Chương 1
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
9
Phần thứ nhất
THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
Thế giới quan và phương pháp luận triết học là bộ phận lý luận nền tảng của chủ
nghĩa Mác-Lênin; là sự kế thừa và phát triển những thành quả vĩ đại nhất của tư tưởng
triết học trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là triết học cổ điển Đức. C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đến trình độ sâu sắc nhất và
hoàn bị nhất, đó là: chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt nhân lý luận của thế
giới quan khoa học; là phép biện chứng duy vật với tư cách "học thuyết về sự phát triển,
dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương
đối của nhận thức của con người.
Việc nắm vững những nội dung cơ bản của thế giới quan và phương pháp luận
triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin chẳng những là điều kiện tiên quyết để nghiên cứu
toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn là để vận dụng nó một cách
sáng tạo trong hoạt động nhận thức khoa học, giải quyết những vấn đề cấp bách của thực
tiễn đất nước và thời đại.
Chương I:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Thời lượng: 7 giờ tín chỉ (4 lý thuyết, 2 thảo luận, 1 tự học)
Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:
- Nắm được vấn đề cơ bản của triết học và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật, duy
tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
- Hiểu được quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa
vật chất, ý thức
- Vận dụng các kiến thức về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xử lí các tình
huống của hoạt động thực tiễn, tránh quan điểm chủ quan duy ý chí
I. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Vấn đề cơ bản của triết học và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa
duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
10
Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại1.
Nội dung vấn đề cơ bản của triết học và ý nghĩa vấn đề cơ bản của triết học:
Mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là làm rõ giữa vật chất và ý thức cái nào
có trước, cái nào có sau; cái nào quyết định, cái nào phụ thuộc. Khi giải quyết vấn đề này,
triết học có hai trường phái cơ bản: nhất nguyên luận duy vật và nhất nguyên luận duy
tâm, ngoài ra còn có trường phái thứ ba là nhị nguyên luận.
- Vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt các trường phái triết học, nhận
biết các quan điểm triết học và các nhà triết học: Trong lịch sử triết học, các nhà triết học
có thể chỉ giải quyết những vấn đề riêng biệt, nhưng thực chất ở mức độ này hay mức độ
khác họ đều tập trung giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư
duy. Cách giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của họ là cơ sở phân biệt trường
phái duy vật hay duy tâm. Mặt khác, không phải bất kì một nhà triết học duy vật nào
cũng hoàn toàn duy vật. Họ cũng có những quan niệm duy tâm và ngược lại, các nhà duy
tâm cũng vậy. Do đó, khi đánh giá luận điểm nào đó là duy vật hay duy tâm phải trên cơ
sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Một nhà triết học duy vật hay duy tâm cũng phụ
thuộc vào việc hệ thống triết học cơ bản của họ giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa vật chất và ý thức. Ngày nay, triết học giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức theo quan điểm quyết định luận, nhưng thực chất nó vẫn không vượt ra khỏi vấn đề
cơ bản của triết học.
- Vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết
học: Triết học không chỉ có vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà còn giải quyết
những vấn đề khác của đời sống thực tiễn. Những vấn đề của nhận thức luận, nhà nước,
con người, được các nhà triết học giải quyết trên cơ sở vấn đề cơ bản của triết học.
- Trường phái nhất nguyên luận duy vật: trường phái này cho rằng vật chất tồn
tại khách quan, ý thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Vật chất quyết định ý
thức. Trong trường phái này, có ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Trường phái nhất nguyên luận duy tâm: Trường phái này cho rằng ý thức (với
nhiều hình thức biểu hiện khác nhau) có trước, vật chất là sự biểu hiện cụ thể của ý thức,
vật chất có sau, vật chất phụ thuộc ý thức. Trong trường phái này, có hai hình thức là:
chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
1 .C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.21, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, ,tr. 403.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
11
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: cho rằng tinh thần khách quan dưới các
hình thức ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lí tính thế giới, v.v. có trước và tồn tại độc lập với
con người.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức con người là tính thứ nhất.
Họ phủ nhận sự tồn tại của hiện thực khách quan và coi thế giới chỉ là sự sáng tạo, là
phức hợp các cảm giác của con người, của cá nhân, của chủ thể.
