Chương 4: Sâu Bệnh Hại Ong

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Bệnh Thối Ấu Trùng

Ở Việt Nam phát hiện có 2 loại bệnh thối ấu trùng

1.1. Bệnh thối ấu trùng châu âu : European foulbrood

Tác nhân gây bệnh : tác nhân chính gây bệnh thối ấu trùng châu Âu là 1 loại liên cầu khuẩn có tên là: Melissoccocus pluton

Vi khuẩn có dạng hình cầu , 2 đầu kéo dài thành hình giáo nhọn, kích thước từ 0,7 – 1,5 um .Liên cầu khuẩn bắt màu gram dương. Nó có thể đứng riêng rẽ hoặc từng cặp , chuỗi.

Sức chống chịu của vi khuẩn khá cao. Trong bánh tổ nó tồn tại trong được 12 tháng, bị tiêu diệt sau khi phơi nắng 3h , trong mật : sau 40h.

            Nuôi cấy trong môi trường dinh dưỡng đặc biệt ở 350c ; PH 6,6 sau 24 – 48h xuất hiện khuẩn lạc màu trắng, đường kính từ 1 – 1,6 mm.

Vi khuẩn có khả năng lên men một số đường như Gluco, fructo.

Con đường lây truyền nguồn bệnh trong đàn ong:

- Bệnh lây từ ấu  bệnh sang ấu trung khỏe thông qua ong dọn vệ sinh và ong nuôi dưỡng.

- Lây từ đàn bệnh sang đàn khỏe thông qua ong ăn cướp mật hoặc do các dụng cụ nuôi ong không được sát trùng sạch sẽ. Cũng có thể do người nuôi ong không đảm bảo các nguyên tắc vệ sinh thú y.

- Bệnh lây từ vùng này sang vùng khác thông qua việc di chuyển ong đi lấy mật việc mua bán ong bệnh không kiểm dich sạch sẽ.

Triệu chứng lâm sàn của bệnh:

- Đối  với ấu trùng: VK gây bệnh cho ấu trùng ở giai đoạn tuổi nhỏ từ 3 – 5 ngày tuổi , 1 – 2 ngày đầu ấu trùng ít bị bệnh vì trong sữa chúa có nhiều chất kháng sinh . 3 – 5 ngày tuổi là giai đoạn chuyển sang ăn phấn và mật nên rất mẫn cảm dễ bị bệnh.

Khi bị bệnh nhẹ , ấu trùng khô ,thay đổi tư thế , không nằm cong như bình thường mà doãng rộng ra , màu sắc cơ thể chuyển đổi từ màu trắng ngà sang vàng, sau chuyển sang màu nâu sẫm. Ấu trùng chết có mùi chua như dấm. Khi đàn ong bị bệnh nặng hay đã bị bệnh lâu , ong thưa quân , không dọn thối rữa, tụt xuống đáy lỗ tổ. Sau khi bị khô đi thành vảy có thể lấy đi dễ dàng.

- Đối với đàn ong bệnh : khi đàn ong bị bệnh nặng , ít có hoặc không có nhộng vít nắp. hoặc khi nhấc câu kiểm tra thấy ong xào xạc, chạy tụt xuông vách thùng hoặc phía dưới bánh tổ. Ong thợi già, đen bong do ấu trùng bị chết nên không có lớp ong non kế tiếp. Bệnh lây truyền từ đàn này qua đàn khác.

Bệnh kéo dài 2 -3 tháng nếu không được sử lí thì ong sẽ bốc báy.

Biện pháp phòng trừ:

+Duy trì đàn ong mạnh để tăng khả năng chống chịu. Khả năng chống chịu liên quan đến việc dọn dẹp vệ sinh của ong.

+ Cho ăn thuốc kháng sinh cùng với xiro đường

Cho ăn thuốc kháng sinh cùng với xiro đường (theo tỷ lệ 1 đường : 1 nước) 3 tối liên tiếp, mỗi tối 100 ml/ cầu, có thể sử dụng 1 trong các loại thuốc sau:

- Erythromyxin 0,4 – 0,5 g pha trong lít xiro đường.

