ơi! Lên kia ô rô nó quào rách chân hết bây giờ.

Rồi Miên đến gần lấy chiếc khăn rằn đội lên đầu mình, hai chéo khăn quấn tròn chung quanh cổ thật chặt chỉ chừa ra đôi mắt và một phần mặt thôi. Miên lôi dưới khoang ra hai chiếc búa mài kỹ, lưỡi sáng loáng. Mình cầm búa lên. Nghĩ buồn cười quá. Y như Ðông-ki-sốt nai nịt lên đường đi chinh chiến vậy!

Cuộc tấn công vào củi bắt đầu. Miên bước lên bờ đi hăm hở, vừa đi vừa phạt những nhánh con, những dây leo để dọn đường. Mình bỏ thuyền bước theo. Nói ra các cậu đừng cười chứ lần đầu tiên đặt chân xuống bãi sình của rừng U-Minh sao mà mình rợn người đến thế! Một cảm giác lành lạnh, kinh kinh từ gót chân chạy lên đầu sởn gai ốc. Giống như bước xuống một ao bùn nhớp nhúa vậy. Mà còn gay hơn nữa kia. Vì đầy đất và lá gai, cành nhọn, sắc như những mũi dao con. Mỗi bước đi, chân lún xuống, lá mục kêu xèo xèo, mùi hôi xông lên khó chịu, ghê ghê như giẫm vào đống phân đã lên men. Mình phải từ từ chọn chỗ đặt chân, khi bước lên một khúc gỗ mục, khi trèo từ rễ đước này sang rễ đước khác. Có lúc hụt chân xiêu bên nọ, vẹo bên kia... Miên đã bỏ mình một quãng khá xa. Mình có cảm giác của một đứa trẻ sợ lạc đường:

- Chị Miên ơi! Ðợi tôi với!

Miên dừng lại. Chờ hồi lâu, mình chưa đến kịp. Miên cau mày:

- Mau lên! Trưa rồi! Làm gì mà cóm róm như bà già đi âm phủ vậy!

Lần đầu tiên Miên gắt với mình, và mình thấy tự ái. Theo con đường Miên đã phát quang, mình bước bạt mạng. Kể ra Miên nói cũng phải. Ði như thế vừa nhanh vừa vững, lại vừa oai. Mà cũng chẳng mất một tý thịt nào cả. Chỉ có mất cái bộ điệu cóm róm thôi. Mình theo kịp Miên ngay và cũng vung búa phạt cây ra tuồng. Lưỡi búa theo nhịp tay đưa, sáng loang loáng.

Ðã đến chỗ hái củi được, Miên dặn mình lấy cây khô với cây dốt dốt thôi, đừng chặt cây tươi, người ta cấm. Mình nhìn vòng quanh. Nơi đây là một rừng đước con. Cây mọc chi chít, chỗ dày chỗ thưa loạn xạ, có nơi cách nhau hàng mấy chục thước, có nơi chen người không qua lọt. Ðước còn nhỏ, đều đều một loạt bằng cổ tay. Thân cây thẳng tắp, cao chừng bốn năm thước. Trên ngọn là vài cành nhỏ mầu xám đỏ, đeo mấy cái lá xanh. Gốc sát đất chỉ bằng ngón tay cái, nhưng lên trên vài mươi phân lại có năm, sáu rễ phụ ăn vòng ra, cắm xuống đất, mường tượng như những chiếc răng nơm. Lá mục, cành khô, ô rô, cóc kèn... giăng đầy mặt đất. Thỉnh thoảng nhú lên những mầm non đen đen, như lưỡi mèo, hay trên các cảnh đung đưa vài quả cám bằng nắm tay mốc mốc. Ngước mắt trông lên, sương mù trùm xuống đầy rừng. Trời xanh chẳng thấy. Chọn một cây khô, mình giơ búa chặt mạnh. Nhưng cây quá dòn, lưỡi búa cắt ngang làm mình mất đà ngã chúi. Cây củi dài và cao gãy làm ba bốn khúc rơi xuống quật vào đầu, vào lưng và cả vào đít mình. Mình thì bực quá nhưng cô Miên thì ôm bụng gục đầu vào cây cười ngặt nghẽo làm rung cả đám lá nhỏ trên cành. Cố nhịn cười, Miên chạy đến giằng lấy búa trong tay mình, cắm phập vào một khúc cây to ngã dưới đất. Rồi cô xoa lưng mình:

- Ðau không? Hái bằng tay thôi. Chừng nào cần mới chặt. Anh coi đây nè.

Miên bước đến một cây đước khô gần đấy. Ðôi chân Miên hơi dạng ra, lấy thế đứng. Tay phải Miên nắm chặt thân cây, chỗ gần gốc. Miên giật gọn một cái, cây củi gãy đánh rắc. Lừa theo đà rơi của cây, Miên đặt nó vào một chỗ đất trống cho thuận đường vác xuống bờ sông. Ðôi chân Miên thoăn thoắt bước sang phải bước sang trái... Ðước gẫy răng rắc, lần lượt nằm chồng chất lên nhau. Mình nhìn theo bước Miên đi. Kể thì cô cũng giỏi đấy, luôn tay luôn chân không nghỉ. Một lát, Miên quay lại:

- Coi kìa! Làm đi chớ! Sao lại đứng từ bi chi phật vậy?

Mình mắc cỡ, vội bắt tay làm như Miên. Lúc đầu cũng hăng, bẻ được vài chục cây. Nhưng mình cứ hay nhìn lên, tìm tìm kiếm kiếm. Cây bé không muốn hái vì nghĩ rằng chẳng bõ công. Cây to lại cứng, giật không quen nó không gẫy. Phải lấy búa chặt. Chặt xong kéo xuống đất lại khó vì cành nhiều, chằng bên nọ níu bên kia. Có khi cây tươi trụi lá lại tưởng cây khô, sấn tới đẩy, nó quật trở về cho bật ngửa một cái nên thân! Càng làm càng thấy khó, mất tinh thần. Không khí trong rừng âm u, mùi hôi hám khó chịu. Thỉnh thoảng mình lại dừng, uốn éo vài cái cho giãn gân, không muốn cất tay nhấc chân lên nữa... Nào đâu ánh mặt trời soi như rẻ quạt? Nào đâu sóc nhảy lon ton? Chỉ có ba con mòng vo ve bay quanh, lâu lâu lại chích cho một cái nhảy nhổm! Còn muỗi đen thì thôi khỏi nói! Khắp mình râm ran, ngứa ngáy. Chỗ da mặt để hở sờ lên đã thấy mấy cục mận to. Mình cứ trông hết buổi cho xong, nghĩ rằng làm nhiều làm ít cũng là hai đứa, về nhà ai biết đấy là đâu bị tra khảo gì mà sợ.

Làm được khá lâu bỗng có tiếng Miên hú lên gọi mình xa xa. Mình đáp lại. Lát sau đã thấy bóng Miên, Miên cởi khăn rằn cầm tay làm quạt. Mấy sợi tóc mềm dán chặt trên trán mướt mồ hôi. Miên vừa lau cổ vừa tươi cười hỏi:

- Mệt chưa? Ðược bao nhiêu rồi?

Mình đưa mắt nhìn đống củi:

- Nội chỗ đó.

Miên sa sầm mặt xuống, nói như dằn vặt:

- Thiệt à? Anh làm gì nãy giờ? Có ngủ gục không?

Mình tự ái quá, cự ngay:

- Tôi chưa biết làm, làm ít. Ðừng có lên giọng thầy đời mà chửi khéo tôi.

Miên đỏ mặt lên, môi run run, mắt phát ra những tia giận dữ:

- Chửi anh thì tôi no béo gì? Sợ anh em ở nhà phải ăn cơm sống thêm một bữa nữa chớ!

Rồi Miên quay phắt người, quấn khăn lên đầu, thắt thật chặt và bước đi chẳng thèm ngó lại. Mình giận run lên. Giận đến tức thở. Con gái gì ăn nói như dùi đục chấm mắm!

Dùi đục thật! Nhưng mà là đục vào xương sống của mình! Cho nên sau đó mình phát lên làm bán sống bán chết. Mình hái củi rốp rốp. Cả đến những cây lúc nãy phải chặt bằng búa, lúc này bẻ một cái cũng gãy lọi. Mình quyết tâm làm cho thật nhiều để "xài" lại cô một phen chơi. Chuyện đời! Khi ý mình đã quyết thì khó cũng thành dễ. Tay chân quen dần, nhanh nhẹn thêm. Mắt tinh hơn. óc sáng ra. Từ cây nọ sang cây kia, từ chỗ đặt ôm củi này đến ôm củi khác... mình đều tính toán chi ly; mà chỉ trong nháy mắt. Chuyện ấy Miên làm thế nào bằng mình được. Bởi vậy chẳng bao lâu mà mình đã có năm đống củi. Mình dừng lại. Miệng như ống bễ thở phò phò. Mồ hôi ra ướt áo. Nhưng trong bụng thì hả lắm. Mình bỏ củi đấy chạy đi tìm Miên.

Nghe có tiếng chặt gỗ, mình mò đến. Miên đang đứng trước một thân vẹt to bằng ba vòng tay, to bằng cây bọn mình đang ngồi đây (Danh vỗ bộp bộp xuống lưng gỗ). ừ, đúng bằng này. Chân trái Miên đứng dưới đất, chân phải đè lên giữ chặt lấy cây cho nó khỏi lăn, hai tay cầm chót cán búa đưa lên cao chặt chếch xuống về bên trái. Mỗi nhát búa giáng vào gỗ lại có một tiếng "hự" kèm theo. Miên đã tháo tung khăn rằn ra. Trên thái dương, một dòng mồ hôi theo tóc mai chảy dài xuống má, đến tận cằm. Mái tóc ngắn cứ rũ xuống lại bị hất lên, không che nổi đôi má đỏ hây hây và bộ ngực căng đầy sức sống. Lưỡi búa sáng bay loang loáng nhịp nhàng. Cây gỗ sợ hãi kêu "cum, cum" vang cả một góc rừng. Nhìn Miên chặt gỗ, bao nhiêu cái giận của mình tan đâu mất. Mình gọi to:

- Miên đứng ra! Ðể đấy!

Mình nhổ nước bọt vào tay, chặt cật lực. Mảnh gỗ vàng phơn phớt liên tiếp văng ra. Miên chống búa quệt mồ hôi trán đứng nhìn mình và cô cười. à! Thế mới được chứ! Cô phục lăn chứ không à?

Miên bảo với mình là cây gỗ ấy có người đã đốn xuống nhưng không vác nổi nên bỏ đấy. Ðịnh chặt lấy một khúc dài độ ba thước mang về, chụm đượm và lợi hơn củi nhỏ gấp mấy lần.

Và Miên liếc nhìn mình, mỉm cười nói đùa:

- Lát nữa phải "hợp tác xã" lại mới khiêng nổi...

*

* *

Dứt xong đoạn gỗ thì mặt trời cũng gần đứng đầu, bọn mình trở về thuyền vì đã thấy đói. Bữa ăn thật là ngon: cơm nếp còn nóng với mắm lóc chưng, có hành, tiêu và tóp mỡ. Cơm xong, Miên rửa mặt chải đầu. Còn mình cứ nằm khoanh trên sạp thuyền mà hút thuốc lá. Nhìn lên, sương mù đã tan từ bao giờ. ánh nắng trưa ấm áp xuyên qua kẽ lá, cành cây, chiếu vào những quả vẹt đung đưa, mầu xanh loang loáng. Rễ đước dài nâu xám, to bằng ngón chân từng khúc nối nhau rủ xuống đầy mặt nước soi những chiếc đầu tròn. Con lạch mầu đỏ đục, cuồn cuộn phù sa. Thỉnh thoảng từ trên rừng một khe nước trong reo reo chảy xuống. Cá thòi lòi giương kỳ, giương mắt chạy xèn xẹt trên mặt nước như đánh thia lia. Quanh bộp dừa, ốc len bám đầy, quơ râu xanh xanh đỏ đỏ. Loáng loáng có vài con vọp lớn nằm phơi trên bãi chiếc vỏ mốc đen. Gió rung lá đước lào xào. Bọn mình cắm thuyền dưới bóng cây. ánh nắng vẽ trên áo bà ba của Miên những hoa vàng lốm đốm. Nói tóm lại với các cậu là "cảnh vật rất hữu tình".

Miên cảm hứng hò khe khẽ như cho mỗi mình mình nghe:

Vắng cơm năm bảy bữa anh không phiền

Vắng em một bữa anh đau liền tương tư

Tương tư đắp chiếu, trùm mền,

Mua con tép bạc nấu canh rau đền anh ăn

Các cậu biết không! Khi mình nghe Miên hò câu ấy thì có thể gọi là "chết được". Giọng Miên trong trẻo và tình tứ, nhẹ nhàng ngân vang trong lặng lẽ của rừng trưa. Mình cứ muốn nằm mãi trên thuyền mà nghe Miên hát. Khỏi cần dài dòng, chắc các cậu cũng rõ tình cảm của mình lúc ấy...

Chải đầu xong, Miên quay sang:

- Anh ngó ra trước đi. Tôi rửa chân một chút.

Mình bảo "được rồi!" và lấy nón lá úp lên mặt, cố nhắm mắt lại ngủ... Nhưng trời xui khiến một luồng gió thổi tới tốc nón rơi xuống sông rơi về phía sau. Mình nhổm dậy và thấy Miên đang duỗi chân phải ra với lấy nón. Cả đôi chân trắng nõn, nổi bật trên dòng nước hồng hồng..."

Kể đến đây Danh đột nhiên dừng lại hấp tấp xin thuốc lá. Một đứa trong bọn tôi vội vàng móc túi nhái đưa cho. Tay Danh run run quấn rất lâu không được một điếu. Tôi lấy làm lạ và đem hết sức mình tưởng tượng xem đôi chân trần ấy đẹp đến mức nào. Ðẹp vì đường nét hay đẹp về mầu da mà đã bảy năm nay rồi còn làm cho "Danh cua" của chúng tôi xúc động đến như thế được. Tôi đang phân vân thì Danh đã châm xong thuốc lá và tiếp tục câu chuyện:

"Sau đấy mình ngủ quên một lúc. Nghe động thuyền và có tiếng gì lộp cộp rơi xuống khoang, mình tỉnh giấc. Hóa ra là một đống vọp. Miên cất nón lá rồi gọi mình đi vác củi xuống thuyền. Thú thật, lúc đó mình buồn ngủ sật sừ, hết muốn ngồi dậy. Tay và nhất là bả vai đau ê ẩm. Những chỗ gai quào ở chân thấm rát. Ðôi chân nặng trình trịch như đeo đá, khó bề nhấc lên. Mình có cảm giác như tất cả máu trong người đều dồn hết xuống hai chân vậy. Miên nhìn mình có vẻ ái ngại:

- Ði đi anh. Vác hết củi rồi về chớ nằm đây hoài sao?

Mình nhớ lại "kinh nghiệm" ban sáng nên cố gắng mở mắt ra. Cứ kể sau khi làm mệt, được ăn no, ngủ một tý, thì cũng thích nằm đấy. Nhưng nghe Miên nói, mình nhớ lại mục đích cuối cùng của hai đứa là kiếm củi về cho anh em chứ có phải đi rừng chơi đâu, nên mình ngồi dậy bước lên bờ theo Miên.

Có lẽ mình ngủ cũng lâu vì Miên đã rút dây cóc kèn bó chặt hết các ôm củi. Mình khom người xuống, vác bó đầu tiên lên vai và theo đường trở lại bờ sông. Nói ra thì xấu hổ chứ quả là lúc ấy sợ thật. Mình nghĩ rằng cứ cho bẻ đước một ngày cũng không sợ bằng vác vài ba chuyến! Ðường xuống bến gần nhất là năm trăm thước.

Bó củi đè nặng vai đau buốt. Mỗi bước đi, chân lún sâu xuống sình rút lên thật khó, cứ ngã tó ngã xiêu. Khổ một nỗi nữa là bó củi dài, đường thì hẹp lại cong cong quẹo quẹo, vì cây rừng nó có mọc ngay hàng cho mình đi đâu. Bởi vậy cứ xoay bên này mắc cây, quay bên kia vướng rễ, lướng ca lướng cướng mãi. Ðau vai quá mình dựng ôm củi lên rồi đưa lưng vào cõng. Nhưng đi như thế thì đầu lại cúi xuống không trông thấy đường, có khi đâm sầm vào cây dội ngược. Vì vậy cứ đi chừng mười thước mình lại đặt xuống nghỉ. Gần đến bến, thấy Miên đã có hai đống củi rồi. Miên gọi to, nửa như khuyến khích nửa như chê trách:

- Cắn răng lại! Nín thở đi một hơi mới được nhiều! Cứ nhứt bộ nhứt bái thì tới tối cũng chưa xong đâu!

Mình đến nơi, hất củi xuống một cái "bịch" thở phào. Nếu có gương mà soi thì chắc mặt mũi bèo nhèo như con mèo ướt. Miên bụm miệng không dám cười lớn. Mình giận lắm, chẳng thèm nhìn cô, đứng lật áo xem vai. Nó đã đỏ ửng. Miên đến gần đặt tay lên vai mình. Cô chu mỏ lại giả vờ xuýt xoa:

- Ui cha! Tội nghiệp quá! Da giấy!

Rồi Miên bật cười khanh khách. Mình giận cành hông, quày quả bỏ đi lên. Miên đã kéo tay mình lại.

- Khoan đã! Ði khiêng khúc vẹt đi. Không chút nữa mệt, khiêng không nổi.

Mình không thèm trả lời cứ đi theo Miên. Hai đứa đến bên khúc củi. Miên ghé vai vào phía trước và ngồi chịu cây gỗ cho mình nâng phía sau lên.

Về sau, nhớ lại những khi Miên chịu nặng thay mình ấy, tim mình cứ nhói lên, yêu Miên không biết chừng nào? Nhưng lúc đó mình ngu dại quá, không hiểu được những chuyện bình thường như vậy... Tay phải Miên giữ cây gỗ trên vai, tay trái chống gối đứng dậy. Mình thấy đôi chân Miên run run. Hai đứa bước đi rất khó nhọc. Miên ngoẹo đầu sang một bên, cây gỗ sần sùi áp chặt vào má, cắn vào vai, mỗi bước đi, chân cứ phải xoạc ra loạng choạng. Mà mình thì chậm nên làm trở ngại cho Miên rất nhiều. Có khi Miên bước tới nhưng vì vướng mình nên phải bước lui. Miên nói hổn hển qua hơi thở:

- Nhanh lên! Anh chậm như rùa!

Lúc ấy tại sao đầu óc mình ngu xuẩn đến thế! Miên muốn làm cho chóng xong, đem củi về cho anh em. Còn mình thì muốn làm từ từ "cho khỏe cái thân một chút" nên nghe Miên gắt mình tự ái ghê lắm: "Lúc nào cũng nhanh lên, nhanh lên. Không thèm nhanh! Giỏi thì cứ nhanh đi!"

Tuy thế, cuối cùng hai đứa cũng đến bến. Mình muốn quẳng ngay khúc gỗ xuống cho rồi, nhưng Miên đã biết ý, nói trước:

- Ði luôn! Ðem luôn xuống!

Mình giận quá! "Không cho người ta nghỉ, cứ đi luôn, đi luôn! Bộ cẳng cây sao chớ?"

Lúc đó chân phải của Miên vừa bước xuống thuyền, chân trái còn trên bờ. Chiếc thuyền bị đẩy, lướt sào trôi dạt ra. Miên la lớn như đứt hơi:

- Bước tới! Nhanh lên!

Mình đã quen với tiếng "nhanh lên" của Miên nên cũng không chú ý lắm.

Và một chuyện đã xảy ra như trong mơ: Miên mất đà ngã dúi, cây gỗ từ trên rơi mạnh xuống, dưới là be thuyền ở giữa là chân phải của Miên. Mình chỉ nghe rắc một cái cùng với tiếng kêu:

- Trời ơi! Cái chân em!

Trong ánh nắng chiều, tiếng kêu đau đớn vang lên tận rừng già, vọng tới trời cao, âm thanh ào ào vang đi vọng lại!..."

Giọng Danh lạc hẳn không còn ra tiếng nữa. Tôi liếc nhìn sang, môi Danh mấp máy như một người sắp khóc. Danh tỳ hai cánh tay lên đùi, hai bàn tay vày vò lấy nhau, đầu cúi xuống như một phạm nhân đang nghe kêu án mình trước vành móng ngựa. Tôi rùng mình, khắp người gai ốc nổi lên. Một anh bạn đang mân mê bật lửa tự nhiên gõ thật mạnh vào cây gỗ chúng tôi đang ngồi. Bỗng đột nhiên Danh hỏi:

- Các cậu có bao giờ nỡ nhẫn tâm vô cớ mà vác cây gậy đánh gẫy chân một người vẫn yêu và lo lắng cho các cậu chưa? Lúc nghe Miên kêu lên, mình mang máng có ý nghĩ ấy. Ðúng thế không sai! Sau này mỗi lần ôn lại, lòng mình cứ như có một bầy quạ đang rỉa rói.

Mình nhớ khi đó chiếc thuyền trôi đi, lôi cả Miên theo, mình vội nhảy xuống như người mất hồn, gỡ chân Miên ra, xốc Miên từ dưới nước lên thuyền. Miên bị đau và sặc nước, ngất lịm đi. Mình để Miên tựa vào ngực, giật tóc mai gọi mãi mới tỉnh.

Vừa mở mắt ra, Miên đã nhổm dậy vén quần lên nhìn chân. Giữa ống chân còn hằn sâu đỏ bầm một vết be thuyền, thịt da không nở lại được. Miên dùng hai tay nhấc lên, phía dưới chân cứ oặt oà oặt oại. Miên giật thót mình, mặt nhăn rúm, mồ hôi và nước rừng đọng lại trên trán lấm tấm, đôi mắt Miên nhìn mình:

- Nó gãy thật rồi anh à!...

Trong câu nói của Miên có cái gì vừa oán trách vừa yêu thương, vừa xót xa, vừa nhẫn nhục. Miên ngoảnh mặt đi, nhìn mấy đống cây trên bờ, chặc lưỡi một cái nghe như xé ruột, xé gan. Mình vuốt tóc Miên an ủi, và định giúp Miên thay quần áo. Miên xua tay:

- Anh lên vác củi đi. Thay một mình được.

Mình không thiết gì củi nữa, đứng dậy ra phía sau nhổ sào chống thuyền đi. Nếu có thể hóa thành ngựa mà chạy được thì mình cũng vui lòng làm ngay để chóng đưa Miên đến nhà.

- Quay lại! Tôi bảo anh xuống củi mà!

Miên hét to quá đến nỗi chiếc sào tụt khỏi tay mình rơi đánh chát trên mặt nước. Mình giật bắn người, cúi nhặt chiếc sào lên. Các cậu ạ, mình đã hiểu Miên rồi và nghĩ rằng phải đem hết củi về dù có gục tại đây cũng được. Mình cắm thuyền thật chặt và nhảy lên bờ, vút đi, vừa vác củi vừa chạy không còn kể gì gai góc nữa.

*

* *

Dứt xong đoạn gỗ thì mặt trời cũng gần đứng đầu, bọn mình trở về thuyền vì đã thấy đói. Bữa ăn thật là ngon: cơm nếp còn nóng với mắm lóc chưng, có hành, tiêu và tóp mỡ. Cơm xong, Miên rửa mặt chải đầu. Còn mình cứ nằm khoanh trên sạp thuyền mà hút thuốc lá. Nhìn lên, sương mù đã tan từ bao giờ. ánh nắng trưa ấm áp xuyên qua kẽ lá, cành cây, chiếu vào những quả vẹt đung đưa, mầu xanh loang loáng. Rễ đước dài nâu xám, to bằng ngón chân từng khúc nối nhau rủ xuống đầy mặt nước soi những chiếc đầu tròn. Con lạch mầu đỏ đục, cuồn cuộn phù sa. Thỉnh thoảng từ trên rừng một khe nước trong reo reo chảy xuống. Cá thòi lòi giương kỳ, giương mắt chạy xèn xẹt trên mặt nước như đánh thia lia. Quanh bộp dừa, ốc len bám đầy, quơ râu xanh xanh đỏ đỏ. Loáng loáng có vài con vọp lớn nằm phơi trên bãi chiếc vỏ mốc đen. Gió rung lá đước lào xào. Bọn mình cắm thuyền dưới bóng cây. ánh nắng vẽ trên áo bà ba của Miên những hoa vàng lốm đốm. Nói tóm lại với các cậu là "cảnh vật rất hữu tình".

Miên cảm hứng hò khe khẽ như cho mỗi mình mình nghe:

Vắng cơm năm bảy bữa anh không phiền

Vắng em một bữa anh đau liền tương tư

Tương tư đắp chiếu, trùm mền,

Mua con tép bạc nấu canh rau đền anh ăn

Các cậu biết không! Khi mình nghe Miên hò câu ấy thì có thể gọi là "chết được". Giọng Miên trong trẻo và tình tứ, nhẹ nhàng ngân vang trong lặng lẽ của rừng trưa. Mình cứ muốn nằm mãi trên thuyền mà nghe Miên hát. Khỏi cần dài dòng, chắc các cậu cũng rõ tình cảm của mình lúc ấy...

Chải đầu xong, Miên quay sang:

- Anh ngó ra trước đi. Tôi rửa chân một chút.

Mình bảo "được rồi!" và lấy nón lá úp lên mặt, cố nhắm mắt lại ngủ... Nhưng trời xui khiến một luồng gió thổi tới tốc nón rơi xuống sông rơi về phía sau. Mình nhổm dậy và thấy Miên đang duỗi chân phải ra với lấy nón. Cả đôi chân trắng nõn, nổi bật trên dòng nước hồng hồng..."

Kể đến đây Danh đột nhiên dừng lại hấp tấp xin thuốc lá. Một đứa trong bọn tôi vội vàng móc túi nhái đưa cho. Tay Danh run run quấn rất lâu không được một điếu. Tôi lấy làm lạ và đem hết sức mình tưởng tượng xem đôi chân trần ấy đẹp đến mức nào. Ðẹp vì đường nét hay đẹp về mầu da mà đã bảy năm nay rồi còn làm cho "Danh cua" của chúng tôi xúc động đến như thế được. Tôi đang phân vân thì Danh đã châm xong thuốc lá và tiếp tục câu chuyện:

"Sau đấy mình ngủ quên một lúc. Nghe động thuyền và có tiếng gì lộp cộp rơi xuống khoang, mình tỉnh giấc. Hóa ra là một đống vọp. Miên cất nón lá rồi gọi mình đi vác củi xuống thuyền. Thú thật, lúc đó mình buồn ngủ sật sừ, hết muốn ngồi dậy. Tay và nhất là bả vai đau ê ẩm. Những chỗ gai quào ở chân thấm rát. Ðôi chân nặng trình trịch như đeo đá, khó bề nhấc lên. Mình có cảm giác như tất cả máu trong người đều dồn hết xuống hai chân vậy. Miên nhìn mình có vẻ ái ngại:

- Ði đi anh. Vác hết củi rồi về chớ nằm đây hoài sao?

Mình nhớ lại "kinh nghiệm" ban sáng nên cố gắng mở mắt ra. Cứ kể sau khi làm mệt, được ăn no, ngủ một tý, thì cũng thích nằm đấy. Nhưng nghe Miên nói, mình nhớ lại mục đích cuối cùng của hai đứa là kiếm củi về cho anh em chứ có phải đi rừng chơi đâu, nên mình ngồi dậy bước lên bờ theo Miên.

Có lẽ mình ngủ cũng lâu vì Miên đã rút dây cóc kèn bó chặt hết các ôm củi. Mình khom người xuống, vác bó đầu tiên lên vai và theo đường trở lại bờ sông. Nói ra thì xấu hổ chứ quả là lúc ấy sợ thật. Mình nghĩ rằng cứ cho bẻ đước một ngày cũng không sợ bằng vác vài ba chuyến! Ðường xuống bến gần nhất là năm trăm thước.

Bó củi đè nặng vai đau buốt. Mỗi bước đi, chân lún sâu xuống sình rút lên thật khó, cứ ngã tó ngã xiêu. Khổ một nỗi nữa là bó củi dài, đường thì hẹp lại cong cong quẹo quẹo, vì cây rừng nó có mọc ngay hàng cho mình đi đâu. Bởi vậy cứ xoay bên này mắc cây, quay bên kia vướng rễ, lướng ca lướng cướng mãi. Ðau vai quá mình dựng ôm củi lên rồi đưa lưng vào cõng. Nhưng đi như thế thì đầu lại cúi xuống không trông thấy đường, có khi đâm sầm vào cây dội ngược. Vì vậy cứ đi chừng mười thước mình lại đặt xuống nghỉ. Gần đến bến, thấy Miên đã có hai đống củi rồi. Miên gọi to, nửa như khuyến khích nửa như chê trách:

- Cắn răng lại! Nín thở đi một hơi mới được nhiều! Cứ nhứt bộ nhứt bái thì tới tối cũng chưa xong đâu!

Mình đến nơi, hất củi xuống một cái "bịch" thở phào. Nếu có gương mà soi thì chắc mặt mũi bèo nhèo như con mèo ướt. Miên bụm miệng không dám cười lớn. Mình giận lắm, chẳng thèm nhìn cô, đứng lật áo xem vai. Nó đã đỏ ửng. Miên đến gần đặt tay lên vai mình. Cô chu mỏ lại giả vờ xuýt xoa:

- Ui cha! Tội nghiệp quá! Da giấy!

Rồi Miên bật cười khanh khách. Mình giận cành hông, quày quả bỏ đi lên. Miên đã kéo tay mình lại.

- Khoan đã! Ði khiêng khúc vẹt đi. Không chút nữa mệt, khiêng không nổi.

Mình không thèm trả lời cứ đi theo Miên. Hai đứa đến bên khúc củi. Miên ghé vai vào phía trước và ngồi chịu cây gỗ cho mình nâng phía sau lên.

Về sau, nhớ lại những khi Miên chịu nặng thay mình ấy, tim mình cứ nhói lên, yêu Miên không biết chừng nào? Nhưng lúc đó mình ngu dại quá, không hiểu được những chuyện bình thường như vậy... Tay phải Miên giữ cây gỗ trên vai, tay trái chống gối đứng dậy. Mình thấy đôi chân Miên run run. Hai đứa bước đi rất khó nhọc. Miên ngoẹo đầu sang một bên, cây gỗ sần sùi áp chặt vào má, cắn vào vai, mỗi bước đi, chân cứ phải xoạc ra loạng choạng. Mà mình thì chậm nên làm trở ngại cho Miên rất nhiều. Có khi Miên bước tới nhưng vì vướng mình nên phải bước lui. Miên nói hổn hển qua hơi thở:

- Nhanh lên! Anh chậm như rùa!

Lúc ấy tại sao đầu óc mình ngu xuẩn đến thế! Miên muốn làm cho chóng xong, đem củi về cho anh em. Còn mình thì muốn làm từ từ "cho khỏe cái thân một chút" nên nghe Miên gắt mình tự ái ghê lắm: "Lúc nào cũng nhanh lên, nhanh lên. Không thèm nhanh! Giỏi thì cứ nhanh đi!"

Tuy thế, cuối cùng hai đứa cũng đến bến. Mình muốn quẳng ngay khúc gỗ xuống cho rồi, nhưng Miên đã biết ý, nói trước:

- Ði luôn! Ðem luôn xuống!

Mình giận quá! "Không cho người ta nghỉ, cứ đi luôn, đi luôn! Bộ cẳng cây sao chớ?"

Lúc đó chân phải của Miên vừa bước xuống thuyền, chân trái còn trên bờ. Chiếc thuyền bị đẩy, lướt sào trôi dạt ra. Miên la lớn như đứt hơi:

- Bước tới! Nhanh lên!

Mình đã quen với tiếng "nhanh lên" của Miên nên cũng không chú ý lắm.

Và một chuyện đã xảy ra như trong mơ: Miên mất đà ngã dúi, cây gỗ từ trên rơi mạnh xuống, dưới là be thuyền ở giữa là chân phải của Miên. Mình chỉ nghe rắc một cái cùng với tiếng kêu:

- Trời ơi! Cái chân em!

Trong ánh nắng chiều, tiếng kêu đau đớn vang lên tận rừng già, vọng tới trời cao, âm thanh ào ào vang đi vọng lại!..."

Giọng Danh lạc hẳn không còn ra tiếng nữa. Tôi liếc nhìn sang, môi Danh mấp máy như một người sắp khóc. Danh tỳ hai cánh tay lên đùi, hai bàn tay vày vò lấy nhau, đầu cúi xuống như một phạm nhân đang nghe kêu án mình trước vành móng ngựa. Tôi rùng mình, khắp người gai ốc nổi lên. Một anh bạn đang mân mê bật lửa tự nhiên gõ thật mạnh vào cây gỗ chúng tôi đang ngồi. Bỗng đột nhiên Danh hỏi:

- Các cậu có bao giờ nỡ nhẫn tâm vô cớ mà vác cây gậy đánh gẫy chân một người vẫn yêu và lo lắng cho các cậu chưa? Lúc nghe Miên kêu lên, mình mang máng có ý nghĩ ấy. Ðúng thế không sai! Sau này mỗi lần ôn lại, lòng mình cứ như có một bầy quạ đang rỉa rói.

Mình nhớ khi đó chiếc thuyền trôi đi, lôi cả Miên theo, mình vội nhảy xuống như người mất hồn, gỡ chân Miên ra, xốc Miên từ dưới nước lên thuyền. Miên bị đau và sặc nước, ngất lịm đi. Mình để Miên tựa vào ngực, giật tóc mai gọi mãi mới tỉnh.

Vừa mở mắt ra, Miên đã nhổm dậy vén quần lên nhìn chân. Giữa ống chân còn hằn sâu đỏ bầm một vết be thuyền, thịt da không nở lại được. Miên dùng hai tay nhấc lên, phía dưới chân cứ oặt oà oặt oại. Miên giật thót mình, mặt nhăn rúm, mồ hôi và nước rừng đọng lại trên trán lấm tấm, đôi mắt Miên nhìn mình:

- Nó gãy thật rồi anh à!...

Trong câu nói của Miên có cái gì vừa oán trách vừa yêu thương, vừa xót xa, vừa nhẫn nhục. Miên ngoảnh mặt đi, nhìn mấy đống cây trên bờ, chặc lưỡi một cái nghe như xé ruột, xé gan. Mình vuốt tóc Miên an ủi, và định giúp Miên thay quần áo. Miên xua tay:

- Anh lên vác củi đi. Thay một mình được.

Mình không thiết gì củi nữa, đứng dậy ra phía sau nhổ sào chống thuyền đi. Nếu có thể hóa thành ngựa mà chạy được thì mình cũng vui lòng làm ngay để chóng đưa Miên đến nhà.

- Quay lại! Tôi bảo anh xuống củi mà!

Miên hét to quá đến nỗi chiếc sào tụt khỏi tay mình rơi đánh chát trên mặt nước. Mình giật bắn người, cúi nhặt chiếc sào lên. Các cậu ạ, mình đã hiểu Miên rồi và nghĩ rằng phải đem hết củi về dù có gục tại đây cũng được. Mình cắm thuyền thật chặt và nhảy lên bờ, vút đi, vừa vác củi vừa chạy không còn kể gì gai góc nữa.

*

* *

Thuyền củi của chúng mình ra đến trạm gác Vàm Ðầm thì mặt trời đã lặn. Miên bắt buộc mình phải đậu lại nấu cơm ăn để lấy sức mà về. Mình không dám cãi đành cõng Miên lên bờ, trải chiếu, lót chăn màn cho Miên nằm, rồi đi nhóm lửa...

Gió đầu đêm thổi lạnh. Trăng mọc đã cao tỏa ánh sáng trên dòng sông, trên ngọn đước. Mình đến, muốn chăm sóc Miên. Nhưng Miên nhất định không cho và bảo đi lấy vọp nướng ăn. Mình làm theo cho Miên vui lòng chứ các cậu nghĩ xem ai còn bụng dạ nào mà ăn uống nữa. Vọp chín, Miên gọi mình đem lại và móc ba lô lấy ra một gói muối tiêu. Miên nhìn mình ăn, mắt ánh lên một niềm vui, và miệng mỉm một nụ cười như sắp khóc:

- Ngọt không anh? Tiếc quá! Em tính xuống củi xong đi hái trái giác, mai về cho các đồng chí ăn canh vọp.

Nghe câu hỏi ấy, con vọp ngọt và nóng chạy ngang cổ mình bỗng tắc lại. Mình như nghẹt thở. Mắt mở trừng trừng nhìn xuống dòng sông. Những sự việc trong ngày lại hiện hết trong đầu óc mình nhanh trong chớp mắt. Nhớ nhất là lúc Miên hét bảo mình quay lại xuống củi. Bây giờ nhiều đêm hễ nhắm mắt thì hình ảnh Miên lúc ấy cứ nổi lên, hằn sâu trong ký ức: Miên nằm nghiêng về một bên, chống thẳng trên cánh tay trái, người dướn cao lên, tay phải nắm chặt lại trỏ về phía trước. Thật chẳng khác gì người chỉ huy dũng cảm bị thương đang giục giã những ai còn bo bo lo cho cái "bổn mạng" của mình, hãy nghe lệnh xông lên đạt mục đích cuối cùng:

- Quay lại! Tôi bảo anh xuống củi mà!!!

Mình nhớ đôi mắt Miên sắc lại, lóe sáng lên. Nó đảo lộn cả tâm trí mình, và cứ ánh mãi, ánh mãi như những gợn sóng lưỡi búa vàng đang lấp lánh trên mặt sông kia vậy..."

Danh ngừng chuyện đằng hắng mấy cái, rồi lấy tay vuốt mớ tóc "cua" không nói nữa. Tôi chẳng có ý định an ủi gì nhưng tự nhiên cứ cầm lấy tay Danh. Tôi mân mê những vết chai cứng cứng giữa lòng bàn tay còn thơm mùi dầu máy như vẫn thường mân mê những chiếc pít-tông sáng loáng đã qua mấy nghìn vòng máy tiện. Danh cứ ngồi lặng im. Cuối cùng không chịu được, tôi phải hỏi:

- Chân Miên sau rồi ra sao?

Danh ngước nhìn lên trời như sợ rơi cái gì trong khóe mắt. Một lúc Danh mới đáp:

- Sau rồi phải cưa đi. Cưa ngang đây.

Danh vén quần lên, bàn tay trái đưa ngang qua ống chân phải, chỗ gần đầu gối:

- Vì hoàn cảnh kháng chiến, thiếu thuốc, thiếu thầy, chạy chữa không khỏi.

Trong bọn tôi, có một tiếng thở dài đau như rứt thịt.

Tôi buột miệng hỏi:

- Thế Miên đã có chồng chưa?

- Có chồng rồi.

- Có con chưa?

- Có con rồi.

Như lúc đầu. Danh lại moi moi lục lục cái túi áo và móc ví chìa cho chúng tôi xem một bức ảnh:

- Vợ mình đây này...

