Chuong 4 Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và tính tất yếu của nó

1. Quan niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế

chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa,

trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với

quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh.

Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách

mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân

lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô

sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.

Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một

cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính

trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối

cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã

hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công

nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần

chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.

2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc

cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật

chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát

triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải

thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến

hơn. C. Mác và Ph. ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là những hình thức phát

triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng

xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách

43

mạng xã hội "1.

Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng

sản xuất ngày càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao,

mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về

tư liệu sản xuất. C. Mác đã viết: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá

lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản

chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ

định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên"1.

Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế

hoạch trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sản

xuất toàn xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ

nghĩa gây ra.

Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới

khủng hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Dưới

chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân sống bằng việc bán sức lao động, do

vậy, một khi sản xuất đình trệ làm cho công nhân không có việc làm, họ đã

đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản và giai cấp tư sản.

Để khắc phục tình trạng trên, giai cấp tư sản đã tổ chức ra các

xanhđica, tờrớt, côngxôxiom và nhà nước tư bản ngày càng can thiệp sâu

vào kinh tế, bằng việc quốc hữu hoá một số ngành khi khó khăn, tư hữu

hoá khi thuận lợi.

Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

trong chế độ tư bản ngày càng gay gắt, nhưng quy luật xã hội không tự nó

xảy ra mà phải thông qua hoạt động của con người. Cách mạng xã hội chủ

nghĩa muốn nổ ra, giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử

của mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính

quyền nhà nước của giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền, giành lấy dân

chủ.

3. Những điều kiện của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra phải có điều kiện khách quan

và điều kiện chủ quan.

a) Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất ngày càng phát triển,

những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung hình thành ngày

1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 13, tr. 15.

1. Sđd, t.23, tr. 1059.

44

càng nhiều. Cùng với nó, quy luật cạnh tranh theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé",

càng đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, hình thành những khu công

nghiệp, những tập đoàn tư bản ngày càng lớn. Sự phát triển của lực lượng

sản xuất đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng,

ngày càng nâng cao về chất lượng.

Để thắng trong cạnh tranh, giai cấp tư sản phải ra sức tìm ra những

biện pháp hữu hiệu để bóc lột công nhân. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản

phương Tây đang phát triển trung bình, một ngày công nhân phải làm 12

tiếng. Điều đó giúp cho công nhân dễ dàng nhận thấy rằng, họ là đồ vật, là

tài sản của giai cấp tư sản và công nhân trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản

và chủ nghĩa tư bản.

Giai cấp tư sản với lòng tham vô đáy, với khát vọng giàu có và quyền

lực, đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến

những nước này thành thuộc địa của chúng, chủ nghĩa tư bản trở thành chủ

nghĩa đế quốc. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc

với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.

Để có lợi nhuận cao, giai cấp tư sản, một mặt tiến hành khai thác cạn

kiệt tài nguyên của các nước, mặt khác tìm cách cải tiến máy móc, đầu tư

trang thiết bị ngày càng hiện đại, dẫn tới tình trạng thất nghiệp của công

nhân ngày càng gia tăng. Điều đó càng làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp

công nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết mâu

thuẫn trên bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xoá bỏ ách áp

bức của giai cấp tư sản, xoá bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa

về tư liệu sản xuất, thiết lập quan hệ sản xuất mới và chế độ mới xã hội chủ

nghĩa.

Hiện nay, sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất, những

thành tựu ngày càng to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,

càng tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất để nâng cao mức sống nhân

dân, mở rộng tình đoàn kết giữa các dân tộc.

Song, do tính chất tư bản chủ nghĩa, vì lợi nhuận siêu ngạch, các tập

đoàn tư bản lớn trên thế giới đang ỷ lại vào tiềm năng kinh tế, sức mạnh

quân sự gây ra những cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới. Những cuộc

chiến tranh này đã để lại những hậu quả nặng nề cho quần chúng nhân dân

lao động. Tình trạng nghèo đói trong các nước nghèo ngày càng gia tăng,

khoảng cách chênh lệch giữa nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn.

b) Điều kiện chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Có điều kiện khách quan mà thiếu điều kiện chủ quan thì cách mạng

xã hội chủ nghĩa cũng không thể nổ ra, nếu nó nổ ra thì cũng không thể

45

thắng lợi.

Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của

giai cấp công nhân, đặc biệt là khi nó đã có đảng tiên phong của mình.

Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, dưới chủ

nghĩa tư bản, nhưng lại không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động để

kiếm sống.

Những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ

ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, theo quy luật có áp bức có đấu tranh.

Quy mô những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản

ngày càng mở rộng. Nhưng chỉ khi nào giai cấp công nhân nhận thức được

rằng, chỉ có xoá bỏ chế độ nô lệ làm thuê, giải phóng giai cấp mình và giải

phóng toàn xã hội bằng một cuộc cách mạng thắng lợi triệt để họ mới được

giải phóng thật sự. Giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch

sử của mình, của việc thực hiện việc xoá bỏ trật tự của chế độ tư bản chủ

nghĩa, thiết lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa; tức là phải nhận thức được

"việc giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp

công nhân"1.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, không chỉ có giai cấp công nhân bị áp

bức bóc lột mà cả những giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác như:

thợ thủ công, nông dân, những người buôn bán nhỏ và kể cả đa số trí thức...

cũng bị bóc lột. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân có những lợi ích

cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những

người thợ thủ công, v.v.. Điều đó đã tạo ra những điều kiện cho giai cấp này

có khả năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc

đấu tranh chống giai cấp tư sản. C. Mác và Ph. Ăngghen viết: "Lịch sử của

cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện nay đã phát triển tới giai đoạn trong đó giai

cấp bị bóc lột và bị áp bức, tức là giai cấp vô sản, không còn có thể tự giải

phóng khỏi ách của giai cấp bóc lột và áp bức mình, tức là giai cấp tư sản,

nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội khỏi ách bóc lột,

áp bức, khỏi tình trạng phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp"2.

Thực tế cuộc đấu tranh thử thách giai cấp công nhân, với sự soi sáng

lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, giúp giai cấp này nhận thức được sự cần thiết

phải xây dựng cho mình một chính đảng thực sự cách mạng, có khả năng

tập hợp quần chúng nhân dân lao động, thực hiện việc giác ngộ quần chúng

nhân dân, huy động họ đi vào cuộc đấu tranh, tổ chức cuộc đấu tranh, thì

giai cấp công nhân mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình là xoá bỏ

1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr. 523.

2.Sđd, t. 21, tr. 523.

46

chủ nghĩa tư bản, xây dựng được một chế độ xã hội mới. V.I. Lênin đã chỉ

rõ: "Khi những đại biểu tiên tiến của giai cấp đó (giai cấp công nhân - TG.)

đã thấm nhuần được những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, tư

tưởng về vai trò lịch sử của công nhân Nga, khi các tư tưởng đó đã được

phổ biến rộng rãi và khi mà trong hàng ngũ công nhân đã lập ra được các tổ

chức vững chắc có thể biến cuộc chiến tranh kinh tế phân tán hiện nay của

công nhân thành một cuộc đấu tranh giai cấp tự giác, thì lúc đó NGƯờI

CÔNG NHÂN Nga, đứng đầu tất cả các phần tử dân chủ, sẽ đạp đổ được

chế độ chuyên chế và đưa giai cấp vô sản Nga (sát cánh với giai cấp vô sản

trong tất cả các nước), thông qua con đường trực tiếp đấu tranh chính trị

công khai, tiến tới cách mạng cộng sản chủ nghĩa thắng lợi"1.

Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải rèn luyện giai cấp công

nhân có bản lĩnh chính trị, phải tự gột rửa những ảnh hưởng tư tưởng tư

sản, phong kiến, khắc phục tính vị kỷ cá nhân, tư tưởng cục bộ, địa

phương, bản vị mới có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, có khả năng

đập tan những âm mưu thâm độc và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù.

4. Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến trình liên tục gồm hai giai

đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành

giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ. V.I. Lênin đã chỉ rõ:

giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.

Đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền

của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trở thành mục tiêu trực tiếp

của lực lượng cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Muốn

thực hiện điều đó cần phải có tình thế cách mạng.

Tình thế cách mạng xuất hiện khi mà giai cấp thống trị không thể

thống trị như trước được nữa, những người bị áp bức không thể tiếp tục

cuộc sống như trước, giai cấp lãnh đạo cách mạng đã đủ năng lực lãnh đạo,

phát động được cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp những người lao

động chống lại giai cấp tư sản.

Để cách mạng nổ ra và giành thắng lợi phải có thời cơ cách mạng. ở

bên trong mỗi nước, thời cơ cách mạng là lúc giai cấp thống trị tỏ ra hoang

mang cực độ, xâu xé lẫn nhau do sự lớn mạnh của phong trào cách mạng,

phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động. Lực lượng lãnh

đạo cách mạng đã sẵn sàng hành động cho cuộc quyết chiến để giành chính

1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr. 385 - 386.

47

quyền. ở bên ngoài, là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế

ủng hộ cách mạng, kiên quyết đứng lên đấu tranh chống lại những âm mưu

xâm lược, can thiệp của những lực lượng tư bản, lực lượng đế quốc hiếu

chiến, tạo điều kiện cho cách mạng bùng nổ và giành thắng lợi.

Với bản chất hiếu chiến, những thế lực tư bản đế quốc chủ nghĩa sẵn

sàng sử dụng bạo lực phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng của

quần chúng nhân dân lao động, do vậy, trong hoàn cảnh đó, cuộc cách

mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể giành được thắng lợi, giành được chính

quyền "bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản"1.

Bạo lực cách mạng được hiểu dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang kết

hợp với bãi công chính trị của quần chúng. Bạo lực cách mạng cũng có thể

được tiến hành bằng cuộc đấu tranh chính trị một cách hoà bình của quần

chúng nhân dân lao động, những lực lượng cách mạng, đi đầu là giai cấp

công nhân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Con đường đấu tranh hoà

bình đó phát triển đến mức đủ áp lực buộc giai cấp tư sản phải giao chính

quyền nhà nước cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Phương

pháp đấu tranh này đỡ đổ xương máu, đỡ gây tổn thất cho quần chúng nhân

dân lao động, rất quí và hiếm. Thực tế, cho tới nay, chưa có nước xã hội

chủ nghĩa nào giành được chính quyền bằng con đường trên. Tuy nhiên,

các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn dự báo khả năng trên và

cho rằng, chỉ khi tương quan so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho phía

cách mạng, thì khả năng trên mới có thể xảy ra.

- Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn giai cấp công nhân đã nắm chính

quyền, sử dụng chính quyền đó, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tập hợp

các tầng lớp nhân dân lao động, thực hiện cải tạo xã hội cũ, tổ chức xây

dựng xã hội mới về mọi mặt như: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã

hội, v.v..

Quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên các lĩnh vực của

đời sống xã hội đòi hỏi giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao

động phải biết xoá bỏ những cái gì là bảo thủ lạc hậu, là phản nhân văn,

đồng thời phải biết tiếp thu những cái gì là tiến bộ, là nhân văn mà nhân

loại đã tạo ra và phải biết quí trọng, kế thừa những giá trị truyền thống của

dân tộc mình.

Quá trình tổ chức xây dựng xã hội mới là một nhiệm vụ rất mới mẻ,

do đó rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Một mặt, cần phải khắc phục những

tàn dư, những thói quen, tập tục lạc hậu đã ăn sâu vào trong hàng triệu quần

chúng nhân dân lao động, mặt khác, phải tiến hành cuộc đấu tranh chống

1. C.Mác và Ph. ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 612.

48

lại những âm mưu phá hoại vừa thâm độc, vừa nham hiểm của những thế

lực phản động, hiếu chiến.

II. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã

hội chủ nghĩa

1. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng dân chủ tư sản với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái đã

tập hợp quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp

quí tộc, phong kiến. Nhưng khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thì

mọi quyền tự do, dân chủ của quần chúng nhân dân lao động không được

tôn trọng. Tự do trong chế độ tư bản chủ nghĩa là tự do bóc lột của giai cấp

tư sản, tự do bán sức lao động của người công nhân; tự do bóc lột của nước

giàu với nước nghèo, tự do thống trị của nước lớn với nước nhỏ, v.v..

Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu của giai cấp công

nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho nên có thể nói chủ nghĩa xã hội

mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại

ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà từng bước thực hiện việc

giải phóng con người "trên thực tế, biến con người từ vương quốc của tất

yếu sang vương quốc tự do", tạo nên một thể liên hiệp "trong đó sự phát

triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi

người"1.

Khi chúng ta nói mục tiêu là cái đích cần đạt tới, do vậy, những mục

tiêu khả thi nêu trên từng bước biến thành hiện thực thông qua quá trình lao

động nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao động, thông qua những biện

pháp tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã

hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành

lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là "xoá bỏ

mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn

dân"2. Khi mà "xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc

này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ"3.

1. Sđd, t. 4, tr. 628.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 9, tr. 156.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 624.

49

2. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội.

Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị

nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm

chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc đấu tranh xoá bỏ những cái

xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt làm cho xã hội ngày

càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng nâng lên.

Muốn thực hiện được những nội dung nêu trên, giai cấp công nhân

cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng bạo

lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, "giai cấp vô

sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành

giai cấp dân tộc"1..

Bước tiếp theo, giai cấp công nhân phải không ngừng nâng cao trình

độ tri thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân lao động, tạo ra những

điều kiện cần thiết để ngày càng mở rộng dân chủ cho nhân dân, thu hút

quần chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước,

quản lý xã hội, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân.

Quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình nhân dân

thực hiện quyền làm chủ về chính trị cũng là quá trình đấu tranh gay go

quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cá nhân và tập thể, giữa chủ nghĩa

cách mạng và phản cách mạng, v.v..

Trên lĩnh vực kinh tế: những cuộc cách mạng trước đây về thực chất là

cách mạng chính trị. Chúng kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai

cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa, thực chất, là có tính chất kinh tế. Việc giành được chính quyền về

tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng

tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa

là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải

thiện đời sống nhân dân.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết, phải

thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất, thay chế

độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội chủ

nghĩa dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết

gắn người lao động với tư liệu sản xuất.

Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày

1. Sđd, t.4, tr. 623-624.

50

càng tăng cao, từng bước cải thiện đời sống nhân dân lao động, nâng cao

chất lượng sức khoẻ, năng lực của người lao động. Mặt khác, dưới chủ

nghĩa xã hội, tìm mọi cách phát huy tính tích cực xã hội, khả năng sáng tạo

của người lao động để ngày càng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả

công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển góp

phần chiến thắng chủ nghĩa tư bản.

Dưới chủ nghĩa xã hội, có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản

xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải xã hội

phục vụ quần chúng nhân dân lao động, vì có sự thống nhất về lợi ích giữa

cá nhân, tập thể và xã hội.

Chủ nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động, do vậy, năng suất

lao động, hiệu quả công tác là thước đo đánh giá sự đóng góp của mỗi

người cho xã hội. Năng suất lao động, hiệu suất công tác là biểu hiện cụ thể

của lòng yêu nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã

hội.

Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp

bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất, họ cũng nắm luôn công cụ thống trị

về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần chúng

nhân dân lao động đã là những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ

yếu của xã hội, do vậy, cũng là những sáng tạo ra những giá trị tinh thần

của xã hội. Người lao động là người sáng tạo, làm phong phú thêm những

giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người hưởng

thụ những giá trị văn hoá tinh thần đó.

Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hoá truyền

thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hoá tiên tiến của thời đại, cách

mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá thực hiện việc giải phóng

những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng từng bước

thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành những

con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước, thương dân, có bản

lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết và biết giải quyết đúng đắn

mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội..., có năng lực làm chủ xã hội.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực và các

lĩnh vực đó có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau.

Nhìn chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến

toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó công cuộc cải tạo kết hợp

chặt chẽ với công cuộc xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai

trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới, ngược

51

lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo ra những điều kiện có ý nghĩa quyết

định để triển khai công cuộc cải tạo.

3. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

"Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số

thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong

trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số"1.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công

nhân, nhân dân lao động ra khỏ i tình trạng áp bức bóc lột, do vậy,

thu hút được sự tham gia của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân

dân lao động khác.

Giai cấp công nhân ngày càng tăng về số lượng, nâng cao về chất

lượng, ngày càng giác ngộ về lợi ích giai cấp của mình thông qua sự lãnh

đạo của đảng cộng sản, cho nên là động lực cơ bản, chủ yếu của cuộc cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Vai trò động lực và vai trò lãnh đạo của giai cấp

công nhân là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng, khi nào và ở đâu

phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sáng

suốt thì cách mạng thắng lợi, những lực lượng phản động quốc tế bị đẩy

lùi. ở đâu và khi nào phong trào công nhân suy yếu, sự lãnh đạo của giai

cấp công nhân giảm sút thì phong trào cách mạng sẽ gặp khó khăn.

Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của

giai cấp công nhân, do vậy, giai cấp này trở thành động lực cách mạng to

lớn trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đấu tranh

giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ giành thắng lợi khi giai cấp nông

dân đi theo giai cấp công nhân, làm cho sức mạnh của cách mạng tăng lên.

Trước đây, C. Mác đã chỉ ra, nếu giai cấp công nhân không thực hiện được

bài đồng ca cách mạng với giai cấp nông dân thì bài đơn ca của giai cấp

công nhân sẽ trở thành bài ai điếu.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng vậy, giai cấp công

nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khi đại đa số giai cấp

nông dân đi theo giai cấp công nhân, cùng giai cấp công nhân xây dựng xã

hội mới ngày càng tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

Sự tham gia đông đảo của giai cấp nông dân vào cuộc cách mạng xã

hội chủ nghĩa là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo của đảng, là cơ sở xây dựng

chính quyền nhà nước vững mạnh, xây dựng một xã hội quyền lực thuộc về

nhân dân. Giai cấp nông dân là lực lượng quan trọng trong sự phát triển

1. Sđd, t.4, tr. 611.

52

kinh tế của đất nước, cùng với giai cấp công nhân xây dựng nền kinh tế

ngày càng phát triển - điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã

hội đối với chủ nghĩa tư bản.

Trí thức là những người có vị trí quan trọng trong cách mạng xã hội

chủ nghĩa, trong quá trình đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Trước đây V.I. Lênin đã khẳng định, không có tri thức không

thể có chủ nghĩa xã hội. Trí thức là những người có đóng góp to lớn trong

chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho

đất nước, tham gia xây dựng đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của

nhà nước, đưa chúng vào trong quần chúng nhân dân và tổ chức quần

chúng thực hiện cho được đường lối, chính sách đó.

Trong thời đại khoa học công nghệ, lượng giá trị lao động chất xám

ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong sản phẩm hàng hoá, thì vai trò động lực

phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. Ngày nay, không một sản phẩm

nào trong công nghiệp, trong nông nghiệp lại không gắn với khoa học công

nghệ.

Vai trò trí thức ngày càng tăng trong xã hội. Trí thức ngày càng có ý

nghĩa to lớn với sự phát triển đất nước, nhưng trí thức không bao giờ trở

thành lực lượng lãnh đạo cách mạng, vì họ không đại biểu cho bất cứ một

phương thức sản xuất nào, không có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục vụ

cho giai cấp nào thì mang ý thức hệ của giai cấp đó. Trí thức trong cách

mạng xã hội chủ nghĩa thì theo ý thức hệ của giai cấp công nhân - chủ

nghĩa Mác-Lênin.

Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006) của Đảng đã chỉ rõ: Để

đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phải tạo lập và phát huy các động lực của nó,

có như vậy mới giải phóng được lực lượng sản xuất, giải phóng con người.

- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh

giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Đây là nguồn sức mạnh và là động lực chủ yếu bảo đảm thắng

lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực

của công cuộc đổi mới.

- Kết hợp hài hoà lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích

thiết thân của con người.

- Trong sự nghiệp đổi mới, cần quan tâm tới các động lực khác rất

quan trọng, như phát triển văn hoá, xây dựng con người, thi đua xã hội chủ

nghĩa,... kể cả động lực tinh thần (tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,

53

ý chí vươn lên, tự lực tự cường, khoa học - công nghệ...). Bản thân đổi mới

cũng là một động lực của sự phát triển1.

III. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa

Mác-Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam

1. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin

Trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ

nghĩa, lý luận về sự phát triển cuộc cách mạng dân chủ tư sản theo một

cương lĩnh mang tính triệt để để rồi chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ

nghĩa do V. I. Lênin nêu lên có một vị trí nổi bật.

Để làm việc đó, V.I.Lênin đã kế thừa những tư tưởng của C.Mác và

Ph.Ăngghen về cách mạng không ngừng. Khi luận chứng về mặt lý luận,

C.Mác và Ph.Ăngghen xem cách mạng như một quá trình gồm hai giai đoạn,

nhưng phát triển liên tục, thông qua việc hoàn thành mục tiêu của giai đoạn

thống nhất rồi tiến tới mục tiêu cuối cùng.

Trong khi quan tâm và đặt hy vọng chủ yếu vào sự bùng nổ đồng loạt

của cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, hai ông bỏ qua các

nước mà chủ nghĩa tư bản mới chỉ đạt mức độ trung bình, còn tồn tại những

tàn tích nặng nề của chế độ phong kiến trung cổ. Xem các nước này như

những bộ phận không tách rời trong hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới, hai

ông nêu lên giả định cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra ở

các nước này trước khi nó nổ ra ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. ở

các nước này, theo C.Mác và Ph.Ăngghen cần kết hợp cuộc cách mạng của

giai cấp vô sản với phong trào đấu tranh của nông dân và của các lực lượng

tư sản chống phong kiến, giành dân chủ. Cuộc đấu tranh giành dân chủ phải

được đặt trong xu thế tiến tới một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nghiên cứu tình hình nước Đức vào nửa đầu thế kỷ XIX, hai ông cho rằng,

nước Đức hiện nay đang ở vào đêm hôm trước của một cuộc cách mạng tư

sản và cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu trực tiếp cho một cuộc

cách mạng vô sản.

Điều mà C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ xem như ngoại lệ trong thời đại

của các ông đã được V.I.Lênin căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử mới, khẳng

định là nét tiêu biểu của thời đại mình. Ông phân tích sâu tình hình nước

Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Do là nơi tập trung các mâu thuẫn lúc

đó và là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, giai cấp

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006),

lưu hành nội bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 137-140.

54

công nhân tuy ra đời muộn nhưng sớm trưởng thành, nước Nga trở thành

trung tâm của cách mạng thế giới.

Trong lòng nước Nga "đế quốc - phong kiến - quân phiệt" cùng một

lúc xuất hiện tiền đề của hai cuộc cách mạng. Chủ nghĩa tư bản đạt tới mức

độ phát triển trung bình và đã chuyển vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa làm

cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản biểu hiện gay gắt,

tạo nên tiền đề cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Tàn tích

phong kiến trung cổ được duy trì ở mức độ nặng nề làm cho mâu thuẫn

giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ biểu hiện không kém gay gắt,

tạo nên tiền đề của cách mạng dân chủ.

Trong bầu không khí sục sôi cách mạng ở nước Nga, cùng một lúc

xuất hiện nhiều lực lượng đấu tranh. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân

và tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân

đòi ruộng đất và quyền dân sinh, dân chủ tối thiểu; cuộc đấu tranh của các

dân tộc bị áp bức đòi bình đẳng và tự quyết dân tộc; cuộc đấu tranh của

đông đảo nhân dân đòi chấm dứt chiến tranh và tạo lập một nền hoà bình

vững chắc. V.I.Lênin nhận rõ rằng hoà bình, dân sinh, dân chủ là "mẫu số

chung" của tất cả các trào lưu đó. Vì thế cương lĩnh cách mạng do Người

nêu ra là tiến hành một cuộc cách mạng dân chủ triệt để rồi chuyển biến lên

cách mạng xã hội chủ nghĩa.

V.I.Lênin chỉ ra rằng, khác với giai đoạn trước, ở giai đoạn đế quốc

chủ nghĩa, do thái độ của các giai cấp và mối tương quan giữa các giai cấp

đã có những thay đổi nhất định nên cách mạng dân chủ đã có những biểu

hiện mới trong nội dung. Cách mạng dân chủ tư sản Nga mang tính nhân

dân sâu sắc, đồng thời biểu lộ cả những "dấu hiệu vô sản". Đó là cuộc cách

mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp công nhân lãnh đạo. Sự hoàn

thành triệt để cuộc cách mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp để

chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

V.I.Lênin cho rằng thắng lợi triệt để của cách mạng dân chủ phải được

đánh dấu bằng sự ra đời của một thiết chế chính trị mang tính quá độ, đó là

nền chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp

nông dân. Thiết chế chính trị đó mang tính mềm dẻo, hoạt động của nó vừa

đáp ứng những nhiệm vụ mà cách mạng dân chủ đặt ra một cách trực tiếp,

vừa thể hiện được xu thế phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi

chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa thì nền chuyên chính

này mới chuyển thành chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin còn nêu lên và thực hiện tư tưởng về sự "giao kết" giữa

cách mạng dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự "giao kết" đó biểu

55

hiện ở chỗ trong cách mạng dân chủ đã giải quyết một số nhiệm vụ nhằm

chuẩn bị tiền đề trực tiếp cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn khi đã

chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa thì vẫn phải tiếp tục làm tốt

những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân chủ. Sự "giao kết" đó gắn bó

hai giai đoạn cách mạng vào một tiến trình liên tục và thống nhất.

V.I.Lênin viết: Thắng lợi hoàn toàn của cách mạng hiện tại sẽ đánh

dấu bước kết thúc của cách mạng dân chủ và mở đầu cho cuộc đấu tranh

kiên quyết cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, để thực hiện sự chuyển biến từ cách mạng

dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa phải có đủ ba điều kiện chủ yếu:

Một là, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của

nó được bảo đảm và không ngừng củng cố.

Hai là, khối liên minh công nông được giữ vững và phát triển trên cơ

sở một đường lối thích hợp với từng giai đoạn cách mạng.

Ba là, chính quyền dân chủ cách mạng được củng cố để hoàn thành

nhiệm vụ của nó ở giai đoạn thứ nhất, đồng thời chuẩn bị những điều kiện

để chuyển sang giai đoạn thứ hai.

2. Sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

a) Tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt

Nam

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, với truyền thống yêu

nước, nhân dân ta đã kiên cường đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp

giành lại độc lập cho dân tộc.

Các sĩ phu yêu nước dưới ngọn cờ "Cần Vương" mong giành lại độc

lập cho dân tộc khôi phục chế độ phong kiến, đã bị thực dân Pháp đàn áp

đẫm máu. Những người nông dân với lòng căm thù giặc sâu sắc, cầm gươm

giáo đứng lên khởi nghĩa chống Pháp cuối cùng cũng thất bại.

Với ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, mà trực tiếp nhất

là cách mạng Tân Hợi Trung Quốc, nhiều nhà cách mạng Việt Nam như:

Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học v.v. muốn giành độc

lập cho dân tộc, đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, noi gương

các nước phương Tây cuối cùng đều bị thất bại.

Sở dĩ các phong trào đấu tranh trên đều bị thất bại, bởi vì cách mạng

lúc đó thiếu đường lối đúng đắn, các phong trào không đáp ứng được

những yêu cầu dân chủ của thời đại mới, tư tưởng phong kiến, tư sản đã trở

56

nên lạc hậu với thời đại. Tuy những phong trào cách mạng đó đã thất bại,

nhưng đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân,

góp phần nâng cao chí khí, khai thông dân trí cho dân tộc.

Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) đã thức tỉnh các dân tộc bị áp

bức đứng lên giành độc lập dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng

bước đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành qua các cuộc khai thác

thuộc địa của thực dân Pháp, tuy số lượng không đông nhưng đã sớm tiếp

thu được tinh thần yêu nước của dân tộc, lại bị ba tầng áp bức là đế quốc,

địa chủ, và tư sản, nên đã tỏ rõ là một lực lượng kiên cường trong các cuộc

đấu tranh.

Nỗi nhục của người dân bị mất nước, bị áp bức bóc lột nặng nề của

thực dân, đế quốc là một trong những nhân tố làm cho giai cấp công nhân

Việt Nam từng bước có ý thức gắn liền với quyền lợi giai cấp, cuộc đấu

tranh giành độc lập của cả dân tộc ta.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX,

sự áp bức của thực dân, đế quốc, phong kiến với quần chúng nhân dân lao

động vô cùng tàn bạo, những phong trào đấu tranh theo xu hướng phong

kiến, tư sản đều bị thất bại, đã là mảnh đất tốt để tuyên truyền tư tưởng xã

hội chủ nghĩa cho nhân dân. Hồ Chí Minh viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa

tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là

gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi"1.

Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận

thức được tính tất yếu lịch sử: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng

được các dân tộc bị áp bức", do vậy, Người đã tích cực tuyên truyền chủ

nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản

Việt Nam vào ngày 3-2-1930.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam thoát

khỏi sự khủng hoảng về đường lối chính trị.

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân

dân Việt Nam đã kết hợp hai sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức và giải

phóng giai cấp những người lao động. Đi theo ngọn cờ của Đảng, nhân dân

Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ đó để đưa đất nước đi lên

con đường xã hội chủ nghĩa.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr. 28.

57

b) Tính tất yếu chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

lên cách mạng xã hội chủ nghĩa

Tính tất yếu chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên

cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định ngay trong Cương lĩnh

cách mạng đầu tiên của Đảng ta: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ

địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"1.

Thực tế của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng ta lãnh đạo cũng thể

hiện rõ tính tất yếu nêu trên.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thực dân Pháp lại trở

lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam vừa phải kháng

chiến, vừa phải kiến quốc với phương châm dựa vào sức mình là chính,

phải dựa vào dân, huy động sức dân mà kháng chiến.

Muốn kháng chiến thắng lợi chúng ta phải xây dựng chính quyền của

nhân dân, làm cho nhân dân là người chủ thực sự của đất nước. Quyền

hành, lực lượng đều ở nhân dân, một khi:

"Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.

Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên"2.

Để thực hiện được điều đó Nhà nước dân chủ nhân dân phải từng

bước xoá bỏ sở hữu địa chủ phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nông dân,

phải tạo điều kiện cho công nhân làm chủ xí nghiệp. Ngọn cờ của chủ

nghĩa xã hội đã quy tụ sức mạnh của nhân dân lao động, giúp chúng ta

giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải

phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nửa nước, nhân dân

miền Bắc đã có điều kiện huy động sức người sức của cùng với nhân dân

miền Nam thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải

phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ

nghĩa xã hội.

Tính tất yếu của sự chuyển từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là: đường lối và mục tiêu cách

mạng Việt Nam là nhất quán, dù có phân chia hai giai đoạn, nhưng đều do

một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Không lý gì một

Đảng một giai cấp đang lãnh đạo thắng lợi đối với một dân tộc lại tự rời bỏ

vai trò của mình cho đảng khác, giai cấp khác (điều này trái cả với quy luật

của nhân loại, từ khi có giai cấp và Đảng chính trị). Hơn nữa, những kết

1. Sđd, t.3, tr.1.

2. Sđd, t.5, tr. 293.

58

quả, thắng lợi của giai đoạn cách mạng do Đảng ta lãnh đạo cũng đồng thời

là điều kiện, mở đầu cho giai đoạn cách mạng mới cũng do Đảng ta lãnh

đạo trên phạm vi cả nước. Cả dân tộc ta có đủ những điều kiện và tư liệu

thực tiễn lịch sử để hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với

sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta, dân tộc ta.

Hiện nay tình hình quốc tế có những biến động, các lực lượng tư bản

chủ nghĩa đang có lợi thế về phát triển khoa học công nghệ, về sức mạnh

kinh tế, sức mạnh quân sự, chủ nghĩa xã hội đang có thoái trào tạm thời sau

sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô, (chủ yếu là do những sai lầm và tự xóa

bỏ chủ nghĩa xã hội), Đảng ta tiếp tục khẳng định một cách đúng đắn rằng:

"loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ

nghĩa xã hội"1.

Sở dĩ Đảng ta khẳng định như vậy bởi lẽ, hiện nay chủ nghĩa tư bản

tuy có thay đổi hình thức áp bức, bóc lột, nhưng vẫn không hề thay đổi bản

chất, vẫn là nguyên nhân gây ra sự nghèo đói cho các nước chậm phát triển,

vẫn là nguồn gốc gây ra những cuộc chiến tranh và tạo nên bao tai họa về

văn hoá, xã hội, môi sinh... trên thế giới. Ngay trong các nước tư bản phát

triển như Mỹ, Anh, v.v. tình trạng phân hoá giàu nghèo vẫn diễn ra rất gay

gắt, người nghèo vẫn sống trong tình trạng không nhà cửa. Nhiều nước dân

tộc chủ nghĩa, sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con đường

tư bản chủ nghĩa, nhưng đất nước vẫn đang rơi vào tình trạng nghèo đói,

khó khăn, chiến tranh, xung đột dân tộc, tôn giáo, v.v.. Sự nghèo khổ của

những người lao động ở những nước này ngày càng trở nên trầm trọng. Sự

nghèo đói, chậm phát triển làm cho các nước đó không thể có độc lập thật

sự.

Nhiều nước trước đây vốn là các nước xã hội chủ nghĩa, trong công

cuộc cải tổ, cải cách, đã mắc nhiều sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng,

thậm chí có sự phản bội lại chủ nghĩa xã hội muốn đưa đất nước đi theo

con đường của chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội dân chủ, ảo tưởng

mong chờ sự giúp đỡ của thế giới tư bản, hiện nay đang rơi vào tình trạng

khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất

nước. Nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn. Xung đột dân tộc, tôn

giáo, phe phái gia tăng. Đời sống của những người lao động ngày càng khó

khăn. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng. Vị thế của

các nước đó trên trường quốc tế ngày càng suy giảm.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1996, tr. 76.

59

Việt Nam do giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đổi

mới một cách đúng đắn "... đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội

chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện

mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp"2, nên đã

thu được những thắng lợi to lớn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) của Đảng

Cộng sản Việt Nam đã phát triển thêm và cụ thể hoá hơn những nội dung

của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những bước đi,

hình thức để đạt được mục tiêu cụ thể hơn. Đó là: "Xây dựng chủ nghĩa xã

hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội

trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải

trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức

tổ chức kinh tế, xã hội có tính quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội VIII của

Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước

công nghiệp. Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số

nhiệm vụ của chặng đường trước"1.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4 năm 2006) của Đảng đã

khẳng định: "Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng,

toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu

to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ

bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị

và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị -

xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên

trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã

tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với

triển vọng tốt đẹp.

Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng

đắn, sáng tạo; phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội

và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan

điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con

2.Sđd, tr. 70.

1.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2001, tr. 85.

60

đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ

bản"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#duoc#quay