chuong 3 chu the luat quoc te

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG III

CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ

Mục đích nghiên cứu:

- Trong bất kỳ quan hệ pháp luật nào, chủ thể tham gia đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định quan hệ nào đó có thuộc phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó hay không? Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu về một trong những đặc trưng quan trọng của luật quốc tế, đó là vấn đề về chủ thể của luật quốc tế.

- Nghiên cứu về chủ thể luật quốc tế sẽ trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất về các đối tượng được xác định là chủ thể của luật quốc tế, và địa vị pháp lý của các chủ thể trong đời sống quốc tế, trên cơ sở đó sinh viên có thể tự so sánh sự khác nhau giữa đối tựong là chủ thể của luật quốc tế và đối tượng là chủ thể của luật quốc gia; vấn đề công nhận quốc tế, kế thừa quốc tế...

Tài liệu tham khảo: Nghiên cứu vấn đề này, sinh viên cần tham khảo các tài liệu sau:

1. Giáo trình luật quốc tế trường Đại học Luật Hà Nội

2. Luật quốc tế - lý luận và thực tiễn

3. Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ngày 27/12/1933

I. KHÁI NIỆM

1. Định nghĩa

- Khác với các chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia, các chủ thể của luật quốc tế không xuất hiện tại cùng một thời điểm với nhau. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế, do tính chất quyền năng chủ thể khác nhau nên vai trò của các chủ thể luật quốc tế cũng khác nhau. Về cơ bản, việc xác định một thực thể là chủ thể của luật quốc tế có một số dấu hiệu sau:

- Có sự tham gia vào các quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh

- Có ý chí độc lập (không phụ thuộc vào các chủ thể khác) trong sinh hoạt quốc tế;

- Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế;

- Có khả năng gánh vác những trách nhiêm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đã thực hiện gây ra.

 Căn cứ vào các dấu hiệu nêu trên, có thể thấy: Chủ thể luật quốc tế là những thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện.

- Như đã tìm hiểu tại Chương 1, chúng ta biết rằng chủ thể của luật quốc tế bao gồm: Quốc gia, tổ chức quốc tế, dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết, và một số thực thể đặc biệt khác. Trong đó, quốc gia được xác định là chủ thể truyền thống và phổ biến nhất của luật quốc tế.

* Phân loại chủ thể LQT

Căn cứ vào nội dung quyền năng chủ thể, các chủ thể luật quốc tế được phân thành:

- Chủ thể cơ bản của luật quốc tế là quốc gia

- Chủ thể phái sinh là các tổ chức quốc tế liên chính phủ

- Chủ thể quá độ là các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết.

2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế

- Quyền năng chủ thể luật quốc tế là những phương diện thể hiện khả năng pháp lý đặc trưng của những thực thể pháp lý được hưởng những quyền và gánh vác những nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ quốc tế theo quy định của LQT. có thể xem xét quyền năng chủ thể này theo 2 góc độ:

+ Về lý luận: Là thuộc tính chủ quyền gắn với địa vị pháp lý quốc tế của quốc gia trong các quan hệ pháp lý quốc tế, tạo nên sự phân biệt về địa vị pháp lý của quốc gia với chủ thể do quốc gia tạo ra là tổ chức quốc tế liên quốc gia (liên chính phủ).

+ Về pháp lý: Quốc gia, tổ chức quốc tế và dân tộc đang đấu tranh giành độc lập được thừa nhận là những thực thể có những quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản xuất phát từ chính khả năng thực tế của những thực thể này khi tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế.

 Nhận xét:Trong tất cả các chủ thể nêu trên, quốc gia được xác định là loại chủ thể đặc biệt với đặc trưng nổi bật là sự tồn tại có tính quyết định của yếu tố chủ quyền. Chủ quyền đem lại cho quốc gia vị trí trung tâm của mọi mối quan hệ pháp lý quốc tế, là chủ thể tự xác định phạm vi quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý quốc tế cho chính mình và cho các chủ thể hay thực thể khác. Vì vậy, sự tham gia của các chủ thể khác vào quan hệ pháp luật quốc tế đều bị chi phối, ảnh hưởng bởi vai trò trung tâm của quốc gia.

