chương 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

II.CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 – 1945:

1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:

a. Tình hình thế giới và trong nước:

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau Anh, Pháp tuyên

chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm các

nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện

pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.

Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày

22/6/1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức xâm lược Liên

Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân

chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Tình hình trong nước:

Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông

Dương và Việt Nam. Ngày 28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm

tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng cộng sản

Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn và tịch

thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và

tụ tập đông người.

Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính

sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp

phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng cộng sản

Đông Dươn. Hàng ngàn cuộc khám xét bất ngờ diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do,

dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936 – 1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh

tổng động viên, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức

người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn 7 vạn thanh niên bị bắt sang

Pháp để làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22/9/1940, phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn

và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23/9/1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng

Nhật. Từ đó, nhân dân chịu cảnh một cổ 2 tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật.

Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao

giờ hết.

26

b. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

Kể từ khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, Ban chấp hành Trung ương

Đảng họp hội nghị lần thứ 6 (11/1939), hội nghị lần thứ 7 (11/1940) và hội nghị lần

thứ 8 (5/1941). Trên cơ sở khẳng định khả năng diễn biến của chiến tranh thế giới

thứ II và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, Ban chấp hành Trung ương đã

quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

-

Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải

được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp

- Nhật. Bởi “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,

không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc

gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến

vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban chấp hành

Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho

dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho

dân cày nghèo”, “chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”…

-

Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực

lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.

Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban chấp hành

Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là

Việt Minh) thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các

Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh

niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận

động, thu hút mọi người dân yêu nước, không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn

kết bên nhau, đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

-

Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung

tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.

Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực

lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây

dựng căn cứ địa cách mạng. Ban chấp hành Trung ương chỉ rõ việc “chuẩn bị khởi

nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và nhân dân trong giai đọan hiện tại”.

Trung ương quyết định duy trì lực lượng du kích Bắc Sơn và chủ trương thành lập

những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống

địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ,

lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.

Ban chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở

nước ta: “Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận

tiên hơn cả mà đánh lại quân thù… với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một

cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà

mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.

27

Ban chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng

nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chú trọng gấp rút

đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và

đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã

hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một

của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện

mục tiêu ấy.

Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng

dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong mặt trận

Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị,

xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho

nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc

lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

Sau hội nghị lần thứ 8 của Đảng (5/1941), Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi

đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp - Nhật. Người nhấn mạnh:

Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn

kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi

lửa nóng”.

Thực hiện nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các cấp

bộ đảng và mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần

chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của

quần chún. Ngày 25/10/1941, mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Mặt trận Việt

Minh đã công bố 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân nên được nhân dân nhiệt

liệt hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác Bó, Việt Minh đã lan tỏa khắp nông

thôn, thành thị, có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Một số tổ chức chính trị yêu

nước ra đời và đã tham gia làm thành viên của mặt trận Viêt Minh như Đảng Dân

chủ Việt Nam (6/1944). Lực lượng chính trị quần chúng ngày càng đông đảo và

được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu của mặt trận Việt

Minh.

Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang

cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân

dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải

phóng quân được thành lập. Đảng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách

mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn

bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi ở các khi căn cứ và khắp các địa phương trong

cả nước, đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng vùng lên

đấu tranh giành chính quyền.

28

2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:

a. Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa

từng phần:

Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước:

Vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai

đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình

và tiến như vũ bão về phía Berlin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu

thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp để độc

chiếm Đông Dương. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật.

Ngay đêm ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở

rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung

ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông

Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng điều kiện khởi nghĩa

chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều

kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.

Chỉ thị xác định: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ

thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Vì vậy phải thay khẩu hiệu

đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.

Chỉ thị chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ,

làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức

và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như

tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho

thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc…

Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du

kích, giải phóng vùng, mở rộng căn cứ địa.

Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như

khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận

ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng

nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất

nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:

Từ giữa tháng 3/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi

nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.

Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều

nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng

loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,

Tuyên Quang.

29

Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều

làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở

Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập.

Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng lên mạnh mẽ, ngày

15/4/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị quân sự cách mạng

Bắc kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị nhận định: Tình thế đã đặt nhiệm vụ

quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta

phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để

chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị đã quyết định thống nhất

các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng

7 chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và

nửa vũ trang.v.v…

Trong 2 tháng 5 và 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và

nhiều chiến khu được thành lập ở cả 3 miền. Ở khu giải phóng và một số địa phương,

chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền tay sai của

phát xít Nhật.

Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các

tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một

số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.

Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở cả

nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc

Trung Bộ do Nhật, Phát đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Hơn 2 triệu

đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng,

Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đã

đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta. Vì vậy, trong một thời gian

ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.

b. Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa:

chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2/5/1945, Hồng

quân Liên Xô chiếm Berlin, tiêu diệt phát xít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày

9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ở châu Á, phát xít Nhật đang đi

gần đến chỗ thất bại hoàn toàn.

Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định

họp hội nghị toàn quốc của Đảng tạo Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 –

15/8/1945. Hội nghị nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền đã tới và

quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít

Nhật và tay sai, trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương.

Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược”; “hoàn

toàn độc lập”; “chính quyền nhân dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là

tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,

không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm mất

tinh thần quân địch.v.v…

30

Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối

ngoại trong tình hình mới. Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm

chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc

bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp – Anh

và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù

trong cùng một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước

trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc. Hội nghị quyết định

cử Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ trách và kiện toàn Ban chấp

hành Trung ương.

Ngay đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.

Ngày 16/8/1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp. Đại hội nhiệt liệt

tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh,

quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.

Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và

chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng

bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi

nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp

hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang,

Yên Bái và hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền. Ngày 18/8/195, nhân dân

các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng

Nam và Khánh Hòa giành chính quyền ở tỉnh lỵ.

Ngày 19/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn quần

chúng sau khi dự mittinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần hành và mau chóng

tỏa đi các hướng chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại lính bảo an, Sở Cảnh sát

và các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi

nghĩa, hơn 1 vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về

tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8/1945 có ý nghĩa quyết

định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai của Nhật ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ

mạnh mẽ nhân dân các tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế. Ngày 25/8/1945, khởi

nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 – 28/8/1945)

cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị làm sụp đổ hoàn toàn chế độ phong kiến ở

nước ta.

Ngày 2/9/1945, tại cuộc mittinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay

mặt Chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập,

tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ra đời.

31

c. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của

cuộc cách mạng tháng Tám:

Kết quả và ý nghĩa:

- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực

dân Pháp trong gần 1 thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ hàng mấy ngàn năm

và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng

hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhân dân Việt

Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập tự do, làm

chủ vận mệnh của mình.

- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của

lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào 1 kỷ nguyên mới: Kỷ

nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

- Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám, Đảng và nhân dân ta đã góp phần

làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, cung cấp

thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân

tộc và giành quyền làm chủ.

- Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước

thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân

giành độc lập tự do.

Đánh giá ý nghĩa của cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai

cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này

là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,

một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn

quốc”.

Nguyên nhân thắng lợi:

- Cách mạng tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi: Kẻ thù

trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật bị Liên Xô và các lực lượng dân

chủ thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai tan rã. Đảng ta

chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành thắng

lợi nhanh chóng.

- Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ

của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua 3 cao

trào cách mạng rộng lớn: Cao trào 1930 – 1931, cao trào 1936 – 1939 và

cao trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Quần chúng cách mạng được

Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh đã trở thành

lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

- Cách mạng tháng Tám thành công là do Đảng đã chuẩn bị được lực lượng

vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên

minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

32

- Đảng là người tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Tám. Đảng có

đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết

thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên

sức mạnh tổng hợp để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng

khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu

nhất, quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.

Bài học kinh nghiệm:

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn 2 nhiệm vụ

chống đế quốc và chống phong kiến.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế

quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua 3 cao trào

cách mạng, Đảng nhận thức sâu sắc hợn về mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ đó và xác

định: Tuy 2 nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ

yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và

phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia

ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải

cách ruộng đất. Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn

của cách mạng vào đế quốc, phát xít Nhật – Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải

quyết yêu cầu chủ yếu, cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của

Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn 2 nhiệm vụ chống đế

quốc và chống phong kiến.

Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng liên minh công – nông.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của

hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện

được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự

lãnh đạo của Đảng. Đão quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua 3 cao trào

cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong Tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực

làm nền tảng, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân

tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.

Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

Đảng đã lợi dụng mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít,

mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và 1 bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu

thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù

chính là bọn đế quốc, phát xít, bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những

phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng tháng Tám giành được thắng lợi nhanh

gọn, ít đổ máu.

Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng

một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của

nhân dân.

Trong cách mạng tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ

giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với

33

tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai

trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng

tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính

trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ một số địa

phương lan rộng khắp cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập

tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.

Đảng coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa

Mác – Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh

nghiệm của các cuộc khởi nghĩa ở nước ta.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là

lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu

hàng; nhân dân ta không thể sống như trước được nữa. Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng

các mặt về chủ trương, lực lượng và tập dượt qua cao trào chống Nhật cứu nước. Đó

là những điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước

giành thắng lợi.

Sáu là, xây dựng một Đảng Mác – Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa

giành chính quyền.

Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối, chiến lược và sách lược cách

mạng, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển đường lối trong từng thời kỳ cách

mạng. Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào

hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.

Đảng rất coi trọng việc quán triệt đường lối, chủ trương trong đảng viên và

quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng

lệch lạc, Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng

viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. Đảng biết phát

huy triệt để vai trò của mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt

trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#chương