- Kanamixin 0,5 g pha  trong 1 lít xiro đường

- Streptomyxin 0,4 – 0,5 g pha trong lít xiro đường.

- Chloramphenicol 0,4 – 0,5g pha trong 1 lít xiro đường

- Ampixilin 0,5 g pha trong lít xiro đường chia cho 10 cầu

Các loại thuốc trên hòa với nước sôi để nguội , sau đó đỏ vào xiro đường , khuấy cho tan đều . cho ong ăn 3 tối liên tiếp. sau 1 tuần kiểm tra nếu chưa khỏi thì cho ăn tiếp.

Khi cho ăn thuốc chú ý 1 số điểm:

- Trước khi ăn cần loại bớt cầu bị bệnh nặng, cầu thưa quân để ong ăn hết đường . Cần kết hợp cho ăn thuốc với thay đẻ đàn bệnh mũ chúa tạo từ đàn không bệnh để tăng hiệu quả điều trị.

-Trong trường hợp ong không ăn thuốc thì sủ dụng phương pháp phun và phải tăng liều lượng. Phun dạng bụi lên cơ thể ong trưởng thành. Cứ cách ngày phun 1 lần. Sau 3 lần phun ong sẽ đỡ bệnh.

- Nếu đàn bệnh nặng kéo dài tốt nhất lấy một cầu nhộng của đàn khỏe cho vào thùng đã khử trùng rồi rũ ong thợ và ong chúa của đàn bệnh vào thùng, còn cầu bệnh đem nấu sáp để khử trùng.

1.2. Bệnh ấu trùng túi (sacbrood)

a. Tác nhân gay bệnh. Bệnh do virus gây nên

Đối vơi ong ngoại là virut Morator aetatulae Holomes

Đốt với ong nội là Thai Sacbrood

Khả năng lây nhiễm bệnh của virut gây bệnh ấu trùng túi rất lớn. Theo Bailey (1981) 1mg virus trong dịch ấu trùng chết bệnh có thể lây cho toàn bộ ấu trùng ong rthowj của 1000 đàn khỏe.

Sức chống chịu virus ko cao, nó mất khả năng gây bệnh ở nhiệt dộ 59oC trong 10 phút. Ở nhiệt độ phòng, vi rus có thể tồn tại 3 tuần.

Trong đàn ong bệnh lây truyền qua ong nuôi dưỡng. Bệnh truyền từ đàn này sang đàn khác qua ong ăn cướp mật, nhầm tổ, lấy chung nguồn thức ăn, đặc biệt là chung nguồn phấn do nhập ong dàn bệnh vào đàn khỏe và sử dụng chung dụng cụ nuôi.

b. Triệu chứng bệnh. Gây bệnh cho ấu trùng tuổi lớn (6 ngày tuổi đến tiền nhộng)

Bánh tổ bị bệnh, nắp vít tổ lõm xuống, bị ong thợ cán thủng, có ấu trùng nhọn đầu nhô lên miễng lỗ tổ.

Phần lớn ấu trùng chết ở giai đoạn mới vít nắp hoặc tiền nhộng. Khi bệnh nặng cả ấu trùng tổi lớn tuổi chuẩn bị vít nắp cũng bị chết. Mầu sắc của ấu trùng bệnh từ trắng ngà chuyển sang trắng bạch, màng ngăn đốt ko rõ. Khi gắp ấu trùng khỏi lỗ tổ, phía đôi ấu trùng có túi dịch trong suốt hoặc vàng nhạt. Thân ấu trùng chuyển sang mầu vàng nhạn rồi nâu nhạt hay xám nâu. Khi mới chết ấu trùng ko có mùi, khi khô hanh thành vảy cứng, dễ lấy ra khỏi tổ.

Đàn bệnh: Bệnh nặng có tới 90% ấu trùng tổi lớn chết. Ong xào xạc ko ổn định, đàn ong thưa quân, nhiều ong già, năng suất mật giảm 20-80% tùy thuộc mức độ bệnh, bệnh nặng đàn ong sẽ bỏ tổ bốc bay.

c. Phòng trị bệnh

- Chọn giống chống bệnh với ấu trùng túi (TQ, ÂĐ đã thành công)

- Nhốt chúa 1 tuần

- Thay chúa đẻ đàn bệnh bằng chúa tơ hoặc mũ chúa.

Việc thay chúa đẻ bằng chúa tơ, mũ chúa hoặc nhốt chúa 7-8 ngày đẫ tạo ra một khoảng thời gian trong đàn ong ko có ấu trùng nhỏ tuổi, nhất là ấu trùng 2 ngày tuổi là giai đoạn mẫn cảm nhất với virus gây bệnh ấu trùng túi. Ong thợ được ăn them, tăng cường dọn vệ sinh, gắp bỏ ấu trùng bệnh. Các vảy khô nếu còn lại cũng ko còn khả năng lây bệnh nữa. Các lỗ tổ được dọn vệ sinh và đổ đầy mật hoa hoặc nước đường vào, 7-8 ngày chúa mới đẻ lại, đàn ong sẽ giảm bệnh.

2. Ngộ độc

Hiện nay có 2 loại:

* Ngộ độc do thuốc bảo vệ thực vật

* Ngộ độc do mật, phấn hoa độc. VD: hoa chè, đước, hoa thuốc lá, hoa lim, hoa cà độc dược, đậu ván, bồ kết, bồ hoàn.

2.1. Nguyên nhân.

- Do lỗi của người nuôi ong đặt ong trong vùng cho mật phấn độc hoặc do người dân có tập quán sử dụng thuốc BVTV.

- Phun thuốc trừ sâu vào ban ngày và cả thời kỳ cây trồng nở hoa.

- Sử đụng các loại thuốc trừ côn trùng như ruồi, muỗi ngay cạnh thùng ong, ở các rãnh nước, cây cỏ ong đến lấy mật, phấn.

- Do người nuôi ong ko chuyển ong hoặc cách ly ong kịp thời khi người dân sử dụng thuốc BVTV.

2.2 Triệu chứng ngộ độc

- Ngộ độc với thuốc BVTV: Đối với thuốc độ độc cao ong chết trên đường lấy mật về, thuốc có độ độc TB thì sau vài giờ ong chết. Có nhiều xác ong trưởng thành chết bên trong và bên ngoài thùng ong. Trước khi chết ong vật vã xoay tròn bay lên rơi xuống. Khi chết vòi hút duỗi dài, trên cơ thể vãn còn thức ăn.

Khi ong trưởng thành chết thì ấu trùng chết hàng loạt, đàn ong suy giảm nhanh chóng.

- Ngộ độc do mật phấn do mật phấn độc: chủ yếu gây chết cho ấu trùng nhieuf hơn ong trưởng thành

2.3. Biện pháp phòng chống

- Trước khi đặt ong phải điều tra kỹ vùng định đặt ong.

- Đối với người nuôi ong thì ko đặt ong ở vùng cho mật phấn độc, người dân có thói quen sử dụng thuốc hóa học BVTV.

- Đối với người trồng trọt : nên khuyến cáo sử dụng biện pháp phòng trừ IPM hoặc sử dụng thuốc BVTV trước hoặc sau khi cây nở hoa.

- Người nuôi ong nên lien hẹ chặt chẽ với người trồng trọt để nắm rõ lịch phun thuốc để chuyển ong kịp thời.

- Khi phát hiện thấy ong bị ngộ độc phải nhanh chóng chuyển ong đi, sau đó quay để loại bỏ mật đã nhiễm độc. Dùng dao cắt hết bánh tổ chứa phấn độc. Đến tối cho ong ăn nước đường có vắt 1 ít chanh (1 quả/ 1 lít nước đường) nhằm giúp chuyển hóa đường tốt hơn.

Trong trường hợp thuốc có thời gian tác động ko kéo dài có thể cách ly ong tại chỗ. Ban ngày đóng chặt của tổ bịt kín khe hở ko cho ong ra ngoài, mở của thông gió; đến chiều tối mở cửa cho ong đi bài tiết sau đó đóng lại. Khi hết thời gian thuốc tác động thì mở cửa cho ong đi làm bình thường.

3. Sâu ăn sáp hại ong

Sâu ăn sáp có 2 loại:

- Sâu ăn sáp loại lớn Galleria mellonella

- Sâu ăn sáp loại nhỏ Achroia grisella.

Sâu ăn sáp thuộc họ ngài đêm Noctuidae, bộ cánh vẩy, thuộc loại biến thái hoàn toàn. Thời gian phát dục, vòng đời phụ thuộc vào nhiệt độ, có thể biến động từ 4,5 tuần – 6 tháng.

Sau trưởng thành (bướm) đẻ 300-500 trứng/ con.

- Vị trí đẻ trứng: đẻ trên các cầu cũ vì ở đó có nhiều thức ăn hoặc đẻ ở lớp sáp vụn ở đáy thùng

- Sau khi đẻ trứng nở thành sâu non, sâu non sẽ phát tán vào cầu ong. Ở đó chúng đục bánh tổ thành đường hầm, vị trí đục là vách ngăn đáy giữa 2 lỗ tổ. Đục đến đâu chúng nhả tơ che kín đường hầm đến đó.

- Khi bị sâu ăn sáp tấn công nhộng ko vũ hóa được, ong thợ sẽ cắn vít nắp gây hiện tượng nhộng trần. Gắp nhộng ra quan sát thấy phân của sâu dính cuối bụng nhộng.

Bị sâu phá hại mạnh ong bốc bay. Mùa hè ong tản ra ngoài hóng mát và hệ số nhân của sâu nhanh nên ong bị bệnh nhanh.

- Biện pháp phòng trừ:

+ Giữ cho đàn ong luôn mạnh, quân phủ đầy các cầu, đủ thức ăn để chúa đẻ thường xuyên. Vào vụ thiếu thức ăn, càn mạnh dạn loại bỏ các cầu cũ.

+ Thường xuyên vệ sinh đáy thùng sạch sẽ, quyết sạch sáp vụn, sáp lưỡi mèo, và nắp vít và cạo kĩ các khe thùng để diệt trứng sâu.

+ Thu hẹp cửa tổ, bịt kín các khe hở cửa thùng ong.

+ Các cầu bánh tổ, sáp vụn loại ra cần nấu sáp ngay ko để lưu cữu trong trại. Tần chân chưa dung, sáp mới nấu phải gói kín bằng nilong hoặc giấy polyethylene.

+ Trường hợp muốn lưu trữ bánh tổ để dung cho vụ sau có thể xông ơi bằng cách đốt bột lưu huỳnh, ethylene oxt, paradiclobenzen 50g/1m3 ko gian chứa cầu. Thùng đựng phải kín. Sau 15-30 ngày xông lại cầu 1 lần cho đến khi đưa cầu ra sử dụng.

4. Bệnh ỉa chảy

- Nguyên nhân: bệnh do một loài nguyên sinh động vật có tên là Nosema apis gây ra. Bệnh thường xuất hiện vào vụ đông xuân sau những ngày mưa rét kéo dài, ong ko bay ra được.

- Triệu chứng: có nhiều ong bò lết dưới đất ở trước cửa thùng ong. Bụng ong bị trướng, phân màu vàng sẫm hoặc nâu đen. Đàn ong yếu đi do tuổi thọ giảm, ong nuôi ấu trùng kém, đàn bệnh thu rất ít mật.

- Phương pháp chuẩn đoán: phải nghiền nát bụng các con ong nghi là bị bệnh, lấy dịch soi khi nếu thấy bt hình ovan có mép dầy màu xanh nhạtà bt Nosema apis.

Khi ong đi bài tiết, phân có bt rơi vào cây cỏ, ao hồ, rãnh nước.ong khỏe đi lấy nước hoặc mật,phấn hoa ăn vào bị nhiễm bệnh và lây lan ra cả tổ.

- Điều trị:thay chúa bệnh bằng chúa mới. cho đàn ong ăn thuốc Fumagilin hòa trong nước đường với liều lượng 250mg/1l xiro đường cho 10 cầu ong ăn lien tục trong 10 ngày,cần cho ăn trước vụ mật 3 tuần,kết hợp thay thùng rũ bớt cầu bị bệnh,ủ ấm cho đàn ong, có thể cho ăn penixilin 1000000 dv/l nước đường thay cho Fumagilin.

5. Bệnh ve ký sinh:

- Ve ký sinh Varroa jacobsoni (chí lớn): thuộc họ Varroidae, có nguồn gốc từ ong châu á, nhưng gây tác hại rất ít cho loài ong này.ve chỉ ký sinh trên nhộng ong đực,rất ít thấy kí sinh trên nhộng ong thợ.do vòng đời ong thợ ngắn,ấu trùng ong thợ chỉ nằm trong lỗ tổ vít nắp 10 ngày.mặt khác do ong thợ có tập tính tự dọn vệ sinh và vệ sinh cho nhau,căn và tiêu diệt.

Khi nhộng ong đực bị ve ký sinh nhiều thì đàn ong A.cerana bỏ tổ bốc bay để lại các ấu trùng có ký sinh,nên nguồn bệnh còn rất ít.khi nhập ong chau au A.mellifera vào châu á,loại ve này chuyển sang ký chủ mới và gây hại rất lớn.

- ve ký sinh Tropilaelaps clareae (chí nhỏ): loài ve này có nguồn gốc từ ong khoái Apis dorsata,sau đó chuyển sang ký sinh trên ong A.mellifera,gây thiệt hại lớn hơn cả varroa.ve tropilaelaps chỉ ký sinh trên ấu trùng,chỉ gây hại cho ong ngoại.

- chuẩn đoán: kt đàn ong,nếu bị ve ký sinh có hiện tượng ong gần vũ hóa bị gắp bỏ ra ngoài thùng hoặc ong trưởng thành cso kt nhỏ, cánh xoăn, bị cắn cụt, ÂT bị hại ko vít nắp hoặc nắp vít hơi vàng,gắp cấu trùng ra khỏi tổ có thể nhìn thấy ký sinh trong lỗ tổ.

-phòng trị ký sinh:ko mua bán ong có ve ký sinh,khi phát hiện đàn ong có ve ký sinh cần cách ky ít nhất 15km,nếu ký sinh xuất hiện lần đầu trên lãnh thổ,cần hủy đàn ong bị ký sinh.

Có thể tiêu diệt bằng cách:

+ BPHH: sd folbex,phenothiszine,amitraz để xông hơi đàn ong vào buổi tối.xông làm 3 đợt,mỗi đợt 3 tối liền cách nhau 8-10 ngày,đáy thùng ong đặt giấy bôi vazolin,ký sinh bị say thuốc sẽ rơi xuống và dính vào giấy,sau khi xông thuốc bỏ giấy ra đốt,vệ sinh thùng ong,cho ong ăn đầy đủ.sau 3 đợt xử lý,tiến hành thay chúa và cho ong đi cách ly.

+ BPVL: nhốt chúa lại,rũ ong trưởng thành vào lồng lưới,đặt vào thùng xử lý nhiệt ở 46-48 độ C trong 12-15p,ve ký sinh bám trên ong sẽ rơi xuống.đưa lồng ra,đổ ong vào thùng mới,hioom sau thả chúa ra,cho ong ăn đầy đủ và đem đi cách ly.

+ BP bẫy ve bằng ấu trùng ong đực: đối với ký sinh varroa có thể dung cầu ấu trùng ong đực đưa vào đàn ong ký sinh để ve tập trung vào cầu này. Khi ấu trùng ong đực vít nắp,đưa ra ngoài hủy bỏ,sau 3 lần như vậy có thể làm giảm đáng kể số lượng ký sinh Varroa trong đàn ong.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fsfsf