II. QUỐC GIA - CHỦ THỂ CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ

1. Quốc gia và những yếu tố cấu thành quốc gia

(Câu hỏi: Quốc gia được cấu thành từ những yếu tố nào?)

Quốc gia là một phần tạo nên cộng đồng quốc tế, hiện nay trong khoa học pháp lý quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất được chấp nhận chung về thuật ngữ "quốc gia". Tuy nhiên, tại điều 1 Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ ngày 27/12/1933 có đưa ra một vài yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia, đó là:

- Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc gia. Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để xác định chủ quyền quốc gia đối với dân cư của mình. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia.

- Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc gia là tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất định và tuân theo pháp luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả những người có quốc tịch của quốc gia đó.Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa nhà nước với cộng đồng dân cư của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch.

- Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác.

- Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế: "khả năng" này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình.

Cùng phân tích ví dụ: Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng Vaticang là quốc gia nhỏ nhất thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế Vaticăng không phải là một quốc gí độc lập theo đúng nghiã. Nhìn dưới góc độ các yếu tố cấu thành ta thấy: Tòa thánh Vaticăng có lãnh thổ xác dịnh với diện tích rất nhỏ khoảng 0,4km2 và nằm trọn trong lãnh thổ của Italia, có dân cư sinh sống khoảng 1000 người, có bộ máy điều hành, có khả năng tham gia một cách độc lập vào các quan hệ pháp luật quốc tế nhất định (Tòa thánh Vaticăng đã tham gia một số công ước quốc tế như: Công ước Viên 1961 về thiết lập quan hệ ngoại giao, tòa thánh còn tham gia với tư cách quan sát viên của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc...). Nhìn vào hình thức bên ngoài, Tòa thánh giống như một quốc gia tồn tại độc lập, nhưng nếu xem xét sâu xa các yếu tố này, Vaticăng lại không phải một quốc gia, vì:

+ Về lãnh thổ mà Vaticăng đặt trụ sở thực chất thuộc về Italia, Vaticăng có được lãnh thổ này là do một điều ước quốc tế được ký kết giữa Italia và Vaticăng.

+ Về dân cư, thực chất những người dân sống tại Vaticăng đều là công dân của rất nhiều quốc gia khác nhau: Thụy Sỹ, Italia...họ chỉ được coi là dân cư của Vaticăng khi họ phục vụ cho Giáo hoàng  Yếu tố dân cư không mang tính ổn định, họ xuất hiện chủ yếu mang tính thực hiện công vụ với Vaticăng.

+ Về Chính phủ: Giáo hoàng của Vaticăng không phải là một thiết chế quyền lực và Vaticăng không có các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, khi cần để duy trì quyền lực nhà nước hay trật tự, Vaticăng cần phải có sự trợ giúp của Italia  Chính Phủ này không giống Chính phủ khác trên thế giới.

 Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Vaticăng chỉ là một thiết chế mang tính tôn giáo. Sở dĩ nó đựợc cho là chủ thể của LQT vì trong các giai đoạn lịch sử phát triển của LQT, Vaticăng đóng vai trò quan trọng khi trở thành trung gian hòa giải một số tranh chấp, bất hoà trong quan hệ quốc tế. Do đó, họ được phép tham gia vào một số điều ước quốc tế nhất định.

* Thuộc tính chính trị - pháp lý của quốc gia: Khi một thực thể được tạo lên bởi bốn yếu tố trên thì nó sẽ trở thành quốc gia và đương nhiên có thuộc tính chính trị pháp lý là chủ quyền quốc gia, bao gồm 2 nội dung chính là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp...) và quyền độc lập trong các quan hệ quốc tế (có đường lối đối ngoại độc lập, tự do lựa chọn việc tham gia hay không tham gia tổ chức quốc tế hoặc thiết lập quan hệ với quốc gia khác...).

*Phân biệt giữa yếu tố cấu thành quốc gia và thuộc tính chính trị-pháp lý của quốc gia. Việc xem xét yếu tố cấu thành để trả lời cho câu hỏi một thực thể nào đó có phải là quốc gia hay không? Vì bên cạnh quốc gia còn có các chủ thể đặc biệt khác. Chủ quyền không phải yếu tố cấu thành quốc gia nhưng nó tạo ra địa vị pháp lý bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ pháp luật quốc tế).

(Câu hỏi: Để xem xét một thực thể nào đó có phải là quốc gia hay không có căn cứ vào yếu tố chủ quyền không? Không. Mà phải dựa vào các yếu tố cấu thành quốc gia. Khi một thực thể nào đó có đầy đủ 4 yếu tố cấu thành nêu trên  thực thể đó sẽ trở thành quốc gia và luôn luôn có thuộc tính chủ quyền. Chủ quyền là thuộc tính tự nhiên vốn có của bất kỳ quốc gia nào, có thể trong những trường hợp nhất định chủ quyền này có thể bị hạn chế, nhưng đã là quốc gia thì luôn có chủ quyền).

2. Quyền năng chủ thể LQT của quốc gia

- Quyền năng chủ thể LQT của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế, điều này thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau:

* Quyền quốc tế cơ bản:

- Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi;

- Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể;

- Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập;

- Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ;

- Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế;

- Quyền được trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế phổ biến.

*Nghĩa vụ quốc tế cơ bản:

- Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia;

- Tôn trọng sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác;

- Không áp dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực;

- Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;

- Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế;

- Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế;

- Tôn trọng những quy phạm Jus Cogens và những cam kết quốc tế;

- Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình.

 Ngoài các quyền và nghĩa vụ trên đây, các quốc gia khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ của mình trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định, không trái với các quy ước quốc tế.

VD: Thụy Sỹ tự hạn chế quyền và nghĩa vụ của mình khi tuyên bố theo đuổi con đường trung lập.

- Cũng có trường hợp quốc gia có thể gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ bổ sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

VD: Quyền vecto của 5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ. Ngoài những quyền và nghĩa vụ cơ bản như các thành viên khác họ cũng gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ khác.

 Tuy nhiên, những việc làm này không nhằm mục đích đưa đến một kết quả là quốc gia tự hạn chế hay mở rộng hơn chủ quyền đã được quy định trong quy chế pháp lý của quốc gia, mà quốc gia đang thực hiện chủ quyền về đối ngoại của mình xuất phát từ ý chí tự nguyện của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

III. CÁC CHỦ THỂ KHÁC CỦA LUẬT QUỐC TẾ

1. Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết

* Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật quốc tế hiện đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Nói cách khác, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể quá độ lên chủ thể cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, với tính chất chủ thể như vậy, nên các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các quốc gia đều là những chủ thể chủ yếu của luật quốc tế hiện đại và là những chủ thể bình đẳng với nhau về mặt pháp lý.

* Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết phát sinh từ chủ quyền dân tộc, được dân tộc đó thực hiện và bảo vệ. Xuất phát từ chủ quyền dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia dân tộc độc lập có những quyền dân tộc cơ bản sau:

- Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình;

- Được pháp luật quốc tế bảo vệ và các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các tổ chức quốc tế...giúp đỡ;

- Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại;

- Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên chính phủ;

- Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập trong quá trình thực thi luật quốc tế.

Cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại, đi đôi với các quyền quốc tế cơ bản, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết cũng có những nghĩa vụ quốc tế cơ bản. Đó là ng.ĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại.

2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ

* Khái niệm: Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò rất quan trọng trong việc hợp tác quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ-là tổ chức do các quốc gia thành lập lên trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực hiện các quyền năng nhất định theo tôn chỉ, mục đích thành lập tổ chức đó, phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại.

 Như vậy, khác với quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể luật quốc tế không phải căn cứ vào thuộc tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên. Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế liên quốc gia được xác định cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó, số lượng các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ khác nhau  Điểm khác biệt này thể hiện ở chỗ: Quốc gia có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào xuất phát từ lợi ích của chính mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được phạm vi quyền và nghĩa vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham gia trong phạm vi được các thành viên trao quyền. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể phái sinh, chủ thể có quyền năng hạn chế (không đầy đủ) của luật quốc tế.

VD: WTO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề an ninh, quốc phòng...theo thỏa thuận của các thành viên, WTO chỉ tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực thương mại hành hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...

*Quyền và nghĩa vụ của tổ chức quốc tế liên quốc gia: Nhìn chung các tổ chức quốc tế liên chính phủ có các quyền quốc tế cơ bản sau đây:

- Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế;

- Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử đến;

- Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;

- Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau;

- Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp quốc;

- Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và giữa thành viên với tổ chức quốc tế.

- Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký kết với các quốc gia hoắc các tổ chức quốc tế khác.

Ngoài các quyền cơ bản nêu trên, tổ chức quốc tế liên chính phủ có nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của luật quốc tế; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một chủ thể luật quốc tế.

IV. CÔNG NHẬN QUỐC TẾ

1. Khái niệm

a. Sự xuất hiện và tồn tại trên trường quốc tế những quốc gia trẻ, mới giành được độc lập và việc thành lập tại nhiều quốc gia những chính phủ mới có quy chế pháp lý hoàn toàn khác với quy chế pháp lý của chính phủ đã tồn tại trước đó trong cộng đồng quốc tế tất yếu sẽ gây nên những phản ứng khác nhau cho các quốc gia, các chính phủ khác. Trước các sự kiện trên, các quốc gia, các chính phủ khác thường có những hành động nhất định nhằm thể hiện thái độ, phản ứng của mình, qua đó bày tỏ quan điểm của mình đối với sự kiện này  Đây là cơ sở đặt ra vấn đề công nhận trong luật quốc tế. Như vậy, hành vi công nhận được đặt ra khi có sự xuất hiện của quốc gia mới hoặc người đại diện mới cho quốc gia trong quan hệ quốc tế.

b. Định nghĩa: Như vậy, công nhận quốc tế là hành vi chính trị - pháp lý của quốc gia công nhận dựa trên nền tảng các động cơ nhất định (mà chủ yếu là động cơ chính trị, kinh tế, quốc phòng) nhằm xác nhận sự tồn tại của thành viên mới trong cộng đồng quốc tế, khẳng định quan hệ cuả quốc gia công nhận đối với chính sách, chế độ chính trị, kinh tế của thành viên mới và thể hiện ý định muốn được thiết lập các quan hệ bình thường, ổn định với thành viên mới của cộng đồng quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế.

2. Công nhận và quyền năng chủ thể LQT của quốc gia được công nhận

Câu hỏi: hành vi công nhận có tạo ra quyền năng chủ thể LQT của quốc gia được công nhận hay không?

Liên quan đến vấn đề này, trong thực tiễn quan hệ quốc tế tồn tại một số các học thuyết với những quan điểm khác nhau. Trong đó, nổi lên 2 học thuyết đó là:

• Thuyết cấu thành: Thuyết cấu thành (hay còn gọi là thuyết sáng lập ra chủ thể LQT) xuất hiện vào đầu thế kỉ 19. Nội dung cơ bản của thuyết này cho rằng hành vi công nhận sẽ tạo ra quyền năng chủ thể LQT cho quốc gia được công nhận. Theo đó, ngoài 4 yếu tố cấu thành quốc gia, quốc gia phải được các quốc gia khác công nhận mới có tư cách là chủ thể LQT. Hạn chế lớn nhất của thuyết này đó là gắn sự tồn tại của một quốc gia vào ý chí chủ quan của một quốc gia khác. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng về nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và do đó nó mâu thuẫn với nội dung của LQT hiện đại.

• Thuyết tuyên bố: Thuyết này được hình thành từ trào lưu chống lại thuyết cấu thành của các luật gia quốc tế tư sản. Nội dung của thuyết này cho thấy, hành vi công nhận không tạo ra quyền năng chủ thể LQT cho quốc gia được công nhận, mà hành vi công nhận chỉ có ý nghĩa như một tuyên bố về sự tồn tại của quốc gia mới trong quan hệ quốc tế. Học thuyết này được sử dụng và được thừa nhận phổ biến hơn thuyết cấu thành.

VD: sau năm 1945, Việt nam DCCH trở thành 1 quốc gia độc lập và có đầy đủ quyền năng tham gia quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, do chưa được hầu hết các quốc gia công nhận nên khả năng thực hiện quyền năng chủ thể LQT của VNDCCH bị hạn chế rất nhiều.Ví như việc tham gia LHQ. VNDCCH có nộp đơn yêu cầu. Tuy nhiên, theo thủ tục thông qua các nghị quyết của LHQ là phải có 9/15 phiếu (trong đó có 5 phiếu của các UVTT của HĐBALHQ), nhưng VN bị 3 quốc gia là Mỹ, Pháp và Trung Quốc bỏ phiếu phủ quyết với lý do các quốc gia này không công nhận VNDCCH là một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, đến năm 1977 do có sự công nhận của hầu hết các quốc gia này nên VN đã trở thành thành viên của LHQ.

 Nhận xét: Như vậy, công nhận sự tồn tại của một quốc gia mới đối với quốc gia tiến hành việc công nhận là hành vi pháp lý dựa trên chủ quyền quốc gia (là quyền của quốc gia). Pháp luật quốc tế không đặt ra nghĩa vụ phải công nhận quốc gia mới cho mỗi chủ thể LQT. Tiến hành các hành vi công nhận mang tính pháp lý, chính trị, quốc gia công nhận thường dựa trên những động cơ, mục đích nhất định nhằm thực hiện ý định, mong muốn thiết lập quan hệ bình thường và ổn định ở nhiều lĩnh vực khác nhau với quốc gia được công nhận. Và việc công nhận hay không công nhận của các quốc gia đối với quốc gia mới xuất hiện không làm ảnh hưởng đến tư cách quốc gia của thực thể đó. Tuy nhiên, hành vi công nhận của các quốc gia khác sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quốc gia được công nhận khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.

3. Các thể loại công nhận quốc tế, hình thức và phương pháp công nhận

a. Các thể loại công nhận quốc tế: Trong thực tiễn quan hệ quốc tế có nhiều thể loại công nhận khác nhau, như: công nhận mặt trận dân tộc giải phóng, công nhận các bên khởi nghĩa, công nhận các bên tham chiến... Song, công nhận quốc gia và công nhận chính phủ mới thành lập là hai thể loại công nhận cơ bản của công nhận quốc tế.

 Công nhận quốc gia: Bản chất của công nhận quốc gia là công nhận chủ thể mới trong quan hệ quốc tế. Việc công nhận quốc gia được đặt ra khi có một quốc gia mới xuất hiện. Thông thường, các quốc gia mới được hình thành chủ yếu theo một trong các con đường sau:

- Theo cách truyền thống và cổ điển nhất: tại các lãnh thổ vô chủ không có người sống, một nhóm người đến sinh sống trên lãnh thổ đó  bắt đầu có sự thiết lập chế độ quản lý nhằm duy trì trật tự xã hội và tăng cường quyền lực để mở rộng đất đai...Như vậy, quốc gia hình thành theo con đường truyền thống là sự tập hợp dần dần của 4 yếu tố cấu thành quốc gia. Yếu tố quan trọng nhất để quốc gia được hình thành theo cách này là phải tồn tại lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, hiện nay lãnh thổ vô chủ hầu như không còn tồn tại trong quan hệ quốc tế, vì bên cạnh lãnh thổ quốc gia (nơi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn), thì các lãnh thổ khác (bao gồm cả các hành tinh) cũng được cộng đồng quốc tế xác lập cho nó quy chế của lãnh thổ quốc tế - nơi các quốc gia không có quyền chiếm hữu và định đoạt, nhưng có quyền sử dụng. Do đó, hiện nay quốc gia mới không còn được hình thành theo cách này.

- Hiện nay, quốc gia mới được hình thành chủ yếu theo các con đường: chia tách (Liên Xô cũ tách thành 15 quốc gia) hay hợp nhất quốc gia (VD: CHLB Đức được hợp nhất từ Đông Đức và Tây Đức); thông qua con đường đấu tranh giải phóng dân tộc (Việt Nam sau năm 1945), hoặc quốc gia hình thành từ Cách mạng xã hội (CMT10 Nga). Đối với trường hợp quốc gia cũ nhưng chính phủ mới (thường thông qua đảo chính), cộng đồng quốc tế sẽ bày tỏ thái độ, quan điểm của mình trước sự xuất hiện của chủ thể mới hay người đại diện mới cho quốc gia trong các quan hệ quốc tế  những phản ứng quốc tế như vậy thường đưa đến những hệ quả pháp lý nhất định, làm thay đổi hoặc củng cố thêm các mối quan hệ quốc tế đa dạng giữa các quốc gia. Đồng tình hay không đồng tình, ủng hộ hay không ủng hộ...chính là biểu hiện của hành vi công nhận hay không công nhận trong quan hệ quốc tế.

Về pháp lý, bất kỳ quốc gia nào mới hình thành trong LQT không đặt ra điều kiện công nhận.

 Công nhận chính phủ: Việc công nhận Chính phủ mới chỉ đuwocj đặt ra trong trường hợp chính phủ mới được thành lập không bằng con đường hợp hiến. Bản chất của công nhận Chính phủ mới là công nhận người đại diện hợp pháp cho một quốc gia vẫn đang tồn tại trong quan hệ quốc tế (trong trường hợp quốc gia mới được hình thành thì sự công nhận quốc gia mới đồng thời bao hàm cả việc công nhận chính phủ mới của quốc gia đó. Do đó, không đặt ra vấn đề công nhận riêng chính phủ trong trường hợp này). Chính phủ mới xuất hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là chính phủ de jure (là kết quả về mặt pháp lý) và chính phủ de facto (hình thành chủ yếu do đảo chính). Tuy nhiên, việc công nhận chỉ đặt ra đối với chính phủ de facto vì: nó là chính phủ phi hiến, quốc gia khác muốn thiết lập quan hệ với chính phủ này phải tiến hành công nhận. Khác với công nhận quốc gia mới, để được công nhận, chính phủ mới thành lập phải thỏa mãn 3 điều kiện để chứng minh cho tính hữu hiệu của mình đó là:

- Yếu tố không gian: chính phủ đó phải kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ quốc gia.

- Yếu tố thời gian: Chính phủ đó phải có khả năng để duy trì quyền lực của mình trong một thời gian dài.

- Chính phủ đó phải được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng

b. Hình thức công nhận: Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, cho đến nay chưa có một hình thức công nhận nào được áp dụng chung thống nhất đối với các thể loại và đối với các trường hợp công nhận cụ thể. Nhìn chung, có 3 hình thức công nhận chủ yếu được đua ra trong quan hệ quốc tế, đó là: công nhận de jure, công nhận de facto và công nhận ad hoc. 3 hình thức công nhận này biểu hiện 3 cấp độ công nhận khác nhau trong sinh hoạt quốc tế, điều này thể hiện ở chỗ:

Công nhận de jure Công nhận de facto Công nhận ad hoc

- Đây là hành vi công nhận chính thức ở mức độ đầy đủ nhất, toàn diện nhất. - Đây là hành vi công nhận chính thức nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện. - Là hình thức công nhận không chính thức, quan hệ giữa các bên chỉ phát sinh trong một phạm vi nhất định nhằm giải quyết một vụ việc cụ thể, và quan hệ đó sẽ chấm dứt ngay sau khi hoàn thành công việc.

- Động cơ: thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối và thực sự muốn thiết lập quan hệ với bên được công nhận - Thể hiện sự thận trọng, e ngại và miễn cưỡng trong việc thiết lập quan hệ

- Tính chất: là hình thức công nhận vĩnh viễn, không thể bị hủy bỏ - Là hình thức công nhận tạm thời, có thể bị hủy bỏ hoặc duy trì và nâng lên thành công nhận de jure, tùy thuộc vào động cơ công nhận

- Hệ quả pháp lý: nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao trên tất cả các phương diện - là cơ sở cho việc thiết lập các quan hệ lãnh sự, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế, thương mại

- Khác với công nhận ad hoc-là hình thức công nhận mang tính vụ việc, 2 hình thức công nhận de jure và de facto là hình thức công nhận chính thức, quan hệ giữa quốc gia công nhận và quốc gia được công nhận trong 2 hình thức này được duy trì thường xuyên.

VD: Năm 1976 Mỹ thực thi chính sách cấm vận đối với Việt nam, tuy nhiên trong thời gian này, Mỹ cũng tiến hành công nhận ad hoc với Việt nam bằng cách ký một loạt các hiệp định song phương liên quan đến vấn đề tìm kiếm hài cốt liệt sỹ Mỹ mất tích tại Việt nam...

c. Phương pháp công nhận: Là cách thức mà các quốc gia thể hiện thái độ của mình. luật quốc tế hiện đại không bắt buộc các quốc gia hay chủ thể khác phải áp dụng phương pháp công nhận cụ thể nào cho từng trường hoạp công nhận khác nhau. Việc lựa chọn phương pháp công nhận nào hoàn toàn xuất phát từ sự lựa chọn của chủ thể công nhận. Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy có 2 phương pháp công nhận thường được áp dụng là công nhận minh thị và công nhận mặc thị.

- Công nhận minh thị: Là sự công nhận được thể hiện rõ ràng, minh bạch, thông qua các hành vi rõ rệt, cụ thể của quốc gia công nhận trong các văn bản chính thức (như công hàm, văn kiện ngoại giao...).

VD: Nga công khai tuyên bố công nhận độc lập của Nam Ossetia và Apkhazia

- Công nhận mặc thị: Là sự công nhận được thể hiện một cách kín đáo, ngấm ngầm mà bên được công nhận hoặc các quốc gia và chính phủ khác phải dựa vào tập quán hay các nguyên tắc suy diễn trong quan hệ quốc tế mới làm sáng tỏ được ý định của bên công nhận.

VD: - Hoa kỳ mặc nhiên công nhận Việt Nam DCCH khi ký kết Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nam.

- quốc gia A không công khai công nhận quốc gia B, nhưng lại thiết lập các quan hệ kinh tế, thương mại, trao đổi phái đoàn ngoại giao với B.

4. Hệ quả pháp lý của hành vi công nhận

- Công nhận không tạo ra chủ thể mới của LQT, nhưng việc công nhận là cơ sở để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ bình thường giữa các quốc gia.

- Tạo cho quốc gia mới có điều kiện để tham gia vào các quan hệ quốc tế: tham gia xây dựng LQT, tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế có liên quan đến mình.

- Tạo điều kiện cho quốc gia mới phát triển về mọi mặt: kinh tế, xã hội...

- Là cơ sở để giải quyết triệt để vấn đề quy chế pháp lý quốc gia. Nếu quốc gia không được công nhận sẽ gặp khó khăn khi tham gia quan hệ quốc tế (VD: không được hưởng quyền miễn trừ quốc gia).

V. KẾ THỪA TRONG LUẬT QUỐC TẾ

Vấn đề kế thừa quốc gia thường được đặt ra khi có sự thay đổi triệt để về chủ quyền của một quốc gia tại một lãnh thổ nhất định. Sự thay đổi triệt để về chủ quyền đó có thể là kết quả của việc xuất hiện hoặc chấm dứt sự tồn tại của một quốc gia.

1. Khái niệm

- Kế thừa quốc gia là sự chuyển dịch quyền và nghĩa vụ quốc tế từ quốc gia này sang quốc gia khác có liên quan đến vùng lãnh thổ nhất định.

VD: Liên Bang Nga kế thừa tư cách ủy viên thường trực của HĐBALHQ của Liên Xô cũ

* Xem xét kế thừa dưới góc độ quan hệ pháp luật quốc tế thì:

- Chủ thể của quan hệ kế thừa là các quốc gia. Bao gồm các quốc gia để lại kế thừa và các quốc gia kế thừa.

- Đối tượng kế thừa: là các quyền và nghĩa vụu quốc tế được chuyển dịch từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong thực tế, quan hệ kế thừa thường đề cập tới các quyền và nghĩa vụ liên quan đến lãnh thổ, tài sản, các điều ước quốc tế và quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế.

- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền thừa kế: Sự kiện làm xuất hiện quan hệ này là sự thau đổi về chủ quyền quốc gia trên một lãnh thổ nào đó. Sự thay đổi này có thể là sự hình thành quốc gia mới (do tách, hợp nhất...) hoặc khi có sự chuyển dịch lãnh thổ (nghiã là lãnh thổ của quốc ginày chuyển nhượng một phần cho quốc gia khác. Đây là phương thức không hình thành quốc gia mới). VD: Hồng Kông, Macao của trung Quốc được chuyển dịch cho Anh và Bồ Đào Nha.

2. Thực tiễn về giải quyết kế thừa quốc gia trong một số lĩnh vực chủ yếu

*Kế thừa quyền sở hữu đối với tài sản: Giải quyết kế thừa liên quan đến vấn đề tài sản luôn được đặt ra trong mọi trường hợp kế thừa quốc gia. Và cách giải quyết chủ yếu phụ thuộc vào tính chất sở hữu tài sản và quan điểm, cách nhìn nhận của mỗi quốc gia khi được kế thừa. Thông thường, đối với các quốc gia ra đời sau thời kỳ phi thực dân hóa đều có quan điểm quốc hữu hóa tài sản của tư nhân hoặc của quốc gia thực dân để lại không có bồi thường. Việc quốc gia kế thừa có tiến hành quốc hữu hóa, hay trưng dụng, trưng thu...hoàn toàn phụ thuộc vào quốc gia kế thừa dựa trên cơ sở lợi ích của quốc gia đó. Trong một số trường hợp vấn đề kế thừa tài sản có thể do các bên tự thỏa thuận như trường hợp tách hoặc chuyển nhượng, trao đổi lãnh thổ).

* Kế thừa quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế hoặc nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế. Đây là một nội dung quan trọng được đặt ra khi giải quyết vấn đề kế thừa quốc gia.

- Với điều ước quốc tế mà quốc gia để lại kế thừa đang là thành viên, quốc gia kế thừa có thể tiếp tục thực hiện những điều ước phù hợp với lợi ích quốc gia; hoặc thừa nhận hiệu lực của mọi điều ước mà quốc gia để lại kế thừa đã ký kết hoặc tham gia. Riêng đối với các điều ước liên quan đến biên giới quốc gia-lãnh thổ, điều ước về nhân quyền, điềuước tạo ra một số các hoàn cảnh khách quan đặc biệt thì quốc gia kế thừa phải có nghĩa vụ tuân thủ.

- Kế thừa quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế: quan hệ kế thừa này chỉ đặt ra khi quốc gia để lại kế thừa không còn tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, đối với trường hợp quốc gia mới được tách ra từ quốc gia liên bang, hoặc từ một quốc gia độc lập khác thì có quốc gia đương nhiên đựoc hưởng quy chế thành viên của một tổ chức quốc tế, trong khi quốc gia còn lại sẽ trở thành thành viên của chính tổ chức quốc tế đó thông qua thủ tục kết nạp thành viên mới.

VD: Khi Ấn Độ được tách ra thành Ấn Độ Và Pakistan, thì Ấn Độ đương nhiên là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn Pakistan là thành viên của LHQ bằng con đường kết nạp thành viên mới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#thumb