Tôi đánh diêm lên. Giấy ảnh cũ, sờn cả góc, nhưng ánh lửa chập chờn vẫn soi được rõ ràng một người con gái tóc ngắn, miệng cười rất xinh, đang bế một chú bé con bụ bẫm. Bức ảnh không chụp đến chân. Lật phía sau có mấy dòng chữ:

"Anh ra bắc ráng làm. Ðừng quên mẹ con em."

Dưới ký tên Miên và đề tháng 11 năm 1954.

Trả lại Danh tấm ảnh, bọn chúng tôi lặng lẽ ngồi sát vào nhau. Gió cứ dứt dây điện kêu hoài, vi vu, vi vu.

Tận dưới xa kia, dòng sông Hồng vẫn trôi xuôi lấp lánh...

1958

Cau non

Nguyễn Thị Phước

Chị em gái như trái cau non

(Tục ngữ)

Lâu lắm tôi mới về quê. Ðàn bà con gái khổ thế, vài trăm cây số, xe cộ cà rịch cà tàng đến đón khách trả hàng thì cũng đi chiều đến, vậy mà không bạc cũng thành bạc. Ðiện thoại, mẹ tôi nói: "Bận quá thì thôi", nhưng tôi biết mẹ mong tôi về. Giỗ cha tôi năm nào cũng được đứa Nam thiếu đứa Bắc. Lần này, Bắc - Nam về đủ, chẳng lẽ lại thiếu đứa ở miền Trung là tôi? Vả lại, thị thành ngột ngạt nóng rét, tôi cần thoát khỏi nó vài ngày. Phải lấy lại cái bình thường cho một sợi nào đó trong hệ thần kinh vì tôi cảm thấy nó không ổn lắm. Bứt khỏi cái guồng quay cuộc sống thường nhật thật không dễ.

Hai ngày để chuẩn bị cho chuyến đi. Gạo, dầu, mắm, muối, tắm gội cho con, giặt là cho chồng, trăm thứ bà rằn. Biết là chẳng có tác dụng gì vẫn dặn dò đủ thứ. "Anh thấm rồi, em cứ yên tâm về". "Tuyệt đối đừng cho con lại gần giếng". "Em đã có câu đó năm sáu lần rồi!". "Anh phải đổi món cho con đấy!". "Ðã bảo nhớ rồi"... Trằn trọc, thấp thỏm, không biết có còn quên dặn gì? Vừa thiu thiu ngủ, cái đồng hồ báo thức nhà bên đã khua roong roong: Lâu nay chẳng biết trách ai, tôi đâm ra hận cái ông nào đã phát minh cái chuông báo thức ấy. Tiếng gì cứ như tiếng gươm giáo chặt nhau trong đầu. Thà chọc béng một nhát vào ngực còn hơn. Không bật đèn cũng biết 4 giờ. Thế là toi một đêm. Tôi nằm nghe bố con, cậu cháu nhà họ chửi nhau như róc nứa, chán, lại đến tiếng dao thớt, soong nồi, bát đĩa. ở khu tập thể lại còn quay đít ra mặt đường, chẳng sinh hàng sinh quán cũng uổng.

Mình phải kiếm lấy một xó mà bốc ra. Làm cái nghề khốn khổ, cả vợ lẫn chồng, thức đêm thức hôm, lại còn bị tra tấn thế này nữa, năm này tháng khác, chịu không thấu. Cày cho hết báo này tới đài kia, mà mấy năm rồi chưa được cái công trình phụ. Tôi đâm quạu cả ông chồng làm thơ làm văn: Nhà thơ cũng có, chỉ nhà ở là không. Bạn bè cứ thúc. Nội, ngoại cứ mong. Hai quầng mắt tôi cứ sâu thêm, đậm thêm sau mỗi đêm. Kem phấn thế nào cũng không che nổi.

Làng tôi giống hệt một con thuyền nằm giữa biển lúa. Cha tôi bảo cụ tổ của chúng tôi lánh nạn về đây lập làng này. Ông ngờ mình là cháu con họ Mạc, bởi khi ráp gia phả họ Chu chúng tôi với họ Chu làng Thượng mà chúng tôi vẫn còn là nhánh trên, lại không khớp. Không ai để ý lời ông. Chỉ mình ông mang mãi trong lòng ý định tìm kiếm, nhưng không đầu mối. Phút lâm chung, ông gọi riêng tôi, dặn: "Nhắc - thằng - Trung - chuyện - họ - Mạc, khéo... không - mồ - cha - không khóc... lại - khóc - đống mối...". Và ông máy môi như còn định nói điều gì đó, nhưng không kịp. Anh Trung dăm năm mới về một lần, nhà được mỗi ông con trai, thì sống tận Sài Gòn, lại bị vợ giữ rịt chẳng tha cho về một mình, bởi sợ cái lằng nhằng tình cũ nghĩa xưa... Hai bà chị làm cái việc chỉ liên quan đến tiền.

Cô em út là giáo viên thì quá môđéc. Tôi thương nó nhất nhà. Ai cũng bảo mặt mũi hai đứa chúng tôi giống nhau như đúc. Hai chị em tôi lăn lóc dưới hầm mà cứ lớn phổng như khoai lang trồng đất cát pha mầu mỡ. Chúng tôi dẫn nhau đi theo đoàn người già trẻ con, sơ tán hết làng này sang xã khác. Từ khi tắm ở giếng làng còn cởi truồng, chúng tôi đã phải quen với tiếng gào rú của máy bay Mỹ, tiếng kêu khóc của những gia đình có người thân bị bom;

Và chị Tâm khóc không ra tiếng trong buồng vì mới cùng cả chi đoàn đi bới đất, bới nhà, nhặt từng mẩu thịt, nắm tóc... Làng tôi ở gần trạm giao liên. Ngày ngày từng đoàn xe tải dỡ hàng, bốc hàng. Máy bay cứ nghiêng qua, ngó lại, có khi đạp bừa dăm ba trái. Vậy mà chẳng có mảnh đất nào bỏ hoang. Cấy sáng trăng, gặt sáng trăng, trẻ con đội đất mà lớn. Nhà tôi cũng một lần hứng đủ ba trái. "Phúc nhà to bằng cái bình vôi - mẹ tôi thường nói - nó tránh đúng cái hầm". Tôi còn nhớ như in cái cảm giác sắp chết ngạt của hai lăm năm trước. Từng tổ kiến càng rụng xuống người, xâu vào cắn xé. Con út bảo: "Em chẳng nhớ gì". Nó mới ba tuổi mà. Vừa bằng cái phích, bây giờ đã là cô giáo, đã có chồng...

Tôi về đến cổng thì đã nghe mấy trái cau non đang chuyện nhao nhát trong nhà. Lại cả anh Trung về nữa. Mà về một mình.

- Nhà giáo và nhà báo được miễn. Còn lại - mỗi vị một triệu. Nhất trí như ủy ban chưa? Lâu không gặp, tôi nghe giọng chị Tâm tôi là lạ, Hà Nội hơn, có gang có thép hơn.

"Hoan hô trưởng nữ. út nữ này xin đa tạ thịnh tình của tỉ tỉ". út Thảo chắp tay trước ngực, nháy tôi. Quỷ sứ chứ cô giáo gì mà nói năng như bọn choai choai nghiện phim Hồng Kông. Thì em nghiện thật chứ sao. Chị không thấy họ giỏi à? Ra chợ xem, hàng Trung Quốc hơn nửa chợ!

Ðêm, anh Trung nằm nhà ngoài đốt thuốc là liên tục. Thỉnh thoảng có tiếng dép lạt xạt. Chắc anh đi thắp hương. Có cái gì đó khác lạ trong anh, tôi không dám hỏi. Mấy chị em tôi chuyện rầm rì đến khuya. Chuyện làng chuyện xóm mà nghe cứ như tiểu thuyết. Trước kia, chuyện cả làng đi đào đá đỏ bỏ ruộng hoang rất ly kỳ. Bây giờ chuyện hậu đá đỏ hay không kém. Chồng tôi mà về chắc viết được cả pho. Nhiều chuyện cười xong, thấy muốn khóc. Cả chuyện con út lấy chồng cũng vậy. Nó và cậu Bảo yêu nhau, đã mấy năm - hai nhà đi lại. Ðùng cái, thôi nhau. Cả hai nhà ngẩn tò te. Vậy mà hai đứa tỉnh queo. Rồi em đi lấy chồng, anh lấy vợ. Có thứ tình yêu nào vậy chớ? Thịt cắt còn đau nữa là... Nó bảo: "Bà cụ non ơi, phải yêu để kịp chán nhau trước khi ra trường, chứ cứ như bà, hai năm cầm tay, bốn năm mới sờ tóc, mất ăn, mất ngủ dầu - hao - trăng - khuyết, để ra thân tàn ma dại à? Lỡ không lấy được lại tự tử tự tiếc, rách việc!". "Khiếp, cô giáo gì như mày..." Tôi nói chưa xong đã nghe nó ngáy. Nó ngủ trông mới xinh làm sao. Nó là đứa tự buộc chân mình bên gốc chuối cho chúng tôi yên bụng đi xa.

Mùi hương trầm đầy nhà, khiến tôi nhớ cha tôi. Người thích đến nghiện ngập mùi này. Có khi không kịp quấn để thắp, ông xoa bột lên tay để hít hà.

Rễ hương tự ông rửa, phơi, giã riêng bằng cái cối đá nhỏ. Chu hương ông cũng tự tay chẻ, phơi trên cao. Thắp hương, đợi tàn ông mới đứng dậy. Có việc ra khỏi nhà là ông đóng cửa, giữ mùi thơm lại, thành thử chăn, màn, quần áo, nhà chỗ nào cũng mùi trầm. Ðôi khi bây giờ tôi cũng làm vậy. Ði làm về, mở cửa ra, thơm nức mũi, rất thích. Thế là ngày mai cha ở nhà xi măng. Chắc là lạnh lẽo, cô đơn, nhưng sẽ yên ổn hơn. Kín cổng cao tường, khỏi lo đạo tặc quấy phá, người trần làm ô uế, thất lạc. A, nhưng còn khói hương? Chắc sẽ khó vào được nơi người! Có lẽ vì thích mùi trầm quá mà cụ đặt tên chúng tôi là Thơm, Thảo...

Tôi vẫn không ngủ được. Lại sắp hết một đêm nữa. Ngoài kia anh Trung cũng không ngủ. Tôi chỉ biết mang máng rằng vợ chồng anh trục trặc, lại vào cái lúc đã xế chiều. Con Hiền tốt nghiệp xong không chịu nhận công tác, tha về một anh chàng vô công rồi nghề, hai đứa suốt ngày nằm đườn đưỡn, xem ti-vi, nghe nhạc. Thằng Dũng rớt đại học, đua đòi hút sách. út Thảo mắng trộm với tôi: "Ði ra, hò hét lính tráng được, thế mà về nhà có mụ vợ với hai đứa ranh con lại không dạy nổi. Cứ ném về đây cho em, trị trắng xương, ngoan liền". "Có phải đơn giản như em nghĩ!". "Cứ cố làm nó rối rắm làm gì. Làm khổ nhau cho lắm vào rồi cũng ra đất ra nước cả". "ừ, em cũng có lý. Mà sao chị vẫn thấy lo lo cho em". "Em chẳng khổ đâu. Tiền bạc có chồng kiếm, dạy về - quăng mình xuống đệm, bật quạt, gọi ăn thì dậy ăn. Sau này có con - nuôi vú em". Cái con, cứ bộp bạp thế mà lại mau nước mắt. Anh Trung ốm sơ sơ, nó khóc như cha tôi mất...

*

* *

- Chị Thơm ơi, về thôi. ở đây, chị nghe cánh thợ nói tục không quen đâu - Thảo gọi tôi - Chị em xem cái nghĩa địa làng mình giờ sang không? Y như cái thành phố, nhỉ? Cũng nhà tầng, tường bao, tím vàng xanh đỏ. Toàn dân đi làm ăn xa gửi tiền về xây đấy. Ai chưa xây được là như ngồi trên chảo rang. Người chết cũng tranh mặt đường. Chưa chết đã tranh đất xây mộ...

- Kể cũng hay. Bây giờ lại có cái thành phố của người chết! Giá có thật một cái chợ mà người sống người chết gặp nhau được như trong truyện thì hay nhỉ?

Dường như không thèm chấp cái lối nghĩ ngợi vẩn vơ của tôi, Thảo im lặng bước. Cái bím tóc mập mà đen lánh vắt qua vắt lại trên cặp mông tròn đầy. Cả nhà, mỗi mình nó có mái tóc đẹp thế, càng cắt lại càng nhanh dài. Chả bù cho tôi, nuôi thế nào cũng chỉ được như cái đuôi bò, thành thử cứ phải đến thợ uốn tóc.

*

Thế là xong xuôi mọi việc. Coi như ổn được một bề.

Rồi cũng phải chăm cho bọn trẻ về quê, để còn biết cái gốc gác của mình. Với lại để bà cháu, dì cháu ríu rít với nhau, kẻo nữa lại nhìn nhau như khách. Mẹ tôi dạo này trông lạ hẳn đi. Cái vẻ tinh tướng không hiện rõ trên mặt nữa. Tóc bà như nhiều sợi bạc hơn, từng lời nói cũng không ném choang choang. Tôi tính soạn sửa để sáng mai đi sớm thì mẹ tôi gọi. Ðợi đông đủ một lát, bà nói, giọng nghèn nghẹt:

- Tôi có chuyện ni phải nói cho út và cả nhà biết:

O đào Vân ốm nặng lắm, chắc không qua...

Thì có can hệ gì tới chúng tôi mà bà có vẻ quan trọng thế?

Bao năm nay nhà này có thấy nhắc đến bà già tội nghiệp ấy đâu? Cái nghề hát bà đã bỏ hơn bốn chục năm rồi mà cái nghiệp vẫn chưa hết. Nhà văn hóa huyện đưa người xuống dựng bà dậy nằn nì để học hát. ốm lên ốm xuống mà cũng bò dậy, dạy các o múa hát, mà như sống lại, đôi mắt già bỗng lóng lánh. Có kẻ ác miệng dèm: "Sắp xuống lỗ còn lắm chuyện". Bác chẳng sợ, cứ hát, cứ múa, còn lên sân khấu, đi hội diễn... ấy là tôi nghe cô bạn phóng viên kể thế!

Chẳng lấy được người tử tế, bà chịu gãy gánh nửa đường, không kịp có nổi mụn con mà ru, đành ru nhờ con thiên hạ, vậy mà không chịu đi bước nữa.

Nổi tiếng khắp vùng một thời về thanh, sắc; lại biết lắm điệu nhiều lời, cuộc hát nào có đào Vân là không khí khác hẳn. Cha tôi là thầy dạy hát của bà, là ông bầu của gánh hát, cũng phải nể trọng. Cha tôi mê hát, lại được ông nội tôi truyền nghề cẩn thận nên những ngón đàn điệu hát của ông cả vùng không dễ mấy ai sánh kịp. Ðến quan phủ quan huyện cũng không dám cậy quyền cậy thế. Vậy mà vật đổi sao dời, ông bỗng thành người khác hẳn. Chúng tôi cũng chẳng biết đến cái quá khứ say người của ông. Thỉnh thoảng tôi nghe ông ca ư ử như sợ ai nghe: "Ngồi thử ngẫm trăm huê (hoa) ai nuốm (nhuộm)... ư... hư... một huê là riêng một ứ... sắc ứ... hương (*)". Bây giờ thì tôi biết ông đã đau rứt rứt ruột khi phải mang theo hàng chục làn điệu ca trù xuống đất. Ông không dạy chúng tôi. Mà có dạy chắc gì chúng tôi chỉ hát hò láo nháo là giỏi, có biết ca trù nó hay nó đẹp thế nào đâu. Cứ thấy u hừ a hà thế thì chán chết!

- út ơi! Bà Vân là mẹ đẻ con đó... - mẹ tôi khó nhọc trút từng tiếng.

Chưa để chúng tôi kịp hoàn hồn vì quả bom ấy, bà đã lấy hơi nói liền một mạch như sợ sẽ không còn nói được:

- Gần ba chục năm rồi... mẹ có tội với con, với bà Vân.

Mẹ hồi đó là cán bộ. Mẹ buộc bà Vân phải bỏ làng mà đi cho đến ngày sinh con, giao nó cho mẹ mới được về ở làng, với lời thề sẽ mang điều bí mật ấy xuống mồ. út Thảo ngồi như bị đóng đinh xuống phản. Dưới ánh điện, gương mặt nó như nặn bằng sáp. Bất ngờ nó đứng vụt dậy, hét lên một tiếng: "Mẹ!" rồi đâm bổ ra ngõ. Tôi lao theo nó. Tôi rớt sau nó xa lắm mà vẫn nghe tiếng khóc tức tưởi của nó.

Tôi chạy mãi về cuối làng. Mệt quá, tôi dừng lại. Chợt nghĩ ra mình không nên có mặt ở đó lúc này. Tôi quay về, người hững hụt, chân thấp, mấy lần suýt ngã vào bụi, mặc dù đường làng vẫn sáng điện hắt ra từ mỗi nhà. Ðến ngõ, tôi nghe anh Trung đang trách mẹ: "... Chuyện ghen tuông đàn bà còn không dám trách, nhưng bấy nhiêu năm bà Vân sống vò võ, hơn bảy mươi còn phải làm lụng nuôi mình, thế mà mẹ chịu được!". Mẹ tôi phân bua: "Mẹ sợ mất con Thảo. Mẹ thương nó như con đẻ, chăm mớm cho nó từng thìa nước cháo từ khi nó còn đỏ hỏn". Với lại để bà Vân nuôi con, mẹ sợ bố anh đi lại nữa. Bà Vân đẹp, lại hát hay, một thời đàn ông ai cũng mê, nhưng bà ấy lại chỉ mê mỗi ông nhà ta. Mà cứ như có ma, hễ bà Vân ốm đau là y như ông ấy nằm liệt giường, cháo đút không chịu nuốt, dù không ai báo cho ông biết. Mọi tin tức về bà Vân mình giữ kín như bưng mà cũng vẫn rứa.

Tôi chợt nhớ cái trừng mắt lạnh người của mẹ tôi khi trong bận ăn tôi đã nhắc tới bà Vân. Tôi cũng nhớ lại cái phút lâm chung cha tôi nhìn tôi như cầu cứu. ánh mắt ông lạ lắm, như hờn tủi xót xa, lại như bi phẫn, cam chịu đến tuyệt vọng. Bao năm trời ông sống như cái bóng, vợ đảm con ngoan ríu rít đầy nhà vẫn cô đơn. Tôi lần đầu tiên dám nhìn thẳng vào gương mặt loang loáng của mẹ. Cứ ngỡ bà khóc, hóa ra không phải. Ðấy là ánh sáng phản chiếu từ những khung kính treo đầy trên tường. Ðúng là mẹ tôi đã mất cha tôi từ khi phải mang cái bầu giả. Hay chưa bao giờ bà có được ông?

Tự nhiên, cái ước mơ về một ngôi nhà có công trình phụ hoàn hảo trong tôi không còn ráo riết để bám như trước nữa, nếu không nói là biến mất. Cả cái điều tôi định hỏi mẹ - rằng bây giờ chúng tôi phải dậy dỗ con thế nào cho chúng nó sợ, cũng vậy. Chẳng hiểu sao tôi bỗng thấy thèm được như út Thảo. Tôi cảm thấy yêu quý nó hơn bao giờ. Và chuyến về nhà ấy - tôi đã quên nhắc lời trăn trối của cha tôi cho anh Trung.

Tháng 7-79

N.T.P

Chuyện tình ở biển

Đỗ Kim Cuông

Khó có thể tìm ra lời giải thích xác đáng, vì sao tay thư ký công đoàn lại giao tôi cái giấy đi nghỉ dưỡng. Hắn chỉ nói vỏn vẹn có một câu: "Vậy là thêm cho cậu nửa tháng lương nghe. Kẻo cậu lại phê bình tôi không quan tâm".

Tôi nhìn tờ giấy nghỉ dưỡng như nhìn một tờ giấy lộn, ánh mắt thờ ơ, nhưng tôi không quên dòm vào mặt tay thư ký công đoàn, vốn có ác cảm. "Cảm ơn" - Tôi bảo. Muốn chọc tức chơi, tôi nói thêm: "Anh nên cho tôi cái quyền là có nên cho phép mình được nghỉ hay không đã". Tay thư ký công đoàn chớp ngay: "Nếu không đi phải báo ngay cho tôi để sắp xếp cho người khác. Nhưng tôi nhắc lại - nửa tháng lương cán sự 4 của cậu đấy". Tôi muốn phỉ nhổ vào bộ mặt đen đúa, môi thâm của tay thư ký nhưng rồi tôi lạnh tanh trả lời bằng một cái nhếch mép.

Chẳng lẽ, họ "thông cảm" cho cảnh tôi góa bụa? Vợ tôi đã mất hơn một năm. "Ồ không phải! Ông Quyên cũng chết vợ. Bà Lụa cũng chết chồng. Ông Tảo đứa con trai cũng mới có giấy báo tử ở Campuchia...". Tôi gạt lý do thứ nhất. Thôi đích thị rồi. Tôi đập tay đánh đét xuống mặt bàn khi nghĩ tới bài báo. Tôi không biết viết báo, nhưng cô phóng viên báo tỉnh quá ư nhiệt tình đã xin bài phát biểu của tôi trong một hội nghị khoa học. Tôi không để ý. Cách đây vài hôm, tay thư ký công đoàn kiêm trưởng phòng của công ty chìa ra trước mặt tôi tờ báo, cười nham nhở: "Chết thật, bữa nay cũng viết báo...". Dù chẳng mấy ưa hắn, tôi vẫn cười đỏ mặt khi nhìn tít bài do Tòa soạn đặt "Vài suy nghĩ về công nghiệp hóa..." cùng với cái tên tôi in đậm ở cuối bài. Hèn chi, tay thư ký cứ nhai đi nhai lại cái khoản hai trăm ngàn tôi được hưởng trong 15 ngày nghỉ dưỡng.

Nếu thế thì tôi cứ nghỉ. Dại gì! Ngót hai chục năm đeo đẳng với nghề, chả lẽ tôi không có quyền nghỉ ngơi? Ít nhất, trong 15 ngày15 ngày ấy, tôi khỏi phải nhìn thấy cái bộ mặt luôn soi mói, vặt vãnh của tay trưởng phòng hành chính. Tôi biết, cả ngày hắn chẳng làm gì cả. Ðúng 7 giờ sáng, hắn có mặt loạt soạt ngồi đọc báo. Một cuốn sổ công tác mở ra hờ hững. Nhưng giá có một ai rẽ vô văn phòng sẽ bắt gặp ngay một bộ mặt nửa như trang nghiêm, chú mục vào công việc, nửa như có ý nhìn xem kẻ kia đến là ai. Số thời gian rảnh rỗi trong ngày, hắn sẽ đếm bước chân của mình qua các phòng làm việc và nghe ngóng. Hắn sẽ không cần biết lao động "chất xám" là gì và làm cách gì để có được một sáng kiến khoa học, một sáng tạo... Bởi vậy, tay trưởng phòng hành chính thấy tôi có bài in báo đã ngạc nhiên.

Nhưng tôi coi cái việc vô tình được đi nghỉ dưỡng như một cuộc trốn chạy. Rằng tôi sẽ thoát được cái không khí tù hãm của gian phòng làm việc luôn vẩn lên mùi thuốc lá, tránh phải nhìn thấy những đĩa tách cáu bẩn vương vãi những bã trà và đống giấy tờ sổ sách xếp cao như núi. Tự do trong 15 ngày ngắn ngủi của một đời người, vốn suốt quanh năm ngày tháng phải chúi mũi vào công việc, và lo cho đứa con mất mẹ, lo cơm nước chợ búa và lo cho những cuộc họp...

Hai dãy nhà hai tầng, thêm hai dãy nhà trệt cao ráo, sạch sẽ, một dãy dùng làm nhà quản trị, phòng xem ti vi, một dãy dùng làm nhà ăn, nhà bếp... Ðấy là tất cả những gì thuộc về cơ ngơi của nhà nghỉ Công đoàn, đặt trên một đỉnh đồi cao lộng gió. Ðứng từ đó, có thể nhìn thấy cả một vùng biển rộng, với xóm chài Cầu Bóng. Thấy lưỡi cát kéo dài từ Ba Làng cho đến tận ngôi biệt thự Cầu Ðá, dài chừng 7 cây số. Hòn Rùa, Hòn Tre như bị thu nhỏ lại trong một tầm nhìn bao la. Còn những con thuyền máy như những chiếc lá tre quăng rải rác trên một tấm thảm xanh nhìn đến nhức mắt.

Tôi cảm thấy sung sướng khi đặt mình trên tấm nệm mút êm ái, nằm vô tư lự suốt cả buổi sáng chờ đến giờ ăn cơm trưa. Lại họp - họp để quán triệt nội quy an dưỡng, thông báo chế độ. Trong bữa ăn, tôi đã nhìn suốt lượt hai trăm con người cùng đi an dưỡng nhưng tôi chẳng quen biết một ai cả. Càng hay, tôi muốn được thảnh thơi. Sang ngày thứ hai, số người ăn trong phòng vơi đi quá nửa. Ngày thứ ba, còn một phần năm. Và sang ngày thứ năm, chị cấp dưỡng chỉ dọn ra một mâm vừa đúng ba cái chén, ba đôi đũa. Tôi đói, ngồi chờ mất gần nửa giờ đồng hồ để nhìn những con ruồi bay loạn xạ hạ cánh xuống dãy bàn ăn trống rỗng và chỉ chực xâu xé vào mâm cơm đã được đậy lồng bàn. Ðến lúc ấy, hai trại viên an dưỡng mới xuất hiện. Một ông cán bộ trạc tuổi ngót 60, dáng người hom hem, ốm yếu. Sau này tôi biết, người đàn ông ấy mắc bệnh hen suyễn mãn tính. Còn người thứ hai là một phụ nữ tuổi trên dưới ba mươi. Trông vóc dáng và cách đi đứng nói năng của cô ta, tôi đoán là người có chồng con. Nhưng phải công nhận đây là người đàn bà có nhan sắc, trông thật ưa mắt. Tôi cũng sẽ không bao giờ được biết lý do vì sao Nguyệt - tên người đàn bà - được nghỉ dưỡng. Chẳng ai ở vào hoàn cảnh như tôi lại đi hỏi một người phụ nữ, ngay giây phút đầu tiên đã gây cho người ta cảm tình, điều ngớ ngẩn ấy. Tôi lấy làm thích thú khi được ngồi chung bàn ăn với một phụ nữ đẹp, duyên dáng, nhưng là sự duyên dáng kín đáo của người phụ nữ biết tự trọng trước mặt người đàn ông xa lạ là tôi.

Tôi ăn rất ít, không hẳn vì món ăn kém ngon. Càng không phải vì bữa ăn ít người không còn đông vui tấp nập như ngày đầu nhập trại. Té ra hơn hai trăm thành viên đi nghỉ dưỡng đã nhận tiêu chuẩn về nhà tự "an dưỡng". Hai chục ngàn đồng không phải là to nhưng đủ để phụ vào đồng lương ít ỏi cho một gia đình nghèo khó cho con chút cá, rau trong bữa ăn. Hỡi ôi, những ông cha bà mẹ Việt Nam của tôi, chẳng mấy ai nỡ để cho con cái mình chịu khổ cực rồi chọn lấy cái sướng cho riêng mình! Còn những người quản lý ở nhà nghỉ dưỡng cũng đâu có đáng trách? Họ cũng là những ông bố bà mẹ. Họ cũng có những đứa con. Cũng bận trăm công ngàn việc để lo cải thiện đời sống. Càng ít công việc, càng hay. Vậy chẳng hóa ra, ba chúng tôi đây là những kẻ nhàn rỗi?

Ông già nọ vợ con ở ngoài Phú Yên. Con tôi, đã được ông bà nội đưa ra Hà Nội chăm sóc. Và quả thật tôi thấy ngượng khi thò tay nhận lấy vài chục ngàn bạc đem về nhà, thà là tôi nằm đây ăn nghỉ.

"Em là con người tự do!" Nguyệt tuyên bố vào buổi sáng hôm sau khi tôi đã trở thành một người có đủ tin cậy, ít ra là một người bạn trong mười ngày còn lại của đợt nghỉ dưỡng.

Ông già chiếm một phòng ở tầng trệt. Tôi ở đầu phòng tầng hai, quay mặt lên hướng tây. Nguyệt ở căn phòng cuối hướng đông, nhìn ra biển. Tôi muốn đến chỗ cô phải qua một hành lang dài hun hút, qua các căn phòng luôn đóng kín cửa. Chính trên chiếc ghế gỗ trước cửa phòng Nguyệt, hay trên những chiếc ghế xi măng đặt dưới gốc dừa trồng quanh chân đồi, tôi và Nguyệt đã nói mọi chuyện trên trời dưới biển. Một ngày chúng tôi có đến 8 giờ để đàm tiếu. Và đêm nữa. Lúc đầu còn thêm ông già. Nhưng ông ta không chịu nổi những cơn gió biển, chỉ ngồi chừng một giờ đồng hồ là tìm cách tháo lui. Vậy là chỉ còn lại tôi với Nguyệt cùng với bầu trời mùa hè vằng vặc ánh trăng. Ðã nhiều lúc, tôi ngồi nhìn cô, trong lúc cô vẫn kể cho tôi nghe một câu chuyện nào đó ở trường nơi cô đang dạy học. Chẳng lẽ đấy là tình yêu?

Tình yêu trong tôi đã chết. Chết sau đêm tân hôn, và đã thật sự bị đẩy lùi vào dĩ vãng cùng với đống tã lót sau khi đứa con trai ra đời, cùng với bộ mặt luôn cau có của Hòa. Tôi điên lên vì sự túng thiếu vây bủa, vì những mốt nọ, quần kia của vợ... Ðã vậy, còn phải lo đối phó với sự trù úm của tay "trưởng phòng vô tích sự". Rồi vợ tôi chết trong một ca ung thư dạ con. Ðã lâu rồi cái khái niệm tình yêu với tôi chỉ còn nằm trong sách vở, trong trí tưởng tượng bịa đặt của những tay nhà văn, trong ánh mắt yêu đời đến ngây thơ của đám thanh niên mới lớn, tôi chưa thể là già nhưng không còn gọi là trẻ nữa.

Chẳng lẽ, người đàn bà đã có hai mặt con này lại đang nhen nhóm trong tôi ngọn lửa tình yêu? Sẽ không bao giờ tôi hiểu được vì sao Nguyệt không chịu theo gia đình chồng vượt biên, đành chịu để mất hai đứa con trai. Vì sao, một cô gái không chịu theo cha mẹ để định cư hợp pháp tại Mỹ. Một cô gái đã có 13 năm sống trong dòng tu kín, nhập thế để đi làm nghề dạy học và sống ở một vùng quê với những người dân thật thà, chất phác nhưng nghèo đói? Nguyệt không nói ra điều bí mật ấy, cũng như mối tình của cô và anh thợ may giờ đã ung dung ở Canada. Cô câm lặng như tượng Ðức Mẹ đồng trinh trong ngôi nhà thờ Ðá. Và tôi, tôi cũng chẳng cần biết. Nhưng sự quý trọng cũng như lòng thiện cảm với tôi của Nguyệt thì tôi cảm nhận được qua ánh mắt của cô.

Té ra Nguyệt quá rành khu đồi La San. Vào một buổi chiều, khi ánh nắng tàn trên những chỏm núi đã bao quanh thành phố, chúng tôi đi chơi trên những con đường rải nhựa lẩn khuất quanh khu đồi. Ở đây có những con đường mòn dẫn vào ngôi nhà thờ nhỏ cả chục năm đã trở nên hoang phế. Những tảng đá nằm rải rác dưới gốc cây si, cây xoài để lại chứng tích của đám sinh viên lên đây học thi, đi picnic vào ngày chủ nhật. Có những lúc tôi và Nguyệt ngồi bên nhau hàng giờ để nghe cái âm thanh vi vút của gió đùa trên những chòm lá thông xanh, hoặc ngồi bên ghềnh đá theo dõi những con cá leo bằng hai chân, quật đuôi để lên mỏm đá tránh sóng. Không ai nói gì cả. Chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau với ánh mắt không cần né tránh. Có lẽ vậy là quá đủ và hạnh phúc với tôi - một người sống đơn độc và luôn giày vò bản thân bởi những chuyện không đâu. Hoặc Nguyệt kể chuyện. Tôi nghe cái âm thanh dịu dàng trong lời nói của cô hơn là cần biết kết cục của câu chuyện.

Có một lần, Nguyệt đột ngột hỏi tôi: "Anh thích tôi phải không?". Tôi tự ái bởi chữ "thích". Giá như cô nói "yêu", hẳn tôi đã gật đầu, thú thật cái cảm giác có thật của lòng tôi lúc ấy. Tôi không trả lời chỉ cầm lấy một bàn tay của Nguyệt vuốt lên những chùm ngón tay như những búp măng. Và tôi châm thuốc hút. Còn cô, như đã quên câu hỏi, đôi mắt mơ màng nhìn ra ngoài Hòn Ðỏ, nơi có dải khói xanh bốc cao.

Còn thím Tư nấu ăn ở trại an dưỡng, trong lúc ngồi nhìn tôi và Nguyệt ăn cơm lại bảo: "Ðẹp đôi đấy... Cô chú tìm hiểu xong báo cáo với tổ chức, cưới cho lẹ. Tôi nói bỏ qua nghe... Thôi thì rổ rá cạp lại".

Cả tôi và Nguyệt đều cười vui. Nhưng tôi thì hơi giận thím Tư. Tình yêu sao có thể gọi là "rổ rá cạp lại". Không, tôi quyết định cãi tới cùng. Tôi yêu Nguyệt, nhưng khi tôi đứng trước mặt nàng tôi lại câm nín. Và tôi sợ nữa, khi tôi nói ra sự thật ấy với Nguyệt, tôi sợ sẽ mất nàng. Tôi muốn giữ cho tôi những giây phút đẹp đẽ của đời người. Hạnh phúc ấy tôi đã không tìm thấy được ở Hòa, vợ tôi. Không thể nào có được trước nhiều người đàn bà mà tôi đã gặp trong cuộc đời... Tôi đang sống giữa những ngày êm đẹp.

Buổi sáng chủ nhật của kỳ nghỉ dưỡng ngày thứ mười hai, Nguyệt dậy sớm sang rủ tôi đi tắm. Tôi dũng cảm nhận lời cùng còn một lẽ biết chắc là "ông già khốt" - Nguyệt gọi ông già đi nghỉ dưỡng như vậy, đã được con gái đón về từ chiều hôm trước.

Trong lúc Nguyệt đứng ngoài cửa chờ, tôi lại loay hoay với chiếc quần xà lỏn. Rõ khổ quần xà lỏn của tôi: ống rộng, xếch, màu vàng cứt ngựa - thứ quần phát cho lính, họ đem ra bán rẻ. Chẳng lẽ tôi đi tắm với một cô gái bằng chiếc quần "xà lỏn" như vậy? Rốt cục tôi tự an tủi: mình có cặp đùi to, chắc - cặp giò cầu thủ sẽ cứu nguy cho cái quần lót đáng ghét.

Nguyệt hồn nhiên và hào hứng với buổi đi tắm nên không để ý tới sự lúng túng của tôi.

Bãi đá dưới chân Hòn Chồng lạnh ngắt sương đêm. Nước ròng để lộ ra những tảng đá đen trơn nhẫy rêu. Gió sớm mơn man trên da thịt làm tôi thấy lành lạnh, càng ngại nước. Tuyệt nhiên, tôi không hé ra cho Nguyệt biết điều này. Sống ở Nha Trang có hơn chục năm, nhà cách mặt biển chưa tới cây số, nhưng những lần đi tắm biển của tôi tính ra chưa đến mươi lượt. Vài tháng trời không ló mặt ra tới bãi cát là chuyện thường. Nhưng giá về quê, ra Hà Nội, bạn bè có ai đó khen bãi tắm Nha Trang sạch đẹp, thì tôi sẵn lòng mô tả về biển Nha Trang, về giống cá ngựa cường dương, về những đảo yến khiến thiên hạ phát thèm... Dĩ nhiên không phải tôi không biết bơi. Hơn một lần tôi đã vượt phá Tam Giang, sông Bồ.

Hình như Nguyệt có ý đợi tôi xuống nước trước. Loay hoay mãi vài phút, tôi mạnh dạn cởi quần áo dài và lao xuống biển trong chiếc quần xà lỏn kiểu lính. Lúc tôi trồi lên khỏi mặt sóng, cả cơ thể Nguyệt hiện ra như một pho tượng thạch cao trong bộ áo tắm mầu xanh có kẻ sọc trắng. Ðôi chân thon dài, eo nhỏ, còn bộ ngực nhô cao. Cô nhìn tôi cười thật tươi rồi đứng từ mỏm đá lao xuống mặt nước xanh thẳm. Cô sải cánh bơi ra xa, bỏ mặc tôi lại phía sau loay hoay giữa một vùng rong mới bị sóng đêm qua đánh tấp vào bờ.

Thoáng một giây, lúc Nguyệt bơi lao ngang qua trước mặt tôi, thân hình cô có những khoảng trắng đen chìm trong nước, dậy lên trong tôi một cảm giác ham muốn. Giây phút ấy qua nhanh, trả lại cho tôi sự mệt mỏi và cảm giác chán ngán khi nghĩ rằng chỉ ba ngày nữa "niềm tự do ưu ái" của tôi sẽ mất. Tôi lại trở về với căn phòng chật chội ngửi thấy cái mùi hôi nồng của khói thuốc lá, thấy bước đi còm cõi, bệnh hoạn của tay trưởng phòng hành chính, tay chắp sau đít đi ngoài hành lang với đôi mắt nhòm ngó. Tôi sẽ gặp lại những kẻ chỉ muốn bổ óc mình ra xem đang nghĩ điều gì. Và đám bạn bè công chức của tôi, trong những giây phút ngồi bù khú quanh ấm trà, điếu thuốc, hào hứng kể cho nhau nghe về một tay giám đốc nọ làm thất thoát bạc triệu, bạc tỷ, một quan chức nọ sắp ra hầu tòa... Hoặc háo hức báo tin đã bán "xuôi" được chú heo không bị con buôn chèn giá.

Còn tôi, cũng chẳng hơn gì họ, quẩn quanh trong mớ buồn vui ấy. Treo trước mắt tôi là bát cơm manh áo hàng ngày, viên thuốc cho con khi trở trời trái gió, phấp phỏng kỳ tăng lương có kẻ xấu bụng xoi mói.

Phải chăng, Nguyệt của tôi đã thoát ra được mối lo toan nhỏ bé, hèn mọn ấy? Bởi hiển nhiên, cô nằm phơi gần trọn cơ thể mình trên mặt nước ngoài xa kia, ngửa mặt nhìn bầu trời cao vời vợi, có những dải mây trắng vắt ngang. Nàng hạnh phúc quá. Niềm hạnh phúc mà tôi luôn khát khao mơ ước. Và mỗi khi trí tưởng tượng phóng túng vượt ra khỏi đầu óc tăm tối u buồn của tôi, y như nó vấp phải một bức tường vô hình đánh bật trả lại. Tôi như kẻ ham bóng đá bị việt vị, giật mình bởi tiếng còi của người trọng tài tinh quái.