Như vậy, chủ nghĩa duy tâm dưới hình thức này hay hình thức khác đều thừa nhận
sự sáng tạo ra thế giới bởi một lực lượng siêu nhiên. Chủ nghĩa duy tâm thường được tôn
giáo sử dụng làm cơ sở lý luận để củng cố lòng tin, tín ngưỡng, mặc dù giữa chủ nghĩa
duy tâm và tôn giáo có sự khác nhau căn bản. Chủ nghĩa duy tâm là sự tuyệt đối hoá nhận
thức của con người, đồng thời là sự đề cao lao động trí óc đối với lao động chân tay.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa duy tâm thường được các giai cấp thống trị lỗi thời ủng hộ, sử
dụng làm nền tảng lí luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
- Trường phái nhị nguyên luận:
Quan điểm của trường phái này cho rằng có hai thực thể tồn tại khách quan, không
phụ thuộc nhau, mỗi thực thể quyết định mỗi lĩnh vực. thực thể tinh thần quyết định ý
thức; thực thể vật chất quyết định thế giới vật thể. Trường phái nhị nguyên luận có xu
hướng điều hoà giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nhưng về bản chất chủ
nghĩa nhị nguyên theo khuynh hướng duy tâm là cơ bản.
Mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học
Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, triết học chia ra hai phái cơ
bản: phái thừa nhận khả năng nhận thức và phái phủ nhận hoặc hoài nghi khả năng nhận
thứccủa con người:
- Trường phái khả tri: Trường phái này cho rằng, con người có khả năng nhận
thức được bản chất của thế giới; khả năng này là vô hạn; chỉ có một số sự vật, hiện tượng
con người chưa biết chứ nhất thiết không thể không biết. Quá trình nhận thức của con
người sẽ khắc phục được hạn chế này. Quá trình đó diễn ra vô tận, vì thế mà con người
có khả năng nhận thức được chân lí khách quan.
- Trường phái bất khả tri: hay còn gọi là hoài nghi luận và thuyết không thể biết.
Trường phái này cho rằng, con người không có khả năng nhận thức được bản chất của thế
giới. Con người chỉ nhận thức được hiện tượng của thế giới, nhưng khả năng này là hữu
hạn. Họ có lí vì nhận thức của con người vừa tuyệt đối vừa tương đối. Tính tương đối của
nhận thức dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa hoài nghi. Hoài nghi là một trong những yếu
tố để đạt đến chân lí. Nhưng chủ nghĩa hoài nghi là một trong những yếu tố kìm hãm khả
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
12
năng nhận thức của con người. Thuyết không thể biết là sự cực đoan hoá tính tương đối
của nhận thức. Nó triệt tiêu động lực của quá trình nhận thức, dẫn đến sự bất lực của con
người trước thế giới.
2. Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật chất phác: hình thức duy vật sơ khai của các nhà triết học
duy vật thời cổ đại. Thời kì này, về cơ bản triết học đồng nhất vật chất với một trạng thái
nào đó của vật chất. Tuy còn mang tính trực quan nhưng cơ bản là đúng và vượt lên quan
điểm của thần học hay tôn giáo.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: được thể hiện chủ yếu ở các nhà triết học duy vật
thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII. Do ảnh hưởng của cơ học cổ điển, chủ nghĩa duy vật thời kì
này chịu sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình - máy móc. Họ nhìn thế giới như
một cổ máy khổng lồ, luôn luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Mặc dù không phản
ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào
những năm 40 của thế kỉ XIX; được V.I. Lênin bảo vệ và phát triển trong điều kiện lịch
sử mới. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự kế thừa những tinh hoa của khoa học tự
nhiên, của triết học, của kinh tế chính trị học, của tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng,
đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình; nó trở thành công cụ cho quá trình nhận thức và hoạt động của lực lượng tiến
bộ lịch sử.
Triết học ra đời không phải vì có nhà nước và giai cấp, nhưng những nguyên lí của
triết học có thể đạt đến tri thức khoa học hay tri thức tư biện. Chính vì vậy, các giai cấp
thống trị thường lợi dụng triệt để thành tựu đó của triết học để làm cơ sở lý luận cho
chính sách cai trị của họ. Chủ nghĩa duy vật thường được các giai cấp thống trị tiến bộ sử
dụng như một yếu tố không thể thiếu trong đời sống tinh thần của xã hội. Ngược lại chủ
nghĩa duy tâm thường được các giai cấp thống trị lỗi thời lợi dụng để chứng minh cho sự
tồn tại hợp lí của họ.
II. Quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và các mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức
1. Vật chất
a) Phạm trù vật chất trong lịch sử triết học.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
13
Thời kì Hi lạp - La mã cổ đại: Talét: nước; Anaximen: không khí; Hêraclit: lửa;
Ămpêđoclơ: đất, nước lửa và không khí; Anaximendơrơ: A-pei-ro; Lơxip và Đêmôcrit:
nguyên tử; Arixtốt: đất, nước, lửa, không khí và ê-te.
Quan niệm của triết học Trung Hoa cổ đại: coi khí là thực thể của thế giới; Ngũ
hành: Kim, Mộc,Thuỷ, Hoả, Thổ tương sinh, tương khắc tạo nên sự đa dạng, phong phú
của thế giới.
Quan niệm của triết học Ấn Độ cổ đại: Phái Nyaya - Vaisêsika: coi nguyên tử
(Paramanu) là thực thể của thế giới.
Thời kì cận đại:
- Phranxi Bêcơn (Anh): Vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các hạt,
có hình thức và vận động là thuộc tính của vật chất.
- Pierơ Gát Xănđi (Italia): vật chất gồm những nguyên tử có đặc tính tuyệt đối:
kiên cố và không thấm qua.
- Đêcáctơ (Pháp): Vũ trụ là vật chất gồm những hạt nhỏ có thể phân chia đến vô
tận, luôn vận động và thay đổi vị trí trong không gian.
- Xpinôza (Hà Lan): Tự nhiên là nguyên nhân (causasui) tự nó. Thực thể là thống
nhất; vật hữu hạn vô tận.
- Điđrô (Pháp): vũ trụ là vật chất, tự nó. Bản tính cố hứu của vật chất là vận động,
đứng yên là dạng vận động. Vận động sẽ giúp giới tự nhiên ngày càng hoàn thiện đồng
thời đào thải những gì không phù hợp.
- Hônbách (Pháp): Vật chất là những gì mà bằng cách nào đó tác động vào cảm
giác của chúng ta.
Do khoa học thời kì này chỉ cơ học phát triển nên họ đồng nhất vật chất với khối
lượng, vận động chỉ là sự di chuyển vị trí trong không gian. Họ cũng coi nguyên tử là
phần tử nhỏ bé nhất không thể phân chia và tách rời nguyên tử với vận động.
Cuộc khủng hoảng phạm trù vật chất cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX:
- Năm 1895: W.Rơnghen ( 1845 - 1923) phát hiện tia X
- Năm 1896: Hiện tượng phóng xạ được phát hiện bởi H.Béccơnen (1852 -
1908)
- Năm 1897: Điện tử được phát minh bởi J.J.Tômxơn (1856 - 1940)
Các phát minh trên đã tấn công vào phạm trù vật chất của các nhà triết học duy vật
- phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật, tức là nguyên tử không phải là phần tử nhỏ bé
nhất không thể phân chia và khối lượng không phải bất biến. Các nhà triết học duy tâm
khẳng định vật chất biến mất, thế giới chỉ còn lại những khái niệm.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
14
- Định nghĩa vật chất của V.I. Lê-nin:"Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"1.
Nội dung định nghĩa:
- Vật chất là phạm trù của triết học
+ Phạm trù triết học là phạm trù bao trùm nhất, rộng nhất.
+ Phạm trù vật chất mà các khoa học cụ thể sử dụng chỉ là một trong những
trạng thái của vật chất hay mang tính vật thể, không mang nghĩa phạm trù vật chất của
triết học.
- Vật chất tồn tại khách quan được cảm giác
+ Tồn tại tự nó, không do ai sáng tạo ra, không mất đi, có thể chuyển hoá từ
trạng thái này sang trạng thái khác.
+ Tồn tại trước con người, trước ý thức của chúng ta.
+ Vật chất tồn tại vừa mang tính trừu tượng, vừa có nội dung cảm tính.
+ Khi các trạng thái của vật chất tác động đến các giác quan thì tạo nên cảm
giác cho con người.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người thông qua các giác
quan, nếu các giác quan của con người bình thường, góc phản ánh tương ứng thì hình ảnh
của sự vật tác động không phụ thuộc vào cảm giác.
- Con người có khả năng nhận thức được thế giới: vì thế giới vật chất tồn tại khách
quan khi tác động vào các giác quan thì tạo nên cảm giác để làm cơ sở cho quá trình hình
thành tri thức. Quá trình đó diễn ra vĩnh viễn nên con người có khả năng nhận thức được
thế giới.
Ý nghĩa của định nghĩa
- Khắc phục được tính trực quan, siêu hình của các nhà triết học duy vật thời cổ
đại cũng như thời cận đại.
- Khẳng định quan điểm vô thần, chống lại các quan điểm duy tâm, thần học, tôn
giáo về sự hình thành thế giới vật chất.
- Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo quan niệm duy vật một cách triệt để:
duy vật cả lĩnh vực vật chất cả lĩnh vực tinh thần, ý thức.
- Đưa ra một phương pháp định nghĩa mới: định nghĩa vật chất thông qua mặt đối
lập là ý thức.
1 V. I. Lenin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr. 151
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
15
- Mở đường cho khoa học phát triển: đối tượng của của khoa học là thế giới vật
chất tồn tại vô cùng, vô tận, vĩnh viễn trong thời gian và không gian.
b) Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:
Vật chất và vận động
Theo Ph. Ăngghen: "Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến tư
duy"1.
- Tính chất của vận động: tự vận động
+ Các trạng thái của vật chất đều có cấu trúc
+ Các bộ phận của vật chất đều tác động làm biến đổi dẫn đến vận động.
+ Vận động vừa có hướng vừa vô hướng.
+ Vận động vĩnh viễn, vô điều kiện.
+ Đứng im là một trạng thái của vận động: vận động trong thế cân bằng, đứng
im có điều kiện, tạm thời, tương đối.
- Vận động là một trong những thuộc tính cơ bản của vật chất: mọi vận động đều
là vận động của vật chất, không có vật chất không vận động và cũng không có vận động
nào không phải của vật chất. Vật chất tồn tại thông qua vận động.
- Các hình thức của vận động: có mối liện hệ với nhau. Tuỳ cấu trúc của các trạng
thái vật chất mà có hình thức vận động tương ứng. Các trạng thái vật chất có cấu trúc
phức tạp và cao hơn bao gồm các dạng vận động thấp hơn.
+ Vận động cơ học: chuyển dịch vị trí trong không gian
+ Vận động lí học: sự tương tác giữa các điện tử, giữa các nguyên tử.
+ Vận động hoá học: sự hoá hợp và phân giải của các hợp chất, của các phân tử.
+ Vận động sinh học: sự tương tác giữa quá trình đồng hoá và quá trình dị hoá
của các cơ thể sinh vật.
+ Vận động xã hội: sự tác động giữa các cá nhân trong cộng đồng thông qua các
mối quan hệ xã hội làm biến đổi hình thái kinh tế - xã hội.
Không gian và thời gian:
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Không gian là để chỉ trật tự cùng tồn tại, thời gian là chỉ quá trình của vật chất.
- Không gian và thời gian là những phương thức tồn tại của vật chất. Không gian
và thời gian tồn tại khách quan. Vật chất tồn tại trong không gian và thời gian, không có
1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 519.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
16
vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian, cũng như không có không gian và thời
gian tồn tại ngoài vật chất.
- Không gian có ba chiều: chiều dài, chiều rộng và chiều cao; vô cùng, vô tận, cả
vĩ mô lẫn vi mô. Thời gian chỉ có một chiều: từ quá khứ đến tương lai; vĩnh viễn cả về
quá khứ, cả về tương lai.
- Không gian và thời gian có tính thống nhất: không có thời gian tách khỏi không
gian, ngược lại, không có không gian tách khỏi thời gian.
c) Tính thống nhất vật chất của thế giới
Nội dung quan điểm về tính thống nhất của thế giới
Chỉ có một thế giới duy nhất đó là thế giới vật chất. Thế giới này thống nhất ở tính
vật chất:
+ Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
+ Thế giới vật chất là một thể thống nhất và có mối liên hệ khách quan, phổ biến.
+ Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận và tự nó.
+ Các trạng thái vật chất có thể chuyển hoá lẫn nhau.
+ Sự phát triển của khoa học đã bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo về nguồn gốc của vật chất, chứng minh tính chân lí quan niệm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Cơ sở để hình thành thế giới quan duy vật và khoa học.
- Cơ sở để nhận thức và cải tạo thế giới một cách khách quan và khoa học.
2. Ý thức
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: ý thức là quá trình tâm lí tích
cực, phản ánh hiện thức khách quan thông qua các giác quan di chuyển đến bộ não người
để xử lí, khái quát thành tri thức
a) Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Quá trình phản ánh của vật chất:
+ Phản ánh là một trong những thuộc tính cơ bản của vật chất, là khả năng lưu
giữ và tái hiện sự tác động của trạng thái vật chất này lên trạng thái vật chất khác trong
quá trình tồn tại, vận động và biến đổi của chúng.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
17
+ Sự phát triển của quá trình phản ánh của vật chất là cơ sở để hình thành ý
thức, hình thành tri thức: phản ánh cơ học, phản ánh kích thích, phản ánh cảm ứng, phản
ánh tâm lí, phản ánh ý thức.
- Bộ óc của con người:
+ Bộ óc của con người là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của sinh vật
bậc cao, cơ quan trung ương của hệ thần kinh ở con người. Nó có nhiệm vụ thu thập,
phân tích, xử lí và điều khiển hoạt động của con người.
+ Bộ óc con người thu nhận những phản ánh từ các giác quan để phân tích, lọc
bỏ, khái quát thành ý thức, thành tri thức.
Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần nhưng chưa đủ để hình thành ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức
- Lao động là một trong những nguồn gốc xã hội để hình thành ý thức:
+ Lao động là quá trình con người tác động vào tự nhiên để tạo ra sản phẩm
nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
+ Lao động không chỉ là phương thức tồn tại của con người mà còn phương
thức sáng tạo và hoàn thiện con người, hoàn thiện các giác quan để tăng khả năng phản
ánh.
+ Lao động còn là phương thức để nắm bắt cấu trúc, hiểu các mối quan hệ của
các trạng thái vật chất. Trên cơ sở đó để hình thành tri thức.
+ Lao động còn tạo ra những phương tiện để tăng khả năng phản ánh của con
người, nhờ đó mà tri thức ngày càng đầy đủ và phong phú hơn.
- Ngôn ngữ là một trong những nguồn gốc xã hội để hình thành ý thức
+ Ngôn ngữ là hệ thống những kí hiệu do con người sáng tạo ra để giao tiếp và
trao đổi thông tin.
+ Ngôn ngữ bao gồm tiếng nói, chữ viết và một số kí hiệu khác
+ Chức năng của ngôn ngữ: giao tiếp, trao đổi thông tin, công cụ của tư duy;
mọi thành tựu của tư tuy đều được thể hiện bằng ngôn ngữ.
Nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để hình thành ý thức. Nguồn gốc tự nhiên của ý
thức mang tính tự nó, để hình thành ý thức không thể không có nguồn gốc tự nhiên,
nhưng chỉ có nguồn gốc tự nhiên thì ý thức cũng không được hình thành, mà nhất thiết
phải có nguồn gốc xã hội. Chính vì vậy, hoạt động lao động của con người càng phong
phú, đa dạng, phức tạp; ngôn ngữ càng hoàn thiện thì ý thức càng đầy đủ và sâu sắc.
b) Bản chất và kết cấu của ý thức
Bản chất của ý thức
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
18
- Nội dung của ý thức là phản ánh hiện thực khách quan.
- Hình thức của ý thức mang tính chủ quan. Tức là ngôn ngữ phản ánh và chủ thể
phản ánh mang tính chủ quan.
Tính sáng tạo của ý thức.
- Ý thức không chỉ phản ánh trung thực mà còn phản ánh một cách sáng tạo hiện
thực khách quan. Phản ánh sáng tạo là dựa trên những tư liệu, những qui luật vận động,
phát triển của các trạng thái vật chất để dự báo sự tồn tại của chúng trong những điều
kiện không gian và thời gian nhất định. Tính chân lí của sự phản ánh sáng tạo này được
thực tiễn chứng minh.
- Ý thức còn chủ động tác động vào hiện thực khách quan, tìm phương pháp thích
hợp để phản ánh hiện thực khách quan.
Tính xã hội của ý thức.
- Ý thức phản ánh hiện thực khách quan trên cơ sở kế thừa thành tựu ý thức của
các thế hệ trước, sử dụng các phương tiện, phương pháp, ngôn ngữ xã hội để phản ánh, là
sự nổ lực của một số thành viên của cộng đồng, vì vậy kết quả phản ánh mang tính xã hội
sâu sắc.
- Nhu cầu hoạt động của xã hội là động lực cho quá trình phản ánh, cho ý thức
hình thành.
- Mọi thành tựu của ý thức (dưới dạng tri thức khoa học, công nghệ) là sản phẩm
của xã hội, phải được xã hội kiểm nghiệm và sử dụng.
Tính trừu tượng của ý thức.
- Phương tiện phản ánh của ý thức là ngôn ngữ mang tính trừu tượng.
- Kết quả phản ánh của ý thức mang tính khuynh hướng, không hoàn toàn trùng
khít với hiện thực khách quan, khi nhận thức phải có tính trừu tượng hoá cao.
- Phản ánh hiện thực khách quan của ý thức phải thông qua tư duy trừu tượng.
Kết cấu của ý thức
Cấu trúc theo chiều ngang:
- Tri thức: Tri thức là kết quả quá trình nhận thức được tái hiện dưới dạng qui
luật, những mối quan hệ bản chất thông qua ngôn ngữ.
- Tình cảm: thái độ của cá nhân hay cộng đồng với hiện thực khách quan hay
chính bản thân cá nhân hay cộng đồng.
- Niềm tin: lòng tin đã được củng cố bởi tri thức.
- Lý trí: là sự kiên định theo ý thức mà các cá nhân hay cộng đồng đã tin tưởng.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
19
- Ý chí: là quyết tâm cao của cá nhân hay cộng đồng trong quá trình hoạt động
theo tri thức phương pháp.
Cấu trúc theo chiều dọc:
- Tự ý thức: nhận thức về vị trí và vai trò của bản thân mình trong mối quan hệ với
thế giới bên ngoài.
- Tiềm thức: là ý thức dưới dạng tiềm tàng để khi có điều kiện sẽ xuất hiện mà
không cần có sự kiểm soát chúng một cách trực tiếp.
- Vô thức: là những trạng thái tâm lí dưới dạng bản năng điều chỉnh suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của con người một cách nhanh chóng mà không có sự tham gia của ý
thức.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của vật chất đối với ý
thức.
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Nội dung phản ánh của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và hình thức
biểu hiện của ý thức bị các qui luật sinh học và xã hội qui định nên vật chất không chỉ qui
định nội dung mà còn qui định cả hình thức cũng như biến đổi của ý thức.
b) Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của ý thức đối với vật
chất.
- Ý thức là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao, vật chất là nguòn gốc của ý thức
Ý thức có tính độc lập tương đối, nên có khả năng tác động để cải tạo hiện thực khách
quan thông qua vai trò của con người.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người phải định ra mục đích, phương pháp, để
huy động những lực lượng vật chất phù hợp nhằm đạt đến kết quả.
- Kiên trì thực hiện mục tiêu đề ra, nhạy bén ứng xử trước mọi tình huống.
c) Ý nhĩa phương pháp luận:
- Xuất phát từ khách quan: tôn trọng hiện thực khách quan, qui luật khách quan.
Các nhân tố khách quan tác động quyết định nhưng các yếu tố này luôn vận động, biến
đổi, phải bám sát diễn biến của hiện thực khách quan.
- Phát huy tính năng động chủ quan: vì tính năng động chủ quan sẽ biến khả năng
của các yếu tố khách quan thành hiện thực. Nhân tố chủ quan chính là con người nên khi
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
20
con người nắm chắc qui luật khách quan, các yếu tố khách quan, nhạy bén xử lí tình
huống trong quá trình hoạt động thì sẽ mang lại thành công trong hoạt động thực tiễn.
- Chống chủ quan duy ý chí: Không tin tưởng một cách mù quáng, luôn gắn lý
luận với thực tiễn, coi thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực để nhận thức và bám
sát phương pháp trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Câu hỏi ôn tập
1. Quan điểm của các nhà triết học duy vật thời cổ đại, cận đại về vật chất? Ưu
điểm và hạn chế của các quan điểm đó?
2. Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin? Giá trị khoa học và ý nghĩa
phương pháp luận của định nghĩa?
3. Vai trò và tác dụng của ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro