chuong 14

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương XIV

Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

I- Tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam

1. Bản chất, chức năng và vai trò của tài chính a) Bản chất của tài chính

Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của nhà nước và nền sản xuất hàng hoá.

Tài chính nước ta là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tổ chức các hoạt động kinh tế, cần phải tạo lập ra các quỹ tiền tệ mà thực chất là các quỹ giá trị khác nhau và chia thành các phần để phân phối và sử dụng các quỹ đó. Ngoài các quan hệ hàng hoá - tiền tệ (trao đổi, mua, bán...), thì hàng loạt các quan hệ tiền tệ khác nảy sinh trong nền kinh tế đó là các quan hệ tài chính, bởi vậy cần phân biệt quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ, tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị chỉ thay đổi hình thức tồn tại của mình mà thôi. Thí dụ, trong quan hệ mua - bán giữa A là người mua, B là người bán, đối với A, giá trị chỉ chuyển đổi từ hình thái tiền sang hình thái hàng hoá. Ngược lại, đối với B, giá trị chuyển đổi từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền. Trong quan hệ tài chính thì khác, giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể hay bộ phận này sang chủ thể hay bộ phận khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước, do đó quan hệ về thuế là quan hệ tài chính.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bản chất của tài chính biểu hiện qua các nhóm quan hệ tài chính dưới đây:

- Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với Nhà nước:

Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của Nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và ngược lại. Trong chủ nghĩa tư bản, mối quan hệ này nhìn bề ngoài cũng được thực hiện thông qua hai chiều, nhưng mục đích và bản chất lợi ích có khác nhau. Sự khác nhau này do tính chất quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối khác nhau quy định.

- Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với

hệ thống ngân hàng :

Trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế, hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các hoạt động xã hội nói chung, sản xuất, kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi phát triển mạnh mối quan hệ tài chính - quan hệ tín dụng - giữa các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư với ngân hàng.

- Nhóm các quan hệ tài chính giữa các chủ thể với thị trường :

Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các "quỹ tiền tệ" tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài chính nói trên, quan hệ mua bán "vốn" giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính, vừa chống lại tính tự phát và sự lũng đoạn trên thị trường tài chính nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo phương hướng đã định.

- Nhóm các quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư.):

Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân, người lao động; thông qua các khoản thu về tiền phạt do vi phạm hợp đồng, vi phạm vật chất; thông qua việc cấp phát vốn, phân phối, điều hoà vốn; thông qua phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các quan hệ tài chính này tuỳ thuộc loại hình sở hữu. Trong các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế nhà nước hay các tổ chức xã hội phi nhà nước, các tổ chức nhân dân..., ngoài sự quy định của pháp luật, Nhà nước cũng có trách nhiệm hướng dẫn và điều tiết ở mức độ nhất định. Thông qua hướng dẫn, điều tiết, Nhà nước vừa bảo đảm cho các quan hệ tài chính không phát triển tự phát và bóc lột tối đa người lao động như trong chủ nghĩa tư bản; vừa hướng dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

b) Chức năng của tài chính

Tài chính có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và giám đốc:

- Chức năng phân phối:

Để tồn tại và phát triển, xã hội phải thường xuyên tiến hành sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất xã hội. Trong quá trình ấy, của cải thường xuyên được tập trung lại, rồi lại được phân chia thành các bộ phận khác nhau, nhờ đó mà quá trình sản xuất và tái sản xuất mới có thể được thực hiện.

Trong nền kinh tế thị trường, việc phân chia của cải vật chất của xã hội chủ yếu

được thực hiện thông qua hoạt động tài chính được quy thành tiền, thành giá trị và chúng được phân phối thông qua sự vận động tài chính. Vì vậy, toàn bộ các mối quan hệ giá trị nói trên được thực hiện thông qua chức năng phân phối của tài chính.

- Chức năng giám đốc:

Cũng như phân phối, chức năng giám đốc xuất phát từ thuộc tính vốn có của tài chính. Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ, tài chính có vai trò như người "giám sát", "đôn đốc", "kiểm tra", "điều chỉnh" tình hình hoạt động kinh tế. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của Nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, người ta có thể biết được tình trạng của nền kinh tế để có giải pháp điều chỉnh.

Phân phối và giám đốc là các chức năng cơ bản của tài chính, là biểu hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, thông qua đó các chủ thể vận dụng để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính như công cụ cực kỳ quan trọng phục vụ tốt mục đích đề ra trong từng thời kỳ.

c) Vai trò của tài chính

Vai trò của tài chính được phát huy nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ khai thác, quản lý và sử dụng các chức năng của tài chính; phụ thuộc vào thể chế kinh tế của nền kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tài chính có những vai trò (tác dụng) chủ yếu sau đây:

- Điều tiết kinh tế:

Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng: phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, Nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dùng biện pháp đầu tư thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dùng biện pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những khâu chưa cần thiết... Đồng thời, Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối theo định hướng các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

- Xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế - xã hội :

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tự chủ về vốn kinh doanh thông qua vốn tự có, các loại vốn tín dụng và một phần do chiếm dụng vốn lẫn nhau, dẫn đến tình trạng nợ nần dây dưa làm rối loạn tài chính. Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính, một mặt, Nhà nước cần có

những biện pháp điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp cấp bách buộc các

doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt khác, Nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị trường vốn trung hạn, dài hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn chúng phát triển đúng hướng.

- Tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu công nghiệp hoá, hiện

đại hoá:

Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Nếu Nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển, giảm bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

- Tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh:

Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu - chi tài chính và phân phối thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông qua giám đốc tài chính mà duy trì kỷ luật tài chính, góp phần đẩy lùi lãng phí, tham ô...

- Hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dùng hợp lý:

Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, việc phân phối thu nhập được thực hiện theo nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có nguyên tắc phân phối theo vốn hay theo tài sản, có khả năng dẫn đến sự phân phối không công bằng, thiếu hợp lý. Chính vì vậy, Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối từng bước cho phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp; hoặc cũng có thể thành lập các quỹ xoá đói, giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo, nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp...

- Củng cố liên minh công - nông, tăng cường vai trò của Nhà nước và an ninh quốc phòng:

Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, một nền tài chính lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công - nông - trí thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của Nhà nước và an ninh quốc phòng.

2. Hệ thống tài chính của nước ta hiện nay

Hệ thống tài chính là tổng thể các mối quan hệ tài chính và các tổ chức bộ máy thực hiện các chức năng tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống

tài chính bao gồm các bộ phận hợp thành với tư cách là các tụ điểm tài chính. Các tụ

điểm tài chính này gắn với một chủ thể nhất định và thực hiện quá trình "bơm", "hút" các nguồn lực tài chính dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính theo sơ đồ sau:

Ngân sách nhà nước

Tài chính các doanh nghiệp

Thị trường tài chính

Tài chính của các tổ

chức tài chính (tín dụng, công ty tài chính, bảo hiểm)

Tài chính dân cư

(hộ gia đình và các tổ chức

xã hội)

Dưới đây là các yếu tố hợp thành hệ thống tài chính:

a) Ngân sách nhà nước và chính sách tài khoá

- Ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu được của Nhà nước để bảo đảm các khoản chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.

Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước do Hiến pháp quy định. Ngân sách nhà nước còn là công cụ quan trọng của Nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô đời sống kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh- quốc phòng.

Cơ cấu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi. Các khoản thu gồm có :

+ Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.

+ Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.

+ Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân.

+ Các khoản viện trợ.

+ Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối ngân sách nhà nước.

+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản chi ngân sách nhà nước gồm có:

+ Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội.

+ Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy

nhà nước.

+ Các khoản chi trả nợ của Nhà nước.

+ Các khoản chi dự trữ nhà nước (từ 3% đến 5% tổng số dư).

+ Các khoản chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

- Chính sách tài khoá:

Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy động các nguồn thu vào ngân sách nhà nước và sử dụng nó trong thời hạn nhất định (thường là 1 năm).

Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến giải quyết lạm phát và thất nghiệp. Nó cũng có tác động đến việc điều chỉnh nhịp độ phát triển nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng thời kỳ.

Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Để đạt mục tiêu trên đây, chính sách tài khoá phải xử lý nhiều mối quan hệ, trong đó có những quan hệ (nội dung) cốt lõi. Thông thường giải quyết đúng đắn những quan hệ mâu thuẫn sau đây chính là giải quyết nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá:

+ Mâu thuẫn giữa thu và chi ngân sách nhà nước.

+ Mâu thuẫn giữa tập trung vào ngân sách nhà nước với tích luỹ, tích tụ trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh.

+ Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội.

b) Tài chính doanh nghiệp

Đây là bộ phận tài chính gắn với các quỹ giá trị phục vụ mục đích phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ... Sự tạo lập các quỹ này ban đầu có thể dựa vào thị trường tài chính, thu hút vốn qua việc huy động vốn cổ phần hay vay (phát hành trái phiếu, vay ngân hàng). Sau đó, các quỹ giá trị này được bổ sung, tái tạo nhờ sự xuất hiện các nguồn tài chính trong doanh nghiệp thông qua việc phân phối để tạo lập các quỹ bù đắp, các quỹ từ lợi nhuận. Mỗi quỹ giá trị trong doanh nghiệp đều có vai trò nhất định, phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của những người tham gia sản xuất, kinh doanh. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ với các bộ phận khác của hệ thống tài chính trong nước. Thí dụ, nó có quan hệ với tài chính hộ gia đình thông qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; với ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế; với ngân hàng thông qua các hình thức tín dụng ...

c) Tài chính của các tổ chức tín dụng, công ty tài chính

Hoạt động của các tổ chức này gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ thông qua thu hút các nguồn tài chính nhàn rỗi theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Các quỹ này được các tổ chức tín dụng và công ty tài chính sử dụng

cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống.

d) Bảo hiểm

Đây là hình thức tài chính nảy sinh trong việc giải quyết những rủi ro có thể xảy ra trong sản xuất và đời sống xã hội. Hoạt động bảo hiểm được thực hiện thông qua ngành bảo hiểm. Thông qua huy động, nó có tác dụng huy động nguồn vốn lớn qua nhiều đối tượng và nhiều hình thức để cung ứng cho thị trường tài chính.

e) Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội

Quỹ tài chính của các hộ gia đình được hình thành từ các thu nhập, tiền lương của các thành viên trong gia đình do lao động sản xuất, kinh doanh, do thừa kế tài sản, quà tặng. Quỹ này trước hết dành cho tiêu dùng và khi có tiền nhàn rỗi sẽ tham gia các quỹ tín dụng, góp cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu. Một phần trong quỹ này tham gia đóng góp vào ngân sách nhà nước dưới các hình thức thuế và một phần tham gia các quỹ bảo hiểm. Quỹ tài chính của các tổ chức xã hội hiện nay chủ yếu được hình thành bằng tài trợ từ ngân sách nhà nước. Nhưng trong thời gian tới phải dần dần hình thành từ các nguồn như: hội phí, quyên góp ủng hộ của dân cư và các tổ chức, của người nước ngoài. Mục đích của các quỹ này là phục vụ cho các mục tiêu hoạt động của các tổ chức xã hội. Khi một bộ phận quỹ tiền tệ nhàn rỗi, nó có thể tham gia tích cực vào thị trường tài chính theo các hình thức thích hợp.

Việc nghiên cứu các bộ phận khác nhau của hệ thống tài chính trong chương này chỉ dừng lại ở khái niệm, nội dung, sự cần thiết và vai trò, mà không nghiên cứu các hoạt động cụ thể của nó.

3. Chính sách tài chính ở nước ta hiện nay

Chính sách tài chính đóng vai trò cực kỳ quan trọng góp phần thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh đi đôi với thực hiện công bằng xã hội. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia"1. Muốn vậy, chính sách tài chính quốc gia trong thời gian tới cần hướng vào những vấn đề sau đây:

a) Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần

Trước hết, cần cải tiến hệ thống thu - chi ngân sách nhà nước trên nguyên tắc thu đúng, thu đủ, chi tiết kiệm, hợp lý, ưu tiên cho đầu tư phát triển phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phân cấp hợp lý giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương, giữa các ngành, các cấp... Việc xây dựng và củng cố ngân sách nhà nước phải

đảm bảo cho Nhà nước đủ sức mạnh để điều tiết kinh tế và hướng nền kinh tế phát triển

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X; Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2006, tr. 79.

theo kế hoạch và định hướng đã định. Bên cạnh ngân sách nhà nước, phải đặc biệt coi

trọng tài chính doanh nghiệp với tư cách là nền tảng của nền tài chính quốc gia, là động lực của sự tăng trưởng kinh tế. Phát triển tài chính doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt chú ý xây dựng và làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ tự chủ tài chính, thống nhất chế độ thu - chi và phân phối tài chính trong các doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Từng bước hướng các doanh nghiệp tư nhân thực hiện chế độ tài chính phù hợp với các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Chính sách tài chính cũng phải hướng tới bộ phận tài chính dân cư, coi đây là một trong những nguồn cung cấp tài chính không nhỏ cho nền kinh tế. Từ đó, hướng dẫn họ thực hiện nguyên tắc chi tiêu tiết kiệm, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ.

b) Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường tài chính

Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tài chính là khâu trung gian gắn các khâu tài chính với nhau, có tác dụng thúc đẩy quá trình giao lưu các nguồn lực tài chính, tăng cường sự vận động của giá trị trong nền kinh tế. Nhà nước cần hết sức tạo điều kiện để thị trường tài chính hình thành và phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, từng bước hình thành thị trường chứng khoán, nhân tố quan trọng thu hút vốn của xã hội và năng động hoá hoạt động đầu tư của nền

kinh tế.

c) Xây dựng hệ thống thông tin, phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài chính

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các hoạt động tài chính trong xã hội ngày càng trở nên phức tạp. Tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nếu không có đối sách hợp lý và giải quyết kịp thời các vấn đề về tài chính nảy sinh thì hậu quả sẽ rất nặng nề, thậm chí có thể gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế. Thực tế cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ cuối năm 1997 vừa qua ở châu á đã chứng tỏ điều đó. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin tài chính nhanh nhạy, tăng cường khả năng phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài chính là nhu cầu khách quan và có tầm quan trọng đặc biệt của chính sách tài chính quốc gia.

d) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về tài chính

Với đà phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ tài chính nước ta ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, vì vậy xây dựng, cải tiến và hoàn thiện luật pháp về tài chính là một nội dung lớn của chính sách tài chính. Trong thời kỳ quá độ, luật pháp về tài chính phải tập trung vào các mục tiêu:

+ Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, khai thác tối đa các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

+ Phát triển dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn tài chính bên ngoài.

+ Nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế, tạo điều kiện cho chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

đ) Kiện toàn bộ máy quản lý tài chính

Vai trò của tài chính cao hay thấp là nhờ yếu tố chủ thể mà trước hết là bộ máy quản lý tài chính. Trong thời kỳ quá độ, bộ máy quản lý tài chính cần được cải tiến và tổ chức cho thích ứng với từng thời kỳ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ máy quản lý phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính theo hướng: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; cải tiến, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính từ trung ương đến địa phương, từ quản lý tài chính doanh nghiệp đến các bộ phận quản lý tài chính dân cư và các tổ chức xã hội.

Các mặt trên đây của chính sách tài chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và cần

được thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ, thích ứng với từng giai đoạn.

II- Tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

1. Bản chất, đặc điểm và các hình thức tín dụng a) Bản chất của tín dụng

Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức.

Quan hệ tín dụng ra đời bắt nguồn từ sự xuất hiện mối quan hệ cung cầu về vốn giữa người đi vay và người cho vay. Trong các doanh nghiệp, do đặc điểm chu chuyển vốn, nên trong từng thời điểm thường xuyên có một bộ phận vốn nhàn rỗi, chẳng hạn, vốn dùng để trả lương nhưng chưa đến kỳ trả, vốn mua nguyên liệu nhưng chưa đến kỳ mua ... cần được sử dụng để sinh lợi. Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác muốn có vốn để thanh toán, để mở rộng và hiện đại hoá doanh nghiệp nhưng chưa tích luỹ vốn kịp. Tương tự như vậy, trong dân cư và trong các tổ chức xã hội cũng có số tiền nhàn rỗi cần được sinh lợi nên có khả năng cho vay. Rõ ràng cùng trong một thời điểm, nơi thì có vốn nhưng chưa cần sử dụng, nơi thì cần vốn nhưng chưa tích lũy kịp. Mâu thuẫn đó được giải quyết thông qua quan hệ tín dụng.

Quan hệ tín dụng tồn tại trong nhiều nền kinh tế hàng hoá, nhưng do tính chất của các phương thức sản xuất xã hội khác nhau nên tín dụng cũng mang những bản chất khác nhau. Trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các quan hệ tín dụng nhìn về hình thức khi cho vay tiền đều phải thu lợi tức, có vay có trả, nhưng không chỉ vì mục đích thu lợi tức mà còn chủ yếu vì để phát triển mạnh mẽ nền sản xuất xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, nhất là đối với quan hệ tín dụng thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Tình trạng cho vay nặng lãi, bóc lột, bất bình đẳng xa lạ với bản chất của tín dụng dưới chủ nghĩa xã hội.

b) Đặc điểm của tín dụng

Quan hệ tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ngoài đặc điểm chung

là quyền sở hữu vốn tách rời quyền sử dụng vốn, còn có đặc điểm lớn là: có nhiều quan

hệ tín dụng khác nhau với những nguồn lợi tức khác nhau phản ánh nền kinh tế nhiều thành phần. Các quan hệ tín dụng này vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là lĩnh vực đấu tranh gay gắt, đòi hỏi quan hệ tín dụng thuộc kinh tế nhà nước phải không ngừng lớn mạnh để đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong quan hệ tín dụng của toàn

xã hội.

c) Các hình thức của tín dụng

- Theo tính chất của quan hệ tín dụng thì có các hình thức:

+ Tín dụng thương mại:

Đây là việc mua bán chịu hàng hoá hoặc dịch vụ với kỳ hạn nhất định. Nó là hình thức vay nợ lẫn nhau giữa người mua và người bán, nhưng đối tượng vay nợ không phải bằng tiền mà bằng hàng hoá dịch vụ. Để khắc phục tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, giữ giá trị của vốn trong trường hợp lạm phát và có lãi nhất định, giá bán chịu thường cao hơn giá bán thanh toán tiền ngay. Khi bán chịu, người mua phải viết cho người bán một phiếu nhận nợ gọi là kỳ phiếu thương mại. Khi đến hạn người bán căn cứ vào kỳ phiếu để thu nợ người mua. Trong trường hợp người bán cần tiền trước thời hạn có thể đem kỳ phiếu đến các ngân hàng thương mại thực hiện chiết khấu kỳ phiếu để được nhận tiền theo quy định chung.

Mặc dù, hình thức tín dụng này là cần thiết trong nền kinh tế thị trường, nhưng không phải là hình thức cần được khuyến khích, nhất là khi tín dụng ngân hàng của các ngân hàng thương mại xuất hiện và phát triển. Vì tình trạng mua bán chịu, nếu diễn ra thành hệ thống, dễ dẫn đến một khâu (người mua chịu) không trả được nợ, cả hệ thống đổ vỡ làm rối loạn nền kinh tế.

+ Tín dụng ngân hàng:

Trong các hình thức tín dụng, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có tầm quan trọng to lớn của kinh tế thị trường và là quan hệ tín dụng chủ yếu giữa ngân hàng và các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng là hình thức mà các quan hệ tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung tâm là ngân hàng. Nó đáp ứng phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp và dân cư. Theo đà phát triển của nền kinh tế, hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành hình thức chủ yếu mang tính phổ biến không chỉ ở trong nước mà còn trên trường quốc tế.

- Nếu phân chia theo thời gian thì có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn (trên 1 năm và dưới 2 năm) và tín dụng dài hạn (trên 5 năm). Nếu phân chia theo đối tượng đầu tư của tín dụng thì có tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định.

- Theo chủ thể của quan hệ tín dụng thì có các hình thức:

+ Tín dụng nhà nước:

Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế

trong nước, giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, giữa Nhà nước với chính phủ các nước

khác.

Hình thức này được thực hiện thông qua việc Nhà nước phát hành công trái bằng thóc, bằng vàng, bằng tiền để vay dân khi ngân sách nhà nước thiếu hụt hoặc thông qua vay Chính phủ nước ngoài dưới hình thức tiền tệ.

Tính hiệu quả của hình thức tín dụng nhà nước phụ thuộc vào việc thực hiện đúng đắn nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi giữa Nhà nước và người cho vay. Muốn vậy, phải bảo đảm lãi suất tín dụng nhà nước phù hợp với lãi suất tín dụng ngân hàng; thời gian trả phải bảo đảm đúng thời hạn ghi trên công trái hoặc giấy nhận nợ; phương thức thanh toán đơn giản, thuận tiện cho người cho vay.

+ Tín dụng tập thể:

Tín dụng tập thể là hình thức tín dụng dựa trên nguyên tắc tự nguyện góp vốn của các thành viên cho nhau vay hoặc để cùng nhau kinh doanh tín dụng. Nó tồn tại dưới hình thức tổ chức như các hiệp hội tín dụng, hợp tác xã tín dụng. Tín dụng tập thể là hình thức có vai trò bổ sung cho tín dụng ngân hàng về huy động và cho vay chủ yếu ở nông thôn.

Tín dụng tập thể là hình thức tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị trường, có vai trò rất quan trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn khi hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ và khi ngân hàng chưa vươn tới từng hộ nông dân. Tuy nhiên, điều đó chỉ trở thành hiện thực khi các tổ chức tín dụng tập thể có cơ chế kinh doanh phù hợp, tồn tại và phát triển trên cơ sở tôn trọng pháp luật, nhất là pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và có sự giúp đỡ của Nhà nước.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ngoài các hình thức tín dụng chủ yếu trên còn có một số hình thức tín dụng khác như tín dụng tiêu dùng, tín dụng học đường...

- Phân loại tín dụng theo phạm vi phát sinh tác dụng ta có: tín dụng trong nước, tín dụng quốc tế, tín dụng khu vực.

2. Chức năng và vai trò của tín dụng a) Chức năng của tín dụng

Là một bộ phận của hệ thống tài chính, quan hệ tín dụng cũng có chức năng phân phối và giám đốc.

Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông qua phân phối lại vốn. Phân phối của tín dụng dựa trên cơ sở tự nguyện theo nguyên tắc cho vay có thế chấp hoặc tín chấp; sử dụng đúng mục đích có hiệu quả và hoàn trả cả vốn gốc lẫn lợi tức. Nội dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế "hút" và "đẩy" được thực hiện thông qua nghiệp vụ huy động để thu hút các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi, phân tán trong xã hội và nghiệp vụ cho vay để đẩy vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Chức năng giám đốc được thể hiện ở việc kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng có liên quan đến đặc điểm quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn, đến mối

quan hệ giữa người cho vay và người đi vay.

Người có vốn cho vay luôn quan tâm đến sự an toàn của vốn; không những thế họ còn mong muốn vốn của họ khi sử dụng có khả năng sinh lời để họ có thể thu về thêm khoản lợi tức. Muốn vậy một mặt, người cho vay phải am hiểu và kiểm soát hoạt động của người đi vay, từ khâu xem xét tư cách pháp nhân người vay, tình hình vốn liếng, mặt hàng sản xuất, kinh doanh cả về số lượng và chất lượng, khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác v.v.. Sau khi xem xét tư cách pháp nhân để cho vay, người cho vay phải kiểm soát việc sử dụng vốn cho vay xem có đúng mục đích và có hiệu quả không để điều chỉnh liều lượng vốn vay và thu hồi vốn đúng hạn, có kèm theo lợi tức. Mặt khác, để người có vốn cho vay yên tâm, gần đây Nhà nước đã có quyết định hình thành tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

Hai chức năng trên có quan hệ mật thiết với nhau và đều có liên quan đến vai trò của tín dụng, bởi vậy, trong quá trình thực hiện không được xem nhẹ chức năng nào.

b) Vai trò của tín dụng

- Góp phần giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay của vốn; tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ.

- Thông qua cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, tín dụng góp phần tăng quy mô sản xuất, kinh doanh, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các công trình lớn, các ngành, lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng đối với quốc kế dân sinh, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

- Thông qua cho vay vốn tiêu dùng, tín dụng góp phần hỗ trợ vốn cho cư dân cải thiện đời sống.

- Góp phần thúc đẩy giao lưu tiền tệ giữa nước ta và các nước khác trên thế giới và trong khu vực.

3. Lợi tức, chính sách lợi tức tín dụng

Lợi tức là một phần của lợi nhuận mà người đi vay trả người cho vay về quyền sở hữu vốn vay để được quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định. Lợi tức là giá cả của vốn cho vay. Suất lợi tức (lãi suất) tiền vay là tỷ số tính theo phần trăm giữa lợi tức tiền vay và số vốn cho vay trong một thời gian nhất định.

Lợi tức tín dụng bao gồm lợi tức tiền gửi và lợi tức tiền vay. Lãi suất tín dụng có nhiều loại như: lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với mức độ khác nhau; lãi suất ưu đãi, lãi suất thông thường, lãi suất quá hạn, ... nhằm kích thích các chủ thể đi vay thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần mang bản chất khác nhau cho nên lợi tức cũng có nguồn gốc khác nhau phản ánh những quan hệ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, chính sách lợi tức của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng nhằm vừa khuyến

khích các hình thức tín dụng huy động được nhiều vốn trong nước để phát triển sản xuất,

vừa hạn chế, tiến tới thu hẹp và từng bước thủ tiêu quan hệ tín dụng trái với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do lợi tức là một phần của lợi nhuận, nên suất lợi tức thường phải thấp hơn suất lợi nhuận. Nhưng suất lợi tức cũng không thể quá thấp vì như thế sẽ làm suy giảm hiệu quả sử dụng vốn vay. Khi quy định suất lợi tức của tiền gửi và tiền cho vay, phải căn cứ vào tình hình phát triển của nền kinh tế quốc dân, không những phải tính đến tình hình cung - cầu về vốn của toàn quốc mà còn phải tính đến tỷ trọng của lợi tức trong tổng lợi nhuận có ảnh hưởng tới việc sản xuất, kinh doanh của các cơ sở. Đối với tiền gửi của nhân dân, khi quy định lãi suất phải phân tích mối quan hệ giữa sức mua của đồng tiền với số lượng cung ứng hàng hoá và lợi ích của nhân dân.

III- Ngân hàng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam

1. Hệ thống tổ chức ngân hàng ở nước ta

Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập từ tháng 5 năm 1951 ở vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30 tháng 4 năm 1975) cả nước tồn tại một hệ thống Ngân hàng Nhà nước từ trung ương đến chi nhánh ở các tỉnh và chi điếm ngân hàng các huyện.

Trước tháng 9 năm 1990, hệ thống tổ chức ngân hàng nói trên là hệ thống ngân hàng một cấp độc quyền; trực tiếp kinh doanh tiền tệ, hoạt động thông qua các trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán và kinh doanh vàng bạc, đá quý. Việc thực hiện các nhiệm vụ của trung tâm nói trên thường theo địa chỉ do cấp trên phân phối.

Có thể nói, hoạt động của hệ thống tổ chức ngân hàng này chỉ thích ứng với điều kiện chiến tranh và mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu, bao cấp. Khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, hệ thống tổ chức ngân hàng này bộc lộ nhiều nhược điểm. Bởi lẽ, hệ thống đó không phân biệt chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ với chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại.

Tháng 9 năm1990, trên cơ sở phân biệt chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính - hiện nay là Luật Ngân hàng.

Từ đó đến nay, hệ thống ngân hàng về mặt tổ chức từ một cấp đã chuyển thành hệ

thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại (kinh doanh).

- Ngân hàng Nhà nước có hệ thống tổ chức gồm Ngân hàng trung ương và các chi nhánh của nó tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.

- Ngân hàng thương mại, mà hình thức tổ chức của nó khá đa dạng dựa theo các tiêu thức khác nhau làm căn cứ để phân loại:

Theo cơ cấu ngành kinh tế với tư cách là đối tượng phục vụ, các ngân hàng

thương mại được chia thành hai loại: ngân hàng chuyên doanh (là ngân hàng phục vụ một ngành kinh tế - kỹ thuật) và ngân hàng kinh doanh tổng hợp (là ngân hàng phục vụ nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật). Theo tiêu thức phân loại này, ở nước ta hiện nay có các ngân hàng chuyên doanh như ngân hàng ngoại thương, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng đầu tư phát triển , ngân hàng chính sách xã hội..., còn ngân hàng kinh doanh tổng hợp là ngân hàng công thương. Mặc dù có sự phân chia nói trên, song trong thực tế các ngân hàng đều kinh doanh theo hướng tổng hợp. Điều đó, do trình độ xã hội hoá sản xuất và phân công lao động xã hội ở nước ta quyết định.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và mở cửa, căn cứ vào chủ thể sở hữu về vốn khi thành lập ngân hàng, các ngân hàng thương mại được phân ra theo các hình thức tổ chức:

- Ngân hàng thương mại nhà nước, là ngân hàng thương mại được thành lập bằng

100% vốn của Nhà nước. Nó hoạt động theo những nguyên tắc của doanh nghiệp nhà nước.

- Ngân hàng thương mại cổ phần, là ngân hàng được thành lập theo hình thức công ty cổ phần, mà vốn do các cổ đông đóng góp với số cổ phần thuộc sở hữu của mỗi cổ đông không quá tỷ lệ do Ngân hàng nhà nước quy định. Sự tồn tại và hoạt động của ngân hàng này phải theo khuôn khổ luật pháp của Nhà nước và những quy định của Ngân hàng nhà nước.

- Ngân hàng thương mại tư nhân, là ngân hàng kinh doanh mà vốn thuộc sở hữu của tư nhân một chủ. Tổ chức và hoạt động của nó theo luật pháp của nhà nước và quy định của Ngân hàng nhà nước với các điều khoản riêng.

- Ngân hàng thương mại nước ngoài, là những cơ sở (chi nhánh) của nước ngoài tại Việt Nam. Sự tồn tại và hoạt động của chúng phải tuân theo luật pháp của nhà nước Việt Nam và chịu sự quản lý khống chế của Ngân hàng Nhà nước.

Sự tồn tại đa dạng các hình thức tổ chức ngân hàng thương mại như vậy là một tất yếu khách quan. Nó cho phép khai thác tối đa tiềm năng về vốn và sử dụng vốn; vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.

Sơ đồ khái quát hệ thống

tổ chức ngân hàng ở nước ta

Hệ thống tổ chức ngân hàng

Ngân hàng nhà nước Ngân hàng thương mại

Các chi nhánh tại các

tỉnh, thành phố

Phân theo đối tượng

ngành phục vụ

Phân theo

cơ cấu sở hữu

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

Ngân

hàng

chính

công

ngoại

Nông

đầu tư kỹ

thương

thương

thương thương

sách

thương thương

nghiệp và phát thương

mại

mại cổ

mại tư

mại

xã hội

và phát triển nông

thôn

triển

quốc tế

phần

nhân

nước ngoài

2. Chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng a) Đối với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng nhà nước là cơ quan của Chính phủ có các chức năng:

- Phát hành tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán.

- Là người đại diện về tài chính, tiền tệ của Nhà nước, quản lý tiền vốn của Nhà nước, cung cấp tín dụng cho Nhà nước, nhận mua quốc trái.

- Thông qua cho vay huy động tiền gửi, tiến hành quản lý các ngân hàng và các cơ cấu tiền tệ khác, định ra chính sách tiền tệ, điều tiết giá cả và nhu cầu tiền tệ, hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng ổn định.

Ngân hàng Nhà nước có hai nhiệm vụ cơ bản là:

- Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động bình thường.

- Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với Nhà nước, chịu trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách của Nhà nước.

Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ cơ bản trên, Ngân hàng Nhà nước trung

ương và các chi nhánh ngân hàng ở các tỉnh, thành phố có các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tham gia xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách có liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng.

- Xây dựng các dự án pháp luật, soạn thảo các văn bản pháp luật về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối để trình cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện hệ thống pháp luật đã ban hành.

- Quản lý nhà nước các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong tất cả các thành phần kinh tế, kể cả ngân hàng nước ngoài thông qua chính sách tiền tệ.

- Tổ chức in, đúc và bảo quản tiền dự trữ phát hành (Ngân hàng Trung ương). Quản lý lưu thông tiền tệ, khống chế lạm phát và thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền tệ.

- Thực hiện vai trò ngân hàng của các ngân hàng kinh doanh và các tổ chức tín

dụng. Nhận gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước để sử dụng ngân sách nhà nước.

- Bảo quản dự trữ nhà nước và quản lý nhà nước về ngoại tệ và vàng; đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức tiền tệ, tín dụng quốc tế; trực tiếp ký kết hoặc được uỷ quyền ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối; lập cán cân thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế.

- Bám sát diễn biến các thị trường, công bố lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi suất tối đa về tiền vay, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với các ngoại tệ mạnh.

- Tổ chức đào tạo nghiệp vụ kinh tế và kỹ thuật cho cán bộ nhân viên của ngành.

Các công cụ chủ yếu để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng nhà

nước.

- Phát hành giấy bạc ngân hàng. Đây là một công cụ rất quan trọng gắn với chức

năng phát hành của Ngân hàng nhà nước trung ương. Thông qua việc phát hành giấy bạc đưa vào lưu thông trên phạm vi quốc gia, Ngân hàng nhà nước điều chỉnh tổng cung và tổng cầu tiền trong nền kinh tế, chi phối các ngân hàng thương mại, hướng tiền tín dụng đi vào lưu thông theo mục đích của ngân hàng phát hành.

- Hoạt động thị trường mở là công cụ mà Ngân hàng Trung ương mua và bán các chứng khoán có giá trị trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực nhất định trên thị trường chứng khoán. Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các ngân hàng thương mại với lãi suất hấp dẫn, Ngân hàng Trung ương có thể làm giảm hoặc tăng lượng dự trữ tiền tệ của ngân hàng. Khi cần thu hồi (thắt chặt) tiền từ lưu thông để giảm lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường, Ngân hàng Trung ương có thể bán các chứng khoán có giá cho các ngân hàng thương mại. Ngược lại, khi cần tăng (nới lỏng) tiền từ dự trữ ra lưu thông, Ngân hàng Trung ương có thể mua các chứng khoán có giá của các ngân hàng thương mại. Bằng cách này, Ngân hàng Nhà nước tác động đến sự cân bằng các dao động về tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, tăng khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại, củng cố và tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ.

- Lãi suất chiết khấu. Đây là công cụ mà Ngân hàng Nhà nước trung ương điều tiết thị trường vốn bằng cách cho các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính tín dụng vay tiền thông qua mua thương phiếu (chính sách chiết khấu) hoặc bằng cách thế chấp chứng khoán có giá (chính sách thế chấp).

Khi cần khuyến khích khách hàng vay (ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác), Ngân hàng Trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu. Bằng cách đó, Ngân hàng Trung ương điều tiết tăng hoặc giảm lượng tiền cho vay của các ngân hàng thương mại theo mục tiêu vĩ mô.

- Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tại

Ngân hàng Trung ương. Mức tiền gửi này do pháp luật quy định. Nó còn là công cụ rất

quan trọng mà Ngân hàng Trung ương dùng để điều chỉnh tín dụng của các ngân hàng

thương mại trong quản lý vĩ mô của mình để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.

ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà các ngân hàng thương mại phải gửi vào Ngân hàng Trung ương là từ 10% đến 35% so với các khoản nợ của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng).

Thông qua việc tăng, giảm mức dự trữ bắt buộc nằm trong khoảng giữa cận trên và cận dưới được luật pháp quy định, Ngân hàng Trung ương tác động đến việc cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân, khi cần thiết phải "nới lỏng" hoặc "thắt chặt".

Như vậy, mục tiêu của "dự trữ bắt buộc" theo luật pháp không phải chủ yếu để bảo đảm an toàn tiền gửi, bảo đảm thanh toán và chi trả theo yêu cầu, mà chủ yếu là nhằm làm cho Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được mức tăng, giảm của tiền tệ qua ngân hàng theo mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ.

Việc áp dụng công cụ "dự trữ bắt buộc" có ưu điểm nhưng đòi hỏi phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời trong thời gian ngắn khi nền kinh tế quá "nóng" hoặc quá "lạnh".

Ngoài các công cụ chủ yếu đã nêu trên, Ngân hàng nhà nước khi thực thi chính sách tiền tệ còn phải sử dụng các công cụ khác như: can thiệp trên thị trường hối đoái, kiểm soát lãi suất tối đa đối với các hệ số an toàn của vốn v.v..

Hầu hết các công cụ nói trên trong thời gian dài ít được coi trọng ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, vì chúng được coi là những công cụ đặc trưng của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến nay chúng ta đã có nhận thức mới về bản chất kinh tế của những công cụ này: chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa tư bản không phải ở hình thức mà ở nội dung xã hội của các công cụ kinh tế.

b) Đối với Ngân hàng Thương mại

Ngân hàng Thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động của các ngân hàng thương mại lại gắn với chức năng quản lý vi mô - chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại phải là những doanh nghiệp:

- Có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và dưới quyền quản trị của hội đồng quản trị và quyền điều hành của giám đốc.

- Chịu sự quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước.

- Có quan hệ với khách hàng theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về vật chất và hành chính đối với tài sản, tiền vốn và cam kết giữ bí mật về số liệu và hoạt động, cũng như tạo sự tín nhiệm và thuận lợi cho khách hàng.

- Có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, cùng có lợi, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật cùng thúc đẩy nhau phát triển.

Ngân hàng Thương mại dù được thành lập dưới hình thức nào cũng đều hoạt động

theo ba nghiệp vụ chính như: huy động vốn, cho vay và thanh toán.

+ Nghiệp vụ huy động vốn, là nghiệp vụ đầu tiên của Ngân hàng Thương mại nhằm tạo vốn để cho vay. Vốn huy động của ngân hàng bao gồm: vốn tiền tệ, vốn huy động, vốn tiếp nhận, vốn đi vay.

+ Nghiệp vụ cho vay vốn, là nghiệp vụ mà thông qua đó các nguồn vốn huy động được đem đi cho vay nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tùy theo tiêu thức phân loại, có các hình thức cho vay khác nhau như cho vay ngắn hạn, dài hạn; cho vay sản xuất và cho vay kinh doanh dịch vụ; cho vay đầu tư phát triển sản xuất; cho vay thanh toán và cho vay dự trữ.

+ Nghiệp vụ thanh toán, được thực hiện trên cơ sở sự uỷ nhiệm của khách hàng trong các khâu thanh toán, giữ hộ, đòi nợ... thông qua các hoạt động chuyển tiền, thanh toán chứng từ và phát hành chứng khoán.

Thông qua các nghiệp vụ đó, các khoản tiền phân tán được tập trung để bổ sung cho nghiệp vụ cho vay và huy động vốn, thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng.

3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng

ở nước ta

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của lưu thông tiền tệ nói chung, của tín dụng và ngân hàng nói riêng, góp phần củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước và nhân dân, chống thất thoát và tăng tích luỹ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hệ thống ngân hàng ở nước ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây:

- Kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính vững chắc, từng bước ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế để có nhiều hàng hoá dịch vụ đưa vào tiêu dùng và xuất khẩu, nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc "vay để cho vay", không phát hành tiền để cho vay.

- Việc xác định lãi suất tín dụng (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) phải căn cứ vào quan hệ cung - cầu vốn, vào hiệu quả thực tế của đồng vốn trong nền kinh tế, vào mức độ trượt giá của đồng tiền thông qua chỉ số giá cả. Tiếp tục áp dụng chính sách lãi suất dương theo nguyên tắc lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát.

- Tăng cường vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước trên cơ sở hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, đặt trong môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các hình thức ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài ở nước ta.

- Toàn bộ hệ thống ngân hàng hướng vào phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.

- Đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật của bản thân ngành ngân hàng theo hướng

hiện đại hoá, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng về nghiệp vụ và đặc biệt là về phẩm chất đạo đức để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành ngân hàng trong giai đoạn mới.

IV- Lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam

1. Bản chất và đặc điểm của lưu thông tiền tệ

Khi tiền tệ xuất hiện, sự trao đổi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi hàng hoá gián tiếp - trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận động của tiền tệ lấy sự trao đổi hàng hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vận động của hàng hoá và tiền tệ là sự thống nhất của quá trình lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.

Lưu thông tiền tệ diễn ra dưới hai hình thức:

Lưu thông tiền mặt và lưu thông không bằng tiền mặt (lưu thông qua tiền tín dụng, card điện tử, những chứng khoán có giá...). Trong hai hình thức nói trên, hình thức lưu thông thứ nhất có xu hướng giảm xuống, còn hình thức lưu thông thứ hai có xu hướng tăng lên và ngày càng mang tính phổ biến, nhất là khi kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế hàng hoá tồn tại, nên tiền tệ và lưu thông tiền tệ tồn tại là tất yếu khách quan.

Sự vận động của tiền tệ chịu sự chi phối của quy luật lưu thông tiền tệ. Song, do tính chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chi phối, nên mục đích và bản chất của lưu thông tiền tệ không hoàn toàn giống như các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, nhất là trong xã hội tư bản chủ nghĩa.

ở nước ta, tiền tệ và lưu thông tiền tệ có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ mang nặng tính cấp phát, không ổn định, siêu lạm phát chuyển sang tính chất kinh doanh tiền tệ, khống chế và giảm mức lạm phát, củng cố sức mua đồng tiền Việt Nam để từng bước trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi.

Thứ hai, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ hầu như chỉ hoạt động thông qua độc quyền của hệ thống ngân hàng của Nhà nước chuyển sang hoạt động thông qua nhiều tổ chức ngân hàng thuộc các thành phần kinh tế.

Thứ ba, tiền tệ, lưu thông tiền tệ và kinh doanh tiền tệ có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn là ngân hàng nhà nước và uỷ ban chứng khoán quốc gia.

Thứ tư, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ mang tính chất "khép kín" trong nước chuyển sang hoạt động theo cơ chế "mở", hội nhập với khu vực và thế giới.

2. Vai trò của lưu thông tiền tệ

ở nước ta, lưu thông tiền tệ có các vai trò sau đây:

Thứ nhất: lưu thông tiền tệ là điều kiện quan trọng bảo đảm cho tái sản xuất xã hội được thực hiện thuận lợi.

Tái sản xuất xã hội muốn tiến hành bình thường, tổng sản phẩm xã hội phải được bù đắp lại bằng giá trị, phải được thay thế bằng hiện vật, mà sự bù đắp này không tách rời sự bù đắp dưới hình thái tiền tệ và do đó không thể tách rời quá trình lưu thông tiền tệ.

Thứ hai: lưu thông tiền tệ là lĩnh vực quan trọng đối với thực hiện mục đích của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục đích của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi người. Muốn vậy, phải sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm xã hội, nhưng muốn cho sản phẩm xã hội đến được tay mọi người, tất yếu phải thông qua khâu lưu thông hàng hoá lấy lưu thông tiền tệ làm môi giới.

Thứ ba: lưu thông tiền tệ thông suốt với tốc độ nhanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Tốc độ lưu thông tiền tệ nhanh có nghĩa là việc sử dụng tiền tệ nhất định có thể tham gia vào nhiều quá trình sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, thu được nhiều lợi nhuận, nền sản xuất xã hội phát triển với tốc độ cao, tình hình tài chính quốc gia ổn định, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.

Thứ tư: lưu thông tiền tệ là lĩnh vực quan trọng để xúc tiến giao lưu kinh tế, kỹ

thuật với bên ngoài.

Trong thời đại ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và thị trường, không có lưu thông tiền tệ không thể giao lưu kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài. Xuất nhập khẩu, tín dụng quốc tế ... đều gắn với lưu thông tiền tệ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#chương