Chả lẽ, tôi hèn kém hơn Nguyệt?

Chỉ vài chục sải bơi, tôi đã ra tới chỗ Nguyệt. Cô nằm im, tay chân khua nhẹ dưới nước để giữ thế cân bằng và như không biết tôi đến gần. Tôi lẹ làng lặn xuống và ngay lúc ấy, gặp ngay khuôn mặt Nguyệt trong nước. Cô cũng lặn xuống theo tôi. Chúng tôi quấn lấy nhau như những sợi dây leo trong rừng già và hai môi tìm đến nhau... Tôi bơi trong một niềm khoái cảm, cái sức sống bất diệt trong tôi như được đánh thức trở dậy sau những ngày tháng tê liệt, héo mòn. Tưởng đâu đã chết.

Vào đêm thứ 13 của "mười lăm ngày hạnh phúc", tôi bị cảm nhẹ. Khoảng chín giờ tối, Nguyệt sang thăm tôi. Cô cầm theo cốc nước cam. Nguyệt vào, tôi biết nhưng không lên tiếng và nằm im trong khoảng sáng mờ ảo của ngọn đèn ngủ. Cô cầm lấy bàn tay tôi, nâng đầu tôi dậy ép uống cạn cốc nước cam. Bàn tay nàng mát rượi. Nguyệt không nói gì, cúi xuống hôn lên trán, lên đôi mắt và cuối cùng lên đôi môi khô nẻ và nóng bỏng của tôi. Tôi mê man cảm nhận nụ hôn nồng ấm, mãnh liệt. Và suýt ngạt thở vì mùi nước hoa và son phấn. "Anh nghỉ cho khỏe". Nguyệt chỉ nói vậy.

Lúc tôi tỉnh dậy, căn phòng vẫn sáng mờ, nhưng trống rỗng và lạnh lẽo. Nguyệt đã về bên phòng riêng. Nàng để lại trong tôi một niềm vui khó tả, như thể có hàng nghìn đợt sóng dội vào bờ đá dữ dội và mạnh mẽ. Tôi được Nguyệt yêu và tôi cũng rất yêu nàng. Té ra cái tay thư ký công đoàn kiêm trưởng phòng hành chính đã mang đến cho tôi một nguồn hạnh phúc mà chính hắn và cả tôi nữa đều không thể ngờ tới. Giờ phút này, tôi không có lý do gì để phát biểu, ngược lại còn phải biết ơn hắn là đằng khác.

Sáu giờ sáng hôm sau, tôi ăn mặc chỉnh tề đi sang phòng Nguyệt. Cửa phòng khép hờ, nhưng bên trong vắng lặng. Chiếc giường nàng thường nằm, chăn màn xếp gọn gàng và không có một chút hơi ấm. Cầu thang, khoảng sân đều vắng vẻ, không còn để lại một chút dấu vết nào của Nguyệt. Nàng đã đi rồi!

Cô dâu trong thung

Hải Miên

Đưa tay vặn ngọn đèn dầu xuống thật nhỏ, chị Nụ sẽ sàng nằm xuống chiếc giường tôi. Dù sẽ sàng, chiếc giường tre cũ vẫn kêu lên cọt kẹt.

- Cái giường này đã già lão quá rồi, Gỗ nhỉ? Ngày trước mẹ bảo mẹ đã sinh chị ra trên chiếc giường này. Cả em cũng khóc chào đời ở đây. Những vệt thâm đen trên vạt giường là do nước đái của hai chị em mình để lại đấy.

- Thế còn cái giường em đang nằm đây?

- Tự tay bố hạ tre, đóng năm em lên 10. Bố nói con trai lớn phải ngủ riêng, không được nằm chung với mẹ và chị gái. Bố đóng giường em dài hơn chiếc giường bên này cả đoạn vì bố bảo nhìn giò biết em sẽ cao lắm. Em có nhận thấy không?

- Có, nhưng em cứ tưởng khúc tre dài, bố tiếc không muốn cưa đi.

Chị Nụ bật cười, tôi cũng cười rúc rích như chị em nhà chuột cắn lúa trong đêm tối.

- Hai đứa mày không lo mà đi ngủ, khuya rồi - giọng anh tôi ngái ngủ. Tiếp theo là tiếng nói nhẹ nhàng và xa cách của chị dâu:

- Mai cả nhà phải dậy sớm để dỡ đám khoai trên đồi, trưa ở lại luôn. Cô Nụ nhớ nấu cơm sớm và dỡ theo cho chúng tôi.

Chỉ nghe tiếng chị Nụ trả lời khẽ: "Vâng", rồi tất cả chìm vào yên lặng. Hình như chị Nụ không ngủ được, lâu lâu lại nghe tiếng chị trở mình, tiếng thở dài cố nén.

- Gỗ, em còn thức không?

Tôi nắm lấy bàn tay 20 tuổi khô gầy của chị đang rờ nhẹ trên mặt mình, áp vào má. Bàn tay chị có mùi mặn mặn, tôi sực nhớ lúc chiều chị đã muối một vại cà bát và hai chum nhỏ cà pháo. Chị Nụ lại thở dài.

- Gỗ này, chắc chị phải đi lấy chồng.

Cố lắm tôi mới không kêu lên thảng thốt mà cũng thầm thì như chị:

- Nhưng chị mù loà...

- Chị cũng biết vậy - tiếng chị buồn và cam chịu - Nhưng chị không đến nỗi vô dụng. Chắc cũng có người đàn ông kém vẹn toàn nào đó muốn lấy chị làm vợ chứ, em có nghĩ vậy không?

Đột nhiên chị im lặng giây lâu. Tôi quờ tay lên mặt chị chạm phải hai dòng nước mắt chứa chan.

Gia đình tôi đã bao đời sống ở nông trang này, quây quần trong thung cùng hơn 50 nóc nhà khác. Bị chắn chung quanh bởi đồi, núi và một con dốc cao chót vót, những ngọn gió trong thung thường quanh quẩn khắp lượt các cửa nhà, những bàn chân trẻ con hiếu động cũng dừng lại trước vách núi và con dốc chắn. Nhưng chúng tôi không hoàn toàn bị cô lập. Phía bên kia con dốc là đường dẫn xuống chợ, xuống phố phường, cửa hiệu náo nhiệt tưng bừng.

Chợ năm ngày một phiên. Với bọn trẻ con, xuống chợ là một phần thưởng năm chúng lên 10 tuổi, khi chúng có thể gánh đỡ bố mẹ hai mủng khoai, bắp cải hoặc lúa gạo. Rồi từ đó mỗi năm một lần, chúng lại được theo bố mẹ, ông bà hoặc anh em xuống chợ một lần vào dịp Tết. Để chuẩn bị cho đi chợ Tết, chúng phải để dành tiền xu quanh năm, nhịn thèm tất thảy đến mức nhìn những quả thông, quả ớt hay trái cà chúng đều thấy có hình que kem mát lạnh và viên kẹo mút ngọt lịm. Chúng dành tiền đi chợ Tết mua bong bóng, kẹp tóc, dép mới.

Tôi đã đi chợ Tết bốn lần. Chị Nụ 20 tuổi chưa được đi chợ Tết lần nào bởi quãng đường đó xa xôi và lạ lẫm đối với một người mù như chị. Những người lớn ở nông trang chúng tôi vừa tự hào vừa tự ti về cái làng nhỏ của mình nên nhiều đời các cuộc hôn nhân chỉ chăng đèn kết hoa từ cửa nhà này sang cửa nhà khác ngay trong làng. Đến lứa của anh Cả, chị Nụ tôi thì các bậc cha mẹ đã phải nhờ đến ông mai bà mối cưỡi ngựa vượt qua thung, đi đến các làng khác để kén dâu tìm rể mặc dù điều đó trái với tục lệ của nông trang. Chị dâu tôi bây giờ cũng do một ông bà mối dẫn về từ một làng rất xa...

Gia đình chúng tôi cũng từng vững chãi như mọi nhà khác trong làng, thời mà mỗi bữa ăn chị Nụ phải dọn ra mâm đủ sáu đôi đũa, sáu cái bát cho ông nội, bố mẹ và ba anh em. Thời đó nhà tôi có ông nội trông nhà, hạ tre ngồi đan thúng mủng, giần sàng và vót đũa dưới bóng mát của cây mít trước ngõ, có bố để anh cả theo sau đuôi trâu tập cày, có mẹ để bày chị Nụ nấu cơm, may vá và tôi còn cố trợn mắt trợn mũi nhai nuốt thật nhanh mỗi bữa hai bát cơm chan canh để tối được mẹ cho sờ tí.

Ngày qua tháng lại, mắt bọn trẻ con chúng tôi xa dần, xa dần mặt đất thì những người già cứ mỗi ngày còng xuống gần hơn với đất, cho đến khi nằm hẳn xuống ngủ một giấc muôn đời. Ông nội tôi thở hơi cuối cùng khi mẹ đang hối hả đào hố trồng xuống sau vườn một cây ăn trái lâu năm. Đây là tục lệ của riêng người trong thung. Khi trong nhà có một người lớn tuổi về với đất thì người đàn bà của gia đình đó phải trồng xuống một loại cây lâu năm kịp trước khi người kia im hơi tắt tiếng. Linh hồn của người chết sẽ không chịu vùi sâu dưới ba tấc đất cùng thể xác của họ mà thoát ra, nhập vào thân cây ấy trong vườn nhà. Với những người trẻ, linh hồn sẽ bay đi nương vào một cây trên rừng. Hằng năm vào ngày mồng một Tết, chúng tôi có lễ thăm cây. Trước hết là thăm cây trong vườn nhà và sau đó toả lên rừng.

Giờ ông nội đã trú ẩn trong cây mít trước ngõ, bố tôi ở cây xoài sau nhà và mẹ tôi ở cây xoan cạnh bờ mương. Mỗi khi buồn, chị Nụ hay ra tựa lưng vào gốc cây xoan, một chốc lại lẳng lặng quay vào, không muốn để ai nhìn thấy. Nhưng tôi biết bí mật của chị. Tôi còn biết từ dạo nhà có chị dâu, chị rất hay lén ra dựa gốc xoan...

Tôi không chắc trong hai người, anh cả và chị Nụ, ai là người háo hức đón cô dâu mới hơn bởi anh luôn giữ vẻ mặt căng thẳng, lạnh lùng. Sau ngày đón cô dâu một thời gian cũng vậy. Chị Nụ vốn tính trầm lặng nhưng khi có chị dâu, chị bỗng trở nên hoạt bát và nói nhiều. Tuần đầu chị Nụ là bạn trò chuyện duy nhất của chị dâu. Chị kể rất nhiều về những người trong nhà, nhất là anh cả. Chị nói cho chị dâu biết về linh hồn của ông nội ẩn trong cây mít, bố ở ngoài cây xoài, mẹ nương cây xoan. Chị dâu rất ngạc nhiên, hồ nghi: "Ở làng chúng tôi không có tục lệ như vậy".

Một cách chậm chạp nhưng anh cả ngày một đổi khác. Sau mỗi đêm ngủ dậy anh thường nói với chị em tôi, nhất là chị Nụ, những điều mới mẻ, lạ lùng. Nói một lèo, trơn tru, chặt chẽ. Chúng tôi vẫn yêu quý anh nhưng ngày một e ngại anh mình. Chị dâu chưa bao giờ rầy la hay tỏ ý không hài lòng về hai đứa em. Đến bữa ăn, chị dâu luôn ngồi ở đầu nồi, nhận lấy việc xới cơm cho cả nhà, và cả tôi lẫn chị Nụ, không ai bảo ai nhưng đều hết sức e dè khi đưa bát cho chị dâu xới bát cơm thứ ba. Rồi dần dà, dù đói dù no, chúng tôi luôn dừng ở bát thứ hai. Tội nhất là chị Nụ. Trước đây tôi là người gắp thức ăn cho chị trong mỗi bữa cơm, nhưng về sau này tôi thực thi nhiệm vụ của mình hết sức e dè, tiết kiệm. Chị dâu ít nói. Chị dâu xoay chuyển nếp sống của cả nhà theo ý riêng của chị bằng một uy lực vô hình.

Nắm lấy tay tôi, quơ quơ cây gậy trên con đường làng nhỏ hẹp, lẫn lộn phân trâu phân ngựa, chị Nụ bảo: "Gỗ, em đi tới nhà bà Duyên với chị. Có em, chị vững tâm hơn". Bà Duyên chuyên làm nghề mai mối ở làng tôi. Bà dẻo miệng, có thể ghép duyên giữa một anh trai thọt chân với cô gái đẹp người tốt nết nhất làng mà không ai trách móc được bà. Giúp chị Nụ nhảy qua một con suối cạn và hẹp xong, tôi hỏi:

- Việc này sao chị không nhờ anh cả đi giúp cho đỡ khổ?

Chị cười, vẫn nụ cười và giọng nói cam chịu:

- Đúng ra là phải như vậy, con gái mọi nhà khác đều để mẹ đi lo việc này. Ở nhà mình thì anh cả đi là phải lẽ nhất. Chỉ có hạng con gái không ra gì, không biết xấu hổ thì mới tự đi nhờ người kiếm chồng cho mình. Nhưng phận chị mù loà, có đáng gì mà chảnh choẹ, người ta sinh ghét thêm.

Từ nhà bà mối Duyên trở về, chị bảo tôi khoan về thẳng nhà mà ngồi nghỉ chân bên lòng suối cạn một lúc. Hai chị em vục chân trong làn nước mát lạnh, trong veo, thấy rõ từng con cá bé bằng đầu tăm trong suối bơi dạt theo nước chảy. Chị vốc nước lên vã vào mặt, cho chảy ròng ròng xuống cổ, ướt cả ngực áo và tạt nước lên rửa chân tay. Tôi nhận ra chị Nụ của mình không hèn kém chút nào như đôi mắt mù của chị. Chân tay chị thon thả, trắng ngần và đẹp đẽ hơn của chị dâu tôi nhiều. Hái một chiếc lá sơn to gấp lại như chiếc phễu, tôi vớt được con cá suối nhỏ bằng đầu đũa, bảo chị khum tay lại rồi thả chú cá vào lòng bàn tay chị. Giơ cao bàn tay chụm lại, chị yên lặng để cho dòng nước tuôn theo những kẽ tay xuống suối. Khi cảm thấy được con cá búng trong lòng bàn tay, chị cúi người trả con cá nhỏ về với suối: "Nếu như chị không mù, chị đã có thể bơi xa như chú cá nhỏ kia rồi...".

Không ngờ mọi việc tiến triển nhanh thế. Khi bà mối Duyên đến nhà báo cho biết đã có một đám bên kia núi chịu cưới chị Duyên cho con trai họ, với điều kiện nhà gái không đòi hỏi tiệc tùng, lễ vật thì đúng vào bữa cơm tối, có anh cả và chị dâu cùng nghe.

Anh chị hơi ngạc nhiên nhưng không tỏ ý gì đặc biệt. Chị dâu nhẹ nhàng:

- Mừng cho cô có nơi có chốn để nương tựa. So tuổi thì cô cũng hơi cứng rồi.

Anh cả hỏi kỹ hơn về gia đình đằng trai và bản thân người chồng sắp cưới của chị Nụ. Bà mối Duyên trả lời qua loa, bảo:

- Bên mình đừng đòi hỏi quá. Phận cô Nụ mù loà, có người chịu cưới cho là may lắm. Tôi phải trổ hết tài khéo của một bà mối giàu kinh nghiệm ra mới xong đấy.

Tối đó, chị Nụ không ngủ được. Chị quay sang tôi:

- Gỗ này, không biết mai sau đời chị thế nào nhỉ? Có được như chị dâu nhà mình không?

Tôi chưa biết nói sao thì chị đã tiếp:

- Chắc là không. Chẳng biết xứ ấy nó ra làm sao? Đã bao giờ em thả trâu sang tận xứ ấy chưa, có giống như ở đây không?

Tôi chưa bao giờ biết xứ ấy cả, mà cả làng tôi cũng chưa chắc ai đã một lần đặt chân đến. Một làng ở sau núi? Sau ngọn núi cao dựng đứng vây bọc thung này, còn có một làng nào đó sinh sống ư? Hiểm trở, heo hút đến thế kia mà.

Ngồi dậy uống một hớp nước để trong chiếc ấm đất ở dưới nhà, ngay cạnh đầu giường, chị nài nỉ tôi:

- Hai hôm nữa tới phiên chợ, em dẫn chị đi chợ với nghe, Gỗ. Chị đi không được mau nhưng chị sẽ cố, miễn là em chịu đi chậm lại một chút. Chưa bao giờ chị được biết chợ cả, chị thèm lắm. Hồi xưa, mẹ có hứa sẽ đưa chị xuống chợ một lần cho biết, nhưng mẹ không kịp...

Tối hôm sau chị Nụ xin anh cả cho tôi dẫn chị đi chợ, chị dâu sang nhà bác họ dạm đổi đỗ giống. Anh cả vào buồng một lúc, quay ra nhét vào tay chị Nụ mấy tờ bạc:

- Em cầm lấy, xuống chợ muốn mua gì thì bảo thằng Gỗ nó dẫn đi mua. Anh thấy hôm chị nhập dâu về nhà mình, trên đầu chị giắt nhiều những thứ gì lóng lánh, trông đẹp lắm. - Ngập ngừng một lúc, anh cúi đầu thở dài - Lẽ ra anh phải cho em nhiều hơn, nhưng chị em có thai. Sắp tới sinh em bé, hao tốn lắm.

Rồi anh vuốt vuốt mấy sợi tóc xoà xuống trán, còn vướng tro bếp của chị Nụ, nghẹn ngào:

- Lẽ ra anh phải đưa em xuống chợ huyện nhiều lần rồi mới phải. Suốt mấy năm qua, từ khi...

Để lẩn tránh phút yếu lòng, anh quả quyết đứng dậy, vớ lấy bó đuốc giắt sau chái bếp, gắp than bỏ vào rồi thổi bùng lên:

- Anh đi đón chị về. Mới mưa đường trơn lại đang có mang.

Dù không nói ra và vẫn giữ nét mặt phẳng lặng, hiền dịu vốn có của một người mù, nhưng tôi biết chị Nụ đang hồi hộp và lo sợ lắm. Lâu nay mọi việc nhà chị đều chu toàn, dù có hơi chậm chạp, là nhờ chị đã quen với mọi ngóc ngách và những trật tự không bao giờ thay đổi của các đồ vật trong nhà. Nay chị sắp sửa về một nơi xa hút, bước chân vào một ngôi nhà hoàn toàn xa lạ, phải mất bao nhiêu tháng chị mới quen được với những ngóc ngách và vị trí đồ vật? Biết có ai trong nhà ấy tốt bụng, thương chị mù loà để cầm tay dẫn chị từng li từng tí như ngày xưa mẹ đã chỉ dạy cho chị hay không?

Sáng ấy hầu như cả thung ngưng làm việc, nhất là các bà và đám trẻ con. Họ đứng chật sân, giẫm nát cả đám cải con mới xoè ba lá sau giếng nước, chờ đợi đến ngộp thở người đàn ông sẽ đến lấy chị Nụ mù loà của tôi về làm vợ. Chị Nụ chân mang giày mới, đầu do chị dâu bới chải cầu kỳ, dắt những món trâm cài lấp lánh mà chị đã mua ở phiên chợ hôm đi với tôi, ngồi ngay đơ trên chiếc chõng tre của chị. Bên cạnh là tay nải quần áo, toàn đồ cũ, để chị mang theo, có một bộ mới duy nhất vừa may thì chị đang mặc trên người. Khi nghe đám con nít chạy như bay ngoài đầu dốc vào, cấp báo "Chú rể tới rồi, chú rể tới rồi!" chị kêu tôi lại khẽ khàng:

- Gỗ này, tí nữa em đừng bỏ ra ngoài đó theo đám trẻ con mà hãy ngồi đây với chị. Em cố nhìn qua kẹt cửa xem chú rể là người như thế nào, tả thật tỉ mỉ cho chị nghe với. Tỉ mỉ hơn ngày em tả chị dâu nữa. Gỗ, em là đôi mắt của chị.

Nói đến đó chị nghĩ tới ngày mai hay sao mà hai dòng nước mắt đổ xuống chứa chan.

Đoàn nhà trai đã vào đến ngõ. Chẳng đông đúc, rầm rộ như những đám cưới khác. Đi theo chú rể chỉ có hai người đàn ông đã đến tuổi đổ dốc, một người dắt ngựa, một người bưng quả trầu cau bé xíu, ngả màu héo hon, nằm lọt trong khay trà rượu. Cả hai người đàn ông đều có dáng vẻ thảm hại do những gì họ mang lên trên người, mặt gầy choắt và đặc biệt đôi mắt mí sụp vằn lên những tia hung ác. Tôi lo sợ cho chị mình. Con ngựa trắng đang cõng chú rể trên lưng cũng lộ vẻ già nua, đói kém. Lông nó ngả màu khói như những đám cỏ nắng táp trên đồi.

- Chú rể của chị đã xuống ngựa, có vẻ cao hơn anh cả nhà mình. Chú rể mặc đồ mới, trông chững chạc, đường hoàng lắm.

- Sao chị nghe ngoài sân ồn lên ghê thế? Có gì không ổn hả em?

- Các bà đang trầm trồ về chú ngựa tuyệt đẹp của chú rể đấy. Úi chà, chú rể có dáng đi thẳng và đẹp lắm chị ạ.

Chị nghiêng tai về phía tôi, sốt ruột:

- Em tả cho chị nghe về nét mặt của người ấy đi. Hiền hay dữ? Có hiền như bố không?

- Mặt anh ấy vuông chữ điền, lông mày rậm và đen, mắt sâu, trông tình cảm lắm...

- Gỗ, sao chị nghe ngoài sân xôn xao ghê vậy?

- Em đoán anh ấy là người nhân hậu, chị à.

Rồi tôi còn huyên thuyên một lúc nữa, nhưng nước mắt tôi đã lưng tròng. Tội nghiệp chị Nụ của tôi! Anh rể mặc áo mới, rộng thùng thình, đoán là áo mượn. Đầu tóc anh xù lên như một tổ quạ và luôn tay đưa khăn lên chấm nước dãi liên tục đổ xuống hai bên mép. Đầu anh ngoẹo sang một bên, dựa hẳn vào vai trái. Chắc chắn anh là người bị ngớ ngẩn, đần độn. Khổ thân chị tôi biết bao! Họ còn nói một thứ tiếng mà không ai ở thung chúng tôi hiểu được. Họ khác ngôn ngữ với chúng tôi! Nếu không có bà mối Duyên thông dịch thì hai bên đàng trai đàng gái đã như hai kẻ điếc trò chuyện với nhau.

Bỏ chị Nụ ngồi lại trong nhà, tôi lao ra sân, vẹt đám các bà bu quanh để núp sau lưng anh cả. Tôi năn nỉ:

- Anh cả ơi, anh đừng gả chị Nụ cho họ. Chị ấy chết mất! Có gì khổ lắm, mai em sẽ dẫn chị Nụ xuống phố chợ đi xin ăn. Còn hơn...

Anh cả ngập ngừng, lưỡng lự, nét mặt anh tỏ vẻ kinh tởm khi nhìn thấy chú rể, con ngựa và hai người đàn ông đi họ. Nhưng rồi anh bắt gặp ánh mắt của người chị dâu...

Tự tay tôi nắm dây mũi của con trâu già dắt ra khỏi chuồng. Con trâu mẹ này do bố mẹ chúng tôi để lại, đã đẻ cho anh cả ba con nghé đực, giờ anh chia con trâu mẹ cho chị Nụ đi lấy chồng, coi như của hồi môn. Một tay gạt nước mắt, tôi đỡ chị Nụ lên lưng trâu, dưới có lót tấm chăn cho chị đi đường xa đỡ mỏi người. Lúc tôi khoác tay nải quần áo của chị lên cặp sừng cong vút của con trâu mẹ, chị quờ tay nắm lấy tay tôi, cúi đầu xuống cho má chị áp vào mái đầu khét nắng của tôi.

- Em đừng lo nhiều cho chị, Gỗ ạ. Dù họ có như vậy, anh ta có như vậy, chị vẫn tin là chị có thể sống được ở nhà người ta. Chắc dù sao họ cũng thương một kẻ mù loà như chị mà không đòi hỏi quá khắt khe. Em có nghĩ vậy không?

Hoá ra chị Nụ biết hết. Và chị cam chịu đón nhận cái phận hẩm hiu mà số phận đã dành cho một cô gái mù như chị.

- Em ở lại ngoan, đừng giận anh cả, đừng oán chị dâu, Gỗ nhé. Thực ra chị dâu không xấu gì với chị em mình đâu.

Người đàn ông bên họ nhà trai cất giọng the thé xổ ra từng hồi. Tôi đoán là ông ta giục lên đường.

Vẫn giữ nét mặt phẳng lặng của một người mù và nét dịu hiền vốn có, chị Nụ kéo mạnh dây mũi, thúc vào lưng con trâu mẹ. Con trâu mang chị đi được một quãng rồi cứ quay đầu trở lui. Tôi chạy theo gọi: "Chị Nụ, chị Nụ nhớ về thăm em!". Chị quay đầu lại, nghẹn ngào: "Em cố lớn nhanh băng núi vượt đèo lên thăm chị, Gỗ nhé. Xa quá thế này, chắc chẳng khi nào họ dẫn chị về lại nhà mình nữa đâu".

Tôi leo lên gốc thị cụt ngọn ở đầu thung, ngóng theo bóng đoàn người mang chị Nụ tôi đi mỗi lúc một xa dần. Trước là chú rể cưỡi con ngựa trắng xỉn màu, sau là chị tôi ngồi nhỏ bé trên lưng trâu, hai bên hai người đàn ông loắt choắt. Rồi cứ khuất dần, khuất dần, cho đến khi tôi chỉ còn nhìn thấy một chấm đỏ xa mù, đó là tay nải áo quần của chị tôi đu đưa trên cặp sừng cong vút của con trâu mẹ...

Có một đêm như thế !

Phạm Thị Minh Thư

Có lẽ dừng ở đây thôi nhỉ? - Ðấy, bây giờ công việc tiến triển nhanh hay chậm là tùy thuộc vào việc cung cấp số liệu của bên các chị.

Gập quyển sổ lại, cẩn thận nhét cây bic vào túi áo ngực - Phụng vừa cười, vừa nói với tôi. Tuy mới ra trường, tuổi đời và tuổi nghề so với anh chỉ đáng mặt làm "cháu" nhưng bao giờ Phụng cũng gọi tôi bằng "chị" hết sức trịnh trọng. Cũng có thể với anh đó là thói quen xưng hô trong cuộc sống hàng ngày nhưng về phần mình - mỗi lần sang công tác ở cơ quan này tôi không khỏi cảm thấy tí chút khoai khoái. Chả gì tôi cũng đại diện cho một cơ quan cấp cao hơn.

Công việc kết thúc, chúng tôi quay sang nói chuyện phiếm. Cùng làm việc với tôi hôm nay, ngoài Phụng còn có một người nữa - kỹ sư Vịnh, tuổi trạc ba mươi, Vịnh không hay nói lắm. Tôi chưa khi nào thấy anh tham gia vào những chuyện ngoài lề. Ðặc biệt hôm nay hình như ở con người kín đáo ấy còn có điều gì khác thường, Vịnh cứ lặng lẽ hút thuốc suốt. Ngay cả trong công việc anh cũng không đưa ra nhiều ý kiến tranh luận như những lần khác. Bởi vậy khi nói "chúng tôi" thì có nghĩa là chuyện phiếm chỉ có giữa tôi và Phụng. Sự và Linh - hai kỹ sư khác có mặt trong phòng đang ngồi mài mực tàu. Trước mặt họ, trên bàn la liệt những bản vẽ.

Thế anh chị, cái ông học sinh vật ấy liệu chiều nay có rẽ ngang, rẽ tắt đâu không nhỉ? Qua nhà gặp được ông ta để hỏi cặn kẽ về cách ươm hạt thì tuyệt.

- Cả phòng này, tiếp sau lời Phụng - Vịnh đột ngột lên tiếng - Mình có cái này, còn gần một tiếng nữa, liếc mắt vào đồng hồ nơi tay Vịnh tiếp - Mình đọc cả phòng nghe nhé.

- Cái gì vậy? Một bài báo mới hả? Ngón tay trỏ đang giơ lên định đỗ xuống đầu tàn điếu thuốc dừng lại - Phụng xăm sắn hỏi. Rồi chẳng đợi câu trả lời của Vịnh anh quay sang tôi. Chắc chị không biết nhỉ? Anh Vịnh của chúng tôi đây "tâm hồn" lắm. Thơ, văn đủ cả. ấy, xin lỗi, cái tật cứ hay nói thành lời những điều chỉ nghĩ, cậu nói bao lần vẫn không sửa được! Nhưng thôi, dẹp qua chuyện vặt. Cậu đọc đi. Ðừng để ý đến đồng hồ. Quá giờ một tý có chết đâu!

- Phải đấy, Vịnh đọc đi - Sự sốt sắng. Bọn mình vừa mài mực vừa nghe cũng được chứ?

Vẫn ngồi ở chỗ mình, tuy nhiên cả Sự và Linh đều đã thay đổi tư thế, họ quay cả về phía chúng tôi.

- Cái này, có thể coi là... Thôi, Vịnh khẽ chặc lưỡi, khỏi dài dòng, cứ đọc nhé.

Rút trong túi đi làm ra một tập giấy, sắp xếp lại những trang phía trên, nhìn đi đâu đó giây lát, Vịnh bắt đầu.

- Có một đêm như thế - Ðây là tên của truyện ngắn, Vịnh dừng lại giải thích và bắt đầu đọc vào chuyện:

Một buổi tối mùa hạ. Trời oi ả lạ thường. Cái oi ả nung nấu suốt cả một tuần lễ vừa qua theo dự báo của Nha khí tượng, ngày mai bão sẽ về. Ngày mai bầu trời sẽ cao và xanh. Rất cao và rất xanh. Những dải mây "si" trắng và mảnh như những rẻo voan nhỏ sẽ bay về. Thế rồi bão sẽ đến. Bất ngờ nhất trong những bất ngờ là bão tố.

Qua ô cửa sổ, Miên nhìn lên bầu trời. Những đêm như thế này mà được nằm ngoài trời thì thật thích.

"Những đêm thế này được nằm ngoài trời, thật thích" Vịnh chữa lại. Sau câu vấp giọng anh có vẻ nhanh hơn:

Dưới bầu trời rộng lớn, uy nghiêm có thể sẽ thao thức, thao thức mãi, lại cũng có thể thiếp đi ngon lành như trẻ nhỏ. Nơi Miên đứng, thẳng xuống là vòi nước công cộng. Mới sau giờ ăn cơm, người rửa bát, người giặt giũ, cái vòi nước ồ ồ chảy suốt. Tiếng thùng, chậu va loảng xoảng chen trong tiếng người chạo nhau về những chuyện xảy ra trong ngày. Lương tăng một trăm linh năm phần trăm, nhưng mấy bà tài vụ tính thế nào lại quên quách không cộng mười hai phần trăm khu vực cho bà Nga, cái bà có giọng nói rin rít như bản lề khô dầu; giá thịt ngoài hạ nhanh đến ngạc nhiên; tình hình Ba Lan xem ra thật đáng lo ngại quá, chẳng hiểu Bộ Chính trị mới sẽ xoay xở ra sao; xuyên tâm liên thực ra là thuốc kháng sinh đấy, vậy mà sao con bé nhà tôi uống đến ngày thứ ba vẫn chưa hạ sốt... Những âm thanh hỗn tạp, và bầu trời đang mở ra trên tít tắp kia - có gì liên quan nhỉ?

"Ngày đêm ta bên nhau, những đêm dài chiến đấu"...

Giọng hát của một ca sĩ nào đó bỗng réo lên. Tội nghiệp cho cô gái. Cô ta không sao xoay xở nổi với chiếc máy hát cũ kỹ. Ðứng ở đây Miên vẫn nhìn được đôi mày đen rậm như con trai của cô gái trên căn gác hai chênh chếch kia. Gia đình cô mới chuyển đến, Miên chưa quen họ.

... "Thời gian trong cách trở đốt cháy lửa tình yêu...".

Giờ thì có đỡ hơn. Song vẫn chệch choạng như thể người sắp ngã. Giai điệu tha thiết ấy, trái tim tha thiết thế, mà lại vấp phải cái đầu máy hát ngỗ ngược. Ðến hỏng đĩa hát thôi! Mà sao máy hát của cô gái chỉ quay với một đĩa. Chỉ quay với một đĩa như thế mấy đêm rồi?

Giá như lúc này cái đầu máy hát tỏ ra biết điều, để giọng hát được cất lên như nó đã từng cất lên. Giá như lúc này được nhìn sâu vào đôi mắt của người hát và đôi mắt của cô gái còn mang đầy vẻ "cô bé" kia! Những lời ca tuyệt đẹp không bay đi, cũng không tắt bao giờ. Nó đọng lại, đọng mãi trong đáy mắt của người hát và người nghe.

Thời gian - Cách trở - Tình yêu... Vượt lên trên tất cả. Ngọn lửa không gì dập tắt nổi trong lời hát của người con trai ấy, nó có thật trong cuộc đời không nhỉ? Ngày mới lớn cùng với "những vì sao của Ðôđê", Miên đã yêu vô cùng câu chuyện cổ tích về Chử Ðồng Tử và nàng Tiên Dung. Theo Miên, tình yêu phải là như thế: Giản dị và hồn nhiên. ấy thế mà sau này Miên đã gặp ở mình một tình yêu hoàn toàn ngược lại. Và buồn thay, khi thần tượng sụp đổ trong Miên thì cũng là lúc những năm của tuổi thanh xuân đã trôi qua.

Nước vẫn ồ ồ chảy xuống thùng và chậu. Chuyên đề về thời sự vẫn sôi nổi tiếp tục. Ðầu máy hát trở về điểm xuất phát của nó. Hành khúc ngày và đêm của cô gái lại chấp chới cất lên. Trong âm thanh hỗn tạp ấy, những ý nghĩ của Miên sẽ tiếp tục đan nối. Chẳng có gì vội vàng cả. Ðêm này là của riêng Miên. Bầu trời trên kia... Ngày mai...

Cũng không biết Miên sẽ còn đứng bên ô cửa sổ bao lâu nữa, và tiếp sau những dải mây "si" những gì sẽ bay đến trong ý nghĩ của chị, nếu không có tiếng gõ cửa vang lên.

Trong ánh sáng vàng ệch tỏa xuống từ chiếc bóng đèn cũ kỹ trên mái vòm bụi bậm, gương mặt của người khách lạ có những đường nét thật quen. Mũi ngắn và hếch. Một nốt ruồi đen sậm ngay trên khóe miệng, kéo chiếc miệng hơi lệch về bên phải (cái miệng gây cho người ta cảm giác nó đang giấu một tiếng cười sau vành môi rộng). ánh mắt sâu và trầm tĩnh thoát ra khỏi cả cặp kính cận. Một cậu bé, hay một chàng trai - đã gặp ở đâu rồi khuôn mặt này.

- Thưa cô...

Một sinh viên... Không, Miên đã gặp khuôn mặt này ở một khoảng thời gian nào đó khác cơ. Quỷ bắt cái trí nhớ của chị đi! Sao hôm nay nó lại tồi tàn thế.

- Mời bạn vào. Chắc đợi tôi đã lâu?

- Em mang bài đến nộp. Em nộp bài sau thế này...

- ồ, không sao đâu, tôi cũng chỉ muốn biết tình hình học của lớp thôi. Vừa nói, Miên vừa dẹp nhanh mặt bàn lộn xộn. Cô Ngọc đi an dưỡng, tôi sẽ dạy nốt phần còn lại của giáo trình cho lớp. Sáng nay chắc bạn nghỉ. Tên bạn là Long... Ngồi xuống đi Long.

Nhưng... sao lại thế này? - Sau thoáng liếc nhanh nơi góc vẫn đề tên và lớp, Miên hết sức ngạc nhiên. Dưới phần câu hỏi "hãy nói về hiện tượng nguyệt thực" - bài viết chỉ vẻn vẹn mấy dòng:

"Trên mặt trăng không có hoàng hôn...".

- Cạch! Cạch! Cạch!

Ai đó gõ vào cửa phòng làm việc ba tiếng. Giọng đọc đang dập dồn của Vịnh bị cắt ngang.

Sự đứng dậy đi về phía cửa.

- Gì thế? - Tiếng Sự hỏi ai đó.

- Tiền! Tiền! Tiền!

Tiếp theo ba tiếng "tiền" mạnh như tiếng gõ cửa, một thanh niên thấp nhỏ, tay cầm nắm tiền bước vào. Nhìn thấy tôi anh ta gật đầu chào, rồi đi lại bàn Sự.

- Cậu nộp tiền may ô nhé!

- Bao nhiêu?

- Hai mươi đồng. Phòng này chỉ còn mình cậu. Bốn đồng lưỡi dao cạo nữa là hai tư. Mà cho tiền lành đấy - Ông cứ nắm cả đống thế kia tiền nào lành nổi, lưỡi dao cạo... thôi khoản này "nghỉ".

Vừa nói Sự vừa móc ví, đếm đủ hai mươi đồng đặt trước mặt anh cán bộ đời sống. Không hiểu ở đâu ra mà anh có lắm tờ năm hào thế. Hôm nay chắc là "ngày căng tin" ở đây. Có nhiều tiếng lao xao phía ngoài. Hẳn người ta đang bàn xem nên mua thứ gì: áo may ô hay là lưỡi dao cạo. Lưỡi dao cạo - ở nhà tôi mọi người đang rất cần... Hỏi nhờ mua suất của Sự chăng?

"... Biển phong phú, biển Nhụy hoa, biển Mây..."

Thôi chết, Vịnh bắt đầu đọc tiếp từ lúc nào thế nhỉ? Nhưng... chẳng có ai nhìn tôi cả. Anh cán bộ đời sống vẫn đang trao đổi về tem phiếu gì đó với Sự. Phụng và Linh im lặng nhìn ra ngoài cửa sổ. Còn Vịnh - anh đang cúi xuống những trang bản thảo và đọc, giọng khẽ hơn, thong thả như lúc bắt đầu:

... Rời mắt khỏi bàn kiểm tra của Long, Miên bắt gặp trong đôi mắt trầm tĩnh ánh nhìn nửa mừng rỡ, nửa lo ngại. Cái ánh nhìn như đang dò hỏi, chờ đợi.

"Trên mặt trăng không có hoàng hôn, nhưng lại có biển, Biển theo cách gọi của Galilê...".

Luật sư, trời ơi, có phải em đấy không?

Sự bừng dậy của trí nhớ gần như vô ý thức. Tờ giấy mỏng mảnh rơi nhẹ xuống mặt bàn.

*

* *

Ngày 16 tháng 4 năm 1972, sau ba năm rưỡi kể từ ngày 31 tháng 10 năm 1968 những - người - Mỹ - không - biết - im - lặng đã đột ngột lên tiếng, bằng cách trút hàng loạt bom và rốc két xuống Hải Phòng, Hà Nội. Các trường học phải đóng cửa mặc dù năm học chưa kết thúc. Rồi những người dân Hà Nội được lệnh phải gấp rút rời khỏi thành phố. Những trận bom hủy diệt đang lơ lửng trên đầu họ - về điều này Chính phủ Mỹ vốn thành thạo lắm, hành động của họ bao giờ cũng đi đôi với lời nói.

Ðêm buông xuống trên dòng người cuồn cuộn đổ ra các ô cửa của thành phố, đi về các ngả. Ô-tô, xe máy, xe đạp, rồi xe bò, thậm chí cả người đi bộ gánh gồng nữa; người, đồ đạc, nồi niêu, chăn màn, giường chiếu... mặt đường bị cuốn phăng đi trong dòng thác ấy... Trong một đêm như thế Miên đã gặp anh sinh viên có cái tên Luật sư chị vừa buột kêu lên, khi ấy Luật sư mới là một cậu bé trạc 10 tuổi, và một thanh niên nữa - Lai. Phải rồi, người thanh niên ấy tên là Lai...

Lúc bấy giờ xe của Miên bị hỏng. Xe hỏng đúng vào lúc cô đã rời khỏi đường quốc lộ, rời khỏi dòng người ít nhất cũng hơn nửa giờ. Trên con đường tắt này - đoạn đường phía sau và phía trước chẳng có ai. Ngoài những bóng cây và những thửa ruộng im lặng đến chết người.

Chập tối khi mẹ từ cơ quan đạp xe về, báo tin đã xin các chú trong cơ quan cho Miên đi nhờ xe về quê ngoại sơ tán, cô đã bực bội vô cùng vì bị coi thường. Tự nhận thấy mình là một phần tử độc lập, hoàn toàn có thể tự lực cánh sinh được Miên tuyên bố với mẹ việc đạp xe một mình về quê hoàn toàn là chuyện vặt.

Với một bọc quần áo và sách vở nhỏ, đạp xe đi giữa dòng người đông đúc, "phần tử độc lập" cho việc đi xe một mình là chuyện vặt thật hoàn toàn hợp lý, cũng như nỗi sợ hãi và chút ân hận giờ đây, khi đứng chôn chân với chiếc xe hỏng giữa cái im lặng đến chết người của những bóng cây và những thửa ruộng.

- Ðồng bào nào mà đứng như vạc thế kia!

Từ thửa ruộng sau lưng Miên, một tiếng người đột ngột cất lên. Mừng rỡ ngoảnh lại, Miên trông thấy một cậu bé tay cầm chiếc đèn bão nho nhỏ đi về phía mình. Thì ra trong lúc đang hoảng, chỉ ngó trước ngó sau, Miên đã không nhận thấy cái nếp nhà nho nhỏ, nằm lẫn giữa những vạt lúa tối um trên mé đường cô đang đứng.

- Xe của chị bị hỏng.

Cùng với câu than, Miên tò mò ngắm cậu bé. Nó đã tới nơi. Hai vai nhọn hoắt đung đưa theo nhịp vung vẩy của chiếc đèn bão, gương mặt nhỏ choắt, một cặp kính cận dầy cộp, rồi vành môi bị kéo lệch đi trong "nụ cười bẩm sinh" - Cậu bé như vừa nhảy ra khỏi một bức tranh biếm họa nào đó.

- Chị đi sơ tán phải không?

- ừ, chị đi sơ tán. Xe của chị đang đi tự nhiên bị hỏng.

- Tự nhiên? Cậu bé phì cười. Cặp kính nảy lên. Hẳn nó đã thấy hết vẻ sợ sệt trong giọng nói của Con - Vạc - Khổng - Lồ này. May cho chị đấy, chứ đạp thêm một đoạn nữa thì chẳng có ma nào trên quãng đường này đâu. Thôi vào nhà bọn em đi. Cậu bé nói như ra lệnh. Ðể em đi trước soi đường cho.

- Nhà em có ai biết chữa xe không?

- Em thì không. Nhưng chị yên trí, có anh Lai. Anh ấy có thể làm được tất cả mọi thứ trên đời. Thần thông biến hóa, có kém Tôn Ngộ Không, thì cũng chỉ tí ti thôi.

Miệng nói, chân đi, chỉ một loáng cậu bé đã dẫn Miên tới nơi. Căn nhà xem ra còn bé nhỏ hơn lúc nhìn từ xa. Nó dường như lọt thỏm trước một đầm nước rộng mênh mông.

"Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy coi tình yêu, cuộc sống của người Việt Nam là tình yêu, cuộc sống của bản thân mình, hãy coi cuộc đấu tranh...".

- Cạch - cửa phòng mở. Một phụ nữ bé nhỏ và nhanh gọn bước vào.

- Linh ơi - Xin lỗi, chào cả nhà. Mực mài xong chưa, cho chị một tí vào đây. Này chỗ len ấy để cho chị nhé.

- Vâng! Vâng! - Linh trả lời rồi trút cho người phụ nữ một ít mực vào cái lọ con tí của chị.

- Ðan cho anh cô cái mũ. Anh ấy cứ hay phàn nàn, so sánh. Lúc nào cũng thở than.

- Chậc!

Anh cán bộ đời sống khẽ buông một tiếng. Câu chuyện tem phiếu giữa anh và Sự ngừng từ lúc nào tôi cũng chẳng hay.

- Gì thế? ở đây đang đọc báo à? Thôi, chị về nhé. Chào cả nhà!

Cũng nhanh gọn như lúc vào, người phụ nữ biến mất sau cánh cửa.

"Chúng tôi kêu gọi các bạn". - Lặp lại câu vừa đọc, Vịnh tiếp.

... Hãy coi tình yêu cuộc sống của người Việt Nam là tình yêu cuộc sống của bản thân mình, hay coi cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, vì tiến bộ xã hội là cuộc đấu tranh của chúng mình. Hãy hành động ngay bây giờ để cứu nhân loại khỏi thảm họa...

... Chúng tôi đưa ra lời kêu gọi này từ các hầm tránh máy bay ở Hà Nội.

Ký tên Gớt Hôn(1)

Raxít Xtôri

Giôdép Noócthơ

Trong căn nhà ai đó đang mở đài. Giọng đọc truyền cảm mạnh mẽ của người phát thanh viên đã ngừng. Phần nhạc xen giữa các đoạn tin cất lên. Miên đứng lại bên chiếc xe. Một thanh niên từ trong nhà bước ra. Hai tay đút túi quần, chân đa đá vào một vật gì đó dưới đất, anh nói một mình: "Tất cả đang sôi lên, vậy mà mình cứ ngồi đây...".

Hẳn đây là anh Lai của cậu bé, con người có thể làm được tất cả mọi thứ trên đời - Miên nghĩ thầm và quay sang cậu bé, dáng chừng để chờ một sự giới thiệu nào đó.

- Chào bạn.

Nhận ra sự có mặt của Miên và cậu bé, người thanh niên niềm nở lên tiếng.

- Anh làm như cả thế giới đã lên đường rồi không bằng. Nếu anh không ở đây - ai sẽ trông đống tre, lá này, lại còn lo đất làm nhà nữa. Ðặt chiếc đèn bão lên hè, cậu bé lên tiếng chững chạc đến bất ngờ.

- Xin có lời cảm ơn Luật sư. "Ngài" đây cứ bào chữa cho mình suốt đấy. Thân mật như đã quen từ lâu, người thanh niên vui vẻ nói với Miên. Xe của bạn bị hỏng phải không? Luật sư thế mà tài. Bọn này đang ngồi câu, lúc quay lại lấy mồi, cậu ấy phát hiện ra bạn. Mình cho là bạn dừng lại nghỉ, nhưng nó thì bảo: "đường vắng thế này bọn con gái có đố cũng chẳng dám ngồi nghỉ, kiểu này chỉ có hỏng xe". Mình định nghe nốt bản tin rồi chạy ra. Mình là Lai. Nào đưa xe mình xem cho. Mà có thể gọi bạn là gì nhỉ?

- Em là Miên - Trao xe cho Lai, Miên trả lời.

- Mình sẽ gọi bạn là Miên.

- Sao lại "sẽ gọi" ạ?

- Anh ấy không biết gọi mọi người bằng tên của họ đâu. Như em chẳng hạn, hẳn hoi là có tên, tên đẹp nữa là khác. Con Rồng Xanh, - ông em vẫn gật gù bảo thế, vậy mà anh cứ réo Nhóc, lại réo Luật sư...

- Có người để than phiền cũng thích thật. Nhưng than vừa thôi, kính tụt khỏi mũi rồi kìa! - Săm của bạn bị hỏng. Lại sang vành nữa. Ðồ chữa xe bọn này không có. Ðồ chữa xe... Sau một thoáng đắn đo Lai tiếp - kể ra chạy vào làng mượn ngay cũng được, có điều đi tiếp nếu lại hỏng dọc đường thì gay. Tối lắm rồi, hay Miên ở lại sáng mai đi sớm? Nhà này chỉ có mình và Luật sư. Trong nhà có đài, có thể nghe đọc truyện đêm khuya, hoặc nếu không thích thì tắt nó đi và nằm ngủ. Ðêm sẽ qua rất nhanh thôi.

ở lại đêm trong nhà một người không quen - bố, mẹ chắc không bao giờ nghĩ đến chuyện này. Nhưng đi tiếp làm sao được. Anh ấy nói đúng đấy - nhỡ giữa đường xe lại hỏng thì sao? Quả là lúc đi Miên không hề nghĩ đến điều này.

- Nhưng - Miên ngập ngừng, thế còn anh và Luật sư?

- Bọn này nằm ngoài trời. Với lại cũng chẳng ngủ đâu. Nhóc con đang khoái câu cá.

- Chị ở lại đi! Từ đây đến làng sơ tán của chị dọc đường chỉ có một lũ bạch đàn thôi. Ghê chết lên được. ở lại xem bọn em câu cá. Hay lắm!

Ðưa tay đẩy cặp kính dày và nặng đến mức cái mũi hếch ngược lên cũng không giữ nổi, Luật sư giục giã.

- Anh và Luật sư câu được nhiều không ạ? Miên hỏi.

- Một chú! Cậu bé láu táu.

- Thế là chị ấy đồng ý rồi. Của "Ngài" Luật sư đấy. Nom hắn khá đấy chứ? Cả ba đã ở bên bờ đầm. Lai giơ con cá lên ánh trăng soi rõ vệt lấm và những sợi rác vụn bám trên cái lườn bàng bạc của con trôi. Nó đã chết.

Rời mắt khỏi con cá Miên lại gặp vầng trăng. Ðã lên cao, lúc này vầng trăng mảnh hơn, và màu đỏ cũng nhạt hơn. Giờ mới thấy đôi chân mỏi rã rời, mỏi đến không thể làm chủ được. Chả gì, Miên cũng đã đạp trên ba mươi cây số, cô ngồi bệt xuống.

- Sao lại có trăng đỏ hở anh? - Chưa bao giờ em thấy trăng thế kia.

Không phải chỉ riêng Miên dừng mắt trên cái màu đỏ đồng kỳ lạ ấy, có tiếng Luật sư hỏi khe khẽ. Chắc nó sợ nói to cá sẽ nghe thấy.

- Em thì biết gì ngoài sách. Rồi sẽ đến lúc phải đeo lồng hai kính vào nhau nữa kia. Có người bảo đấy là điềm của chết chóc, của mất mùa, rồi chiến tranh Lai bật cười.

- Ðiềm của chiến tranh... Ðừng giễu cợt thế! Nếu như lúc này anh cũng có mặt trong dòng người...

Bàn tay đang bóp bóp chỗ chân nhức dừng lại - Giọng Miên run run.

- Mình xin lỗi, nếu có gì không phải... Nhưng - Miên đã thấy gì nào?

Thấy gì ư?

- Kịch - cửa phòng mở, một người đàn ông đứng tuổi vào.

- Chào cả phòng - Sau khi quay lại khép cửa - ông hướng về phía Phụng. Cho mình xin tí lửa. ồ, xin lỗi...

- Cạch! Cạch! Cạch! Sang lĩnh lương cho người ta còn về chứ!

Cùng với tiếng gõ cửa, ai đó nói to ngoài cửa phòng rồi vội vã đi, tiếng "gộc" khua lộp cộp.

- Lương với chả lậu - Anh cán bộ đời sống lầu nhầu.

- Thôi, dừng ở đây... Tiếng Vịnh nói khẽ.

- Không, không! Ông cứ đọc tiếp! Lương chả lĩnh hôm nay thì mai. Nào! Phụng hất hàm.

Tôi và mọi người cùng gật đầu đồng tình với Phụng. Và Vịnh lại cúi xuống những trang bản thảo.

- Trở lại câu trên nhé - Anh nói, rồi tiếp tục đọc.

Thấy gì ư? Trong đôi đồng tử đang dãn ra của Miên vầng trăng trên kia như đang "to" lên, to mãi. Rồi biết bao ý nghĩ bỗng lấp gấp xô về. Lai và cậu bé Luật sư, không, cả Miên nữa - Chính cô cũng cần phải hiểu lại những xúc cảm miên man ấy.

Em cũng không biết. Vầng trăng như nhòe đi. Tiếng Miên khẽ khàng. Có điều trăng thượng huyền mà lại to và nặng, lại còn màu đỏ nữa... Tưởng như có một mặt trời được kéo ngược từ phía hoàng hôn trở về. Một mặt trời trong đêm - Vầng trăng đỏ ối. Trên dòng người đang im lìm đổ ra khỏi thành phố, trên bầu trời với những đám mây rạn ra từng khoảng lớn, cái mặt trăng lừng lững ấy...

Nói tới đây Miên có cảm giác như đang đi trở lại trên con đường đã qua, lẫn vào dòng xe cộ đông đúc. Trên những chiếc xe ấy Miên đã thấy gia tài bé nhỏ của những người dân trong thành phố của cô, đã thấy những chiếc ghế mây mà trên đó những cái đầu bé bỏng cứ gật lên gật xuống theo nhịp xe xóc, hai bàn tay - cũng bé bỏng như thế buông lơi trên thành ghế - phần lớn các em bé đều đã ngủ ở dọc đường. Có một cái gì đó cứ dâng lên trong mí mắt Miên, cô không sao nói tiếp được.

- Ðừng sợ!

Giọng Lai thấp xuống. Trong giọng nói của anh Miên cảm thấy Lai đã hiểu những gì cô không diễn tả nổi. Trước sự quá tinh tế của những diễn biến tình cảm trong tâm hồn con người - ngôn từ bỗng trở nên khô cứng, nghèo nàn. Vào lúc ấy, may chăng chỉ có âm điệu trong giọng nói mới giúp con người truyền đạt được những gì họ muốn. Bởi vì nếu không, chỉ căn cứ vào hai tiếng "đừng sợ" Miên hẳn đã cho rằng Lai đã hiểu sai cô. Không phải điềm chiến tranh. Cũng chẳng thể là nỗi khiếp sợ. Một sự bất nhẫn chăng? - Nhẹ quá! Vậy thì điều gì đã diễn ra trong tâm hồn khi bắt gặp sự liên tưởng: Có một kẻ nào đó đã dùng cái gam màu ghê sợ ấy xóa đi màu trắng xanh dịu của những ngày tháng thanh bình?

Im lặng trôi qua. Tiếng Lai khe khẽ:

- Trước lời kêu gọi của Gớt Hôn, đài đọc thơ của Nam Hà, Miên có thích bài đó không?

- "Ðường dài đi giữa Trường Sơn. Nghe vọng bài ca đất nước..." - Ðúng không? Thích ghê lên ấy chứ! Cái Dự bạn em, anh có biết không - Miên tiếp - Hơn em hai tuổi. Khai tăng một tuổi, đợt sơ tán này nó ở nhà để xin đi thanh niên xung phong. Bố nó thích lắm, trong mọi việc chẳng bao giờ chú ấy cấm đoán cả.

- Thế bố Miên hay cấm Miên những việc gì?

- Cấm đủ thứ - Miên trả lời. Hai năm lớp tám, lớp chín tối nào Dự cũng đến học nhóm với em. Bàn học của bọn em kê ở một góc, nhưng chỉ liếc qua là bố em biết ngay là đang ngồi học, hay đang xem truyện.

- Giờ học lại ngồi đọc truyện, bị mắng cũng phải. Luật sư xen vào.

- Kìa Nhóc, để chị ấy nói! Lai giơ một ngón tay lên "đe" cậu bé.

"Giờ thì chị hiểu tại sao em bị gọi là Luật sư rồi. Nhưng cấm cũng chẳng được! - Giọng Miên thoáng vẻ đắc thắng. Kéo cái ngăn kéo ra một chút, em để truyện trong đó, và cứ đàng hoàng thế mà đọc. Dự ngồi đối diện với em, lúc nào bố em từ buồng đi ra, nó khẽ ho lên một tiếng, thế là ngăn kéo tự động ập vào. Tất cả những cấm đoán - bố em cứ nghĩ rằng nếu không mê đọc truyện quá, chăm chỉ học hành em sẽ trở thành một người giỏi giang. Rất giỏi giang nữa cơ đấy!

Khẽ bật cười, như thể vì đang hình dung ra mình trong vai trò một người giỏi giang, rồi Miên tiếp:

Có một lần em suýt chết... Anh có biết không - bố em rất hay kiểm soát ngăn kéo và giá sách. Lục truyện mà. Nhưng ai đời dại dột để ở những nơi ấy. Muốn tìm truyện phải xuống dưới bếp cơ! Thùng gạo, chạn thức ăn, thùng đồ vật, rồi trong đống củi, dưới gầm lò cũ... Phái mạnh các anh, nhất là cực mạnh như bố em, ai để ý đến những nơi vớ vẩn?

Thế nhưng "đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma". Lần suýt chết ấy - buổi tối đọc xong, khuya rồi mệt quá, em quên không sơ tán sách. Sáng ra dậy muộn, quáng quàng xách cặp chạy. Ðến lớp, học hết giờ đầu, vào tiết thứ hai, tiết toán của thầy "Tuấn bút chì" em mới sực nhớ: quyển Phục sinh vẫn để trong ngăn kéo. Sợ quá, chẳng còn nghĩ được đến xin phép nữa, em bật ra khỏi cửa sổ lao một mạch theo đường tắt về nhà. Em ngồi bên cửa sổ, bọn em học ở dãy nhà một tầng, chỗ đó có con đường dẫn ra ruộng rau. Theo đường này qua làng Quỳnh. Chỉ mười lăm phút sau là có thể có mặt ở nhà.

Nếu bố em mà giở ngăn kéo ra... thì ôi thôi. Liép sẽ tan tành! Sáng đó sương mới nhiều làm sao. Sương như từ vùng hồ ao dâng lên - Một bức tường sương kéo suốt dọc đường. Lạnh thế mà mồ hôi cứ toát ra...".

- Chị thoát không? - Luật sư hỏi dồn. Chẳng hiểu nó đang hồi hộp lo cho số phận Liép, hay cho Miên.

"Thoát!" - Miên trả lời Luật sư. Rồi tiếp - giọng bâng khuâng. Thế mà thầy Tuấn không mắng em. Thầy Tuấn rất hiền. Gày nữa, mùa đông trong chiếc áo bông rộng lùng thùng, trông thầy giống hệt chiếc bút chì trên đậy nắp bút máy Hồng Hà, loại bút đàn ông ấy.

Giờ học cuối cùng trước ngày 16 tháng 4, lẽ ra thầy cũng phải giận em, vậy mà... Thực ra em không nên làm thế. Bao giờ em cũng sai. Nhưng tại sao người ta cứ viết ra những quyển sách hay quá như thế?

- Trong giờ toán hôm đó Miên đã làm gì? - Lai hỏi.

- Giờ kiểm tra một tiết, nhưng em lại ngồi đọc "Ðất Quảng". Kiểm tra hình. Bài rất dễ, chỉ mười lăm phút là xong. Quyển "Ðất Quảng" vẫn còn một phần nữa, cuối giờ toán bọn nó lại đòi... Miên khẽ thở dài. Lẽ ra hết giờ em phải xin lỗi thầy. Thầy ngồi trong lớp chấm bài để trả ngay. Nhưng em đã không xin lỗi. Bọn con trai chơi cờ tướng vui quá... Nếu biết đấy là buổi học cuối cùng em đã không làm thế. Không bao giờ làm thế!

- Hết hè đến xin lỗi vậy.

- Anh bảo sao? Miên hỏi lại.

- Mình bảo hết hè đến xin lỗi - Lai nói.

- Thầy đi bộ đội rồi. Bài làm hôm ấy thầy vẫn cho em điểm mười. Thầy Tuấn đi bộ đội. Dự đi thanh niên xung phong, còn em đi sơ tán. Thế mà bố, mẹ em còn định gửi em theo xe các chú trong cơ quan... Ngừng một lát Miên lại tiếp. Ban nãy anh bảo mặt trăng đỏ là điềm chiến tranh. Ðiềm chiến tranh dứt khoát không phải rồi, nhưng mất mùa thì có thể lắm chứ. Biết đâu chẳng có liên quan nhất định về thời tiết?

- Chẳng phải đâu - Lai trả lời. Ngoài hiện tượng thủy triều và áp triều ra, mặt trăng không có ảnh hưởng gì đến trái đất cả. Còn màu đỏ hồng kia là do sự khúc xạ của các tia sáng mặt trời vào trong khí quyển, các tia đỏ dập lên mặt trăng... Mà có biết không - trên mặt trăng không có hoàng hôn đâu nhé. Nhưng lại có biển. Biển theo cách gọi của Galilê. Người ta đặt cho biển của mặt trăng những tên như: Biển Mưa, biển Trong Sáng, biển ẩm ướt, biển Yên tĩnh, biển Phong phú, biển Nhụy Hoa, biển Mây...

- Anh học về những cái đó à?

Miên thốt lên, ngạc nhiên và thích thú. Ðôi mày doãng ra trên vầng trán phẳng và cao.

- Ðâu có, giọng Lai thoáng vẻ ngượng ngập.

- Ðưa hộ mình cái cần câu với.

Khi đưa cần câu cho Lai, Miên nhận thấy anh có một đôi mắt rất đen. Có lẽ còn đen hơn cả những dải nước mà sóng đang lôi vào bờ, rồi lại ném ra xa tít tắp kia.

- Sao cần câu ngắn thế anh? - Giọng Miên trong và nhẹ.

- Tháng tư cá thường ăn sát bờ... Nhưng kìa, ngồi không khéo bạn sẽ làm hỏng hết hoa đấy!

- Hoa nào?

Theo bản năng Miên nhổm người lên, như thể đang ngồi trên hoa thật. Thì ra chỗ Miên đang ngồi là một thẻo vườn, mà vạt cỏ tươi tốt bên đầm đã mọc trườn vào. Phải nhìn kỹ mới thấy những gốc cây đã héo.

- Có thấy gì không?

- Những gốc cây?

- Chỉ thế thôi à! - Thở ra rồi hít vào thật mạnh xem nào.

- Hít vào thật mạnh... Trời, sao từ nãy đến giờ em không nhận ra nhỉ?

- Suỵt! Luật sư quay lại, đưa tay lên miệng cảnh cáo tiếng reo của Miên.

Hẳn cậu ta sợ cá nghe thấy.

Hoa loa kèn. Một mùi thơm ngọt mát dâng lên.

Giữa những gốc cây đã héo, giữa những lá cỏ dài tươi tốt, cây hoa còn sót lại ở một góc thẻo vườn chỉ có một bông hoa duy nhất. Thật khó tưởng tượng nổi hương thơm ôm đầy cả khoảng không bao la này, chỉ dâng lên từ đài hoa mảnh dẻ đến dường kia.

- Trước đây là nhà của một ông già rất yêu hoa. Giờ ông chuyển vào làng, nhường đất cho sinh viên làm nhà ở và giảng đường. Có biết vì sao mình nhắc đừng ngồi lên không?

- Miên lắc đầu.

- Hoa đã cắt, nhưng còn củ để lại ươm dưới đất đấy - Lai giải thích.

- Giật đi anh... Thôi, hỏng rồi!

Có tiếng quẫy nhẹ. Tiếp theo là tiếng thở dài thực to của Luật sư. Dưới ánh trăng, cái gọng kính của cậu in hình to kệch, nom đến kỳ dị.

- Hôm nay đen quá. Thôi chả thèm câu nữa.

Luật sư ngáp dài, và nằm xoài luôn xuống. Nó gỡ kính. Lại ngáp. Một lát im lặng. Rồi bỗng cất tiếng, giọng ngái ngủ:

- Cái ông Gớt Hôn ấy buồn cười nhỉ. Ngồi dưới hầm rồi kêu gọi... Mà ban nãy anh nói về mặt trăng là bịa thật đấy?

- Xin cứ tin tôi - ngài Luật sư!

Có gì đó vừa giễu cợt, vừa trìu mến trong giọng Lai.

Cả ba cùng im lặng. Trong đêm tĩnh mịch chỉ còn vang lên tiếng nước vỗ bờ. Mặt đầm cứ rộng ra, rộng mãi và, và bầu trời dường như cũng được nâng lên - cao và nhẹ hơn. Luật sư chừng đã ngủ. Tiếng nó thở nhè nhẹ. Cái kính cận rời khỏi tay, từ mặt kính loáng lên một vệt sáng.

Lai đứng dậy đi vào nhà, rồi trở ra với một cái áo. Anh cuộn áo lại, nâng đầu cậu bé lên và luồn xuống dưới.

- ở nhà nhóc được chiều lắm. Ngủ không gối hắn ta bị đau đầu đấy. Lai khẽ cười, rồi như nhớ ra điều gì anh bỗng ngập ngừng... Thực ra mình cũng chẳng biết gì đâu, về mặt trăng ấy. Ban nãy là mình đọc thuộc lòng một đoạn trong giáo trình thiên văn của Pôlác đấy. Quyển sách tình cờ rơi vào tay mình. Ông ta viết hay đến nỗi không thể không thuộc được... Cả chuyện cá ăn sát bờ vào tháng 4, và hoa loa kèn khi cắt rồi, thì củ để dưới đất ươm tiếp mình cũng "nghe" sách thôi. Bao giờ về Hà Nội mình sẽ tìm lại quyển sách của Pôlác cho Miên đọc.

- Thật chứ?

- Thật. Có điều đừng đọc trong giờ của thầy "Tuấn bút chì" nữa và cũng đừng nhét Pôlác vào gầm lò cũ hay chạn thức ăn mà ông ta lại kiện mình.

Im lặng.

- Anh Lai này... Trong quyển sách thiên văn của Pôlác có viết về đêm không? - Anh bảo có à? Tiếng Miên như từ sóng nước vọng lên. Bố em bảo em sinh ra vào lúc nửa đêm...

- Một giấc mơ - ừ, tên Miên... Nhưng với mình Miên sẽ là đêm, Lai như nói một mình. Rồi bỗng anh thốt lên: Miên xem kìa!

- Trăng...

- Không, đừng nhìn trăng. Vì sao đổi ngôi - Miên có thấy không? Hẳn một vệt sáng xanh... Nó rụng xuống đâu nhỉ?

Im lặng.

- Khuya lắm rồi - tiếng Lai như bừng tỉnh. Thôi Miên ngủ đi, lấy sức sáng mai còn đạp xe tiếp. Mình nhường cho cái bờ đầm này đấy. Nằm đây ngủ khoái hơn vào nhà. Lai đứng dậy nhìn quanh, rồi trỏ vào vạt cỏ ngay chân Luật sư. Nằm đây này!

- Còn anh?

- Mình thức. Phái mạnh mà...

Im lặng. Sóng xô nước vào bờ. Cùng với cảm giác một cái gì mềm mại lướt dưới lưng, Miên nghe tiếng Lai từ trong nhà cất lên:

- Thế... Ngủ đi, đừng sợ!

*

* *

... Tất nhiên không phải ngay trong lúc này tất cả những điều xảy ra trong đêm ấy đã trở về cùng lúc trong trí nhớ Miên. Mà phải một thời gian, một khoảng thời gian dài sau này Miên mới có thể sắp xếp được những ý nghĩ của mình, sắp xếp được những gì đã xảy ra theo một trình tự rành mạch. Mới có thể mường tượng đến từng chi tiết nhỏ những gì đã có trong đêm đó. Còn bây giờ, trong cuộc gặp gỡ quá đỗi bất ngờ này chỉ kịp cảm thấy trong tâm hồn đang mệt mỏi của mình luồng gió năm xưa tươi mát ùa về. Những ngọn cỏ đâm vào chân buồn buồn. Ðài hoa mảnh dẻ đỡ lấy năm cánh hoa trắng ngà, trên mỗi cánh hoa ấy có muôn vàn tia nước li ti chảy - Những tia nước trong lành đã vọt lên từ mặt đất ẩm ướt trong suốt cả mùa xuân, qua thân cây xôm xốp. Rồi hương thơm của nó... thứ hương lúc thì dậy lên nồng nàn, lúc lại mất đi trong những đợt gió ào ạt đưa về từ phía bên kia bờ đầm. Và sau hết, trên tất cả là âm hưởng của một giọng nói - Cái âm hưởng vừa giễu cợt, vừa trìu mến lạ lùng, nhớ lại chị chưa hề gặp ở một người nào khác.

Phải chăng trọn vẹn những gì Miên mơ ước đều đã có trong đêm đó?

Khoảng im lặng của những xao động trôi qua, Miên hỏi:

- Anh em giờ thế nào nhỉ?

- Anh Lai không phải anh trai em. Em sơ tán về làng đó, gặp rồi quen thôi. Ngày ấy anh Lai là một trong những sinh viên đi tiền trạm để lo xin đất, và lo chuyện làm nhà cho trường. Cho đến hôm đó anh Lai đã có tên trong danh sách đi bộ đội. Mắt anh Lai còn cận nặng hơn em rất nhiều, nhưng anh ấy không đeo kính. Anh Lai bảo tập cho quen đi, chứ có kính thì còn đánh đấm gì. Nhưng thực ra không đeo kính để được đi khám tuyển thì đúng hơn. Ðã có tên trong danh sách đi bộ đội, nhưng vì chưa có người tiếp quản công việc, nên mặc dù rất sốt ruột anh ấy cũng phải ở lại. Còn bây giờ, chị hỏi anh Lai... Long quay đi, và cũng như đêm nào cái gọng kính lại in hình to kệch nom kỳ dị, có khác chăng là in trên tường chứ không phải trên bờ cỏ tươi tốt năm nào - Anh Lai mất đã năm năm. Im lặng một lát Long tiếp - Hà Nội thế mà rộng. Sau những - ngày - bê - năm - hai về em tìm chị suốt cả mà không thấy. Những năm sau cũng không hề thấy. Có cái này em vẫn giữ cho chị. Long đặt trước Miên một phong thư đã cũ và nhàu, nét chữ ngoài bì không còn rõ nữa, nhưng lành lặn sạch sẽ. Thư không dán tem. Một người bạn anh Lai đã cầm về - Long giải thích và đứng dậy đi về phía cửa sổ.

Trong phần đầu lá thư gửi cho Luật sư. Lai đã kể về cuộc sống của anh khi chuyển sang đơn vị mới. Bằng vào thư thì những gì anh đã trải qua trong những ngày này đều tuyệt vời hết sức. Cái giọng điệu "từng trải" trong thư, hẳn Lai rất hay dùng với Long, tuy không phải lúc nào anh cũng thành công. Nhớ đêm ấy Long đã tỏ ra ngờ vực hết sức khi nghe Lai nói về mặt trăng. Thậm chí nó còn hỏi thẳng thừng có phải chuyện của anh là bịa không.

Còn phần sau của thư - cứ theo ngày tháng thì phần sau viết cách một khoảng thời gian dài.

"Luật sư ơi, bọn anh giờ bắt đầu vào cuộc rồi. Có kể em cũng không hình dung hết được những gì bọn anh đã qua đâu. Em còn nhớ anh Kiệm không? Cái cậu beo béo, hay cười, cùng đi một đợt với anh ấy. Cách đây hai ngày anh và các bạn anh đã mai táng cho Kiệm cùng hai người nữa. Riêng Kiệm, thật thương tâm - thi hài cậu ấy chỉ là một mảnh áo...

Cứ qua một đợt đơn vị lại vơi đi. Rất có thể ngày mai trong số vơi đi tiếp theo sẽ có anh. Nhóc vẫn hay giễu cợt, rồi lại bào chữa cho tính hay bịa đặt của anh. Nhưng trong những điều anh sẽ nói sau đây - em phải tin và đừng hỏi lại nhé. Trong khoảng thời gian thuộc về mình này sao anh nhớ Hà Nội, nhớ đêm trước mấy ngày nhập ngũ của anh - nhớ đến cồn cào. Tên chị ấy là đêm. Thật may mắn cho anh làm sao, vì như thế lúc này anh có cảm giác như chị ấy đang đứng ở đâu đó rất gần anh thôi. Cô bé có vầng trán thẳng dưới mái tóc hất ngược về phía sau... Vầng trán và đôi mắt - mỗi lúc nhớ lại anh không khỏi liên tưởng đến những đám mây trắng, thứ mây vẫn thảnh thơi bay trên bầu trời, trong những sáng hè yên tĩnh...

Nếu ngày nào đó anh hỏi địa chỉ thì trong từng ấy năm anh đã có thể biết được những gì đã đến với "cô bé" của anh. Giờ đây nếu sau trận pháo này - anh có mặt trong số vợi đi, thì nghĩa là cuộc gặp gỡ sẽ không bao giờ có. Luật sư sẽ bào chữa cho anh thế nào nhỉ? Anh đã chia tay không hề tìm cách biết thêm ngoài một đôi điều chị ấy đã nói, và cũng không hề tỏ ra cần biết tiếp về những gì sẽ đến với chị ấy. Ðêm trôi qua dưới một vầng trăng màu đỏ, dòng người đổ đi vô tận qua các ô, lời kêu gọi của Gớt Hôn... Những ngày tháng dữ dội và khốc liệt đã bắt đầu, vậy mà tại sao anh lại chia tay với Miên như chia tay một cô bạn cùng phố - hết hè rồi sẽ gặp lại. Tại sao thế?

Nhưng thôi tìm cách giải thích những trạng thái tâm lý để làm gì. Tất cả đều kỳ lạ... chỉ chút nữa thôi mặt đất sẽ rung chuyển vì pháo của bọn anh và pháo của bọn nó, vậy mà, Nhóc có tin không - anh nghe thấy cả tiếng cá quẫy đấy. Anh đã để hụt nó. Lúc ấy em thở dài mới khiếp chứ. Lại còn bực lây với cả Gớt Hôn. Con cá hẳn không nhỏ. Nhưng anh có thể chú ý được đến điều ấy chăng - khi mà, trong cái dáng đang vươn về phía trước, chị ấy sao mà giống như bông hoa loa kèn ở góc vườn đến lạ lùng?

Bông hoa vươn thẳng, hắt một tia sáng trắng dịu lên vầng trăng đỏ ối - lúc này đây - giữa không gian khét lẹt và nóng bỏng, anh đã gặp lại hình ảnh này..."

*

* *

Ðọc tới đây, Vịnh ngừng lại. Anh để tập bản thảo xuống bàn, nơi từ đó đang vang lên tiếng con sâu nghiến vào gỗ kèn kẹt, rồi đưa tay lên xoa mãi vào trán và mắt.

Cái đêm ấy - trong cuộc chiến tranh vừa qua, phải chăng niềm tin ở mỗi chúng ta đều dựa trên những điểm tĩnh đầy thơ mộng như thế, và với niềm tin đó chẳng có sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi? Mọi người trong phòng im lặng. Họ đang theo đuổi ý nghĩ gì?

Phần mình, tôi nghĩ chỉ thấy trước mặt một đầm nước rộng mênh mông, bên đầm nước - trong yên tĩnh đầy tin cậy giấc ngủ hồn nhiên của cậu Luật sư và Miên. Làm sao không ngủ được khi vì sao của Lai đã rụng - Khuya lắm rồi... Làm sao không ngủ được khi hai tiếng "đừng sợ" đầy trìu mến đã cất lên? Bên giấc ngủ thật sâu của bông hoa và cậu bé ấy - Lai có biết rằng anh đã thực sự lên đường?

Nhưng kia - có tiếng chân ai vang lên ngoài hành lang... Tiếng dép kéo, rồi tiếng gì đó khua rủng rẻng. Cửa phòng bật mở - và người thường trực của cơ quan xuất hiện với chùm chìa khóa to tướng.

- Chà, các vị - Giọng ông cáu kỉnh. Sao giờ này mà chưa gửi chìa khóa? Bộ không cho người ta ăn cơm nữa sao? Họp thì phải báo trước chứ!

- Xin lỗi bác, chúng tôi có chút việc.

Nở một nụ cười xin lỗi với người thường trực, Vịnh quay sang mọi người:

- Chúng ta về thôi chứ nhỉ?

- Kẻng hết giờ lúc nào mà không nghe?

Trong tiếng ghế xô, tiếng chân bước và tiếng cặp lồng va chạm, anh cán bộ đời sống nói to, hẳn cố ý để người thường trực nghe thấy. Ðúng vào lúc này, chuông đồng hồ của thành phố điểm sáu tiếng.

- Ðúng là ngày tháng mười. Mới sáu giờ mà đã tối là tối.

Trên dãy hành lang, lặng tanh vẫn tiếng anh cán bộ đời sống vang lên.

- Cậu về đâu? Ði bên tôi Linh khẽ hỏi.

- Cuối phố Huế - Tôi trả lời chị.

- Xa nhỉ. Mà cậu có gần chỗ bị bom không? Buồn cười, ngày mới lấy nhau "ông nặn tượng nhà mình" cứ lôi mình đến đấy suốt. Chả là dạo đó bạn bè anh ấy đang đắp phù điêu. Về sau nghe đâu người ta đã bỏ nó.

- Phù điêu là gì? - Sự chen vào.

- Phù điêu trên bức tường của phố Huế - Anh không biết à? Linh hỏi lại Sự.

- ờ, ờ... mình là dân ngoại thành.

- Các vị nhanh chân lên một tý để tôi còn khóa cầu thang. Cơm canh nguội tiệt rồi!

Người thường trực lúc này đã xuống đến bậc thang cuối cùng - ông ta khua nắm chìa khóa lên và giục giã.

Cả mấy người chúng tôi cùng vội vàng rảo bước. Và trong sự vội vàng đó. Linh đã không nhắc lại câu chuyện về những phù điêu ở phố tôi. Thật may cho tôi, vì chính tôi - tôi cũng không hề biết những phù điêu ấy có còn hay không.

Hà Nội - Những ngày áp thấp

Tháng 11 năm 1981

--------------------------------------------------------------------------------

(1) Khi đế quốc Mỹ ném bom Hà Nội và Hải Phòng ngày 16-4-1972, đoàn đại biểu Ðảng Cộng sản Mỹ lúc đó đang ở thăm nước ta đã ra lời kêu gọi này gửi nhân dân Mỹ.

Cõi linh

Lê Công

Ẩn dưới chân núi Liang, dãy núi chạy dài theo bờ biển đến đây thì ăn ra tận ngoài khơi, chia thành nhiều đảo nhỏ. Làng Trẻn trông như một con hổ xám khổng lồ không hề khuất phục trước những cơn đổ lửa của mặt trời thiêu đốt hoặc những trận cuồng phong của bão biển. Về mùa hè dân làng Trẻn còn phải chịu những cơn gió tây nóng rát chỉ còn chui vào bụi rậm mà nằm thoi thóp.

Như vạn vật sinh ra trên đời, hắn có một cái tên: thằng Lù. Lù là lù mù, lờ mờ. Mẹ hắn bảo thế. Chẳng biết cha hắn vì bất đắc dĩ sinh ra hắn hay vì lẽ gì mà gọi hắn là Lù. Mọi đứa con sinh ra trên cõi trần đâu phải đều có chủ định. Lù luôn luôn tự hỏi mình là ai? Nguồn gốc của mình như thế nào. Tại sao cha mình không kể cho mình biết?

Bất chấp nắng gió. Lù lớn lên như một mãnh hổ. Da dần sùi như da trâu. Tóc quăn tít. Trán đóng chữ thập mỗi khi nhướn mày lên. Môi cắt ra có thể làm được một bữa nhậu. Lưng hắn như tấm phản. Giọng nói ồm ồm như nước chảy vào thùng rỗng. Hắn đi đứng khệnh khạng. Mặt lúc nào cũng cúi gằm xuống đất.

Âm điệu giọng nói của Lù cũng như âm điệu giọng nói của làng Trẻn chính là do ăn mắm. Làng này có cái lạ, cá mú để ươn bao giờ cũng đắt hơn cá tươi. Những người dân chài đến bán cá thường ngạc nhiên về dân làng Trẻn chọn mua những con xể ruột. Làng Trẻn làm nước mắm hoàn toàn khác với dân vạn chài. Họ mua cá ươn, ướp muối rồi bỏ vào vại. Dùng một tấm đan tròn bằng nứa ép lên trên, dằn đá rồi phơi ra nắng. Họ đặt chính giữa một cái ống nứa gọi là "lù" để chắt nước mắm ra ăn mỗi ngày. Nhà nào cũng có một vại mắm để trước sân. Những ngày đẹp trời vạn chài được cá thì làng Trẻn cũng sặc mùi nước mắm. Mùa đông hoặc những năm mất mùa cá, làng Trẻn còn muối cả chân trâu, lợn, gà làm mắm. Bây giờ vạn chài sản xuất đủ loại nước mắm kể cả mắm viên nhưng làng Trẻn chỉ thích ăn thứ nước mắm do chính tay mình muối. Thứ nước mắm mà Lù nhớ mãi, khi thả miếng thịt lợn luộc vào bát nước chấm mới chắt từ vại ra, lật qua lật lại cho mắm thấm đều vào mỗi thớ rồi thả tõm vào miệng nhai ngồm ngoàm đến đâu, chất béo trộn với vị đậm đà của mắm tan vào lưỡi ngất ngây đến đó.

Hết chiến tranh, ông Sáng, cha của Lù trở về cày ruộng nuôi con. Với ông cuộc sống đã an bài. Tương lai chỉ nhìn vào người con trai đã lớn. Nhưng thằng Lù con ông thật lạ lùng. Ba tuổi, nó đã cào em chảy máu. Năm tuổi, nó cắn bạn cùng lớp đứt thịt không gớm mồm. Mười tuổi thì bơi với con Xuân, một con bé "mò cua bắt ốc" nổi tiếng bơi giỏi của làng. Hắn không bơi mà lặn xuống đáy sông tụt quần con Xuân rồi lên bờ ngồi, làm con bé khóc sướt mướt về mách cha mẹ nó. Ông Sáng buộc phải đến trực tiếp gặp thầy Nho, chủ nhiệm lớp bốn, nhờ kèm cặp cho Lù. Ðược ba bữa, thầy Nho đến bảo: "Thằng Lù lười học lắm. Lúc nào cũng chực ngồi, chực đứng, chực đi. Bài vở chẳng chịu làm". Ông Sáng dùng roi mây quất nó và bảo:

- Muốn nên người thì phải học hành tử tế!

Thằng Lù vẫn không chịu học. Chữ như gà bới, viết trang sau, xé trang trước. Vở lúc nào cũng nhàu nát. Nghe thầy Nho bảo, mặt hắn vằn lên những đường gân trắng. Chữ thập ở trán sâu hoắm. Môi hắn trề ra quá cằm. Ông Sáng quát: "Mày muốn đi học hay đi cày?". Hắn bảo: "Ði cày!".

Ông Sáng bắt Lù mỗi ngày phải cày một thửa ruộng. Hắn hỏi một người làm thế nào để điều khiển được bò. Người ta bảo: "Phải hô "tắc, hò, rì". Hắn bảo: "Tắc, hò, rì là cái quái gì?" Xem người ta cày, hắn thấy "tắc, hò, rì" chẳng qua là bắt con bò rẽ phải, trái, và đi thẳng. Hắn bảo: "Gọi cha nó phải, trái, tiến cho xong". Hắn liền đập bò ra ruộng và cứ hô: "Phải, trái, tiến!". Con bò chẳng biết đi đường nào. Hắn liền dùng roi vọt quất vào mông con bò hằn lên những con chạch. Con bò đau quá bươn thẳng, kéo cả cày lẫn người ngã chổng khoèo. Cày thì gãy mà hắn thì bị sái chân. Hắn bò dậy nắm lấy dây thừng lần tới cái "trẹo" bằng ngọn hóp xuyên qua sóng mũi bò, giật mạnh làm con bò đứng ngắt.

- Tao phải sống mái với mày!

Hai tay hắn cầm lấy hai sừng con bò, chân cố gắng bám vào mặt đất. Lấy hết sức bình sinh, hắn vặn cổ con bò. Chú bò thuần mới đầu tưởng thằng bé giỡn chơi. Ðến khi đau quá chú mới lật lại, húc vào thằng bé. Con bò và Lù đẩy tới đẩy lui. Biết mình không thắng nổi, hắn tháo lưỡi cày xỉa mạnh vào đầu con bò, bị trúng thóp bò quỵ xuống sùi bọt mép, đến đêm thì chết.

Trước khi xử tội Lù, ông Sáng hỏi hắn một câu:

- Mày không chịu học, cũng không biết cày ruộng, thì mày định làm gì?

- Ði săn!

Ông Sáng giật thót mình. Ðiều ông chôn chặt bấy lâu bỗng bùng dậy. Ông đã thường kể chuyện với con về sự trả thù của các loài thú. Ông đã nhắc đi nhắc lại với con trai hàng trăm lần rằng: "Thú rừng cũng như người, chúng ham sống. Chúng cũng biết đau, biết giận và biết căm thù". Thế mà Lù không chịu nghe, bây giờ hắn lại hoác mồm ra bảo muốn đi săn...

Ðể trừng trị tội giết chết con bò mộng và đề phòng Lù bỏ trốn lên rừng, ông Sáng trói hắn vào cột nhà. Hàng ngày bảo mẹ hắn chỉ cho ăn một bát cơm, một ngày thả ra vài phút cho đến lúc nào hắn chịu thề hai điều: Một là không gây tội ác đối với bất kỳ một con súc vật nào trong nhà. Hai là cấm không được đi săn. Ðến ngày thứ mười hắn vẫn không chịu thề. Người hắn gầy rộc chỉ con da bọc xương nhưng mắt hắn vằn lên tức tối. Cuối cùng ông Sáng phải thả hắn ra mặc dù hắn câm miệng. Tuy vậy ông dọa hắn nếu mò vào rừng thì ông sẽ chém. Nhưng chẳng bao lâu Lù đã biến khỏi làng.

*

* *

Ông Sáng bảo vợ chuẩn bị tay nải để ông lên đường đi tìm con trai. Ông biết chắc chắn thế nào thằng Lù cũng đi tìm hổ-loại thú dữ được mệnh danh là chúa rừng xanh để đối chọi. Ông Sáng mang một bao tượng gạo, một ống muối mè. Mè của ông làm rất công phu. Rang giòn tỏa ra mùi thơm phức, cho vào cối bằng gỗ ổi giã. Gỗ ổi cứng hạt vừng bị chà xát biến thành bột mịn thả vào lưỡi tan ngay. Muối ông cũng dùng loại muối kết tinh bằng hạt đậu sáng lấp lánh, rang khô nổ lép bép, giã nhỏ trộn với mè thật đều, mỗi ngày chỉ cần ăn hai muỗng mè là đủ chất. Ông Sáng quyết định đi về phía rừng Liang.

Rừng Liang bây giờ cũng ít cây cối. Thú dữ vẫn còn nhưng ít hoạt động. Ông Sáng đi vào khu rừng mà cha ông chết ở đó. Ông lấy hương ra thắp. Bó hương bỗng cháy vụt lên thành một ngọn lửa. Trong ngọn lửa đó hiện lên mặt người đàn ông không có mắt. Bộ mặt bị cào cấu, vết máu đen lại khô cứng. Ông Sáng cố trấn tĩnh xem hình ảnh đó là thật hay mình tưởng tượng ra. Phải rất lâu bộ mặt đó mới biến mất.

*

* *

Hồi ấy ông Sáng mười tuổi. Ngoài nghề trồng trọt, trai làng Trẻn còn nghề đi săn. Lão Mơ, cha đẻ của ông Sáng là một tay bắn cung thiện nghệ. Mỗi cuộc đi săn dù trai làng thất bại lão vẫn hạ được con nai, con đỏ, chưa bao giờ chịu về tay không. Mỗi mùa săn lão hạ được vài chục con thú.

Những con gấu chó khỏe như Min, lão chỉ cần bắn một phát tin tim. Thợ săn làng Trẻn hiếu thắng nhất vùng. Họ tôn vinh lão Mơ làm thủ lĩnh. Vũ khí bấy giờ chỉ là tên, nỏ. Lão Mơ có cây nỏ siêu hạng, cánh cung bằng giang già. Dây cung bằng da Min do ông nội Sáng làm khi ông săn được con Min lớn nhất rừng Liang. Những thợ săn khác khó lòng mà giương nổi cung của lão nhưng lão Mơ chỉ giương một cái là được ngay.

Ðể truyền nghề cho con trai, lão Mơ cho Sáng đi vào rừng mỗi chuyến săn. Khi đội săn đuổi theo những mãnh thú thì Sáng tìm những con nai tơ, đùa giỡn với chúng. Bỗng một con hổ vằn xám xuất hiện. Hai mắt nó mở to nhìn Sáng. Những chiếc răng nanh của nó như lưỡi cuốc chim. Sáng lạnh toát người chỉ biết đứng nhìn chằm chằm vào mắt hổ. Con hổ bỗng quay đầu bỏ đi. Sau này Sáng mới nghe dân làng kể, loài hổ rất sợ ánh mắt người nhìn vào mắt nó.

Mùa săn năm ấy lão Mơ quyết tâm hạ con hổ vằn xám chuyên đi mây về gió. Tiếng gầm của nó làm đám thợ săn hạ đẳng sợ vãi linh hồn. Những tay thợ săn nổi tiếng nơi khác đều không dám động đến nó. Họ bảo rằng nếu bắn con hổ xám vằn thì không những mạng phải đổi mạng mà con cháu sau này cũng phải gánh chịu hậu quả vì sức mạnh của "ông ba mươi".

- Tại sao phải giết nó hở cha? - Sáng hỏi.

- Vì nó là chúa tể của muôn loài, ta phải giết nó mới trở thành người hùng làng Trẻn.

Lão Mơ không sợ hổ, tuy vậy cũng không dám giáp mặt nó. Lão phải dùng mẹo. Sau một tháng dò dẫm đường đi lối về của hổ xám vằn, lão bắt đám thợ săn đào gấp gáp một cái hố sâu chừng thước, rộng vừa đủ để con hổ rơi gọn xuống hố. Lão cắm dày đặc chông tre, thứ tre già, vàng hươm, đặc ruột, lão vót nhọn, khắc ngạnh để khi đâm vào là không rũ ra được. Sau đó lão đậy miệng hố bằng những cành khô, mục, dễ gãy, phủ lá rừng lên mặt không để lại dấu vết. Sáng nói:

- Con tưởng người hùng là tay không bắt hổ như Võ Tòng chứ cha?

- Thằng nhãi này, con người hơn con thú là biết dùng mẹo chứ! - Lão Mơ quát.

Con hổ vằn đi mây về gió gần nửa tháng thì trúng bẫy. Nghe tiếng gầm gào xé, đau đớn của con hổ, lão Mơ nhảy lên sung sướng. Lão dẫn Sáng tới xem. Con hổ sau khi vùng vẫy tìm cách thoát nạn đã bị chông tre đâm dày đặc lên mình. Nó kiệt sức đang nằm thoi thóp. Lão không manh động, mà trở về làng gọi đám thợ săn. Tất cả phải mang theo cung nỏ. Ðến nơi, lão hết sức ngạc nhiên không hiểu con hổ bị trọng thương ấy làm cách nào mà thoát khỏi hố sâu, chỉ để lại một vệt máu dài trên đất. Lão Mơ lần theo vết máu lùng tìm con hổ. Sáng níu lấy tay cha bảo: "Tha cho nó đi cha!". Lão Mơ trợn mắt: "Ðồ nhãi biết gì. Xéo! Khỏi vướng chân!" Lão Mơ xô Sáng ngã rồi lò dò quan sát xung quanh khi đã mất vết máu, chợt giật mình khi thấy trong đám lá của mấy cây rừng thấp lè tè, đôi mắt con hổ vằn xám đang mở trừng trừng nhìn lão. Lão ra hiệu cho đám thợ săn dàn hàng ngang, giương cung về phía con hổ.

- Nhằm vào nó, bắn!

Tiếng hô vừa dứt. Tên bay rào rào. Bỗng một luồng gió mạnh hơn bão táp ùa về phía lão Mơ, xô lão ngã xuống. Con hổ với sức bình sinh đã phóng ra chính xác đến kinh hãi, hai cặp móng trước móc vào đôi mắt lão Mơ. Cặp vuốt sau cặp vào xương chậu. Lão Mơ vật vã nhưng không thể thoát ra được. Con hổ đã chết khi vồ được lão Mơ vì ngấm thêm thuốc phát tên hiểm của lão. Ðám thợ săn cố hết sức lôi xác hổ ra khỏi lão. Bộ vuốt trước đã móc sâu vào mắt lão vì vậy khi kéo ra hai tròng mắt lão cũng phọt theo. Bộ móng sau cào gãy bốn cái xương của lão. Sáng lao tới ôm lấy lão khóc: "Cha!"...

- Bảo đám thợ săn moi tim con hổ cho ta ăn! - Lão Mơ thét lên. Ðám thợ săn cố hết sức moi tim hổ nấu cao. Một tay thợ săn lấy bộ móng treo trong nhà để răn đe con cháu bỏ nghề đi săn. Sáng vẫn trong trạng thái mộng mị. Cậu không ngờ rằng cha cậu lại chết đau đớn như vậy.

Hàng đêm sau đó, Sáng cứ nghe tiếng hổ gầm ngoài mộ cha. Con hổ cái đánh hơi về làng. Dân làng kinh hãi không ai dám ra khỏi nhà. Khi không nghe tiếng hổ nữa, mọi người ra thăm thì mộ lão Mơ bị bới tung. Xương thịt tanh bành, vương vãi khắp mọi nơi. Con hổ cái đã trả thù lão đến tận cùng. Dân làng lượm lặt từng mẩu xương, cất cho lão ngôi mộ khác. Từ đấy làng Trẻn bỏ nghề đi săn...

*

* *

Gần một tháng, hết lội rừng lại đến các bản làng ven sườn núi để hỏi tin tức về thằng Lù, ông Sáng vẫn chưa gặp được nó. Ông chỉ biết rằng con ông đang lao vào một cuộc mạo hiểm. Ðến đâu cũng nghe dân làng kể về đội săn của thằng Lù giết quá nhiều thú rừng. Chúng nó bắn bất kỳ con thú nào chúng gặp, lột da, nhồi bông đưa về thành phố bán. Nhiều đứa đã làm giàu nhờ săn gấu, hươu, nai và khỉ. Có tên bắn chết cả con tê giác quý hiếm. Có người kể, thằng Lù giết thú không gớm tay, không phải vì lợi mà để thỏa mãn tính ngông cuồng, khát máu của hắn. Hắn còn bảo phải giết được chúa tể của rừng xanh bằng một phát súng trường. "Phải ngăn chặn hắn". Ông Sáng lẩm bẩm.

ở một hẻm núi phía Tây rừng Liang nơi Lù cắm trại, Lù đang xách khẩu súng trường ra ngắm nghía. Già làng ở Krông-Knô kể, có con hổ xám thỉnh thoảng qua lại nơi đây, lúc ẩn, lúc hiện như một bóng ma. Lù không cho bất kỳ một tay thợ săn trong đội theo. Hắn muốn một mình sống mái với con hổ. Lù chuẩn bị súng ống thật cẩn thận. Loại súng trường hắn dùng là thứ vũ khí từ thời chống Pháp. Súng này chỉ bắn từng viên một. Bắn được rất xa và chính xác. Nhồi đạn vào súng, hắn đi ra khu rừng nơi già làng bảo con hổ thường đi qua. Hắn tìm một chỗ tương đối an toàn, thuận tiện, phục chờ.

Màn đêm bắt đầu buông xuống với núi rừng Liang. Từng lớp sương mờ ở đâu xuất hiện rất nhanh trong các bụi cây. Rừng ở đây khác hẳn rừng nơi khác mà Lù đã đến là quá nhiều vắt. Buổi chiều Lù đã chuẩn bị hai hộp dầu cù là. Loại dầu này bôi vào chân làm vắt sợ mùi không dám bám. Hễ hết mùi là vắt lại bám chặt rứt không ra. Ðêm ở đây cũng dày đặc hơn. Mặc dù đã chuẩn bị đèn săn, loại đèn pin chóa to, xài đến sáu cục pin vị chi là chín vôn nhưng tầm soi vẫn quá ngắn. Nếu con thú xuất hiện ở xa thì cũng khó nhận ra.

Bỗng có tiếng gió ào ào rồi lá rừng xào xạc. Lù nghĩ chắc con hổ đang đến. Hắn không bật đèn vội mà căng tai ra nghe ngóng. Tuy trời tối nhưng mắt hắn cũng nhìn được trong phạm vi bán kính vài mét. Quả thực có tiếng quất vun vút trong gió. Ðúng là hổ rồi. Lù để ý xem nó đi từ hướng nào. Cố gắng đoán định thật chính xác rồi bấm đèn pin. Bấy giờ khoảng cách chừng mười thước, một con hổ xám hiện lên. Nổi bật là đôi mắt đỏ, chói sáng của nó. Con hổ dài độ mét bảy, to lớn, dữ dằn. Vằn xám của nó chạy dài tới đuôi. Con hổ rất manh động vì vậy Lù phải nằm yên chờ cơ hội giương súng lên chĩa vào giữa hai đốm sáng màu đỏ. Loài thú này phải hết sức bình tĩnh, để nó thấy súng nó sẽ bỏ chạy và khó có thể gặp nó lần thứ hai. Cuối cùng thì Lù cũng đã nâng được súng lên.

- Ðòm!

Phát đạn của Lù xé toạc không khí. Con hổ ngã xuống nhẹ tênh khiến Lù cũng ngờ vực. Chẳng lẽ mình bắn "tin" đến như vậy sao. Lù phải leo lên cây, bấm đèn pin xuống quan sát. Ðúng là con hổ đã chết nằm bất động. Nhưng sao hình dạng của nó quái lạ thế kia. Lù nhảy xuống đất lò dò tới gần. "Ma quỷ gì thế này!". Hắn thấy lạnh cả gáy. "Người!" Ta đã bắn nhầm người. Hắn định tìm cách phi tang nhưng vừa chạm vào hắn đã bủn rủn cả chân tay. "Trời ám hại ta rồi. Cha ơi!...".

Ông Sáng bị bắn xuyên ngực trái, ra nhiều máu và kiệt sức, Lù dìu cha về trại. Sau khi cứu chữa cho cha, hắn đưa ông về làng. Lù bây giờ đã chịu cày ruộng. Làng Trẻn sản xuất nhiều gạo tám thơm. Họ lại mua cá ươn vạn chài làm nước mắm. Làng xóm thanh bình. Ông Sáng bây giờ đã già yếu. Chỉ có Lù là khỏe như vâm. Tấm lưng trần luôn bóng nhẫy. Cơm ăn ba đọi, nước chè mọi uống ba vò. Hắn đang là trụ cột của cả nhà.

1995 - 1997

Con Gấu

Nguyễn Quang Huy

Nàng là một cô gái ngoại thành, con nhà trồng hoa. Từ ngày lên thành phố ở, nàng không trồng hoa nữa, nhưng vẫn rất yêu hoa. Hình như mỗi một loài hoa, đều mang một phần cái hồn trinh nữ của nàng, mong manh, e ấp, mộc mạc, thấm đẫm hương đồng nội. Nàng hay đi chợ và mua hoa lúc chín, mười giờ sáng, lúc ấy mới có hoa tươi vừa cắt ở vườn, chứ còn đi sớm quá, có khi lại là hoa từ chiều qua. Nàng chẳng lầm giữa hoa tươi và hoa cũ, nhưng nàng không muốn nhìn thấy vẻ rầu rĩ của những bông hoa hái qua đêm. Còn những bông hoa mới cắt xong, ngay hít thở cái mùi hương dịu lành của nó, cũng thấy thơm mát vào tận da, và nước từ cuống hoa rịn ra nơi vết dao cắt, cũng thoáng làm nàng chạnh nhớ một thời trinh bạch đã qua...

Nàng đang vừa mải chọn hoa, vừa nghĩ, thì cảm thấy có một cái gì mềm mại cọ cọ dưới chân mình. Nàng nhìn xuống, và mừng rỡ thốt lên:

- Ôi! Gấu! Sao mày lại ở đây hả?

Con chó - Gấu là tên nó - ngước cái mõm đen mượt hít hít tay nàng, và nàng cảm thấy cái lưỡi mềm ấm của nó rụt rè, chứ không vồn vã như mọi khi.

- Sao lâu lắm rồi, mày không đến chỗ chị? Thôi nào, đợi chị chọn mấy bông hoa nữa, rồi thì về...

Nàng vỗ nhẹ mấy cái lên đầu nó, rồi chọn tiếp. Con Gấu quanh quẩn đi theo.

Nó là một con chó Mẹo to, đậm. ức nở, cổ lực lưỡng, vai tròn, xuôi xuống phía lưng. Mõm ngắn, hàm khỏe, với hàm răng sắc, nhọn và đều. Mắt nó mầu đen, giống như mầu cánh của con bọ sừng, có cái nhìn lung linh mầu hổ phách. Ðuôi nó cụt ngủn, toàn thân phù hợp với lớp lông đen dày, vừa cứng vừa mềm mại. Trông nó hệt như một con gấu và có bản lĩnh của một con gấu: những cử động từ tốn và điềm tĩnh, chắc chắn và uyển chuyển.

Nàng đã chọn xong hoa, bảo:

- Về đi, Gấu ơi!

Con chó đi cách nàng vài bước, lững thững chứ không có vẻ tung tẩy, ra chiều đang nghĩ một điều gì đó.

Ðến một tòa nhà to, ở tách biệt, nàng mở cổng, rồi mở cửa bước vào. Con chó đứng ngoài cửa, không vào theo. Nàng lắc đầu, bảo:

- Vào đi, Gấu! Không có ai đâu! Ðây này...

Và nàng mở toang cửa chính, cửa sổ, rồi ngồi xuống một chiếc ghế bọc đệm nhung mầu mận chín. Con Gấu chậm rãi đi đến cạnh nàng, ngồi xuống, áp cái mõm của nó lên đùi nàng, mắt lim dim.

Nàng đưa bàn tay mềm mại, thơm tho kê dưới mõm nó.

- Chủ mày có khỏe không? Sao lâu nay không thấy mày đến chơi với chị? Chị buồn lắm, Gấu ơi!

Hình như cái giọng nghèn nghẹn của nàng làm con Gấu chợt run rẩy. Nó thè lưỡi liếm lòng tay nàng, ngọ nguậy cái mõm.

- Mày thương chị, phải không, Gấu? Sao dạo này mày gầy vậy? Chắc chủ mày vất vả lắm phải không?

Con Gấu vẫn nhắm mắt, chỉ có cái tai hơi động đậy, và thỉnh thoảng nó lại thoáng rùng mình nhè nhẹ.

- Thôi, để chị đi lấy cái gì cho Gấu ăn nhé! Ngồi đây!

Nàng đứng dậy, xuống bếp, mang lên một cái bát to cơm, canh và mấy miếng thịt quay - cái món mà Gấu thích. Nhưng, Gấu không ăn ngay. Nó cứ ngồi như thế, ngước mắt nhìn nàng.

- Gấu cũng nhớ chị à? Hay muốn nói điều gì với chị? Thôi nào ăn đi đã...

Con Gấu nhởn nha ăn. Hai chỗ hõm ở hông nó phập phùng. Nàng thích cách ăn của con Gấu, biết rằng nó ít khi được ăn ngon. Bàn tay mềm mại của nàng đang vuốt dọc lưng con vật, bỗng dừng lại. Một nỗi buồn cứ từ từ dâng lên, đầy ắp trong nàng, rồi những giọt nước mắt cứ lần lượt ứa ra, nhỏ xuống bát cơm của con Gấu... Con Gấu làm nàng nghĩ đến chủ của nó, và thân phận của mình. Cứ thế, nàng lặng lẽ khóc...

*

* *

Chủ của con Gấu, một anh giáo trường làng, mồ côi bố, ở với mẹ bệnh tật. Và nàng, một cô con gái nhà trồng hoa ngoại thành, xinh đẹp nết na, thi không đỗ đại học. Ðã có một thời, họ sống thật hạnh phúc với nhau dưới mái nhà vá víu bằng đủ mọi thứ vật liệu. Chàng dạy học trường làng, nàng trồng hoa. Một mảnh đất nhỏ thôi, nhưng cũng đủ cho một gia đình sống đơn giản và ấm cúng. Sáng sáng, nàng dậy sớm, cắt hoa mang đi chợ bán. Con Gấu đưa chân nàng đến tận đầu làng, mãi khi nàng bảo:

- Thôi Gấu, đi về trông nhà đi!

Con Gấu dừng lại, đứng nhìn theo mãi cái dáng đi mềm mại của cô chủ, đến khi nó chỉ còn là cái bóng mờ mờ, rồi phi một mạch về nhà. Cũng đôi lần, nó lặng lẽ theo nàng đến tận chợ. Nàng mua cho nó mấy miếng dồi lợn, gói bằng một nửa tàu sen. Nó nằm, thong thả nhai từng miếng vẻ khoái trá, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn cô chủ nó đang bán hoa cho khách...

Cuộc sống của nàng, có lẽ cứ lặng lẽ trôi đi, nếu bàn tay của tạo hóa không bày ra những trò cay nghiệt để thử lòng dạ con người. Ðầu tiên, là lấy nhau hai năm rồi, nàng vẫn chưa có một mụn con. Theo lời thầy thuốc ở bệnh viện, thì lỗi ấy do chồng nàng. Họ nội của chàng, ba bốn đời chỉ có một con trai. Thôi thì, có một con trai hay một con gái cũng được! Nàng an ủi chồng vậy. Chút tiền bán hoa ít ỏi, đắp cả vào việc nuôi mẹ chồng và chạy chữa cho chồng, nàng cũng chẳng hề kêu ca. Nhưng, hình như trời không thương nàng, cố tình phụ công nàng. Ðã có lúc, chồng nàng bảo:

- ở với tôi, mình khổ đã đành, lại uổng một đời con gái. Hay là...

Nàng hốt hoảng:

- Hay là... sao...?

- Hay là... mình kiếm lấy một đứa con để nuôi. Là con của mình... Người ta nói con gái có thì...

- Anh bạc lắm! Nàng khóc.

Nhưng cái thực tế phũ phàng, cay nghiệt kia, nàng đã lờ mờ cảm thấy, song từ lâu, nàng cố coi như không có nó. Nay cả chồng và mẹ chồng đều nhắc đến, thì nó lại hiện diện, rõ rệt, tàn nhẫn, lý trí yếu ớt của nàng làm sao chống lại nổi. Và, nàng mặc cho nó dày vò mình. Nàng sống như một người chết đuối vớ phải một mảng bèo, liền bám lấy nó và để mặc cho dòng nước dữ cuốn đến đâu thì cuốn. Thôi thì, trăm sự nhờ vào may rủi...

Cho đến một hôm, nàng đi chợ bán hoa như mọi sáng...

- Hoa tươi quá... Chỉ tiếc người hơi héo! Có bán cả không em?

Nàng chợt ngẩng lên, toan mắng người ấy, thì nhận ra người làng.

- Tưởng ai, ra anh!

Rồi nàng nhoẻn cười. Một bên má lúm đồng tiền.

- Sao lâu rồi, không thấy anh về làng?

- Còn ai nữa mà về! Còn em, thì em... Dạo này, sao em khác quá!

- Vừa già, vừa xấu...?

- Cũng có gầy đi, trông vất vả hơn. Còn xấu thì... Em vẫn đẹp như trước, có khi còn duyên hơn...

Thoáng chút hồng trên má nàng. Nàng hơi cúi mặt xuống, cắn cắn môi dưới.

- Nhà anh gần đây, em đến chơi! Tiện thể, chọn cho anh một ít hoa và cắm bình hộ anh!

- Em còn phải bán nốt, kẻo héo mất.

- Nhanh thôi mà. Em đến cho biết nhà... Ðưa anh gánh cho.

Nàng không có lý do để lưỡng lự, gánh hoa đi theo người đàn ông ấy. Mà, nàng đã đến cái nhà mà bây giờ nàng đang ở. Còn người đàn ông ấy, chính là chồng nàng bây giờ.

Cho đến bây giờ, nàng cũng không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường như thế nào, mà nàng lại rơi vào cái nhà này, lại chấp nhận làm vợ anh ta. Anh ta không gài bẫy nàng. Anh ta chỉ nói thẳng với nàng những đề nghị của mình, với sự tính toán trần trụi, chính xác và chí lý. Em còn trẻ, lại đẹp, lại nết na. Em lấy anh giáo làng, nghèo kiết xác, lại mẹ già, đau ốm luôn, không hy vọng gì ở đường con cái. Bây giờ, thì em còn có thể chịu đựng được. Nhưng dăm ba năm nữa, ở hoàn cảnh ấy, em sẽ già rất mau. Em sẽ xấu xí, sẽ nhăn nheo như một bà cụ già, người sẽ héo quắt đi. Như vậy, có ích gì cho em, và cũng chẳng ích gì cho mẹ con người ta. Rồi cuộc sống túng quẫn liệu có giữ mãi được cái tươi vui của gia đình hay không? Còn em ở với anh, nhà này là của em, của các con em. Tiền anh kiếm được cũng là của em, em toàn quyền quản lý, chi tiêu. Em sẽ chẳng phải làm gì cả, chỉ đi chợ cơm nước, quán xuyến nhà cửa giúp anh...

Không phải anh ta nói một lúc tất cả những điều ấy trong lần đầu tiên nàng đến nhà anh ta, mà là nói dần dà trong những lần sau, mỗi khi nàng đi chợ bán hoa và anh lại mời nàng đến nhà. Anh ta cứ nhẩn nha, ung dung, tự tin mà đi đến cái đích của mình. Giống như đêm tân hôn, người đàn ông cứ từ từ lột từng thứ quần áo trên người đàn bà. Dù người đàn bà có yêu người đàn ông ấy hay không, nhưng mặc nhiên cam chịu, hoặc thích thú. Sự e lệ, trinh bạch lúc ấy chỉ còn là một trò giả vờ cố ý... Nàng cũng vậy. Những lời nói của anh ta, lần lượt tước bỏ dần những dằn vặt, cái băn khoăn của nàng lần lượt dồn nàng vào cái thế phải chấp nhận. Nó không hẳn là tự nguyện, nhưng nàng lại không thể làm khác. Nó đúng, nhưng tàn nhẫn, khốc liệt và man rợ. Ngay cả khi anh ta ôm nàng, ghì riết thân hình nàng bởi một vòng tay mạnh mẽ, phả vào mặt nàng cái hơi thở hầm hập, gây gây của một giống đực, thì nàng cũng không còn một chút ý chí nào để chống cự. Cả người nàng mềm lả. Nàng nhắm mắt, chấp nhận cuộc hành quyết, để mặc cho cái cảm giác đau đớn, tủi hổ tràn vào, lấp đầy con người nàng với cường độ của những cơn xoáy lũ. Nàng hoàn toàn đầu hàng số phận. Nàng chấp nhận cái chết của kiếp sống này, để đổi lấy một kiếp sống khác, mà cũng chẳng cần biết nó sẽ như thế nào, mà giống như một sự giải thoát nhục nhã.

Nàng đổi kiếp sống mà không gặp phải sự ngăn trở gì nhiều nơi gia đình chồng cũ. Người làng có trách móc, thì nàng có bao giờ về đâu mà nghe. Ðến mẹ anh giáo mất, nàng cũng không dám về, dẫu nàng biết là nghĩa tử là nghĩa tận, và biết nếu vậy thì nàng là một con đàn bà khốn nạn. Nàng không đủ can đảm. Nàng chỉ khóc rấm rích và tự xỉ vả mình suốt những đêm sau đó. Sợi dây duy nhất nối nàng với quá khứ là con Gấu. Những ngày mới lìa bỏ ngôi nhà dột nát của anh giáo, nàng sợ gặp người làng, nhưng vẫn không thể không đi chợ mua hoa. Những đóa hoa tươi làm lòng nàng dịu lại. Nhưng một nỗi đau không tên cứ âm ỉ thiêu đốt nàng, mỗi khi nàng bước chân đến cái chợ quen thuộc. Rồi sự gặp gỡ với con Gấu. Nó ngạc nhiên lắm, khi nàng là người mua hoa chứ không phải là cô chủ bán hoa của nó. Chắc nó tìm nàng mấy hôm rồi, hôm nay mới gặp. Nàng bảo nó về nhà. ấy là lần đầu, nó bước vào cái ngôi nhà đồ sộ kia. Chắc nó ngạc nhiên tại sao cô chủ nó lại ở cái nhà này. Nó cứ ngồi im mà quan sát tất cả mọi đồ vật trong ngôi nhà với vẻ cảnh giác, sẵn sàng bỏ chạy hoặc tự vệ. Chỉ có thái độ của cô chủ cũ làm nó hơi yên tâm. Khi cô cho nó ăn xong, đang nói chuyện với nó, thì người chồng mới của cô chủ bước vào. Anh ta giật mình, lùi lại một bước:

- Con chó nhà ai đấy? Sao lại đưa nó vào nhà!

Cẩn thận đấy!

Nàng vỗ vỗ con Gấu:

- Chó nhà em đấy mà! à... Nhà trước. Không sao đâu, nó hiền lắm...

Con Gấu yên lặng quan sát anh ta, không tỏ thái độ gì. Nhưng khi anh ta vừa bước một bước đến phía nàng, nó liền nhếch mép, để lộ một khóe hàm răng trắng ởn. Nàng phải đưa tay ôm lấy đầu nó:

- Gấu, ngoan nào...

- Tốt nhất là tống ngay nó đi...!

Nàng nhíu mày, nhưng cũng đứng dậy, kéo con Gấu đi theo. Nàng mở cổng, ngồi xuống, nâng đầu con Gấu lên, nhìn sâu vào mắt nó:

- Thôi, Gấu về đi, về đi! Từ nay đừng tìm chị nữa! Nhớ chưa?

Cái động tác lắc lắc đầu của nàng và ánh mắt nàng chắc con Gấu hiểu. Nó đưa lưỡi liếm liếm, hít hít bàn tay nàng, rồi phóng thật nhanh ra cổng...

Sau cái lần ấy, nàng không mua hoa ở cái chợ ấy nữa, mà đi chợ khác, xa hơn. Và con Gấu cũng không đến nhà tìm nàng. Không hiểu sao, hôm nay, nàng lại trở lại cái chợ cũ, và gặp con Gấu ở đấy...

Con Gấu cọ cọ cái mõm đen mượt của nó vào lòng tay nàng, làm nàng sực tỉnh. Nàng biết, giờ này chồng nàng sắp về. Nàng không muốn để anh ta gặp con Gấu, và chắc con Gấu cũng không muốn gặp anh ta. Nàng lý giải vẻ bồn chồn của con Gấu như vậy. Nó cứ định đứng lên, rồi lại thôi, hết nhìn ra cổng, lại nhìn nàng, và trong đôi mắt nó, cái ngọn lửa mầu hổ phách cứ lung linh, lung linh.

Nàng đứng dậy, lấy một chiếc dép của chồng, đưa vào mũi Gấu, và bảo:

- Nào, về thôi, Gấu! Kẻo họ sắp về rồi đấy!

Con Gấu, sau khi hít hít cái dép, như hiểu, đứng dậy theo nàng ra ngõ. Nó lủi thủi đi sau, cái đầu cúi thấp.

- Ðừng giận chị nhé, đừng trách chị, Gấu nhé!

Và nàng mở cổng. Con Gấu nhìn nàng, tru lên một tiếng, rồi phóng đi.

Nàng đóng cổng, ngồi thừ một lúc trên chiếc ghế bọc nhung, rồi uể oải đứng dậy nấu cơm trưa, vừa làm, nàng vừa nghĩ miên man. Và, cái cảm nhận cuối cùng, là nàng vừa tự trách mình, vừa tự thương thân. ở với người chồng mới, nàng là một người làm công, một con ở, một kẻ tù giam lỏng hơn là một người vợ. Công việc của nàng: Là quét dọn, giặt giũ, đi chợ, cơm nước, coi nhà và những công việc khác để hầu hạ chồng - ông chủ. Ngay tiền đi chợ, anh ta cũng khoán cho nàng từng ngày, nếu cần thì phải xin, trừ cái dây chuyền hai chỉ và một cái nhẫn một chỉ anh ta mua tặng nàng hôm cưới. Nàng hiểu, ngay cả những thứ đó, cũng không phải của mình, bởi anh ta để mắt đến chúng luôn. Những người giàu có thường ích kỷ và keo kiệt, hay chính vì ích kỷ và keo kiệt mà họ giàu có? Nàng không muốn nghĩ nhiều đến điều này, bởi dẫu sao thì cuộc đời nàng cũng đã như thế rồi...

*

* *

Sáng sớm hôm sau, con Gấu lại đến nhà tìm nàng.

Mõm nó tha một chiếc dép đứt quai. Thấy cổng còn đóng, nó lấy hai chân trước giật giật vòng xích khóa. Không có nàng ra mở cửa, nó bỏ chiếc dép xuống, chõ vào trong nhà sủa. Nghe tiếng con Gấu, nàng vội vã chạy ra, không giấu nổi vẻ mừng rỡ:

- Gấu đấy à? Ðợi chị mở cổng cho mày ngay đây!

Con Gấu tha chiếc dép chạy vào trước. Ðến thềm nhà, nó bỏ chiếc dép xuống, rồi đợi nàng và tru lên mấy tiếng thảm thiết. Nàng nhận ra chiếc dép nhựa cũ của anh giáo, và chợt hiểu:

- Thì ra vậy đấy! Chủ mày ốm phải không, Gấu?

Nàng vừa nhặt chiếc dép lên, dứ dứ vào mũi con Gấu, vừa nói vậy. Con Gấu lặng lẽ nhìn nàng, như cầu khẩn, rồi đứng dậy, cắn gấu quần nàng, lôi ra phía cổng.

Nàng ngồi xuống đưa hai tay giữ nó lại:

- Không được đâu, Gấu ạ! Chị không đi được!...

Nàng lắc đầu, và kéo con Gấu vào phòng:

- Thôi, phải ngồi đây! Ðể chị đi lấy cái gì cho mà ăn, rồi về...

Con Gấu không động đến bát cơm. Nó cứ quanh quẩn bên nàng, tru từng tiếng ngắn trong cổ họng. Nàng bối rối và bất lực. Chợt nàng "à" một tiếng, và đi xuống bếp. Lần này, con Gấu đi theo nàng. Nàng mở chạn, lấy một cái bánh giò mà nàng mua ăn sáng, một miếng chả to, hai quả cam và nửa cân đường. Nàng gói các thứ vào một túi nilon rồi bỏ vào một cái túi vải có quai. Xong xuôi, nàng bảo:

- Thế là được rồi! Nào Gấu, chịu khó một tí nhé! Không nặng lắm đâu!

Nàng quàng cái túi vải vào cổ con Gấu, dẫn nó ra cổng:

- Bây giờ, thì Gấu về ngay đi! Ði đi! Mai lại đến nhé...

Gấu co cẳng một mạch, quên cả từ biệt nàng. Nàng biết là anh giáo đang ốm nặng. Nàng cứ bần thần, bởi một ý nghĩ: anh giáo sẽ biết những thứ con Gấu mang về là của nàng, anh sẽ không thèm động đến. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra, những giọt nước mắt tủi hổ của một người vợ trót bội bạc. Nhưng không, chắc anh ấy sẽ ăn. Anh ấy đang ốm mà. Nếu anh ấy không ăn, thì con Gấu cũng sẽ không ăn. Nó không bao giờ ăn trước chủ. Mà anh ấy thì quý con Gấu, thương con Gấu lắm. Bây giờ anh ấy chỉ có một mình nó...

Sáng hôm sau con Gấu lại đến, tha theo cái túi vải. Nhìn thấy cái túi, nàng mở ra nhẹ nhõm. Anh ấy hiểu mình và anh ấy vẫn còn thương mình. Một nỗi đau cứ thế nhói lên, làm nàng không chịu nổi. Nàng ghì đầu con Gấu vào ngực mình:

- Chủ mày không giận chị à? Chủ mày vẫn còn thương chị à?

Rồi nàng lại vội vã bỏ các thứ vào túi vải, quàng lên cổ con Gấu, những thứ mà sớm nay, nàng đã kịp đi chợ mua.

*

* *

Cứ như vậy, con Gấu đến nhà nàng, ba, bốn lần sau đó, đều trót lọt, chồng nàng không hay biết.

Rồi một tối, khi ăn cơm, anh ta hỏi:

- Cái con chó nhà cô nó vẫn đến đây phải không?

Nàng đang gắp thức ăn, dừng đũa, không dám ngẩng lên ngay:

- Ðâu có, chắc anh nhìn nhầm con chó nhà ai đấy!

- ờ... cũng có thể! Nhưng cô vẫn cứ cẩn thận. Nó thả rông thế, dễ mắc bệnh dại lắm! Nó mà cắn tôi, thì cô cứ liệu!

- Nhưng mà em khóa cổng kia mà...

- Cô mới học đâu cái kiểu cãi giả chồng thế hả! Tôi nói thế thì phải biết im đi mà nghe!

Nàng nín lặng, cố nuốt nốt miếng cơm. Chiều hôm sau, anh ta về sớm, quăng gói giấy báo cái "bịch":

- Cô không thích ăn thịt quay, nên mua miếng thịt cũng chẳng ra hồn. Từ nay, cô cứ để tôi khi nào thích ăn thì mua...

Nàng lẳng lặng mang gói thịt xuống bếp thái. Miếng thịt to, nàng bớt lại một phần, để sáng mai cho con Gấu mang về. Nàng cất miếng thịt trong chạn, úp một cái bát lên trên, yên tâm vì biết anh ta chẳng bao giờ thèm ngó ngàng đến bếp núc.

Sáng sớm hôm sau, con Gấu đến. Nàng mở chạn, lấy miếng thịt quay gói lại cho vào túi vải, cùng với những thứ khác, vội vã giục nó về ngay. Nàng sợ chồng bắt gặp con Gấu.

Buổi chiều, nàng cảm thấy ruột gan cứ bồn chồn không yên. Cái tâm trạng ấy, khiến nàng như mất hồn, hết đứng lại ngồi, đi ra lại đi vào. Không phải vì chiều nay, chồng nàng ở nhà. Anh ta cũng chẳng quan tâm đến trạng thái ấy của nàng, cứ nửa nằm nửa ngồi trên đi văng, vừa nghe nhạc, vừa đọc chưởng.

Bỗng có tiếng tru thảm thiết của con Gấu ở ngoài cổng. Nàng run bắn người, linh cảm thấy có một tai họa khủng khiếp. Nàng không đủ sức đứng lên mở cổng nữa. Chồng nàng hỏi:

- Cái con chó đen nhà cô phải không? Nó chưa chết à?

Nàng tái mặt lắp bắp:

- Anh... anh... bảo... bảo... ai ... Ch... chết?

- Con chó nhà cô ấy. Nó không ăn cái miếng thịt quay ấy à? Tôi đã tẩm thuốc độc vào đấy đấy!

Nàng ngã khuỵu xuống, như một cây chuối thối gốc:

- Giời ơi là giời... Anh giết anh ấy rồi...

Nàng khóc và ngất đi. Chồng nàng hoảng sợ, vội vớ lấy dầu bạc hà xoa cho nàng, lay gọi nàng:

- Cô nói làm sao? Ai chết? Tôi giết ai? Cô điên rồi à?

Nàng dần dần tỉnh lại, cũng với tiếng hờ khóc càng to hơn:

- Giời ơi là giời... Anh giết anh ấy rồi... Anh ấy ốm... Tôi lấy miếng thịt bảo con chó mang về cho anh ấy... Ðồ độc ác... Ðồ dã man!...

Anh ta cho nàng một cái tát, hai cái tát. Nàng choáng váng, nín bặt, nhìn trừng trừng:

- Mày đánh nữa đi! Mày giết nốt tao đi! Tao có cần sống đâu mà... Quân giết người!

Anh ta dằn từng tiếng:

- Này! Cô nghe đây! Tôi định giết là giết con chó. Tôi ghét vì nó cứ lui tới đây tìm cô. Cô tưởng cô giấu tôi cho nó mà lọt à! Tôi biết hết! Nhưng tôi lại không ngờ anh ta lại ăn tranh của chó. Chính cô mới là người giết chết anh ta!

Nàng giận bắn người, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Nàng ghê sợ cái suy nghĩ, cái cách nói trần trụi, tàn nhẫn của con người đó, nàng lảo đảo đứng dậy, xiêu vẹo đi ra phía cổng, nơi con Gấu đang đu người lên mà tru từng hồi. Anh ta quát to:

- Cô không được mở cổng! Tôi cấm cô!

Nàng không thèm nghe. Nàng đang ở vào cái trạng thái không biết sợ một cái gì - kể cả cái chết. Nàng mở toang cửa, ôm lấy đầu con Gấu mà khóc không thành tiếng. Nước mắt của con Gấu cũng ướt cả tay nàng. Rồi nó toài ra, ngoạm tay nàng kéo đi. Nàng đắn đo giây lát, rồi bảo:

- Gấu, ở đây nhé. Ðợi chị.

Nàng ấn con Gấu ngồi bên góc cổng, rồi rảo bước vào nhà. Nàng nói với chồng, nhỏ nhưng quyết liệt:

- Tôi phải đi! Anh có cấm, tôi cũng đi! Nếu anh cấm tôi, tôi sẽ tố cáo anh. Rồi ra sao thì ra.

Anh ta nhìn vẻ mặt nàng, nhìn ánh mắt điên dại của nàng, nghĩ một lát, rồi gằn giọng:

- Thôi được cô cứ đi, nếu cô thích. Nhưng tôi nói để cô biết, cái mặt cô cũng chẳng đẹp đẽ gì, nên cứ liệu đấy mà phơi ra...

Nàng không thèm trả miếng, hấp tấp quay ra cổng, con Gấu vẫn đứng đấy, vội vã vượt lên trước, cứ một quãng, nó lại đứng đợi, vẻ bồn chồn. Mãi đến khi đi một quãng xa, nàng mới sực nhớ ra mình chẳng có một đồng nào cả. Nàng gọi:

- Gấu lại đây đã!

Và nàng đi đến một tiệm vàng. Nàng tháo chiếc dây chuyền, cái nhẫn, chủ tiệm nhìn vẻ mặt nàng, không hỏi, đem đi cân, thử, và nói giá, tính tiền, đếm tiền. Nàng lặng lẽ cầm bọc tiền và lặng lẽ ra khỏi tiệm.

Trên đường đi, cho đến lúc này, nàng mới nhớ lại tình cảm của mình. Và, những lời nói của chồng, làm nàng phải cân nhắc: "Có nên đến thẳng chỗ anh ấy không?"

Nàng hình dung ra căn nhà tồi tàn không khí lạnh lẽo của nó, vẻ mặt khổ não và ảm đạm của người quá cố, ánh mắt của người làng... Nàng thoáng rùng mình và do dự. Nàng thấy tốt nhất là hãy cứ sang nhà bên cạnh xem sao đã. Hai vợ chồng ông lão hàng xóm vốn phúc hậu, rất quý nàng, khi nàng còn là vợ anh giáo. Vả lại, trời cũng đã nhá nhem, ít người nhận ra nàng...

Ðến gần ngôi nhà cũ, nàng thấy người vào ra thì đông mà tiếng khóc thì thưa thớt, nàng thấy mình có tội với anh ấy, thấy mình chẳng còn mặt mũi nào mà bước vào ngôi nhà đó, nhìn mặt người chồng cũ lần cuối. Nàng vội vã rẽ vào nhà bên cạnh, lén lút như một con ăn cắp. Gặp bà cụ, nàng òa khóc:

- Anh ấy đi rồi à, bà ơi?

- Tội nghiệp... sao chị biết mà về?

- Con Gấu nó đến báo cho cháu...

- Lạy giời Phật! Thảo nào... vừa mới trưa, nó sang nhà tôi. Ông lão nhà tôi đang nghỉ. Nó cứ vừa tru, vừa ngoạm tay ông lão lôi dậy. Sang, thì anh giáo đã đi rồi. Người ta bảo là do ốm sẵn mà ngộ độc thức ăn... Ðồ nóng anh giáo không ăn mà chỉ ăn đồ nguội. à... à... ra con Gấu nó đến báo cho chị đấy...!

Những lời của bà già làm nàng buốt nhói đến tận ruột gan. Nàng muốn nói "Bà ơi! Chính cháu đã giết anh ấy!", mà không dám. Một cơn ớn lạnh làm nàng rùng mình, nàng vội giở bọc tiền, dúi vào tay bà lão, mếu máo:

- Bà ơi... cháu có lỗi với anh ấy... Cháu chẳng còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy nữa. Số tiền này, cháu dành dụm được, nhờ ông bà với hàng xóm láng giềng lo cho anh ấy. Thôi thì, trăm sự nhờ cả ông bà...

Bà lão, thấy nàng như vậy, cũng mủi lòng:

- Chị nghĩ vậy, là phải! Ðể tôi đi gọi ông lão về!

Nàng vội níu tay bà cụ:

-Thôi bà ạ! Cháu xin phép bà, cháu phải về ngay đây!

Nàng nấc lên, vội vã đi như chạy ra khỏi cái ngõ hẹp nhà bà cụ. Và cứ thế, nàng lầm lũi đi. Con Gấu không biết nàng về. Nó bỏ nàng ngay từ lúc nàng đến gần nhà. Nó làm thế là đúng thôi. Chỉ có nàng mới là kẻ phụ bạc.

Ðêm! Trăng suông. Con đường vắng. Những ngọn gió hoang thỉnh thoảng lại cồn lên, nàng có cảm giác đó là âm hồn đang đi lang thang...

Có tiếng chân chạy phía sau, làm nàng giật bắn người. Một bóng đen vụt qua, rồi đứng khựng lại. Con Gấu, nàng mừng rỡ, ngồi thụp xuống, ôm lấy đầu nó và cảm thấy trống ngực vẫn đập thình thình.

Con Gấu đi cùng nàng đến đoạn đường sáng đèn phố, thì dừng lại. Nó để yên cho nàng vuốt ve một lúc, rồi vùng chạy ngược về nơi mà nàng đã từ bỏ.

Tháng 3-1993

Con hổ mun

Ðặng Thư Cưu

Ông Trì Gầm ngồi yên lặng như một gốc cây cổ thụ, đăm đăm nhìn mặt trời đỏ sậm màu máu, hạ chầm chậm xuống mặt đầm lầy mù mù chướng khí. Những tia nắng cuối cùng sáng rực, lấp lánh như nhiều mũi giáo nung già lửa trong lò, đâm xuyên qua làn sương trắng. Cánh rừng bao bọc chung quanh dần bắt đầu ngả màu đen sẫm. Gió đứng. Bầy muỗi bay lào xào, thỉnh thoảng va mạnh vô khuôn mặt sạm màu sắt, lạnh câm như đẽo trên tảng đá. Tiếng loài thú nhè sột soạt trong lùm bụi phía rừng chồi. Tiếng cá sấu thở cạnh bờ sông nghe như tiếng rên trầm trầm. Muỗi táp vô mặt ông mỗi lúc một nhiều bám đầy trên cái đầu cạo nhẵn. Ông hậm hực:

- Hổng ngồi yên được với cái đám muỗi rừng ôn dịch này.

Ông đứng dậy chậm rãi. Dáng cao lớn gù gù như một con gấu lực lưỡng. Bắp thịt ngực phồng to, chắc nịch loáng thoáng những vết sẹo dài, nổi vồng lên có màu tai tái. Ông Trì Gầm nhóm lửa bằng những nhánh bằng lăng khô. Ngọn lửa vàng cam hắt ánh sáng lên mặt ông, rung rinh, chờn chợn những nét vẻ kỳ quái. Chỉ có đôi mắt nhỏ và sâu, lạnh và bén, xọc thẳng vào màn đêm vừa chớm như mắt thú rừng. Ðó là thứ vũ khí phòng vệ chắc chắn, đáng tin tưởng của những con người đặt chân lên vùng đất hoang vu ở phương Nam này.

- Sao ổng chặt mây lâu dữ vậy cà?

Như trả lời câu hỏi một mình của ông, một tiếng thú vang lên cuồn cuộn như tiếng bão. Nó chứa đựng một sức mạnh man dã, rừng rú. Nó trườn qua khu rừng, dội mạnh vào những gốc cây già, lướt trên chồi xanh, phá vỡ cái tịch mịch nặng nề của đầm lầy và sau cùng hòa tan vào những âm thanh rì rầm bất tận của dòng sông.

Ông Trì Gầm nhếch môi:

- Ông đã về.

Ông quay vào chòi lá lấy một tảng thịt rừng khô treo trên mặt đám than hồng. Phút chốc mùi thịt nướng ngọt đậm lan rộng. Cái giọng ngập ngừng nhưng sang sảng như tiếng đá vỡ:

- Chà... màn nguyên... màn nguyên... ta đói bụng quá.

- Tôi chờ ông từ hồi mặt trời còn ở trên đọt rừng bằng lăng.

- Hà... hà... màn nguyên... màn nguyên... Ta chém được cái đuôi của con tinh khù lỳ.

Người đàn ông xuất hiện nhẹ nhàng như một con beo đen. Ông liệng bó mây nước xuống sân và quăng trước mặt ông Trì Gầm một vật vằn vện dài hơn thước tay. Ông già lặng lẽ nhìn cái đuôi cọp mềm mại như còn rung động:

- Sao không chặt luôn ổng?

Người đàn ông cắm cây mác thông xuống đất, xếp bằng ngồi cạnh đống lửa:

- ?n uống đi rồi... màn nguyên... ta kể cho nghe.

Ông già rót rượu ra chén, xé thịt nướng đưa cho người đàn ông. Ông ta uống đánh ực một hơi cạn chén, bỏ thịt vô miệng nhai ngồm ngoàm khoái chí. Ðôi mắt to của người đàn ông rực lên như hai hòn than cháy.

Ông già yên lặng ngắm người bạn rừng. Chính ông cũng không biết rõ tuổi tác thật sự của người đàn ông là bao nhiêu? Với tấm thân đen bóng, dè dặt như các sớ gỗ mun cùng mái tóc rối bời bò xấp xõa ngang vai tạo cho người đàn ông một nét man dại cổ sơ. Ông già đánh bạn với người đàn ông trên hai năm nay. Cũng là dân lưu lạc xuống vùng đất rừng hoang vu này, nghề nghiệp khác nhau. Ông Trì Gầm chuyên nghề câu sấu đem bán ngoài xóm dân. Dụng cụ của ông là lao mun, là câu móc, là dây thừng. Người đàn ông là thợ săn cũng là người chặt mây rừng đem đổi chác ngoài xóm. Những lần dừng chân bên bờ sông, qua chén rượu, bên bếp lửa đêm, những thỏi thịt rừng, thịt cá sấu đã cho hai người cái tình bạn thật tự nhiên như cây rừng, như đầm nước. Nó không pha tạp một thứ gì hết. Nó trong vắt như nguồn sông nguyên khai. Nó đậm dà như mật ong mùa tháng giêng. Ðất rừng hùng vĩ, phong phú nhưng cũng đầy nghiệt ngã, nguy hiểm. Trong cuộc sinh tồn đơn giản đó, họ thấy cần nhau, thương nhau một cách lặng lẽ.

Bằng cái giọng ngập ngừng, phải lót thêm tiếng đệm vô nghĩa nhưng quen thuộc, người đàn ông kể cho ông già việc ông chặt đứt đuôi cọp mà ông gọi là tinh thù lỳ. Khi vô tới khu vực có mây nước mù thì trời đã xế. Người đàn ông ăn gói cơm nắm xong tính đốn mây rồi về sớm vì đã hẹn với ông già uống rượu đêm nay. Ông lần vô cụm mây già đủ tuổi thì một con hổ vằn chặn đường. Có lẽ nó qua đói vì không tìm được mồi, chớ bình thường ít khi nó dám tấn công ông một cách trực diện như vậy. Con hổ gầm gừ, quật đuôi liên tục và ứa bọt miệng trắng xóa. Người đàn ông bực tức giơ cao ngọn mác thông:

- Màn nguyên... màn nguyên... ta chém chết bây giờ. Con hổ bươn tới chầm chậm vì cái đói cồn cào nơi bụng. Bất ngờ nó đập mạnh đuôi về phía trái. Theo kinh nghiệm, người đàn ông hiểu con dã thú sẽ tấn công bên mặt. Ông tràn ngang và ngọn mác thong sắc bén trên tay vớt ngược, dọc theo sườn con thú. Sức mạnh ghê gớm của người thợ rừng đã chém ngọt một phần đuôi con hổ vằn và thuận đà rẹp thêm mấy cây mây gai góc. Con gổ hộc lên một tiếng kinh hoàng, vụt vào bụi, lê theo mấy vết máu đỏ thẫm.

Ông Trì Gầm rót thêm rượu:

- Thật là may cho lão. Tui tin rằng ông sẽ chém đứt hông lão chỉ với một nhát thôi.

Người đàn ông cười sằng sặc:

- Màn nguyên... ta cũng không muốn chặt lão chút nào hết... miễn là lão đừng động chạm tới ta.

Tảng thịt rừng còn trơ lại khúc xương bị gặm nham nhở. Ông già liệng thêm nhánh khô. Bếp lửa bùng cháy. Gió đêm bắt đầu hú ầm ào. Bầy muỗi rừng chốn biệt. Thật ra tiếng hổ gầm no mồi như uất nghẹn.

Ðột ngột hai người thợ rừng im bặt, nghiêng đầu nghe ngóng, mắt quắc lên, rực lửa. Người đàn ông đứng dậy ngó ra bờ sông. Tấm thân cuồn cuộn bắp thịt sừng sững, hắt lên trong bóng lửa chập chờn như một hình thần linh. Giữa cái âm thanh rì rầm như than thở của dòng sông họ nghe rõ tiếng mái chèo rẽ nước. Ai dám vào tận cùng ngọn rạch sâu thẳm giờ này?

Tiếng động của chiếc ghe mỗi lúc một gần. Tiếng người nói chuyện thì thầm. Ông già bật dậy, lao ra bờ sông:

- Ai?

Trăng lùi lũi chui vào cụm mây mù. Góc rừng tối sầm lại như vừa có một cơn bão đen lướt qua thật chậm chạp. Bếp lửa chỉ còn những vụn than hồng. Ông già không nhóm thêm để lắng nghe người khách lạ kể chuyện. Cả ba ngồi quanh bếp than. Vụn than nổ lép bép, vụt sáng bừng, rọi lấp lánh lên mớ râu muối tiêu phất phơ dưới cằm của người khách lạ. Ông nâng chén rượu của bạn rừng mới, uống một hớp:

- Tôi và chiếc ghe này đi lang bạt giang hồ. Rất nhiều khu rừng phương Nam đã có dấu chân tôi. Tôi là dân ăn ong các bác à! Các bác có nghe chớ? - Ông Trì Gầm và người thợ rừng nói lắp im lặng gật đầu.

- Nghề này không đụng chạm tới ai. Ong của rừng. Chỉ tội là phải lặn lội vất vả. Nhiều khi dân rừng không hiểu, hay nghi ngờ, làm khó dễ. Ong nhiều lắm. Ong là vị ngọt, là hương thơm của rừng. Mật không của riêng ai. Ông Trì Gầm nhếch môi:

- Tui nghe người ta nói mật của thần rừng.

Người khách lạ ngước mặt lên nhìn sâu vào thăm thẳm bóng đêm. Trăng vàng quạch phía rừng già:

- Dà. Bác đã nghe nói đến thần rừng là bác biết nghề của chúng tôi rồi. Nó như một lời nguyền truyền kiếp. Phải cúng tế, phải van vái. Nhiều dân ăn ong bỏ qua tập tục này, không tin tưởng thì suốt mấy tháng liền không kiếm được một giọt mật, rồi ốm đau liên miên, vốn liếng cạn sạch, thân sơ thất sờ. Ghê gớm vậy đó bác.

Người thợ rừng nói lắp nãy giờ câm lặng như đêm, chợt lên tiếng:

- ... Màn nguyên... mà cúng bằng gì?

Người khách chưa kịp hiểu câu nói của người thợ rừng. Lát sau, ông nghĩ ra, vui vẻ:

- Có gì cúng nấy bác à. Cái cần là do lòng thành của mình, lời hứa của mình. Khi thì heo quay, thủ vĩ luộc. Cũng có khi...

Người khách chợt cắt ngang câu nói. Âm thanh rơi hẫng vào màn đêm mất hút. Người khách quay đầu ngó xuống bờ sông. Ông Trì Gầm chợt nhớ ra lúc ra đón chiếc ghe, ông nhác thấy dáng một người thật nhỏ nhắn, lúi húi trong mui bằng lá chàm. Người khách quay lại:

- Nhiều khi cúng cả con cái mình.

Ông già ngạc nhiên:

- Ông nói thiệt hay nói giỡn?

- Rừng linh thiêng lắm, không nói chơi được. Nhiều khu rừng quá nặng ám lực huyền bí, cúng vật chết không làm ăn được phải tế bằng vật sống.

- Rồi con người bị cúng đó ra sao?

- Cũng về với gia đình thôi. Chưa thấy thần rừng nào nhận hết, nhưng không có lời van vái, thành thật thì không làm ăn được. Tôi cũng không hiểu.

Ðêm đã khuya. Trăng khuất dưới tán rừng đen kịt. Tiếng thú kiếm ăn cũng vắng bặt, chỉ có đám côn trùng rì rì suốt đêm. Người khách từ giã hai người thợ rừng để xuống ghe.

- Tôi còn ở đây, mình còn nhiều dịp để tâm sự, nếu thần rừng ở đây cho phép tôi xin ít mật của rừng.

Ông Trì Gầm đứng lên, dúi vào tay người khách thỏi thịt rừng phơi khô và một nắm muối. Người khách nhìn ông, lòng cảm tạ ngập ngời trong ánh mắt. Ông Trì Gầm trở vô chòi. Người thợ rừng nói lắp đã nằm yên trên sàn lót bằng những thân gỗ tròn, bóc vỏ. Ông Trì Gầm nhồi thuốc vào cái vố bằng gốc tre, bước ra ngoài châm hút và đứng tựa ngó mông lung về dải rừng xa hun hút. Mảnh đất hoang vu này còn chứa biết bao nhiêu điều mà ông không thể hiểu hết. Ðời người quá ngắn ngủi trước bí mật của thiên nhiên. Với ông thì ông có thể tự hào về sự am hiểu các bãi cạn, các vực xoáy, những con lạch đầy bùn dẫn vô đầm lầy, chỗ nghỉ ngơi của bầy cá sấu. Ðánh bạn với người thợ rừng nói lắp, ông biết thêm về cây mây đầy gai, những con chồn làm ổ trong bụi chà là hay những cái trứng rắn hổ mây to lớn. Bây giờ nói chuyện với người khách lạ ăn ong, ông hiểu rừng chỉ mới ban phát cho ông một vài vấn đề thông thường. Còn nhiều cái chất chứa ngập trong lòng khối đen thẫm trước mặt, trong muôn ngàn âm thanh kỳ quái của rừng đêm... Nhất là thần rừng. Cái bí lực huyền hoặc đó có thật không? Có tham dự thật sự vào những đời sống đơn giản của những người thợ rừng hay không? Ông Trì Gầm nghe giữa ngực có một cái gì đó nặng như treo lên một khúc gỗ mun. Ông đằng hắng một tiếng lớn, khạc mấy sợi thuốc vướng trong cổ họng. Ðêm lạnh câm đầy đe doạ. Bỗng nhiên đêm rừng nay khác hẳn mọi đêm khác. Nhiều dấu hỏi hiện ra trong đầu ông ngoằn nghèo như những con rắn hổ đất con vừa mới nở.

Hai cha con men theo ven đầm lầy đi một quãng khá xa mới tới vùng gò tranh. Mùi bùn, mùi nước đọng quanh năm, mùi cỏ ướt như quyện kín lớp không khí yên ả buổi sáng. Qua cánh đồng tranh hai cha con bắt đầu đi vào vùng trời tím nhạt của cánh rừng bằng lăng đang độ trổ bông. Tiếng ong rì rầm không ngớt. Người cha hít thật sâu mùi hương ngây ngất. Ðứa con gái hái một nhánh bông cầm nơi tay. Không ai có thể ngờ được rằng với những bước chân thong thả, nhẹ nhàng như một cuộc dạo chơi đó, hai cha con đang dẫn nhau đi tế thần rừng. Cuộc sống dềnh ra trước mặt bằng những bí ẩn chập chờn, bằng một sức mạnh mà con người chỉ thấy qua hơi thở. Rừng lặng im như chất chứa ngồn ngộn sức sống. Nó sẵn sàng dâng hiến và cũng sẵn sàng tiêu diệt.

Qua rừng bằng lăng, mặt đất đổ dốc, nghiêng xuống một dải rừng tràm mịt mùng không nhìn thấy giới hạn. Mùi bông sực nức trong gió và tiếng ong rộn rã một giai điệu bất tận. Người cha ngó đăm đăm vào rừng tràm mường tượng nhìn thấy một dòng mật màu hổ phách, trong suốt, đặc quánh chảy trong đó. Người cha nói với đứa con gái:

- Hãy thành tâm cầu nguyện với thần rừng cho cha con mình may mắn trong chuyến làm ăn này đi con. Ðứa con gái ngước mắt nhìn dải rừng có màu sáng xanh yên bình. Nắng đọng thấp thoáng trên tán rừng những vệt màu hồng tươi. Cô ngửi thấy mùi hương bông, mùi mật đến mùa. Người cha đứng bên cạnh nói lớn:

- Xin thần rừng cho phép cha con tôi được ăn ong trong khu rừng này tròn một vòng trăng. Tôi hứa sẽ không phá hại của cải của rừng. Ðêm trăng tròn tới tôi cho con gái tôi một trinh nữ mười tám đến tạ ơn thần rừng. Số phận của nó tùy ý quyết định của thần rừng.

Tiếng nói chậm rãi, gọn gàng từng âm một như liệng vào rừng yên ả những hòn sỏi của số mệnh. Thốt nhiên người con gái rùng mình. Cô cảm thấy có một nỗi bứt rứt kỳ lạ chạy rần rật trong máu. Cô nắm lấy tay người cha:

- Ba! Con thấy sợ.

Người cha quay trở lại:

- Con yên lòng. Mình chỉ dâng phần tinh thần cho rừng. Rừng không bắt con đâu. Như những lần trước.

- Nhưng đêm qua con chiêm bao.

- Con thấy gì?

- Con cỡi trên lưng một ông hổ bay vun vút, qua hết một dãy rừng thiệt dài. Sau đó con thấy mình hóa thành hoa rừng, một bụi hoa có màu đỏ như máu.

Người cha im lặng một lúc. Ông tin tưởng sự có mặt linh thiêng của thần rừng nhưng ông không ưa chiêm bao, mộng mị. Nó dễ làm cho người ta xiêu lòng. Ông an ủi con:

- Tại trước cảnh lạ, lòng con hốt hoảng hay nhìn thấy bậy bạ.

- Mấy bác thợ rừng nói ở đây có nhiều ông hổ.

- Thì cũng như mấy khu rừng miệt trên thôi. Cha tin ở con.

Hai cha con không nói chuyện gì với nhau khi đi qua đồng cỏ tranh. Phía đầm lầy mà sương còn quánh đặc, lơ lửng trên mặt đầm cái màn trắng mờ, rung rinh huyền ảo. Chợt người cha nói to một mình:

- Cầu nguyện với rừng, lần này làm ăn khấm khá, có một số vốn, cha con tôi sẽ định cư ngoài bờ sông. Không vào rừng nữa.

Bất ngờ một tiếng hổ gầm vang lên thật gần phía rừng bằng lăng như trả lời người cha. Âm thanh dội mạnh, kéo dài ra thành tiếng rền u u rồi lắng tan, đứa con gái siết chặt bàn tay người cha. ánh mắt trong sáng của cô vừa lướt qua một bóng mây hãi hùng.

*

Thời gian được tính thành vòng cung mặt trời lên ở phương đông và lặn ở phương tây. Ðơn giản như cuộc sống của những người thợ rừng, kể cả người khách lạ ăn ong. Mỗi người một việc. Họ không làm phiền nhau cũng như ít khi giúp lẫn nhau. Ông Trì Gầm thì mải mê với những con lạch đầy muỗi dẫn vô đầm lầy và tiếng sấu thở trầm trầm. Người thợ rừng nói lắp thì gắn bó với rừng mây đầy gai nhọn. Cha con người ăn ong lầm lũi về phía rừng tràm nức hương mật. Không biết do lời cầu nguyện đã đến tai thần rừng hay do nguồn mật dồi dào của cánh rừng hoang dã mà những lu, hũ của ông ta đã đầy ăm ắp?

Một đêm khi vòng trăng bắt đầu trở lại, người khách mang lên chòi một tảng mật lớn pha vào rượu. Ðứa con gái lo nướng một con cheo bị bẫy. Họ ngồi túm tụm nhau như đêm đầu tiên bên bếp lửa nhóm bằng nhánh bằng lăng khô. Rượu rót đầy chén, thơm ngát mùi mật, ngọt đẫm đầu lưỡi và họ uống không biết say vì đêm nay có lẽ là đêm chia tay.

Ông Trì Gầm vẫn với cái nhìn lạnh căm như dòng nước đêm:

- Cha con ông có thể ra đi được rồi. Rừng quá rộng rãi với cha con ông.

- Vầng trăng đã trở lại. Thời hạn xin làm ăn ở đây đã hết. Chắc kỳ này tôi sẽ dành dụm làm vốn, định cư ngoài vàm sông và lo cho nó một tấm chồng.

Ðứa con gái bẽn lẽn cúi mặt dấu vào mái tóc dài óng ả. Người thợ rừng nói lắp bật cười:

- Mắc cỡ làm chi con? Về xóm sống cho thoải mái. Rừng khắc nghiệt lắm con ơi.

Ông Trì Gầm ngó mông về hướng rừng đêm.

- Còn lời cúng tế?

Người khách quấn một điếu thuốc lớn, nghiêng đầu châm vào bếp lửa:

- Phải trả chớ.

- Ông bỏ đi không được sao?

- ồ không. Lời hứa vẫn là lời hứa. Số mệnh là số mệnh. Phụ lời nguyền tôi không hiểu hậu quả sẽ ra sao?

- ...Màn nguyên... nghĩa là ông giao con cho rừng?

- Phải vậy thôi. Ðêm mai, đúng kỳ trăng tròn trở lại, tôi đưa con gái tôi vào trong rừng. Sau đó nếu thần rừng tha cho nó thì nó sẽ theo tôi về xóm.

- Thần rừng cho hổ ra đánh với con gái tôi. Nó đã thắng tất cả và như thế thì lời cúng tế của tôi như đã xong.

Hai người thợ rừng mở tròn mắt nhìn hết người khách đến cô gái bé nhỏ. Họ vẫn im lặng như câu chuyện đó thật bình thường, như việc dùng dao tre gạt cái túi mật căng tròn, tươm ra một dòng vàng sánh, óng ả.

- ... Màn nguyên... thiệt à? Ta chưa nghe nói như vậy bao giờ?

Người khách nâng chén rượu uống một hơi dài. Cô gái vẫn nhìn vào bếp lửa. Thỉnh thoảng cô liệng vào một nhánh khô. Lửa bùng lên, uốn éo, so rạng gương mặt trông dễ thương của cô gái.

- Ðêm mai tôi mời hai ông chứng kiến một cuộc trả lễ. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ ra đi an toàn. Họa hoằn... đó là số mệnh...

Người khách không nói tiếp. Tiếng chim rừng rít lên thảm thiết ở một góc trời.

Ðêm im sững không một chút gió. Trăng lên ngang đỉnh đầu, tròn vành vạnh, sáng lóa. Quãng đất trống ngăn vạt cỏ tranh và dải rừng già trắng lạnh. Ba người đàn ông dừng lại. Cô con gái bước tới sau lưng. Người khách quay đầu lại:

- Xong chưa con?

Cô gái gật đầu. Cô mặc bộ đồ đen. Quần túm ống. Một chiếc khăn buộc chặt ngang cái bụng nhỏ xíu. Mái tóc dài được bới cao gọn ghẽ. Cô cầm trong tay một cây roi vừa tầm làm bằng một thứ cây rừng vừa dẻo, vừa nặng. Người khách cùng cô con gái bước ra khoảng đất trống. Ông nói to, chậm rãi như ném tiếng vào rừng già:

- Thưa thần rừng linh thiêng, ngày trăng trở lại đã tới, tôi đã được ít mật của rừng cho. Như lời xin, đêm nay tôi đưa con tôi đến cho thần rừng, mong thần rừng thương nó còn bé bỏng. Số phận nó trong tay ngài. Tôi chỉ trông cậy vào tình thương của ngài.

Hai người thợ rừng ngồi lại trong đám cỏ tranh. Lần đầu tiên họ rùng mình trước lời van vái khủng khiếp. Người khách quay lại ngồi với họ. Ðêm rừng im phăng phắc. Cô gái chống roi đứng giữa vùng trăng sáng, rực rỡ như huyền thoại, ma quái vào bí ẩn như đời rừng.

Ðột nhiên tiếng chim lạ gào lên như âm thanh một tiếng khóc nức nở. Rồi tiếp theo là một tràng cú rúc kinh hoàng. Dáng nhỏ nhắn người con gái vẫn bất động. Phía rừng già vang ầm ào như có gió lốc xoáy lên. Một tiếng gầm dũng mãnh ác độc và đe doạ ập tới như có thể sờ thấy nó lướt ngang mặt cỏ tranh sắc cạnh. Con hổ vằn to lớn vọt ra từ trong rừng già co người lại tụ hình trước mặt cô gái. Cụm lông bạc phía dưới hầu như phát sáng trong ánh trăng. Con hổ lom lom nhìn cô gái bằng cặp mắt hừng hực lửa. Cô gái vẫn đứng bất động. Cô đã chết đứng rồi chăng? Con hổ vẫn vươn mình, mềm mại, uyển chuyển thành cái bóng trườn dài ra, phớt tối như một ánh mây vừa che lấp mặt trăng. Và người ta nghe thấy tiếng roi vun vút, xé gió cuộn ánh trăng thành những chùm bông kim ngân tơi tả. Con hổ gầm gừ, vây phủ cô gái bằng những cái vuốt xoè ra và đôi nanh ướt đẫm. Cô gái như đã biến thành bóng khói nhẹ lướt êm như sương né tránh những cái vồ độc hiểm. Cô tiếp sát vào sườn con dã thú, ngọn roi đánh đúng vào xương sống rồi đốc roi hất ngược lên giữa ức con vật. Con hổ hộc lên một tiếng văng ra và biến vào màn đêm đen kịt.

Hai người thợ rừng thở phào. Họ nghe như cái khối nặng nãy giờ treo trên ngực đã được cất đi. Họ toan đứng lên những người khách vội níu lấy vai họ dằn xuống, thì thào:

- Thần rừng mới thử sức thôi chưa đấu thật đâu.

Ðúng như lời nói, khoảng đất trống lại xuất hiện một con hổ khác. Con này chỉ bằng bảy phần con hổ vằn, thong thả từng bước mềm oặt. Nó mang bộ lông màu xám trắng. Những vằn đen hằn mờ mờ. Con hổ xám có vẻ thận trọng và cô gái cũng không đứng thản nhiên như trước. Cô lùi lại cầm ngang ngọn roi. Con hổ xám tiến tới trước mặt cô gái. Nó chụm hai chân trước lại, thân hình vươn dài, áp sát xuống mặt đất như chờ đợi một sự âu yếm. Cái hung hãn, dữ dằn của nó chỉ ngập ngời trong ánh mắt biếc xanh.

Cô gái và con hổ nhìn nhau thật lâu như thôi miên, như tìm kiếm sơ hở, như uy hiếp tinh thần đối thủ:

Một đám mây phớt qua ánh trăng. Con hổ hực một tiếng nhỏ nhưng sắc rồi chồm tới. Một chân nhắm vào bả vai, một chân nhắm vào cổ họng và cái miệng rộng ghê gớm sẵn sàng bẻ gẫy những đốt xương cổ của con mồi. Cái phóng mình của nó thật khít khao và lẹ như một tia chớp. Cô gái cuộn mình lăn tròn dưới ức con vật, lòn ra sau và dùng đầu roi đâm mạnh vào hạ bộ còn vật. Ngón sát thủ trong đường tơ, kẽ tóc. Con hổ xám bây giờ mới chịu vang lên tiếng gầm nhưng là một âm thanh nghẹn đi của sự chiến bại. Nó rớt xuống đất và lết vào khu rừng già thật hèn hạ.

Người khách dợn mình muốn đứng lên. Ông nghĩ thần rừng đã thử sức với cái vật tế nhỏ nhoi đó. Nhưng thần rừng như đang giận dữ vì tài năng cô gái mỏng manh kia. Rừng không tha thứ. Con hổ thứ ba tiến ra. Ðó là một con hổ mun, thật nhỏ, hiền hậu, nhút nhát và non nớt, nếu như nhìn thoáng qua vóc dáng bên ngoài của nó. Nó không thị uy bằng tiếng gầm giận dữ, bằng cái dáng điệu sẵn sàng uống máu con mồi. Con hổ mun tiến ra khoảng đất trống, rụt rè nhìn cô gái như một con vật nhỏ ngoan ngoãn. Nó đi vòng vòng chung quanh với những bước chân mềm mại, uyển chuyển. Cô gái chống cây roi, tấn công vững chắn như không quay đầu theo con hổ mun vì cô thừa hiểu đó là một cách phân tán sức lực của cô. Mồ hôi đẫm ướt chân tóc. Thần kinh cô căng thẳng dữ dội vì cô đang đối đầu với một đối thủ hết sức nguy hiểm. Cô gái không theo dõi con hổ mun bằng ánh mắt mà cô nghe ngóng bằng toàn thân, bằng xúc giác đang gợn lên trong làn da, bằng thính giác của một con người đứng bên bờ vực lắng nghe tiếng gió hú từ đáy sâu của cái chết. Con hổ mun bình thản như một con vật đang dạo chơi. Nó có vẻ như không chú ý tới cô gái.

Trăng sụp nhanh xuống mí rừng. Khoảng đất vụt tối. Con hổ mun lẹ làng tấn công từ phía sau lưng cô gái bằng cú vồ nhẹ nhàng không tiếng động. Cô gái xoay người như đã nhìn thấy bằng đôi mắt ẩn sau búi tóc. Ngọn roi đâm vào ức con vật. Nó uốn mình như một tay làm xiếc và rớt xuống bên phải cô gái nặng không hơn chiếc lá rụng. Cuộc chiến đấu thầm lặng. Những người ngồi quanh chỉ nghe thấy hơi thở nặng nề của cô gái. Nắm tay người khách siết chặt một gốc cỏ tranh và nhổ bật nó khỏi mặt đất.

Cô gái đã đuối sức vì qua nhiều lần chiến đấu cũng như cách vờn mồi nguy hiểm của con hổ mun. Cô nhất quyết đánh đòn sau cùng. Cô run người xuống, xoay cây roi thành vòng tròn... Nhưng bất ngờ mái tóc dài óng mượt của cô sút ra, xoã tung và cuộn lấy một phần roi như một sợi thừng đen biếc. Cô gái lúng túng, vướng vít với chính mái tóc của cô. Con hổ mun chờ có vậy, nó chồm lên, trườn mình như một cơn gió đen.

- Cha ơi!...

- Cha ơi!...

Tiếng con hổ mun gầm lên thanh và sắc. Tiếng gào chiến thắng của nó biến mất như chưa hề xuất hiện. Cô gái nằm sóng xoài trên mặt đất. Người khách rùng mình chấn động. Ông Trì Gầm đứng vụt dậy. Người thợ rừng chụp lấy ngọn mác thông chồm người tới từ khi tiếng kêu vĩnh biệt, đau đớn của cô gái vang lên, từ khi con hổ mun còn há họng rú lên kiêu hãnh và ác độc. Nhưng người khách ấn tay lên vai ông, lắc đầu:

- Không. Phải giữ tròn lời hứa với thần rừng. Số mệnh là số mệnh.

- Con ông đã phải chống chọi quá sức.

Giọng người khách cố ngăn nỗi nghẹn ngào, ăm ắp trong cổ họng:

- Nó đã làm rạng danh. Nó đã hiên ngang chống chọi với mãnh lực của thần rừng. Hãy để nó ngủ yên với cái vinh quang của con nhà rừng và lời cúng tế. Số mệnh đã khép lại nơi mảnh đất xa lạ này.

Người đàn ông đứng lên tiến ra khoảng đất trống. Ông Trì Gầm thấy ông chợt già đi thêm mấy mươi năm. Nỗi đau đớn của người cha đang vât ngã ông từng bước. Rừng đã rộng rãi cho ông nhưng cũng hết sức khắc nghiệt khi cố tình cướp khỏi đời ông người con gái thân yêu. Ông quỳ xuống, nhỏ bé hơn bao giờ hết.

Chiếc ghe của người khách ăn ong đã đi xa. Trên ghe chỉ còn một mình ông. Ông thật đơn côi và yếu đuối. Cô gái ở lại bên góc rừng. Nắm đất nhỏ nhoi cùng ngọn roi cắm đứng trước mộ như một tấm bia.

Nhiều lần ông Trì Gầm ra đứng trước mộ cô gái. Rừng vẫn vang động những âm thanh trầm trầm hoang vắng. Rừng chất chứa nghìn trùng bí ẩn vừa quyến rũ, vừa nghiệt ngã. Con người tới với rừng bằng sức lực mỏng manh, bằng trí khôn và cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Rừng không từ chối cũng không bao dung.

Ông ngó ngôi mộ và tự hỏi, không biết có con hổ mun thật không? Hay tất cả chỉ là một giấc chiêm bao?

Con ruồi

Nguyễn Nhật Ánh

Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu, vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình. Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!

Tôi ốm. Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, "đẹp" kinh khủng!

Thế là mọi chuyện bắt đầu.

Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tôi đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không, thì cứ gọi là thức trắng đêm.

Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.

Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:

- Sao vậy anh?

Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:

- Có người chết trôi kia kìa!

Vợ tôi cầm ly sữa lên:

- Chết rồi! ở đâu ra vậy cà?

- Còn ở đâu ra nữa? - Tôi nhấm nhẳng - Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à?

Vợ tôi nhăn mặt:

- Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!

- Hứ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết?

Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:

- Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.

Tôi vẫn chưa nguôi giận:

- Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi.

Vợ tôi trố mắt:

- Nó còn trong ly kia mà!

- Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.

- Anh thấy sao anh còn uống?

- Ai mà thấy!

- Không thấy sao anh biết có hai con?

Tôi tặc lưỡi:

- Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.

Vợ tôi bán tín bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:

- Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em...

Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy. Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:

- Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?

Vợ tôi giật mình:

- Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?

- Chứ không phải sao?

- Không phải!

À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:

- Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?

- Thì có làm phải có sai sót chứ! Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em?

- Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả? Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà...

Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:

- Em đâu có nói vậy!

- Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!

Vợ tôi nhún vai:

- Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy? Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy tủ ra mới lấy được đồ đạc?

Tôi khoác tay:

- Nhưng đó là chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy ngàn bạc cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?

- Chứ còn anh, sao anh không kể chyện anh đi coi bóng đá bị mất xe đạp? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị lột mất đồng hồ?

Cứ như thế, như có ma quỷ xui khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm từng từng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới lớp bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt ra-dô đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya, v.v.. và v.v.... chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.

Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật chẳng thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:

- Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa. Tôi ngán tới tận cổ rồi!

Vợ tôi lạnh lùng:

- Tùy anh!

Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:

- Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ.

Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100 km/giờ.

Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.

Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được?

Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.

- Cô định làm gì đấy?

- Đem đổ đi chứ làm gì?

- Không được, để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ.

Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hùng hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.

Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà.

Nguyễn Nhật Ánh

Ðàn bà

Nguyễn Khải

Lưu là đội trưởng đội cảnh sát hình sự tuyến, tức là cảnh sát chống tội phạm hình sự trên các tuyến giao thông. Năm 1982, Lưu 22 tuổi, anh lấy vợ. Vợ chồng bằng tuổi nhau, cùng học với nhau ba năm trung học. Chồng làm công an, vợ làm ở khách sạn, được công ty du lịch phân cho một căn nhà ở trung tâm thành phố. Về đời riêng, bắt đầu như thế cũng là hơn nhiều người. Lưu rất đẹp trai, dáng vóc cao lớn, hao hao giống các diễn viên Hồng Kông trong phim hình sự. Vợ cũng rất xinh gái, đẻ một con lại càng xinh. Vợ chồng bế con đi chơi phố ai cũng phải ngoái cổ lại nhìn. Một cặp vợ chồng thời bình quả nhiên có khác với những cặp vợ chồng thời chiến. Họ là những người may mắn khiến các thế hệ sinh trước phải ghen tị. Chỉ có một trục trặc rất nhỏ không đáng để ý, ấy là lương một trung sĩ công an hơi ít, chỉ có 51 đồng, đóng tiền ăn đã mất 18 đồng. Lương vợ bao nhiêu chồng cũng không hỏi vì biết lương của vợ chỉ là hình thức, còn "bổng" mới là nguồn thu chính. Vì là "bổng" nên số tiền không cố định nhưng trong tủ lúc nào cũng có sẵn từng xấp tiền. Ðẻ con, nuôi con, nuôi mẹ từ quê ra trông cháu đều là tiền của vợ. Lưu đi bắt cướp, có khi phải đi vài ngày, tiền công tác rất ít cũng phải ngửa tay xin vợ. Xin mãi cũng ngượng, vợ lại để sẵn tiền trong tủ nên về sau Lưu cứ tự tiện lấy, không mấy khi hỏi. Của vợ như của chồng, đã là vợ chồng ai còn phân bì của tôi với của anh. Nghĩ ngợi lẩm cẩm quá có khi vợ lại ngờ rằng tình yêu của anh với cô không trọn vẹn.

Một tối Lưu về nhà đã rất khuya nhưng vợ anh vẫn chưa về. Bà mẹ ra mở cửa mặt buồn rười rượi, hỏi câu nào trả lời câu ấy, mắt cứ nhìn xuống. Lưu đã vào giường nằm mới nghe bà cụ nói: "Anh thử hỏi vợ anh xem nó có muốn gửi con bé đi nhà trẻ không? Hàng xóm họ đều gửi con ở nhà trẻ cả, nghe nói các cô trông cháu cũng cẩn thận lắm". Lưu hỏi: "Mẹ không thích ở đây nữa à?". Bà cụ nói: "Tôi muốn về quê ít tháng, ở mãi đây cũng nóng ruột ở nhà". Chuyện ở hay về là chuyện thường nhưng giọng nói bà cụ lại không bình thường, cứ như người muốn khóc. Lưu lại hỏi: "Mẹ chồng nàng dâu lại có chuyện gì không vui, phải không mẹ?"." Không, chả có chuyện gì. Bỏ nhà đi cả năm, còn các em anh..." Mấy ngày sau Lưu nói chuyện với chị ở phòng kế bên mới hay, dạo này vợ anh nói hỗn với mẹ chồng nhiều lắm. "Chắc là nó mới đổi tính, trước kia đâu có thế". Chị kia nói: "Lâu lắm rồi chú ơi. Bà cụ rất hiền, cứ bế cháu sang đây khóc lén khóc lút, lại còn dặn tôi phải giấu chú". Lưu lại hỏi: "Cách đây mấy ngày chị có biết đã xảy ra chuyện gì không?". "Mọi ngày giờ trưa cô ấy không về, trưa hôm ấy bỗng nhiên lại xồng xộc về thấy bà cụ ôm cháu ngủ, bát đũa chưa rửa, thế là cô ấy làm ầm lên. Bảo là lấy chồng chứ ai lấy thằng ăn cắp. Chả biết lấy tiền cho gái hay cho anh cho em mà để tiền bao nhiêu cũng hết bấy nhiêu". Lúc ấy Lưu mới ngớ người ra. Vợ lấy tiền của chồng là chuyện tự nhiên, nhưng chồng không làm ra tiền lại lấy của vợ tiêu lại là chuyện không bình thường. Lấy tiền mà không nói tức là ăn cắp, chứ còn gì nữa.

Bà mẹ chồng về quê. Con gái gửi nhà trẻ rồi gửi mẫu giáo, thỉnh thoảng vợ chồng Lưu vẫn mời bạn bè tới nhà dùng cơm. Thỉnh thoảng họ vẫn cùng nhau đi xem kịch, xem chiếu bóng, đi và cùng uống nước giải khát ở các quán quen. Họ dắt con đi chơi vẫn có nhiều người ngoái lại nhìn, vẫn là một cặp vợ chồng đẹp đôi và có vẻ thỏa mãn. Người ngoài tưởng thế, bạn bè cũng nghĩ thế nhưng hàng xóm thì biết giữa họ không khéo đã có chuyện to rồi. Vì căn hộ của cặp vợ chồng trẻ ấy không có tiếng cười, không có cả tiếng nói. Chồng về rất khuya cũng chỉ nghe có tiếng mở cửa rồi tiếng giội nước, không thấy bật đèn cũng không nghe có ai hỏi ai. Vợ về muộn cũng thế. Họ chỉ nói với nhau khi có bạn bè tới thăm hoặc trước mặt hàng xóm. Con bé đã lên năm, đi mẫu giáo rất ngoan, đến giờ đón con mà bố mẹ chưa về thì bác hàng xóm đón, thường là ăn cơm tối với các con của bác, nũng nịu với các anh chị, hỏi han, cười đùa như mọi đứa trẻ khỏe mạnh. Nhưng ở với bố mẹ những ngày nghỉ thì cả ngày con bé không nói, cười cũng không, mắt nhìn lấm lét như là sợ.

Lưu cũng biết vợ không còn yêu anh nữa, anh khỏe mạnh, đẹp trai, đàn bà con gái đủ mọi lứa tuổi rất thích được nói chuyện với anh, chọc ghẹo anh và cũng rất muốn được anh nắm tay, nắm chân ghẹo lại. Anh chỉ thiếu có tiền thôi. Chả lẽ một thằng đàn ông thiếu tiền nằm cạnh vợ mà không gây được một xúc động nào ở người đàn bà, dẫu rằng họ không còn là tình nhân nữa? Vô lý! Nhưng là chuyện có thật. Họ vẫn nằm chung giường, con gái ngủ giường con kê liền cạnh, nhưng rất nhiều đêm họ không hề biết đến nhau. Lưu luôn luôn về muộn và đôi khi mệt mỏi, chán chường, không phải lúc nào cũng chán vợ, mà là chán cái nghề truy lùng, bắt, khám xét. Tới đâu cũng chỉ vấp phải những bộ mặt sợ hãi, dối trá, oán hận. Bất cứ lúc nào cũng có thể nhận một nhát dao đâm từ lưng hoặc một gậy bổ xuống đầu. Cứ hẳn thế anh lại dễ ăn, dễ nói, dễ xử sự. Còn vợ anh thì sao? Từ mấy năm nay chị có một gương mặt rất lạ, không vui, không buồn, cũng không giận, như gương mặt tượng. Vừa là vợ lại vừa là người lạ, vừa là người thân nhất, vừa là người có thể căm ghét anh nhất. Không có mũi dao nào ló ra nhưng đứng cạnh nhau là đau nhói, sau đó là rã rời như đã bị chảy máu từ bên trong. Anh phải xử sự như thế nào, phải nói năng ra sao? Anh không biết, anh lúng túng, vụng về, cau có và càng trở nên đáng ghét hơn. Cũng có đêm Lưu rất muốn được yêu vợ. Anh nằm cạnh vợ, cười nịnh nọt và đưa tay khẽ vuốt ve một cánh tay của vợ. Chị hất tay anh ra như người ghê tởm, càu nhàu nói: "Ông ngủ đi, tôi mệt quá". Có lần anh nhẫn nại năn nỉ thì chị quay mặt về phía anh, một gương mặt trắng xanh dưới ánh điện đường chiếu vào, nói dửng dưng: "Ông muốn làm gì thì làm nhanh lên". Anh thở dài, nằm lùi lại, nói nhỏ: "Em ngủ đi, anh cũng thấy mệt rồi!". Ai mà tin được một cặp vợ chồng đẹp đôi như thế, nằm cạnh nhau cả năm mà không ai đụng chạm vào da thịt của ai.

Thời gian đầu chỉ có vợ chồng Lưu là biết cái gia đình nhỏ bé của họ có nguy cơ tan vỡ, còn bạn bè và họ hàng vẫn không hay biết gì. Thời gian sau, mọi người đều biết vợ Lưu có ngoại tình, biết rõ cả địa chỉ của người tình nhưng Lưu lại không hề biết. Có thể anh cũng đã lờ mờ biết nhưng anh không muốn tin vì người tình của vợ lại là ông trưởng phòng vật tư của một công ty du lịch. Ông ta đã năm chục tuổi, xấu trai và thô lỗ, chỉ được cái khỏe mạnh và rất lắm tiền. Người như thế làm sao quyến rũ nổi vợ anh. Vợ anh còn trẻ, vẫn đẹp và cũng có tiền. Anh cũng còn rất trẻ, mới ngoài ba mươi, là một sĩ quan cảnh sát có triển vọng, đã được báo Hải Phòng nêu tên và đăng ảnh. Anh chỉ có một khuyết điểm nhỏ là không nghĩ ra được những cử chỉ âu yếm lặt vặt của mỗi ngày để chiều vợ, không luôn luôn có mặt bên cạnh vợ những lúc cô ấy cần. Và đã rất nhiều đêm anh nằm vật bên cạnh vợ như một khúc gỗ sau một ngày bám theo những chiếc xe ca chật như nêm cối để phục bắt bọn cướp giật. Nhưng Lưu vẫn tin mối quan hệ bất chính kia nếu có thì cũng để trêu anh thôi, cảnh cáo cho biết chứ chưa hẳn đã muốn dứt bỏ thật. Cơ quan vật tư của công ty du lịch gần ngay khu nhà tập thể của công nhân viên. Gia đình trưởng phòng vật tư ở Kiến An nên ông ta chỉ về nhà tối thứ bảy và ngày chủ nhật, còn các ngày làm việc ông ta ăn ở ngay tại cơ quan. Các buổi trưa vợ Lưu cũng không về nhà, đi chợ nấu ăn tại nơi làm việc, cùng ăn với trưởng phòng và ngủ trưa tại phòng ông ta như một cặp vợ chồng. Không ai dám nói đã đành, người vợ ngoại tình cũng không thích giấu giếm nữa, kể cả với ông chồng cảnh sát. Cho tới một buổi trưa, Lưu đã bí mật leo ống máng như cách vây bắt một tội phạm hình sự, đột nhập từ cửa sổ khép hờ vào phòng riêng của trưởng phòng vật tư và bắt gặp vợ mình cùng người nhân tình lớn tuổi chỉ vừa kịp quơ chăn phủ lên người...

Họ đã đưa nhau ra tòa để ly hôn. Lưu thì xấu hổ và đau đớn nhưng vợ anh rất thản nhiên như đang thay mặt ai đó để làm cái việc nghiêm trọng ấy. Khi tòa hỏi ai sẽ nuôi đứa con gái, theo luật thì đứa con duy nhất sẽ theo mẹ, trừ phi... Người đàn bà nói luôn: "Ðể bố cháu nuôi, lương tôi thấp không đủ khả năng nuôi cháu". Nói rất tự nhiên, không đắn đo, nghĩ ngợi gì cả. Vài tháng sau, Lưu được tin cô vợ cũ đang ăn sáng thì bị bà vợ chính thức của người tình đưa con trai lớn tới đánh ghen, mẹ thì chửi, con thì đánh. Một năm sau, tay trưởng phòng chuyển công tác đi nơi khác và bỏ luôn người đàn bà còn trẻ và đẹp đã vì hắn chịu mất hết những gì cô ta có từ mười năm nay. Rồi có tin cô đi cặp với một người khác, thanh niên mới lớn, kém cô ta cả chục tuổi. Lúc thì cô ta sống với người trẻ tuổi hơn, lúc thì với người bằng tuổi, có lúc lại chạy theo một ông già tóc đã muối tiêu, đạo mạo như một ông bố. Chả hiểu ra sao cả. Như một con điếm. Mà cô ấy vẫn có tiền.

Lưu gửi con về quê nhờ mẹ nuôi, làm việc vẫn hăng say nhưng cứ nghĩ tới đàn bà là đau nhói. Ðàn bà thật khó hiểu mãi mãi anh không thể hiểu. Theo cách đánh giá của anh, họ đều tham tiền, ham vui và cạn nghĩ như nhau cả. Sau cuộc chia tay với vợ, đưa con gái về quê gửi mẹ và các em. Lưu đã là người hoàn toàn tự do, như thời anh mới đi làm. Anh xin nghỉ hẳn hai ngày để ngủ. Anh ngủ từ sáng đến tối, ra phố ăn cơm bụi rồi lại về ngủ tiếp. Tới trưa ngày hôm sau, anh dậy tắm rửa, cạo râu, lấy xe chạy một vòng quanh thành phố rồi chui vào một quán cà phê tồi tàn gần bến xe Niệm Nghĩa ngồi cho đến tối. Chưa bao giờ Lưu mệt mỏi đến thế và buồn đến thế. Thất bại về gia đình là thất bại đau đớn nhất vì lòng kiêu hãnh của thằng đàn ông bị tổn thương đến tột cùng. Cũng trong khoảng thời gian ấy Lưu còn phải chịu đựng thêm một thất bại khác là đơn vị anh sau nhiều tháng truy lùng vẫn không thể bắt được tên tội phạm thuộc loại đặc biệt nguy hiểm của thành phố. Tên đó là Tích. Tích "híp", là sói độc, không thuộc một băng nhóm nào, không có lãnh địa riêng, gặp cơ hội là làm, đã làm là chuẩn bị kỹ lưỡng và luôn luôn giữ được sự bất ngờ. Ðến vợ con nó cũng sống rất bí mật, khi ở Kiến An, khi ở Thủy Nguyên, có khi lại sống ngay giữa Hải Phòng, không ai biết mặt mũi thị, cũng không ai biết vỏ bọc của thị. Sự thách thức ấy khiến mọi người phát điên lên. Trong đơn vị chỉ có hai người biết rõ mặt Tích "híp" là Ðội trưởng Lưu và một chiến sĩ trinh sát. Nó có một gương mặt không có đặc điểm riêng, rất dễ trộn lẫn vào đám đông, ngoại trừ đôi mắt híp. Cách đây đã dăm năm, Tích "híp" còn làm thư ký đội bốc vác của một bến xe khách, đã vài lần Lưu đứng trò chuyện với nó, chuyện bâng quơ thôi, nhưng anh chợt gai người, cũng chỉ một thoáng, vì cái đảo mắt và cái cười không thành tiếng của nó. Vài tháng sau nó biến mất, không để lại một dấu vết nào vì vẫn còn là một tên tuổi vô danh. Sau đó hai năm trong giới giang hồ bắt đầu xì xào cái tên Tích "híp" sau nhiều vụ làm ăn rất mạo hiểm: buôn thuốc phiện, buôn xe hơi, xe máy qua biên giới, buôn người. Rồi cũng vẫn là Tích "híp" đụng độ bằng dao, bằng súng với Công an Móng Cái, Công an Cẩm Phả, Công an thành phố Hạ Long. Ðội trưởng Lưu là người đa mưu, chân tay trong giới giang hồ cũng nhiều, xử trí nhanh, đã từng bày nhiều thế trận rất lắt léo để nhử con mồi, nhưng Tích "híp" vẫn lọt qua hết sức ngoạn mục hoặc nhởn nhơ múa nhảy ở vòng ngoài. Một lần, qua một hệ thống truyền tin rất công phu, Lưu biết được Tích "híp" đang náu thân tại nhà người bạn của ông anh nuôi cách Kiến An dăm cây số. Ông này vừa mở quán vừa chăn vịt, quán nhà quê, bán bánh đúc riêu cua, chè xanh, rượu và lạc rang. Lưu và một chiến sĩ trinh sát vào quán uống rượu từ trưa đến ba giờ chiều, rồi Lưu giả vờ đau bụng xin nằm nhờ gian trong của chủ quán. Vẫn không có ai ra vào hoặc thăm hỏi, không có dấu vết nào có người lạ trong nhà. Khoảng 4 giờ chiều Lưu hỏi lối đi đại tiện, nhìn ra cánh đồng thấy một bóng người đội nón đang cất vó tép. Một cái lưng rất quen thuộc. Là nó chăng? Lưu đứng ngắm nghía một lúc rồi xăm xăm bước lại, tới gần lưng người kia anh rút súng quát to: "Tích "híp" mày đã bị bắt!". Người kia quay từ từ gỡ nón, một gương mặt lạ hoắc, râu quai nón, tóc muối tiêu, một bên mặt có vết nám to bằng nửa bàn tay bầm đỏ. Lưu lúng túng nhét lại súng vào bụng, tự giới thiệu là công an thành phố đi bắt cướp nhưng đã nhận lầm người. Người kia giương mắt nhìn không nói gì lại quay lưng nhấc tiếp các vó tép. Trên đường trở lại thành phố, Lưu mới thoáng ngờ cái bộ mặt râu quai nón của người cất vó tép. Rất ít người ở nông thôn để râu quai nón. Người buôn bán thì có, người đi cất vó tép thì không. Ông ta lại không nói, không hỏi thêm câu nào về cái chuyện bắt cướp, là ông nông dân mà không có tính tò mò sao? Một gương mặt muốn giấu đi, một giọng nói muốn giấu đi, thì là ai nhỉ? Là "nó" chứ còn ai nữa! Lúc này có quay lại cũng quá muộn. Nó đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Nó biến mất nhưng ông chủ quán, kẻ chứa chấp nó nhiều ngày, nhất định vẫn còn đó. Từ đó...

Sáng hôm sau. Lưu quay trở lại từ rất sớm, ông chủ quán vẫn bán bánh đúc riêu cua cho đám thợ làm đường, nhìn thấy anh vẫn mời chào vồn vã. Nhưng Lưu không cười, anh bước vào kéo ghế ngồi rồi hỏi ngay: "Cái ông cất vó tép còn ở đây không?". Người kia mặt không đổi sắc, hỏi lại rất tự nhiên: "Anh hỏi ông cất vó tép nào? Ông ta ở đâu?". Lưu nói gằn giọng: "Nó ở đây, ở ngay cái nhà này, nó là tội phạm, ông hiểu chưa?". Ông chủ quán quay sang hỏi đám thợ đang ăn: "Các chú có nhìn thấy ông cất vó tép nào lảng vảng quanh đây không?". Một người nói: "Vào trong làng mà hỏi, chứ ở đây làm sao biết". Ông chủ quán nói thêm: "Xin lỗi anh, từ ngày bán đi lứa vịt, tôi chỉ ngồi suốt ngày ở đây, không mấy khi bước chân ra đồng. Anh vào trong làng hỏi công an xã xem". Lưu cười cay đắng, anh vẫn khờ quá, khờ như thế làm sao bắt được một kẻ rất ranh ma là Tích "híp".

Sau ngày li dị vợ được nửa năm, Lưu nhận được tin Tích "híp" đã trở lại Thủy Nguyên, lần này nghe nói có cả vợ con. Cuối cùng Lưu đã mò được ra hang ổ của nó ở một hẻm núi, cách làng chừng nửa cây số. Anh đi một mình, giả làm nhân viên thu mua cây thuốc nam của viện dược liệu. Anh đã nhìn thấy nó một lần đi cùng với vợ và đứa con trai khoảng 13, 14 tuổi. Nó để râu quai nón, mang kính râm nhưng vẫn là cái dáng đi lòng khòng của thằng thư ký đội bốc vác năm nào, rất may nó chưa mập ra, chưa có bụng mặc dầu tuổi cũng đã ngoài bốn chục rồi. Chỉ cần thêm dăm năm sống ngoài vòng pháp luật là nó có thể xóa hẳn hình bóng cái thằng Tích "híp" năm xưa để trở thành một kẻ chỉ có tên chứ không có con người thật. Một buổi chiều, khoảng năm giờ. Tích "híp" về nhà được hơn nửa tiếng thì Lưu đạp cửa ngoài nhảy vào. Người vợ đang cầm siêu nước bước xuống bếp vội quẳng ấm nước ra sân rồi quay nhanh vào nhà trong. Lưu vẫn bám theo một bóng người đang nằm trên giường nhảy xuống, cúi người lủi dọc vách tường vào sâu trong nữa. "Có cửa sau lên núi chắc?". Lưu vừa thoáng nghĩ, sải chân định bước vọt lên thì bị vấp ngã chúi xuống. Không phải vấp mà bị con vợ Tích quỳ xuống ôm chặt lấy chân của Lưu kéo lại. Lưu thúc thẳng bàn chân bị ôm vào chét ngực teo tóp của người đàn bà, một tay vơ lấy chiếc ghế đẩu ném mạnh vào lưng Tích đang loay hoay trước khuôn cửa gỗ ăn thông lên núi, rồi anh rút súng nhằm vào Tích hét to: "Tích đứng lại! Mày mở cửa là tao bắn!". Thằng Tích hình như cũng sợ quá, hắn không quay người lại, vẫn loay hoay với cái then cửa. Con vợ liền buông chân của Lưu nhảy chồm lên kéo cánh tay cầm súng về phía thị, dồn hết sức mạnh ghì chặt khẩu súng đạn đã lên nòng ép vào ngực thị, nếu súng nổ thì sẽ được chết thay chồng, chồng thị sẽ có cơ hội chạy thoát vì sự lúng túng của kẻ bắt giữ. Cánh cửa phía hông nhà đã mở, Tích lao vào khoảng trống có rất nhiều bụi cây dại ở sườn núi mặc cho Lưu hò hét, chửi rủa cả vợ lẫn chồng. Mấy phút sau vợ Tích mới buông tay, nhìn kẻ thù với ánh mắt mừng rỡ và biết ơn: "Chúng em biết anh đã thương nên không nỡ bắn chết cả hai vợ chồng. Xin anh yên tâm, nhà em đã muốn ra đầu thú từ lâu rồi nhưng đang sợ". Lưu buông người xuống ghế, giắt súng vào người, nhìn chằm chằm người đàn bà nhỏ, ốm yếu vừa giận vừa phục. Chị ta lấy đâu ra cái sức mạnh đến kinh ngạc ấy nhỉ? Một cái thúc của anh vào ngực đến thằng thanh niên cũng phải há miệng buông tay, huống hồ...

Có tiếng gọi cửa của đứa con trai ở phía ngoài, mẹ nó búi vội cuộn tóc vừa bị xổ, nói bằng giọng rất nhẹ nhàng:

- Nhà có khách vào chào chú đi con.

Một thằng bé cao lớn, rất khôi ngô, cầm cặp sách bước vào:

- Thưa chú, thưa mẹ con đi học về.

Mẹ nó quay lại nhìn Lưu, nói to cho cả con nghe:

- Mời chú ở lại ăn cơm với mẹ con tôi rồi chờ anh ấy về luôn thể.

Lưu biết ý tứ của người mẹ trước con cái, anh mỉm cười nói theo:

- Xin chị cho bữa khác. Nhờ chị nói lại với anh, nếu anh tới gặp tôi sớm mai thì mọi chuyện sẽ không xấu lắm đâu.

Vợ Tích với đứa con trai tiễn Lưu ra cổng. Có mấy bà hàng xóm đứng ở đường chào Lưu rồi hỏi vợ Tích:

- Vừa rồi nghe ầm ầm như có đánh nhau to ở đâu thì phải?

Vợ Tích liếc mắt nhìn Lưu trả lời thản nhiên:

- Tôi mải nói chuyện với chú cháu từ thành phố sang chơi nên chả nghe thấy gì.

Rồi chị ta giục con: "Con chào chú đi" và nói với Lưu: "Xin mời chú lại nhà. Chỉ vài bữa nữa nhà tôi sẽ xin sang gặp chú ngay, mong chú giúp cho". Lời nói dịu dàng, cung cách con nhà gia giáo mà chịu làm vợ một thằng tướng cướp ư? Vợ con như thế, trời ưu đãi đến thế mà không chịu làm người đàng hoàng thật là uổng quá, là một thằng đàn ông ngu quá. Cũng như đã có những con đàn bà hết sức ngu...

Hoa "Ti-gôn"

Thanh Châu

"... Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người..."

Khái Hưng

(Gánh hàng hoa)

Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa "Ti-gôn". Ðó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người bạn học trò thân nào là không biết rõ. Ðến mùa hoa "Ti-gôn" nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng : "Hoa Ti-gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào". Rồi người ta tự hỏi thầm :

"Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi ? Chắc lại có điều tâm sự chi đây..."

*

* *

Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là hoạ sĩ nghèo mới ở trường ra - đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp.

Mà cảnh đẹp ở đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.

Ðến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi. Chất hãm xe, nghển cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất dắt xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nữa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh "con gái hái hoa" ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẽ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy lần đầu đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Ðến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.

Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.

Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi, bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.

Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong an-bom để ghi giữ lại, rồi dần dần cũng quên đi...

*

* *

Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao. Anh bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà khiến các bạn Chất tặng cho cái tên : "Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp". Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính, Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.

Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa nhà lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. ở đâu ? Chất giật mình. Có thể nào ? Nhưng quên làm sao khuôn mặt ấy, đôi môi ấy ? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ : thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.

Trong khi nhảy với thiếu phụ trong một bản "tăng gô", Lê Chất đột nhiên hỏi :

- Bà vẫn thích hái hoa "ti-gôn" chứ ?

Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên :

- Ông nói gì... tôi không hiểu.

- Có lẽ bà đã quên cả Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa...

Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh :

- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không ?

Nàng nói tiếp :

- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám

chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau...

*

* *

Mai Hạnh - tên thiếu phụ - rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được ? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận sẽ cho chàng vẽ một chân dung.

Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo trên đỉnh núi, Lê Chất hỏi :

- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể trở thành đôi bạn thôi ư ? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không ?

Mai Hạnh, giọng run run, tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại :

- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.

Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.

Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng dự định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại, sau cùng cũng nhận lời.

Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt song mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh : "Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Ðừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Ðến phút cuối cùng em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai... Em đã thấy rằng : nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa ? Em là một đứa hèn ! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy ! Nhưng còn em thì thật chẳng bao giờ, chẳng bao giờ ! Vì em biết sẽ không bao giờ an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh...".

Trong thư, một dây hoa "ti-gôn" nhỏ ép rơi ra : những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.

Lê Chất đặt một cái hôn lên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch Phù Tang có một mình.

*

* *

Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.

Họa sĩ đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt.. hay vì sầu muộn...

Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa "ti-gôn" nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.

Ma Mèo

Phong Ðiệp

Nụ cười trên môi lũ trẻ tắt ngấm khi tiếng chuông gọi gắt gao của người bố vang lên. Hai cái xe đẩy nối đuôi nhau chạy dọc theo đường hành lang hẹp và tối om. Con mèo già rên gừ gừ ở lối nhỏ rẽ vào nhà kho. Hai vệt sáng xanh lẹt, bất động mở trừng trừng về phía chúng.

"Anh bảo có chuyện gì không? Bố về sớm hơn mọi khi đấy".

"Tiếng chuông còn rất tức giận nữa".

"Thế anh bảo..."

Hai chiếc xe cùng bẻ bánh về phía nhà ngang. Tất cả đèn điện đều được bật sáng một cách bất thường. Sàn nhà bóng loáng. Cánh cửa gian chính mở rộng. Bên cạnh chiếc giày to sù của người cha là một đôi xăng đan nhỏ nhắn.

Hình như chủ nhân của nó bước vội nên làm xô một bên mép thảm lót trên bậc cửa.

"Anh nghĩ cha muốn chúng ta vào trong đó chứ? Ðã lâu lắm rồi..." Thêm một lần chuông nữa, ngắn và đanh. Hai đứa trẻ tần ngần đẩy xe đến trước cánh cửa. Một người phụ nữ đang đứng căng thẳng giữa nhà, chỉ chực đợi chúng đến để nhìn. Khuôn mặt lạnh lẽo và buồn. Nước da bà ta trở nên trắng ốm trong ánh đèn điện quá chói.

Người cha ngồi lặng ngắt trên chiếc phô tơi. Chiếc gạt tàn trên bàn đầy những đầu mẩu thuốc lá.

"Từ nay cô Bội sẽ dạy dỗ các con".

Người cha im lặng giây lát và nhìn chúng nghiêm khắc.

"Không một ai được phép cãi lại cô Bội. Các con rõ rồi chứ" Không được phép, đúng thế. Bây giờ thì hãy về phòng của mình đi".

Người đàn bà mệt mỏi giơ tay chào chúng. Bàn tay dài với các ngón khô khan.

"Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào sáng mai".

Hai cái xe vòng trở về đường hành lang hẹp, dài hun hút. Con mèo già vẫn ngồi ở lối rẽ vào nhà kho, hai chấm mắt xanh lét. Những lùm cây trong vườn nghiêng ngả vào nhau. Gió thổi ràn rạt.

"Anh ạ, em thấy sợ".

"Bố sẽ đi vào sáng mai. Vẫn những chuyến đi dài ngày".

"Và rất nhiều quà".

"Nhưng chẳng bao giờ bố nói chuyện với hai anh em mình".

"Vì bố rất bận. Bố về nhà để nghỉ ngơi".

"Em thấy thương bố. Nhỡ lúc nào đấy bố trở nên mệt mỏi vì cứ phải chăm sóc hai anh em mình thì sao?".

"Em huyên thuyên rồi đấy!"

Tiếng chuông đánh thức lũ trẻ kéo rền vào lúc bảy giờ. Chúng vội vã mặc quần áo và lết người đến cái xe đẩy đặt sát giường. Tiếng xăng đan của cô Bội nện lạch cạch xuống nền đá hoa. Cánh cửa phòng chúng bật mở ngay trong chớp mắt. Thậm chí lũ nhỏ không nghĩ đến việc khóa trái cửa khi đang ở trong phòng.

Trong ánh sáng ban ngày nhìn cô Bội gầy và xanh xao hơn chúng tưởng. Hai hố mắt sâu trũng nhìn chúng lạnh lẽo. Bộ quần áo bằng vải dày bó chặt lấy thân hình lép kẹp. Thường những người phụ nữ ở tuổi cô người ta không ăn mặc như thế.

"Chúng cháu chào cô Bội ạ."

Những đứa trẻ gượng gạo mấp máy môi. Cô Bội dường như không có ý đáp lại lời chúng. Cô đi thẳng đến những chiếc giường. Ðống chăn màn lùng bùng được thu dọn trong giây lát. Hai cái ga giường được kéo phẳng phiu lại.

"Cô Bội, hôm qua cô ngủ có ngon không?

Ðứa con gái hít một hơi dài, lên tiếng làm quen. Thằng anh nó bắt tay vào bánh xe, đẩy dần ra cửa.

"Cháu định đi đâu đấy?"

Cô Bội quay phắt người ra, hỏi bằng giọng kim hơi gắt.

"Cháu muốn ra vườn".

"Không được. Hãy đi rửa mặt mũi và ngồi vào bàn ăn sáng. Sau đó chúng ta sẽ học".

Ðứa con gái lo lắng nhìn thằng anh đang giãy giụa một cách khó chịu trên xe đẩy.

"Anh sao thế?"

Cô Bội im lặng đẩy từng chiếc xe ra ngoài và khép cửa lại. Bữa ăn sáng bắt đầu trong trật tự. Cô Bội ăn rất nhanh và hầu như không gây ra một tiếng động nhỏ nào. Lũ trẻ nhai nuốt chậm chạp, miễn cưỡng. Cô Bội phải ngồi đợi đến hơn mười phút cho chúng kết thúc xong xuôi phần ăn sáng của mình.

"Tất cả đều là những chất bổ dưỡng giúp nuôi cơ thể khỏe mạnh".

Cô dọn bàn ăn và giải thích.

"Tại sao cháu ăn không hết?"

Ðĩa của đứa con gái còn thừa đến một phần ba.

"Còn con Két nữa cô ạ"

"Ðó là con mèo già bị điên". Thằng anh vừa lau mồm vừa giải thích.

"Một con mèo già bị điên ư?" - Giọng cô Bội loãng ra

- "Nó sẽ gào vào ban đêm và cắn xé tất cả những người nào mà nó gặp".

"Không đâu cô ạ. Nó đã già lắm rồi. Lông rụng từng mảng. Nhưng nó không bỏ đi như những con mèo khác".

Cô Bội im lặng thả chùng người xuống ghế. Lũ trẻ lặng lẽ rời bàn ăn và đi sang phòng bên ngổn ngang sách vở. Một túm lông mèo đậu lơ phơ trên thành cửa sổ.

Cô Bội bắt đầu bài mới bằng vẻ mặt nghiêm trang.

"Những con ma mèo thường hiện về gào thét trong đêm. Chúng gọi nhau thê thiết và rầm rập đi thành từng đàn..."

Ðứa con gái lo lắng đưa mắt nhìn anh. Nhưng chúng vẫn tiếp tục lắng nghe và không nói một lời nào.

Giờ học kết thúc khi cô Bội trở nên phờ phạc. Khuôn mặt cô trắng bệch, vô hồn.

*

Con mèo không xuất hiện vào những bữa ăn sau đó. Từng đám lông thưa thớt mầu tro của nó vương vãi khắp nhà.

Lũ trẻ bị cấm thức khuya. Kết thúc giờ học buổi tối chúng phải lập tức về giường và tắt đèn đi ngủ. Ðiều ấy làm cho đứa con gái áy náy.

"Anh nghĩ nó sẽ chết chứ?"

"Ai cơ? Cái con Két hôi hám đó à? Thì nó đã già quá rồi còn gì".

"ý em không phải vậy". Ðứa con gái ấm ức giảng giải

- "Chẳng ai cho nó ăn cả. Kể từ mấy ngày hôm nay. Nó đâu có làm hại ai".

Cô Bội sẽ tiếp tục kể chuyện về lũ ma mèo nếu em còn tiếp tục nói thế" - Thằng anh nó hào hứng đe em - "Cô Bội luôn có rất nhiều chuyện về chúng".

"Nhưng em không thích chúng".

Ðứa con gái thở dài và trùm hụp chăn qua mặt.

"Nó sẽ chết mất thôi".

Thực ra con mèo chưa chết bởi nửa đêm, khi chợt tỉnh giấc thằng anh nghe thấy tiếng nó kêu bải hoải ở phía sau nhà kho. Nó lần gọi em thì con bé đang đau bụng dữ dội, chân tay co quắp lại, mồ hôi tứa ra đầm đìa.

Ngoài hành lang tối om. Tiếng kêu của con mèo lịm dần đi. Thằng anh lần xe đẩy đi ra. Phòng cô Bội ở phía đầu nhà kho vẫn sáng choang như không có động tĩnh gì. Ðứa nhỏ hít một hơi thật sâu và cất tiếng gọi:

"Cô Bội ơi! Cô Bội ơi..."

Bây giờ thì nó đã đứng trước cửa phòng. Gió phần phật thốc vào giường cô Bội. Không có người trên đó.

- Cô Bội ơi! Cô Bội ơi! Có tiếng đất đá rào rào ở vườn sau rồi đột nhiên im bặt. Ðứa nhỏ cố quay trở về thật nhanh. Tự nhiên nó thấy sợ những tiếng bánh xe xiết lên nền đá hoa vang lên lạc lõng giữa đêm khuya. Khi thằng anh về đến nơi thì cô bé đã đờ người lại. Hai bên mép nó nước dãi nhều ra. Thằng anh lôi con em xuống xe, đẩy ra ngoài vườn theo lối tắt.

Người đàn bà hốt hoảng ra mở cửa cho những đứa trẻ. Có tiếng trao đổi xì xụp ở nhà trong. Tiếng chân người chạy thình thịch ra lối cổng. Tiếng nước xối xèn xẹt. Con bé em được xốc lên giường. Có rất nhiều người quây lại. Cái xe đẩy của thằng anh bị xô vào tít góc tường. Muỗi bay vè vè qua mặt. Nhưng mệt mỏi làm đứa trẻ thiếp đi.

Buổi trưa có ba người đàn ông và một người phụ nữ đẹp tìm cô Bội. Sau đó tất cả cùng kéo lên chiếc xe Zép cũ kỹ có tiếng nổ phành phạch như máy xát.

Ba... tiếp tục sang nấu ăn cho những đứa trẻ. Lúc ra vườn sau hái rau thì phát hiện cả một khoảng đất đã bị quần nát. Lũ trẻ nằm trong phòng đọc sách cho mãi tới khi tiếng chuông báo giờ ăn kêu lên.

Người cha trở về sau những chuyến đi dài ngày. Da ông đen sạm lại và gò má hốc hác.

"Rốt cuộc là đã có chuyện gì xảy ra vậy?"

"Con không biết bố ạ. Nhưng lúc ấy con nghe có tiếng mèo kêu ở sau nhà kho".

Người đàn ông thở dài:

"Ðã có những chuyện mèo điên. Chúng cắn người và họ đã chết vì không biết. Cô Bội có một đứa con như vậy"

Những đứa trẻ ngồi lặng ngắt. Rất lâu sau con bé mới thốt lên:

"Bố ạ. Chúng con muốn cô Bội".

Người cha mệt mỏi đứng dậy.

"Các con về phòng đi. Từ ngày mai các con sẽ học ở trường".

Hai đứa trẻ im lặng đẩy xe về phía hành lang tối om.

"Anh ạ, con Két không bị điên"

"Nhưng chúng ta lại nói khác".

*

Năm học mới bắt đầu và những đứa trẻ phải dậy sớm hơn thường lệ. Chuông kêu rền dọc hành lang hẹp, chói chang ánh nắng. Bà cụ hàng xóm đã đợi chúng sẵn ở dưới sân.

"Con chào bố!"

Cánh cửa phòng khách vẫn đóng im lìm. Tấm đệm lót được đẩy quá ra phía hành lang, một bên mép bị xô lại.

Ở gần trường, luôn có một người phụ nữ trong bộ quần áo bằng vải thô bó sát lấy thân hình lép kẹp, chờ chúng đi qua rồi lặng lẽ bỏ đi.

Hà Nội 8 - 1996

Mật rắn

Nguyễn Dậu

Tôi quen cậu ta lần đầu ở ngay cổng đền Ngọc Sơn. Chiều hôm đó, sau một ngày cắt tóc mỏi mệt, tôi thu dọn đồ nghề, ghì chặt sau xe đạp, lững thững dắt xe về Ðền, nơi cư trú của tôi. Một đám đông người tụ tập bên cạnh mảng tường "long môn hổ bảng". Tôi lướt qua, không lưu ý, bởi vì một đám tụ tập hoặc một trăm đám tụ tập, chỉ là chuyện bình thường ở các khu náo nhiệt và nhiễu sự của bờ hồ.

Nhưng một giọng nói oang oang đập vào tai tôi, khiến tôi phải dừng lại.

- "Ai bị phong thấp, ngâm sẵn hổ mang. Ai bị da vàng, tìm rượu hổ lửa. Ðàn bà không chửa, chuốc lấy mang bành. Ðàn ông hoạt tinh, đừng quên rắn ráo...".

Người bán rắn là một thanh niên trạc ba mươi tuổi. Y có khuôn mặt trắng trẻo học trò, vóc người thô to của một lực điền. Duy có đôi mắt tròn sáng, lúc nhìn từ xa thì hiền từ, lúc đảo quanh thì thật tướng cướp. Trên mình y đeo một chiếc túi vải thắt miệng ở trong thấy bùng nhùng động đậy, chắc là có vài chục con rắn. Còn trên tay y, một cánh tay trắng mịn, thì lằng nhằng nhiều mảnh sẹo, như là người phải bỏng. Bàn tay y nắm chặt. Ba kẽ tay kìm chắc ba cái đuôi của ba con mang-bành, cạp-nong, và hổ-trâu. Thỉnh thoảng y lại giật tay, ba con rắn hướng ra ba phía, oằn mình, ngóc đầu phun phì phì.

Qua mấy người đang túm tụm, đôi mắt sắc sảo và ranh mãnh của y chợt nhìn thấy tôi. Lập tức y lên tiếng xua đuổi những người vây quanh:

- Xin mời các quý ông, quý bà giải tán ngay cho. Các vị xem chứ đếch mua, làm tớ quảng cáo khản cả cổ. Nào xin mời đi ngay cho. Tớ có khách mua rắn đây rồi. (Hắn ôn tồn chuyển giọng nói với tôi). Mời bác, bác phó cạo, em chắc chắn là bác sẽ mua rắn cho em. Nếu em đoán sai, bác cứ vả vào mặt em!

Tôi vội vàng phân trần:

- Không, không. Chú cứ bán cho người ta đi. Tôi... cũng là nhân thể xem qua thôi.

Người bán rắn lắc đầu quầy quậy, cất giọng hóm hỉnh:

- ấy chớ! Bác đừng phụ em. Hôm nay em bán rắn ở đây cốt chỉ để bán cho một mình bác. Em sinh ra ở trên đời này, rồi làm nghề bán lũ sinh linh "nguy hiểm chết người" này, cũng chỉ vì mình bác. Sau khi bác mua rắn cho em, em sẽ giải nghệ. Bác không tìm thấy em nữa đâu. Bèo dạt mây trôi, bác ơi...

- Chú nói kiểu này với người thứ mấy mươi rồi?

Người bán rắn vung mạnh cánh tay. Ba con rắn nhập làm một, bay thành một vòng rộng. Y cười. Tiếng cười sang sảng:

- Chịu bác. Em đã nói thế với hai mươi bảy người rồi. Còn độc mình bác nữa là đủ "nhị thập bát tú".

- Sau đó chú sẽ bán cho ba mươi sáu người thiên cang và bảy mươi hai kẻ địa sát... Vậy ai là người mua cuối cùng?

- Em một lần nữa xin chịu bác. Thôi, bác mua cho em đi. Từ sáng đến giờ em "dọi" lắm rồi. Một mẩu bánh mì cũng không.

Tôi đăm dăm nhìn y. Câu nói của y giẫm đúng vào lòng tôi. Tôi càng bùi ngùi hơn. Vì qua cách nói năng của y, nếu không phải kẻ có học, thì cũng là người làu thông một số sách cổ của Tầu. Hắn đứng vụt lên. Cao lớn, khôi ngô, nón lá, áo nâu, râu quai nón lún phún, càng gây bất đắc chí trong thời Ðại Cồ Việt xa xôi.

- Bác xanh xao, uể oải thế kia là chân âm toàn thịnh, chân dương hữu khuy. Bác phải có rắn, rắn ngâm rượu, rắn nướng chả, lấy liệt hỏa mà khu trừ hàn tà. Bác không mua rắn của em bác định ăn nem công chả phượng nào mới được chứ?

- ừ thì tôi thua chú. Tôi sẽ mua. Tôi cũng đang bị phong thấp nó hành đây. Mỗi cái tệ, tôi không biết chần rắn.

- Bác có bình chưa?

- Có đủ cả rượu nữa.

- Vậy em sẽ chần rắn cho bác. Bác lấy tam xà e không đủ. Bác lấy giùm em bộ ngũ xà hay hơn. Một mang-bành, một cạp-nong, một hổ-trâu, một ráo, một mai-gầm nhé.

Ðám người dãn ra. Chúng tôi chầm chậm đi qua cầu Thê Húc. Thấy bước chân của người bán rắn tập tễnh, khó khăn, tôi hỏi:

- Chân chú làm sao thế?

- Thọt!

- Chiến đấu à?

- Cũng có thể ví với chiến đấu được. Em bị rắn cắn vào mông. May mà có mẹo gia truyền, thoát chết, chỉ bị thọt thôi.

- Lúc nãy chú chào tôi là ông phó cạo. Sao chú biết?

- Dân sinh sống quanh bờ hồ này, ai chẳng rõ bác.

- Vậy là chú cũng đã quẩn quanh khu vực này lâu rồi?

- Cũng như bác. Dòng đời cuốn dạt chúng ta đến một chỗ?

- Chú ăn nói sách vở gớm. Học đến đâu rồi?

- Em chẳng có bằng cấp gì cả.

- Không quan trọng. Trường đời sâu sắc hơn.

- Chính thế! Biết bao người vĩ đại không mẩu văn bằng, học vị...

- Ðể xem chú có vĩ đại không đã. Hay chỉ là một thằng bẻm mép! Mấy thằng bán lơ trắng lơ hồng nó còn dẻo mồm gấp mười chú.

- Chịu bác, nhưng loài người biết dùng nọc rắn để chữa bệnh cho mình. Lấy độc trị độc, đó chẳng là sự khôn ngoan tột đỉnh của con người sao?

- Ðiều đó thì đúng là vĩ đại!

Chúng tôi về đến Ðền. Tôi vào phòng sửa soạn rượu và bình... Người bán rắn thì ra cầu ao (lẽ ra nên gọi là cầu hồ) để mổ rắn. Y làm việc cực kỳ thành thạo. Chỉ mười lăm phút sau, năm cái thân rắn đã sạch sẽ, khoanh tròn trong bình thủy tinh và ngâm chìm trong năm lít rượu mầu xanh nhạt.

Tôi lặng lẽ quan sát anh chàng. Nhanh nhẹn, tuy què thọt. Giọng nói vừa trung thực một cách quê mùa, vừa quá ư láu lỉnh kiểu đường chợ, thành thử, không thể bỗng chốc đánh giá đúng thực chất con người này. Cảm giác của tôi là ở y có nét đáng thông cảm, tuy rằng không phải gây cho tôi một đôi điều ngờ vực. Thôi được, nhiều vải mai biết...

- Này, tên chú là gì nhỉ?

- Chi bác ạ. Ðặng Quân Chi!

- Một cái tên rất hay. Ông cụ cậu là một nhà nho chăng?

- Chính thế. Nhưng cụ em mất từ hồi em còn trong bụng mẹ. Ông chú em đặt tên cho đấy!

- Thế thì chú cậu cũng nho.

- Nho nhe gì. Ông chú em biết vài chữ đủ để đọc tên thuốc bắc.

- Ðọc được tên thuốc bắc là khá.

- Khá cái ăn mày. Ðọc được, không viết được như các bà nhớ quân bài tam cúc thôi.

- Ông chú đặt cho cậu cái tên quá nhiều ý nghĩa đấy.

- Bác bảo sao?

- Này nhé. Theo tiếng Việt, Quân Chi, nghĩa là hạng người nào. Theo nghĩa Hán, là bậc hiền ấy.

Người bán rắn cười ngặt nghẽo:

- Lúc nhỏ em chỉ là "Quân". Từ khi bị thọt ông chú em thêm cho chữ "Chi" nữa. Bác có biết chữ nho không?

- Như người ta thuộc quân bài tam cúc thôi.

- Có khi em khá hơn bác. Bác xem đây!

Nói xong, Quân Chi vạch ra đất hai chữ nho, cứng quèo và xệch xẹo như đặt xếp bằng que vậy.

Tôi mỉm cười:

- Một chữ Hán, một chữ Nôm.

- Nho cả đấy, bố trẻ ạ.

- Không, một Hán, một Nôm. Ðây là hai chữ "quần che", ông chú chơi xỏ thằng cháu.

- Như thế nào?

- Một là ông ấy ghét cậu...

- Ðúng! Cực kỳ ghét. Em hay ăn trộm thuốc bắc của ông ấy.

-... Bảo cậu là loại lấy quần mà che. Hai là nói lái thì quần che tức là què chân. Cũng có thể tán rộng ra là thằng quần chị, thằng quẫn chí, thằng...

Quân Chi thét to:

- Tiên sư cái thằng chú em. Ðúng là bọn nho thâm lắm. Chết chết, em xin lỗi bác. Nhưng quả thật thằng chú đểu cực kỳ... Mà thôi, muộn rồi. Em xin bác tiền rắn. Vợ con em nó còn đợi...

Khi nghe thấy số tiền, tôi lạnh cả người. Một bộ ngũ xà tám chục đồng (tiền năm 1972) công chần rắn, rửa rắn hai chục nữa. Vị chi là một trăm. Vậy mà tiền công cắt tóc của tôi chỉ có ba hào một đầu người lớn, hai hào một đầu trẻ con.

Phải lấy hết can đảm tôi mới giữ vẻ bình thản đặt vào tay người bán rắn một trăm đồng chẵn.

Quân Chi hởi hả cười:

- Còn mười cái mật nữa, bác lấy giùm em.

- Bao nhiêu?

- Hai chục!

- Tôi hết cả tiền rồi.

- Tùy bác. Ngâm rượu mà không có vài chục cái mật rắn kèm theo thì khác gì ngâm... thịt ếch.

- Tôi tưởng mỗi con rắn có một cái mật chứ?

- Mật là lộc của em. Em chỉ bán rắn chứ không bán mật. Bác có thấy em rao bán mật rắn không?

- Vậy là tôi mắc lỡm chú?

- Luật giang hồ của dân bán rắn chúng em như vậy. Vì thế quê hương chuyên nghề bán rắn của em mới gọi là Lệ Mật.

- Ðúng là đồ... rắn độc.

Quân Chi trâng tráo thừa nhận:

- Cực kỳ độc bác ạ. Bác có chửi réo tên thành hoàng làng nhà em, thì lúc mổ rắn cho bác, em vẫn giấu mật vào mồm, có trời tìm!

- Thằng quẫn chí! Thằng què chân! Thằng quần che!

Người bán rắn cười ngặt nghẽo, cười chảy nước mắt, cười như chưa bao giờ được cười. Nghe tiếng cười ấy, lòng tôi dịu hẳn lại.

Ðặng Quân Chi bỗng ngừng cười, thấp giọng bảo tôi:

- Nhưng em không tệ với bác đâu, mười cái mật rắn, em chỉ lấy bác một chục thôi. Bác thấy em cho đẹp không? Em nói thật nhé, bác yếu lắm, chân dương của bác hư thoát hết, phải đôn nhiệt hồi hỏa mới mong khang cường và diên thọ, mà như vậy không gì bằng mật rắn.

- Bình rượu của tôi cần bao nhiêu mật rắn?

- Một trăm lẻ tám, ứng với số sao thiên cang và địa sát. Sau khi nhồi vào bụng bác đủ trăm lẻ tám vị "anh hùng" này rồi, bác sẽ tha hồ tung hoành trong đám... chị em! Hề hề...

- Chú là một trong những tên đầu bò mà tôi bắt gặp đấy.

- Em biết bác nghèo. Phó cạo thì giàu với ai được. Vì vậy mỗi ngày em đưa dần cho bác mười chiếc mật rắn. Thế nhé. "Chào bác! Gút bai! Ôrơvoa! Tái kiến!" - Lạy bác ạ!

Cuộc đời có nhiều cái tình cờ, cái ngẫu nhiên có lúc trùng lặp như cố ý bịa chuyện. Một bình rượu rắn muốn hết mùi tanh nồng, phải ngâm thêm táo tầu, đỗ trọng và cam thảo mà cũng phải sáu tháng sau đó mới có thể uống được. Bình rượu của tôi không ngoài quy luật ấy, nghĩa là còn niêm phong kỹ trong góc nhà. ấy vậy mà tôi tự dưng lại béo dần ra, rồi dần dần hồng hào sì phệ thực sự. Hồi đó tôi ăn cơm tập thể ở phố Hàng Giày, mỗi bữa ba hào. Ðôi khi, người ta lại tìm thấy trong những thùng mỳ sợi một xác cóc hoặc một xác chuột nhắt. Béo đẫy vì vậy chăng?

Ðặng Quân Chi vồ lấy cơ hội ấy. Mỗi lần quảng cáo tác dụng của rắn, cậu ta lại đem tôi ra làm ví dụ sống động. Y rêu rao thật vang cho mọi người nghe:

"Kìa kìa ông phó cạo, vốn gầy bủng gầy beo. Uống rượu rắn ít lâu, trở thành đô lực sĩ. Bây giờ ông béo ị. Như chú khách Hàng Bồ. Rất đẹp lòng các cô! Rất vừa ý các mợ!".

Với người khác, chắc chắn chỉ dùng đến một cái tát, còn tôi, tôi phải lạy van mãi, Quân Chi mới ngừng rêu rao cái bài vè khả ố đó.

Từ hôm bán rắn cho tôi, cậu ta coi tôi như người thân, ra vào trong Ðền như vào nhà riêng. Có lúc cậu ta lễ độ, có lúc cậu ta nhâng nháo, khiến mấy ông già ở trong Ðền vừa vui vẻ vừa khó chịu.

Thực hiện cam kết với nhau, cứ cách vài ngày Quân Chi lại trao cho tôi một gói giấy, hôm thì tám, hôm thì mười cái mật rắn. Có lúc cậu ta đích thân đem tới cho tôi. Hôm nào bận việc gì đó, cậu ta bảo vợ cầm đến. Nói tới cái khoản "vợ" của cậu ta, kể cũng thật quái đản.

Một lần, tôi hỏi Ðặng Quân Chi:

- Chú có mấy vợ?

Người bán rắn mặt tỉnh ănglê, trả lời:

- Em một vợ.

- Hình như ba vợ thì phải.

- Em lạy bác. Một vợ còn chẳng có khố mà mang nữa là. Em chẳng dại. Người ta có câu: "Một vợ, nằm ngủ khoèo, hai vợ ra chuồng heo, ba vợ ăn bánh... bèo".

- Thế sao mỗi lần mang mật rắn đến cho tôi, lại một cô khác mặt. Một cô rỗ hoa má lúm đồng tiền, một cô gầy yếu nhẽo nhèo như cái giẻ vắt vai, một cô lùn choằn choằn, tròn xoe như hạt mít? Nghe nói, các cô ấy đã đánh xé nhau, phải không?

Ðặng Quân Chi ngẩn mặt ra giây lát, vừa sượng sùng, vừa trơ trẽn:

- Em xin chắp tay lạy phục bác. Thôi thì bác "đại xá" cho em. Cái thằng thổi sáo mù đặc kia còn cuỗm được cả hai chị em, huống chi em lừng lững một đấng... "vua rắn độc" như thế này...

- Ðấy là việc của chú. Tôi không phản đối, cũng không khuyến khích. Ðào hoa lắm, thì tự khổ thôi.

Quân Chi tủm tỉm cười:

- Bừa phứa đi bác ạ. Thời buổi bom đạn ùng oàng như thế này, biết đâu ngày mai... à, mà em nghe người ta nói rằng bác cũng vốn là khách văn chương thất sủng phải không?

- Liên quan gì đến việc này?

- Em xin phép ra cho bác một vế đối. Nếu bác đối được, em thề có các vị thánh trong Ðền này, sẽ biếu không bác số mật rắn chưa giao đủ. Em lấy việc bản thân em mà ra đối nhé?

- Hay đấy. Ra vế đối đi!

- Vậy bác nhớ kỹ nhé: "Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả"! Nếu bác không đối được, em phạt bác, giá mật rắn bác phải trả gấp đôi em. Hai từ vợ cả, mang nghĩa đôi đấy bác ạ!

- Quả là thằng què chân láu cá, thằng đểu số một trên đời này. Câu đối của cậu oái oăm quá.

Ðặng Quân Chi cười ròn câng cấc:

- Bác cứ chửi đi. Em chỉ muốn chứng minh cho bác rõ em không đến nỗi quẫn chí như bác tưởng đâu.

- Thế cậu đã đối được chưa?

- Em đã tự đối được.

- Cho nghe thử.

- Nhưng bác phải làm phần đối của bác.

- Ðã hẳn.

- Vậy thì: "Yêu đào, yêu liễu, liễu yêu chẳng nhẹ yêu đào".

- Tôi phì cười:

- Ðúng là cái thằng "quẩn chị"! Cứ xét khẩu khí mày, mày quả là loại lăng nhăng đa tình quá. Nhưng hai từ "yêu đào" không ổn...

- Lăng nhăng đa tình đâu chỉ riêng em? Khối, ông nọ ông kia bẩn gấp trăm. Nào, đến lượt em rửa tai nghe bác.

- Tôi mới thoáng nghĩ ra một vế đối có lẽ chưa chỉnh lắm. Này nhé: "Rắn đầu, rắn mặt, mặt rắn cũng loại rắn đầu".

Ðặng Quân Chi nheo nheo đôi mắt sắc sảo rồi nhảy cẫng lên:

- Tuyệt! Tuyệt! Bác vừa nhắc đến nghề nghiệp của em, vừa chửi mắng khéo em. Thế mà bác cứ bảo chưa chỉnh. Thôi được, em chịu thua. Chán quá, định xoay bác, mà không xong.

Sau khi người bán rắn tập tễnh đi ra, tự dưng tôi thấy buồn buồn trong lòng. Thằng cha cũng khá nhanh nhạy, nói theo kiểu cổ là khá mẫn tiệp. Cái gì đã đẩy hắn tới cảnh huống hôm nay? Ðiều gì khiến hắn lênh phênh, bừa bãi và dối trá? Tôi thở dài. Cảm chuyện người. Cảm chuyện mình.

"Một trăm linh tám vị anh hùng" mà Ðặng Quân Chi hoặc các cô vợ y giao cho tôi, tôi cẩn thận gói lại, cất đi. Mỗi lúc đưa mật cho tôi, Quân Chi thường khuyên tôi nên nuốt vào bụng, hơn là ngâm trong rượu. Tôi chỉ im lặng nhìn hắn, rồi lục tìm ví tiền lép kẹp của tôi mà trả đủ số. Hắn cũng im lặng nhìn tôi. Cả hai như âm thầm đối thoại với nhau, rằng: -"Tội nghiệp ông già phó cạo. Tôi thương ông, nhưng tôi vẫn cứ lột sạch một ngày công vất vả của ông. Bởi vì, tôi đói!" - "Này, thằng què! Tao biết rõ mày đã đối xử thế nào cùng tao. Nhưng cầm lấy cho khỏi đói. Còn tao, tao chịu khó thức khuya, câu ít cá dưới hồ, cũng kiếm được vài đồng bạc. Ðừng lo cho tao!".

Ðó, kẻ này biết rõ ruột gan kẻ kia! Có một điều tôi thích thú ở Ðặng Quân Chi là cái tài dệt chuyện của hắn. Dệt một cách bài bản, ly kỳ và thông minh nữa. Hắn không chỉ giỏi moi tiền của tôi, mà còn lột cả "chất xám" của tôi. Những đêm khuya rỗi rãi, hắn thường mò vào trong Ðền, kể mọi chuyện ba xí ba tú cho mấy ông già nghe, để rồi nằn nì tôi kể cho hắn một đôi điều có liên quan tới rắn. Tôi hào hứng kể với hắn rằng, theo một cuốn sách nào đó, người ta nói ở bên Mông Cổ có loại rắn tên là Ðôn-gôi Khốc-khôi được coi là độc nhất thế giới. Ðôn-gôi Khốc-khôi không cần cắn bập vào da thịt. Cách xa ba mét nó đã phóng ra nọc độc giết chết ngay lập tức từ người tới lạc đà, mãnh thú và chim ác. Vì thế từ nhiều năm nay, người ta biết rằng có tồn tại con Ðôn-gôi Khốc-khôi, song chưa thấy một ai thấy rõ hình thù và đời sống sinh thái của nó. Còn ở bên ấn Ðộ, có một giống chồn tên là Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, chuyên săn diệt rắn độc. Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi bằng một cú nhảy tuyệt vời lên khoảng không, lúc rơi xuống, bao giờ nó cũng ngoạm đúng và cắn nát cổ rắn. Vì thế, người ?ng-lê, người Hà Lan, người Bồ Ðào Nha khi sang ấn Ðộ, đã không tiếc bỏ ra từng lạng vàng mua một con Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, để làm vệ sĩ cho họ.

Ngày hôm sau, tại một ngã tư nào đó, lúc ngồi bán rắn, Ðặng Quân Chi đã phồng mang trợn mắt kể cho mọi người nghe rằng chính hắn đã sờ thấy, đã ăn gỏi một con Ðôn-gôi Khốc-khôi có nguồn gốc ở sa mạc Gô-bi. To gan hơn, hắn còn kể: một vị tùy viên ở sứ quán Mông Cổ đã yêu mến, đổi cho hắn một con Ðôn-gôi Khốc-khôi lấy hai cặp mang-bành và hổ-trâu. Gặp dịp thuận tiện sẽ còn mời hắn sang thăm Mông Cổ để biểu diễn kỹ xảo bắt rắn. Chà chà, cái thằng!

Bẵng đi nửa tháng trời không thấy Ðặng Quân Chi vào chơi trong Ðền. Kể cũng lạ, tự dưng tôi thấy bồn chồn đượm chút lo lo cho hắn, như tình cảm đối với chính người ruột thịt của mình. Không đừng được, tôi phóng xe đạp đi tìm một vài đầu phố, nơi hắn vẫn ngồi ba hoa với đám đông mua rắn.

Tại một cửa hàng bún xáo, tôi gặp người vợ thứ hai cái cô gày yếu nhẽo nhèo của hắn. Cô đang vừa ho, vừa ngồi nhổ lông vịt, lông ngan. Hàng chục con ngan và vịt đã cắt tiết, nhúng nước sôi, nằm trong một chiếc rổ lớn.

- Này, độ này chồng cô đi đâu thế? - Tôi hỏi.

Cô gái không trả lời. Tôi lạ lùng và kiên nhẫn hỏi lại cô ta đến lần thứ ba câu hỏi ấy. Cô gái khó nhọc ngẩng mặt lên, nét mặt xanh xao, đôi mắt trắng dã như mắt lợn luộc, rồi cô cười khì một tiếng, khuôn mặt nhăn nhúm thảm thương:

- Ông hỏi "chồng" tôi ấy à? Cái thằng tập tễnh trời đánh thánh vật ấy à? Mời ông vào nhà đá mà tìm nó. Chồng! Chồng! Pựt sì...

- Chuyện thế nào vậy cô?

- Trời đất ơi, đã bở hơi tai ra, không thở được, còn đến quấy rầy. Ông có mắt không?

- Mắt thì lúc nào tôi cũng có, ở trên mặt tôi đây này.

- Thế ông thong manh à, mà không thấy từ giờ đến chiều tôi còn phải nhổ lông, mổ lòng những ngần này ngan vịt, để cho bà chủ hàng có thịt bán bún? Ông có biết thương người không?

- Bây giờ thì tôi biết thương đây - Nói xong, tôi rút ở túi ra và giúi vào tay cô ta tờ giấy hai đồng.

Nét mặt cô gái dịu đi, đôi môi cũng mất vẻ cong cớn. Cô nói:

- Nó đi tù rồi. Giam ở Công an Hoàn Kiếm ấy. Nếu ông xót nó thì mời ông vào đấy mà tiếp tế cho nó.

- Rầy rà nhỉ? Tội gì vậy?

- Nổi cáu với khách, rồi quăng rắn vào mặt khách. Ðể cho mang - bành cắn vào mặt người ta.

- Chết! Chết! Mang-bành độc lắm. Người ta có việc gì không?

- Ông đi mà hỏi họ.

- Thế các cô... các cô... các cô vợ của chú ấy, có đi thăm hỏi chú ấy không?

- Các cô nào, vợ nào? Cả tôi nữa phải không? - Cô ta nhìn tôi, lộ vẻ giễu cợt, khinh bỉ, rồi cười giòn một hồi.

- Ôi... cái ông phó cạo tội nghiệp này, đúng là "người đời". Chẳng có đứa nào là chồng, cũng chẳng có con nào là vợ, ái tình bờ hồ mà, ông ơi là ông ơi. Nhân đây, tôi xin có lời mách giùm ông nhé. Tôi hỏi ông đã nuốt hết mấy chục cái mật rắn chưa?

- Chưa!

- Vì sao vậy?

- Tôi ngờ ngợ có cái gì không ổn, nên không nuốt.

- Ôi, thế thì ông ở hiền gặp lành đấy.

- Thế à?

- Chứ gì nữa. Toàn là mật vịt mật ngan cả đấy thôi.

- Mà thủ phạm tiếp tay cho hắn là cô?

- Còn sao nữa.

- Sao cô nỡ thế?

- Ðói mà, đức ông ơi.

- Một cặp canh ty rất đẹp đôi!

- Cũng cảm ơn ông có lời khen. Thôi, tôi trả lời ông vậy cũng bõ hai đồng bạc của ông rồi đấy.

- Tôi trả thêm hai đồng nữa. Cho tôi hỏi thêm vài câu.

Nói xong tôi lại rút đưa cho cô hai đồng nữa, bụng nghĩ "mất toi hai buổi công tác cắt tóc của mình". Cô gái giật lấy tờ tiền giấy, nhét vội vào cái coóc-xê trước bộ ngực lép kẹp, nhoẻn cười:

- Ông muốn lấy khẩu cung gì thì lấy đi, quàng lên kẻo tối.

- Chú ấy bảo quê ở Lệ Mật?

Lại một cái cười giòn khanh khách của cô gái:

- Con đĩ mẹ cái thằng bịp! Thưa với ông rằng: Lệ Mật là quê nhà tôi ạ. Tôi về Lệ Mật lấy rắn, những con rắn vứt đi, người ta đã bỏ hết nanh liêm, rút hết nọc độc ấy mà, rồi bán lại cho nó, nó đem bán lại cho các người đấy. Còn quê nó ấy ư? Có quỷ biết. Ông còn hỏi gì thêm nữa không?

- Cảm ơn cô. Ðủ lắm rồi. Lẽ ra tôi phải trả cô bốn chục mới đúng!

Lại chừng nửa tháng sau.

Một hôm tôi liều mạng sang bên huyện Gia Lâm vào giữa ban ngày. Tôi nói liều mạng vì hồi ấy máy bay Mỹ bắn phá dữ dội thành phố. Chẳng mấy ai dám đi cầu phao sông Hồng vào lúc chín mười giờ sáng cả, trừ một số cán bộ và bộ đội có công chuyện khẩn cấp. Cũng may không có gì xảy ra. Khoảng sáu giờ chiều thì tôi về đến nhà, người nhão nhừ mệt mỏi.

Ðặng Quân Chi ngồi lù lù trên chiếc ghế đá ở ngoài dinh Trấn Ba. Thấy tôi, hắn đứng lên, reo to:

- Ôi... Bác có mong em không?

- Cũng có mong.

- Còn em thì nhớ bác quá.

- Cứ cho là như vậy đi! Chú vui vẻ nhỉ! Mà... xanh xao, bủng beo thế kia kìa!

- Chả sao, bác ạ. Em về Lệ Mật xây lấy ba gian nhà. Thì cũng phải lo cho có chỗ chui rúc chứ bác? Giá mà bác về chơi thăm cơ ngơi nhà cửa của em. Cực kỳ, bác ạ!

- Toàn bằng đá?

- Em nhờ đổ bê-tông thôi.

- Có cửa sổ sắt! Có người bồng súng đứng gác. Cơm bưng tận miệng, nước rót tận mồm, phải không?

Ðặng Quân Chi tròn mắt, lè lưỡi đứng im. Tôi bảo hắn theo tôi vào phòng. Thuốc lá! Trà ! Rượu! Chúng tôi chuyện trò cùng nhau chừng vài tiếng đồng hồ. Ðặng Quân Chi uể oải ngáp dài, đứng lên vươn vai:

- Bác cho em suy nghĩ đã. Cảm ơn bác đã thực tâm cho em những lời vàng ngọc, bác đã lo cho em hơn cả mẹ đẻ của em. Nhưng em không về Gia Lâm đâu. Em tởm cái đời công chức lắm.

- Sao vậy?

- Tâm tính em hỏng mất rồi. Vả lại, người ta nói: "Sập gụ nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội...".

- Bậy nào. Bên ấy là cơ sở sản xuất lớn. Người ta cũng chẳng thiếu gì kẻ đảm đương công việc. Chỗ họ quen thân với tôi, họ nể nhời mới nhận chứ.

- Em chán ngấy rồi. Theo Phật chết đói, theo Quan chết đòn. Ðem thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra sao? Chắc bác lại cho rằng em bịp, nếu em nói trước đay em đã từng là ủy viên văn xã của một huyện?

- Không, về điều này thì tôi hoàn toàn tin.

- Vậy mà bác còn gò em? Em hỏng mất rồi, không làm lại được đâu.

- Ngày xưa cũng có lúc tôi nghĩ thế.

- Thì ngày nay bác cũng vẫn là "trốn việc quan đi ở chùa" đấy thôi.

- Tôi khác, chú khác. Chú còn trẻ...

- Gần lửa thì mặt nào cũng rát như nhau. Mà kỳ quái thật, bác biết rõ ràng em lừa bịp bác từ đầu đến chân sao bác còn thương em?

- Tôi cũng đã tự hỏi mình như vậy.

- Thế thì bác nhọc lòng làm gì?

- Quả thực chú đã tệ bạc với tôi quá nhiều, chú què ạ. Có điều, chú đã bắt được tôi làm tù binh, kể từ hôm chú nói với tôi rằng chú đói. Từ bé đến giờ tôi cũng đã đói nhiều lần mà đói khủng khiếp ấy. Chú thì chẳng biết gì về cái năm ất Dậu đâu.

- Ðối với em, những chuyện cổ tích ấy chẳng có ý nghĩa gì! Và bác, em xin bác đừng đem những giáo lý khô khan, vô hồn ấy ra mà ràng buộc em. Trước hết, em chẳng có tài cán gì để mà đáng tiếc. Hai là, có tài thực sự cũng chẳng có ích gì. Ðời lộn xộn lắm, Bàng Thống bị tống về huyện Lôi Dương, nên Bàng Thống trở thành thằng nát rượu, Tần Cối được đặt lên ghế tể tướng, thì Tần Cối có dịp để tung hoành... Ngày mai, em lại đi bán rắn, bán mật rắn.

- Nghĩa là lại bịp?

- Rắn thực sự sao gọi là bịp!

- Rắn thật mật giả. Cái số mật ngan mật vịt ấy, tôi đã ném xuống hồ cho nó... bơi rồi.

Nét mặt Ðặng Quân Chi lạnh băng, không xấu hổ, không ân hận, cũng không nhâng nháo và cũng không quỷ quyệt hơn.

Tôi không thuyết phục tu tỉnh nổi cho người bán rắn. Về sau, hắn đi đâu, tôi không rõ. Hắn trở nên ngay thẳng hơn, hay cong queo hơn, tôi không biết. Tôi hài lòng về mình. Tôi đã làm cái phần việc, cái nghĩa vụ trong phạm vi có thể của mình. Ðôi lúc nghĩ tới Ðặng Quân Chi, tôi cũng hơi buồn buồn. Nhưng biết làm sao được? Những mảnh đời, trong đó có tôi, cứ việc tản ra, cứ việc tụ lại, theo gió, theo bão, cuộc đời rào rạt cuốn đi.

12-1988

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro