than diêu dai hiep

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 1 : Người dị khách trên bờ hồ

Giang Nam, một dải đất hữu tình gồm nhiều thắng cảnh mà xưa nay khách giang hồ đã từng lưu gót, không một ai không quyến luyến. Bốn mùa đều có hoa nở: Xuân có thuỳ liễu xinh tươi, hạ có anh đào trắng xoá. Nhất là vào đầu thu, trong hồ sen không ngớt những tiếng hát véo von cũ những thân nhân quý tộc. Họ tiêu khiển bằng thú chèo ghe hái sen trông rất thanh lịch.

Năm đó, vào thời Nam-Tống, trấn Lăng hồ, phía Bắc trai thanh gái lịch du ngoạn rất nhiềụ

Một hôm, vào cận tiết Trung thu, dưới hồ sen có một chiếc ghe nhỏ chở năm người thiểu nữ lơ lửng trên dòng nước như mặt gương. Năm thiếu nữ ấy có ba người tuổi suýt soát nhau. Họ vừa hái sen vừa cất tiếng hát:

Sen xa hồ, sen khô nhuỵ úa

Hồ không sen như dải lục đìa hiu

Tình đời mấy kẻ biết yêu

Giữa lúc đó thì hai cô bé kia tuổi mới lên chín, chưa hiểu gì tình tứ của câu hát đó, và cũng không cần để ý, đưa tay chỉ một ông lão ngồi ở hồ sen cười nức nở.

Một cô bé nói:

-Kìa, đến hôm nay ông lão vẫn còn ngồi đó.

Thật vậy, một ông lão đầu râu mốc xếch, quần áo tả tơi, tóc dài và dựng ngược, choàng một chiếc áo dàì cũng rách nát, thủng nhiều chỗ, phía dưới là một tấm xiêm của phụ nữ và có thêu hồ điệp (bướm ) trong trạng thái say sưa và lơi lả. Lão ngồi đó đã ba hôm nay, tay cầm chiếc trống con con cho trẻ em chơi tết Trung thu, thỉnh thoảng lại gõ một hồi vào mặt trống, mắt đăm chiêu nhìn vào tận chân trời xạ Không ai hiểu lão đến từ đâu cả. Mọi người nhìn lão như một người điên hay một kẻ mất trí. Hai cô bé trên thuyền là hai chị em họ, hơn nhau chưa đầy nửa tuổị Cô lớn tên Trình Anh, tính nết đoan trang dịu dàng, tâm hồn chứa đựng đầy tình thương, uỷ mị. Còn cô nhỏ là Lục Vô Song, trái với chị nàng rất ranh mãnh, liến thoắng và hoạt bát. Bởi vậy, tuy hai chị em nhưng mỗi người một tâm tư khác nhaụ

Trong lúc mọi người đang chú ý nhìn lão già kỳ dị thì Lục Vô Song nhảy dựng trên thuyền, chỏ miệng về phía ông già nói:

- Các chị ơi, ông lãi điên kia ngồi đó đã ba ngày, chắc ông ta đói lắm.

Trình Anh bấm nhẹ vào vai Lục Vô Song bảo:

- ấy chết, biết có phải người ta điên hay không. Nói khẽ chứ nếu ông ta nghe được thì khốn !

Lục Vô Song vẫn lớn tiếng:

- Nếu không người điên sao mặc tấmm ciêm phụ nữ, ngồi đó đánh trống làm gì? Lão càng giận chúng ta càng được xem vui mắt !

Dứt lời Lục Vô Song phá lên cười rồi cúi xuống mặt hồ ngắt một gương sen ném về phía ông lãọ

Trình Anh vội đưa tay cản laị

- Hiền muội đừng đùa thế, tội nghiệp người tạ

Nhưng không kịp, chiếc thuyền cách bờ hơn trăm thước, thế mà mặc dù Lục Vô Song còn nhỏ tuổi nàng đã ném chiếc gương sen trúng ngay đầu ông lãọ Lão già kỳ dị vẫn ngồi điềm nhiên đánh trống, mắt vẫn hướng về phía trời xạ Đợi cho chiếc rơi đến, lão nhe răng đớp lấy nhai ngấu nghiến.

Ba người thiếu nữ lớn tuổi thấy lão không hề bóc gì cả, nhai ngấu nghiến của xác lẫn vỏ lấy làm ngạc nhiên lắm lắm. Lục Vô Song lấy làm thú vị, nhặt tiếp một chiếc gương ném đến. Ông lão chưa nhai xong chiếc gương trước đưa đầu ra hứng. Chiếc gương sen rơi vào mé đầu lão và nằm đấỵ Năm cô thiếu nữ phá lên cười một lượt bảo nhau:

- Thật là lý thú.

Lục Vô Song lại ném tiếp. Và cứ mỗi lần chiếc gương sen bay vèo đến, ông lão lè lưỡi ra lám cho chiếc gương sen bay tung lên rồi đưa đầu ra hứng lấỵ Gương sen chồng chất lên đầu lão như những chiếc cổ tháp rất ngoạn mục. Chỉ một lúc, chiếc cổ tháp đó được xây rất cao, gần đến đọt cây thuỳ liễụ Lục Vô Song thấy thế không ném gương sen nữa, bào mọi người:

- Chúng ta chèo thuyền vào bờ đến gần ông ấy xem sao !

Trình Anh nói:

- Không nên, biết đâu ông ấy đang giận chúng ta

Lục Vô Song nói:

- Tiểu muội xem ông ấy không có ý giận chúng ta đâụ Nhưng nếu ông ấy có giận thì làm gì chúng ta được mà sợ.

Trong lúc năm cô thiếu nữ đang bàn cãi với nhau thì lão già kỳ dị lắc đầu cho từng cánh sen rơi vào mồm. Và cứ thế nai cho gần hết chiếc cổ tháp trên đầu lãọ

Trình Anh thấy thế thương tâm, bàn với ba thiếu nữ lớn cho thuyền vào bờ rồi tự mình bước lên dâng cho ông lão một chung trà ngon và nói:

- LãoTrượng ăn sen như thế chắc khát nước lắm.

Ông lão không nói gì cả, tiếp lấy chung trà và uống một hơị

Trình Anh lại tự tay mình lôi vài chiếc gương sen, lấy hạt đưa vào mồm ông lãọ Hơi trà lẫn với vị hương sen khiến ông lão cảm thấy ngọt ngàọ Và đôi mắt hoang vắng đang theo đuổi một bóng hình nào ở nơi chân trời dường như dịu lại, ông ta liếc nhìn Trình Anh chậm rãi và gật đầu tỏ ý cảm ơn.

Nhưng lạ thay, trong lúc ông ta gật đầu xuống mà những chiếc gương sen trên đầu không rơị Ngay sau đó bên bờ hồ lại có tiếng kêu của một con chó. Trình Anh quay lại chỉ thấy một đám trẻ con, đứa cầm gậy, đứa cầm đá đang đuổi theo một con chó ghẻ chạy xuống cây cầụ Con vật ghẻ khốn nạn đó đã từng bị bọn trẻ nghịch ngợm kia đuổi đánh mấy lần vì nó là con chó hoang vo chủ. Trình Anh động lòng thương nên mỗi lần gặp con chó ấy nàng vội vã lấy thức ăn đem chọ

Đang bị đuổi đánh, bỗng thấy ân nhân mình, con chó liền lao đầu đến bên Trình Anh có ý cầu cứụ

Trình Anh nói với bầy trẻ:

- Thôi! Các em chớ đánh đập nó tội nghiệp. Nó là một con vật bệnh hoạn, vô chủ, đáng thương hạị

Bọn trẻ thấy Trình Anh là gái, lại không lớn hơn tụi nó là bao nên sì sộ không nghe lờị Một đứa trong bọn trẻ, vẻ mặt đanh ác nhất xông ra nói:

- Chúng ta đánh chó can gì đến mày mà can thiệp. Hãy đứng dang ra kẻo liên luỵ đến thân.

Lục Vô Song đứng bên chị, thấy thằng bé hỗn lão bèn bước tới nói:

- Tao bảo chúng bay không được tàn nhẫn với con vật nàỵ..

Lục Vô Song chưa dứt lời, thằng bé đã nhảy chồm tới, đưa tay thoi vào mặt. Lục Vô Song né vội sang một bên làm cho thằng bé mất thăng bằng té nhủi về phía trước. Thừa thế, cô ta tung chân đạp mạnh vào vai làm cho hắn cắm đầu xuống, mặt va phải mô đất, gãy mất hai chiếc răng cửạ Thích chí, Lục Vô Song đứng vỗ tay cườị Trong lúc đó Trình Anh thấy thương tâm vội đỡ thằng bé dậy, lau các vết máu trên mặt và vỗ về:

- Thôi! Em đừng khóc ! Chỉ tại em tánh hung hăng! Em có đau lắm không ?

Nàng vừa nói vừa rút chiếc khăn ra lau những vết máụ Nhưng thằng bé không lấy thế làm lành, đưa tay xô mạnh Trình Anh ra và nguyền rủa:

- Tao không cần chúng bay an ủi taọ Chúng bay là lũ không cha không mẹ , thua gì con chó ghẻ vô chủ kiạ

Lục Vô Song tức giận bước tới, toan đấm vào mặt hắn ta một thoi nữa nhưng Trình Anh ngăn lại:

- Nó đã bị thương, hiền muội đừng giận nữa!

Thằng bé trố mắt nhìn Lục Vô Song chòng chọc, nhưng nó vừa bị đạp, liệu không đủ sức chống cự liền xua lũ trẻ bỏ chạy, vừa chạy vừa chửi rủa đủ lờị Qua đến giữa cầu, lũ trẻ nhặt đá ném vào chị em Trình Anh tới tấp. Chị em Trình Anh biết võ nghệ nên tránh né lanh lẹ, chỉ tội nghiệp ba cô thiếu nữ lớn tuổi bị gạch ngói rơi trúng người la ôi ốị

Bây giờ ông lão cùng đứng bên cạnh chi em Trình Anh và cũng bị gạch ngói ném trúnng, nhưng ông ta vẫn điềm nhiên không hề né tránh, và cũng không hề tỏ ra đau đớn gì cả. Bọn trẻ cho kỳ lạ, tập trung cả gạch ngói một lượt ném ông lão nhưng ông ta vẫn như thường. Chúng càng thích thú, càng cố gắng ném gạch đá nhiều hơn. Lục Vô Song bực tức trước cử chỉ trêu ngươi đó, cô ta hét lên một tiếng, toan nhảy phóc qua cầu để cùng với bầy trẻ ăn thua một trận. Nhưng ông lão đã kịp thời cản lạị

Ông ta đứng án ngữ trước mặt chị em Trình Anh, gục đầu cho cho hai cánh sen rớt xuống , dùng lưỡi đưa vào mồm nhai ngấu nghiến. Nhưng lần này ông ta không nuốt, búng miệng phun vào đám trẻ con. Xác gương sen bay vụt đến trúng vào đứa nào cũng tỏ ra đau đớn, ù té bỏ chạỵ Lục Vô Song thích thú cườị Đồng thời cô ta cũng ngạc nhiên tự hỏi:

- Xác gương sen nhẹ như bông, ông lão làm sao phun ra xa được. Mà vật nhẹ như thế dẫu có trúng thì làm thế nào đau đớn được.

Cả chị em Trình Anh cũng đồng kinh ngạc và nghĩ như thế. Thấy bâỳ trẻ rên rỉ chạy trốn hết, ông lão kỳ dị ngửa mặt lên trời nói:

- Theo ta chăng ?

Nói xong ông ta rảo bước về hướng Tâỵ Lục Vô Song cầm tay Trình Anh nói:

- Chị ơi, chúng ta theo ông lão này xem thử !

Trình Anh còn trù trừ chưa quyết. Ba cô thiếu nữ lớn tuổi cản lại:

- Thôi, chớ nên đi chơi xa, hãy trở về sớm là hơn. Dì và dượng biết được sẽ rầy la không ít.

Lục Vô Song thấy Trình Anh do dự, nắm chặt tay nói:

- Nếu chị không đi thì em đi một mình.

Từ bé đến giờ, chị em Trình Anh lúc nào đi chơi đâu cũng có nhau, chẳng lẽ Trình Anh để cho Lục Vô Song đi một mình. Biết không cản trở được ý định của em, Trình Anh miễn cưỡng bước theọ Ba cô thiếu nữ lớn vừa ái ngại vừa sợ sệt đứng nơi bờ hồ kêu réọ Bóng ông già quái dị và chị em Trình Anh khuất dần trong bãi dâu xanh.

Đi được một lúc, ông già quay đầu lại thấy chị em Trình Anh lẽo đẽo theo sau mình, ông lão liền dnag tay kẹp mỗi người vào mỗi nách, phi thân vùn vụt như baỵ

Chị em Trình Anh nghe gió tạt vào tai ù ù, và những rặng cây bên đường lướt vun vút, còn chân ông lão hình như không chấm đất.

Thật vậy! lão già kỳ dị đó đã dùng thuật khinh công bồng chị em Trình Anh đi với tốc độ phi thường cho đến nỗi Lục Vô Song là cô gái ranh mãnh, bạo dạn nhất cũng có cảm giác sợ sợ . Cô ta la lớn:

- Thôi thôi! xin lão trượng hãy buông chị em tôi rạ Tôi không muốn theo lão trượng nữạ

Mặc kệ, lão già như không để ý lời nói của Lục Vô Song, lão càng gia tăng tốc độ.

Bị ông lão làm trái ý, Lục Vô Song căn mạnh vào cánh tay cảu lão mấy cáị Lão già hình như đã quá hiểu tính nết của Lục Vô Song nên vẫn xem như không, cha+?ng hề tỏ ý giận dữ. Trái lại, Lục Vô Song cảm thấy cánh tay ông lão như sắt đá, hàm răng nàng vừa cắn vào đã tê buốt, đau thấu tận tâm can.

Qua một lúc dùng thuật phi hành, ông lão dừng chân buông chị em Trình Anh giữa một bãi tha ma, trước mặt chân trời xa tha+?m.

Trình Anh lo lắng ôn tồn thưa:

- Ông ơi, Xin ông cho chị em tôi trở về kẻo tốị Chúng tôi không muốn ở đây nữạ

ông lão nhìn chòng chọc vào mặt Trình Anh không nói nửa lờị Cái nhìn của ông chứa đựng một nỗi buồn thê lương, ảm đạm làm sao, khiến cho Trình Anh, một cô gái mới lên chín cũng cảm nhận được. Trình Anh phút chốc động lòng trắc ẩn thấy thương hại vô cùng, và cô lại còn thấỳ nỗi buồn đó gợi vào tâm khảm mình một bi thảm, thiết thạ

Cô ta thỏ thẻ:

- Này ông ơi ! Tôi thấy ông buồn lắm !Ông cần tìm chốn khuyây khoả, vậy ông đưa hai chị em chúng tôi trở về bờ hồ. Từ nay cứ mỗi chiều chị em chúng tôi sẽ đến đó làm vui cho ông và hái sen bóc hột cho ông ăn nhé !

Lời nói thực thà của cô bé lên chín làm ông lão thấy cảm động rưng rưng nước mắt. Ông ta hé răng nói như than:

- Đúng vậy ! Đã bốn mươi năm qua không biết ai để vui buồn cùng lão!

Rồi sự đau đớn trong lòng lão vừa xuất hiện trên nét mặt phút chốc bỗng thay đổị Lão trở nên giận dữ, hung ác, hét lớn:

- Hà nguyên Quân, Hà nguyên Quân là gì của mày ? Lão chụp lấy Trình Anh, một tay nắm vai, một tay nắm lưng xốc lên quay một vòng ngược lên trờị

Lão vừa quay vừa hét: - Hà nguyên Quân, Hà nguyên Quân !

Trình Anh khiếp vía muốn la lên nhưng không ra tiếng. Vàì giọt nước mắt rươm rướm lăn trên đôi gò má cô bé.

Ông lão lại rít lên:

- Mày khóc ử Mày khóc ử Thì ra đã 40 năm nay mày vẫn thế! Vì sao mày không trốn theo ta ? Mày chê ta xấu xí ? Mày khóc ! Mày thương hại ta ?

Qua một lúc lão dừng tay nhìn tận mặt Trình Anh.

Trình Anh khiếp sợ rụt rè:

- Không, không! Tôi không khóc ! Tôi không khóc !

Lào già cười chua chát nói:

- ừ, Ta đâu xứng đáng nhận giọt nước mặt của em! Em không bao giờ có thể bố thí cho ta một giọt nước mắt. Thế thì ta còn sống trên đời này để làm gì.

Dứt lời ông lão xô mạnh Trình Anh ra và gắng lấy sức bình sinh của hai tay, lão lao vào tấm bia xanh bên cạnh. Tấm bia bằng đá xanh chôn chặt dưới đất, bị sức mạnh của lão bật tung lên. Còn ông lão cũng nằm sóng sượt bên tấm bia đá nặng hơn ngàn cân.

Lục Vô Song hốt hoảng, kêu thất thanh:

- Chị ơi, chúng ta đi trốn mau!

Cô bé vừa nói và bước tới nắm tay Trình Anh kéo chạỵ Trình Anh chạy theo Lục Vô Song được mấy bước, quay lại thấy ông lão máu me lai láng, nằm ngất lịm nên không nỡ bỏ đi, nói với Lục Vô Song:

- Hình như ông ấy chết mất. Chúng ta trở lại xem sao!

Lục Vô Song nói:

- Nếu lão chết tất thành quỷ, chúng ta đến gần nguy hiểm.

Trình Anh nghĩ thầm : "Chắc ông này có một dĩ vãng quá đau thương nên mới liều thân như vậy". Nhưng để cho lão chết lòng cô bé thấy không an. Trình Anh nói với Lục Vô Song:

- Đừng để ông ta chết tội nghiệp. Chị định chắc ông ta lúc tỉnh dậy sẽ không hung dữ và điên dại như lúc nãy đâụ

Lục Vô Song nghe lời chị. Hai chị em nắm tay lần bước đến gần. Máu tươi vẫn còn phụt ra, nhuộm đỏ cả mặt mày và râu tóc ông lãọ

Trình Anh thỏ thẻ gọi:

- Ông ơi !ông có đau lắm không ?

Ông lão rên lên một tiếng, tiếng rên chứa đầy uất hận. Trình Anh bạo dạn, bước đến lấy chiếc khăn lau máu trên mặt cho ông lãọ Nhưng máu ra nhiều quá, chiếc khăn cô bé ướt đẫm mà máu cứ phụt mãi như xốị

Trình Anh thở dài, ngẫm nghĩ một lúc rồi hé răng cắn vào vạt áo, xé ra một miếng cột nơi vết thương cho ông lãọ

Lục Vô Song thấy thế nói:

- Chị ơi, chị xé áo như thế lúc về nhà gia gia trông thấy chúng ta không khỏi bị quở mắng.

Trình Anh buồn bã đáp:

- Gia gia lúc nào cha+?ng rầy mắng chúng tạ Việc chị làm chị sẽ chịu cho gia gia trừng phat.

Vết thương ông lão được rịt lại máu cầm không chảy nữạ Và ông lão từ từ hồi tỉnh, nói khẽ qua hơi thở:

- Em lại đến cứu ta ử Không không, em đừng làm thế ! Vì sao em không để ta chết cho an thân.

Thấy ông lão tỉnh lại Trình Anh mừng rỡ hỏi:

- Ông còn đau lắm không ?

Ông lão lắc đầu nói:

- Ta đau lắm, Ta đau đã 40 năm naỵ Ta không đau ở đầu mà đau ở lòng, em ơị

Trình Anh lấy làm lạ, ngơ ngác tự hỏi:

- Tại sao ông lão chạm đầu vào bia mộ lại không đau ở đầu mà đau ở lòng ? Thật quái ghở!

Nhưng Trình Anh, cô bé lên chín làm sao hiểu nổi cái đau bùôn dĩ vãng của con người sống yếm thế ấỵ

Cô bé cứ triền miên suy nghĩ và lau vết thương ông lão cho đến lúc dịu ha+?n. Bây giờ ông lão hé mắt nhìn Trình Anh, cái nhìn như nuối tiếc, đau thương. Ông ta rên rỉ:

- Em nhứt định không cùng ta hội ngộ ? Chúng ta đành phải chia ly mãi mãi chứ còn biết làm saỏ Trước khi ly biệt em có thể tặng cho ta vài giọt nước mắt chăng?

Giọng rên rỉ như hướng về dĩ vãng và quá bi ai khiến cho Trình Anh chạnh lòng nghĩ đến kiếp phong trần, suốt đời chỉ tha thiết cầu khẩn một tình thương. Nhưng tình thương nào đã làm cho ông lão đau đớn điền cuồng đến thế. Thật tội nghiệp !

Đột nhiên Trình Anh rơm rớm nước mắt. Giọt nước mắt trong vắt như hai giọt sương từ từ lăn trên gò má cộ

Ông lão trông thấy rú lên một tiếng, đôi mắt xoe tròn, hơi thở hổn hển:

- Em đã vì ta mà rơi lệ! Ôi chao! những giọt nước mắt đầm ấm làm sao!

Lão ôm chầm Trình Anh vào lòng mà nức nở. Sự xúc động kích thích vào lòng một em bé măng tơ, bé nhỏ. Trình Anh quên cả sự thực trước mắt. Cô bé cũng ôm chầm lấy ông lão khóc sướt mướt như hai kẻ yêu nhau tự thuở nàọ

Lục Vô Song đứng nhìn cảnh tượng quái dị một lúc rồi không thể nhịn cười được cô bé bật lên tiếng cười thích thú.

Tiếng cười có vẻ chế nhạo trước cảnh thương tâm, khiến ông lão bừng tỉnh, xô Trình Anh ra đừng phắt dậy, quắc mắt nhìn Lục Vô Song hét:

- à ra mi! Mi vừa thương hại ta, lại vừa chế nhạo tạ Được, ta sẽ cho mi gặp khổ suốt đờị

Nhưng, vừa dứt lời, lão già lại tỏ vẻ suy nghĩ. Đôi mắt lão đăm đăm nhìn Lục Vô Song rồi quay lại nhìn Trình Anh nói:

- Không ! Không ! Em không phải là nó. Thế ra Hà Nguyên Quân là gì của các em? Tại sao các em lại giống nó thế ?

Hai chị em Trình Anh nhỏ tủổi, song từ diện mạo đến tính tình khác biệt nhaụ Trình Anh có nước da trắng mịn nõn nà, có thân hình cân đối, tánh nết ôn hoà; ngược lại Lục Vô Song có nước da ngâm ngâm màu đỏ, người cao mảnh khảnh, tánh lại liến thoắng, ngạo nghễ.

Lục Vô Song nghe lão già nói, xen vào đáp:

- Chúng tôi nào có giống ai đâụ Sao ông lại bảo giống một người khác.

Lão già trừng mắt nhìn cả hai chị em cô bé, rồi bất thần lấy tay đấm vào đầu như cố tìm ra một hình ảnh nào trong ký ức. Ông ta nói:

- Thôi rồi! Ta loạn óc rồi! Này tiểu diệt, có phải cháu họ Lục không ?

Lục Vô Song ngạc nhiên đáp:

- Chính tôi họ Lục. Nhưng vì sao ông lại biết?

Lão già không đáp hỏi tiếp:

- Tổ phụ của tiểu diệt là Lục Triển Nguyên phải chăng?

Lục Vô Song gật đầu:

- Đúng vậỵ

Ông lão trầm ngâm một lúc trong yên lặng. Bỗng ông ta với ta bồng xốc Trình Anh lên không, nhìn vào mặt hỏi:

- Còn tiểu diệt này họ gì? và gọi Lục Triển Nguyên là gì?

Lần này Trình Anh không sợ sệt nữa bạo dạn đáp:

- Tôi họ Trình, tên Anh. Ngoại tôi họ Lục nên mẹ tôi họ Lục.

Ông lão cười khanh khách nói:

- Thôi đúng rồi ! Lục Triển Nguyên và Nguyên Quân sinh đặng một trai một gáị

Đoạn ông quay về phía Lục Vô Song nói tiếp:

- Con trai của Lục Triển Nguyên và Nguyên Quân chính là cha Lục tiểu diệt đấỵ Còn con gái của hai người này là mẹ của Trình tiểu diệt đâỵ Do đó mà hai cháu đều giống Nguyên Quân. Một cháu thì giống cái dáng yêu kiều, một cháu thì giống cái liến thoắng, ngang ngạnh.

Trình Anh cha+?ng hề biết bà ngoại mình tên Hà Nguyên Quân.

Từ bé đến giờ cô ta chỉ biết bà ngoại là bà ngoại mà thôị Còn Lục Vô Song cũng thế, cha+?ng biết đến danh tánh của bà nội mình.

Nghe ông lão nói, hai chị em đinh ninh rằng con người kỳ dị đó ha+?n có liên quan gì đến dònng họ mình trước đâỵ Bấy giờ ông lão thả Trình Anh xuống đất, ông ta ôn tồn nói với hai cô bé:

- Các cháu hãy dắt ta đến thăm Lục Triển Nguyên nhé?

Trình Anh thưa:

- Ông ngoại cháu không còn đây nữạ

Ông lão ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao thế ? Ta cùng ông ngoại cháu đã có lời nguyền cùng nhau tương ngộ mà!

Trình Anh nói:

- Ông cháu mất từ mấy tháng nay, ông không thấy chúng cháu đang chịu tang saỏ

Ông lão nhìn thấy hai chị em Trình Anh đều thắt lưng gai nên tin lời và tỏ vẻ trầm ngâm luyến tiếc, lầm bẩm nói một mình: "Thế là bốn mươi năm nay ta đã uổng công mang xiêm phụ nữ, uổng công tập luyện công phu".

Lão ngửa mặt lên trời cười mấy tiếng thật lớn, tiếng cười vung theo gió làm rùng rợn cả bãi tha mạ

Lúc ấy mặt trời bắt đầu tốị Màn đêm rũ trên những cành thùy liễu, bày ra một cảnh trí hãi hùng.

Lục Vô Song bắt đầu cảm thấy lo sợ, níu áo Trình Anh bảo:

- Thôi, chúng ta về đi ! Chị ơi !

Ông lão bỗng hét lên:

- Trời ơi! Thế thì Hà Nguyên Quân phải đau khổ lắm sao! Hiu quạnh lắm sao! Này các cháu ơi, các cháu hãy đưa ta về thăm bà cháu đị

Lục Vô Song nói:

- Bà chúng tôi không còn nữạ

Câu nói như một tiếng sét đánh vào tai, ông lão nhảy lồng lên như con vật bị đau, hai hàm răng nghiến chặt nói:

- Các cháu nói saỏ Các cháu không nói dối lão chứ ? Bà các cháu đã chết ? Chết? Chết?

Trình Anh thấy cử chỉ ông lão, sợ tái mặt, nói không ra tiếng. Qua một lúc cô bé mới thỏ thẻ đôi lời:

- Ông ơi, ông làm các cháu sợ quá ! Vâng, bà các cháu chết rồi! Chết cùng một lúc với ông các cháụ

Ông lão nắm chặt hai bàn tay đấm vào bụng la lớn:

- Hỡi ơi ! Chết rồi saỏ Chết rồi saỏ Thế ta không bao giờ còn gặp mặt nữả

Sau phút giận dữ, lão dịu hẳn người lại mếu máo khóc:

- Ta nhớ ngày nào, lúc ly biệt, nàng hứa nhất quyết sống để cùng ta hội ngộ! Thế là giấc mộng đã tan tành, thế là lời nguyền đã bội ước.

Rồi như quá cảm kích, lão trở thành đau đớn, mất bình tĩnh, la rống lên như một con hổ. Lão bẻ gãy một cành cây cầm nguyên cả nhánh múa may quay cuồng.

Trình Anh và Lục Vô Song sợ quá, chẳng biết lão còn làm gì nữạ Hai chị em nắm tay nhau chờ đợị

Bỗng nhiên lão tung hai cây ra, chạy đến một gốc cây thuỳ dương ôm tận gốc, xây mấy vòng rồi rên rỉ:

- Em đã hứa cùng ta sao em lại bội ước. Em đã bảo nhất định có ngày tương ngộ kia mà.

Tiếng rên rỉ của lão vang dội giữa bãi tha ma nghe rất hãi hùng. Đoạn, lão ngồi chồm hổm xuống, đặt hai bàn tay lực lưỡng bám chặt gốc cây, rống lên một tiếng như sấm:

- Lên!

Gốc thùy dương vĩ đại kia đánh phứt một tiếng, gốc cây trốc lên, lão bẻ ngang giữa thân cây, cầm cả cành lá múa quay tròn, nhẹ nhàng như cầm một chiếc dù to tướng. Tiếng gió vùn vụt, cành lá xào xạc. Thật là một sức mạnh không tưởng tượng nổi!

Nhưng thần sắc của lão cũng lần lần lắng dịụ Lão buông gốc thùy dương ra, lền bước đến bên chị em Trình Anh nhoẻn một nụ cười, có vẻ thiện cảm nói:

- Lão đã làm các cháu sợ hãi! Lão thật lỗi lầm! Nhưng thôi! Mộ của ông bà các cháu nơi đâu hãy chỉ cho lão đến đó thăm viếng.

Lục Vô Song bấm tay Trình Anh cố ý chặn trước câu trả lờị Nhưng Trình Anh vốn thật thà không rõ ý định của nó liền nói:

- Mộ ông bà các cháu chôn gần trang viên, một bên có gốc cây hoè. Ông đem các cháu trở về các cháu sẽ chỉ chọ

Ông lão nhón mình lên, nhìn phía trời xa như muốn nuốt cả không gian. Lão kẹp hai cô bé vào mình và tung chân chạy như bay, hướng về phía gốc cây hoè. Lão nhắm thẳng đường không quan tâm gì đến trở ngạị Rạch, tường, sông hồ, lão nhảy qua hết bất kể sâu cạn, rộng hẹp.

Cha mẹ Lục Vô Song vốn là những tay võ nghệ cao cường. Hai cô bé này cũng đã từng thấy lối khinh công khác thường nhưng so với lão già này thì cha mẹ Lục Vô Song còn phải nhiều năm tập luyện mới sánh nổị

Trong khoảng khắc lão đã đến trước một gốc cây hoè. Nơi đó, quả nhiên có hai ngôi mộ nằm song song, trước mỗi ngôi mộ có dựng một tấm bia còn mới, nét chữ đỏ khắc vào đá chưa phai màụ Trên mộ, cỏ non lơ thơ lởm chởm.

Lão đặt hai chị em Trình Anh xúông đất, áp mặt vào hai tấm bia mộ cố đọc hai hàng chữ trong bóng tối nhá nhem :"Tiên khảo Lục Công Triển - Nguyên chi mộ" và " Tiên tỉ Lục Man Hà phu nhân chi mộ". Đọc xong, lão trầm ngâm nét mặt không khóc nhưng nước mắt lão cứ tuôn ra trào trên hai gò má nhăn nheo hốc hác.

Bấy giờ, đôi mắt lão không trông thấy mọi vật xung quanh nữạ Lão chỉ thấy hai tấm bia mộ... Hai tấm bia đang án ngữ trước tâm tư u buồn của lãọ

Bỗng, lão thấy như hai tấm bia đá lay động và biến thành đôi trai tài gái sắc. Nàng là một thiếu nữ yêu kiều, diễm lệ. Còn chàng là một thanh niên tuấn tú, uy nghị Họ nhảy múa trước mặt lão như đôi hồ điệp lả lơi say nắng màu xuân.

Bất giác lão hét lên:

- Ôi, thế này thì quá lắm rồi! Họ dám tặng nhau chiếc xiêm hồ điệp.

Lão vung tay lên, lấy hết sức bình sinh đấm vào trang thanh niên tuấn rú đang ngạo nghễ trước mắt lãọ Nhưng cú đấm cuả lão trúng vào chiếc bia mộ Lục Công Triển phát ra một tiếng "bốp" ghê hồn.

Chị em Trình Anh không hiểu gì cả.

Lão hét lớn:

- Mày trốn đi đâu! Hèn nhát !

Rồi một lần nữa, hai tay lão đấm túi bụi vào tấm biạ Càng đánh lão càng hăng và lão rống lên những tiếng nghe rùng rợn.

Cuối cùng, tấm bia đá tan ra từng mảnh. Lão cười một cách khoái trá:

- A ! Mày bị tao đánh nát sọ rồị Thôi, ta còn mặc tấm xiêm hồ điệp này làm gì nữạ

Lão đứng dậy cởi chiếc xiêm hồ điệp của lão đang mặc trong người, xé ra từng mảnh tan nát, và ném tung lên ngôi mộ Lục Công Triển.

Lão nhìn từ lưng lão xuống đến hai chân, thấy không còn chiếc xiêm phụ nữ mà lão đã từng mặc trong hơn 40 năm trời, lão thích chí cười khanh khách. Tiếng cười như điên như dạị Bỗng tiếng cười lão im bặt. Lão đứng lặng yên cảm thấy như có điều gì chưa thoả. Lão lẩm bẩm:

- Ta không thể không thấy mặt nàng.

Dứt lời, lão cúi xuống xoè hai bàn tay bấu vào ngôi mộ của Hà Nguyên Quân , bới đất lên từng mảnh. Và cứ thế, lão đào mãi cho đến lúc nắp quan tài lộ ra trước mặt.

Bây giờ hai chị em Trình Anh mặt mày tái nhợt, hai cô bé run rẩy năm tay nhau chạy trốn. May mà lão già đó mắc đào mả, không chú ý đến nên hai cô bé mới chạy thoát.

Hai cô bé chạy được một lúc, qua khỏi mấy khúc quanh, chẳng còn thấy bóng ông già đào mả đâu nữa mới yên lòng theo đường trở về Lục gia trang.

Bấy giờ trời cũng vừa tối, Lục Vô Song hấp tấp chạy vào sảnh đường la rối rít:

- Thân phu ơi! Thân mẫu ơi! có người đang đào mả bà nộị

Lục Lập Đỉnh, cha Lục Vô Song lúc đó đang trò truyên với ba người khách lạ.

Lục Lập Đỉnh trước kia vốn được cha mẹ công phu giáo dục theo nề nếp gia phong của thuở ấỵ Tuy võ nghệ cao cường, song từ nhỏ đến giờ bị cha mẹ cấm tuyệt con đường giang hồ mã thượng, nên giới hảo hớn chẳng mấy ai biết tên. Lục Lập Đỉnh cố nhiên không lấy thế làm vui, song muốn tròn chữ hiếu phải tuân lệnh gia nghiêm, đành cam mãi một tài nghệ trong trấn Lãng hồ, nơi đất Giang Nam ngày naỵ

Một hôm, Lục Lập Đỉnh đang ngồi suy nghĩ về dĩ vãng của song thân trong đại sảnh, bỗng nghe ngoài cửa có tiếngg ngựa hí và tiếng người kêu:

- Chúng tôi là kẻ hậu bối muốn xin vào yết kiến Lục Lão công.

Lục Lập Đỉnh đoán biết họ là khách lạ tìm đến, vì đất Giang Nam hiểm trở, toàn là sông rạch. Nếu không có việc gì thì không ai muốn dừng bước.

Không muốn để khách lạ đứng chờ lâu, Lục Lập Đỉnh chạy ra cổng, thấy có ba người khách tha phương, thân hình lực lưỡng, cỡi ngựa cao, lưng khoác thanh y đầy bụi trắng, đang đứng chờ.

Thấy Lục Lập Đỉnh cả ba đều xuống ngựa, chắp tay thi lễ và nói:

- Chúng tôi là kẻ ở xa, muốn tìm đến đây ra mắt Lục lão công.

Lục Lập Đỉnh nghe khách nhắc đến song thân mình, long buồn ứa lệ đáp:

- Tôn nghiêm tôi đã thất lộc hơn 3 tháng naỵ Quý vị là ai xin cho biết danh hiệụ

Ba người khách lạ nghe nói, mặt mày biến sắc, vẻ mặt lo lắng của họ hiện rõ trên những vầng sám đen và biến thành màu đất. Họ như tán loạn, mất trí, đang đứng thửo không nói ra lờị

Lục Lập Đỉnh chưa hiểu gì cả, thấy thế hỏi:

- Xin quý vị cho biết quý vị đến đây tìm phụ thân tôi có việc gì?

Ba người đứng yên không đáp. Một người cất tiếng than:

- Thôi thế là hết! Thế là hết ! Chúng ta không thể nàơ cản được số mệnh.

Ba người cúi đầu chào Lục Lập Đỉnh một cách lễ phép và hấp tấp lên ngựạ Một người bước xuống ngựa nói:

- Lẽ nào chúng ta đến đây mà không vào từ đường bái lạy anh linh của lão anh hùng.

Lục Lập Đỉnh vội đỡ lời, nói:

- Thưa, tôi không muốn làm phiền quý vị.

Một người trả lời:

- Không, chúng tôi rất thành kính anh linh của lão anh hùng. vậy xin gia chủ cho chúng tôi đến từ đường làm lễ lão công.

Lục Lập Đỉnh đáp:

- Vậy tôi xin mời quý vị theo tôị

Cả ba liền xuống ngựa phủi sạch lớp bụi mốc trên vao áo rồi bước theo chân Lục Lập Đỉnh vào hậu sảnh.

Cả ba đứng chắp tay trước bàn thờ Lục công và phu nhân tỏ ra rất cảm động. Họ đăm đăm nhìn trên bàn thờ rồi rồi khóc tấm tức như người trong thân thuộc. Lục Lập Đỉnh cũng động lòng trước cảnh tượng ấy, rưng rưng đôi dòng lệ khóc theọ

Trong ba người có người dáng hơi thấp và béo phệ nói:

- Châu hiền đệ, chúng ta xin cáo biệt gia chủ để lên đường.

Người được gọi Châu hiền đệ đưa tay lau nước mắt, cúi chào Lục Lập Đỉnh nói:

- Thưa Lục huynh, chúng tôi bái lễ xong, lục Huynh cho phép chúng tôi từ biệt.

Lục Lập Đỉnh ân cần mời:

- Xin quý vị hãy cùng tôi ra tiền sảnh uống chén trà cho ấm lòng đã.

Ba người lễ phép, nói:

- Chúng tôi không dám làm phiền gia chủ.

Nói xong ba người liền quay gót bước ra cổng.

Lục Lập Đỉnh thấy dáng điệu của ba người, người nào trông cũng con nhà võ, mà sao đến cũng hấp tấp, đi cũng hấp tấp nên có ý nghi hoặc nghĩ thầm:

- "Chắc ba người này có điều chi khẩn yếu".

Lục Lập Đỉnh liền bước theo tận cổng.

Ba người đến cổng liền chắp tay chào Lục Lập Đỉnh một lần cuối cùng rồi nhảy phóc lên lưng ngựạ

Một trong ba người vừa đưa chiếc roi ngựa lên thì vai áo bỗng hất ra để lộ trên da một vết bầm đỏ ửng.

Lục Lập Đỉnh trông thấy thất kinh, buột miệng kêu:

- Quí hữu đã bị "xích luyện thần chưởng " rồị

Bốn tiếng "xích luyện thần chưởng" như có sức mạnh lôi ba người khách trở lại vơí Lục Lập Đỉnh. Ba người run lập cập quay ngựa trở lại, đến trước Lục Lập Đỉnh cúi đầu nói:

- Ôi chao! Chúng tôi kẻ ngu phu, đứng trước núi Thái sơn mà không thấỵ Lục hiệp sĩ đã biết chúng tôi là bị "xích luyện thần chưởng " vậy xin mở lòng nhau cứu giúp chúng tôị

Lục Lập Đỉnh khiêm nhường nói:

- Kẻ hèn này võ công chưa rèn luyện được bao nhiêụ Trước kia nhờ thân phụ truyền dạy nên mới biết đôi chút về chưởng thuật nàỵ

Ba người khách lạ như bừng tỉnh, nhảy phóc xuống ngựa, cúi rạp đầu xuống đất nói:

- Trong lúc bối rối, chúng tôi đã quên mất Lục đại huynh là con của Lục lão công lẽ nào không thừa hưởng cái di sản ấỵ

Lục Lập Đỉnh không nói gì cả bước tới đỡ ba người khách lạ, dắt về đại sảnh để hỏi thăm duyên cớ. Trong lúc đang nói chuyện thì Lục Vô Song hớt hãi từ ngoài chạy vào, miệng nói rối rít. Lục Lập Đỉnh bận tiếp khách không đẻ ý đến lời nói của ái nữ, vội xua đuổi:

- Việc gì mà rối ren thế, chớ có vô lễ, hãy trở về hậu cảnh lập tức.

Lục Vô Song thấy cha mình không để ý đến quan hệ liền thưa:

- Thưa cha, việc này quan hệ lắm, không phải chuyện thường. Có một người đang quật mả bà nội của con.

Lục Lập Đỉnh ngơ ngác cau mày hét:

- Súc sanh đừng nói bậy! Có ai dám làm chuyện phi thường ấỵ

Lục Vô Song thấy cha mình không tin lời vội cãi lại:

- Quả thật như vậỵ Nếu cha không tin thì ra gốc hoè sẽ thấỵ

Bấy giờ Trình Anh đã về đến nhà và cũng nói y như Lục Vô Song đã nóị

Lục Lập Đỉnh xưa nay vốn biết tánh của Trình Anh không bao giờ đặt điều nói nhảm nên đem lòng tin hỏi lại từ đâu đuôị Trình Anh kể chuyện ông lão từ lúc ngồi trên bờ hồ đến lúc đào mả Hà Nguyên Quân.

Lục Lập Đỉnh nóng lòng, nghe chưa hết câu chuyện đã vội bước vào trong lấy chiếc đoản dao giắt vào mình và gọi ba người khách lạ nói:

- Xin mời quý hữu theo tôị

Trời lờ mờ tối, bốn cái bóng người lướt nhanh về phía cây hoè. Đến nơi, khong thấy bóng ông già đâu cả, chỉ thấy cái mộ đất đào tung toé, hai chiếc quan tài bị đào lên khỏi đất và bật nắp trống rỗng.

Những đồ khâm liệm vung vãi ra ngổn ngang. Lục Lập Đỉnh bước đến dòm vào hai quan tài thì thấy hai tử thi không còn nữa, chỉ thấy trên nắp in sâu những dấu tay rất lớn.

Ba người khách lạ nhìn nhau sửng sốt thì thầm:

- Hiện trạng này chứng tỏ lão già chỉ dùng tay không quật mộ và đoạt tử thị Hành động ấy phải là kẻ có một võ công siêu phàm mới làm được.

Lục Lập Đỉnh cũng nghĩ thế. Ngoài sự khâm phục tài nghệ của kẻ thù, Lục Lập Đỉnh còn phân vân tự hỏi:

- Lão già này có can hệ gì đến gia đình ta, song thân tạ Với hành động quái nghiệp này không phải là một chuyện vô cớ.

Nghĩ như thế, Lục Lập Đỉnh rút chiếc đoản dao lăm le cầm trên tay, từ từ đi quanh hai ngôi mộ để tìm vết chân cảu kè thù lúc đến và lúc đị Nhưng tuyệt nhiên, ngoài những dấu tay in sâu trên chiếc quan tài, lão già không còn để lại vết tích gì nữạ

Lục Lập Đỉnh tức giận hét lên:

- ác tặc ! Mi đã dùng thuật khinh công lui tới nơi nàỵ

Vừa nói Lục Lập Đỉnh vừa lăm lăm lưỡi dao, nét mặt hầm hầm, tiến từng bước về phía đàng trước như kẻ thù còn ẩn núp đâu đâỵ

Bấy giờ trời đã tối mịt. Bãi tha ma vắng lặng như tờ. Đây đó rải rác những cây thùy liễu đen ngòm như những con thú dữ rình mồị

Một vài nhát đoản dao của Lục Lập Đỉnh thoáng qua và cành thuỳ liễu rơi tua tủa phát ra tiếng động rồi lại im lặng. Thỉnh thoảng vài cơn gió thổi lẫn với tiếng côn trùng ra rỉ nghe rất rùng rợn.

Lục Lập Đỉnh càng tức giận , lòng can đảm càng nhiềụ Chàng vung đoản dao đi vào các lùm cây rậm, lá cành rơi lả tả. Chẳng biết như thế có làm nguôi cơn giận của chàng không? Ba người khác lạ đứng đàng xa thỉnh thoảng nghe Lục Lập Đỉnh chặc lưỡi nói một mình:

- Thế này thì chắc hắn phải có thuật khinh công siêu việt.

Nghĩ thế, Lục Lập Đỉnh lại dùng thuật khinh công chạy khắp vùng, ẩn hiện trong bóng tối chập chờn, hy vọng tìm ra dịch thủ. Nhưng vô hiệu, sau khi tìm khắp nơi, Lục Lập Đỉnh lại trở về trước ngôi mộ ôm mặt khóc sướt mướt.

Ba người khách thấy thế khuyên giải:

- Thưa Lục Huynh! Lục huynh hãy an tâm. Chúng tôi tin chắc rồi đây thế nào cũng tìm ra ác tặc nàỵ

Lục Lập Đỉnh giương đôi mắt tròn xoe nói lớn:

- Lão già là aỉ Có liên quan gì đến gia đình tả Các ngươi đã biết sao các ngươi không nóỉ

Một trong ba người khách thưa:

- Câu chuyện này rất dài dòng và bí hiểm, chúng ta không nên ở đây mà đàm luận. Xin Lục huynh cùng chúng tôi về đại sảnh, đem hết trí ra xét đoán thế nào cũng tim ra được duyên cớ.

Lục Lập Đỉnh như hối hận trứoc cử chỉ quá bồng bột của mình tỏ vẻ ân hân nói:

- Xin quý khách thứ lỗi ! Tôi vì quá đau khổ nên đã thất lễ.

Ba người khách ôn tồn thưa:

- Xin Lục huynh đừng nghĩ thế.

Bốn người trở về Lục gia trang, vào an toạ nơi đại sảnh. Nét mặt Lục Lập Đỉnh vẫn rầu rầu chưa nguôị Sau một vài chung tra, Lục Lập Đỉnh lui vào hậu đường tim phu nhân kể lại sự tình. Nhưng lúc nãy giờ, sau khi nghe câu chuyện Lục Vô Song kể lại, phu nhân xách kiếm ra đi chưa về. Không tìm gặp vợ, Lục Lập Đỉnh quay ra đại sảnh để cũng khách hàn huyên.

Ba người khách bắt đầu kể lại câu chuyện của họ bị "xích luyện thần chưởng " cho Lục Lập Đỉnh nghẹ

Họ là những người hộ tống làng hoa thuộc đất Sơn Đông. Một người họ Tô, một người họ Long và một người họ Thân

Vừa nghe qua tên họ, nghề nghiệp của các vị khách Lục Lập Đỉnh đã bất bình nói:

- Ta xưa nay có bao giờ quen với những người hộ tống. Các ngươi tìm đến nhà ta ý muốn gì?

Ba người khách lễ mễ đứng dậy chắp tay nói:

- Xin Lục huynh rộng lòng thương cứu mạng mặc dầu chúng tôi là kẻ hèn mọn không dám được Lục huynh chiếu cố.

Lời rên rỉ ấy làm cho Lục Lập Đỉnh động lòng. Chàng hỏi:

- Thôi, các ngươi hãy đứng dậy và kể cho ta nghe vì sao laị bị "xích luyện thần chưởng "?

Hai người họ Long và Tô đồng thưa:

- Cả ba chúng tôi đều thụ thương bởi độc thủ "xích luyện thần chưởng ".

Vừa nói họ vừa lật áo đưa vai cho Lục Lập Đỉnh xem.

Thấy những dấu máu tay ửng hồng rùng rợn, Lục Lập Đỉnh hét lên:

- Vì sao cả ba người cũng bị một lần ? Kẻ nào đã dùng ngón độc thủ đấỷ Vì sao các ngươi lại biết thân phụ ta có thể chữa mạng cho các ngươi ?

Người họ Long thưa:

- Các đây bảy hôm chúng tôi có áp tải một chiếc xe từ Sơn Đông đế n Phúc Kiến. Khi đếnn vùng Dương chân, vì khí trời oi ả nên chúng tôi tạm dừng chân tại một tửu điếm để giải khát. Bỗng chúng tôi thấy xa xa có một người cưỡi ngựa xăm xăm đi tớị Đến gần thì ra đó là một đạo cô, khoác chiếc áo hoàng bào, ngồi trên lưng một con lừa thấp, tuổi vào trạc trung niên nhưng nhan sắc còn cực kỳ diễm lệ. Đạo cô đến trước quán cho ngựa dừng lại, bước đến gọi tửu điếm pha trà. Trong nhóm chúng tôi có tên Châu này vốn háo sắc, Nay gặp mỹ nhân khó có thể bỏ quạ Chàng bước đến giai nhân vừa cười vừa nói:

- Cô nương đi một người một ngựa, thân gái dặm trường không sợ cường đạo hay sao ? Thôi hãy cũng tôi sớm tối cho có bạn đường , ý cô nương nghĩ thế nàỏ

Người đẹp mỉm cười đáp:

- Thưa, tiên nữ nghĩ rằng cường đạo đâu có đáng ngại bằng quí vị hộ tống phiêu xạ

Dứt lời nàng đưa bàn tay ngọc vổ nhẹ vào vai tên Châụ Lạ thay, chàng Châu đang tươi tỉnh bỗng mặt mày xanh xám, tay chân run lẩy bẩy, hàm răng đánh vào nhau cầm cập như bị gió lạnh rồi toàn thân lảo đảo ngã quỵ xuống đất.

Nghe đến đây, Lục Lập Đỉnh nhìn kỹ lại tên Châu từ đầu đến chân và nói:

- Ngón đó gọi là ngón "Cửu do tục thủ". Con quái tắc ấy thật là nham hiểm.

Người họ Long kể tiếp:

- Còn lại tôi và Tô hiền đệ. Cả hai chúng tôi đều hoảng hốt. Tôi bước đến đỡ Châu hiền đệ , còn Tô hiền đệ nóng nảy xỉ vào mặt đạo cô mà rằng:

- Sao đạo cô nỡ ác tâm dùng tà thuật hại chúng tôi ?

Đạo cô không đáp, chỉ mỉm cười bước đến bên chúng tôi, cũng lấy tay vỗ nhẹ vào vai tôị Tôi cảm thấy toàn thân như bị lửa đốt, rồi lạnh giá như băng. Chúng tôi lảo đảo ngã xuống đất. Bọn phu xe thấy thế đứng nhìn trơ trơ như những tượng đá.

Đạo cô nhìn chúng tôi bĩu môi khinh bỉ:

- Tài nghệ của chúng bay chỉ có thế mà dám đảm đương bảo vệ phiêu xa, dám trương cờ đến đất Giang Nam này thì chúng bay quả cũng to gan thật.

Đoạn đạo cô chỉ vào mặt ba chúng tôi nói:

- Đứa nào muốn tận số hay đến đây ta cho nếm một chưởng nữạ

Tôi sợ đạo cô nổi giận, tặng thêm cho chúng tôi mỗi người vài chưởng nữa thì vong mạng nên vôi thưa:

- Xin đạo cô tha cho chúng tôi tội thất lễ.

Đạo cô cười với cái cười khinh bỉ nói:

- Thế ra đến bây giờ chúng bây mới biết cái uy của chúng bây saỏ

Chúng tôi tranh nhau nói:

- Thưa, chúng tôi không dám thất lễ nữa, xin bái phục đạo cộ

Đạo cô trở ngược chiếc quạt lông đang trên tay, dùng cán gõ nhẹ vào đầu tôi một cáị Ôi Chúa! Không biết bao nhiêu luồng tử khí khác thường, vừa nóng vừa lạnh chạy khắp mình khiến toàn thân bủn rủn và cực kỳ đau đớn. Tôi chắp tay lạy lục nói:

- Muôn lạy đạo cô ! Chúng tôi xác phàm mắt thịt, đứng trước núi Thái sơn mà không biết, xin đạo cô chớ chấp.

Lời van vỉ của tôi làm cho nét mặt của đạo cô có dịu lại, nàng nói:

- Sư phụ ta chỉ dạy ta thuật đánh người mà không truyền thuật cứu ngườị Ta cho các người biết, kẻ nào đã trúng độc của ta thì mạnh lắm cũng chỉ sống được 10 ngày thôị

Nói xong, đạo cô lại nhoẻn miệng cười, phe phẩy chiếc phất trần phủi sạch bụi trên vạt áo rồi đủng đỉnh bước ra, ung dung lên lưng lừa như một khách thừa lương giục cương rảo bước.

Bấy giờ nỗi lo sợ chiếm cả tâm hồn tôị Tôi không còn lưu giữ thể diện trước bọn xa phu nữạ Tôi rán sức chạy theo đạoc ô và quỳ gối van lơn:

- Xin đạo cô hãy thương tình cứu mạng chúng tôị Được sống chúng tôi nguyện kết cỏ ngậm vành.

Lục Lập Đỉnh nghe đến đây cau mày làm cho người tên Long hoảng sợ, nói:

- Thưa Lục chủ, chúng tôi đến đây mong được Lục chủ cứu mạng. Sự tình ra sao thế chúng tôi kể lại thế, không dám thêm bớt.

Lục Lập Đỉnh nói:

- Được, các ngươi cứ kể tiếp cho ta nghẹ

Người tên Long kể tiếp:

- Trong lúc tôi lạy lục cầu xin cứu mạng thì đạo cô quay lại cười nói:

- Thôi được ! Ta chỉ cho các ngươi một con đường sống nhưng con đường nầy hy vọng mong manh đấỵ Sống hay không là do ở số mạnh của các ngườị Vậy các ngươi hãy đến trấn Lăng Hồ, phủ Hồ Châu, gặp vị lão anh hùng Lục Triển Nguyên may ra có thể cứu mạng được. Ta nhắn lời hỏi thăm và ta sẽ gặp lãọ

Đôi mày Lục Lập Đỉnh càng cau lại, chàng vừa kinh ngạc vừa băn khoăn tự hỏi:

- Như thế viêc quật mồ song thân ta và việc trên hẳn có liên quan với nhau chăng? Thật lạ lùng làm saỏ

Người tên Long thưa:

- Theo ý kẻ hèn này thì hai việc ắt có gì mật thiết và quan hệ với nhaụ

Lục Lập Đỉnh hỏi:

- Với lời rên rỉ của ngươi, nữ tặc quyết định như thế nàỏ

- Tôi những hy vọng lời rên rỉ của tôi sẽ làm mềm lòng đạo cô đó nhưng ngờ đâu, nàng một mực như đe doạ:

- Đây đến Hồ Châu còn xa, các ngươi còn bao nhiêu thời khắc nữa mà lại phí phạm vào những hy vọng hão huyền.

Nói xong nàng thức lừa cất vó. Bụi đường tung lên. Trong khoảng khắc chúng tôi không còn thấy bóng nàng đâu nữạ Chúng tôi nhìn nhau ngao ngán và không thể không tin lời của đạo cộ

- Bấy giờ ba anh em chúng tôi, trên vai nào cũng in đậm một vết máu ửng đỏ mang dấu năm ngónn tay của mỹ nữ. Vết hồng chưởng càng ngày càng ăn rộng ra, chúng tôi còn chỉ có cách đến Lục Gia trang nhờ Lục công cứu mạng. Nhưng đến đây thì Lục công đã thành người thiên cổ. Chúng tôi tuyệt vọng nghe tin ấy như một bản án tử hình, chúng tôi không còn đủ trí óc để nghĩ rằng Lục huynh là người thừa kế Lục Công hẳn thừa hiểu cái bí quyết cứu nhân độ thế. Vậy mong Lục huynh thương tình cứu mạng, chúng tôi sẽ xin kết cỏ ngậm vành.

Lục Lập Đỉnh ngồi nghe tên Long kể một hồi rồi chậm rãi nói:

- Ta từ nhỏ chỉ biết luyện tập trong sân nhà, chưa bao giờ dấn thân trên các bước phiêu lưu mạo hiểm. Các ngươi không biết đến ta cũng không lấy làm lạ.

Lời nói của Lục Lập Đỉnh tuy có vẻ khiêm tốn song thực ra còn đượm một nét tự phụ vô cùng tinh tế.

Chàng đứng dậy đi tới đi lui trong phòng với dáng điệu hiên ngang tự đắc. Trông dáng điệu ấy ba người khách mừng thầm vì nghĩ rằng Lục Lập Đỉnh có đủ tài năng cứu mạng.

Hồi 2 : Xích luyện thần chưởng với mối tình thù

Lục Lập Đỉnh đang thong dong đặt từng bước trước sân nhà bỗng chàng dừng lại, đôi mắt tròn xoe nhìn đăm đăm vào bức tường trước mặt. Dưới ánh sáng lập loè của chiếc thiền đăng nơi đại sảnh, bức tường trắng xoá hiện lên chín dấu bàn tay máu. Màu máu đỏ ửng còn tươi như có người vừa ấn vào. Vết tay in rất có thứ tự. Từ trên trần nhà trở xuống hai vệt song song. Dưới một chút tiếp theo hai vệt song song nữa. Và cứ thế chín bàn tay máu kéo dài từ trên xuống dưới, mà ba vết cuối cùng cách mặt đất hơn một trượng. Ba người khách hộ tống phiêu xa cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn vào bức tường có bàn tay máu. Bấy giờ nét mặt của Lục Lập Đỉnh không còn ngang nhiên tự phụ nữa. Chàng lẩm bẩm:

- Con quỉ cái này đến tìm ta làm gì? Giữa ta và hắn có mối thù truyền kiếp gì chăng?

Lục Lập Đỉnh lại nghĩ đến Lục phu nhân vắng nhà, lòng nóng như đốt, không quan tâm đến ba người khách đang chờ quyết định của chàng, chàng rảo bước ra mé cổng toan đi tim Lục phu nhân, nhưng lúc đó Lục phu nhân cũng vừa về đến, một tay dắt Trình Anh, một tay dắt Lục Vô Song đẩy cổng bước vào. Trông thấy chồng, Lục phu nhân lắc đầu một cách tuyệt vọng.

Lục Lập Đỉnh chưa muốn cho Lục phu nhân biết chín bàn tay máu in trên tường vì sợ Lục phu nhân xúc động mạnh, bèn đem câu chuyện 3 tên hộ tống phiêu xa kể lại.Lục phu nhân hỏi:

- Như thế chúng ta có nên cho họ trú lại nhà chăng?

Lục Lập Đỉnh đáp:

- Việc này có quan hệ đến họ đâu.

Lục đại nương đem Trình Anh và Lục Vô Song vàophòng khép cửa cẩn thận rồi mới trở ra nói với Lục Lập Đỉnh:

- Lạ lùng làm sao! Gia trang chúng ta ngày hôm nay là ngày đại biến.

Lục Lập Đỉnh ngơ ngác hỏi:

- Có việc gì khác chăng ?

Lục đại nương nói :

- Bọn gia đinh đều cho thiếp hay gia súc trong nhà đều chết hết.

Lục Lập Đỉnh trố mắt nhìn vợ hỏi lại:

- Phu nhân nói sao ?

Lục đại nương thưa:

- Thiếp nói tất cả gia súc đều chết tiệt. Ba con chó, bốn con mèo, bảy mươi con heo, mười con ngỗng, hai mươi con gà đều chết một lượt.

Lục Lập Đỉnh vội vã mở cửa phòng chạy thẳng ra cửa sau thì thấy tên đầy tớ trại đang đứng khóc mếu máo. Trên sân nào heo, nào chó, nào ngỗng, nào gà nằm la liệt ngổn ngang, nhưng con vật nào cũng vẫn còn tươi như mới cắt tiết.

Lục Lập Đỉnh hỏi tên đây tớ:

- Vì sao gia súc lại bị chết như vậy ?

Tên đầy tớ vừa khóc vừa đáp:

- Thưa gia chủ, lúc xẩm tối con đang chẻ củi sau nhà, bỗng dưng con cảm thấy trong nhà sao vắng vẻ khác thường, chó không sủa, gà không kêu... Con bước vội ra chuồng gà xem thì thấy cả bầy gà trong chuồng đều chết hết. Con chạy lên chuồng heo thì thấy bảy mươi con heo vừa lứon vừa nhỏ đang nằm yên. Con liền ...

Lục Lập Đỉnh ra hiệu bảo tên đầy tớ đừng nói nữa, mắt đăm đăm nhìn vào con chó A hoa nằm chết, đầu bị đánh vỡ. Chàng lẩm bẩm

- Thế này thì không phải đám gia súc chết vì ôn dịch.

Lục Lập Đỉnh lại quan sát từng con vật thì thấy con vật nào cũng bị một vết đánh trên đầu, dấu vết rất nhỏ chứng tỏ kẻ sát hại dùng một cử chỉ rất nhẹ nhàng.

Lục Lập Đỉnh liên tưởng đến cái phất trần của đoạ cô đã dùng hãm hại hạ tên hộ tống phiêu xa, chàng buột miệng nói một mình:

- Thôi đích thị rồi, không còn lầm lẫn nữa. Chính nó đã đến đây dùng cán phất trần diệt gia súc của ta trước khi xâm nhập gia trang. Từ xưa đến nay, ta chưa hề dấn thân trên bước giang hồ làm gì có gây thù oán. Thế này thì hẳn con ác quỉ ấy đã nhắm vào hai vợ chồng ta để rửa một mối hận thù nào đó cho dòng giống. Nhưng hận thù gì?

Chàng còn suy nghĩ vừa thở bước vào đại sảnh, thấy ba người khách vẫn chờ đợi.

Chàng nói:

- Các người đã thấy việc nhà ta không may gặp phải chuyện không hay, chỉ có anh em em ruột thịt mới lưu trú được.Vậy các người hãy tìm nơi khác nghỉ ngơi.

Ba người khách nghe nói hốt hoảng mặt mày xám nhợt, nói không ra lời, vội tuột xuống ghế quỳ lạy thở than.

- Lục huynh nỡ nào để chúng tôi thiệt mạng trong lúc Lục huynh có thể cải tử hoàn sanh.

Tuy trong bối rối, nhưng Lục-lập-Đỉnh không nỡ từ khước lòng nhân đạo, liền vào phòng trong lấy ra 27 mũi kim vàng, rồi bảo ba người khách cởi cả quần áo, tự tay mình điểm vào các trọng huyệt. Lạ thay! Mỗi mũi kim dài độ nửa gang tay mà đâm lút vào người vẫn không thấy đau đớn gì cả.

Sau khi điểm xong mỗi người chín huyệt đạo Lục-lập-Đỉnh nói

- Thôi! Các người hãy đi quanh vùng nầy tìm nơi khác trú ngụ. Quá ba hôm ta mới biết có cứu được hay không.

Ba người khách cảm ơn và hỏi:

- Kính thưa Lục huynh, Lục huynh vừa nói đến những chuyện không may ở gia trang nầy chẳng hay đai hoa ấy do đâu, Lục huynh có thể cho chúng tôi biết chăng?

Lục lập Đỉnh không muốn mất thì giờ với những kẻ vô danh tiểu tốt, liền nói thẳng:

- Ba vị đã bị trúng ngón độc thủ xích luyện thần chưởng, chỉ mười ngày là vong mạng, nay ta đã làm phước điểm cho mọi vị chín huyệt bằng kim vàng để tạm dừng sự bành trướng của máu độc. Vậy phải chờ quá ba hôm mới biết hiệu quả. Các người hãy đi đi để ta lo việc của ta đừng làm mất thì giờ ta vô ích.

Ba người khách nói:

- Nếu chẳng may trong thời gian ấy Lục huynh có mệnh hệ naò chúng tôi biết phải làm sao?

Lục-lập-Đỉnh đảo lộn cặp mắt một vòng, lạnh lùng nói:

- Trên trần thế này, ngoài ta ra không còn ai có thể trị nổi ngón độc thủ ấy. Nếu ta có mệnh hệ nào tin các người cũng phải chết mà thôi.

Ba người khách còn chần chờ ý nghĩ, Lục lập Đỉnh dựng dậy tiếp lời:

- Các người còn chần chờ gì nữa! Nếu các người còn trì hoãn ở lại đây, con ác quỉ kia sẽ đến, và lúc đó không còn gì cứu chữa nữa.

Ba người khách nghe nhắc đến đạo cô hoảng vía, chắp tay bái tạ và kéo nhau ra khỏi Lục gia trang.

Lục lập Đỉnh không còn giữ lễ đưa khách ra cổng nữa, cứ ngồi yên trên ghế, mắt đăm đăm nhìn chín bàn tay máu in trên vách. Bỗng đằng sau có tiếng gót chân bước nhẹ, và hai bàn tay nhỏ xíu chạy vào đôi mắt của Lục lập Đỉnh.

Chàng thất kinh hét:

- Ai thế?

Thì ra đó là Lục vô Song, con gái cưng của Lục lập Đỉnh.

Lục Vô Song, đã quen cái trò chơi thân mật này đối với cha mẹ từ thuở lên ba. Cứ mỗi lần cha mẹ có việc gì lo buồn, cô bé ấy lại giở nhiều trò chơi tiêu khiển.

Nhưng lần này Lục lập Đỉnh ở trong trạng thái vô cùng hốt hoảng, mất bình tĩnh, hét như sấm, làm cho Lục vô Song cũng khiếp vía.

Thấy cha mình không nhã nhặn như mọi lần, Lục vô Song bất bình nói:

- Con đùa với phụ thân, sao phụ thân nỡ giận?

Lục lập Đỉnh thương hại, nắm tay con chưa kịp tỏ lời thì tên đầy tớ A Căn từ phía ngoài bước vào thưa:

- Thưa gia chủ, có khách từ xa đến.

Đang bực mình, Lục lập Đỉnh không muốn khách đến quấy rầy mình, liền bảo tên đầy tớ:

- Mày ra nói với khách rằng tao không có ở nhà, lúc khác sẽ đến.

A Căn nói:

- Người đó là một nữ khách, chẳng phải đến xin gặp gia chủ mà chỉ xin tá túc một đêm.

Lục lập Đỉnh kinh ngạc hỏi:

- Mày nói sao? Nữ khách nào?

A Căn đáp:

- Khách là một thiếu phụ, có dẫn theo hai đứa bé khôi ngô tuấn tú.

Như có ý nghi ngờ, Lục lập Đỉnh hỏi:

- Thiếu phụ ấy không phải là một đạo cô chứ?

A Căn thưa:

- Không phải đạo cô! Người này ăn mặc ra vẻ một đại nương quí phái.

Lục lập Đỉnh hơi yên lòng, nói:

Thế thì ngươi dẫn họ vào nhà khách dọn cơm cho họ lót lòng và xếp đặt cho họ chỗ nghỉ ngơi.

A Căn vâng lời bước ra ngoài. Lục lập Đỉnh thủng thẳng theo sau, bụng bảo dạ:

Ta hẵng xem người ấy ra sao?

Nhưng Lục phu nhân lại chạy vào phòng đón chàng lại cau đôi mày nói:

Phu quân bằng lòng cho hai đứa bé trai đó tạm trú nơi đây sao?

Lục lập Đỉnh quay về phía bức tường chỉ vào chín bàn tay máu nói:

Hai đứa bé ấy nếu đã được chỉ định vào con số 9 thì dẫu có trốn nơi đâu cũng không thoát khỏi độc thủ của đạo cô.

Lục đại nương nhìn kỹ chín bàn tay máu, bỗng đôi mắt hoa lên. Nàng có cảm giác như chín bàn tay kia lay động, mỗi lúc một lớn hơn và màu đỏ làm xây xẩm cả mặt mày.

Lục đại nương lảo đảo bước tới đưa tay đấm mạnh vào bức tường. Một tiếp "đốp" rợn người! Lục Phu nhân hét lên một tiếng rồi ngã xuống ngồi thừ trên chiếc tràng kỷ, đôi mắt mơ màng lẩm bẩm:

- Vì sao nhà ta chỉ có bảy người mà ở đây lại 9 bànn tay ?

Lục Lập Đỉnhthở dài đỡ vợ dậy ái ngại:

- Phu nhân ơi ! sự việc đã đến nỗi nãy dẫu chúng ta có sợ sệt cũng chẳng ích gì. Chúng ta cần mạnh dạn để chấp nhận sự thật. Hai bàn tay trên chính là mạng song thân ta. Hai bàn tay kế tiếp là mạng của chúng ta, rồi đến hai bàn tay nữa là Trình Anh và Lục Vô Song. Sau hết ba bànn tay cuối cùng là sinh mạng của A Căn và hai tên tỳ nữ. Đó là lỗi cảnh cáo của con ác tặc hăm doạ tàn sát cả gia đình để không còn một bóng người, không còn một tiếng vật.

Lục phu nhân hỏi:

- Sao chúng đeo đuổi song thân ta làm gì?

Lục Lập Đỉnhbuồn bã đáp:

- Chính ta cũng chẳng rõ nguyên nhân nào ? Chẳng biết con ác quỷ đó với song thân ta có một mối thù truyền kiếp nào chăng ? Những người đã chết chúng còn quật mồ cướp thây hẳn có một oan cừu cay nghiệt.

Lục phu nhân hỏi:

- Phu quân đinh ninh rằng lão già kia và con ác quỷ đó sẽ đến đây sao?

Lục Lập Đỉnhmím đôi môi, cay đắng nói:

- Điều đó tất nhiên rồi !

Giữa lúc hai vợ chồng đang bàn luận thì tên đầy tớ A Căn nét mặt hầm hầm bước vào thưa:

- Thưa gia chủ! Chúng nó chơi đến trò này quá lắm rồi.

Lục phu nhân hỏi dồn:

- Lại chuyện gì xảy ra nữa ? Thật khốn kiếp.

Lục Lập Đỉnhcũng nóng lòng hỏi vội:

- Việc gì đó ? Có quan hệ chăng?

A Căn thưa:

- Thưa, chẳng hiểu kẻ nào chơi nghịch đem xích sắt khoá kỹ chiếc cổng bên ngoài, kêu gì chúng cũng không mở. Con tức giận xô hoài mà chẳng được.

Cả hai vợ chồng Lục Lập Đỉnhnghe nói thất sắc, thu hết can đảm tiến về phía cổng ngoài. Họ đi song song với nhau và cẩn thận từng bước một.

Đến cổng, đôi cánh cửa nặng nề bằng gỗ lim vẫn đóng cứng. Lục Lập Đỉnhvận dụng hết sức bình sinh, hai tay bấu chặt vào cổng, chun chân dùng thế nhấc bổng lên, nhưng cánh cổng vẫn nặng như đá không lay chuyển chút nào.

Lục đại nương ngạc nhiên cho là điều quái lạ, dùng chân nhảy phóc lên đầu tường, đưa mắt quan sát. Bên ngoài không có một bóng người, không có một tiếng động, bốn bề yên lặng như tờ.

Để khám phá việc lạ, Lục đại nương rút kiếm, cẩn thận nhảy ra phía ngoài tường, men vào cánh cổng.

Thì ra, kẻ nào đùa nghịch đã đem xích sắt khoá cánh cổng tự lúc nào.

Lục đại nương nổi giận hỏi:

- Bọn này muốn trêu ta sao?

Nàng toan xông đến chém gãy chiếc xiềng xích cho vỡ tan hàng trăm mảnh cho hả giận. Nhưng bỗng nhiên nàng chùn chân vì phía trên có treo vuông lụa nhuộm chín bàn tay. Màu máu tươi và đỏ chót.

Lúc đó, Lục Lập Đỉnhcũng đã tung chân nhảy lên đầu tường, thấy vuông lụa máu, chàng biết ngay địch thủ đã dùng dấu hiệu để cảnh báo và uy hiếp tinh thần.

Không còn sợ sệt, Lục Lập Đỉnhquay về phía phu nhân nói với giọng cương quyết:

- Ngày hôm nay nhà ta phải chịu dồn dập những tai ương. Nhưng đó mới là chuyện mở màn cho những khốc liệt sau này. Con ác quỷ đó chỉ muốn cái chết của vợ chồng ta. Nhưng dù có chết chúng ta cũng phải giữ tròn uy danh cho dòng họ Lục.

Lục đại nương nghe chồng nói, lòng tự ái con nhà võ cũng nổi lên. Nàng nghiến chặt hai hàng răng nói:

- Thưa phu quân, Lời phu quân thật chí lý. Dẫu phải chết thiếp quyết không rời phu quân.

Hai người nhảy xuống bờ tường trở vào đại sảnh.

Khi vào đến hậu viên, Lục Lập Đỉnh thoáng nghe đâu đây có tiếng động chàng vội vã đẩy Lục đại nương vàoo trong còn mình xách kiếm lăm le từng bước một tiến tới.

Chàng thoáng thấy một bóng người! Một bóng người ngồi trên đầu tường ở hoa viên. Trông kỹ thì đó là một đứa bé trai, tóc đan thành hai bím chổng ngược lên trời, tay đang vân vê một cánh hoa lang tiêu.

- Hãy cẩn thận nhé ! Không khéo rơi xuống đấy !

Thì ra, Trình Anh và Lục Vô Song trong lúc vợ chồng Lục Lập Đỉnh mắc bận tâm lo công việc, hai cô bé này đã cũnng một đứa bé trai vừa mới đến túc ngụ rủ nhau đi tìm hoa lăng tiêu sau vườn.

Lục Lập Đỉnh nhủ thầm:

- Ta cứ tưởng hai đứa bé trai đến đây ẩn núp, nào ngờ chúng lại tinh nghịch vậy.

Thằng bé đứng trên đầu tường làm dáng điệu như sắp ném hoa đang cầm nơi tay.

Lục Vô Song kêu lớn:

- Ném cho tôi đi ! Ném cho tôi đi !

Thằng bé nghe kêu mỉm cười tung đoá hoa về phía Trình Anh.

Trình Anh nhanh tay hứng lấy rồi đưa lại cho Lục Vô Song . Lục Vô Song tỏ vẻ bất bình làm mặt giận , ném đóa hoa xuống đất giẫm chân lên chà nát rồi bĩu môi nói:

- Quí lắm đấy, ta chẳng thèm lấy đâu !

Thấy con và cháu đang đùa nghịch một cách vô tư, chẳng biết gì đến hiểm hoạ đang bao trùm cả Lục gia trang, Lục Lập Đỉnh thở dài quay gót trở về phòng.

Trình Anh thấy Lục Vô Song không lấy hoa, lại còn tỏ ý hờn giận liền hỏi:

- Sao em khó tánh thế ?

Lục Vô Song đáp:

- Em không thèm lấy hoa của nó. Để tự tay em lấy cho mà xem.

Dứt lời, Lục Vô Song nhún mình nhảy vọt lên cao, níu lấy một cành cây đu qua đầu tường, chuyển mình sang một cành cây châu ngân quế lanh lẹ như một con sóc.

Thằng bé thấy thế cười khì, thách:

- Có giỏi thì nhảy lại qua đây !

Lục Vô Song đang thòng người lơ lửng trân cành châu ngân quế nghe tiếng thách đố liền du cả người phóng mạnh về phía thằng bé.

Đứng về phương diện võ thuật, lối nhảy như thế là một lối nhảy vô cùng nguy hiểm, chỉ có những kẻ tài nghệ cao cường mới dùng thuật khinh công liều lĩnh trong nguy biến. Thế mà Lục Vô Song chỉ vì không được tặng hoa, chạm lòng tự ái, đã dám lao mình cho đến đích mà không lường trước được nguy hiểm.

Thằng bé hốt hoảng ré lên:

- Thôi rồi ! Thôi chết rồi !

Cả một khối người rơi đúng chỗ nó. Thằng bé giơ tay lên đỡ. Nhưng Lục Vô Song miệng thét lên lời trách móc, hai tay xua không cho thằng bé đón lấy mình.

Thật quá kinh ngạc ! Làm sao trong một thế giằng co như thế mà cô bé có thể giữ được quân hình.

Lục Vô Song miệng kêu thất thanh, liền rơi xuống đất.

Thằng bé thứ hai đứng dưới chân tường thấy thế chạy lại giơ tay đón đỡ nhưng Lục Vô Song rơi từ chỗ cao quá nên thằng bé không tài nào đỡ nổi. Cả hai đều lăn nhào trên mặt đất. Lục Vô Song nằm thiêm thiếp còn thằng bé bể gò má, máu me lênh láng.

Trình Anh và thằng bé kia hoảng vía chạy đến.

Bây giờ thằng bé kia lồm cồm ngồi dậy được, tay ôm má, còn Lục Vô Song bị thương nơi bàn toạ không đứng dậy nổi. Trình Anh ẵm xốc Lục Vô Song bồng vào nhà, miệng la lớn:

- Di trượng ơi, Adi ơi, nguy lắm, nguy lắm!

Lục đại nương nghe tiếng kêu lật đật nhảy ra khỏi phòng chạy về hướng hoa viên. Nhưng chạy được một đoạn thì từ trên mái nhà nghe tiếng một vật ném tới. Lục đại nương né mình tránh khỏi và xem lại vật ấy là một tử thi.

Không kịp trở vào lấy vũ khí, Lục đại nương phi thân lên mái ngói. Chân nàng vừa đặt chưa vững thì hai tử thi nữa bị ném vụt đến trước mặt nàng. Lục đại nương bị vướng chân phải lộn nhào xuống phía sau hoa viên.

Lúc ây, Lục Lập Đỉnh cũng nghe tiếng Trình Anh kêu cứu nên từ đại sảnh bước ra.

Vừa đến nơi, thấy Lục phu nhân bị rớt từ trên xuống, chàng thất kinh liền vận dụng ngón "Thanh đình tam sao thuỷ" phi thân đến, đưa hai tay đỡ. Lục phu nhân rớt gọn trên hai cánh tay chàng.

Xem lại thấy Lục phu nhân không bị thương tích gì, Lục Lập Đỉnh an lòng đặt vợ xuống đất rồi phóng mình lên mái nhà, quay nhìn tứ phía.

ánh trăng vằng vặc, gió rít rì rào. Tuyệt nhiên không có một bóng người. Lập Lục Đính khinh thân chạy khắp nơi, từ trước ra sau, từ tiền sảnh đến hậu viên, nhìn từ mái ngói đến thềm hè mà vẫn chẳng thấy gì lạ.

Chàng lẩm bẩm:

- Con ác quỉ này không muốn gặp ta ngay lúc bây giờ thì dẫu có tìm hắn cũng uổng công.

Nghĩ thế chàng phi thân nhảy về phía giếng nước.

Bỗng chàng gặp một thiếu phụ đến trọ ban chiều một tay bồng Lục Vô Song, một tay dắt đứa bé bị thương trở về đại sảnh.

Người thiếu phụ không lo cho đứa con mình mà lại lo săn sóc cho Lục Vô Song.

Lục Lập Đỉnh ngỡ là Lục Vô Song vừa bị độc thủ của đạo cô nhưng nhìn kỹ chỉ thấy thương tích nhẹ nơi bàn toạ nên chàng an lòng, lễ phép hỏi thiếu phụ:

- Thưa nương nương, nương nương không lấy thế làm phiền chứ?

Thiếu phụ mỉm cười lắc đầu:

- Xin Lục gia đừng nghĩ thế.

Lục Lập Đỉnh ra hiệu bảo Lục đại nương săn sóc cho thằng bé con chu đáo.

Lục đại nương thấy thương tích ở má thằng bé khá nặng liền xe toang vạt áo rịt lại vết thương. Trong lúc đó, người thiếu phụ để ý chăm sóc Lục Vô Song từng li từng tí.

Lục Vô Song, con bé gan dạ ấy bây giờ mới biết đau. Cô ta rên rỉ từng hồi.

Người thiếu phụ tỏ ra một tay châm cứu lành nghề. Nàng chỉ cần điểm huyệt đạo bên trên vết thương tức khắc Lục Vô Song không còn cảm thấy đau đớn gì nữa.

Lục Lập Đỉnh thấy thế ngạc nhiên hỏi:

- Thưa, huyệt đó là huyệt gì vậy?

Thiếu phụ đáp:

- Thưa, đó là Bích hải huyêt và uy hang huyệt. Điểm trúng hai huyệt đó thì thần kinh tạm tê liệt, huyết thống điều hoà cho đến khi vết thương được lành hẳn.

Được thiếu phụ giảng giải rành rẽ, lại thấy lối săm sóc thương tích rất tinh vi, Lục Lập Đỉnh tin chắc người thiếu phụ đó cũng là tay bản lĩnh trong đời, và con nhà danh giá nên không ngại ngùng hỏi tiếp:

- Thưa nương nương, nương nương là ai ? và nương nương đến đây có việc gì chỉ giáo cho vợ chồng tôi chăng ?

Người thiếu phụ không trả lời chỉ để tâm đến việc chăm sóc vết thương cho Lục Vô Song. Nàng dùng một bàn tay thoa cho bàn toạ Lục Vô Song, một tay vẽ trog không trung những vòng tưởng tượng.

Lục Lập Đỉnh lấy làm lạ tự hỏi:

-Taị sao người này lại có lối chữa vết tưhưong như lỗi cứu chữa thân phụ ta ngày trước. Thôi đúng rồi ! Nàng này quả là thủ pháp "Nhất dương chỉ".

Chàng rón rén bước ra phía sau lưng thiếu phụ, lấy cả hai bàn tay đánh mạnh vào ót. Thiếu phụ, tay mặt vẫn thao bóp cho Lục Vô Song, bỗng nghe tiếng gió nàng đưa tay trái ra đỡ. Hai chưởng lực chạm nhau quá mạnh làm cho Lục Lập Đỉnh đứng không vững phải bước lùi mấy bước.

Giữa lúc đó từ trên mái nhà xuất hiện một giọng cười trong trẻo, và có tiếng nói vòng xuống:

- Ta chỉ muốn lấy mạng của chín người trong nhà Lục gia trang. Kẻ nào không liên quan, hãy sớm rời khỏi đây kẻo mang họa.

Tiếng nói rõ ràng là giọng của một phụ nữ. Lục Lập Đỉnh quay đầu nhìn lên, thấy bóng một đạo cô chỉnh tề trong bộ võ phục, hai tay chống vào hông ngạo nghễ nhìn xuống.

ánh trăng rọi vào mặt, soi rõ đạo cô đó có một sắc đẹp vô cùng diễm lệ. Người ta có cảm tưởng đó là một cô gái măng tơ, tuổi chưa đầy hai tám và tràn đầy nhựa sống của lứa thanh niên. Nhưng đằng sau vai nàng nhô lên đôi kiếm khiến cho kẻ si tình cũng phải dè dặt.

Đạo cô buộc vào thắt lưng một dây lụa đào, gió tung phấp phới như hai vệt máu phụt giữa không trung khiến kẻ thiếu tinh thần cũng phải khiếp sợ.

Tuy trong căm hận nhưng Lục Lập Đỉnh cũng không thể không thừa nhận cái sắc đẹp uy nghi của đạo cô. Chàng tấm tắc ngợi khen và lẩm bẩm:

- Con ác quỉ đã 10 năm làm chấn động giới giang hồ, không ngờ ngày nay tuổi vẫn còn son trẻ, sắc đẹp chưa phai mờ.

Bỗng chàng quắc mắt, chỉ tay gọi lớn:

- Này, có phải ngươi đã từ giã "xích luyện" đến đây chăng ? Ta là Lục Lập Đỉnh đây ! Ngươi muốn gì ?

Đạo cô vẫn giữ nụ cười trên môi, ngạo nghễ đáp:

- à! té ra ngươi đang chờ ta đến! Biết điều như vậy cũng tốt lắm. Nhưng tốt hơn nếu ngươi đem vợ và con cháu ra đây giết hết trước mặt cho ta xem tận mắt, rồi ta cho ngươi được phép tự sát. Chỉ có thế ngươi mới bảo tồn được uy danh cho dòng họ Lục và ta cũng khỏi mất công hạ thủ cả gia đình ngươi.

Dứt lời, đạo cô buông một tràng cười khanh khách.

Trước những lời nhục mạ đó, Lục Lập Đỉnh tuy chưa phải là khách giang hồ song dòng máu con nhà võ cũng sôi lên. Vả lại, đứng trước một thiếu phụ thơ như liễu, yếu như đào, chàng tưởng như nội cộng chàng có thể bẻ gãy cành phù dung tức khắc. Chàng rít lên:

- Nữ tặc! Đừng lắm lời! Ta giúp cho mày theo ông bà về chín suối để ăn năn tội lỗi.

Vừa dứt tiếng, Lục Lập Đỉnh phóng người lên mái ngói. Đạo cô nhanh như chớp rút đôi song kiếm múa xoay tròn như vũ bão. Đôi kiếm long lanh dưới ánh trăng ánh lên những đường nét tuyệt mỹ.

Lục Lập Đỉnh nhìn những vệt sáng thu hẹp dần, mới cảm thấy tài nghệ mình còn quá non nớt, không thể đương đầu với đôi tay mềm mại đầy kinh nghiệm chiến đấu đó.

Về phần đạo cô, hẳn nàng cũng quá hiểu tài nghệ của Lục Lập Đỉnh, một kẻ từ thưở bé sống trong lụa là nhung gấm nên nàng không quan tâm mấy. Nàng chỉ dùng các thế võ khích lệ để trêu Lục Lập Đỉnh trước khi kết thúc.

Mũi kiếm của đạo cô dần dần siết hẹp vào người Lục Lập Đỉnh, vây quanh lấy mình và và dồn Lục Lập Đỉnh khắp mọi nơi theo ý muốn.

Cái trò chơi quái ác nầy cuối cùng buộc Lục Lập Đỉnh phải xuôi tay nhắm mát để đợi nhát kiếm kết liễu của đạo cô.

Nhưng việc phải đến không thể tránh. Nhát kiếm cuối cùng nhắm đầu Lục Lập Đỉnh chém sả tới với một thế rất mạnh.

Bỗng nhát kiếm dội lên. Một tiếng "kong" rùng rợn.

Thì ra, người thiếu phụ tá túc lúc chiều đã đến kịp thời cứu nguy cho Lục Lập Đỉnh.

Cuộc đấu chiến lại tiếp tục giữa hai thiếu phụ.

Nếu bình tĩnh mà thưởng thức thì trên mái ngói nãy giờ trở nên một đấu trường mà quang cảnh diễn ra vô cùng đẹp mắt.

Người thiếu phụ phục sức màu tro, còn đạo cô mặc màu hoàng hạnh. Cả hai thứ thay đổi chỗ ngôi, lúc tiến, lúc thoát, lúc công lúc thủ, lúc nào cũng như vâng theo mọi đường lối đã định trước.

Cái tuyệt kỷ của đôi bên là vũ khí không bao giờ chạm vào nhau mà tinh thần đôi bên cũng không lúc nào thay đổi. Người nào vẻ mặt cũng tươi cười như một vũ nữ lúc trình diễn trước khán giả. Thỉnh thoảng trên mặt họ chỉ thoáng hiện vài nét thần phục lẫn nhau.

Bỗng đạo cô hét lên:

- Con tiện tỳ kia! Ta vâng mạng sư phụ ta đến đây sát diệt nhà họ Lục, can hệ gì đến mày mà mày cản trở công việc của ta?

Người thiếu phụ cũng với nụ cười kiêu hãnh đáp lại:

- Sư phụ nhà ngươi có việc với Lục Triển Nguyên đáng lẽ phải sớm tìm Triển Nguyên mà thanh toán. Nay Triển Nguyên đã ra người thiên cổ sao sư phụ ngươi lại tìm đến giết hại con cháu. Như vậy đâu phải cử chỉ cao đẹp của người vũ dũng.

THiếu phụ nói chưa dứt lời, bất thình lình ba chiếc ngân châm từ tay áo đạo cô bắn ra. Hai chiếc hướng về phía thiếu phụ và một chiếc hướng về Lục Lập Đỉnh.

Nhanh như chớp, thiếu phụ tung kiếm đánh bật hai chiếc ngân châm rơi xuống mái ngói. Trong lúc đó Lục Lập Đỉnh đưa tay đón chiếc kim châm một cách bất ngờ.

Thấy thế đạo cô cười phá lên rồi tung mình nhảy ra cửa cổng. Trong phút chốc nàng đã mất dạng.

Thiếu phụ đứng nhìn theo lối khinh công của đạo cô tỏ vẻ thán phục vô cùng.

Khi xuống đến hoa viên, thiếu phụ thấy trong tay Lục Lập Đỉnh còn cầm chiếc kim châm thất kinh nói:

- Hãy ném đi, ném đi mau!

Bây giờ Lục Lập Đỉnh không còn mảy may ý thức nghi ngờ thiêú phụ nữa nên nghe nói chàng liền vứt chiếc ngân châm sang một bên, đưa tay lên xem thì thấy bàn tay chàng tái nhợt.

Qúa khiếp sợ, Lục Lập Đỉnh nói lớn:

- Trời ơi, tôi bị nhiễm độc rồi !

Thiếu phụ nói:

- Đúng vậy. Tôn huynh đã bị nhiễm phải một chất độc tối nguy hiểm. Chẳng những làm hại ở tay mà còn có thế nguy hiểm đến tánh mạng.

Dứt lời thiếu phụ dùng kiếm cắt ngang vạt áo buộc vàoo tay Lục Lập Đỉnh không cho máu độc chảy vào tim rồi móc túi lấy hai viên thuốc gia truyền đưa cho Lục Lập Đỉnh nhai nuốt.

Lục Lập Đỉnh cảm thấy hai ngón tay giữa như tê liệt và sưng lớn dần.

Bấy giờ, hai người đã đi đến bên Lục đại nương. Người thiếu phụ không hề lưu ý đến bệnh tình Lục đại nương cũng như Lục Vô Song và đứa bé trai mà chỉ lo hai ngón tay của Lục Lập Đỉnh. Nàng dùng mũi kiếm xẻ xâu vào hai ngón tay của Lục Lập Đỉnh đến tận xương. Hai dòng máu đen sẫm chảy ròng ròng xuống đất.

Lục Lập Đỉnh kinh hãi, bụng bảo dạ:

- Ta chỉ năm lấy kim ngân mà đã bị nhiễm độc như vậy. Nếu cây kim ấy đâm vào người thì còn gì là tính mạng.

Sau khi xẻ ngón tay của Lục Lập Đỉnh lấy máu xong, thiếu phụ bước đến đỡ Lục đại nương lên ghế và kéo xiêm áo lên nhìn thương tích.

Quả nhiên, hai đầu gối của Lục đại nương đều trúng phải ngân châm. Oái oăm thay, chính kim này là loại kim thường ngày Lục Lập Đỉnh dùng để chữa bệnh.

Lục Lập Đỉnh cảm thấy mầm đại hoạ càng trầm trọng hơn. Các vết thương của vợ con chưa lành nhưng chàng thấy đáng ngại hơn là những việc sắp xảy ra sau này.

Nhớ đến hai tử thi mà địch thủ đã dùng nó ném vào Lục đại nương, chàng bước vội ra ngoài xem.

Thì ra ba cái xác ấy chính là ba xác của những người đã bị xích luyện thần chưởng vừa rồi.

Lục Lập Đỉnh nhìn kỹ mỗi tử thi và rất ngạc nhiên vfi những chiếc kim trước đây Lục Lập Đỉnh châm vào huyệt giải để giúp chúng thoát chết thì nay lại được nằm ở các huyệt tử.

Chỉ một huyệt tử cũng đủ vong mạng huống hồ nay chín huyệt giải lại được thay đổi cả vào chín huyệt tử.

Lục Lập Đỉnh than thầm:

- Thật con đạo cô này không còn chút lương tâm nào.

Lục Lập Đỉnh thương tình đến vuốt mặt từng người.

Trong ba người, có tên Long chưa chết hẳn. Lục Lập Đỉnh xoè bànn tay trên mặt, hắn lấy hết tàn lực nói giọng khàn khàn:

- Lục chủ...! Phần tôi chết... bất hạnh đã dành.., còn Lục chủ cũng nên trốn đi nơi khác. Tôi thiết tưởng trên đời này chỉ có Lục Triển Nguyên .... mới cứu được.... còn con của Lục Triển Nguyên dẫu có thương người cũng chẳng làm gì nổi. Gia chủ ơi, gia chủ hãy trốn đi nơi khác là hay hơn... khỏi phải thiệt mạng. Sớm muộn hắn cũng trở lại đây...

Hơi nói yếu dần và ngất nghẹn. Cuối cùng hắn cố mở đôi mắt nhìn vào mặt Lục Lập Đỉnh lần chót.

Và khi thấy Lục Lập Đỉnh đã hiểu rõ ý muốn của hắn, hắn thở phào một hơi và nhắm mắt bằng lòng chết một cách thanh thản, không ân hận.

Người thiếu phụ rất cảm động trước cái chết của ba tên phiêu xa, thở dài nguyền rủa.

- Con ác quỉ! Con ác quỉ hắn nó không còn chút nhân tâm nào.

Bấy giờ Lục Lập Đỉnh mới có thì giờ để ý dến thiếu phụ, và nhớ đến ơn cứu mạng vừa rồi. Chàng chấp tay nói:

- Tôi thật kẻ có mắt như mù. Đứng trước núi Thái sơn mà không trông thấy, mong đại nương dung tha và cho kẻ hàn này được rõ đại danh.

Thiếu phụ đáp:

Thưa, dòng họ thiếp thuộc dòng quan gia, họ Vũ.

Lục Lập Đỉnh giật mình nói:

- Quả nhiên! Kẻ hèn này đoán không sai. Thấy đại nương săn sóc Lục Vô Song kẻ hèn này đã đoán hiểu đại nương là môn hạ của Đại sư Nhất Đăng, Đại lý đất Vân Nam. Vậy xin mời đại nương lên sảnh để kẻ hèn này được dâng ít chung trà.

Mọi người theo Lục Lập Đỉnh lên đại sảnh.

Sau khi an toạ, Lục Lập Đỉnh kéo con gáo vào lòng nựng nịu. Nét mặt cô bé còn xanh nhợt. tuy nhiên, cô bé rất can đảm. Dẫu vết thương còn đau mà cô bé không hề rên rỉ tiếng nào. Cử chỉ ấy khiến Lục Lập Đỉnh phải bận tâm suy nghĩ.

Qua một phút trầm lặng, Vũ tam nương cất tiếng:

- Lục chủ ạ! Chúng ta đang đứng trước một đối thủ rất kiên nhẫn và lợi hại. Vừa rồi đồ đệ của nó vừa tới thì nó lại thân hành đến ngay lập tức. Thiếp không dám khinh thường tài nghệ của Lục chủ, song đối với bọn chúng dẫu thiếp có giúp tay đi nữa cũng khó lòng địch nổi. Vả lại, với bọn này, khi chúng sanh chuyện thì trốn cũng không bao giờ thoát. Vậy tốt hơn sống chết đã có số trời, chúng ta cùng nhau đương đầu với chúng từ giờ phút này còn hơn. thiếp đoán chắc con ác tặc đó thế nào cũng trở lại.

Hồi 3 : Người đạo cô áo trắng

Lục đại nương hỏi:

- Con ác tặc đạo cô này là người thế nào? Vì sao đối với dòng họ chúng tôi lại có mối thâm thù như thế ?

Vũ tam nương nhìn về phía Lục Lập Đỉnh nói:

- Lục chủ có cho phép tôi được giãi bày chăng? Việc này có lẽ Lục chủ đã từng nghe Lục công kể lại.

Lục đại nương ngắt lời nói:

- Nhạc phụ tôi lúc sinh tiên cô nói rằng việc này dính líu đến nhạc mẫu, cho nên dẫu con cái trong nhà cũng chẳng tỏ tình. Vả lại, hình như nhạc phụ của tôi cũng không được biết tỏ cho lắm.

Vũ tam nương thở dài, nói:

- Tôi là người ngoài cuộc, có kể lại câu chuyện này cũng chẳng hề chi, nếu Lục chủ muốn biết rõ.

Lục Lập Đỉnh nói:

- Xin đại nương vui lòng cho chúng tôi biết .

Vũ tam nương nói:

- Tôn ông Lục Triển Nguyên, một lão anh hùng lúc thiếu thời, dáng mặt là một thanh niên tuấn tú, xứng danh là đệ nhất phong lưu trong giới vũ lâm. Còn con ác quỷ là Xích luyện Tiên tử tên là Lý Mạc Thu.

Lục Lập Đỉnh nghe đến tên Lý Mạc Thu liền nhắm mắt, thở dài một tiếng.

Vũ tam nương thấy thế ái ngại, kể tiếp:

- Xích luyện Tiên tử ngày nay đã làm cho giới giang hồ kiếm khách thất đởm dường ấy. Tuy nhiên, trước kia hắn là một thục nữ yêu kiều khả ái vào bậc nhất. Vì vậy, mới có chuyện oái oăm. Lục Triển Nguyên , trang anh hùng hiệp khách ấy đã say đắm tính tình và nhan sắc của Lý Mạc Thu. Chẳng biết đôi bên đã ràng buộc nhau bỏi tiền duyên oan nghiệt nào mà khi mới gặp nhau cả hai đều đem lòng quyến luyến lấy nhau trong một mối tình tha thiết nồng nàn. Họ đã từng phi ngựa bên nhau suốt ngày bên sườn núi, họ đã từng trao đổi nhau những lời nguyện ước ba sinh.

Kể đến đây, Vũ tam nương ngừng lại, và thấy vợ chồng Lục Lập Đỉnh đang chú ý ngồi nghe nàng thở dai một hơi rồi kể tiếp:

- Rồi ... cũng như bao mối tình lãng mạn khác, mối tình giữa đôi trai tài gái sắc này không được bền vững với thời gian. Sau nhiều biến cố dồn dập, đôi bên không còn cơ hội gần nhau. Họ sống trong hoàn cảnh xa mặt cách lòng. Bỗng một ngày kia Lục Triển Nguyên kết bạn trăm năm với Hà Nguyên Quân, một tuyệt sắc giai nhân nổi tiếng trong một vùng.

Nghe đến đây, Lục Lập Đỉnh đôi mắt u buồn như đang mơ gì trong cõi mộng không gian.

Hà Nguyên Quân, một đoá hoa sắc nước hương trời, đã cũng với Lục Triển Nguyên, một phong lưu nghĩa hiệp chung sốnng. Thế thì cũng không lấy gì làm lạ. Nhưng đã nói đến Hà Nguyên Quân không thể bỏ qua câu chuyện Chuyết Phu được, mặc dù câu chuyện này không mấy tốt đẹp.

Từ nhỏ, Lục Lập Đỉnh cũng đã từng nghe cha mẹ nói cho biết gia đình chàng có hai kẻ thù: một là Xích luyện Tiên tử Lý Mạc Thu, hai là Vũ tam Thông cao đệ của Nhất Đăng Đại sư đất Vân Nam.

Nhất Đăng Đại sư xưa kia làm đại lý cho Vương quốc Nam chiều đến lúc tịnh vị tu hành thì có bốn đệ tử theo hầu, mỗi đệ tử chuyên chú một trong bốn ngành: ngư, tiều, canh, độc.

Vũ Tam Thông lúc thiếu thời vốn làm quan ở nam chiến, sau đó bỏ chức, theo Nhất Đăng Đại sư làm đệ tử, giữ việc nông tang.

Lục Lập Đỉnh chỉ biết có thế thôi. Còn mối thù giữa song thân với hai thù địch vì đâu gây oan nghiệt chàng cũng chưa được hiểu rõ.

Lục Lập Đỉnh thấy Vũ tam nương săn sóc vết thương cho Lục Vô Song chàng đã đem lòng nghi ngờ tự bảo:

- Mình đang tìm cách đối phó với kẻ thù này chưa hết thì kẻ thù kia đã tìm đến.

Sở dĩ Lục Lập Đỉnh nghĩ thế vì chàng cho Vũ tam nương một lòng với Vũ Tam Thông. Do đó chàng đã ra tay hành động. Không ngờ chính Vũ tam nương lại đương đầu với Xích luyện Tiên tử để cứu chàng và cả gia đình chàng. Bây giờ, Lục Lập Đỉnh ân hận không biết phải đối xử thế nào cho hợp lý.

Vũ tam nương vừa săn sóc vết thương trên mặt của con vừa tiếp tục kể:

- Chuyết phu và Hà Nguyên Quân vỗn được gần gũi nhau từ tấm bé và đôi bên chơi với nhau rất thân mật. Đến lúc lớn, mặc dù tính tình của hai người không hoàn toàn đồng hợp Chuyết phu vẫn đem lòng yêu Hà Nguyên Quân. Mối tình âm thầm ấp ủ trong lòng Chuyết phu cho đến lúc Hà Nguyên Quân, người yêu chàng bước lên xe hoa về chung sống trăn năm với Lục Triển Nguyên. Chàng trai si tình tức giận bèn đem cả gia đình thuộc hạ lên Đại lý phủ làm quan.

Một ngày kia, hai kẻ tình địch gặp nhau không phải vì ngẫu nhiên mà dọ sự quyết tâm tìm kiếm của chàng Chuyết phu hận tình.

Cuộc gặp gỡ bằng một cuộc thử tài. Thì ra, lúc đó Chuyết phu mới rõ tài nghệ của mình chưa phải là đối thủ của Lục anh hùng.

Sau hai lần thất bại trên tình trường, rồi trên vũ trường làm tâm hồn Chuyết phu rối loạn. Anh chàng si tình kia trở nên ngây dại.

Tuy nhiên, chàng ta chẳng bao giờ quên lời nguyện ước và cũng là lời thách đố với Lục Triển Nguyên là 15 năm sau sẽ so tài trở lại với tình địch.

Oái oăm thay! Đến lúc Chuyết phu có điều kiện giữ lời thề thì tình địch lẫn người yêu đã ra người thiên cổ.

Nghe đến đây, Lục Lập Đỉnh nổi giận, cau mày đá tung chiếc ghế lên trời nói:

- Nếu có muốn rửa hận thì cứ tìm thân phụ ta lúc sinh thời mà đọ sức, nay thân phụ ta quá vãng sao nó lại đến cướp thi thể làm cái chuyện đê hèn nhục nhã như vậy. Hành động ấy đâu xứng đáng với kẻ anh hùng hảo hớn.

Vũ tam nương than:

- Lục chủ trách như thế cũng phải, song Chuyết phu hiện giờ tâm trí cuồng loạn, cử chỉ thất thường còn biết là sao. Vả lại, hôm nay thiếp mang hai đứa con đến đây cũng không ngoài mục đích phòng bị Chuyết phu đến đây làm điều gàn dở. Trên trần Chuyết phu chỉ e ngại có mình thiếp và hai đứa con nầy mà thôi.

Nói đến đây Vũ tam nương ra hiệu bảo hai đứa bé:

- Các con hãy cúi đầu ra mắt nhị vị Lục gia.

Hai đứa bé ngoan ngoãn vâng theo lời mẹ chấp tay bái lạy vợ chồng Lục Lập Đỉnh.

Lục đại nương ân cần đỡ hai đứa bé dậy hỏi tánh danh.

Đứa bé bị thương ở mặt xưng là Vũ Đôn Nhu, còn đứa kia là Vũ Tu Văn. Hai anh em suýt soát nhau chừng một tuổi. Đứa lớn 12, đưa nhỏ 11.

Dòng họ Vũ xưa kia là dòng danh giá nên con cái đều mang danh tao nhã.

Vũ tam nương thưa:

- Thiếp chắc rằng Chuyết phu và Xích luyện Tiên tử thế nào cũng trở lại đây bởi vì cả ahi không phải là những kẻ vong ân bội nghĩa. Một người đến tìm hương thừa của người bạn gái, một người đến tìm bóng dáng chàng anh hùng trẻ tuổi đã in sâu trong con tim từ thưở nhỏ.

Vũ tam nương vừa nói đến đấy thì bỗng trên mái nhà có tiếng gọi:

- Nhu nhi! Văn nhi! Chúng bây hãy ra đây!

Tiếng kêu rõ ràng và kề cận đột nhiên phát xuất. Thật quái lạ, trên mái ngói không một tiếng động, dẫu một tiếng động nhỏ.

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh kinh hãi đoán biết đó là tiếng gọi của Vũ Tam Thông. Ngay như Trình Anh và Lục Vô Song cũng nhận ra đó là tiếng nói của ông lão hôm nọ chúng đã gặp trên bờ hồ.

Trong khoảng khắc, Vũ Tam Thông nhảy xuống đất, đưa hai tay choàng lấy hai dứa con, mỗi đứa một bên như trước kia đã ôm TA và Lục Vô Song, rồi phóng mình lên mái nhà biến mất dạng.

Vũ ôm hai đứa con chạy một mạch đến khu rừng rậm thì dừng lại, thả Tu Văn lại đấy, chỉ ôm một mình Đôn Nhu chạy riết.

Vũ Tu Văn hoảng sợ hét lên:

-Cha ơi! Cha!

Nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của cha nó đâu cả mà chỉ nghe tiếng vọng từ xa dội lại:

- Con hãy chờ đấy, cha sẽ trở về ngay.

Vũ Tu Văn vốn biết tính cha nó, lúc điên lúc dại, tuy phải chờ nơi rừng sâu nó cũng không lấy thế làm ngạc nhiên.

Trời mỗi lúc một khuya và bốn bề vắng ngắt. Thỉnh thoảng vài cơn gió lạnh lùng thổi đến lắc lư mấy cành dương như những cánhh tay dài thườn thượt của loài ma quái.

Cảnh tình của đứa trẻ quả là đáng ngại. Nhưng Vũ Tu Văn vốn tin vào lời dặn của cha nên hắn ngồi thừ dưới một gốc cây dương chờ đợi.

Mà đợi mãi vẫn không thấy cha hắn trở lại, hắn ngồi buồn vẩn vơ nghĩ đến câu chuyện mẹ hắn vừa kể lúc nãy và tự hỏi:

- Vì sao trong đời lại có những thiếu phụ si tình đến độc ác thế?

Nó nghi ngờ chẳng biết mẹ nó có đủ tài để đương đầu với con quái tặc ấy chăng.

Còn cha nó, trong cơn điên dại bỏ nó giữa rừng hoang chắc gì đã nhớ lời mà trở lại đem nó ra.

Nó đứng dậy nghĩ thầm:

- Thôi, mình hãy trở về tìm mẹ.

Nó dấn bước vào rừng dương lần mò tìm đường thoát nạn. Nhưng Giang nam là đất của rạch hồ, đường sá vô cùng bí hiểm, khách lạc loài dễ đâu tìm được lối đi. Huống hồ Vũ Tu Văn mới là đứa trẻ thơ bị bỏ rơi trong đêm tối thì hy vọng chỉ là chuyện mong manh.

Càng đi, Vũ Tu Văn càng tiến sâu vào hoang tịch. Nó cố gắng trèo lên một ngọn đồi cao nhưng nó chỉ thấy chung quanh bao la một màn đêm dày đặc.

Nó hét lên:

- Cha ơi! Mẹ ơi!

Rồi nó lắng tai nghe chính tiếng nó vọng lại từ bên kia đen tối:

- Cha ơi! Mẹ ơi!

Lặng đi một lúc nó lại nghe tiếng mèo rừng nghêo ngao từ xa thẳm. Tiếng nghêu ngao buồn bã và rùnng rợn làm sao !

Tu-Văn đã được nghe người ta kể về giống mèo rừng ở vùng nầy. Giống mèo rất lớn con, và rất thích cặp mắt người. Mỗi lần gặp người, dã thú nhất định không để nạn nhân chết trước khi hắn móc mắt ăn. Hắn cào cấu, xâu xé da thịt nạn nhân đau đớn phải khóc ra nước mắt. Lúc đó cuộc tiệc của nó mới bắt đầu. Nó nhảy nhót biểu lộ tất cả mọi hoan lạc rồi lè lưỡi liếm liếm những giọt nước mắt của nạn nhân chảy quanh mi. Cho đến lúc nạn nhân không còn nước mắt, nó mới móc mắt ra ăn.

Tu-Văn nghĩ đến câu chuyện ấy bằng trí óc tưởng tượng ngây ngô. Thốt nhiên nó thút thít khóc, và đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má.

Càng khóc, nó càng sợ sệt thêm! Và nó trông thấy xa xa hai điểm sáng lập loè trong đêm tối. Hai điểm sáng tiến lần đến, càng gần trông càng giống hai ánh đèn trong.

Rồi, một mùi hôi tanh nồng nặc phảng phất. Cuối cùng nó nghe có tiếng hồng hộc, hai điểm sáng chạy về phía nó như bay.

Thì ra, đó là một con hổ lớn đang phóng mình đến khi thấy mồi.

Tu-Văn hoảng hốt, nhưng vẫn lanh trí. Hắn leo lên một gốc cây cổ thụ tìm một chảng ba chắc chắn ngồi chễm chệ để xem con hổ làm gì.

Hổ đến nơi, không thấy bóng dáng miếng mồi, tức giận nhảy lồng lộn tìm kiếm, và banh xé một bụi rậm gần đấy.

Nhưng chỉ một chốc, hổ bắt được mùi, tiến sát đến gần cây nhìn lên.

Khi trông thấy thằng bé, mãnh hổ gầm một tiếng nhảy phốc lên như một mũi tên. Nhưng cũng may sức mạnh của hổ không làm sao nhảy phốc đến chỗ Tu-Văn ngồi được.

Tu-Văn thấy thế mỉm cười, nghĩ đến lời mẹ hắn thường nói:

- Hễ vào rừng gặp hổ, phương thế an toàn là leo lên cây ẩn núp.

Hắn an lòng ngồi nhìn con hổ bất lực trước miếng mồi ngon. Thỉnh thoảng hắn lại thòng chân xuống đất để trêu ghẹo con hổ.

Cái trò chơi ấy khá giải trí, khiến cho Tu-Văn quên mất cả tình cảnh của hắn đang lạc loài giữa rừng đêm.

Nhưng đùa mãi cũng chán, nó mở dây thắt lưng cột người vào cành cây rồi đánh một giấc ngon lành. Trong lúc đó con hổ mệt nhoài, thở khì khì ngồi im dưới gốc cây nhìn lên.

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa lố dạng, Tu-Văn bừng tỉnh mở mắt nhìn xuống vẫn còn thâys con hổ đang ở trong thế đợi chờ.

Nó nhìn kỹ, nhận thấy giữa hai con mắt mãnh hổ có chữ "vương". Nó thất kinh, biết mình gặp phải con ác thú nguy hiểm nhất trong vùng.

Qua một đêm mệt mỏi, lại bị đói lòng, mãnh hổ quyết chẳng để cho con mồi trốn thoát. Hắn gầm lên một tiếng, thu thập tất cả sức lực vào mình, nhảy phóc lên.

Nhưng sức hổ có hạn, không thể nào phi thân đến chảng ba, chỗ Tu-Văn ngồi được.

Dẫu biết thế, nhưng mãnh hổ vẫn cứ nhảy chồm lên, hết lần này đến lần khác.

Cuối cùng, với thân hình nặng nề và mệt nhọc, mãnh hổ quỵ vào gốc cây, làm cho gốc cây lay mạnh, hắn vụt Tu-Văn xuống đất.

Tu-Văn hoảng vía, song vốn là con nhà võ, từ thuở lên ba cha mẹ đã luyện tập cho hắn ít nhiều, nên bất thần bị rớt xuống mà hắn vẫn như thường, hai chân chấm đất nhẹ nhàng như con chim đậu vào cành trâm.

Thừa dịp hổ bị lê mất trớn. Tu-Văn cắm đầu chạy. Con hổ sau khi gượng dậy được nổi giận gầm thét, và không bỏ thoát miếng mồi nên quất đuôi đuổi theo rất nhanh.

Tu-Văn cũng đã biến mất ít nhiều về thuật kinh công, song khốn nỗi tay chân ngắn và bé xíu không thể nào vận dụng lối hi hành thần tốc được. Hắn chạy được một quãng thì mãnh hổ đuổi theo kịp. Hắn kinh hãi, đổi hướng chạy rất ngặt, khiến cho con hổ phải nhiều lần vấp vào các gốc cây, mỏm đá đau đớn gầm thét vang rừng.

Đến một khúc quanh, bất thần Tu-Văn vấp vào một mỏm đá, té nằm sóng sượt.

Chợp được cơ hội, mãnh hổ nhảy bổ đến vồ mồi. Và lần này quyết không còn cách nào trật được.

Nhưng, Tu-Văn đang chờ đợi nanh vuốt hổ, thì ngay lúc đó, có hai vết đen từ trên trời hiện xuống. Con mãnh hổ đang lao mình đến thì bị vết đen đó sa xuống đớp lấy và lôi bổng lên trời.

Tu-Văn ngạc nhiên đến khiếp sợ. Hắn dụi mắt ngơ ngác đoán chừng như nó không tin tưởng ở đôi mắt nó nữa. Nhưng trước mặt nó rõ ràng hai vết đen kia còn hiện nơi không trung đang bay lờ lững.

Nó định thần nhìn kỹ, thì ra đó là một con chim ưng khổng lồ, mỏ quặp đang kẹp đầu con mãnh thú bay đi.

Nó khoái chí, vỗ tay cười, thì một vết đen khác, chẳng biết từ đâu đến, quắp mỏ kẹp lấy nó bay lên.

Thì ra, một con chim ưng khổng lồ thứ hai lại bắt nó bay theo con chim trước.

Bay được một lúc, chim ưng thứ nhất hé mỏ thả rơi mãnh hổ xuống một khu rừng. Mãnh hổ đánh ầm một tiếng, xương thịt tan tành.

Tu-Văn thấy thế thất kinh, sợ chim ưng kia thả nó xuống nữa ắt không toàn tánh mạng, nó đánh liều hai tay ôm chặt vào thân điểu.

Hai con thần điểu bay song song nhau lên vút tận mây xanh, Tu-Văn không biết chúng sẽ đưa nó về đâu và số mạng nó sẽ ra thế nào.

Cặp chim thần đang bay, bỗng nghe bên dưới có tiếng thanh la gõ lanh lảnh. Hai con chim như được hiệu lệnh ngoan ngoãn đậu xuống và thả Tu-Văn nhẹ nhàng giữa một đám thuý liễu xinh đẹp, dưới chân có hoa cỏ muôn ngàn hương sắc. Thật là một cảnh thần tiên đẹp như thế giới bồng lai mà mẹ nó thường kể.

Dưới một gốc thùy liễu, một đứa bé gái hiện ra, hướng về phía Tu-Văn bái chào, rồi tiến sát đến bên hai con thần điểu vỗ về khen:

- Thần Ưng! Khá lắm! Giỏi lắm!

Hai con thần điểu tỏ vẻ hoan hỉ, vỗ cánh quấn quít vào mình cô bé.

Tu-Văn nghĩ thầm:

- Hai con chim nầy chắc loại Thần Ưng!

Rồi mãi mê nhìn hai con chim quyến luyến bên cô bé. Tu-Văn quên hẳn việc đầu tiên là phải cảm tạ cô bé, hắn buột miệng hỏi một cách thân mật:

- Hai con chim này của cô nương nuôi?

Cô bé cau mày tỏ ý khinh thị:

- Ta chưa biết ngươi là ai? Ta không thèm nói chuyện với ngươi!

Dứt lời cô bé tu miệng hút một hơi ra tiếng. Hai con chim hiểu rõ ra lệnh, vội vã đập cánh bay bổng lên không tiến tới nơi con mãnh hổ bị rơi để hưởng một cuộc tiệc linh đình.

Tu-Văn nhìn đôi chim thán phục và nói:

- Đôi chim của cô nương quả thật tài tình. Tôi phải nói với phụ thân tôi bắt cho tôi một đôi mới được.

Cô gái cười, nói:

- Phụ thân của ngươi cũng bắt được chim ư?

Tu-Văn lấy làm khó chịu trước câu nói hàm ý mỉa mai, và cũng khinh khi ấy. Hắn trố mắt nhìn cô bé xem cô ta là người nào mà dám khinh thị hắn.

Nhưng đôi mắt của nó bỗng dịu lại. Vì cô bé kia tuy còn nhỏ, các đường nét chưa nẩy nở đến độ tuyệt mỹ, mà sắc đẹp đã hứa hẹn một tương lai huy hoàng. Tu-Văn tuy vào tuổi măng non mà cũng cảm thấy cái gì dìu dịu say say. Bao nhiêu ý tưởng bất bình đều tiêu tan hết.

Bỗng cô bé cất tiếng hỏi:

- Ngươi tên gì? Vì sao lại chơi một mình nơi hoang vắng? Không sợ cọp vồ mất mạng ư?

Tu-Văn đáp:

- Tôi đang đợi thân phụ tôi. Còn cô nương tên là gì?

Cô gái bỉm môi đáp:

- Ta đâu thèm làm quen với đứa bé con nơi thôn dã mà hỏi thăm tên họ.

Dứt lời, cô bé quay mình bỏ đi.

Tu-Văn đứng lặng nhìn một lúc rồi nói lớn:

- Này cô nương! Cô nương chớ hiểu lầm! Tôi đâu phải người thôn dã.

Vừa nói, Tu-Văn vừa chạy theo.

Cô bé nhỏ hơn Tu-Văn ba tuổi, người thấp, chân ngắn, ấy thế mà lại đi mau thoăn thoắt dị thường. Tu-Văn biết chắc cô biết thuật kinh công.

Đi một đoạn, cô bé dừng lại, ngoảnh đầu nhìn Tu-Văn lểnh mểnh bước theo, tỏ vẻ ngạc nhiên, nói:

- Ngươi cũng theo kịp ta ư? Thôi hãy cố lên!

Tu-Văn nói:

- Dĩ nhiên phải theo kịp.

Cô bé liền bước nhanh hơn nữa rồi tạt sang phía sau một cây cổ thụ nấp chờ tại đấy. Tu-Văn vẫn cố gắng tiến bước, chẳng ngờ khi đến gốc cây cổ thụ bị cô bé bất thần đá mạnh vào chân làm cho hắn té lộn nhào, mũi va vào viên đá máu chảy tung toé.

Cô bé thấy thế chẳng biết thương tích trầm trọng đến bậc nào nên tỏ ra bối rối.

Bỗng đằng sau có tiếng gọi:

- Phù nhi! Sao con lại bất nhã như vậy? Con thử xét lại hành động của con xem có đẹp chăng?

Cô bé không quay đầu lại, buộc miệng hỏi:

- Ai đó? Việc gì quan hệ đến ngươi? Chính nó muốn sinh sự nên nó phải ra thế. Ngươi đừng nói hồ đồ.

Tu-Văn lồm cồm ngồi dậy, lấy tay chùi máu ở mũi, nhưng chẳng thấy đau đớn gì cả.

Nó nhìn về phía xa, thấy một lão già hiền lành, tay cầm cây thiết trượng, vóc người gầy ốm song diện mạo rất oai phong.

Ông già cười lớn, hướng về cô bé, nói:

- Con bảo rằng ta không can dự và ăn nói hồ đồ ư? Trước đây còn có mặt cậu bé này làm chứng, con đừng chối cãi nhé?

Cô bé chạy đến ôm chầm lấy ông lão, và nói như hối hận:

- Thưa công công! Công công bỏ qua đừng về mách với phụ thân con nhé! Công công hãy giúp cậu ấy cầm máu đi.

Ông lão đến bên cạnh Tu-Văn, lấy tay vỗ mấy cái vào trán và điểm vào huyệt văn hương. Tức thì máu cầm chảy.

Muốn cho vết thương mau lành, ông lão còn tìm trên một huyệt đạo nữa nhưng lão kẹp Tu-Văn quá chặt, khiến Tu-Văn có cảm giác như ông lão muốn hại mình, hắn liền dùng thế "Triển cầm nã thủ" để tự vệ. Thế này trước đây mẹ Tu-Văn đã dạy.

Hắn đánh tống một cái làm cho ông lão lảo đảo. Tuy nhiên, chỉ nháy mắt, ông lão giữ hắn lại được và nói:

- Em đừng sợ! Ta không đánh em đâu. Em họ gì?

Tu-Văn đáp:

- Thưa tôi họ Vũ.

Ông lão trầm ngâm suy nghĩ, rồi hỏi:

- Có phải em nguyên là thuộc hạ của "Nhất Đăng Đại-sư chăng?

Tu-Văn mừng rỡ nói:

- Thế ra ông có quen biết với thân phụ tôi sao? Ông vừa gặp thân phụ tôi phải không? Tôi đang đi tìm thân phụ tôi, nếu ông thấy xin chỉ giùm. Ôi chao! Ông lại biết chúng tôi là hoàng gia ư?

Nguyên trước kia, Vũ-tam-Thông làm Tổng-quản Ngự-lâm quân cho Đoàn-trí-Hưng, đến lúc Đoàn-trí-Hưng xuất gia tu hành, lấy pháp danh là Nhất-Đăng thì cả gia đình họ Vũ đều theo đầu Nhất-Đăng. Vì thế, hai con của Vũ-tam-Thông lầm tưởng mình thuộc vào hoàng gia, và cứ mỗi lần có người nhắc đến giai đoạn ẩn náu ở Vân-Nam là hai đứa bé nhớ lại cái tư cách hoàng gia của dòng họ mình.

Ông lão gật đầu nói:

- Đúng rồi! Ta còn nhớ! Thế cha mẹ em hiện giờ ở đâu? Sao em lại đi lạc một mình?

Tu-Văn nghe nói biết ông lão không gặp cha mẹ mình, nên đâm ra hoảng hốt khóc sướt mướt:

Cô bé bụm miệng cười, trêu chọc:

- Xấu! Đã lớn đầu mà còn khóc.

Tu-Văn nói:

- Ai lại không khóc! Đúng lúc phải khóc thì nín sao được.

Rồi hắn kể lại các việc xảy ra từ lúc ở Lục gia trang đến lúc bị mãnh hổ đe doạ cho ông lão và cô bé nghe.

Ông lão hỏi:

- Con có biết địch thủ mà mẹ con đang chờ đợi là ai không?

Tu-Văn nói:

- Tôi nghe nói hình như người ấy là Xích-Luyện Tiên-Tử nào đó.

Ông lão nhíu mày, lẩm bẩm:

- Thôi, đích là Lý-mạc-Thu rồi! Nguy hại thật.

Qua một phút băn khoăn, ông ta quay lại nói với hai đứa bé:

- Các con hãy ở đây với nhau cho có bạn. Lão phải đi ngay bây giờ mới được.

Cô bé nũng nịu nói:

- Xin công công cho con cùng đi với.

Tu-Văn cũng nói theo:

- Con cũng xin đi nữa.

Lão già ra vẻ trịnh trọng đáp:

- Không được đâu! Lý-mạc-Thu là con ác tặc hầu như không còn chút nhân tâm. Lão không còn chắc gì đương đầu với hắn nổi. Nhưng nay giữa tình bằng hữu, lẽ đâu nghe bạn lâm nạn mà không đến giúp. Các con nên nghe lời lão ở lại đây cho an tâm.

Nói xong, lão vung cây thiết trượng một vòng rồi dùng thuật phi hành lao mình vun vút trong rừng xanh.

ấy giờ trời đã sáng rõ, nông phu đã tấp nập ra đồng, trai gái vừa cày bừa vừa ca hát rất vui vẻ.

Lão già vừa đi vừa hỏi thăm đường, chẳng mấy chốc đã đến lục gia trang.

Tuy cặp mắt của lão đã mờ đi theo tuổi tác, nhưng tại lão tinh anh vô cùng. Lão có thể nghe được tiếng động từ hàng dặm. Do đó vừa đến cổng Lục gia trang, lão nghe ngóng một lúc và biết ngay trong trang trại đang trại đang xảy ra cuộc đấu chiến vô cùng khốc liệt.

Đối với gia đình họ Lục cũng như gia đình họ Vũ, thật ra lão chưa có gia bảo đặc biệt nào. Tuy nhiên, gặp lúc hai gia đình này đang lâm nguy vì tay Lý Mạc Thu, một tay chọc trời khuấy nước, lão chẳng nỡ ngồi yên, muốn đem tài hèn sức yếu để phó trợ những kẻ thế cô.

Lão liền tung mình nhảy vào sân trang trại. Và lão nghe rõ tiếngg khí gíơi chạm nhau ran rản trên mái ngói.

Nhìn lên mái ngói, lão thấy bốn người chia làm hai phe, một bên ba, một bên một đang quần nhau tranh thắng bại. Nhưng xem chừng như phe ba người, mặc dù đông , lại bị tay kiếm đơn độc kia tấn công tới tấp.

Nguyên do là lúc Vũ Tam Thông bồng hai đứa bé phi thân mất dạng, vợ chồng Lục Lập Đỉnh kinh ngạc, chưa biết Vũ Tam Thông có dụng ý gì, thì trái lại, Vũ tam nương tỏ vẻ hoan hỉ cười sung sướng, nói:

- Chuyết phu lâu nay vốn điên điên, dại dại, thế mà lần này hành động rất chín chắn.

Lục đại nương hỏi:

- Như thế nghĩa là sao?

Vũ tam nương không giãi bãy chỉ trả lời:

- Xin phu nhân chờ rán một tí nữa sẽ rõ.

Lúc ấy trời đã khuya, Lục Vô Song ngồi dựa vào bắp đùi của phụ thân ngủ say, còn TA cũng đang mơ màng qua giấc ngủ. Lục đại nương thấy thế đưa tay ẵm hai đứa bé về phòng.

Vũ tam nương liền nói:

- Chúng ta chỉ chờ trong giây lát nữa thôi.

Quả nhiên trong khoảng khắc, trên mái nhà có tiếng động tiếp theo có tiếng nói rõ ràng là của Vũ Tam Thông. Con người này có những hành động kỳ quặc khiến cho vợ chồng Lục Lập Đỉnh không thể nào hiểu nổi.

Vũ Tam Thông gọi lớn:

- Hãy bồng chúng ném lên đây cho tô.

Vũ tam nương liền ôm Trình Anh và Lục Vô Song ném cho Vũ Tam Thông. Vũ Tam Thông đưa tay nhẹ nhàng ôm lấy và biến mình vào trong bóng tối.

Lục Lập Đỉnh ngơ ngác, chẳng biết họ hành động với mục đích gì liền hỏi:

- Các ngươi làm gì thế?

Dứt lời chàng rút kiếm nhảy lên mái nhà, nhưng lạ thay, chỉ trong nháy mắt đã không thấy tung tích của Vũ Tam Thông và hai đứa bé đâu cả.

Lục Lập Đỉnh toan phi thân đuổi theo thì Vũ tam nương cản lại nói:

- Lục chủ chở phí công vô ích, Vũ Tam Thông đưa hai đứa trẻ đi nơi khác với hảo ý .

Lục Lập Đỉnh nghe nói bớt nghi ngờ hỏi:

- Vũ Tam Thông dụng ý thế nào?

Vũ tam nương kề tai nói nhỏ:

- Chuyết phu muốn giúp Lục chủ đưa hai cháu đi đến nơi khác tránh bàn tay hiểm độc của ác tặc.

Như chợt hiểu ra, Lục Lập Đỉnh mỉm cười nói:

- Như vậy tốt lắm! Tốt lắm!

Tuy thế, nhưng trong lòng Lục Lập Đỉnh còn in sâu thfu hận về việc Vũ Tam Thông cướp tử thi của song thân nên chưa lấy gì làm tin.

Vũ Tam Thông nói:

- Từ thưở nay Chuyết phu tính không thích con trẻ. Ngay như Vũ Đôn Nhu và Vũ Tu Văn là hai đứa con ruột mà Chuyết phu cũnng thường tỏ ra ít quyến luyến. ấy thế mà nay mới gặp hai tiểu thư, Chuyết phu lại có cảm tình nồng hậu khác thường. Ôi! Đây cũng là việc mà Chuyết phu thay đổi trạng thái tâm hồn rất có ý nghĩa.

Nói đến đây, Vũ tam nương thở ra một hơi dài rồi nín lặng.

Qua một lúc, Vũ tam nương tỏ lời khuyên vợ chồng Lục Lập Đỉnh:

- Xin Lục chủ và phu nhân hãy tạm nghỉ ngơi một lúc. Tôi biết con quái tặc này có tánh tự phụ, ít khi đánh người trong đêm tối. Có lẽ nó chờ lúc thanh thiên bạch nhất mới động thủ.

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh bây giờ không còn băn khoăn cho tánh mạng hai đứa bé thân yêu, tin tưởng rằng chúng đã được một nơi trú ẩn an toàn, nên tỏ ra gan dạ hơn trước và cương quyết xả thân đương đầu mọi hiềm khích, bất cứ do đâu gây nên. Cả hia kiếm không rời tay lăm le tiếng động là nhảy ra ứng chiến.

Ld và Lục đại nương kết hợp cùng nhau đã trên mười mấy năm trời, sống trong cảnh sống bình dị đã quen, chưa bao giờ nghĩ đến cảnh tang tóc, chia lìa. Bỗng nay gặp phải cảnh ngộ thù hằn, gia đình mang tai biến, con cháu phải thân ly, vợ chồng tánh mạng như sợi chỉ treo chuông, làm sao khỏi buồn tủi. Tuy nhiên đôi vợ chồng này vốn có dònng máu hào hiệp, quyết không vì thế mà bó tay làm tổn thương dòng giống.

Với tâm trạng ấy, đôi vợ chồng ngồi nhìn nhau thông cảm, không nói nên lời.

Ngoài xa, tiếng gà gáy văng vẳng vọng lại, Lục Lập Đỉnh nghĩ đến đàn gia súc của mình bị con ác tặc giết hại, trong nhà không có tiếng chó sủa, lòng bùi ngùi lẩm bẩm:

- Thật đúng là kẻ "khuyển bất lưu".

Trời hừng sáng ! Theo mọi bữa, vào giờ nay nơi Lục gia trang tưng bừng náo nhiệt, thế mà nay bốn bề lặng ngắt thê lương. Thật là một quang cảnh tràn đầy tử khí.

Bỗng nhiên "ầm" một tiếng! Một hòn đá rất lớn từ bên ngoài ném vào làm cho hai cánh cửa ngõ mở tung ra.

Mặc dù cánh cửa ngõ đêm vừa rồi bị kẻ lạ mặt dùng xích khoá chặt, tên nô bộc A Căn cẩn thận đóng then như thường lệ thế mà chỉ một tảng đá, cả xích sắt và then đều gãy rời ra hết.

A Căn nghe tiếng chạy đến thì thấy trước cổng đã hiện ra một đạo cô cực kỳ diễm lệ, mình khoác chiếc áo màu trắng tinh như tuyết.

Đạo cô vừa tiến vào chính là Xích luyện Tiên tử Lý Mạc Thu.

Tên A Căn trố mắt nhìn một lúc rồi cất tiếng hỏi:

- Ai đó? Muốn hỏi ai?

Bây giờ Lục Lập Đỉnh cũng vừa chạy đến, thấy đạo cô thất kinh gọi A Căn bảo:

- A Căn, hãy lui vào trong cho mau.

Nhưng đã trễ, Lý Mạc Thu nhanh tay đưa chiếc phất trần đánh nhẹ vào đầu A Căn một cái khiến tên nô bộc trung thành này nằm lăn ra chết tươi như đàn gia súc vừa rồi.

Lục Lập Đỉnh hầm hầm nét mặt múa kiếm lướt tới. Lý Mạc Thu vẫn điềm nhiên như không để ý. Nàng lấy phất trền gõ nhẹ vào đầu hai con tỳ nữ đang quýet sân, thấy nàng trố mắt nhìn.

Hai đứa tỳ nữ nằm lăn chết giãy.

Xong. Lý Mạc Thu mới quay lại hỏi Lục Lập Đỉnh:

- Còn hai đứa bé đâu ?

Lục Lập Đỉnh chưa kịp đáp thì đằng sau chàng Lục đại nương và Vũ tam nương đã kịp thời xông ra tiếp ứng.

Thấy vẻ mặt lạnh lùng, đanh ác của Lý Mạc Thu, mọi người căm tức thấu đến ruột gan.

Lý Mạc Thu nhìn Vũ tam nương cười mỉm:

- Có người ngoại cuộc muốn tham dự. ở đây không đủ chổ để nghênh chiến, vậy mời quý vị lên đây.

Dứt lời, Lý Mạc Thu tung chiếc phất trần nhảy gọn lên mái nhà.

Hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh và Vũ tam nương không ngận ngại tung chân nhảy theo. Lý Mạc Thu ngạo nghễ không cần dùng đến cặp song kiếm, chỉ dùng chiếc phất trần chống đỡ với ba người mà sắc mặt luôn tươi cười hơn hở như đang dự một trò giải trí.

Ngược lại, ba đối thủ của nàng thay nhau tấn công tới tập, phí bao nhiêu sức lực mà vẫn không lay chuyển được mảy may sắc diện ngoạn lộng củ nàng.

Bỗng nhiên, Lý Mạc Thu quay ngược chiếc phất trần lại, cả ba đối thủ đều bị mất hung khí. Nàng cười khanh khách nhưng chưa vội hạ thủ. Nàng bắt đầu một trò chơi mới. Nàng cầm chiếc phất trần lăm le dí vào đầu từng địch thủ. Trong lúc đó, mỗi địch thủ phải mệt nhọc tránh né một cách hãi hùng.

Trò chơi mèo vờn chuột này tiếp diễn một hồi lâu khiến cả ba địch thủ đều mệt sức và buộc phải tự thú sự bất lực của mình bằng lời nguyền rủa.

- Tặc nữ, mày cứ giết ta đi còn đợi chừng nào nữa !

Nhưng, sự bỡn cợt của Lý Mạc Thu chưa thoả. Nàng vẫn với chiếc phất trần chơi cáu trò chơi ngạo nghễ đó.

Bỗng nhiên phía dưới có tiếng động khác thường. Lý Mạc Thu lắng tai nghe rồi bỏ ba người bại trận nhún mình nhảy xuống sân. Quả nhiên, nàng thấy một ông lão tay cầm thiết trượng xông đến.

Lý Mạc Thu mỉm một nụ cười kiêu hãnh rồi tung mình nhảy phóc về phía ông già.

Chân nàng chưa chấm đất nàng đã vung chiếc phất trần giáng cuống một đòn rất hiểm độc.

Với thế đánh này, Lý Mạc Thu thường dùnng trong lúc khẩn cấp mà ít kẻ tránh khỏi.

Lão giã tuy mắt loá nhưng nghe hơi gió biết ngay gặp phải địch thủ ác hiểm liền vung thiết trượng nặng ngàn cân về phía đối thủ.

Không thủ được bằng thế độc, Lý Mạc Thu biết mình gặp phải tay cự phách, liền xoay ngược chiếc phất trần hét lớn:

- Rơi ! Rơi!

Hai sức mạnh gặp nhau ! ông lão ra sức giữ cây thiết trượng không để văng khỏi tay mình, và cảm thấy không đủ sức giữ vững, bèn nhún người nhảy lên không mới tránh được ngón võ độc hiểm của Lý Mạc Thu.

Lão già lẩm bẩm:

- Con quái tặc này quả nhiên lợi hại! Tiếng đồn trong giới giang hồ quả thực chẳng sai.

Lý Mạc Thu lại tung chiếc phất trần lần nữa. Lần này nàng lại hét:

- Văng !Văng !

Nhưng, cây thiết trượng vẫn được ông lão bảo vệ chắc chắn không để rời khỏi tay.

Lý-mạc-Thu kinh ngạc, bụng bảo dạ:

- Ta đã từng dấn thân khắp giang hồ chưa thấy mấy người tránh được ngón đòn này! Chẳng biết lão là ai mà tài nghệ dường ấy.

Nàng co mình lại, nhảy lui mấy bước, trừng trừng nhìn kỹ vào mặt, thấy cặp mắt ông lão bị loà, nàng la lớn:

- A! có phải người là Kha-trấn-ác chăng?

Đúng vậy!. Ông lão nầy chính là Kha-trấn-ác, một trong bảy tay quái hiệp nơi đất Giang-nam.

Nguyên vì sau kỳ luận kiếm ở Hoa-sơn, đôi hiệp khách Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung được kết làm vợ chồng. Thân phụ của Hoàng-Dung là Hoàng-dược-Sư cùng con rẽ tìm đến đảo, Đào-hoa để ẩn trú.

Nhưng chẳng bao lâu, Hoàng-dược-Sư lại bỏ đảo ra đi, để lại một bức thư căn dặn con rể chớ nên tìm kiếm vô ích.

Bởi vì, Hoàng-dược-Sư tuy tuổi già sức yếu vẫn chưa quên được tiếng gọi hải hồ.

Hoàng-Dung biết rõ tánh tình của cha, mặc dầu tha thiết nhớ nhung vẫn đành chịu biết sao hơn.

Cách mấy tháng. Hoàng-dược-Sư lại nhắn tin về một lần. Rồi từ đó về sau vẫn biệt vô âm tín, không rõ chết sống nơi nào.

Hoàng-Dung quá nhớ cha nên cùng Quách-Tỉnh dân bước khắp nơi để dò la tin tức. Nhưng qua mấy tháng trời vẫn biền biệt tăm hơi. Hai vợ chồng Hoàng-Dung lại phải trở về đảo Đào-hoả để kịp ngày khai huê nở nhuỵ.

Hoàng-Dung tuy là thân gái đào tơ, nhưng vốn dòng hiệp khách niên lấy làm khó chịu khi phải bó mình trong đảo để chờ ngày tháng sinh thai.

Hoàn cảnh ấy đã làm cho Hoàng-Dung bực dọc, trở nên cau có luôn luôn, kiếm chuyện gây gổ với Quách-Tỉnh, chồng nàng.

Quách-Tỉnh vốn tánh chất phác, thuần hậu, thấy thế thương tình, đem lòng nể nang, đón nhận những cái đay nghiến vô nghĩa của Hoàng-Dung.

Chẳng bao lâu Hoàng-Dung sanh đặng một gái, đặt tên là Quách-Phù.

Trong thời gian thai nghén, Hoàng-Dung hay phiền muộn, gắt gỏng. Tính tình đó không khỏi ảnh hưởng đến Quách-Phù. Do đó, chưa đầy một tuổi, Quách-Phù trở nên ngang ngạnh.

Quách-Tỉnh nhiều lúc thấy con như vậy đem lòng bực dọc, dạy, răn. Nhưng Hoàng-Dung lại bênh, khiến cho Quách-Phú càng lớn tuổi thì tánh ngang ngạnh cũng lớn theo, không thể sửa chữa được nữa.

Lúc Quách-Phú lên ba tuổi, được mẹ cô ta dạy về võ nghệ. Từ đó, trên đảo Đào-hoa, bất cứ một côn trùng, chim chóc, thú vật nào, hễ Quách-Phú trông thấy là đâm chém, giết hại, chặt đầu banh lông.

Thú vật trên đảo lần lần tìm nơi khác ẩn thân hết.

Quách-Tỉnh rất buồn phiền về tánh nết của con, nhưng lại nể vợ, không dám rầy la.

Bỗng một ngày kia có khách đến viếng thăm đảo. Khách đó là Kha-trấn-ác, sư phụ của Quách-Tỉnh.

Kha-trấn-ác những tưởng rằng sau bao năm giang hồ trôi nổi, có thể trở về một nơi tĩnh mịch vui thú điền viên. Nào ngờ, máu hào hiệp không cho phép ông ta như thế. Ông ta vẫn phải phiêu lưu đây đó.

Sau khi viếng thăm sáu người bạn xưa kia đã cùng lão nổi tiếng là thất-quái ở đất Giang-Nam, lão lại chạnh lòng nhớ đến người môn đệ là Quách-Tỉnh, lão liền lên đường tìm đến thăm.

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung gặp lại được sư phụ lấy làm mừng rỡ, lưu lại ở đảo, và khẩn khoản yêu cầu lão từ bỏ chương trình phiêu lưu để thầy trò an sống.

Kha-trấn-ác nhận lời. Thế là hàng ngày lão cùng Quách-Phù dạo chơi phong cảnh. Chẳng bao lâu, đôi bạn một già một trẻ trở nên thắm thiết, luôn luôn quấn quít nhau. Kha-trấn-ác lấy cô bé Quách-Phù làm nguồn tiêu khiển, Quách-Phù lấy Kha-trấn-ác làm kẻ nuông chiều, để nũng nịu và đòi hỏi những thoả mãn của trẻ con.

Ngày kia, Hoàng-Dung lại nhớ cha, bên cùng Quách-Tỉnh rời đảo đi tìm. Lúc ra đi, đôi vợ chồng ký thác Quách-Phù cho sự phụ.

Quách-Phù tuổi chưa bao nhiêu, tánh tình vốn ngang ngạnh, trên chẳng sợ trời, dưới chẳng sợ đất, chỉ chờ lúc vắng mặt mẹ cha là lập tức nằng nặc đòi Kha-trấn-ác dắt nó đi tìm ông ngoại là Hoàng-dược-Sư.

Nhiều lúc Kha-trấn-ác, nói với Quách-Phù:

- Con còn bé, không nên đi xa! Huống hồ đi tìm ông ngoại là việc khó khăn con không làm nổi.

Tuy nhiên, cô bé vẫn không từ bỏ ý định kỳ quặc đó.

Một hôm, Quách-Phù phóng mình lội xuống nước, bơi ra xa rồi gọi Kha-trấn-ác nói:

- Được rồi! Nếu công công không dắt cháu đi tìm ông ngoại thì cháu đi một mình. Cháu bơi ra giữa biển đây nầy!

Kha-trấn-ác xem thấy hoảng hốt. Ông lão không biết lội, lại thấy gió to sóng cả sợ con bé chết chìm, nói vội:

- Hãy lội vào đây! Đảo nầy cách đất liền có hơn ngàn dặm làm thế nào lội cho được.

Con bé thấy Kha-trấn-ác sợ hãi càng làm già:

- Chẳng thà chết chìm, còn hơn suốt đời bị giam hãm trên hải đảo nầy.

Dứt lời, hắn lại hụp mặt xuống nước hai tay chới với.

Lão già chẳng biết làm sao hơn, đành chịu thua la lớn:

- Thôi cháu hãy lôi vào bờ đi rồi chúng ta cùng bàn chuyện vượt hải đảo.

Quách-Phù vẫn một mực khư khư nói:

- Không, không! Ông bằng lòng hứa dẫn cháu đi tìm ông ngoại thì cháu mới chịu vào.

Kha-trấn-ác nói:

- Được, được! Ông bằng lòng dẫn cháu đi.

Quách-Phù nói:

- Quân tử nhất ngôn! Ông phải giữ lời đấy nhé.

Kha-trấn-ác không do dự, nói:

- Khoái mã nhất tiên.

Đó là câu thề độc mà các giới giang hồ quen dùng trên đất Giang-nam này. Lời nói ấy xem như danh dự của những ai có máu hào hiệp.

Quách-Phù cười khoái trá lội lên bờ, trong lúc đó Kha-trấn-ác ra dáng lo lắng và suy nghĩ đủ điều.

Chẳng bao lâu, cả hai sửa soạn hành trang đem theo một đôi chim ưng, dùng thuyền tiến về phía Tây.

Và ngay ngày hôm đó, hai người đến phủ Hồ-Châu, xin vào tá túc tại nhà một nông phu.

Trong lúc Kha-trấn-ác còn mệt mỏi vì cuộc hành trình nên ngủ say chưa dậy thì Quách-Phù đã ra ngoài ngao du, dẫn theo đôi chim ưng lểnh mểnh giữa làn sương xám.

Chợt thấy Vũ-tu-Văn lâm nạn, Quách-Phù liền ra tay xua đôi chim ưng cứu Tu-Văn khỏi nanh vút mãnh hổ như đã thuật ở đoạn trên.

Đây, chúng ta trở lại cuộc so tài hào hứng giữa Lý-mạc-Thu và Kha-trấn-ác.

Đôi bên say sưa giao chiến. Mặc dù Kha-trấn-ác vận dụng hết các môn bí quyết mà cũng không làm sao thắng nổi Lý-mạc-Thu.

Biết vậy, Kha-trấn-ác lui dần về phía ngoài cổng che kín mặt sau để thủ thế.

Lý-mạc-Thu vừa tấn công vừa suy nghĩ:

- Lão già nầy quả là một tay lợi hại trong thất kiệt Giang Nam. Mắt lão mù loà mà vẫn có thể cầm cự với ta trên mười hiệp. Như vậy danh bất hư truyền.

Bỗng Lý-mạc-thu nghe đàng sau có tiếng động.

Hai vợ chồng Lục-lập-Đỉnh và Vũ-tam-nương vừa chạy đến tiếp tay với Kha-trấn-ác.

Lý-mạc-Thu tự nghĩ:

- Trường hợp nầy ta có nên ra tay hạ sát Kha công chăng?

ý nghĩ của Lý-mạc-Thu không phải quá tự phụ.

Thực vậy, tài nghệ của Kha-trấn-ác tuy quán thông trong giới giang hồ, xứng đáng là một trong thất quái Giang-nam. Tuy nhiên so với tài nghệ nàng thì chưa thấm vào đâu. Nàng muốn đánh hạ Kha-trấn-ác lúc nào cũng được. Có điều nàng phân vân là nàng biết Kha-trấn-ác, sư phụ của đôi vợ chồng Quách-Tỉnh. Giết Kha-trấn-ác tức là gây vào đôi vợ chồng nầy một mối thù, mà tài nghệ của vợ chồng họ Quách, Lý mạc Thu không thể khinh thị.

Sở dĩ thế mà Lý-mạc-Thu vừa đánh vừa đắn đo suy nghĩ.

Nhưng rồi cuối cùng nàng cũng phải quyết định, nhất là khi cả ba đối thủ bại trận lại xông vào trợ lực với Kha công.

Lý-mạc-Thu quyết định tha chết cho Kha-trấn-ác để tránh hậu hoạ.

Nàng đảo lộn chiếc phất trần, đánh vào bụng Kha-trấn-ác, nhẹ nhàng như phất một cành hoa. Kha-trấn-ác không ngờ cái phất nhẹ nhàng như thế mà lại có sức mạnh vạn năng. Chiếc thiết trượng của lão vừa đưa ra đỡ liền bị rơi xuống đất. Lão nhanh chân lùi bước để tránh ngọn độc thủ của đối phương sắp tiếp diễn.

Nhưng Lý-mạc-Thu không tiến về phía Kha-trấn-ác mà lại đảo ngược chiếc phất trần tập kích Vũ-tam-nương.

Bị đánh bất ngờ, Vũ-tam-nương hét lên một tiếng kinh hoàng. Nàng liều mình xông tới một mặt tránh ngọn phất trần, một mặt tung kiếm chém ngang hông Lý-mạc-Thu.

Lý-mạc-Thu không đỡ, nép mình tránh lẹ làng và uyển chuyển như một cành sen uốn cong trước gió.

Chờ đến khi gió đã thoảng qua, cành hoa ấy trở mình dậy quất chiếc phất trần trở ngược lại Lục-đại-nương.

Tội nghiệp cho Lục-đại-nương với miếng võ ấy, nàng không tài nào đỡ nổi, bị chiếc phất trần đập trúng ngã chúi xuống đất.

Thấy vợ mình bị hại. Lục-lập-Đỉnh nổi giận, chẳng còn e dè trước tài nghệ quái ác của đối thủ nữa, chàng xông vào dùng dao chém túi bụi, và trổ hết những đường bí quyết trước ngọn dao thần tốc.

Lý-mạc-Thu mỉm cười, tiến sát vào người Lục-lập-Đỉnh, khiến cho những đường dao bí quyết của Lục-lập-Đỉnh trở nên vô dụng. Chàng tức mình hét lên một tiếng, buông dao, hai tay ôm Lý-mạc-Thu vào lòng.

Thế là tình cờ, tấm thân kiều diễm kia lại nằm gọn vào hai cánh tay của Lục-lập-Đỉnh, chàng trai trẻ đẹp ấy.

Chẳng biết trong tình thế nguy ngập Lục-lập-Đỉnh có cảm giác gì khi ôm được mỹ nhân kế sát vào ngực. Riêng Lý-mạc-Thu, từ ngày bị tình phụ, bao nhiêu nữ tính của nàng đã bị tiêu tan đi mất, nàng chỉ là một thiếu phụ trong bẽ bàng.

Tuy nhiên, khi nhìn tận mắt Lục-lập-Đỉnh, Lý-mạc-Thu lại có cảm giác như nhìn lại khuôn mặt của người yêu mười năm về trước. Cũng cái khuôn mặt vuông vuông ấy, cũng với vừng trán cao rộng ấy, cũng với đôi mắt thông minh và tình tự ấy. Chừng ấy hình ảnh lẽ ra làm tiêu tan mối căm hờn ghen tức trong lòng cô gái bị phụ tình.

Nhưng không, nếu Lục-lập-Đỉnh nhận xét kỹ càng hẳn thấy sắc mặt của Lý-mạc-Thu thay đổi qua nhiều sắc thái kỳ dị. Nàng siết chặt đôi hàm răng, dồn tất cả mọi căm hờn, độc ác vào đôi mắt nhìn Lục-lập-Đỉnh, hét:

- Đồ bạc tình! Đồ bội nghĩa!

Rồi nàng vung chiếc phất trần đánh vào Lục-lập-Đỉnh không hề có chút thương tâm.

Tội nghiệp cho Lục-lập-Đỉnh vô oán, vô thù mà phải chịu gánh trả một đòn căm hờn về tình duyên từ kiếp trước.

Vợ chồng họ Lục, chỉ phút chốc đã bị Lý-mạc-Thu đánh ngã Kha-trấn-ác và Vũ-tam-nương mặc dù còn sung sức cũng không thể giải cứu kịp những ngón đòn trong loáng mắt ấy.

Lý-mạc-Thu lại ngạo nghễ hỏi:

- Còn hai đứa bé nữa đâu?

Hỏi đến hai đứa bé, Lý-mạc-Thu muốn nói đến Trình Anh và Lục-vô-Song.

Rồi không đợi cho Vũ-tam-nương kịp mở miệng, nàng phóng mình lục soát khắp mọi nơi trong trang trại.

Nhưng không tìm đâu ra tung tích hai đứa bé, Lý-mạc-Thu phóng hoả đốt hết trang viên, lửa khói bốc cháy um tùm.

Đoạn, nàng quay ra nói với Vũ-tam-nương và Kha-trấn-ác:

- Ta vốn cùng Nhất-Đăng Đại-sư và Đào-hoa đảo không thù oán gì. Vậy xin từ biệt các ngươi.

Dứt lời, nàng toan phi thân. Nhưng Vũ-tam-nương và Kha-trấn-ác là hai kẻ nghĩa hiệp, đã từng tung hoành khắp giang hồ không thể mặc nhiên đứng nhìn cử chỉ hiên ngang của Lý-mạc-Thu, liền cùng nhau kẻ thiết trượng, người kiếm đòn Lý-mạc-Thu lại đánh.

Lý-mạc-Thu buộc lòng phải đưa phất trần ra đỡ, và đánh lại.

Một cái vút nhanh, đã làm cho thanh kiếm của Vũ-tam-nương rơi xuống đất gãy làm đôi.

Hồi 4 : Những vị anh hùng trên đảo Đào-Hoa

Vũ-tam-nương bị rơi kiếm vội cúi sát xuống đất để tránh. Mảnh kiếm gãy bắn tung rớt lên mái tóc của nàng làm cho nàng hốt hoảng hét lên. Kha-trấn-ác nghe tiếng biết việc chẳng lành liền vung thiết trượng chống đỡ. Chuôi gươm gãy của Vũ tam nương ngay lúc ấy văng về phía Kha-trấn-ác kịp lúc lão đưa thiết trượng ra, hai vũ khí chạm nhau nẩy lửa xẹt ra một vệt sáng loè.

Lý-mạc-Thu lại suy nghĩ:

- Nếu ta mặc nhiên tha chết cho Kha công mà không cho biết ý định của ta e lão hiểu lầm tài nghệ của ta chăng. Chi bằng ta cho lão một phen khiếp vía là hơn.

Nghĩ thế, nàng tung chiếc phất trần quanh mặt Kha-trấn-ác và trở lại trò chơi mèo giỡn chuột lúc ban nãy. Thỉnh thoảng nàng dùng phất trần phẩy nhẹ trúng thiết trượng buộc Kha-trấn-ác phải huy động cả sức lực để giữ cho thiết trượng khỏi rơi.

Cứ mỗi lần phất trần chạm vào thiết trượng là mỗi lần toàn thân Kha-trấn-ác phải dụng vận hết toàn lực. Nhưng ác thay, hết đòn nầy đến đòn khác, khiến cho ông lão qua một lúc không còn hơi sức nào để chống đỡ nữa. Còn Lý-mạc-Thu như đùa giỡn vẻ mặt tươi như đoá hoa trong nắng sớm.

Cuối cùng, Kha-trấn-ác không còn đủ sức để cống hiến cho cái trò chơi quái quắc của Lý-mạc-Thu, lão buông thiết trượng đứng ưỡn ngực, hét lớn:

- ác tặc! Đây nầy! Mi hạ sát ta đi! Đồ khốn kiếp.

Lý-mạc-Thu cười lớn, đưa chiếc phất trần giả vờ đâm vào cái bụng nhăn nheo của lão. Chiếc phất trần còn cách bụng lão độ vài phân nàng dừng tay lại, rồi vừa cười vừa nói:

- Ta đâu muốn hại tánh mạng lão. Ta đã nói lão là người ngoại cuộc, ta không có thù oán kia mà!

Nàng vừa dứt lời, bỗng đằng sau có tiếng động. Nàng quay lại thì thấy Vũ tam nương mặt hầm hầm xông vào cứu mạng Kha-trấn-ác.

Nhanh như chớp Lý-mạc-Thu nhảy phóc người lên không trung rồi thuận tay đánh vào gò má của Vũ-tam-nương.

Ngón chưởng này nàng thường tung ra trong cơn giận! Nó đột ngột và nặng nề quá sức làm cho Vũ-tam-nương mất thăng bằng ngã lăn xuống đất.

Đánh xong đòn Xích luyện thần chưởng. Lý-mạc-Thu hét lên:

- Tặc nữ! Ta đã bảo ngươi không phải là kẻ liên can, ta đã tha chết sao còn liều lĩnh.

Dứt lời, nàng phi thân biến mất.

Bị trúng phải thần chưởng. Vũ tam nương nằm bất tỉnh. Còn Kha-trấn-ác lúc đó vẫn còn có cảm giác như có phiến đá ngàn cân đè nặng trên bụng. Lão thở khò khè toàn thân mệt mỏi.

Qua một lúc, Vũ tam nương lần lần hồi tỉnh, nghe tiếng răn rắt bên tay, mở mắt nhìn thấy ngọn lửa tàn phá gia trang đã lần hồi cháy về phía mình. Nàng thất kinh gượng dậy đỡ Kha-trấn-ác tránh ra xa để khỏi nguy hiểm.

Bấy giờ lão già cơn mệt cũng vừa lắng dịu, nghĩ đến vợ chồng Lục-lập-Đỉnh liền cùng với Vũ tam nương đến nơi. Nhìn hai cái xác nằm sóng sượt, Vũ tam nương cũng như Kha-trấn-ác không khỏi bùi ngùi thương xót.

Vợ chồng Lục-lập-Đỉnh chưa chết. Họ vẫn còn trong thoi thóp nhưng không thể nào sống được lâu.

Kha-trấn-ác và Vũ tam nương đều ở trong tình trạng khó xử.

"Để họ lại ư?"

Đã là hiệp sĩ ai lại có thể nhẫn tâm trước những sinh mệnh đang hấp hối!

Nhưng mang họ theo thì sau một cơn kiệt lực, cả hai đều chưa đủ sức cứu lấy mình còn mong gì cứu lấy người khác.

Trong lúc lương tâm hai người đang giày vò phân vân trước sinh mạng vợ chồng Lục-lập-Đỉnh thì đằng xa có tiếng gọi:

- Nương tử! Nương tử có hề gì không?

Đúng là tiếng kêu của Vũ-tam-Thông. Vũ tam nương mừng rỡ vô cùng. Càng mừng hơn nữa khi nàng nghĩ rằng chắc Vũ tam Thông không còn điên khùng như trước nữa nên mơí biết mà đến trong lúc nguy nan.

Vũ-tam-Thông áo quần tả tơi, hướng về phía lửa cháy, miệng la:

- Nương tử ơi! Nương tử có hề gì không?

Vũ-tam-nương cảm động, chạy ra ôm choàng lấy chồng, kéo về phía vợ chồng họ Lục đang nằm thoi thóp.

Vũ-tam-Thông không nói rằng gì cả, với tay kẹp mỗi người vào nách rồi cắm đầu chạy.

Kha-trấn-ác tuy chưa được giới thiệu cùng đôi vợ chồng họ Vũ, song nhận biết họ là kẻ hào hiệp nên lặng lẽ phi thân theo sau.

Chẳng mấy chốc, Vũ-tam-Thông đã dẫn mọi người lâm nạn ấy đến một sơn động.

Thật ra, phủ Hồ-Châu vốn ít núi non, toàn là đồng bằng phì nhiêu, nên nơi nào có ngọn đồi cao, có một số hang hố thì ở đấy dân cư gọi là sơn động.

Vừa bước vào sơn động, Vũ-tam-nương đã thấy ngay Vũ-đôn-Nhu, Vũ-tu-Văn, Trình-Anh, Lục-vô-Song đều có mặt nơi đó. Chúng đều được bình an vô sự và đang chơi đùa với nhau. Ngoài ra còn một đứa bé gái ra vẻ con nhà trâm anh quyền thế, trạc tuổi Trình-Anh và Lục-vô-Song sắc diện hiện ngang. Trông cái nhìn của đứa bé gái ấy, người ta cảm thấy có một sự cách biệt về tính tình, khó hoà mình với các em bé kia được. Em bé đó chính là Quách-Phù, ái nữ của Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung.

Quách-Phù thấy Kha-trấn-ác bước vào, liền nói:

- Công công ơi! Chẳng biết vì sao đôi chim ưng bay mất tích.

Cháu gọi thế nào nó cũng không về.

Trình-Anh và Lục-vô-Song ôm chầm lấy thi xác của của vợ chồng Lục-lập-Đỉnh vừa khóc vừa than.

Bỗng Kha-trấn-ác buột miệng hét:

- Không xong rồi! Chúng ta đã vô tình chỉ đường cho con quỉ cái đó đến tìm mồi.

Vũ-tam-nương nghe nói thất sắc nhưng chưa hiểu ra sao.

Kha-trấn-ác giải thích:

- Con ác tặc đó đã thanh toán Lục gia trung chỉ còn hai đứa bé nầy nữa. Nhưng nó chưa biết hai đứa bé nơi nào thì...

Vũ-tam-nương chợt hiểu ra nói tiếp:

- à! Đúng rồi! Quái thật! hắn dụng ý tha mạng chúng ta để lò la tông tích hai đứa bé.

Vũ-tam-Thông hầm hầm nét mặt, la lớn:

- A! Con ác tặc nầy xem ra lợi hại quá! Ta phải cùng nó một còn một mất mới được.

Dứt lời, lão nhảy phóc ra cửa đứng án ngự như giữ thế và chờ đợi.

Lục-lập-Đỉnh tuy xương đầu đã bị nát vụn nhưng trong lòng còn ấp ủ đôi việc chưa được nói ra, nên dãy dụa kéo dài thì giờ lâm chung qua một lúc, chàng dốc hết tàn lực, mở to đôi mắt quay về phía Trình-Anh trối:

- Châu Anh! cháu hãy đỡ cậu dậy! Nơi bụng cậu có một vuông lụa bạch, cháu... hãy lấy ra...

Tiếng nói mệt nhọc nhỏ dần. Trình-Anh cúi sát dần xuống để nghe cho rõ nhưng chỉ còn nghe được mấy tiếng thì thào.

Trình-Anh vâng lời vén bụng Lục-lập-Đỉnh lên rút ra vuông lụa bạch, trên vuông lụa có thêu đoá hoa hồng.

Đoá hoa hồng nầy thật là kỳ dị. Nhìn qua thì cực kỳ diễm lệ, nhưng nhìn kỹ thì cực kỳ hiểm hóc. Ai nhìn lâu cũng phải rỡn óc.

Lục-lập-Đỉnh nghĩ một lúc rồi cố nói tiếp:

- Cháu Trình-Anh! Cháu hãy buộc vuông lụa nầy vào cổ, và không được giây phút nào cởi bỏ ra! Cháu nghe rõ chưa?

Trình-Anh tuy nhận ra được câu nói nhưng không hiểu ý nghĩa ra làm sao liền cúi xuống gần, nhưng Lục-lập-Đỉnh chỉ còn mở to đôi mắt có ý dặn dò, không nói nữa.

Là lời di chúc, Trình-Anh không muốn để phiền lòng người chết, vội gật đầu.

Giữa lúc đó, Lục-đại-nương đang mê man bất tỉnh, thoạt nghe lời trối của chồng, nàng bừng tỉnh lại, và nói:

- Vì sao chẳng truyền lại cho Vô-Song lại truyền cho Trình-Anh?

Lục-lập-Đỉnh cố nói lời sau cùng:

- Không! Ta không thể phụ lời ký thác của cha mẹ Trình-Anh.

Lục-đại-nương nói tiếp:

- Ông thật lòng dạ sắt đá! Con đẻ không thương lại thương cháu.

Dứt lời, đôi mắt Lục-đại-nương trắng chợt theo khuôn mặt.

Lục-vô-Song nãy giờ khóc than không để ý những lời đối đáp của cha mẹ nó.

Lục-lập-Đỉnh như chưa hết nỗi nuối tiếc, ngẩng đầu nhìn vợ nói:

- Nếu phu nhân thương con thì hãy để cho nó cùng theo chúng ta về suối vàng là hơn.

Nguyên cái vuông lụa có thêu đoá hoa hồng là vật kỷ niệm đầu tiên của Lý-mạc-Thu thân tặng cho Lục-triển-Nguyên để thắt chặt mối thâm tình. Khi lâm chung, Lục-triển-Nguyên đoán biết hai mối tình ngang trái của mình và vợ sẽ đưa đến hai mối thù oan nghiệt, không thể không đi họa đến con cháu về sau.

Do đó, lúc lâm chung Lục-triển-Nguyên trao vuông lụa cho Lục-lập-Đỉnh và dặn: "Mối thù của Vũ-tam-Thông nếu hắn tìm đến thì con liệu tránh được thì tránh bằng không thì đương đầu đấu chiến. Với Vũ-tam-Thông bắn không đến nỗi làm cho con thiệt mạng. Còn đối với Lý-mạc-Thu, một tay võ nghệ cao cường lại có lòng hiểm độc, nếu hắn tìm đến thì cách đối phó duy nhất để bảo tồn sinh mệnh là tròng vuông lụa này vào cổ hắn. Hắn sẽ nhớ lại mối tình đầu mà không đủ can đảm để tàn nhẫn nữa.

Tuy nhiên, Lục-lập-Đỉnh vốn con người tự phụ, cho đến phút lâm chung, cũng không sử dụng vuông lụa theo lời trăng trối của người cha, dù là để cứu mạng.

Trình-Anh là cháu ruột của Lục-lập-Đỉnh. Cha mẹ Trình-Anh, từ lúc nhỏ đã ký thác con cho Lục-lập-Đỉnh nuôi dạy. Thường ngày Lục-lập-Đỉnh cũng tỏ ra nghiêm khắc với Trình-Anh, nhưng đến lúc lâm chung Lục-đại-nương không ngờ chồng mình có thâm tình với cháu như thế.

Riêng Trình-Anh, cô ta hiểu nỗi bất bình chính đáng của Lục-đại-nương nên cầm vuông lụa đưa cho Lục-vô-Song và nói:

- Em hãy giữ lấy của này cho vui lòng mợ.

Lục-lập-Đỉnh nghe lời nói ấy mở vội đôi mắt, với vẻ nghiêm nghị, nói:

- Vô-Song! Con không được giữ vuông lụa nầy.

Vũ-tam-nương thấy việc éo le gay cấn, đề nghị:

- Chúng ta hãy xé vuông lụa làm đôi, cấp cho mỗi đứa một nửa. Như thế mới ổn thoả. Xin gia chủ vui lòng theo giải pháp đó.

Lục-lập-Đỉnh muốn trả lời song không còn đủ sức nữa. Tiếng nói ngập ngừng rồi nghẹn trong cổ họng. Cuối cùng Lục-lập-Đỉnh gật đầu.

Vũ-tam-nương liền lấy vuông lụa xé toạc ra làm hai mảnh đưa cho hai em bé mỗi em một nửa.

Bấy giờ Vũ-tam-Thông đang án ngự ngoài cửa động, nghe tiếng khóc chợt quay vào thấy trên hai gò má vợ một bên có một vết trắng như bạc, một bên có một vết đen như lọ, chẳng biết duyên cớ vì đâu, ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao lại thế nầy?

Vũ-tam-nương nghe hỏi nhớ lại độc chưởng của Xích-Luyện Tiên tử, bèn lấy tay xoa lên hai gò má thì bấy giờ hai gò má đã tê cóng.

Nàng hốt hoảng, than:

- Chết rồi! Thiếp đã bị nhiễm độc của Xích-Luyện thần chưởng:

Bỗng ngoài cửa động có tiếng cười sằng sặc, hỏi vọng vào:

Có hai đứa bé trong đó chăng? Bất luận sống hay chết hãy mau đem ra giao lại cho ta.

Tiếng cười và tiếng nói trong như chuông ngân.

Vũ-tam-Thông xoay người trở lại.

Quả nhiên, Lý-mạc-Thu đứng đấy tự bao giờ với dáng điệu vô cùng ngạo nghễ.

Vũ-tam-Thông nhìn Lý-mạc-Thu ngạc nhiên: Bốn mươi năm trời, từ khi gặp nhau lần chót, người thiếu phụ này cũng vẫn giữ nguyên nhan sắc, cũng vẫn yêu kiều diễm lệ như xưa. Vũ-tam-Thông có cảm giác như con đạo cô này thách đố cả thời gian để mãi mãi tồn tại gieo hoạ vào bao nhiêu thế hệ về sau.

Nhìn thấy Lý-mạc-Thu cầm chiếc phất trần phe phẩy nơi tay Vũ-tam-Thông hiểu rõ mối nguy cơ đang chờ đợi mọi người, nhưng trong tay lão không có vũ khí.

Bởi vì, vào động tức là thả cho con ác tặc theo vào, còn chống cự biết dùng vật gì ngăn cản.

Chỉ loáng mắt, Vũ-tam-Thông nhanh trí nhảy đến một cây cổ thụ cạnh cửa động, ôm chầm gốc cây hô lớn:

- Lên.

Gốc cổ thụ bật lên tận gốc rễ cành lá rườm rà. Vũ-tam-Thông cầm múa tròn, tiến sát vào người Lý-mạc-Thu mục đích vây Lý-mạc-Thu vào giữa tàng cây rườm rà để mọi người có đủ thì giờ trốn thoát.

Lý-mạc-Thu hiểu ý, lùi mấy bước, vừa cười vừa nói:

- Vũ công còn mạnh đấy chứ!

Vũ-tam-Thông dừng tay, trả lời:

- Đã bốn mươi năm trời chẳng gặp nhau, nay tôi trông Lý cô nương vẫn còn đẹp lắm.

"Lý cô nương" là một lối gọi mà cách bốn mươi năm về trước không một chàng trai hảo hớn nào không tìm dịp để được gọi nàng như thế. Nhưng từ khi mối hận tình đã khiến Lý-mạc-Thu trở thành một đạo cô độc ác thì lối gọi Lý cô nương cũng cùng với thời gian bị chôn lấp. Vả lại, ngày nay cũng chẳng còn gì dám gọi Lý mạc Thu với tiếng gọi êm đềm như thế.

Mặc dù Lý mạc Thu con tim đã bị giá lạnh, giá lạnh đến chua chát, bẽ bàng trong dĩ vãng, nhưng không thể không chạnh lòng khi nghe có người còn nhắc đến tên Lý cô nương.

Thật vậy! Đã biết bao nhiêu chàng trai phong lưu đua tài tranh nhau gọi "Lý cô nương".

"Lý cô nương", "Lý cô nương" một âm thanh dung hoà trong cuộc sống đào hoa, hay tiếng kêu hối hận của một kẻ vong tình đang bị lương tâm cắn xé?

Nhưng nhắc đến ba tiếng "Lý cô nương" Lý mạc Thu lại cảm thấy sống dậy trong lòng mình ba tiếng "Hà nguyên Quân" ba tiếng tình địch trong đời nàng.

Cảm giác như thế, sắc mặt Lý mạc Thu bỗng cay cú chẳng khác gì đoá hoa hồng trên khuôn lụa bạch.

Vũ tam Thông cùng với Lý mạc Thu đều là những kẻ không may trên tình trường thì tâm tánh có khó gì mà không thông cảm.

Cũng như cách đây mười năm sau khi thất tình, một ngày nọ Vũ tam Thông gặp một đoàn phiên xa gồm có mười người của Hà thị phiêu cục. Chẳng may cho đoàn người này trong hắn chữ Hà thị phiêu cục sơn trắng phiên xa, chữ Hà to lớn đập mạnh vào trí óc của Vũ tam Thông khiến cho chàng trai thất tình ấy nhớ lại tên người yêu rồi nổi cơn điên giết cả mười tên lão phiêu. Tội nghiệp cho những tên này, đến lúc bị tàn sát cũng chẳng biết nguyên do.

Ngay nay Vũ tam Thông hẳn rõ tâm trạng Lý mạc Thu hơn ai hết. Thấy sắc mặt nàng thay đổi, Vũ tam Thông hồi hộp cho sinh mạng của Trình Anh và Lục vô Song.

Lý mạc Thu nghiêm sắc mặt, nói:

- Chính ta đã in chín bàn tay máu vào Lục gia trang. Ta chưa hạ thủ được chín mạng lẽ nào ta chịu dừng tay. Vậy Vũ tam ca hãy vui lòng nhường bước.

Vũ Tam Thông nói:

- Hai vợ chồng Lục công đã chết; vợ chồng Lục lập Đỉnh đã thọ độc vì tay người. Nay chỉ còn một đứa bé nhỏ, ngươi nỡ nào nhẫn tâm như vậy.

Lý mạc Thu điểm nụ cười trên khuôn mặt lạnh lùng, nói:

- Vũ tam ca! Hãy nói là còn hai đứa bé thì đúng hơn. Nhưng thôi! Hãy nhường lối cho ta đi.

Vũ tam Thông xoay ngang cây cổ thụ rào kín lối vào động và dằng từng tiếng:

- Này Lý cô nương! Thế thì Lý cô nương quả là trắc dạ lang tâm. Hà nguyên Quân...

Nghe nói đến "Hà nguyên Quân" Lý mạc Thu biến sắc lần nữa, hét:

- Ta phải nói để ngươi rõ. Trước mặt Xích Luyện tổ sư ta đã có lời thề. Nếu trước mặt ta, kẻ nào nói đến tên "Hà nguyên Quân" thì kẻ đó phải chết, hoặc ta phải chết. Nay Vũ tam ca tự nhiên bắt ta phải trọng lời thề, vậy ngươi đừng oán ta nhé.

Dứt lời, nàng tung chiếc phất trần đánh vào đầu Vũ tam Thông.

Chiếc phất trần đánh xuống mau như chớp nhoáng. Nhưng Lý-mạc-Thu đã quên rằng con người điên dại đầu óc bồm xồm kia là cao đệ của Nhất-Đẳng Đại-sư, và Lý-mạc-Thu còn quên một điều nữa là Vũ-tam-Thông ngày nay đâu phải Vũ-tam-Thông bị rơi vũ khí trước ngực của Lục-triển-Nguyên bốn mươi năm về trước. Vận dụng tất cả mọi kinh nghiệm của bốn mươi năm lăn lóc trên vũ trường, Vũ-tam-Thông dùng hai bàn tay làm bung cây cổ thụ như một chiếc dây cung để đỡ ngón đòn độc hiểm của Xích-Luyện Tiên-tử.

Lý-mạc-Thu thấy khí thế của Vũ-tam-Thông quả nhiên lợi hại, nàng liền nép mình theo hướng gió, bay xa khỏi tầm cổ thụ và quan sát từng khe hở của Vũ-tam-Thông để tấn công cho có hiệu quả hơn.

Lý-mạc-Thu đảo qua đảo lại liền hồi, khiến cho Vũ-tam-Thông không kịp day trở tàng cây cổ thụ nặng nề ấy.

Nhân lúc đối phương lúng túng, Lý-mạc-Thu nhảy vụt xuống đưa chân đạp vào gốc cây cổ thụ.

Con người Lý-mạc-Thu mong manh, thơ nhi liễu yếu nhu đào, ấy thế mà sức đạp của nàng lại nặng nề có đến ngàn cân, khiến cho gốc cây phải lún xuống đất.

Thế là hai đối thủ dằng co nhau một cây cổ thụ. Một bên đè gốc, một bên đè ngọn.

Nhưng Lý-mạc-Thu ghì được ưu thế, lại có vũ khí trong tay, còn Vũ-tam-Thông đã không có vũ khí, hai tay lại bận giữ ngọn cây.

Lý-mạc-Thu cười khúc khích như để hoan thưởng cái lợi thế của mình. Trong lúc đó, Vũ-tam-Thông bắt đầu nao núng, mối lo ngại bắt đầu vẩn vơ trong trí óc.

Thật ra, Vũ-tam-Thông không hề lo ngại cho mình, bởi vì từ khi biết tia tình địch lẫn người yêu đã hoá ra người thiên cổ, ông ta không còn tha thiết đến cuộc sống như đã thiết tha trong bốn mươi năm qua rèn luyện võ nghệ để rửa hận thù. Nay trước nguy cơ hăm doạ sanh mạng của con cháu người yêu và của vợ con mình khiến Vũ-tam-Thông vụt ra ý nghĩ cần phải sống để bảo vệ kẻ thân yêu. Bấy giờ Vũ-tam-Thông lo mối nguy hại chung hơn là lo cho bản thân.

Trong lúc ông ta đang lo suy nghĩ thì Lý-mạc-Thu vẫn cười ngạo nghễ trong đắc thế. Nàng đạp chìm gốc cây cổ thụ xuống đất rồi bước lần về phía Vũ-tam-Thông tay lăm lăm chiếc phất trần như chực kết thúc sinh mạng đối thủ.

Vũ-tam-Thông nhìn con ác tặc lẩn lẩn tiến đến đang chờ đợi một định mệnh khắt khe cho cả một đoàn người vô tội.

Trong lúc nguy cấp, bỗng từ đàng sau Lý-mạc-Thu từ trên trời, lao xuống hai vệt đen, tiếp theo những tiếng kêu lạ lùng quái dị.

Vũ-tam-Thông ngạc nhiên thấy đó là hai con chim ưng khổng lồi sà xuống bấu vào Lý-mạc-Thu chúng dùng mỏ và móng nhưng bấu xé liên hồi, thay phiên nhau tấn công tới tấp.

Lạ lùng hơn nữa trong động có tiếng the thé của cô bé Quách Phù đang điều khiển cặp chim:

- Thần ưng! Thần ưng! Hãy mổ xé xác con quái tặc ấy.

Đôi chim ưng vô cùng khôn lanh, lúc bay về phía tả, lúc sà xuống phía hữu, đến như Lý-mạc-Thu lanh lẹ dường ấy mà cũng phải lúng túng trong lúc tránh né.

Tuy nhiên, qua một lúc, Lý-mạc-Thu lấy ngay được bình tĩnh. Vì qua vài đợt tấn công nàng đã xác định được giá trị của đôi chim. Nàng tin rằng pháp thuật của nàng có thừa để đối phó.

Tuy nhiên, đánh hạ đôi chim là việc nàng còn phải suy tính. Bởi vì nàng thừa hiểu chỉ có đảo Đào-hoa mới có đôi chim ấy. Vậy đương đầu với đôi chim ưng tức là chuốc lấy hậu quả oan thù với họ Quách, điều mà Lý-mạc-Thu không bao giờ nghĩ đến.

Trong lúc nàng còn lưỡng lự chưa quyết thì đôi chim vẫn hăng say trong lợi thế, cứ áp đảo luôn hồi.

Bỗng con chim mái bất đồ trúng phải chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu sa xuống đất kêu một tiếng thất thanh.

Quách-Phù thấy thần ưng bị hạ, từ trong động hô to:

- Thần ưng! Thần ưng! không có gì phải sợ, hãy cắn chết con nữ tặc ấy cho ta.

Lý-mạc-Thu liếc mắt nhìn vào động thấy người ra hiệu lệnh cho đôi chim là một cô gái nhỏ, sắc mặt lạ lùng. Nàng nhíu mày lẩm bẩm:

- Thôi, đúng rồi! Con bé này phảng phất giống nhan sắc của Quách phu nhân. Đích thị nó là đứa con gái của đôi hiệp sĩ ở đảo Đào-hoa.

Nghĩ như thế, Lý-mạc-Thu càng phân vân, chỉ đánh cầm chừng.

Vũ-tam-Thông thấy có đôi thần ưng trợ lực, thay đổi chiến thuật. Ông ta nhặt một tảng đá lớn ở góc động ném vào chậu cây cổ thụ, rồi đỡ nhẹ cây cổ thụ lên kê vào hòn đá. Đoạn ông ta bất thần dồn hết sức lực đè ngọn cây xuống khiến cho gốc cây bật lên và tung Lý-mạc-Thu bay vút lên trời.

Đôi chim ưng tưởng Lý-mạc-Thu phi thân trốn thoát liền vỗ cánh đuổi theo.

Trong lúc Lý-mạc-Thu lơ lửng giữa không trung không có điểm tựa để sử dụng mảnh lực chiếc phất trần thì bị đôi chim vây hãm rất ngặt. Nàng túng thế liền tung bửu bối từ trong tay áo nàng bay ra ba chiếc kim châm hổ phách. Hai chiếc nhắm hướng hai con chim ưng và một chiếc nhắm bụng Vũ-tam-Thông phóng tới.

Ba chiếc kim bắn rất chính xác. Đôi chim bị thương quằn quại bay vút tận mây xanh. Còn Vũ-tam-Thông chợt thấy một tia sáng xẹt tới ông ta vội nhảy tránh sang một bên. Nhưng đã trễ, chiếc kim son trúng vào bàn toạ bên trái khiến cho toàn thân lão run lẩy bẩy ngã xỉu xuống đất dãy đành đạch.

Chỉ chốc lát, Vũ-tam-Thông bất tỉnh.

Quách Phù thấy thế sốt ruột từ trong động cất tiếng lanh lảnh gọi đôi chim ưng:

- Thần ưng hãy trở lại mau! Thần ưng hãy trở lại mau!

Nhưng vô hiệu! Đôi chim ưng bay vút một mạch.

Bấy giờ, Lý-mạc-Thu là đà người xuống vừa cười vừa hỏi:

Này em bé! Có phải em thuộc dòng họ Quách chăng?

Quách-Phù thấy Lý-mạc-Thu tỏ vẻ hiền lành khả ái, bao nhiêu ác cảm trong người bỗng chốc tiêu tan, nó vội hỏi:

- Thưa cô nương! Em đúng là họ Quách. Còn cô nương là ai?

Lý-mạc-Thu không đáp, chỉ cười rồi nói:

- Em hãy đến đây! Ta dắt em đi chơi! Vui lắm.

Dứt lời, Lý-mạc-Thu lẹ làng bước đến cầm tay Quách-Phù dắt đi.

Kha-trấn-ác từ trong động vác thiết trượng chạy vội ra, chận Quách-Phù lại, và nói:

- Phù nhi! con hãy theo ta trở về.

Lý-mạc-Thu nhín Kha-trấn-ác cười lớn, nói:

- Công công sợ ta ăn thịt con bé nầy sao?

Vừa nói nàng vừa kéo Quách-Phù theo mình.

Quách-Phù ngoảnh lại nói với Kha-trấn-ác:

- Công công để cho cháu đi chơi với cô nương một chốc cháu trở về ngay.

Kha-trấn-ác không biết làm sao đành đứng nhìn con đạo cô quyến rũ Quách-Phù.

Bỗng nhiên đôi chim ưng bay trở về kêu lên những tiếng áo não.

Quách-Phù quay đầu nhìn lại. Kha-trấn-ác hy vọng những tiếng kêu của đôi chim ưng sẽ làm cho Quách-Phù đổi ý.

Nhưng không, Quách-Phù liền ra hiệu:

- Thần-Ưng! Hãy đến đây cùng ta! Hãy theo ta!

Đôi Thần-Ưng ngoan ngoãn bay theo. Nhưng lạ thay, giữa đôi chim ưng có một con chim nhỏ màu hồng nằm ngay đỉnh đầu Lý-mạc-Thu đâm bổ xuống.

Hoảng hốt, Lý-mạc-Thu đưa phất trần ra đỡ. Con chim nhỏ khôn ngoan và lanh lẹ vô cùng. Như một con thoi, nó tránh né chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu rất ngoạn mục.

Lý-mạc-Thu phải một phen kinh hãi. Tuy nhiên, nàng vẫn giữ được bình tĩnh khen:

- ái chà! Con chim nhỏ này hay lắm.

Bỗng phía sau có tiếng động khác thường. Một cậu bé độ 14, 15 tuổi, mình mặc thanh y, vừa vỗ tay vừa ca hát điệu hành quân lời lẽ rất vô nghĩa. Một đoàn rắn độ ngàn con, một màu thanh trúc sắp thành hàng ngũ chỉnh tề, ngoan ngoãn vâng theo lời ca tiến đến trước mặt Lý-mạc-Thu như một dòng nước cuộn.

Đến đây thằng bé ngồi dưới một gốc cây, nhìn con chim màu hồng đang hăng say tấn công Lý-mạc-Thu. Còn Lý-mạc-Thu vừa đương đầu với con chim, vừa tính toán cách nào để sẽ phải đối phó với đoàn rắn.

Bỗng như nàng sực nhớ điều gì, liếc nhìn thằng bé lẩm bẩm:

- Thằng bé này diện mạo khôi ngô, mày ngài mắt lớn, môi đỏ, trân tròn, phải chăng nó là đệ tử của Âu-dương-Phong ở đất Tây-Vục hiệu là Tây-Độc.

Thật vậy, trong giới hảo hớn không ai là không biết! Âu dương Phong, một hiệp sĩ Giang Nam nổi tiếng một thời, nay về già ẩn trú tại Tây-Vục, lấy thuật nuôi rắn bày thế trận để tiêu khiển.

Lý-mạc-Thu kiểm điểm những biến cố trong ngày, cho rằng những việc xảy đến không phải do sự tình cờ. Nhất-Đảng Đại-sư, Đào-hoa-đảo, Bạch-đa-sơn nhất định không phải vô tình mà phái người đến gặp ta một lúc.

Nghĩ thế, Lý-mạc-Thu chưa vội kết thúc cuộc đấu chiến với con chim nhỏ màu hồng đó. Nàng kéo dài cuộc chống đỡ để có đủ thì giờ quan sát địch thủ.

- Nầy em bé! Có phải em ở Bạch-đà-sơn chăng?

Đứa bé thấy Lý-mạc-Thu tỏ cử chỉ dịu dàng liền đứng dậy đáp:

Thưa, em họ Dương. Nhưng tại làm sao cô nương bảo em ở Bạch-dầu-sơn?

Thừa cơ hội Lý-mạc-Thu đang nói chuyện, con chim nhỏ đâm bổ vào đầu Lý-mạc-Thu một đòn rất lợi hại. Nhưng cũng nhanh như chớp, Lý-mạc-Thu đưa bàn tay trái lên chụp gọn con chim nhỏ vào lòng bàn tay.

Thằng bé sợ Lý-mạc-Thu bóp chết con chim la lớn:

- Cô nương đừng vội giết chết con chim hồng

Lý-mạc-Thu cười:

- A ra con chim nầy của em. Vậy ta trả cho em đây

Nàng trao con chim hồng cho thằng bé.

Bàn tay xinh xắn của Lý-mạc-Thu vừa mở, con chim hồng ngỡ rằng nó đã được tự do, vội cất cánh bay bổng lên không trung.

Nhưng Lý-mạc-Thu tập trung nhân lực vào đôi mắt hướng về con chim hồng, và xoè bàn tay ra, vận động mấy ngón tay, tức thì con chim hồng nhỏ kia cảm thấy như có một sức mạnh đè nặng trên mình nó. Nó không thể tự do hành động theo ý muốn mà phải lệ thuộc theo sự điều khiển của Lý-mạc-Thu từ dưới đất.

Đó là phép chưởng lực mà chỉ kẻ nào có võ thuật tuyệt luận mới có thể vận dụng nổi. Chính vì cái tuyệt luận đó đã làm vang danh Xích-luyện thần chưởng trong khắp vũ lâm bão hoa.

Bấy giờ Vũ tam nương ở trong động nhìn ra lo ngại vì thấy chồng nàng nằm sóng sượt dưới đất.

Nàng nóng ruột muốn xông ra cứu trợ, nhưng đoàn rắn của thằng bé đã tràn đến nơi, con nào cũng ngẩng cổ như muốn chực cắn người. Nàng gọi lớn:

Vũ quân! Vũ quân! Có bề chi chăng?

Vũ tam Thông nghe tiếng vợ kêu muốn gượng dậy nhưng không thể nào dậy nổi. Quách-Phù không ngớt miệng kêu cặp chim ưng, nhưng chúng đã bay mất dạng tự lúc nào.

Lý-mạc-Thu nghĩ thầm:

- Thế này thì quả nhiên vợ chồng Quách-Tỉnh và Âu dương Phong đã có mặt đâu đây. Nhưng dẫu sao nhất định họ cũng không thể làm gì ta được.

Lý-mạc-Thu tin tưởng ở mãnh lực tuyệt đối của Xích luyện thần chưởng, nên nàng ngạo nghễ quay gót bước vào cửa động.

Thằng bé thấy thế gọi lại, bảo:

- Hãy đứng yên! Nếu cô nương tiến bước đàn rắn độc sẽ cắn ngay.

Lý-mạc-Thu thâu hồi con chim hồng vào tay trái, dùng tay mặt khoát mấy cái vào không trung tức thì đàn rắn tán loạn bỏ hàng ngũ bò lảng ra tứ phía.

Lý-mạc-Thu tiến vào động Vũ tam nương liền xách kiếm ra cản lại. Lý-mạc-Thu dùng phất trần quất mạnh vào thanh kiếm, lưỡi kiếm văng về phía Vũ-tam-Thông chém sâu vào trán.

Lý-mạc-Thu dõng dạc bước vào động và thả con chim hồng ra. Lần nầy nàng để cho nó được tự do, không dùng chưởng lực điều khiển nữa, vì nàng mắc bận tìm Trình-Anh và Lục-vô-Song.

Khi đã thấy mặt hai đứa bé này, Lý-mạc-Thu xốc tới, hai tay cặp nách mỗi đứa bé mỗi bên rồi uốn mình phi thân ra ngoài. Trình-Anh và Lục-vô-Song dãy dụa thế nào cũng không nổi.

Bấy giờ thằng bé trông thấy vội nhảy theo ôm chầm lấy thân hình Lý-mạc-Thu kéo lại.

Hai tay Lý-mạc-Thu bận kẹp hai đứa bé không còn cách nào đối phó với thằng bé nên để mặc cho nó ôm sát vào thân.

Ngày nay, Lý-mạc-Thu không còn ở tuổi hoa niên, mặc dù nhan sắc bên ngoài vẫn chưa kém sút tí nào, Lúc nàng còn là một thiếu nữ, cái thời nàng dan díu với Lục-triểu-Nguyên, tuy trong tình nồng thấm đượm, nàng vốn con nhà khuê các trâm anh lại thêm thừa hưởng gia phong hiệp sĩ, do đó giữa đôi trai gái chưa bao giờ xảy ra chuyện ong bướm mây mưa. Những lúc lửa tình bừng dậy, đôi bạn trẻ đều nhớ lời giáo huấn của gia phong nên vẫn kiên nhẫn chờ ngày xe tơ kết tóc.

Nhưng rồi mối hận tình đột xuất, Lý-mạc-Thu những tưởng bao nhiêu mỹ tính của mình đã bị tan theo mối tình hận ngàn đời. Mãi suốt bốn mươi năm phiêu lưu trên bước giang hồ, ngày đêm nàng chỉ để tâm hờn oán, không bao giờ con tim bị lay động.

Nàng có ngờ đâu, con tim cứng cỏi vì uất hận kia cũng có lúc nổi dậy trong khoảnh khắc vì cảm xúc nhất thời.

Thật vậy, sự cọ xát với thằng bé chưa đến tuổi dậy thì, mà cả thân mình nàng cảm thấy mềm nhũn. Thằng bé chỉ níu kéo, cốt để cứu thoát hai đứa bé, nó ngờ đâu sự đụng chạm ấy làm cho Lý-mạc-Thu ngây ngất, toàn thân như bị một sức mạnh vô hình làm tan biến.

Trước đây cũng đã có lần nhiều tay hiệp lữ giang hồ không cầm lòng được trước sắc đạp kiều diễm của Xích-Luyện Tiên-tử nên cũng có nhiều kẻ buông lời lả lơi trêu ghẹo, tỏ ý khêu gợi nhưng những lần ấy Lý-mạc-Thu không hề mảy may đồng tình mà trái lại nàng đã đem con tim sắt đá nhử mấy gã si tình kia vào con đường chết. Họ đều chết nhục nhã như mấy tên bảo tiêu.

Tuy nhiên, dẫu con tim Lý-mạc-Thu có thay đổi cũng chỉ phút chốc. Qua một phút yếu mềm vì cảm giác, nàng tự chủ được ngay lòng tự ái của một Xích-Luyện Tiên-tử lại nổi dậy xua đuổi cả lầm lỗi của xác thịt, Lý-mạc-Thu trở nên giận dữ thả Trình-Anh và Lục-vô-Song xuống để đối phó với thằng bé lạ lùng kia. Nàng định ôm thằng bé quật vào tảng đá cho nát thây, nhưng bỗng nghe tiếng kêu của nó:

- Cô nương! Xin cô nương nhẹ tay.

Tiếng nói của nó hình như có một cái gì nhẹ nhàng quyến rũ khiến Lý-mạc-Thu không đủ can đảm hành động theo ý định.

Giữa lúc Lý-mạc-Thu đang bị dằng co hai mặt tâm thần, một đằng là thù hận, một đằng là thiện cảm của ân tình thì bỗng đâu con chim hồng lợi dụng cơ hội ấy, nhanh như chớp, bay sà xuống mổ vào con mắt của Lý-mạc-Thu.

Than ôi! Thế là nhan sắc kiều diễm của Lý-mạc-Thu đã bắt đầu huỷ hoại! Chỉ vì một phút yếu mềm của tâm tình mà người mỹ nữ nổi tiếng ở đất Giang-nam đã trở thành một mắt.

Một dòng máu đỏ loét từ từ chảy xuống trên gò má nõn nà của Lý-mạc-Thu. Nàng đưa tay chùi vết máu với lòng căm hờn sâu thẳm. Nét mặt nàng trở nên đanh ác phi thường. Tất cả đối thủ trước mắt, từ Vũ-tam-nương trong động, Vũ-tam-Thông dưới đất, cho đến ba đứa bé thảy đều chờ đợi một cơn bão táp kinh khủng của Lý-mạc-Thu.

Trước tiên, Lý-mạc-Thu quắc nhìn con chim hồng đang bay lượn trên không. Nàng tập trung chưởng lục ngửa bàn tay dùng các ngón tay điều khiển. Con chim hồng đang tung tăng bỗng rơi xuống nằm gọn trong bàn tay Lý-mạc-Thu.

Rồi năm ngón tay nàng bóp lại, thân hình của chim hồng nát bấy như tương, xương thịt lông lá trộn lẫn.

Nàng chưa hả giận thì bỗng đâu cặp chim ưng lại cùng nhau bay đến, nhắm thẳng vào đầu Lý-mạc-Thu đâm bổ vào.

Bấy giờ, Lý-mạc-Thu đã trở nên nhanh nhẹn như trước, tránh né mấy lần rồi tung tay áo phóng vào hai con Thần ưng hai chiếc kim ngân châm. Nhưng lạ thay, kim vừa phóng ra thì bỗng có một vật cứng ném từ đâu không rõ đánh loạt hai mũi kim rơi xuống đất.

Lý-mạc-Thu ngạc nhiên nghĩ thầm:

"Quái lạ! Người ném dị vật vào kim châm tất có một sức mạnh phi thường và một tài năng tuyệt thế mới có thể hạ nổi bửu bối lợi hại nầy."

Đây là lần đầu tiên mà bí quyết gia truyền của môn phái Xích-luyện bị chạm phải một đối thủ cừ khôi.

Lý-mạc-Thu quyết định nên tạm rút lui khỏi vòng chiến, và trước khi rút lui ít ra nàng cũng phải thanh toán hai đứa bé Trình-Anh và Lục-vô-Song để kết thúc chương trình rửa hận đối với gia đình họ Lục.

Nàng nhảy chồm tới, nắm vào lưng Trình-Anh. Nhưng khi bàn tay nàng sắp bóp cổ con bé thì nàng chợt thấy vuông lụa có thêu hoa hồng, mảnh lụa chính tay nàng đã tặng cho Lục-triển Nguyên để kỷ niệm mối tình đầu.

Một lần nữa, con tim của Lý-mạc-Thu trở nên mềm yếu. Bao nhiêu tình cảm của thời hoa niên nổi dậy làm cho tâm hồn nàng ngây ngất, tay nàng không thể hạ thủ nổi Trình-Anh.

Nàng suy nghĩ:

Thì ra Lục-triển-Nguyên không bao giờ quên ta!

Không kết liễu được sinh mệnh Trình-Anh. Lý-mạc-Thu quay sang Lục-vô-Song và cũng nắm cổ Lục-vô-Song toan bóp chết. Nhưng nàng cũng lại chợt thấy vuông lụa có thêu hoa hồng đeo ở cổ con bé. Nàng dừng tay thốt lên một tiếng lạ lùng!

- ủa! Ta chỉ tặng Lục-triển-Nguyên có một vuông lụa, cớ sao nay lại có đến hai. Như vậy một thật một giả chăng?

Nghĩ thế, Lý-mạc-Thu còn trù trừ chưa quyết. Nàng buông tay xô Lục-vô-Song ngã về một bên.

Bỗng nghe sau lưng nàng có hơi gió động, nàng đoán biết có chuyện chẳng lành, vội quay chiếc phất trần ra đón đỡ.

Quả nhiên, có một viên đá từ đâu ném đến, chạm phải cây phất trần rơi xuống.

Lý-mạc-Thu cảm thấy nguy cơ dồn dập, nếu còn ở lại tất khó nổi thoát thân với người ném đá bí mật nầy. Nàng kẹp Lục-vô-Song vào nách, phi thân biến mất về phía chân trời.

Trình-Anh thấy Lục-vô-Song bị bắt đem đi, liền cắm cổ chạy theo và la lớn:

- Biểu muội! Biểu muội ôi!

Nhưng Trình-Anh làm sao theo kịp con ác tặc đã đụng lối kinh công thần tốc?

Mặc dầu thế, Trình-Anh vốn có tánh kiên nghị, không bao giờ chịu bỏ dở một ý định nên vẫn tiếp tục đuổi theo. Cô bé vừa kêu, vừa chạy mãi.

Cho đến mấy dặm đường, Trình-Anh gặp một con suối chảy ngang không thể nào qua được mới dừng chân lại, lòng ray rứt đau đớn vô cùng.

Nhưng chỉ chốc lát Trình-Anh lại thấy bóng dáng của đạo cô hiệp đến.

Thì ra đó là Lý-mạc-Thu, nhưng bên nách không còn thấy Lục-vô-Song đâu nữa.

Trình-Anh thấy Lý-mạc-Thu trở lại, khiếp sợ, nhưng tình thương em làm cô ta liều lĩnh, gào thét:

- Đạo cô! Hãy trả Lục-tiểu-muội cho tôi! Đạo cô giấu Lục tiểu muội nơi đâu?

Lý-mạc-Thu nhìn thẳng vào mặt Trình-Anh thấy phảng phất hình ảnh của tình địch mình thuở trước, bao nhiêu hờn oán dồn lên tận nét mặt, nàng hầm hầm rút phất trần tung mạnh vào Trình-Anh. Nhưng lạ thay, chiếc phất trần của nàng bị tung ngược trở lại như vướng phải một cản trở bất ngờ.

Và, đạo cô cảm thấy cả thân mình cũng bị tung lên cao đến mấy trượng rồi rơi xuống.

Biết gặp phải địch thủ nguy hiểm. Lý-mạc-Thu múa tít chiếc phất trần quanh người để đề phòng sự công kích bất thình lình.

Bỗng Lý-mạc-Thu thấy bên cạnh Trình-Anh xuất hiện một quái nhân, mặc chiếc thanh bào, sắc diện lạ lùng không giống người chết mà cũng không giống người sống. Lý-mạc-Thu đoán biết tài nghệ của người nầy tất phải cao hơn mình. Nhưng tại sao trong giới võ lâm một tài nghệ như thế mà nàng chưa bao giờ nghe ai nói đến.

Nàng vừa định lên tiếng hỏi, thì quái nhân đã nói với Trình-Anh:

- Cháu ơi! con nữ tặc đó là loài hung ác. Cháu để ta trừ nó đi nhé!

Trình-Anh cản lại, nói:

- Không, không! Cháu sợ lắm! Cháu sợ lắm!

Quái nhân nói:

- Cháu đừng sợ! cháu chỉ cần ừ một tiếng là ta ra tay ngay. Hay là ta để cho cháu đánh nó cũng được.

Trình-Anh một mực sợ sệt, nói:

- Không không! Cháu không dám.

Vị quái nhân rút trong túi áo một hòn sạn nhỏ ném nhẹ vào phía Lý-mạc-Thu. Hòn sạn trúng đâu không rõ nhưng Lý-mạc-Thu dừng ngay chiếc phất trần không múa máy được nữa. Nàng đứng trân trân như một pho tượng.

Quái nhân dắt tay Trình-Anh từ từ tiến sát, khoá tay Lý-mạc-Thu lại, và lấy tay Trình-Anh đánh mạnh vào đầu vào lưng của con nữ tặc.

Ban đầu Trình-Anh còn rụt rè, e sợ, nhưng thấy đánh mãi mà Lý-mạc-Thu vẫn không hành động gì được nên cô ta mới an lòng. Trình-Anh nghĩ đến những hình ảnh của những người thân yêu ở Lục gia trang đã chết vì tay con nữ tặc nên không còn cầm được lòng căm tức. Cô ta thoi mạnh vào đầu Lý-mạc-Thu mấy cái cho hả dạ.

Lý-mạc-Thu vẫn cầm chiếc phất trần trong tay mà đứng yên để mặc cho Trình-Anh đánh.

Nỗi nhục nhã tràn trề. Qua một lúc, Lý-mạc-Thu hét lên một tiếng, tung bửu bối ném về phía quái nhân. Mười chiếc kim châm bất thần phóng ra một lượt, nhưng đều bị quái nhân tung sạn ném rơi xuống đất. Duy chỉ còn hai chiếc kim châm đâm trúng vào bụng Trình-Anh.

Thì ra đó là độc kế của Lý-mạc-Thu. Tám chiếc kim nàng phóng về quái nhân chỉ cốt "dương đông kích tây" giữ tay quái nhân để cho hai chiếc kim độc kia kết liễu sinh mệnh của Trình-Anh.

Thi hành xong độc thủ, Lý-mạc-Thu phi thân biến mất, lòng vẫn thắc mắc không rõ quái nhân đó là ai mà dám trêu Xích-luyện Tiên tử nhục nhã đến thế.

Quái nhân áo xanh thấy Trình-Anh biến sắc, biết cô ta trúng phải kim độc liền cấp tốc kẹp Trình-Anh vào nách rồi phi thân biến về hướng Tây.

Hồi 5 : Đứa bé lạc loài

Nhắc lại Kha-trấn-ác thấy Lý-mạc-Thu đến cũng đột ngột mà đi cũng đột ngột, rồi hai đứa bé Trình-Anh, Lục-vô-Song bị mất dạng, lòng áy náy không an, ngồi thừ ra suy tính.

Thằng bé có chim hồng thấy thế dõng dạc nói:

- Thôi! Ông đừng phiền muộn! Để cháu đi cứu hai em về.

Dứt lời, hắn nhắm phía Lý-mạc-Thu bỏ đi ban nãy đuổi theo.

Chẳng mấy lúc, nó lạc mất phương hướng, bốn bề mênh mông trời đất. Không biết đâu là đâu nữa cả. Nó cắm cổ chạy một hơi lâu thì may thay nó nghe được tiếng gọi của Trình-Anh.

- Biểu muội ơi! Biểu muội ơi!

Nhưng nó có cảm giác tiếng gọi càng tắt dần. Ngơ ngẩn, nó tìm một nơi cao nhất, nhìn quanh tứ phía, nhưng không thấy một bóng dáng ai.

Đang lửng lơ trên đường, bỗng mắt nó thấy một vật sáng chói lấp lánh trên cỏ xanh, ngay ở gần chân nó.

Nó cúi xuống xem, đó là mười chiếc kim châm dài độ năm phân, chiếc nào cũng có chạm hoa rất đẹp.

Nó lượm một chiếc cầm nơi tay ngắm nghía. Bỗng nó thấy một con cóc từ đâu nhảy đến chạm vào một chiếc kim khác rồi lăn ra chết tức thì.

Thấy là lạ, thằng bé tỏ ra khoái chí, nó ngồi chồm hỗm xuống cúi đầu xem, nào kiến, nào đế, nào ong thay phiên động vào các chiếc kim rồi lăn ra chết.

Xem một hồi, nó đứng dậy bước đi trong tay vẫn giữ chiếc kim đã lượn. Nó suy nghĩ về đặc tính lạ lùng của chiếc kim thấy một đàn kiến, nó liền lấy kim thử lại, quả nhiên mỗi lần chiếc kim đến đâu là đàn kiến lăn ra chết như rạ. Thử vào các loại côn trùng thì thứ nào gặp kim cũng đều ngã ra chết như nhau.

Nó nhảy nhót mừng thầm, tưởng bắt được bửu bối có thể đem về giúp nông dân bảo vệ mùa màng.

Nhưng nhìn lại, nó bỗng thấy tay nó tím bầm, và những ngón tay nó bắt đầu thấy tê cóng.

Biến sắc, nó thở dài vứt cây kim xuống đất hét lớn:

- Thôi chết rồi! Ta đã nắm phải chiếc kim có chất độc! biết làm sao bây giờ.

Tay nó cứ mỗi lúc lại đen thâm hơn và tê buốt nhiều hơn. Nó khóc thét lên, lấy tay mài vào cây, vào cỏ, như càng cọ xát thì bàn tay càng đen thâm rất chóng.

Vốn đã sống với rắn độc từ nhỏ, thằng bé hiểu ngay chất độc này có thể dày vò cơ thể, nó hoảng sợ khóc rống lên thảm thiết.

Bỗng đằng sau lưng nó có tiếng người. Một giọng khàn khàn như phái xuất từ dưới mặt đất đưa lên. Nó ngoái cổ nhìn lại thì thấy một ông lão! Vâng, đúng là một ông lão, nhưng lại "đứng" chổng ngược đầu xuống đất hai chân thẳng lên trời.

Thằng bé hoảng sợ, quên mất tai nạn của mình hiện tại, trố mắt nhìn, rồi hỏi:

- Thưa ông! Ông là ai? Tại sao ông không đứng bằng hai chân, lại đứng bằng cái đầu?

Ông lão không nói, nhào lộn mấy vòng rồi vẫn đứng bằng lối chổng đầu xuống đất.

Thằng bé hoảng sợ định bỏ chạy, nhưng với tánh tò mò, nó muốn hiểu ông lão ngược đời đó là ai nên đánh bạo hỏi:

- Thưa ông, ông là ai?

Ông lão nói:

- Ta là ai? Nếu ta biết là ai thì còn nói gì nữa?

Nghe thế, thằng bé kinh hồn đâm đầu chạy. Nhưng có chạy đến đâu cũng thấy ông lão ngược đời đó chổng cẳng trước mặt.

Mệt quá! Cuối cùng thằng bé nằm dài úp bụng xuống đất.

Bấy giờ, ông lão mới từ từ nói:

- Con chạy đi đâu cũng vô ích, chất độc đang ngấm vào người con rất gấp.

Đến đấy thằng bé mới nhớ lại nỗi nguy hiểm của mình, nó khóc lên, nói:

- Ông ơi! Ông cứu con với!

Ông lão lắc đầu! Mỗi lần ông ta lắc đầu là toàn thân rung chuyển vì ông ta dùng đầu làm chân.

Lão nói:

- Khó cứu lắm con ơi! Khó cứu lắm!

Thằng bé chăm chú nhìn ông lão rồi nói:

- Không! Ông có thừa bản lãnh để cứu con! Xin ông thương giùm tánh mạng! Ông cứu con với!

Giọng nói thiết tha của thằng bé có cái gì dễ mến, ông lão hỏi lại:

- Sao con biết ta có thể cứu con?

Thằng bé nghe ông lão nói biết chừng ông lão đã xiêu lòng nó liền tấn công theo cái lối "đả xà tuỳ côn" mà nó thường áp dụng để bắt rắn.

- Ông ơi! Con biết chứ! Vì nếu ông lộn ngược lại, đứng bằng chân như mọi người thì chắc trên trần thế này không ai bằng ông được.

Ông lão cười lớn, bảo đứa bé:

- Này, con hãy lộn ngược lại cho ta xem mặt thử nào.

Thằng bé ngoan ngoãn vâng lời chống hai tay, lộn xuống đất đưa hai chân lên trời như ông lão.

Ông lão lần đến nhìn tận mặt thằng bé, thấy thằng bé mặt khôi ngô sáng sủa, mày rô miệng rộng trán cao, xem rất thông minh tuấn tú. Ông lão lẩm bẩm gì không nghe được, nhưng nét mặt ông ta dần dần như suy nghĩ điều gì.

Thằng bé ngay mà lo sợ ông ta đổi ý kiến, không chịu giải cứu cho nó thì tánh mạng nó tiêu ma. Nó liền lấy giọng thảm thiết van lơn:

- Ông ơi! Ông thương tình cứu lấy con.

Ông lão mỉm cười;

- Thôi được! Cứu con thực ra chẳng khó khăn gì. Nhưng cốt yếu con phải chịu điều kiện này mới được.

Thằng bé hỏi:

Ông muốn gì con cũng xin chịu.

Ông lão nói:

- Ông chỉ muốn có điều là ông bảo gì con cũng phải nghe theo.

Thằng bé có ý nghi hoặc, hỏi:

- Sao? Ông bảo gì con cũng nghe ư? Thế ông bảo con làm điều trái với danh dự, với luân thường con cũng phải làm?

Thấy thằng bé do dự, ông lão tỏ ý giận nói:

- Nếu không nghe thì mày chết mặc mày. Ta đi đây.

Nói xong ông lão dùng tay và đầu chạy như bay.

Thằng bé hoảng hốt chạy theo níu lại khẩn khoản:

- Thưa ông đừng vội giận! con hứa sẽ làm theo ý muốn của ông bất cứ việc gì.

Ông lão dừng lại nói:

- ừ! Có thế chứ! Nhưng con phải lấy danh dự thề mới được.

Thằng bé ranh mãnh thưa:

- Vâng, con thề rằng nếu ông cứu con khỏi nhiễm độc ông bảo gì con cũng nghe. Nếu con bội ước con sẽ chết vì chất độc.

Thề như thế thằng bé nghĩ cũng chẳng làm sao. Nếu lão đã cứu khỏi nhiễm độc rồi thì làm sao chất độc nhiễm lại mà chết đi được.

Ông lão nhìn nó một lúc rồi lấy tay nắm vào vai nó quay đi quay lại vài lần bỗng nhiên tay nó có cảm giác bớt tê.

Tiếp đó, ông lão lại nói tiếp:

- Con ôi! Con dễ mến quá!

Thằng bé muốn cho ông lão chữa mau khỏi nên thúc giục:

- Ông ôi! Ông hãy quay mạnh vai của con đi ông.

Ông lão dịu dàng bảo:

- Con ôi! Con hãy gọi ta bằng cha!

Thằng bé phụng phịu, nói:

- Không được! Cha con đã chết rồi làm sao con còn gọi ông bằng cha!

Ông lão nhíu mày, nói:

- à, thế ra ông mới bảo một lần đầu mà con không nghe theo. Con đã quên lời thề rồi sao?

Thằng bé nghĩ thầm:

- Lão bắt mình gọi lão bằng cha có lẽ lão muốn tìm con nuôi.

Thật ra, thằng bé mồ côi cha từ thuở nhỏ, lòng nó đang khát vọng mối mông chiều trong tình cha con. Nó muốn được có cha như mọi đứa trẻ diễm phúc khác. Tuy nhiên đối với ông lão nầy điên không ra điên, tỉnh không ra tỉnh, thật nó khó lòng nhận làm nghĩa phụ.

Thấy nó do dự, ông lão nói:

- Được! Nếu con không gọi ta là cha thì có đứa bé khác sẽ gọi. Không thiếu gì đứa muốn gọi ta bằng cha nhưng ta đâu có bằng lòng.

Đoạn ông lão thốt ra một tràng tiếng lạ lùng chẳng hiểu ý nghĩa ra làm sao cả.

Thằng bé lại sợ ông lão giận bỏ đi nên nó vồn vã:

- Thưa cha! Bấy giờ cha định đi đâu?

Nét hân hoan lộ trên nét mặt nhăn nheo của lão khi nghe đứa bé gọi mình bằng cha, lão đáp:

- Con cưng của cha! Cha phải dạy con phương pháp trừ độc mới được.

Rồi lão kéo thằng bé vào lòng nói tiếp:

- Con đã trúng phải chất độc trong kim băng phách của Lý-mạc-Thu. Trong thiên hạ chỉ có hai người trị được độc tinh nầy. Một là vị Hoà thương nhưng vị này cũng phải hàng chục năm công phu mới chữa nổi, còn hai là cha của con.

Thằng bé hốt hoảng nói:

- Thế thì cha của con nay đã chết rồi biết làm sao?

Ông lão cười xoà, nói:

- Thế con không phải là con của lão ư? Từ nay cha đi đâu con phải theo đó nhé.

Giữa lúc đó trên nền trời bỗng xuất hiện hai bóng chim ưng. Hai con chim quần một hồi rồi từ từ hạ xuống, xa xa có tiếng huýt gió vọng lại, âm thanh trầm bổng như tiếng tiên.

Ông lão giật mình kinh ngạc nói:

- Chính nó rồi! Ta không thể gặp nó được! Không thể nào gặp nó được!

Dứt lời, lão đăng thân trốn mất để thằng bé lại vừa ngẩn ngơ vừa lo sợ.

Nó kêu thất thanh:

- Cha! Cha ơi!

Bỗng nghe tiếng gió xao động sau lưng, nó quay lại thì không phải ông lão mà là đôi hiệp sĩ một trai một gái vừa phi thân đến và dừng chân dưới một gốc cây. Nam hiệp sĩ tuổi khoảng ba mươi lăm, thân hình vạm vỡ, mày rậm, mắt to, dáng người khoáng đại. Còn nữ hiệp sĩ tuổi độ ba mươi, tuy không còn độ thanh xuân, song nhan sắc hoa hờn nguyệt thẹn.

Hai con chim ưng theo tiếng huýt gió là đà bay quanh đôi hiệp sĩ, và cuối cùng mỗi con đậu vào vai mỗi người rít lên những tiếng kêu, thé thé như muốn kể lại một việc gì.

Nữ hiệp sĩ dịu dàng đưa tay vỗ vào cánh chim ưng, trỏ tay về phía thằng bé nói với người bạn đồng hành:

- Này anh! Anh xem người thiếu niên kia giống ai?

Nam hiệp sĩ không đáp, hỏi:

- Vì sao cặp thần ưng lại đến đây? Chẳng biết ở đảo có việc gì xảy ra chăng?

Hai vị hiệp sĩ nầy chính là Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung. Hai vợ chồng đang đi kiếm Hoàng-dược-Sư. Họ đi lùng khắp các quận huyện ở Giang-Nam, nhưng đến đâu Hoàng-công cũng biệt vô âm tín. Hoàng-Dung vốn biết thân phụ mến cảnh Giang-nam, nên từ Đại-giang ở miền Bắc lần thẳng đến Tiên-Hà ở miền Nam và không một nơi nào nổi danh thắng cảnh mà vợ chồng nàng không đặt chân tới để tìm kiếm.

Hôm ấy, nhân đến trấn Lăng-Hồ, phủ Hồ-Châu thì vừa thấy khói lửa ùn ùn nổi lên, dân trong trấn dắt nhau chạy đi cầu cứu, hỏi ra mới biết Lục gia trang đang bị hoả hoạn.

Quách-Tỉnh đoán chắc đây là trang thất của Lục-triển-Nguyên, vị lão anh hùng ở trấn Lăng-Hồ mà trước đây tuy chưa quen biết, Quách-Tỉnh từng nghe danh và hâm mộ.

Hai vợ chồng vụt chạy đến thì quả nhiên lửa đã tàn phá hết trang trại. Từ trong đống lửa toả ra mùi hôi khó chịu của thây ma người và vật bay khét lẹt.

Hoàng-Dung nhìn phong cảnh tiêu điều nói:

- Anh Quách-Tỉnh! Em nghi trong đám cháy này có điều quái lạ. Lục-triển-Nguyên là một vị lão anh hùng khét tiếng ở trấn này, còn Lục phu nhân cũng là tay nghĩa hiệp vậy thì vì sao trong đám cháy tầm thường vợ chồng không thoát thân được, và toàn thể gia nhân lại phải chết trong đống lửa. Nhất định phải có một bàn tay oán cừu nào hành động.

Quách-Tỉnh tuy đã trung niên, song máu nghĩa hiệp còn hăng, nhất là việc phó nguy cứu khổn thì lại càng không thể bỏ qua được, liền nói:

- Em nói đúng đấy! Chúng ta phải tìm cho ra tên thủ phạm mà cật vấn cho biết rõ nguyên do.

Đôi vợ chồng lùng quanh trang trại nhưng chẳng thấy dấu vết nào của hung thủ. Lúc trở về đến một bức tượng sắp đổ, Hoàng-Dung chỉ tay la lớn:

- Anh ơi! Hãy xem cái gì lạ kìa!

Quách-Tỉnh nhìn theo tay trỏ của Hoàng-Dung thì thấy trên bức tường có dấu năm bàn tay ấn vào.

Bức tường đó trước kia Lý-mạc-Thu đã ấn đến chín bàn tay nhưng vì sụp đổ mất hết bốn dấu, chỉ còn có năm dấu mà thôi.

Quách-Tỉnh kinh ngạc buột mồm la lên:

- Xích luyện Tiên tử!

Hoàng-Dung tiếp:

- Đúng nó rồi! Chính là con ác tặc Lý-mạc-Thu tài nghệ phi thường nhưng cũng độc ác phi thường chẳng kém gì Tây độc Âu dương Phong. Nó đã đến đất Giang-nam nầy rồi thì nhất định chúng ta cùng nó có dịp so tài.

Quách-Tỉnh nói:

- Con yêu nữ nầy không dễ gì đánh hạ nó mau đâu. Tốt hơn chúng ta lo đi tìm nhạc phu trước đã.

Hoàng Dung cười chế diễu:

- Thì ra người ta tuổi càng cao thì gan lại càng nhỏ ư?

Quách-Tỉnh điềm đạm nói:

- Lời em nói quả không sai! Anh còn nhớ lúc chúng mình độ tuổi thanh xuân nào có biết gì trời cao đất rộng, cứ hăm hở băng mình đến núi Hoa-sơn để tranh đoạt cái danh hiệu hão huyền "đệ nhất vũ công". Với cái tuổi này, dẫu có ai đem võng giá đến rước cũng chẳng thèm đi.

Hoàng-Dung cười xoà, nói:

- Chà! Quí hoá quá! Đến như đem kiệu rước cũng chẳng đi?

Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ nhưng mắt luôn luôn để ý đến mọi khác lạ chung quanh.

Bỗng nhiên khi họ bước đến bên hồ vọng nguyệt trông thấy một vết sáng nhấp nhánh. Thì ra đó là hai chiếc kim châm, một chiếc rơi ngoài đất, một chiếc chìm dưới nước, cá trong hồ chết nổi lình bình.

Hoàng-Dung liền rút một chiếc khăn túi làm bao tay, nhặt chiếc kim châm lên, cẩn thận bọc lại và cho vào túi áo.

Hai người tiếp tục cuộc tìm kiếm hướng về phía khu rừng, mỗi người trong óc đang đuổi theo một ý nghĩ không ai nói với ai câu nào nữa, cho đến lúc họ gặp lại đôi thần ưng và đứa bé nói trên.

Thấy Quách-Tỉnh đã không trả lời câu hỏi về thằng bé, lại còn lo lắng có việc gì xảy ra ở đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung tiếc đã không đem Quách-Phù theo cho được yên tâm, nàng nói:

- Nếu biết mình nhớ con thế nầy trước kia thà đem Quách-Phù theo còn hơn.

Bỗng có một mùi hôi tanh khó chịu phát ra bên cạnh. Hai người tìm tòi khắp nơi nhưng không thấy mà mùi hôi tanh cứ phảng phất như gần lắm.

Qua một lúc, Quách-Tỉnh mới tìm ra nơi chân đôi chim ưng bị một vết thương lở loét.

Quan sát kỹ thì thấy vết thương khác thường, thịt nơi vết thương đen và thâm tím, nhưng đôi chim không tỏ vẻ đau đớn gì.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ nói:

- Vết thương gì thế nầy? Vì sao cả đôi chim ưng cùng bị. Chúng là Thần ưng làm sao có thể đả thương dễ dàng đến thế?

Nhìn lại thằng bé, Quách-Tỉnh chợt thấy nơi tay nó cũng đen thâm.

Chàng buột miệng nói:

- Người thiếu niên kia cũng trúng phải cùng một độc thủ chăng?

Hoàng-Dung liền chạy đến, vén tay áo đứa bé lên, lấy dao rạch vết thương và vuốt cho maú độc chảy ra. Nhưng lạ lùng làm sao, máu nó vẫn đỏ tươi, lại phảng phất một mùi thơm phưng phức khiến cho vợ chồng Quách-Tỉnh có cảm giác như hương thơm của đêm tân hôn tự thuở nào.

Hoàng-Dung ngơ ngẩn nói:

- Tại sao nó trúng độc mà lại không nhiễm độc?

Lạ lùng thật? Nhưng nàng đâu có biết hắn vừa được dưỡng phụ của hắn cứu chữa.

Hoàng-Dung trầm ngâm suy nghĩ rồi cũng lấy ra một viên thuốc đưa cho thằng bé. Nó bỏ vào mồm nuốt nghe mát dịu.

Hai con chim ưng cũng được Hoàng-Dung nhét thuốc vào mỏ mỗi con hai viên giống như thứ thuốc mà thằng bé đã uống.

Thời khắc trôi trong lặng lẽ, ray rứt. Bỗng Quách-Tỉnh đưa tay lên mồm hú lên một tiếng kinh hồn, khiến cho thằng bé hồn phi phách lạc. Tiếng hú trầm bổng khi lên khi xuống, lúc khoan thai lúc nhặt nghe như nhịp tiếng của thiên binh vạn mã. Tiếng hú làm xao động cả rừng cây, chim chóc đang đùa hót đều phải im tiếng, có con quá khiếp sợ sà xuống đất như một chiếc lá rơi. Tiếng hú ước chừng dội ra xa đến hàng chục dặm đường.

Hoàng-Dung hiểu ngay đó là tiếng tuyên chiến của Quách-Tỉnh nhắn gởi Lý-mạc-Thu, bèn đưa tay lên hú theo. Hai tiếng hú quyện nhau, một tiếng trầm trầm hùng dũng, một tiếng thánh thót như chuông ngân tự hồ đôi chim bằng đang thênh thang giữa không trung.

Tất cả dân cư trong vùng đều nghe rõ tiếng hú ấy, người nào cũng ngẩng đầu nghe ngóng tìm hiểu, nhưng dù không tìm ra lời giải thích họ cũng dự đoán có sự khiêu khích binh đao.

Ông lão già đi ngược đầu nghe tiếng hú lại càng phi thân hơn nữa.

Còn người đạo sĩ áo xanh đang ẵm Trình-Anh nghe tiếng hú liền cười bảo:

- Thế là họ đã đến! Bà con ta cần nên tránh xa.

Lý-mạc-Thu đang cặp nách Lục-vô-Song phi thân về nơi ẩn trú, nghe tiếng hú liền dừng chân, rút chiếc phất trần ra nghĩ thầm:

- Nghe Quách-Tỉnh là tay anh hùng nghĩa hiệp nổi tiếng trong giới giang hồ hảo hớn, ta thử đến gặp xem có đúng với lời đồn chăng?

Nhưng rồi nàng lại nghe tiếng hú trong trẻo của Hoàng-Dung. Nàng có cảm giác như mình bị cô độc trước sự gắn bó của đôi hiệp khách kia, nàng bỏ ý định chưa vội tìm Quách Tỉnh. Nàng thong thả ôm Lục-vô-Song bỏ đi, trong lòng lo lắng trăm bề.

Lại nhắc đến Vũ-tam-nương sau khi Lý-mạc-Thu biến dạng liền bước tới đỡ chồng dậy và cùng hai con từ biệt Kha-trấn-ác.

Còn Kha-trấn-ác sau khi bị thất thủ trước Xích-Luyện Tiên-tử, sợ con nữ tặc đến nữa, ông ta liền dẫn cô bé Quách-Phù đi nơi khác.

Vừa đi được một đoạn đường nghe tiếng hú, Kha-trấn-ác biết vợ chồng Quách-Tỉnh đến nơi đây liền hướng về phía có tiếng hú ấy.

Quách-Phù nhảy nhót mừng rỡ sắp gặp mặt song thân.

Nhưng khi gần đến nơi, con bé bỗng thừ ra suy tính:

Ông ơi! Mình tự nhiên bỏ đảo ra đi, nay gặp song thân cháu thế nào cũng bị song thân con rầy la! Vậy ông nhận giùm rằng ông đưa con đi tìm ông ngoại nhé!

Kha-trấn-ác quắc mắt, nói:

Con thật quá quắt! Đòi bỏ đảo ra đi bây giờ lại bắt ông nhận lấy lỗi ấy. Lần nầy ông không nghe theo lời con đâu.

Con bé ranh mãnh níu áo ông lão làm ra bộ hối hận nói:

Nếu ông không nhận giùm lỗi của cháu, cháu quyết bỏ đi nơi khác không bao giờ dám gặp song thân.

Kha-trấn-ác biết rõ tánh bướng bỉnh của Quách-Phù sợ nó bỏ đi thật nên lưỡng lự.

Quách-Phù liền chạy núp sau một gốc cây đứng yên. Kha-trấn-ác vì loà mắt không trông thấy nó vội gọi lớn.

Phù-nhi! Phù-nhi! Hãy trở lại đây! Ông bằng lòng nhận lấy lỗi ấy.

Con bé nhảy ra cười khì, nói:

Con biết mà! Thế nào ông cũng chịu nhận. Ông cưng con lắm phải không ông? Con biết ông không nỡ để song thân con quở mắng.

Thế rồi một già một trẻ, tay dắt tay vui vẻ tiến về phía vợ chồng Quách-Tỉnh.

Gia đình gặp nhau mừng rỡ.

Quách-Phù ôm chầm lấy mẹ và nói:

Ông nhất định dắt con đi tìm cha mẹ và ông ngoại, mẹ có giận chăng?

Hoàng-Dung vốn biết tánh nết của con nên cũng gật đầu tỏ vẻ hân hoan rồi cùng Quách-Tỉnh đến thỉnh an Kha-trấn-ác.

Quách-Phù lại thấy cha mình trầm lặng không nói đến mình sợ cha quở mắng, liền kiếm cớ dắt thằng bé đến gần lùm cây, bảo:

- Nầy! Chúng ta cùng đi hái hoa chơi. Anh hái hoa kết vòng cho em mang nhé!

Thằng bé ngoan ngoãn bước theo! Quách-Phù thấy bàn tay đứa bé có một vết bầm, máu chảy ri rỉ, liền đứng đằng xa, và nói:

- Tay anh sao mà giống tay người sắp chết thế. Em không thèm chơi với anh đâu.

Dứt lời, Quách-Phù bỏ chàng thiếu niên đi chơi chỗ khác.

Thấy hai đứa bé mỗi đứa đi một đường, Quách-Tỉnh ngỡ thằng bé không muốn chơi với con mình, liền nói:

- Kìa em bé! Vết thương của em chưa khỏi đâu. Hãy ở lại đây chớ vội đi mà nguy hiểm.

Thằng bé vừa bị lời nói kiêu căng của Quách-Phù, lòng tự ái bị chạm nét mặt dàu dàu, chẳng còn kể đến ai nữa, cứ tiếp tục lủi thủi ra đi.

Quách-Tỉnh vốn sẵn có cảm tình với thằng bé, vội chạy đến nắm tay nó hỏi:

- Vì sao em bị thương như thế?

Thằng bé bực mình trả lời cộc lốc:

- Can dự gì đến ai mà hỏi.

Rồi nó dằng tay ra, tung chân bước tới.

Quách-Tỉnh thấy mặt mày thằng bé phảng phất giống một người cố tri, liền theo hỏi:

- Này em! Em tên họ là gì?

Thằng bé nghĩ thầm:

"Đã muốn hỏi tên, ta cho một tên giả xem sao". Hắn nói:

- Tôi dòng họ Tần, tên là Tác-Xà.

Lời nói ấy làm cho Quách-Tỉnh thất vọng, nhưng chưa thôi, Quách-Tỉnh còn muốn hỏi nữa, nhưng thằng bé cứ vùng vằng mãi không chịu đáp lời.

Đằng kia, mẹ con Hoàng-Dung đang tâm sự với nhau. Quách-Phù kể cho mẹ nghe những biến cố vừa xảy ra từ chuyện gia đình họ Lục đến chuyện đôi chim ưng rồi đến chuyện con chim hồng mổ vào mắt Lý-mạc-Thu.

Hoàng-Dung nghe đến đó liền hỏi:

- Thế con chim hồng đó có phải đến cùng một lúc với người thiếu niên này chăng?

Quách-Phù gật đầu.

Hoàng-Dung liền dắt con chạy đến bên Quách-Tỉnh và thằng bé, nói:

- Phải em họ Dương tên Qua chăng. Mẹ em là dòng dõi họ Tần phải không?

Chính người thiếu niên đó là Dương-Qua. Khi thấy mình lộ tông tích, Dương-Qua nổi giận hầm hầm, chất độc trong người thừa cơ hội ngấm vào rất mau làm cho choáng váng rồi ngã xuống đất bất tỉnh.

Hốt hoảng, Hoàng-Dung đỡ nó dậy, lay mấy lần và điểm luôn mấy huyệt hồi sinh, nhưng nó vẫn chưa tỉnh. Đôi mắt nó thiêm thiếp, hơi thở thoi thóp trông rất yếu ớt.

Quách-Tỉnh ra dáng suy nghĩ vừa lo mừng. Chàng nói:

- Thôi đúng rồi! Nó là con của Dương-Khang.

Hoàng-Dung thấy tình trạng của Dương-Qua tối nguy ngập, nhiễm độc trầm trọng không biết cách nào để chữa được giữa nơi hoang vắng, liền tỏ ý kiến:

- Chúng ta phải mau mau mang nó về khách điếm rồi ra phố bổ thuốc mới mong điều trị.

Quách-Tỉnh theo lời cõng Dương-Qua. Còn mọi người cũng nhanh chân theo sau hướng về phía thị trấn.

Đến khách điếm họ đặt Dương-Qua vào phòng an nghỉ rồi lo đi tìm dược liệu; Hoàng-Dung bươn bả chạy ra phố, nhưng rủi thay phố xá ở đây nhỏ bé, mười vị thuốc trong toa chỉ tìm được năm vị còn biết làm sao!

Quách-Tỉnh buồn bã vô hạn, bảo vợ:

- Hay là chúng ta đi vào rừng tìm thuốc?

Thấy vẻ băn khoăn của Quách-Tỉnh, Hoàng-Dung rõ tâm trạng của chồng từ khi Dương-Khang mất, không lúc nào Quách-Tỉnh khuây tình thương nhớ. May gặp được con của người xưa, những tưởng ít ra cũng được khuây khỏa đôi phần, ngờ đâu Dương-Qua lại ở vào tình trạng hiểm nghèo ấy.

Tuy không tin tưởng trong rừng có thể tìm được thuốc giải độc cho Dương-Qua, nhưng Hoàng-Dung cũng chiều theo để an ủi lòng chồng.

Hai người dặn Quách-Phù không được ra khỏi khách điếm và gởi gắm Dương-Qua cho Kha-trấn-ác xem chừng.

Dương-Qua mê man đến khuya vẫn chưa tỉnh. Kha-trấn-ác thỉnh thoảng vào phòng xem chừng thấy thế buồn bực vô cùng, song ông ta cũng chẳng dám ở luôn bên cạnh Dương-Qua, vì sợ cô bé Quách-Phù đang đêm buồn bực bỏ ra ngoài thì khốn.

Dương-Qua mê man như thế chẳng biết đã bao lâu, nhưng đến một chừng nào đó nó nghe như có người đấm bóp vào ác huyệt, lúc ở bụng, lúc ở vai nó, nó có cảm giác đau điếng rồi nó dần dần tỉnh lại, trong người sảng khoái. Nó từ từ mở mắt thì thấy một bóng người vụt ra nơi cửa sổ. Dương Qua dụi mắt, lồm cồm ngồi dậy, lần bước ra phía cửa sổ, rồi đánh phóc một cái, nó nhảy theo cái bóng người vừa biến đi.

Trên mái ngói, một ông lão, đoạn ông lão cắm đầu xuống đất chổng chân lên trời và đã bắt nó gọi bằng cha. Đích thị lão già kỳ dị ấy rồi.

Dương-Qua hỏi:

- Có phải ông đó không?

Bóng người trả lời:

- Sao con không gọi bằng cha?

Dương-Qua miễn cưỡng nói:

- Cha đấy ư? Thưa cha! Cha từ đâu đến?

Ông già hoan hỉ gọi:

- Con! Con ơi! Con hãy lại đây.

Dương-Qua nhảy lên mái ngói rất gọn gàng đu mình về phía ông già. Tuy nhiên sức nó còn yếu nên bị ngã quỵ xuống, và la lên một tiếng:

- Chao ôi!

Ông lão vốn đi ngược thân nên hạ mình xuống một cách lẹ làng đưa bàn tay đỡ lấy Dương-Qua bồng lên trên mái.

Phút chốc, nơi phòng trong có tiếng lao xao, và ánh đèn sáng rực, ông lão sợ mọi người phát giác tung tích của mình vội vã xốc ngược Dương Qua, và cứ cài đà ngược thân băng mình phi hành xuất dạng.

Kha-trấn-ác nghe tiếng động nhảy lên mái nhà nhưng không còn kịp nữa. Lão xem xét bốn bề không còn dấu vết gì nên trở lại phòng riêng.

Lão già kỳ dị chạy ra khỏi thị trấn đến một nơi đồng không mông quạnh, liền dừng chân, đặt Dương-Qua xuống đất và nói:

- Bây giờ con hãy tiếp tục học tập cách chữa độc.

Dương-Qua thực hành theo lời chỉ giáo của lão, chẳng mấy chốc nó cảm thấy sức lực bình phục như xưa.

Lão già khen:

- Con thật quả thông minh dĩnh ngộ hơn cha hồi nhỏ nhiều. Thật con xứng đáng là con của cha đó.

Lão già ôm Dương-Qua vào lòng mà trí tưởng tượng như đang ôm đứa con thật của lão. Hai dòng nước mắt của lão từ từ chảy xuống đôi gò má nhăn nheo của một người cha đau khổ.

Dương-Qua từ nhỏ bị mồ côi cha, đến lúc lên năm người mẹ bị rắn độc cắn chết, thế là thằng bé mồ côi phải một mình sống trong khổ cực, nay đây mai đó tìm kế sanh nhai. Trong cuộc sống lưu linh đó, đã nhuộm cho thằng bé đầy đắng cay tủi nhục. Trái tim non nớt của nó phải cứng rắn lên và chất chứa đầy ác cảm với xã hội loài người. Đối với lão già kỳ dị xưa nay chưa hề quen biết nay phải nhận làm cha, dẫu rằng cha nuôi nó cũng không thể không nghi ngờ dè dặt. Ai dám bảo lão già kia không lợi dụng tình phụ tử thiêng liêng để nhử nó vào vòng cạm bẫy. Mặc dầu nó tha thiết tình gia đình thật, song đời đã bắt nó có nhiều quan niệm ác cảm.

Tuy nhiên, những giọt nước mắt của ông lão làm cho nó cảm động. Nó ôm chặt vào cổ ông ta sụt sùi nói:

- Cha! Cha!

Nó kêu lên những tiếng "cha" rất tha thiết và thành thật.

Và, đôi già trẻ cùng một nhịp yêu đương. Họ ôm nhau, nhìn nhau với những quan niệm sống mãi không rời. Người ta tưởng như không có cái gì có thể chia rẽ được mối tình thiết tha đó.

Đôi mắt lão già ước chừng như muốn nói với Dương-Qua:

- Con ơi con! Từ nay kẻ nào xúc phạm đến tánh mạng của con tức là đã xúc phạm đến tánh mạng của cha vậy".

Dương-Qua ôm ông lão kêu cha không biết chán.

Trong phút thống thiết, ông lão vui vẻ bảo con:

- Con ơi! Cha sẽ truyền cho con ngón võ đắc ý nhất và lợi hại nhất của đời cha.

Dứt lời, ông lão ngồi chồm hỗm xuống đất, tất cả sức nặng con người chỉ tựa vào mỏm hai ngón chân, hai ngón tay co rút lại.

Dương-Qua nhìn thấy ông ta giống như một pho thần tượng chạm trong thế bất động nhưng linh hoạt lạ thường, từ cặp mắt đứng trông như thoát ra hai luồng hào quang đầy sát khí, khiến cho đối phương phải bị áp đảo ngay lúc ban đầu không kịp đối phó.

Bỗng lão già rống lên mấy tiếng "oạng! oạng! oạng!" như tiếng ễnh trong, toàn thân tung khỏi điểm tựa như một phát tên, hai tay vụt tung ra đấm một bức tường đất gần đấy, bức tường tan biến thành khói bụi mịt mờ, và khi khói bụi lắng xuống, ông lão vẫn y nguyên trong thế cũ, vững chắc như bình địa.

Dương-Qua khâm phục vô cùng, nói:

- Thưa cha, ngón võ ấy gọi là gì mà cao kỳ thế? Con có thể học được chăng?

Lão già đáp:

- Ngón đó gọi là "Hàm mổ công" con chỉ cần chịu khó tập luyện là thành.

Dương-Qua đáp:

- Nếu con học được ngón võ đó nhất định không còn ai dám khinh con nữa.

Lão già nhướng mắt với vẻ tự cao tự đại nói:

- Ai dám khinh con, thì kẻ ấy sẽ bị ta đánh ta xương nát thịt.

Lão già ấy không phải ai xa lạ trong giới võ lâm mà chính là Tây-độc Âu-dương-Phong. Từ ngày tuân kiêm ở Hoa-Gia bị Hoàng-Dung dùng kế đánh bại ông ta cầm tức như điên như dại. Đã mười năm qua ông ta không còn biết mình là ai nữa. Có những lúc trí nhớ trở lại nhưng lờ mờ. Âu-dương-Phong tự hỏi:

- Ta là ai nhỉ?

Nhưng lục soát trong ký ức, Tây-Độc vẫn không sao tìm ra một tia sáng.

Gần đây, Âu-dương-Phong đã khổ công ôn luyện món "Cửu âm chân kinh" nên sức lực có gia tăng, và trí não cũng có phần sáng sủa đi nhiều. Nhưng có sáng suốt là sáng suốt với việc đời, còn về dĩ vãng chẳng biết sự tức bực trước kia đến độ nào đã làm cho ông ta quên bẵng đi cả dĩ vãng. Ông ta vẫn có lúc điên điên dại dại không thể nào nhớ được những sự tình trong quá khứ.

Và câu hỏi "Ta là ai?" cứ lảng vảng trong trí. Âu-Dương-Phong vẫn không tìm ra câu giải đáp.

Thế là Âu-Dương-Phong ra công tập luyện cho Dương-Qua ngón võ "Hàm mổ công" một ngón võ lợi hại biến hoá tinh vi ảo điệu vô cùng, một ngón võ đã từng làm chấn động giới võ lâm đương thời mà từ trước đến nay ông ta nhất quyết không truyền dạy cho ai dẫu là con ruột của mình.

Dương-Qua khổ công tập luyện, nhưng khốn nỗi, Dương-Qua căn bản võ công chưa có bao nhiêu nên không thể nào thu nhận nổi, dẫu cố gắng cũng chẳng đoạt được mức tinh vi.

Âu-dương-Phong rất bực mình muốn tát vào mặt Dương-Qua mấy cái cho đã giận, nhưng không nỡ vì Dương-Qua với vẻ mặt hiền lành cương quyết, cố gắng tập luyện.

Dạy mãi mà không được, Âu-dương-Phong chán nản nói với Dương-Qua:

- Thôi, ta hãy tạm nghỉ đến mai sẽ hay.

Dương-Qua vâng lời, nhưng nhớ lại thái độ kiêu căng của con bé Quách-Phù, chê bàn tay đen nhiễm độc, Dương-Qua không muốn trở về với Quách-Tỉnh nữa. Nó nói:

- Cha ôi! Con theo cha, không muốn trở về với họ nữa.

Tuy Âu-Dương-Phong mơ hồ đối với tình quá khứ, mà việc hiện tại rất minh mẫn dị kỳ, vì thế ông khuyên Dương-Qua:

- Con hãy nghe cha, trí óc của cha ngày nay bất thường lúc điên, lúc dại, nếu con theo cha con có thể luỵ vào thân. Thôi, con cứ trở về với họ, lúc nào có cơ hội cha con ta sẽ trùng phùng, và lúc đó chẳng có một mãnh lực nào có thể xa cách cha con ta được.

Dương-Qua từ khi mất mẹ chưa bao giờ được nghe những lời nói thành thực và thống thiết như vậy. Nó vòng tay thưa:

- Vâng! Con xin nghe theo lời cha chỉ giáo. Nhưng xin cha hãy sớm tìm con nhé!

Âu-dương-Phong gật đầu, nói:

- Con khỏi phải lo. Dù con ở nơi chân trời góc bể, hoặc bất cứ nơi nào cha cũng tìm được.

Dứt lời, Âu-dương-Phong xốc Dương-Qua phi thẳng đến khách điếm.

Kha-trấn-ác đến phòng lần đầu chẳng thấy Dương-Qua trên giường, vừa lạ lùng vừa lo lắng. Lúc trở lại lần nữa thì Dương-Qua đã về, hắn nằm sải trên giường. Kha-trấn-ác định vào hỏi thì bỗng trên mái ngói có tiếng động. Nhờ thính tai, Kha-trấn-ác nhận ra đó là hành động của đôi hiệp sĩ cao cường vừa về. Ông ta chạy sang phòng bên, đem Quách-Phù vào giường Dương-Qua rồi vác thiết trượng đứng canh chừng.

Quả nhiên, tiếng động phi hành dần dần tiến gần, và có giọng nói nho nhỏ:

- Em Dung! Em xem có phải chính nó không?

Một giọng khác đáp:

- Kỳ quái thật! Chẳng biết có phải nó không?

Nghe rõ giọng nói đó là giọng nói của vợ chồng Quách-Tỉnh, Kha-trấn-ác yên tâm, mở cửa mời hai người vào.

Hoàng-Dung hỏi:

- Thưa sư phụ, chẳng hay sư phụ có thấy việc gì vừa xảy ra không?

Kha-trấn-ác đáp:

- Chẳng có việc gì cả.

Hoàng-Dung nói:

- Không lý chúng ta nhìn lầm.

Quách-Tỉnh nói:

- Không! Nhất định là nó!

Kha-trấn-ác hỏi:

- Nó là ai thế?

Hoàng-Dung lấy tay kéo áo Quách-Tỉnh ý không muốn để Quách-Tỉnh trả lời. Nhưng Quách-Tỉnh đối với sư phụ bao giờ cũng tỏ ra thành kính không giấu giếm một việc gì dẫu là việc nhỏ mọn, liền thưa:

- Thưa sư phụ, nó chính là Âu-dương-Phong.

Bình sanh Kha-trấn-ác chỉ ngại độc nhất có Âu-dương-Phong, nên khi nghe Quách-Tỉnh nói đến tên ông ta biến nhẹ, hạ giọng nói nhỏ:

- Âu-dương-Phong? Thế ra nó chưa chết sao?

Quách-Tỉnh nói:

- Chúng con vừa đi kiếm thuốc về bỗng thấy trên mái ngói có một bóng người khả nghi có lối phi thân đặc sắc. Chúng con liền đuổi theo nhưng không tìm thấy tông tích gì cả. Từ dáng điệu cho đến lối phi thân, bóng ấy giống hệt Âu-dương-Phong không khác gì cả.

Kha-trấn-ác vốn biết môn đệ của mình cẩn thận và chín chắn khi nói điều gì thì đã cân nhắc và suy nghĩ kỹ. Bởi thế, Kha-trấn-ác không còn nghi ngờ gì nữa, và tin chắc Tây-độc Âu-dương-Phong hiện giờ còn lẩn quẩn đâu đây.

Quách-Tỉnh quay về phía Dương-Qua, thấy sắc diện của thằng bé trở nên hồng hào, hơi thở điều hoà và đang ngủ say, lấy làm mừng rỡ, gọi vô nói:

- Em Dung ơi! Nó đã tỉnh rồi!

Thật ra Dương-Qua lúc ấy giả ngủ để nghe trộm câu chuyện của mấy người. Được biết tên nghĩa phụ mình là Âu-Dương-Phong và thấy cả ba hiệp sĩ đều sợ uy danh của nghĩa phụ nó nên lòng nó rất hoan hỉ.

Hoàng-Dung đến sát bên giường Dương-Qua, xem lại sắc mặt và vết thương ở bàn tay rồi lấy làm kinh ngạc.

Đôi vợ chồng đã lùng khắp mọi nơi nhưng chưa tìm ra những dược thảo cần thiết, đành thất vọng trở về không ngờ bệnh nhân không cần thang thuốc mà trở lại trạng thái bình thường như thế. Sự việc làm cho vợ chồng Quách-Tỉnh thắc mắc không ít.

Thậy vậy, chỉ có phép lạ mới có thể cứu Dương-Qua thoát khỏi tử thần.

Qua ngày sau, mọi người từ biệt khách điếm trở về đảo Đào-Hoa.

Nhưng tối hôm đó, trên đường về họ lại ghé vào một tửu điếm để nghỉ chân.

Kha-trấn-ác và Dương-Qua nghỉ một phòng, còn vợ chồng Quách-Tỉnh và con gái nghỉ một phòng.

Vào nửa đêm, bỗng nghe trên mái ngói có tiếng động, rồi kế đến nơi phòng bên cạnh có tiếng la lớn. Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung chồm dậy, phóng mình ra cửa sổ thì thấy hai cái bóng người đang quần nhau chiến đấu vô cùng kịch liệt. Một lúc, bỗng nghe một tiếng phịch, rồi một xác người từ trên đỉnh mái nhà rơi xuống.

Hồi 6 : Mối Thâm thù trong cổ miếu

Người ngã từ trên mái nhà xuống hình như đã trúng phải một quả chưởng thôi sơn, nên thân mềm nhũn, chân tay bụi xụi.

Phàm trong nguyên tắc vũ công một vũ sĩ bị té bất kỳ trường hợp nào, thân hình phải co lại, tay ôm chặt lấy chân, đều thu gọn vào giữa hai đầu gối, như vậy tai nạn sẽ được hạn chế mà tính mạng sẽ được bảo đảm.

Nhìn qua lối rơi của người bạn trận, bọn người Quách-Tỉnh có cảm giác như người ấy phải bị một tai họa ghê gớm.

May thay, lúc đó Hoàng-Dung phóng mình ra kịp, đưa tay đỡ. Nạn nhân vừa được húng đặt xuống đất thì Hoàng-Dung đã bung người nhảy lên mái ngói. Quách-Tỉnh cũng nhảy theo.

Chỉ trong loáng mắt Hoàng-Dung đã chặn đứng đối phương để so tài sao thấp.

Hoàng-Dung biểu diễn những đường võ cực kỳ lợi hại, đến liên tiếp trong mười hiệp nàng mới cảm thấy võ công của nàng lúc nầy còn tinh tế hơn cách đây mười năm.

Mà đối thủ của nàng lúc đó không ai xa lạ chính là lão Tây-độc Âu-dương-Phong vậy.

Âu-dương-Phong cũng tỏ ra không kém, quả là danh bất hư truyền. Lão tiến thối công thủ một mực chín chắn, trầm tĩnh không để lộ một sắc thái nào để cho đối thủ có thể đo lường được sức lực và chiến thuật của mình.

Hoàng-Dung đánh một lúc bỗng la lớn:

- Âu-Dương tiên sinh:

Tây-Độc nghe tiếng kêu ngơ ngác hỏi:

- Ngươi gọi ta là gì?

Đường quyền của lão trở nên chểnh mảng, lão lui về thế thủ.

Chính vì hai tiếng "Âu-dương" đã nhắc cho lão nhớ mang máng cái gì trong ký ức, nhưng lão không rõ hai tiếng đó do đâu mà lão có cảm giác quen thuộc.

Vừa chống đỡ những đòn chưởng của Hoàng-Dung, lão vừa hỏi:

- Ngươi vừa gọi ta là gì nhỉ?

Quách-Tỉnh điềm tĩnh chờ Hoàng-Dung trả lời, nhưng Hoàng-Dung biết lão còn trong điên dại, chưa thoát khỏi việc uất ức phát khởi từ lúc thất bại ở Hoa-sơn, nên nàng ranh mãnh trả lời:

-Tôi gọi tiên sinh là... Triệu-Tiễn, Tôn-Lý, là Châu-Ngô Trần-Vương.

Hoàng-Dung đọc một tràng tên họ cốt để làm rối loạn thêm tinh thần Âu-dương-Phong.

Tội nghiệp cho lão đã ngơ ngác lại càng ngơ ngác không hiểu gì cả.

Quách-Tỉnh vốn tánh thuần hậu không nỡ để cho vợ mình tấn công một ông lão còn đang trong tình trạng bất thường nên xen vào nói:

- Ông lão ơi! Ông nên đi nơi khác! Tốt hơn đừng bao giờ ta gặp nhau nữa.

Giữa lúc đó, bỗng từ đàng sau có tiếng hét lớn:

- Mày chính là tên độc ác nhứt đời, đã một tay sát hại năm vị anh hùng huynh đệ của đời ta.

Tiếng hét vừa dứt thì bóng cây thiết trượng vừa bổ xuống ngang lưng Âu-dương-Phong.

Tiếng thét ấy chính là của Kha-trấn-ác, thủ lãnh nhất hùng nổi tiếng đất Giang-nam.

Quách-Tỉnh hoảng kinh vội la lớn:

- Hãy khoan tay! Sư phụ!

Nhưng đã trễ, cây thiết trượng đã bổ nhào xuống lưng Âu-dương-Phong.

Mà lạ thay! Cây thiết trượng vừa đánh xuống lại dội lên rồi văng khỏi tay Kha-trấn-ác kéo cả người theo.

Chiếc vũ khí nầy vốn nặng ngàn cân, lại bị tung rất mãnh liệt, lúc rơi vào mái nhà phá tan một lỗ ngói, đến lúc rớt xuống đất trúng phải một khách trú đang mơ màng giấc điệp, làm cho người khách nầy bị gãy cả hai chân, nên la thảm thiết.

Quách-Tỉnh thấy Kha-trấn-ác cùng vũ khí rơi xuống một lượt, chàng không lo ngại cho sinh mạng Kha-trấn-ác mà chỉ lo việc Âu-dương-Phong đuổi theo. Chàng liền nhảy ra nghênh địch, hét lớn:

- Âu-dương-Phong! Hãy xem đây!

Đoạn Quách-Tỉnh múa hai tay thành hai vòng khuyên, thoăn thoắt tới lui vừa thủ thế vừa khiêu khích.

Đó là ngón võ đắc ý nhất của Quách-Tỉnh, một trong mười tám đường độc đáo gọi là "Giáng long" mà từ mười năm trước Quách-Tỉnh nhờ nó mới nổi tiếng khi đương cự với các anh hùng trong thiên hạ.

Âu-dương-Phong vừa vận dụng quá nhiều sức lực để đánh bật Kha-trấn-ác, nên cảm thấy trong người thiếu hơi thở, lại đứng ngược chiều gió nên càng thấy ngột ngạt khó chịu.

Trước ngón đòn danh tiếng của Quách-Tỉnh, Âu-dương-Phong không thể khinh địch, lão liền xoay lại tránh hướng gió, và phóng mình xuống để thi thố ngón "Hàm mô công". Thế là hai kỳ phùng địch thủ đã đem sở trường của mình để đối chọi với nhau.

Quách-Tỉnh càng tiến sát vào địch thủ thì chưởng lực càng tăng. Mà Âu-dương-Phong càng chờ đợi thì chưởng lực càng tập trung thêm.

Khi hai bên sắp sáp chiếu, Âu-dương-Phong miệng "ngoạp! ngoạp! ngoạp!" mấy tiếng, hai tay tung ra như hai lưỡi búa. Nhưng gặp phải chưởng lực "Giáng long" của Quách-Tỉnh làm cho thân thế hai địch thủ đều tăng lên cao chấn động cả một bầu không khí.

Đã mười năm qua không gặp nhau lần này quả thật là lần kỳ ngộ giữa đôi anh hùng.

Cuộc đấu của họ ngày nay không phải hào hùng trong đường quyền hay đấu pháp, mà chính trong nội công chiến đấu. Họ đóng phí sức lực vào những ngón võ tầm thường, vào chưởng lực để thách thức nhau sức chịu đựng sức tập luyện công phu. Cho nên mỗi lần chưởng lực gặp nhau là mỗi lần bị sức phản ứng. Sức phản ứng phát ra làm rung rinh mọi vật, lá cây rơi lác đác, ngói nhà nứt răng rắc.

Cuộc đấu chiến chỉ trong giây lát mà một khoảng mái nhà làm đấu trường chịu không nổi bị vẹo xuống vỡ lở như một chiếc bành tráng bể. Hai đối thủ cùng bị rơi xuống đất một lúc. Tình cờ họ lại rơi ngay vào phòng, nơi mà người khách bất hạnh bị chiếc thiết trượng của Kha-trấn-ác làm gãy chân lúc nãy. Nào ngói, nào gạch, nào cây cối chôn lấp nạn nhân, chỉ còn nghe tiếng rên siết.

Hai hiệp sĩ đứng trên đống ngói vụn, họ vờn nhau xung quanh một cột trụ trên tiếng rên thảm thiết của kẻ khốn nạn. Không ai mà cả hai đối thủ đều chẳng dám vận dụng chưởng lực sợ thân hình của nạn nhân sẽ bị nát bấy dưới mấy bàn chân tưa.

Hoàng-Dung vừa nhảy xuống thấy tình thế không lợi cho Quách-Tỉnh vì đối với Tây-độc Âu-dương-Phong mà chiến đấu ngoài vòng chưởng lực Giáng-long thì khó mong thắng được.

Như thế, Hoàng-Dung thấy trước cái hại của Quách-Tỉnh nên lanh trí la lớn:

- A! Trương-Ba! Lý-Bôn! Triệu-Năm! Hãy xem đây.

Dứt lời, nàng đánh một chưởng rất nhẹ vào lưng Âu-dương-Phong. Chưởng ấy thuộc vào loại Lạc-Anh chưởng pháp: một loại chưởng tuy nhẹ nhàng song trúng phải thì dù gân cốt có luyện tập cường tráng như Âu-dương-Phong cũng phải tê liệt và nội tạng sẽ bị hoàn toàn rối loạn.

Tuy nhiên, Âu-dương-Phong vừa nghe Hoàng-Dung thốt lên câu nói dị thường, biết rằng nàng dùng thủ đoạn tâm lý để tấn công bất ngờ nên lão đã chuẩn bị trước.

Quả nhiên, đòn chưởng Lạc-Anh vừa hạ xuống thì bị quả thôi sơn của Tây-độc đánh bạt đội trúng Quách-Tỉnh văng ra xa còn Hoàng-Dung té xuống đất.

Muốn áp đảo đối phương, Âu-dương-Phong một lúc phải dùng quả thôi sơn đánh ngã hai đối thủ, nên ông ta cũng lăn lộn, vì ông ta đã đánh phải tấm giáp bào bằng da nhím của Hoàng-Dung. Chính tấm giáp này đã làm cho Âu-dương-Phong lảo đảo.

Cả ba đấu thủ đều lo lắng sợ phần thất bại về mình. Họ không còn kể gì đến nạn nhân bị gãy chân rên siết nữa, họ vận dụng hết chưởng lực để một còn một mất trong trận đấu cuối cùng.

Nhưng chưởng lực họ càng tập trung thì không khí càng ngưng đọng khiến cho hơi thở của mỗi người dần dần đi đến chỗ ngột ngạt.

Bỗng Quách-Tỉnh và Âu-dương-Phong cùng thổi lên một lượt vừa để ra hiệu khai chiến, vừa để thu hút một ít không khí dự trữ cho cuộc đấu.

Không khí vốn đã bị ngưng đọng vì chưởng lực tập trung lại bị đốt phá vì âm thanh của hai tiếng thét cùng phát đi một lúc làm chấn động cả toà nhà mái tường ào ào sập đổ. Mọi người trong khách điếm tưởng như đến giờ tận thế kéo nhau chạy ra khóc lóc. Tiếng kêu ơi ới giữa cảnh ngói đổ nhà tan.

Quách-Tỉnh và Âu-dương-Phong hét xong thì người nào cũng bị máu trào ra khỏi họng, lại gặp lúc tường xiên nhà sập, khói bụi mịt mờ, không còn thấy ai nữa.

Mãi đến lúc vợ chồng Quách-Tỉnh dìu nhau ra khỏi nơi đó thì không còn thấy bóng Âu-dương-Phong đâu nữa.

Một người a hoàn mách lại rằng nó có thấy bóng một lão già phi thân ngược đầu về hướng đông.

Hoàng-Dung gặp Kha-trấn-ác đang bế Quách-Tỉnh vào lòng liền nói:

- Thưa sư phụ, nhờ sư phụ trao lại con bé Quách-Phù cho con và cõng Quách-Tỉnh ra khỏi nơi nầy tìm chốn trú ẩn rồi sẽ hay.

Thế rồi, cả bọn người cõng người dắt cùng nhau tiến về hướng đông.

Bấy giờ, Quách-Tỉnh tinh thần vẫn minh mẫn nhưng không nói được vì chưởng lực của Âu-dương-Phong đánh trúng vào lưng và cũng vì phí sức quá nhiều vào việc tập trung chưởng lực.

Nằm trên lưng Kha-trấn-ác lắc lư theo nhịp bước. Quách-Tỉnh lần lần lấy lại sức, hơi thở điều hoà và chưa được bao nhiêu thì Quách-Tỉnh tỉnh hẳn.

Chàng nói với Kha-trấn-ác:

- Thưa sư phụ, con đã hồi sinh, xin sư phụ để con xuống.

Kha-trấn-ác mừng rỡ hỏi:

- Con đã bình phục sao?

Quách-Tỉnh gật đầu thưa:

- Lão Âu-dương-Phong quả thật lợi hại! Giao đấu với hắn chỉ mấy hiệp mà tổn đến bao nhiêu sức lực.

Rồi Quách-Tỉnh nhìn quanh không thấy Dương-Qua đâu liền hỏi:

- Dương-Qua sao không thấy tung hành?

Kha-trấn-ác không biết Dương-Qua là tên đứa bé nên ngơ ngác nhìn, Hoàng-Dung vội đỡ lời đáp:

- Anh đừng bận tâm. Chúng ta hãy tìm nơi trú ngụ đã. Còn thằng bé em sẽ đi tìm sau.

Bấy giờ trời đã mờ sáng, vạn vật bắt đầu hiện ra dưới màn sương đục. Quách-Tỉnh nói:

- Thương tích của anh đã đỡ. Vậy để anh cùng em đi tìm Dương-Qua.

Hoàng-Dung cau mày nói:

- Thằng bé nầy lanh lợi lắm! Hơi đâu mà lo.

Quả thật, Hoàng-Dung vừa dứt lời thì thấy xa xa bên kia đường sau một phiến đá trắng thấp thoáng bóng một đứa bé. Hoàng-Dung băng đường chạy đến xem thì quả nhiên là Dương-Qua.

Thằng bé cười hì hì thưa:

- Thưa chú! Thưa thím!

Giọng nói nọ tự nhiên và dịu dàng như đã quen thuộc từ lâu. Và hình như nó đã quen dùng lối xưng hô thân mật này đối với người xa lạ.

Hắn nói tiếp:

- Con chờ mãi chú thím mới đến.

Hoàng-Dung nghi hoặc nhưng chưa khám phá ra được điều gì khả dĩ đành phải làm lơ để dò xét. Nàng giả như không quan tâm, nói:

- Thôi, cháu hãy mau theo chúng ta.

Dương-Qua vừa cười, vừa lểnh mểnh chạy theo sau.

Quách-Phù bấy giờ đã tỉnh ngủ, thấy Dương-Qua, mừng rỡ nói:

- Anh đi đâu đến bây giờ mới thấy mặt.

Dương-Qua trả lời:

- Tôi đi bắt dế! Thật vui đáo để.

Quách-Phù bĩu môi hỏi lại:

- Vui gì tuồng chơi dế! Anh thấy vui thế nào?

Dương-Qua kể:

- Trời ơi! Sao lại không vui! Này, một con dế lớn đấu với ba con dế nhỏ, rồi hai con dế nhỏ nữa phụ lực. Thế là tất cả có năm con dế nhỏ đấu với một con dế lớn. Nhưng con dế lớn một mình cự cả năm con dế nhỏ, hẩy con này ngã bên này, con kia ngã bên kia...

Nói đến đây Dương-Qua im bặt, khiến cho Quách-Phù tò mò hỏi:

- Thế rồi sao nữa?

Dương-Qua chẩu miệng nói:

- Bảo rằng chơi dế không vui sao còn hỏi làm gì?

Quách-Phù phật ý không thèm hỏi, cũng chẳng nhìn mặt Dương-Qua nữa.

Hoàng-Dung tinh ý, biết đứa nhỏ nầy không phải quá ngây ngô đơn giản, liền hỏi dò:

- Thế sao cháu bảo là mãi đi tìm chúng ta? Thì giờ đâu mà cháu đi coi đá dế. Chẳng hay dế ấy của ai vậy?

Dương-Qua không suy nghĩ, trả lời:

- Cháu vừa xem đấu dế, vừa chờ chú thím. Cháu đến đây thì dế đã tản mác hết rồi.

Cả đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, phút chốc đã đến một thôn nhỏ. Họ gõ cửa một thất viên lớn mà chủ nhân nổi tiếng là người trọng khách.

Thấy Quách-Tỉnh thọ thương, chủ nhân sai gia đình dọn dẹp chỗ nghỉ ngơi rồi lo cơm nước.

Quách-Tỉnh ăn qua loa mấy miếng rồi lên giường an giấc. Còn Hoàng-Dung thấy chồng ngủ ngon, biết thương tích không đáng kể, liền vào phòng riêng để xem lại chiếc giáp lông nhím mà nàng dùng làm vật hộ thân. Đó là một bảo vật của Đào-hoa đảo đã từng cưú mạng Hoàng-Dung nhiều lần. Nhưng khi Hoàng-Dung vừa cởi nó ra thì thấy sau lưng chiếc giáp đều bấy nát, nàng lấy tay rờ áo thì chiếc giáp rơi ra một mãnh lớn đúng hình chiếc chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong.

Hoàng-Dung vừa khiếp sợ chưởng lực của Âu-dương-Phong vừa tiếc cho một bảo vật bị huỷ phá.

Nàng trở lại bên cạnh chồng cầm chiếc quạt phe phẩy cho Quách-Tỉnh ngủ. Đôi mắt nàng lim dim mà trong trí nàng lại hiện ra hình ảnh của thằng bé Dương-Qua với trăm ngàn câu hỏi thắc mắc.

Rõ ràng lúc Âu-dương-Phong đánh hạ Vũ-tam-Thông rơi xuống đất, Dương-Qua đã cùng Quách-Tỉnh nhảy lên mái ngói chứng kiến. Thằng bé lại có mặt lúc các đấu thủ đấu nhau ở trên đống ngói vụn. Hoàng-Dung lại còn nhớ rõ lúc nàng nhảy xuống lỗ hổng để bảo vệ Quách-Tỉnh thì nó cũng có mặt bên cạnh. Nhưng lạ thay, nơi nó đứng cũng không ngoài tầm chưởng lực của Âu-dương-Phong, thế mà sao nó không sợ hãi, mà vì sao Âu-dương-Phong lại không hạ nó? Rồi đến lúc cả đôi vợ chồng bị đả thương sao nó lại biến mất giữa cảnh nhà hư đổ nát để rồi xuất hiện đúng lúc tại nơi đây?

Nhưng nỗi thắc mắc nầy Hoàng-Dung một mình tự tìm lấy câu giải đáp, và nhất cử nhất động đều để ý đến Dương-Qua.

Đêm hôm ấy, không có gì lạ xảy ra. Kha-trấn-ác và Dương-Qua cùng nghỉ chung một phóng nhỏ. Vào khoảng nửa đêm, Dương-Qua thức dậy, rón rén mở cửa, nhẹ nhàng bước ra ngoài. Nhìn lại nó thấy Kha-trấn-ác ngủ say trong mỏi mệt, nó leo qua đầu tường, vừa định buông người xuống thì hai con chó trông thấy cất tiếng sủa. Nó đã chuẩn bị trước hai cục xương bò từ bữa ăn chiều, liền quăng ra. Hai con chó được mồi ngon dành nhau tha chạy mất.

Bấy giờ Dương-Qua cẩn thận nhảy xuống. Và sau khi nhìn sao nó hướng về phía tây đi thẳng.

Đi được bảy tám dặm đường đến một ngôi cổ miếu, Dương-Qua bước vào đẩy cổng, gọi nhỏ:

- Cha ơi! cha! Con đến đây!

Có tiếng đáp nhỏ của Âu-dương-Phong. Hắn mừng rỡ chạy vào thấy nghĩa phụ của hắn đang nằm dài trước một pho tượng, hơi thở mệt nhọc.

ấy vì Âu-dương-Phong đã có tuổi mà đấu với Quách-Tỉnh một đối thủ anh hùng, nên mất nhiều sức và lâu phục hồi. Còn Quách-Tỉnh trong tuổi thành niên, dẫu mệt nhọc nhưng dễ mau lại sức.

Dương-Qua ngồi một bên, rút trong túi lấy ra mấy chiếc bánh lột vỏ đút vào miệng Âu-dương-Phong.

Lão già ăn xong hỏi:

- Bọn chúng bây giờ ở đâu?

Dương-Qua nhất nhất kể lại đầu đuôi mọi chuyện cho Âu-dương-Phong nghe.

Chắc độc giả thắc mắc tại sao Dương-Qua biết Âu-dương-Phong ngụ nơi cổ miếu mà tìm đến.

Nguyên vì khi Dương-Qua cùng vợ chồng Quách-Tỉnh trú ngụ trong khách điếm thì vào khoảng nửa đêm Âu-dương-Phong đến tìm, thăm nghĩa tử.

Tình cờ đêm ấy Vũ-tam-Thông sau khi bị Lý-mạc-Thu đả thương cũng đến trú ngụ cùng một khách điếm. Cả đêm bị vết thương hành, Vũ-tam-Thông không thể nào chợp mắt được. Bỗng nghe tiếng động trên mái nhà, Vũ-tam-Thông ngỡ Lý-mạc-Thu trở lại, nên mặc dù đang đau ông ta cũng đăng thân lên mái nhà để nghênh chiến.

Chẳng ngờ trên mái nhà không phải là Lý-mạc-Thu mà lại là Âu-dương-Phong, một địch thủ đã từng làm đánh gục Vũ-tam-Thông lúc thiếu thời.

Thật ra, Vũ-tam-Thông không có ý đấu với Âu-dương-Phong trong lúc nầy, nhưng đã gặp tất phải ra tay. Hai bên đánh chưa đầy mười hiệp, Âu-dương-Phong dùng chưởng thuật đánh rơi Vũ-tam-Thông xuống đất. Rồi kế đó là cuộc đấu chiến với vợ chồng Quách-Tỉnh. Mọi việc đều xảy ra trước mắt Dương-Qua cả.

Đến khi cả hai bên đấu thủ đều thọ thương, và nhân giữa cảnh nhà hư bụi đổ, Dương-Qua thấy không ai chú ý đến mình nhân cơ hội đăng thân theo bóng nghĩa phụ.

Lão già ban đầu phi thân quá mau, Dương-Qua theo không kịp nhưng về sau dần dần thương thế trầm trọng, tốc độ giảm dần. Rồi cuối cùng phải nhờ Dương-Qua dìu đi Âu-dương-Phong mới đến được ngôi cổ miếu để ẩn trú.

Dương-Qua tuy còn bé, song trí óc vô cùng minh mẫn. Nó tự bảo rằng nếu nó không trở về với bọn Quách-Tỉnh thì nhất định họ sẽ đi tìm và như thế sẽ làm lộ tung tích của Âu-dương-Phong.

Nghĩ như thế, nó trở ra đường lớn đón chờ nhập bọn để rồi nửa đêm hôm sau nó lại lén đến cổ miếu để thăm viếng Âu-dương-Phong.

Sau khi ăn mấy chiếc bánh, Âu-dương-Phong thấy hơi khỏe, nói với Dương-Qua:

- Tên họ Quách vừa ăn một quả chưởng của ta, trong bảy ngày nữa chưa chắc nó đã bình phục hẳn. Nó chưa bình phục thì vợ nó không thể rời. Như thế cha không sợ chồng nó đến đây. Cha chỉ sợ tên chột mắt thế nào nó cũng tìm đến vì chính tay cha đã sát hại năm anh em chúng nó nhân cơ hội nầy nó đánh trả thù. Tiếc rằng sức khỏe của cha chưa hồi phục được...

Âu-dương-Phong nói đến đây thốt ra một tràng ho làm dứt cả tiếng.

Dương-Qua ngồi bên cạnh đưa tay vuốt ngực nghĩa phụ, và trong óc lay hoay tìm cách đối phó với Kha-trấn-ác.

Được một lúc, hắn lẩm bẩm:

- Tốt lắm! Ta sẽ có kế làm cho lão già mù lòa đến đây phải mang họa.

Nó chạy đến bàn thờ lấy hai chân đèn và chiếc lư hương đổ tro xuống đất bước lại khung cửa ra vào.

Nó đóng nhẹ cánh cửa lại, leo lên trên đầu cửa, cột lỏng chiếc lư đồng vào đấy; rồi nhảy xuống tháo hai chân đèn bỏ rải rác ngay ở lối vào.

Bố trí xong, nó leo lên giá chuông nấp ở đấy. Chiếc chuông nầy nặng vào khoảng hai ba ngàn cân treo lủng lẳng trên không buộc vào giá chuông bằng một sợi dây thừng rất thô và chắc.

Dương-Qua vừa leo, lên giá chuông thì bỗng bên ngoài có tiếng vi vút quen thuộc rõ ràng là chiếc thiết trượng của Kha-trấn-ác đang phi thân đến.

Âu-dương-Phong cũng nghe biết địch thủ sắp đến nơi, liền thu hết tàn lực gượng dậy để ứng địch.

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Author dongta

Author Info Member since Nov-22-01:563 posts, 1 feedbacks, 2 points

ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 6"

Date/Time Jan-12-02, 06:10 PM ()

Message

In response to message #0

Trong bóng tối lờ mờ cha con Âu-dương-Phong đang chờ đợi phút kinh khủng sắp diễn biến.

Kha-trấn-ác tuy mắt đã loà song trí còn minh mẫn lắm. Lão dự đoán thế nào sau một trận thư hùng với Quách-Tỉnh, Âu-dương-Phong cũng phải kiệt sức, tìm nơi thanh vắng ẩn thân. Mà trong vùng đó chỉ có cổ miếu là chỗ thanh vắng nhất thời theo lời dân hàng xóm cho lão biết. Lão quyết tìm đến nơi để thanh toán mối cựu thù. Vì vậy lão lợi dụng lúc nửa đêm xách thiết trượng ra đi. Trước khi đi, lão khẽ gọi Dương Qua xem hắn còn thức song chẳng thấy Dương-Qua trả lời, lão ngỡ nó đang say sưa giấc điệp nên an lòng dời gót. Lão nhẹ nhàng phi thân qua bức tường, đinh ninh với sức lực mình còn đủ để đương đầu với Âu-dương-Phong một trận tử thù.

Khi đến cổ miếu, lão để ý nghe ngóng xem hơi thở của Âu-dương-Phong trông thương thế nặng nhẹ thế nào.

Rồi lão lần tay đẩy nhẹ tấm cửa. Bỗng "rầm" một tiếng chiếc lư đồng treo lủng lẳng rơi xuống va vào trán lão, khiến trán lão máu me lai láng. Quá tức bực, lão quơ cây thiết trượng múa quanh và lần bước tiến sâu vào.

Thì chân lão đâm phải mấy chiếc chân đèn bỏ lão dưới đất làm cho lão mất thăng bằng lảo đảo.

Đến lúc giữ lại được thế quân bình, lão thét lớn:

- Âu-dương-Phong! Hãy sẵn sàng đền tội. Ngày nay mày còn khoác lác nữa chăng?

Dứt lời, lão quất mạnh cây thiết trượng nhắm vào lưng Âu-dương-Phong.

Lúc đó, Âu-dương-Phong đã đem hết tàn lực chống lại cây thiết trượng quái ác ấy. Ông ta quyết định làm cho cây thiết trượng dội lên một phen nữa để cả vũ khí và thân mình Kha-trấn-ác phải nẩy ngược lên.

Song cả hai đều tính sai cả. Kha-trấn-ác vì quá hậm hực, quyết trả cựu thù nên đánh xuống quá mạnh làm cho cây thiết trượng trệt sang một bên, không trúng vào Âu-dương-Phong chỉ làm cho khoảng đất bị vỡ tung nhiều mảnh.

Đánh trật một đòn quyết liệt, Kha-trấn-ác giận dữ, múa chiếc thiết trượng vù vù làm cho Âu-dương-Phong phải mệt nhọc né tránh mới thoát khỏi:

Âu-dương-Phong đang trong bệnh hoạn, làm thế nào cự với Kha-trấn-ác lâu dài được. Cuối cùng Âu-dương-Phong mệt sức, để cho thiết trượng đành toạt vào vai máu chảy đầm đìa.

Đáng lẽ những kẻ tầm thường thì một khi thiết trượng đã trúng phải tất tâm hồn mê loạn, song Âu-dương-Phong không hề gì, nội tạng vẫn sảng khoái như thường ấy là nhờ sức nội công của lão đã đến mức siêu việt.

Dương-Qua đứng bên cạnh nhìn thấy nghĩa phụ bị thương tới tấp nó nóng lòng muốn xông vào trợ lực, nhưng xét lại sức lực nó đối với Kha-trấn-ác chẳng khác nào hạt cát trong bãi phù sa, nó đành đấm bụng đứng nhìn vậy.

Kha-trấn-ác đánh trúng Âu-dương-Phong một trượng nhưng thấy Âu-dương-Phong vẫn bình thản, hơi thở vẫn trong tình trạng khỏe khoắn, lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Quái lạ! Cây thần trượng của ta chưa bao giờ mất hiệu lực, sao nay đánh trúng Âu-dương-Phong mà hắn vẫn còn đủ sức đương cự được.

Nghĩ như thế, Kha-trấn-ác càng tức giận, vung thiết trượng đánh tới tấp vào đối phương.

Nhưng lạ thay, lão cảm thấy cây thiết trượng của lão như đánh vào tấm đệm lông mềm nhũn. Lão dừng tay nghe ngóng thì thấy hơi thở của Âu-dương-Phong vẫn điều hòa.

Càng tức giận hơn, Kha-trấn-ác quyết tìm đích cho được đầu Âu-dương-Phong bổ xuống.

Nhưng Âu-dương-Phong vốn tay anh hùng trong thiên hạ, đâu dễ gì chịu bỏ thân dưới cây thiết trượng kia, lão vươn mình tới ôm chầm vào mình Kha-trấn-ác. Thế là Kha-trấn-ác không còn cách gì vận dụng cây thiết trượng nữa. Hai bên dằng co nhau.

Kha-trấn-ác chân vừa bị dẫm phải mấy chân đèn nên bị vẹo đứng không vững, bị Âu-dương-Phong vật ngã nhào xuống đất.

Âu-dương-Phong quyết không thả, hai tay ôm chặt lấy bụng Kha-trấn-ác lăn lộn mấy vòng, bỗng tay lão chạm phải một vật cứng.

Thì ra đó là một con dao đồ tể trước kia Trương-kha-Sanh thường dùng vào việc hạ trâu bò tế lễ.

Tuy gọi thế, nhưng thật ra Trương-kha-Sanh chưa bao giờ nhúng lưỡi dao đó vào máu súc vật mà chỉ dùng nó để làm vật hộ thân. Khi Trương-kha-Sanh lâm trận ở Mông-cổ dưới thời Đại-Hán bị chết về tay Trần-lập-Phong, thì Kha-trấn-ác lấy làm của mình, và luôn luôn đeo theo mình để làm vật kỷ niệm. Từ đó, Kha-trấn-ác luôn luôn nâng niu con dao chẳng bao giờ lìa, xem như một kẻ thân yêu.

Trong lúc vật lộn cùng Âu-dương-Phong, cán dao ló ra ngoài. Âu-dương-Phong bắt được cơ hội tốt, chợp lấy cán dao rút ra, và đâm vào bụng Kha-trấn-ác.

Kha-trấn-ác kinh hãi, thóp bụng lại, vận nội công chống cự một tay xô địch thủ ra, một tay tha thiết trượng về đánh bạt lưỡi dao qua một phía, rồi nhắm vào đối thủ múa tới tấp.

Chiếc thiết trượng lần này trúng vào đầu Âu-dương-Phong, song trong lúc hỗn loạn Kha-trấn-ác đã cầm ngược vũ khí nên không gây nguy hiểm gì. Mặc dù thế, đòn đó cũng đã làm cho Âu-dương-Phong hoa mắt, ù tai, chiếc dao đồ tể văng bổng trên không trung bắn trúng vào cái chuông đồng to lớn, phát ra một tiếng ngân chát chúa.

Tiếng chuông ngân dài và lớn làm át cả hơi thở của Âu-dương-Phong, khiến Kha-trấn-ác mất hẳn phương hướng của địch thủ. Ông ta chờ tiếng chuông dứt sẽ tấn công trở lại.

Bấy giờ ánh trăng khuya vừa lên tận giữa miếu, soi rõ hình dạng Kha-trấn-ác đang trong thế đợi chờ vô cùng rùng rợn. Đầu tóc bồm xồm, cặp mắt mù loà không còn sinh khí, quần áo rách tả tơi. Một làn máu đỏ từ trên trán nhểu xuống thấm qua thân áo chảy đến giữa bụng. Lão đợi cho tiếng chuông ngân dứt để tìm nơi có hơi thở của đối phương mà đánh.

Dương-Qua lanh trí, biết rõ sự chờ đợi của lão già, liền lách mình đến lượm con dao rồi thoăn thoắt trèo lên giá chướng lấy cán dao gõ mạnh vào.

Tiếng chuông này chưa dứt đã tiếp đến tiếng chuông khác, khiến cho Kha-trấn-ác hoang mang không thể nào tìm hiểu vị trí của đối thủ.

Tức giận Kha-trấn-ác một lần nữa, múa thiết trượng vù vù. Thiết trượng càng múa bao nhiêu thì Dương-Qua càng đánh chuông bấy nhiêu. Tiếng chuông kêu vang tai, nhức óc.

Cuối cùng, Kha-trấn-ác không chịu nổi tiếng chuông dùng tay để nghe ngóng.

Và cũng nhớ thế, Âu-dương-Phong có đủ thì giờ để tìm cách đối phó.

Những tiếng chuông bất thường kia nếu đã giúp cho Âu-dương-Phong tránh được cây thiết trượng của Kha-trấn-ác thì nó lại cho Âu-dương-Phong mối sợ hãi.

Bởi vì trong đêm vắng, tiếng chuông ngân liên hồi, nếu vợ chồng Quách-Tỉnh hay được đến tiếp cứu thì tánh mạng Âu-dương-Phong khó bảo toàn. Như thế mối nguy cơ lại còn trầm trọng hơn.

Âu-dương-Phong nghĩ nên đào tẩu là hơn, bèn lui chân về phía hậu viện.

Kha-trấn-ác tuy mù lòa cũng rất tinh anh, biết rằng đối phương có thể lợi dụng lúc ông ta dừng tay để thoát thân, nên thiết trượng bất thần vụt về phía hậu môn một cái.

Đang bước lui, bị đòn thiết trượng, Âu-dương-Phong lúng túng phải né sang một bên, và gây ra tiếng động.

Thế là Kha-trấn-ác lại có dịp theo dõi đối thủ. Lão hét lớn:

- à! Tao biết mày sống dai. Nhưng lần nầy, mày phải tuyệt mạng! Dẫu mày có còn sống sót đi nữa cũng phải chịu tàn tật như tao.

Nói xong, tiến đến hậu môn, Âu-dương-Phong phải thụt lùi núp vào giá chuông. Và Kha-trấn-ác cố đuổi theo không bỏ. Hai người vờn nhau chạy xung quanh giá chuông như hai đứa bé chơi cái trò chơi đuổi bắt.

Dương-Qua đứng trên nhìn xuống thấy tình thế đoán biết nếu cuộc đuổi bắt này kéo dài thì nhất định nghĩa phụ nó phải kiệt sức, và không thể nào thoát khỏi tay Kha-trấn-ác.

Một ý kiến đột phá trong trí óc thằng bé tinh khôn. Nó ra hiệu cho nghĩa phụ nó phải thay đổi chiến thuật và thoát ra khỏi phạm vi của chiếc chuông. Nhưng Âu-dương-Phong đang chú mục vào Kha-trấn-ác, không để ý đến dấu hiệu của Dương-Qua.

Dương-Qua không biết làm sao, mà cũng chẳng dám lên tiếng liền leo ra phía ngoài có ánh trăng chiếu vào. Nó lấy tay ra hiệu Bóng đen của nó nhờ ánh trăng phản chiếu đã làm cho Âu-dương-Phong lưu ý.

Thấy bóng tay thằng bé khoát qua khoát lại, Âu-dương-Phong tưởng nghĩa tử có dụng ý bảo mau rời bỏ ngôi miếu, liền lập tức vụt chạy về phía tiền điện.

Kha-trấn-ác rất thính tai. Lúc bấy giờ chuông hết ngân, mọi vật im phăng phắc nên hướng chân của Âu-dương-Phong lão nghe rõ mồn một.

Lão mừng thầm vì địch thủ đã bước vào tử lộ.

Thật vậy, Âu-dương-Phong thoát ra phía tiền điện chỉ là mớ thoát ra khỏi điện chứ làm sao có lối thông ra đường.

Kha-trấn-ác trầm tỉnh và thận trọng hướng tai theo tiền điện, nhất định lần nầy đối thủ không bao giờ có thể thoát thân.

Trong lúc đó, Dương-Qua lẹ làng cởi hài ra, đi chân không, bò nhẹ về phía hậu điện, rồi bất thình lình đạp xuống đất một tiếng thật mạnh như tiếng động của một người chạy. Kha-trấn-ác ngạc nhiên không hiểu sao cả. Rõ ràng tai lão nghe có tiếng người ở hậu điện, và cũng rõ tai lão vừa nghe tiếng người chạy ra phía tiền điện.

Trong lúc Kha-trấn-ác đang trừ trù suy nghĩ, đứng ngay dưới chiếc chuông thì Dương-Qua nhẹ nhàng nhón chân bước vào, leo lên giá chuông dùng chiếc dao đồ tể cắt sợi dây thừng buộc chuông.

Chiếc dây thừng cứng quá, mặc dù dao rất bén nhưng úp ngay đầu Kha-trấn-ác.

May thay! Kha-trấn-ác lúc đó chống ngược cây thiết trượng cản hướng về chiếc chuông, nên chuông rơi nhờ thiết trượng không trúng đầu. Chiếc chuông chạm phải thiết trượng vang lên một tiếng rơi lật nghiêng sang một phía, úp Kha-trấn-ác vào trong. Thất kinh, Kha-trấn-ác bò ra khỏi chuông nhưng vừa ra khỏi chưa kịp đứng dậy thì cây thiết trượng chịu không nổi trọng lượng của chiếc chuông nên gãy làm đôi, và đè một nửa cây thiết trượng dưới đất.

Cũng may, nếu cây thiết trượng gãy lúc nãy thì tánh mạng Kha-trấn-ác đã quy thiên rồi.

Chẳng hiểu rõ sự việc ra sao. Kha-trấn-ác nghĩ rằng trong điện hẳn có một con quái vật theo phá phách ông ta.

Nghĩ thế, lão chỉ còn có cách tạm lánh mình rồi sẽ tính.

Lão bò lần ra phía ngoài và tẩu thoát.

Đứng phía ngoài điện nhìn vào thấy Kha-trấn-ác thoát chết Âu-dương-Phong chép miệng nói:

- Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc!

Dương-Qua lúc đó mới bò lần từ trên giá chuông xuống, mừng rỡ chạy đến bên Âu-dương-Phong nói:

- Cha ơi! Lão mù đó nhất định không dám đến đây nữa đâu. Cha cứ lo tịnh dưỡng tâm thần.

Âu-dương-Phong lắc đầu nói:

- Không đâu con ạ! Cha với nó có mối thù sâu như biển cả. Chẳng qua vì mất thiết trượng nên nó tạm lánh để tìm phương kế, sớm muộn gì nó cũng trở lại. Hễ còn chút hơi thở là nó còn phải trả thù.

Dương-Qua nói:

- Hay là cha con ta xa lánh nơi này, tạm tránh những nguy cơ dồn dập.

Âu-dương-Phong buồn bã, nói:

- Không được! Hiện giờ cha mang thương nặng gần kiệt sức không thể nào chạy đi đâu xa được.

Dương-Qua hỏi:

- Thế thì chúng ta phải làm sao để tránh sự trả thù của lão già mù lòa kia?

Âu-dương-Phong suy nghĩ một hồi, đưa mắt nhìn chiếc chuông, nằm nghiêng trên nửa cây thiết trượng, nói với Dương-Qua:

- Còn có cách này! Cha sẽ chen mình vào trong chiếc chuông con ở ngoài nắm cây thiết trượng xeo lên cho chiếc chuông úp cha vào trong. Như thế rất bảo đảm. Cha sẽ tránh được bàn tay của hắn.

Dương-Qua hỏi:

- Thế rồi lúc muốn ra cha làm sao ra được? Vả lại lúc cha đói bụng con làm sao chuyền đồ ăn vào?

Âu-dương-Phong trả lời:

- Con đừng lo! Cha chỉ cần được yên ổn ngồi trong chuông độ bảy ngày đêm, không cần ăn uống gì cả, cha sẽ lấy ngay lại được sức lực như xưa. Chừng đó, chẳng những cha đẩy hỏng chiếc chuông lên một cách dễ dàng mà còn đủ sức để đương đầu với bọn chúng nữa. Cha chỉ sợ có một điều rủi Kha-trấn-ác đến đây giở chuông lên thì thiệt mạng.

Dương-Qua nói:

- Lão già ấy cũng đang trong thương thế rất nặng, làm gì mà phá nổi chiếc đại đồng chung. Nhưng thôi, con sẽ làm theo ý cha để cầu may.

Âu-dương-Phong liền bước đến ngồi gần bên chuông Dương-Qua cột dây vào đầu thiết trượng hè hụi một hồi, nhờ sức của Âu-dương-Phong phụ vào mới lật úp chiếc chuông lại được. Âu-dương-Phong ngồi gọn vào trong.

Dương-Qua kêu nghĩa phụ mấy tiếng không nghe Âu-dương-Phong lên tiếng hắn biết nghĩa phụ hắn đã được an toàn liền quay gót ra đi.

Nhưng vừa đến cửa, nó lại nẩy ra một ý kiến. Nó quay vào điện lấy con dao rạch máu độc ở vết thương hoà một ít nước xung quanh chiếc đại đồng chung, nó tin chắc bất cứ một người nào rờ tới chiếc chuông đó sẽ bị nhiễm độc của Xích-luyện thần chưởng.

Thi hành xong diệu kế. Dương-Qua băng mình chạy một mạch về khách điếm. Nó chỉ sợ Kha-trấn-ác về trước biết được sự vắng mặt của nó thì nguy.

Nhưng về đến nơi, thấy cánh cửa sau khách điếm còn mở rộng, Kha-trấn-ác chưa về. Thế là nó an tâm vào phòng leo lên giường đắp mền giả ngủ để chờ nghe động tịnh. Lòng nó băn khoăn tự hỏi chẳng biết vì đâu lão già mù lòa đó đến bây giờ vẫn chưa về đến.

Cho đến gần sáng thì có tiếng gõ cửa. Dương-Qua làm như người vừa mới ngủ thức dậy, mở cửa ngạc nhiên thấy Kha-trấn-ác trong một trạng thái vô cùng bi đát, đầu tóc lão bơ phờ, quần áo lam lũ, mặt mày đầy máu đứng giữa ngưỡng cửa đưa hai tay ra như muốn quờ quạng một cái gì đã mất.

Thấy hai bàn tay của lão đã bị thâm đen, Dương-Qua khi ấy đã trở lại cổ miếu và đã thử lật chiếc chuông lên để hạ nốt Âu-dương-Phong, nhưng thằng bé làm bộ không biết gì, la lớn:

- Trời ơi! Ông làm sao thế hở ông? Sao hai bàn tay của ông đen thâm như vậy? Chết rồi! Ông lại bị mò phải kim độc của Lý-mạc-Thu rồi!

Vợ chồng Quách-Tỉnh nghe lạ chạy đến, thấy thế ngạc nhiên, ông lo lắng, hỏi:

- Thưa sư phụ! Sư phụ vì sao lại thế!

Kha-trấn-ác lắc đầu buồn rầu không trả lời.

Hoàng-Dung chợt thấy hai bàn tay thâm đen của lão, kinh ngạc nói:

- ái chà! Lại con nữ tặc Lý-mạc-Thu nữa rồi!

Dứt lời, nàng hướng về phía Quách-Tỉnh, nói:

- Anh chưa được khỏe hẳn, vậy cứ để một mình em đi tìm nó mà rửa hận! Em sẽ cùng nó sống mái một phen anh nhé!

Nói xong nàng thoăn thoắt ra đi.

Kha-trấn-ác vội lên tiếng gọi lại:

- Không phải con nữ tặc Lý-mạc-Thu.

Hoàng-Dung dừng bước, quay đầu lại hỏi:

- Thưa sư phụ! vậy nó là ai?

Kha-trấn-ác trầm ngâm im lặng.

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đã thừa hiểu tâm trạng của Kha-trấn-ác. Ông lão không bao giờ chịu nói tên kẻ chiến thắng mình.

Với một quá khứ oai hùng vẻ vang, dọc ngang trong chốn giang hồ làm sao người hiệp sĩ già nầy không có dòng máu tự trọng. Khổ nỗi ngày nay trước sức yếu thân tàn, bệnh tật. Kha-trấn-ác hết thảm bại trước Lý-mạc-Thu lại đến Âu-dương-Phong. Vợ chồng Quách-Tỉnh biết thế không dám hỏi nữa. Mà có hỏi đến đâu, câu trả lời cũng chẳng bao giờ đến, chỉ khiêu lên lòng bực tức đau buồn của Kha-trấn-ác mà thôi.

Vợ chồng Quách-Tỉnh đinh ninh rằng lão vừa bị nhục trước một kẻ vô danh tiểu tốt nào đó.

Hoàng-Dung tỏ ý đưa mọi người trở lại Đào-hoa đảo để có dịp dưỡng bệnh, rồi mình sẽ ra đi tìm kiếm Xích-luyện tiên tử.

Quách-Tỉnh thấy sư phụ mình trọng bệnh như thế này nên cũng bằng lòng.

Thế là đoàn người thuê thuyền tiến thẳng về đảo Đào-hoa.

Chiều hôm ấy họ neo thuyền ở một ven biển để thổi cơm.

Quách-Phù nguyên đã giận thái độ của Dương-Qua nên suốt cả ngày đường không hề chuyện vãn. Khi thuyền đậu, Quách-Phù ngồi một mình nhìn ra cửa thuyền ngắm cảnh trên bờ, chợt ngó thấy dưới gốc cây thùy liễu có hai đứa bé đang ngồi khóc.

Nhìn kỹ, nó nhận ra đó là Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hai đứa con trai của Vũ-tam-Thông và Vũ-đại-Nương.

Quách-Phù cất tiếng gọi:

- Kìa! Các anh làm gì đấy?

Tu-Văn nín khóc, nhìn Quách-Phù đáp:

- Tao đang khóc, mày không thấy sao mà hỏi.

Quách-Phù hỏi:

- Vì sao lại khóc? Bị mẹ đánh chăng?

Vũ-tu-Văn đáp lời trong nước mắt:

- Mẹ tao mất rồi còn đâu mà đánh.

Hoàng-Dung rõ được tông tích hai đứa bé, ngạc nhiên nhảy vội lên bờ, nhìn thấy chúng ngồi bên cạnh thây Vũ-tam-nương. Người thiếu phụ nầy thân thể đều bầm đen, đúng là đã chết vì bất độc của Xích-Luyện thần chưởng.

Hoàng-Dung ôm hai đứa bé hỏi lại sự tình, và hỏi thăm tin tức của Vũ-tam-Thông.

Đôn-Nhu thưa:

- Cháu chẳng biết cha cháu hiện giờ trôi dạt nơi đâu.

Tu-Văn nói:

- Cha cháu thấy mẹ cháu mất trí óc đã điên dại lại càng trở nên hỗn loạn. Chúng cháu gọi thế nào cha cháu cũng bỏ đi, và hiện giờ chẳng biết đi đâu.

Dứt lời, cả hai đứa bé đều nổi lên khóc một lượt.

Hoàng-Dung hỏi:

- Hai cháu có đói không?

Hai đứa bé nghe hỏi mới nhớ lại rằng suốt ngày hôm ấy chúng nó chưa ăn một vật gì trong miệng. Chúng thôi khóc và vật dần xuống.

Hoàng-Dung thương tình đưa chúng nó xuống thuyền bảo phụ thuyền dọn cơm, và cả đoàn cùng chung ăn uống.

Ăn xong, Hoàng Dung lo quan quách chôn cất Vũ-tam-nương tử tế, rối sáng hôm sau lại nhổ sào nhắm đảo Đào-hoa xuôi sông.

Hồi 7 : Bốn trẻ đồng môn

Chẳng bao lâu thuyền cặp bến đảo Đào-hoa. Trong suốt cuộc hành trình, Quách-Tỉnh nhờ Hoàng-Dung săn sóc nên thương tích thuyên giảm khá nhiều, vả lại được một thời gian nghỉ ngơi sức lực chàng bình phục như xưa.

Vợ chồng Quách-Tỉnh không lúc nào quên nghĩ đến Âu-dương-Phong. Họ lấy làm lạ chẳng biết tại sao đã mười năm qua ông lão anh hùng nầy vẫn còn giữ được sức lực tài năng và phong độ tự thuở nào, mặc dù tuổi đã về chiều. Thì ra con người kỳ dị ấy bất chấp cả thời gian.

Đó là vợ chồng Quách-Tỉnh chưa chứng kiến vụ phục thù của Kha-trấn-ác đối với Âu-dương-Phong nơi cổ miếu. Nếu họ thấy trận phục thù đó họ còn ngạc nhiên sức dẻo dai của Âu-dương-Phong hơn nữa. Sáng hôm ấy, sau khi bàn bạc cùng nhau, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung gọi Dương-Qua vào cật vấn về sự việc quá khứ. Dương-Qua đang cùng con bé Quách-Phù bắt dế, nghe kêu nó đã đoán biết là nó sắp trả lời những câu hỏi khó khăn nên đã dự ý trước.

Nguyễn Dương-Qua cùng người mẹ là Trần-nam-Ngân trước đây sống về nghề bắt rắn nơi chân núi Trường-Lĩnh. Nghề bắt rắn vốn không phải là nghề kiếm ăn dư giả, nhưng cũng nhàn hạ. Ban đêm họ chỉ vất vả mấy tiếng đồng hồ lục lạo ở các ven rừng ở bờ bụi may ra cũng đủ độ nhật trong một ngày.

Đối với Trần Thị, nghề nghiệp và sinh kế không quan trọng bằng việc giáo dục con. Ngày nào cũng như ngày nào, người mẹ kiên trinh ấy quyết tâm rèn luyện cho con mình mong trở thành người lý tưởng.

Những lời giáo huấn môn phong trước đây đã vun đúc vào cho Dương-Qua một tâm tánh phong nhã. Trần thị lại đem những ngón sở trường trong vũ thuật mà bà đã góp nhặt trên bước phiêu lưu giang hồ để truyền lại cho Dương-Qua, đứa con duy nhất của bà.

Từ khi Dương-Qua trí khôn mới bắt đầu thành hình đã tỏ ra thông minh đáo để. Nó học đâu nhớ đó. Không một quyển sách nào, một lời giáo huấn nào của từ mẫu răn dạy mà nó không thuộc làu. Đến như việc bắt rắn, nó chẳng học tập gì cả, cứ hàng đêm xách đèn theo mẹ, ấy thế mà mới vừa lên tám nó đã có nhiều kế hoạch bắt rắn thông thạo hơn người mẹ là khác.

Những lúc cùng nhau lặn lội dưới chân Trường-sơn để theo dấu vết những con rắn, người mẹ thường kể cho Dương-Qua nghe là trên đời này chỉ có một người, hay đúng hơn là một danh nhân lấy việc nuôi rắn để mưu đồ việc lớn. Danh nhân ấy có thể sai khiến được rắn thành hàng ngũ, lập thành trận thế và điều khiển theo binh pháp. Danh nhân ấy hiện trú ẩn nơi Bạch-đà-Sơn.

Câu chuyện nầy làm cho Dương-Qua lưu ý và thích thú nhất. Có nhiều lúc Dương-Qua mơ ước được thành danh nhân đó, nên nó tự mình bắt rắn huấn luyện theo mơ tưởng.

Lần lần Dương-Qua nuôi được một đoàn rắn tinh khôn, biết nghe theo mệnh lệnh của nó.

Tuy nhiên, nó vẫn chưa thỏa, ước mong sao một ngày nào đó nó gặp được vị danh nhân để có thể sai khiến theo phép thuật danh truyền.

Mẹ con sống với nhau được mười năm thì một hôm người mẹ rủi ro bị rắn độc cắn, trong người quên mang theo thuốc giải độc nên ngất lịm, nằm mê mang dưới chân núi. Dương-Qua vội chạy về nhà lấy thuốc giải độc, nhưng đến nơi, nọc độc đã thấm vào tim, người mẹ chỉ còn là một cái xác không hồn.

Còn biết làm sao hơn, Dương-Qua khóc lóc một hồi rồi đành nuốt hờn chốt cất người mẹ, trở về sống cô đơn nơi chân núi với túp lều tranh trên đồi, nó chỉ còn một con chim hồng và đàn rắn làm bạn.

Song lẽ, đã mất mẹ, người mẹ yêu dấu kia, nó còn thiết gì căn lều ở chân núi Trường Lĩnh nữa, một hôm nó bỏ nhà đem con chim nhỏ và đàn rắn đi phiêu bạt đó đây, hi vọng hão huyền sẽ được gặp vị danh nhân Bạch-Đà-Sơn để học thuật luyện rắn.

Chẳng ngờ bước phiêu lưu, tình cờ đã đưa đẩy nó gặp gỡ Lý-mạc-Thu để mất cả chim hồng và đàn rắn khôn, và thân nó bây giờ chỉ trơ trọi một mình không biết đâu nương tựa...

Bao nhiêu câu chuyện về dĩ vãng nó đem kể lại cho vợ chồng Quách-Tỉnh nghe.

Nghe đến đây, Hoàng-Dung căm tức Lý-mạc-Thu đã sát hại con chim hồng mà chính con chim ấy trước đây Hoàng-Dung đã từng nâng niu.

Tiếp đó, Hoàng-Dung lại cật vấn đến việc Dương-Qua ở đâu lúc Vũ-tam-Thông và Âu-dương-Phong đấu nhau. Làm sao Dương-Qua lại quen biết Âu-dương-Phong và Âu-dương-Phong là ai.

Dương-Qua cảm biết Hoàng-Dung là kẻ linh lợi, một kẽ hở nhỏ cũng đủ để Hoàng-Dung thấu hiểu sự tình và khai thác hành tung nên nó một mực tỏ ra rất thản nhiên, một mực tỏ ra thành khẩn để lập lại những điều mà nó đã sắp đặt trước. Thỉnh thoảng nó kể những mẩu chuyện xen vào ăn khớp với người nầy người kia để đánh trống lảng.

Nghe thằng bé kể lời lẽ tự nhiên, sự việc hợp tình hợp lý, lại tuổi tác nó còn nhỏ bé. Hoàng-Dung thật khó lòng nghi ngờ. Tuy nhiên, nàng cũng khó mà tin cậy trước cái vẻ tinh khôn của nó.

- Cháu ngoan lắm! Thôi cháu hãy ra ngoài chơi với anh em họ Vũ đi.

Dương-Qua ra khỏi phòng, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung tiếp tục bàn bạc.

Quách-Tỉnh nói:

- Này em Dung! Chắc em hiểu rõ lòng anh. Ngày nay anh gặp được cháu Dương-Qua anh tưởng như cuộc hội ngộ trời cho thật lấy làm vui sướng.

Nguyên vì thuở trước ông thân sinh Quách-Tỉnh cùng ông nội Dương-Qua là đôi bạn chí thiết. Bấy giờ nhân hai người vợ cùng có thai, đôi bạn thân bèn uớc hẹn cùng nhau, hễ sanh đồng trai thì cho chúng làm anh em, đồng sinh gái thì cho chúng làm chị em, nếu sanh một trai một gái thì cho chúng làm vợ chồng. Sau đó mỗi người vợ đều sinh mỗi người một trai. Bởi vậy Dương-Khang và Quách-Tỉnh theo lời nguyện ước của song thân kết làm anh em, xem nhau như ruột thịt mặc dù khác họ.

Về sau Dương-Khang vì mạo nhận giặc cướp làm cho cha già bị chết thê thảm ở miếu Thiết-Phương Gia-hưng-vương. Từ đó Quách-Tỉnh buồn bã thương nhớ không nguôi. Nay tình cờ gặp đặng Dương-Qua, con của người anh em, Quách-Tỉnh xiết bao mừng rỡ.

Hoàng-Dung tuy hiểu rõ tình ý của chồng, song không muốn chồng mình đem tình cảm đối với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với lời ước hẹn của phụ thân, Quách-Tỉnh sẽ buộc gả con bé Quách-Phù cho Dương-Qua mà lòng nàng không thích.

Hoàng-Dung bảo:

- Như thế em không bằng lòng.

Quách-Tỉnh ngạc nhiên nhìn vợ, hỏi:

- Em không bằng lòng điều gì?

Hoàng-Dung đáp:

- Điều rất đơn giản là em không muốn gả Quách-Phù cho Dương-Qua, con một tên tướng cướp.

Quách-Tỉnh nói:

- Dẫu em cho nó có thành tích bất hảo đi nữa cũng nên nghĩ đến lời thề ước của tiều nhân. Vả lại Dương-Qua diện mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, tư cách thông minh. Nếu chúng ta gia công rèn luyện chắc chắn sau này tương lai phải vẻ vang tươi sáng.

Hoàng-Dung lắc đầu, nói:

- Em chỉ ngại nó quá thông minh mà hỏng.

Quách-Tỉnh mỉm cười, nói:

- Thế sao em cũng thông minh và lanh lợi mà không hỏng. Có gì phải e ngại?

Hoàng-Dung cũng mỉm cười:

- Nhưng em nhờ gặp được người chồng tuấn kiệt như anh.

Quách-Tỉnh nhún vai nói:

- Nhưng sao em chắc rằng Dương-Qua không phải là người chồng lý tưởng của Quách-Phù? Biết đâu khi lớn lên Quách-Phù lặn lội đó đây mà không sao tìm được người chồng thông minh tuấn kiệt như Dương-Qua.

Hoàng-Dung bỉm môi, nói:

- Chà quí quá!

Sau mấy câu trò đùa, Quách-Tỉnh nghiêm trang nói:

- Lúc sinh tiền thân phụ thường nhắc với anh rằng khi Dương-thúc-Tâm lâm chung, thúc phụ tỏ ý hy vọng anh có thể giữ trọn lời thề. Nếu nay anh không săn sóc Dương-Qua coi như con đẻ thì anh đã phụ lòng thân sinh, và chữ hiếu anh không làm tròn, mà chữ nghĩa cũng chẳng đầy đủ.

Dứt lời, Quách-Tỉnh buông tiếng thở dài.

Tiếng thở dài đầy tình cảm và nhơn nghĩa đã làm cho tâm hồn lẫn lý trí Hoàng-Dung phải dao động.

Hoàng-Dung hạ thấp giọng nói:

- Em nói thế chứ đôi trẻ còn nhỏ đã gấp gì định đoạt. Ngày sau, nếu Dương-Qua quả là người tốt thì anh muốn thế nào em xin nghe theo thế ấy, không có gì làm cho anh băn khoăn.

Quách-Tỉnh liền đứng dậy, hai tay chấp lại trịnh trọng nói:

- Đa tạ nương tử bằng lòng bỉ nhân vô cùng cảm kích.

Hoàng-Dung cũng thủ lễ, chấp tay bái chồng, trịnh trọng thưa:

- Thưa phu quân! Thiếp bằng lòng trong tương lai, nếu Dương-Qua là người tốt.

Quách-Tỉnh nghiêm trang, nói với giọng cương quyết:

- Dương-Khang, cha của Dương-Qua sống trong Vương-phủ Kim-quốc có thể có những điểm hư hỏng, nhưng Dương-Qua nếu đã được giáo dục trên đảo Đào-hoa không có lý gì lại không trở nên một chàng trai tuấn kiệt! Điều đó em khỏi lo!

Hoàng-Dung mỉm cười nói sang câu chuyện khác, không bàn luận đến việc Dương-Qua nữa.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên xét qua đôi tâm hồn non trẻ của Dương-Qua và Quách-Phù.

Ban đầu, lúc mới gặp nhau, cô bé Quách-Phù vốn có ác cảm với Dương-Qua, không chịu làm bạn với nhau. Nhưng trẻ thơ dễ quên, chẳng bao lâu Quách-Phù lại rủ Dương-Qua đi bắt dế ngoài khuê viên. Và bao nhiêu hiềm khích đều quên hết.

Lúc Dương-Qua bị Hoàng-Dung gọi vào chất vấn. Quách-Phù ngồi đợi mãi một lúc mới thấy Dương-Qua trở ra.

Dương-Qua nghe trong lùm cây có tiếng nói xì xào liền đưa mắt nhìn vào, thấy anh em họ Vũ ra đấy tự bao giờ, và cũng đang cùng với Quách-Phù bắt dế. Vũ-đôn-Nhu tay xách một chiếc lồng tre nhỏ, Quách-Phù bưng một cái thẩu lớn, cả hai đang lum khum nhìn xuống một tảng đá, nơi đấy Tu-Văn đang ra sức lật lên một vừng đất.

Vừng đất vừa lật lên, một con dế rất lớn nhảy phóc ra, Tu-Văn hối hả đuổi theo chụp.

Quách-Phù mừng rỡ, reo lên:

- A! Dế lớn quá! Anh bắt cho em nhé!

Tu-Văn cẩn thận cầm con dế trao cho Quách-Phù, nói:

- Con dế này đẹp lắm, xin biếu cô nương.

Quách-Phù cầm lấy, mở nắp thần bỏ vào. Qua làn thủy tinh con dế quả có một thân hình vô cùng đẹp đẽ. Màu vàng sẫm, đầu vuông, càng lớn, vế to, chắc chắn nó là một cự tướng trong làng dế.

Vũ-tu-Văn nói:

- Dế này phải gọi là vô địch đại tướng quân.

Rồi Tu-Văn quay lại nói với Dương-Qua.

Nầy Dương huynh! Số dế của Dương huynh bắt được có con nào địch lại với con nầy chăng. Nếu có, đem ra đấu một trận thư hùng cho biết sức.

Dương-Qua thấy Tu-Văn có vẻ khiêu khích, tỏ ý bất bình nhưng không nói gì cả, lấy giỏ dế của mình ra, lựa một con lớn nhất, hùng dũng nhất thả vào bồn đấu.

Con dế lớn màu vàng sẫm thấy bóng địch thủ liền gáy lên một tiếng, giương hai càng múa râu lên trời trong dáng điệu rất dũng mãnh.

Qua một lúc, nó tung hai chiếc đùi đá lại vào con dế của Dương-Qua một đòn làm cho con dế của Dương-Qua khiếp quá, quay đầu bỏ chạy.

Quách-Phù vỗ tay reo mừng với sự đắc thắng của con dế mình.

Dương-Qua bực tức, nói:

- Như thế dân đã thắng! Còn nhiều con dế khác nữa chứ!

Nói xong, Dương-Qua đưa ra một con dế khác thả vào bồn nhưng ba lần đều bị thất bại. Lần nào dế của Dương-Qua cũng bị con dế màu sậm kia cắn đá tơi bời sứt cánh, cong càng, bể bụng.

Dương-Qua bị chạm tự ái, nói lớn:

- Thôi, tôi chẳng thèm chơi dế nữa đâu.

Đoạn nó bỏ đi. Nhưng nó vừa bước được mấy bước. Tu-Văn lắng tai nghe trong lùm cây có tiếng đổ rào, thanh âm nghe kỳ lạ. Vũ-đôn-Nhu vỗ tay nói:

- Trong bụi nầy chắc còn có một con dế oai hùng không kém.

Rồi nó chạy đến phanh phui bụi cây để thu hồi, nhưng vừa vạch lùm cây, nó bỗng kinh hãi la lớn nhảy ra đằng sau:

- Ôi chao! Con rắn!

Dương-Qua nghe là rắn liền nhảy đến thì quả nhiên đó là một con rắn độc, thân mình điểm hoa mai có khoanh tròn dưới bụi cây, đầu ngóc cao và lưỡi lè ra trông dáng điệu hung hăng lắm!

Như đã biết Dương-Qua vốn sống về nghề bắt rắn cho nên nó không hoảng hốt như mấy đứa trẻ kia, bình tĩnh tiến sát vào một tay phe phẩy trước đầu rắn, một tay đập dưới đất.

Con rắn hấp tấp mổ vào tay Dương-Qua chưa trúng đích thì đã bị bàn tay kia của Dương-Qua tóm vào cổ quật xuống đất chết tươi.

Bọn trẻ khen tài Dương-Qua và đang xúm nhau nhìn xác con rắn thì bỗng nghe có tiếng dế reo. Rồi một con dế nhỏ từ dưới xác con rắn bò ra, thân mình nó xấu xí đến kỳ dị, màu đen như thân, đôi cánh chẳng có một đốm hoa nào tô điểm.

Quách-Phù nhìn Dương-Qua cợt đùa nói:

- Kìa Dương huynh! Con dế của Dương huynh đó sao chẳng bắt.

Dương-Qua phật ý, song cũng đáp lời:

- Vâng! Thì tôi sửa soạn bắt nó đây.

Dứt lời, Dương-Qua cúi xuống bắt lấy con dế và thả vào chiếc bồn thủy tinh của Quách-Phù:

Lạ thay, con dế lớn màu đỏ sậm, vừa trông thấy con dế đen liền nép mình khiếp sợ. Dế đen tiến đến tới đâu là dế đỏ sậm thụt lui đến đó.

Đối với các con dế khác, dế lớn oai hùng, vểnh râu múa càng như thế mà với con dế đen nhỏ nầy thì lại tỏ ra khiếp nhược chạy tròn theo hình bồn thủy tinh.

Chưa đủ, để tỏ ra nhục nhã hơn nữa, con dế lớn muốn thoát ra ngoài bồn. Nhưng đâu có được với con dế nhỏ. Nó búng mình nhảy theo cắn ngay vào bụng, dùng hai càng bật mạnh. Chỉ một đòn thôi, con dế lớn đã vỡ bụng chết ngay.

Thật ra cuộc đấu này không có gì kỳ lạ. Phàm loài dế có những loại sống trong hang của các loài vật khác thường hay nhiễm lấy màu sắc và độc tính của những loại đồng cư. Chẳng hạn như dế cùng sống với cóc người ta gọi là dế cóc thì cánh có lốm đốm hoa: dế cùng sống với rắn thì gọi là dế rắn. Dế này nhiễm độc, cắn vào vật nào thì vật ấy chết tươi. Nhưng chỉ có giữa loài dế mới phân biệt được.

on dế Dương-Qua vừa bắt chính là loại dế rắn.

Quách-Phù thấy dế lớn chết, tỏ vẻ không vui, suy nghĩ một hồi rồi nói với Dương-Qua:

- Anh cho em xin con dế "tiểu hắc quỉ" nầy nhé!

Tiểu hắc quỉ là Quách-Phù muốn ám chỉ con dế vừa nhỏ vừa đen nhưng độc ác.

Dương-Qua được dịp kiêu hãnh đáp:

- Cô nương xin làm gì con vật xấu xí này! Sao cô nương lại nguyền rủa nó là tiểu hắc quỉ?

Quách-Phù bị chạm tự ái bĩu môi nói:

- Không cho thì thôi! Coi bộ quí lắm đấy.

Dứt lời, Quách-Phù lật úp chiếc bồn xuống, trút con dế đen ra ngoài đất rồi lấy chân chà nát.

Dương-Qua thấy thế nổi giận mặt đỏ phừng phừng, đưa tay tát vào con bé một cái nên thân.

Bị cái tát bất ngờ, Quách-Phù xửng vững mặt mày. Cô ta đứng trân chưa kịp suy xét xem có nên khóc hay nên không thì Vũ-tu-Văn đã tiến đến sừng sộ:

- Đồ vũ phu! Sao lại đánh người ta.

Dứt lời Tu-Văn đấm vào bụng Dương-Qua một thôi.

Vũ-tu-Văn vốn được người mẹ cố công rèn luyện nên đánh rất đúng cách. Dương-Qua bị đánh bất ngờ, đau quá đưa tay thoi lại. Nhưng Tu-Văn né kịp sang bên rồi thuận để đánh tới.

Dương-Qua nhảy chồm lên, quyết cùng Tu-Văn một trận kịch chiến. Khốn thay lúc đó Đôn-Nhu cũng chạy đến kịp đưa chân khoèo vào chân Dương-Qua làm cho Dương-Qua té nhào dưới đất. Vũ-tu-Văn liền nhảy phóc vào người Dương-Qua, gối lên bụng, hai đầu gối kẹp vào hông. Rồi hai anh em họ Vũ thi nhau dùng cả bốn tay thoi Dương-Qua tới tấp.

Dương-Qua tuy lớn tuổi hơn anh em họ Vũ, song không thể một mình đương cự cả hai. Phần thì võ nghệ Dương-Qua cũng chẳng luyện tập là bao lại ở trong thế bị động nên không dư sức vận dụng nội công để chiụ những đòn tán loạn đó.

Hai anh em họ Vũ thắng thế vừa cười vừa thói vào Dương-Qua bình bịch. Nhưng tuyệt nhiên, chúng không dám động đến mặt mày sợ vợ chồng Quách-Phù biết được thì khốn.

Quách-Phù thấy anh em họ Vũ đánh Dương-Qua ban đầu lấy làm đắc ý. Nhưng sau thấy Dương-Qua đau đớn quá cũng động lòng và lo ngại.

Tuy nhiên, cô bé này rờ lên mặt cảm thấy dấu tay của Dương-Qua còn nóng rát trên vừng má, tức giận nói với anh em Tu-Văn:

- Cứ đánh nữa đi! Đánh nữa đi!

Hai anh em họ Vũ nghe lời cổ võ của Quách-Phù lại càng hăng lên nữa, ráng sức thoi thật mạnh vào người Dương-Qua.

Dương-Qua bị kẹt dưới sức nặng của Tu-Văn vê hai đầu gối đau đớn, không thể nào vùng vẫy được, đành nằm im thiêm thiếp chịu đựng những quả đấm liên hồi.

Đến lúc hắn nghe tiếng Quách-Phù cổ võ, bảo anh em Tu-Văn đánh nữa, hắn lẩm bẩm:

- A! Con bé này độc ác thật. Rồi sau này mày sẽ biết tay tao.

Trong lúc đó hai anh em Vũ-tu-Văn thi nhau đánh vào người nó như đánh vào một bị gạo. Dương-Qua quá đau đớn, co rút người lại, hai tay quờ quạng dưới đất. Bỗng tay nó vướng phải một vật gì lạnh buốt. Thì ra đó là xác con rắn chết lúc nãy.

Một ý kiến nảy nở trong óc, Dương-Qua nắm lấy đầu con rắn vung lên. Hai anh em Vũ-tu-Văn thất kinh, ngỡ con rắn sống lại, vội bỏ Dương-Qua kéo nhau chạy.

Thừa thế, Dương-Qua tung người dậy, đánh vào mũi Vũ-tu-Văn một đòn rất hiểm độc, rồi bỏ chạy.

Vũ-tu-Văn bị trúng phải, máu mũi vọt ra lai láng. Hai anh em tức giận băng mình đuổi theo Dương-Qua. Quách-Phù cũng hăng máu, chạy theo rất gấp, miệng la lớn:

- Bắt nó cho được! Hãy bắt nó cho được!

Dương-Qua chạy một hồi quay đầu lại thấy Tu-Văn mặt mày quần áo đều nhuộm máu. Biết rằng nếu anh em họ Vũ đuổi kịp ắt nó không thoát được hiểm nghèo. Nó liền nhắm hướng về phía đồi núi chạy một mạch.

Vũ-tu-Văn tay bị đánh trúng mãi song thương tích không lấy gì làm nhục. Nó chỉ tức giận Dương-Qua đã làm nhục nó trước mặt Quách-Phù mà thôi.

Thấy bị đuổi quá gấp, Dương-Qua liền leo lên đồi núi. Vốn quen sống với đồi núi, Dương-Qua trèo núi rất nhanh. Chẳng mấy chốc nó leo lên tận đỉnh.

ác hại thay, đỉnh núi ấy phía bên kia dốc đứng thẳng, nếu vượt qua sẽ bị lăn nhào xuống nát thây.

Tình trạng ấy khiến Dương-Qua bối rối quay đầu nhìn anh em họ Vũ đang lần mò đuổi đến.

Nó chỉ vào đỉnh núi la lớn:

- Nầy nầy! Nếu chúng mày tiến lên một bước nữa ta nhảy qua bên kia đấy!

Anh em Vũ-tu-Văn nhìn thấy dốc núi ghê sợ, hoang mang không biết có nên đuổi theo nó nữa chăng.

Qua một hồi suy tính, Vũ-tu-Văn cương quyết nói lớn:

- Mày muốn nát xương thì nhảy qua đó. Chúng tao đâu thèm quan tâm đến sinh mạng mày.

Dứt lời hai anh em họ Vũ ra sức đuổi nó.

Thấy không thể hăm dọa được anh em Tu-Văn. Dương-Qua phân vân không biết xử trí cách nào, thì chợt nó trông thấy gần đấy có một tảng đá lắc lư bên sườn núi tựa hồ như chỉ dựa vào một điểm tựa mong manh.

Dương-Qua chạy đến định núp mình vào tảng đá. Nhưng tay nó vừa mò tới thì tảng đá bỗng sụt xuống lăn theo sườn núi phát ra những tiếng ầm ầm như sấm, đất bụi tung lên mịt mù, trông rất khủng khiếp.

Tảng đá lăn xuống đúng vào chỗ anh em họ Vũ.

Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hồn vía không còn, mặt mày xanh nhợt không còn biết tránh đi đâu, chỉ chờ tảng đá lăn xuống nghiền nát mà thôi.

Trong lúc nguy hiểm, bỗng hai anh em Tu-Văn cảm thấy như mình bay lơ lửng trên không và thoát dần ra khỏi đám bụi mờ.

Thì ra, hai con thần ưng chẳng biết từ đâu đến cứu đứa bé thoát cơn nguy khốn. Hai con thần ưng đưa hai đứa bé thẳng ra bể khơi.

Hoàng-Dung đang ngồi trong nhà bỗng nghe một tiếng ầm kinh dị, rồi tiếp đến tiếng kêu của thần ưng. Nàng đoán có việc chẳng lành, liền vụt chạy ra ngoài, thấy cát bụi bay mịt trời ở nơi sườn núi. Lại thấy Quách-Phù đang ẩn mình trong hốc đá. Nàng hốt hoảng chạy đến ôm chầm lấy con, đưa ra khỏi chỗ hiểm nghèo.

Hai con thần ưng thấy Hoàng-Dung liền hạ xuống bỏ hai anh em họ Vũ trên đất và thốt ra những tiếng kêu như muốn tường trình công việc vừa xảy ra.

Hoàng-Dung ôm lấy đứa con gái hỏi:

- Việc gì như thế?

Quách-Phù ngả đầu vào lòng mẹ, sụt sùi kể lại câu chuyện nào Dương-Qua tát vào mặt nó, nào Dương-Qua thoi vào người Tu-Văn vọt máu, nào Dương-Qua xô đá định giết anh em họ Vũ. Con bé đề cao việc anh em họ Vũ, bênh vực nó, tuyệt nhiên không hề nói đến lỗi lầm của anh em họ Vũ đối với Dương-Qua.

Nghe kể, Hoàng-Dung sửng sốt không nói nên lời.

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Author dongta

Author Info Member since Nov-22-01:562 posts, 1 feedbacks, 2 points

ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 7"

Date/Time Jan-12-02, 06:07 PM ()

Message

In response to message #0

Bấy giờ Quách-Tỉnh cũng chạy đến xem thấy cơ sự trước mắt lấy làm kinh ngạc, lo ngại vì sợ Dương-Qua trốn mất nên chạy đi tìm.

Quách-Tỉnh đi lùng một hồi lâu trong chân núi chẳng thấy bóng Dương-Qua đâu, liền đưa tay lên miệng làm loa, rống lên một tiếng như sấm động.

- Dương-Qua ơi! Dương-Qua ơi!

Tiếng kêu dội ra hàng chục dặm, nhưng rồi dư âm cũng chìm đắm trong tĩnh mịch của núi rừng, không có một lời hồi đáp.

Ngỡ là Dương-Qua có thể vượt biển bơi vào đất liền, nên Quách-Tỉnh dùng thuyền bơi quanh đảo. Nhưng rồi cũng vô hiệu. Trời tối dần, màn đêm bao phủ cảnh vật, Quách-Tỉnh phải trở về với một mối buồn man mác.

Nguyên lúc Dương-Qua vừa đụng vào tảng đá, tảng đá vừa lăn xuống thì nó cũng mất thăng bằng rơi xuống một cái hốc lớn. Kế đó nó thấy đôi thần ưng cắp anh em họ Vũ, rồi đến Hoàng-Dung xuất hiện, nó ái ngại trong lòng, nghĩ rằng nếu nó trở về thế nào việc chẳng lành cũng xảy ra. Nó liền tìm một khe đá kín đáo hơn lẩn trốn.

Bỗng nó nghe tiếng Quách-Tỉnh gọi, nhưng nó chẳng đáp lại, nép mình nằm im thin thít đến nỗi dẫu Quách-Tỉnh có đến gần cũng không thể nào trông thấy.

Rồi nó ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Đến khi thức dậy, nó thấy bốn bề quạnh vắng, màn đêm bao phủ mịt mùng, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rỉ rả trong canh khuya.

Nó cảm thấy bụng nó đói như cào, nó lần bước ra ngoài khe đá. Gió lạnh lùa vào mặt, ánh sao vàng nhấp nhánh đầy nỗi cô đơn.

Nhìn xuống chân núi về phía trang trại, nó thấy ánh đèn còn leo lét qua các khe cửa. Một vài bóng đen thấp thoáng trong sân, nó tưởng tượng đến một khung cảnh ấm êm trong gia đình với Quách.

Vừa đói cơm vừa khát nước, vừa thèm thuồng cái cảnh đoàn viên, nó muốn quay về sống chung với họ Quách, nhưng nó lại sợ. Hoàng-Dung, một con người lanh lợi thông minh không có một điều gì có thể qua mắt được. Nó trù trừ suy tính mãi. Nhưng rồi cuối cùng nó thích cảnh tự do, không muốn đem vào người nó một ràng buộc nào.

Nó trở lại khe đá đánh một giấc ngon lành cho đến sáng.

Ngày hôm sau, nó vẫn nằm trong khe đá, không dám ló mặt ra ngoài, vì nó biết Quách-Tỉnh thế nào cũng đang đi tìm kiếm.

Rồi đến lúc chiều tối, nó lại lần ra ngoài, nhìn cảnh tấp nập vui vẻ của trang trại như muốn khêu gợi lòng khát khao của nó. Tuy nhiên, nó hình dung nét mặt nghi ngờ của Hoàng-Dung và dáng điệu nham hiểm của Quách-Phù, nhất định nó không trở về.

Sống trong tình trạng đó hai ngày thì người nó lả đi vì đói khát, nó nhất định phải tìm phương sống. Nó liền trèo qua bên kia đỉnh núi mò đến một con suối bắt nhái ở hai bên bờ cỏ đánh lửa nướng ăn.

Nhưng khi đánh lửa nó lại sợ vô tình chỉ nơi trú ẩn mình cho Quách-Tỉnh, nên nó rất cẩn thận. Trước khi mẹ nó thường nói những lúc cần thiết phải thổi lửa mà không muốn lên khói thì phải dùng những que củi thật khô, bóc hết vỏ. Trường hợp nó xét thấy cần cẩn thận hơn, nó chỉ dùng hai lõm cây khô để tránh khói.

Đang ăn mấy con nhái nướng ngon lanh, bỗng nó nghe bên sườn núi có tiếng rắn kêu. Nó rón rén bước ra xem, thì ra một con rắn đang oanh hùng với một con cóc. Con rắn hổ phóng cổ lên bằng nắm tay, đầu dựng đứng toan áp đảo con cóc vàng.

Cóc ta lấm la lấm lét, chú mục nhìn theo đầu rắn, hai chân trước ghì xuống đất, hai chân sau tọa lạc trong thế sẵn sàng tung bắn.

Bỗng con rắn hổ đâm vào thân cóc. Nhưng cóc không nao núng ngẩng cao đầu lên để nghênh địch. Và khi rắn xông vào thì cóc đã phì một đám bọt trắng làm cho rắn tối mặt mày. Rắn liền cuộn tròn thân hình trong thế thủ, nhưng hình như độc cóc nơi bọt trắng bắt đầu thấm dần vào mồm mép của rắn, nên rắn dần dần cảm thấy suy yếu, cuối cùng tự xét mình không đủ sức đương cự, liền bỏ cóc lẩn tránh vào bụi cây.

Đắc thắng, cóc kêu lên mấy tiếng giống như là tiếng kêu của Tây-độc Âu-dương-Phong lúc đánh thế võ "hàm mổ công" vậy. (Hàm mổ có nghĩa là con cóc, con nhái).

Dương-Qua kinh ngạc, tự hỏi:

- Phải chăng Tây-độc Âu-dương-Phong đã quan sát lối tấn công kỳ dị của loài cóc để sáng tạo ra thế võ "hàm mổ công".

Đang suy nghĩ, bỗng từ sườn đồi có tiếng gọi của Quách-Tỉnh, tiếng gọi nghe thiết tha và cảm mến. Tuy nhiên, Dương-Qua tự nghĩ rằng Quách-Tỉnh là người thù của nghĩa phụ nó, nếu nó trở về với Quách-Tỉnh không khỏi bị đánh tan xương.

Nghĩ thế nó trở vào khe đá trốn. Nó vật mình nằm xuống phiến đá, bỗng nó thấy từ bên ngoài, Âu-dương-Phong rón rén bước vào, vỗ nhẹ vào đầu nó, nói:

- Cha trở lại tìm con! Từ nay không còn gì ngăn cách cha con ta nữa. Cha tiếp tục dạy con võ nghệ để sau này lớn lên con sẽ là một hiệp sĩ vô địch trong thiên hạ.

Nói xong, Âu-dương-Phong dựng nó đứng dậy, và hai cha con moi người thủ thế trên phiến đá như hai võ sĩ đang hờm đấu với nhau.

Lạ thay, Dương-Qua nhận thấy lần này Âu-dương-Phong không có một lời chỉ dẫn về mỗi động tác của chân tay, mà cứ nhìn nó với cặp mắt đầy sát khí rồi liên hồi tấn công vào nó như đang tấn công một địch thủ chân chính. Nó có cảm giác như nó đang đương đầu với một địch thủ và nó thầm bảo có lẽ lần này nghĩa phụ nó đã áp dụng một phương pháp giáo dục thực tiễn hơn chăng.

Bỗng lão già hô lên những tiếng "ngoạp, ngoạp" chấn động cả khe núi khiến cho nó nhớ lại cuộc đấu hồi nãy giữa cóc và rắn.

Vì đãng trí nên thiếu đề phòng nó bị một quả chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong đánh trúng làm cho nó bật ngửa trên phiến đá đau điếng cả người. Nó lấy tay ôm mặt suýt xoa, nhưng vừa ôm mặt thì bỗng nó tỉnh dậy, đưa mắt nhìn bốn phía, không thấy Âu-dương-Phong đâu cả. Nó mỉm cười biết rằng nó vừa qua một giấc mộng.

Nó bước ra khỏi khe đá, leo xuống núi để tìm thức ăn thì bắt đầu từ trong một lùm cây tiếng rống của Quách-Tỉnh vang lên:

Dương-Qua! Dương-Qua!

Nó bối rối định vụt chạy, nhưng không còn kịp nữa, chân nó lính quýnh vấp vào một tảng đá ngã xuống và Quách-Tỉnh nhảy đến ôm chầm nó vào mình.

Dương-Qua nhắm mắt lại, tưởng rằng Quách-Tỉnh sẽ nổi giận đánh cho nó một trận nên thân.

Nhưng không, Quách-Tỉnh vẫn thiết tha, dịu giọng nói:

- Cháu Qua! Sao cháu dại dột muốn bỏ chú mà đi?

Lại thấy nó lả người đi vì đói, Quách-Tỉnh liền vác nó lên đem về trang trại.

Mọi người thấy Dương-Qua trong tình trạng hôn mê liền ra công săn sóc, nào thuốc men, nào hoa quả. Tuyệt nhiên không một ai đả động đến những sự việc vừa qua.

Chẳng mấy bữa, Dương-Qua được bình phục sức lực như xưa.

Vào một bữa ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh cho thiết lập hương án ở sảnh đường, thỉnh bài vị của Lục-quái Giang-nam, mời sư phụ Kha-trấn-ác đứng làm chủ lễ và tập họp cả gia đình lẫn gia nhân chứng kiến.

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung mỗi người trịnh trọng đứng vào hai bên bàn án, còn bên trẻ Quách-Phù, Vũ-tu-Văn. Vũ-đôn-Nhu và Dương-Qua gọn gàng trong bốn bộ y phục hiệp sĩ quỳ sát trước hương án Lục-quái Giang-Nam.

Giữa bầu không khí trang nghiêm của sảnh đường, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội. Mọi người im phăng phắc.

Chiêng trống vừa dứt, Quách-Tỉnh bước ra, hướng về bức di-họa của Lục-quái bái mấy bái rồi thưa với Kha-trấn-ác:

- Thưa sư phụ, hôm nay con là Quách-Tỉnh, xin phép sư phụ được nhận bốn trẻ môn đệ của võ phái Giang-Nam chúng ta. Tre già măng mọc là lẽ đương nhiên của tạo hoá. Song trong vườn võ nghệ, măng non cần phải được uốn nắn để lúc thành tre mới hữu dụng.

Đoạn, Quách-Tỉnh quay về phía bốn môn đệ nói:

- Quách-Phù, Vũ-tu-Văn, Vũ-đôn-Nhu, Dương-Qua, các con hãy bái lạy di-họa của Lục-quái Giang-nam đi. Trước linh hồn của sáu vị anh hùng quá cố, và trước sự chứng kiến của sư phụ ta, các con hãy thề trở nên những môn đồ xứng đáng, và hãy xem nhau như ruột thịt.

Lời nói nghiêm trang, đầy thiện chí của Quách-Tỉnh vừa dứt thì bốn trẻ cùng một lúc cung kính lạy trước hương án, rồi lần lượt xá Kha-trấn-ác, Quách-Tỉnh rồi đến Hoàng-Dung.

Cuộc lễ xong, Quách-Phù níu áo mẹ nũng nịu:

- Lúc nãy trước bàn thờ vì trang nghiêm quá con không dám nói chứ bắt con kết nghĩa với Dương-Qua con không bằng lòng đâu.

Hoàng-Dung đang suy nghĩ lời nói của con, chưa kịp trả lời thì Quách-Tỉnh đã quắc mắt nói:

- Con không được tỏ ra bội ước như vậy! Phàm trong môn phái nhà ta, lời thề là trọng. Tính mạng có thể mất chứ danh dự nhất định không thể để mờ phai. Nhất là lời thề trước Thất-quái Giang-nam, sáu chết một còn, lại càng quan trọng lắm. Ta nay còn phải trọng lời thề mà khắc cốt ghi lòng.

Đoạn hướng về mọi người, Quách-Tỉnh nói tiếp:

- Tính tôi, công phu vũ nghệ học hỏi cũng có thể gọi là khá nhiều, ngoài căn bản do Thất hiệp truyền thụ, tôi đã từng thao luyện vũ pháp nội công của phái đoàn Toàn-Chân và của Tâm-Đại-Tông Đông-Nam-Bắc. Nhưng để bắt đầu, tôi xin truyền dạy cho môn đệ những ngón vỡ lòng mà Kha-sư-phụ đã truyền giáo cho tôi.

Trong lúc Quách-Tỉnh nói, Hoàng Dung để ý vẻ mặt trầm ngâm của Dương-Qua, và nhớ lại hành tung khả nghi của đứa bé nầy, bụng bảo dạ:

- Cha thằng bé nầy thực ra không phải ta giết, nhưng việc đó ngoài ta ra có ai biết được. Ai cũng nghĩ rằng ta đã sát hại cha nó. Mà nếu mọi người đều nói như vậy thì nó không thể nghĩ khác đi được. Nay Quách-Tỉnh lại đem những bí quyết của môn phái mà truyền dạy tất sau này đi học. Chi bằng...

Nghĩ đến đây, Hoàng-Dung liền nói với chồng:

- Anh ạ! Em nghĩ rằng một mình anh phụ giáo cho cả thì sẽ quá vất vả. Xin anh giao Dương-Qua để em thay anh giáo dục.

Quách-Tỉnh chưa kịp đáp lời vợ, Kha-trấn-ác tán thành nói:

- Như vậy, rất phải! Thế thì hai con đua nhau dạy bảo để ta xem đồ đệ nào mau tiến bộ hơn.

Quách-Tỉnh vẫn thường công nhận vợ thông minh lanh lợi hơn mình, nếu Dương-Qua được vợ chỉ giáo thì thấy không trở ngại, liền nói:

- Tốt lắm! Em sẽ giúp anh trong việc đào tạo chúng nó.

Hoàng-Dung nói:

- Phàm trong nguyên tắc dạy dỗ điều cầu yếu là phải liên tục và duy nhất. Vậy thiết tưởng chúng ta phải qui định một nhiệm vụ hẳn hoi. Người nào phụ trách môn đồ nào phải chịu trách nhiệm môn đồ ấy. Anh không cần lo cho Dương-Qua, ngược lại em cũng không cần để ý đến ba đứa trẻ kia. Mỗi đứa bé có một khả năng, tâm trạng và hoàn cảnh đặc biệt. Thế thì việc giáo dục không thể đem áp dụng một phương pháp giống nhau.

Quách-Tỉnh vô tâm, không hiểu được dụng ý của vợ, trả lời:

- Điều đó có gì mà phải phân trần.

Hoàng-Dung liền gọi Dương-Qua lại bảo:

- Qua nhi! Hãy theo ta vào đây.

Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song đã có đủ thông minh để suy luận. Nó hiểu phần nào dụng tâm của Hoàng-Dung song nó vẫn có ác cảm với ba đứa trẻ kia, không muốn cùng chung tập luyện, nó hoan hỉ được một mình một trường theo thọ giáo với Hoàng-Dung.

Hoàng-Dung bắt nó vào thư phòng, đặt nó ngồi trước một án thư, rồi lấy ra mấy quyển sách cũ kỹ, giảng:

- Từ nay mặc dù theo cuộc lễ chính thức vừa qua, thân phụ của con là Quách-Tỉnh, song ta được ủy thác để chăm sóc giáo dục con, con phải vâng lời ta dạy bảo. Điều trước tiên con phải biết dưới sư phụ của con lại có bảy sư phụ danh truyền là Thất-quái Giang-nam, Kha-Công là đại-sư, còn nhị sư là Châu-Thông có văn tài đặc biệt. Vậy ta giảng cho con nghe những tuyệt tài trong văn chương của Châu-Công.

Dứt lời, nàng giở quyển thư cổ ra đọc:

- Vở viết: học nhi thời tập chi, bất diệt diệt hồ? Thư bảng tự viễn phương lai, bất diệt lạc hồ.

Đó là hai câu rút trong Luân ngữ.

Dương-Qua nghe đọc lấy làm kỳ quái, nó thầm bảo:

- Tại sao bảo nó thọ giáo vũ nghiệp mà lại đem mang văn chương ra giảng dạy?

Tuy nhiên, nó chẳng dám nói gì cả cứ cắm đầu suy nghĩ.

Suốt mấy ngày liền, Hoàng-Dung cứ đem sách ra giảng tuyệt nhiên không đả động gì đến võ nghệ, hết sách này đến sách khác.

Một hôm, sau buổi học, Dương Qua lững thững dạo gót ra ngoài. Cảnh trí núi rừng trùng trùng điệp điệp, hồ rộng mênh mang nó chạnh lòng nhớ đến nghĩa phụ, người độc nhất đã cứu vãn tâm hồn nó một mối cảm giác thân yêu.

Để giải buồn, nó đảo thân qua lại, dùng hai tay cắm đầu xuống đất, chổng chân ngược lên trời, bắt chước theo lối đi của Âu-dương-Phong thuở nọ. Rồi nó ôn lại ngón võ "Hàm-mô Công" mà Âu-dương-Phong đã truyền dạy lỡ dở từ dạo nào. Nó cũng chua chân, chong tay, cong mình, y hệt điệu bộ của Tây-độc Âu-dương-Phong. Nó vận dụng các bắp thịt rồi cũng tung người lên với những tiếng kêu "ngoạp, ngoạp".

Mồ hôi nó toát ra như tắm, và cảm thấy trong người thanh sảng, nhẹ nhàng. Nó có cảm giác như đã tìm ra bí quyết của ngón võ đó.

Thế là ngay từ lúc hôm ấy, cứ mỗi chiều lúc mãn học, nó ra ven đồi, giữa cảnh rừng nước bao la, ôn luyện võ nghệ, vừa bồi dưỡng thể chất vừa giải thoát linh hồn.

Ngày tháng êm đềm trôi trên đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung cứ một mực dạy cho nó về kinh nghĩa. Hết Luận-ngữ đến Manh-tư rồi đến Trung-dung. Thằng bé tỏ ra thông minh đáo để, nó nhớ làu làu bất kỳ kinh sách nào đã dạy.

Thật ra Hoàng-Dung vốn có thành kiến với văn nghiệp cho nên nàng quan niệm rằng văn chương chẳng qua là món để đầu độc tư tưởng con người. Dẫu có thông minh trí tuệ đến đâu cũng chẳng làm được điều gì gọi là anh hùng trong thiên hạ.

Với quan niệm đó, Hoàng-Dung đem áp dụng để ngăn cản bước tiến về võ nghệ của Dương-Qua. Khi dạy đến Tứ-thư. Ngũ kinh, Hoàng Dung đã sửa soạn cho thằng bé một tương lai nhìn vũ trụ qua những câu "Tứ viết".

Tuy nhiên, với sức thông minh của nó, Hoàng Dung cũng đã nhiều lần kinh ngạc, tự bảo:

- Nếu trau dồi nó trong vũ nghiệp, thằng bé sau này hẳn trở nên bậc phi thường.

Còn Dương-Qua, lại có quan niệm khác. Nó bất chấp phân biệt quan niệm văn chương hay vũ thuật, nó chỉ ước lượng việc cần thiết đối với nó là phải đối phó với Hoàng-Dung. Nó nghĩ ngợi phương pháp giáo dục của Hoàng-Dung và lúc nào nó cũng cho Hoàng-Dung đối xử với nó đầy ác ý.

Nó hoài tưởng đến Âu-dương-Phong, một người thân nhất trên đời mà nó còn tin tưởng được.

Vậy để đối phó với pháp thuật Hoàng-Dung nó nghĩ một cách đơn giản là chỉ việc dùng pháp thuật của Âu-dương-Phong là có thể chống đối nổi.

Nó không hiểu rằng trong giới hảo hán đương thời môn phái của Âu-dương-Phong cũng như môn phái của Bạch đà Sơn không được xem là chính thống. Những lối phi hành lộn ngược những thế võ Hàm mô công chẳng qua là những tà thuật mà hiệp sĩ chính thống ai cũng xem như trái với võ đạo.

Một chiều, sau khi xem xong quyển Tả truyện, Dương-Qua rời khỏi thư phòng, rảo bước về phía ven biển với ý nghĩ mong ước được thoát ly khỏi hải đảo. Nó nhìn đàn hạc trắng bay bổng lên cao, thèm thuồng mọi cái tự do trong cuộc sống. Nó mới được có đôi cánh như con chim hạc để bay đi tìm nghĩa phụ.

Bỗng đằng sau nó có những tiếng hô và những tiếng thở. Nó nấp sau mỏm đá nhìn qua kẽ lá, thấy Quách-Tỉnh đang kiên nhẫn dạy hai anh em họ Vũ một miếng võ gia truyền.

Thật ra, quan sát kỹ lối biểu diễn của Quách-Tỉnh thì miếng võ này tuy lợi hại nhưng không đến nỗi học tập khó khăn lắm. Thế mà hai anh em họ Vũ tập đi, tập lại năm lần bảy lượt vẫn chưa đạt được ý muốn của Quách-Tỉnh.

Dương-Qua than:

- Nếu sư phụ trực tiếp dạy mình như thế thì mình đã tiến bộ biết bao. Hai đứa bé ngu xuẩn nầy tại sao lại may mắn gặp được vũ sư lỗi lạc dường ấy.

Nó tiếc cho nó! Nó tiếc không được trực tiếp thọ giáo với Quách-Tỉnh.

Nhưng một ý nghĩ bỗng đột xuất:

- Vì sao mình lại không học lén? Nếu trong trường văn chương đã có kẻ học lén mà trở nên thánh hiền thì trong võ thuật mình lại không thể học lén để thành hiệp sĩ sao?

Nghĩ như thế, nó rời khỏi nơi ẩn núp, cởi trần ngay ra và biểu diễn lại ngón võ của Quách Tỉnh đã dạy cho hai anh em họ Vũ.

Rồi từ đấy mỗi chiều, sau khi rời khỏi thư phòng nó lại bôn ba đến nơi ven rừng để học lén.

Một hôm, nó ham tập luyện nhiều quá nên trong người mỏi mệt nó nằm trên một phiến đá cheo leo nơi bãi biển, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.

Bỗng có tiếng sắt chan chát từ mé biển vọng lên làm nó giật mình tỉnh giấc. Nó nhìn nơi phát ra tiếng động thì thấy có một chiếc thuyền vừa cập bến, đang thả neo.

Bấy giờ trời đang tối mịt, nó phải vận dụng nhỡn quang mới trông thấy hai người ăn mặc rất gọn ghẽ, mắt đăm đăm quan sát tứ phía rồi nhảy lên bờ. Cả hai bò sát trên mặt đất, hướng về trang trại.

Dương-Qua cho đó là hai tên đạo tặc, lấy làm tội nghiệp cho chúng đã dại dột dấn thân vào tử địa.

Thật vậy, Đào-hoa đảo là một sào huyệt hiểm trở mà không có kẻ nào có thể lọt vào nếu không có người hướng dẫn. Nó thở dài, tiếc cho hai mạng người sắp rơi vào tay Hoàng-Dung.

Nó lại nhìn sang phía khác và ngạc nhiên nhận thấy dưới gốc cây thúy liễu có bóng một thiếu nữ vận y phục màu trắng đang đảo thân di động. Thiếu nữ ấy dùng tay dí ngược đầu xuống đất. Thì ra đó là cô bé Quách-Phù. Có lẽ nó trộm thấy Dương-Qua tập luyện nên cố tình bắt chước chăng?

Hai tên lạ mặt bò dần tới. Và trong lúc Quách-Phù đang chú tâm lo giữ thăng bằng cho thân hình đảo ngược, hai tên kia bất thình lình áp đến Quách-Phù trói gô lại, đứa bịt mồm đứa nắm tay lôi xuống mé biển.

Dương-Qua sửng sốt, chưa biết phải nên hành động thế nào cho có hiệu quả. Nó chờ xem hai tên lạ mặt kia có những hành động gì.

Hai tên lạ mặt đặt Quách-Phù trong một lùm cây, trói gô chân tay nó lại, lấy áo nhét mồm, rồi tiếp tục hướng về phía trang trại. Chúng tiến rất nhanh và tỏ vẻ thông thạo như những người đã từng lui tới vậy.

Tuy nhiên, chốc chốc chúng dừng lại, tụm dần vào nhau để bàn bạc những gì không rõ.

Dương-Qua tự nghĩ:

- Nếu kêu cứu chắc gì Quách-Tỉnh đã ra kịp, trong lúc đó chúng có thể thủ tiêu mất con bé Quách-Phù thì còn gì.

Trong lúc suy tính nó nhìn con thuyền, nhìn mặt biển, với ý nghĩ thoát ly đột phát trong óc nó. Có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở giúp cho nó thoát thân.

Thế là nó bỏ hẳn ý định phát giác hai tên lạ mặt. Nó chạy xuống biển với ý định lấy trộm chiếc thuyền để vượt biển ra khơi, vào đất liền.

Nhưng lúc nó chạy gần đến chiếc thuyền thì bỗng trong khoang thuyền có tiếng lách tách. Rồi cửa khoang mở một người nhảy lên bờ...

Nó nép mình quan sát sự thể. Hai tên lạ mặt lúc này trở lại, đứa đi trước dáo dáo xem chừng, đưa đi sau vác Quách-Phù lên vai lểnh mểnh dò từng bước một.

Nhưng lạ thay! Nó lại trông thấy một đứa thứ ba! mà đứa thứ ba nầy chắc chắn không phải là đồng bọn, vì nó đang nép mình ẩn núp để quan sát như Dương-Qua, đặc biệt hơn nữa đôi mắt nó chăm chăm gờm vào hai kẻ lạ mặt.

Đợi cho người lạ mặt thứ nhất tiến đến gần, người thứ ba nhảy chồm ra, đưa tay thoi vào hông rất mạnh. Người lạ thứ nhất ngất xỉu xuống bãi cát không kịp la lên một tiếng và tên đi sau vác Quách-Phù cũng không kịp trông thấy nữa.

Người lạ mặt thứ hai đem Quách-Phù đặt vào khoang thuyền xong, không thấy bạn đồng hành đâu, lấy làm lạ lên tiếng hỏi:

- Kìa lão đại! Lão đại còn làm gì nữa mà chưa vào thuyền.

Tên sát nhân vừa rồi vẫn núp bên cạnh Dương-Qua giả giọng khàn khàn đáp:

- Thật kỳ quái! Thật kỳ quái!

Tên lạ mặt thứ hai ngạc nhiên bỏ Quách-Phù dưới thuyền lên khoang thuyền nhảy nhanh về phía có tiếng nói.

Thừa dịp đó, Dương-Qua nép mình bò ra phía mé biển, lao lên khoang thuyền, nấp vào bên kia ẩn thân.

Từ chỗ núp Dương-Qua lắng tai nghe những tiếng thình thịch. Nó đoán chắc rằng tên sát nhân ban nãy đã hạ thủ luôn người lạ mặt thứ hai nữa rồi.

Thật vậy, chỉ chốc lát một người co chân nhảy vào thuyền. Người đó là Dương-Qua nhận đúng là người đã núp bên nó và đã sát hại người lạ mặt đi đầu lúc nãy.

Tuy nhiên, bây giờ người ấy mặt mày lấm tấm máu, quần áo tả tơi, dáng điệu trông dễ sợ làm sao!

Dương-Qua liền vận dụng thế võ Hàm-mô-công, thân hình cong rúm, chân tay co quắp, miệng kêu lên mấy tiếng "ngoạp! ngoạp" rồi tung người đâm bổ vào bụng tên sát nhân.

Bất ngờ bị trúng phải một thế võ sức nặng ngàn cân, tên sát nhân văng bổng người lên, rơi xuống biển.

Dương-Qua thở khì một tiếng nó không ngờ thế võ nó rèn luyện lâu nay lại đưa đến một kết quả khả quan như vậy.

Chưa kịp mừng, Dương-Qua đã nghe tiếng Quách-Tỉnh bất thần hỏi.

- Qua nhi! Con học thế vó Hàm-mô-công ở đâu thế? Có phải Âu-dương-Phong đã truyền dạy cho con chăng? Lão ta bây giờ ở đâu.

Dương-Qua ngẩng đầu lên thấy Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đồng nhảy xuống thuyền cùng một lúc.

Rồi không đợi nó trả lời, Quách-Tỉnh nhảy vội xuống nước vời lên sát nhân lên, rồi la lớn:

- Em Dung ơi! Đây là bạn của ta mà!

Tên sát nhân miệng trào máu, vừa tức giận nắm lấy Dương-Qua hét lên:

- Tại thằng ranh con nầy sanh chuyện.

Bàn tay Hoàng-Dung nắm vào như xé thịt. Dương-Qua cảm thấy đau nhói cả người, nhưng nó nhất định cắn răng chịu đau không rên rỉ.

Quách-Tỉnh đến bãi cát nhìn mặt hai xác chết thấy trong túi áo một tên có bản đồ Đào-hoa đảo liền kêu Hoàng-Dung, nói:

- Em Dung, hãy đến xem cái nầy!

Lúc đó Hoàng Dung mới thả Dương-Qua ra, nhảy đến bên Quách-Tỉnh cùng xem bản họa đồ.

Hai vợ chồng bàn luận trông có vẻ quan trọng lắm. Một hồi lâu, Kha-trấn-ác đến. Cả ba cùng tiếp tục thảo luận.

Khi mọi người như đã thảo luận xong, cùng nhau về phía Dương-Qua, làm cho Dương-Qua có cảm giác bối rối lạ lùng. Nó đưa tay chỉ vào khoang thuyền nói:

- Thưa sư phụ, Quách-Phù đang bị chúng nó trói bỏ nơi đây.

Mọi người xúm lại cởi trói cho Quách-Phù và thấy Quách-Phù không bị thương tích gì nên rất hoan hỉ.

Trên đường về, Quách-Tỉnh bảo Dương-Qua:

- Này Qua nhé! Con không thể ở yên trên đảo này được. Ta phải đưa con đến Trùng-Dương-cung ở Chung-Nam-Sơn để tìm giáo chủ của phái Toàn-Chân mà xin thọ giáo võ nghệ mới được.

Dương-Qua nghe nói biết đó là kết quả cuộc bàn bạc quan trọng của vợ chồng Quách-Tỉnh vừa rồi. Nó im lìm nghe theo chẳng dám thưa hỏi gì cả.

Hồi 8 : Chung nam sơn - Toàn chân phái

Hôm sau, gặp ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh và Dương-Qua chuẩn bị vàng bạc, hành lý giã từ mọi người rồi dùng thuyền hướng về phía bờ biển Triết-Giang. Đến bờ, Quách-Tỉnh mua hai con ngựa tốt và dong duổi theo đường bộ, ngày đi đêm nghỉ, trực chỉ đến miền Bắc.

Dương-Qua từ tấm bé đến giờ chưa hề cỡi ngựa, song nhờ có gan dạ và lanh lợi nên chẳng mấy chốc đã quen thuộc với lối di chuyển mới lạ này. Một thời gian, hai người vượt sông Hoàng-Hà vào địa phận Thiểm-Tây. Bấy giờ nhà Đại-kim bị quân Mông-cổ tiêu diệt, cho nên đất Trung-hoa từ sông Hoàng-hà trở về phía Bắc thiên hạ đều thuộc về Mông-cổ.

Ngày xưa, lúc thiếu thời, Quách-Tỉnh đã từng làm Nguyên-soái trong quân ngũ của nhà Mông, từng quen biết khá nhiều nhân vật trong sắc dân nầy nên Quách-Tỉnh sợ lộ tông tích bèn đổi con tuấn mã, cỡi con lừa và cải trang làm một nông dân để bạn bè cũ không thể nhận diện khi đi ngang qua các bộ.

Dương-Qua rất bực mình lối cải trang nầy, vì, nó không muốn sống theo lối giả tạo, mất cái phong cách tự nhiên. Tuy vậy, nó không dám làm phật ý Quách-Tỉnh nên cũng mặc áo vải thô quần cộc, cỡi con lừa cái đi chậm chạp như rùa.

Nhưng rồi hai người cũng lần mò đến Phàn-xuyên.

Phàn-xuyên được khai canh khi nhà Hán quốc do công lao của đại tướng Phân-Hợi. Vì vậy sau nầy dân cư gọi vùng đất nầy như thế để kỷ niệm người gây dựng đầu tiên.

Đất Phàn-xuyên màu mỡ phì nhiêu, dân cư đông đúc, hai bên bờ sông dâu xanh trùng điệp, ruộng vườn tươi tốt, cây trái tươi mùa, cảnh trí chẳng khác gì nơi Giang-nam, khiến Dương-Qua mang máng nhớ đến Đào-hoa-đảo.

Thật ra Dương-Qua sống ở đảo Đào-hoa chưa được bao lâu, và tâm trạng cũng không ổn định. Tuy nhiên, không thể vì lòng người thắc mắc mà không cảm mến đến cỏ cây. Cái đẹp của đảo Đào-hoa không thể không làm cho lòng Dương-Qua quyến luyến.

Dương-Qua thỏ thẻ với Quách-Tỉnh:

- Thưa chú, sao cảnh sắc ở đây lại giống hệt cảnh đảo Đào-hoa của chúng ta nhỉ!

Mấy tiếng "đảo Đào-hoa của chúng ta" làm cho Quách-Tỉnh nhận rõ lòng chân thành của Dương-Qua. Thì ra, Quách-Tỉnh có cảm giác như mình đã ngộ nhận rằng Dương-Qua chỉ muốn rời đảo vì bực bội lối sinh hoạt ở đây, theo sự nhận xét của Quách-Tỉnh trước đây.

Cảm động, Quách-Tỉnh dịu dàng nói:

- Này Qua nhi! Từ đây đến Nam-Chung-Sơn chẳng còn bao xa nữa và cảnh sắc cũng đẹp đẽ chẳng kém đảo Đào-hoa. Đến đấy con phải rán học tập cho thành tài. ít năm nữa sẽ về đoàn tụ với chúng ta.

Dương-Qua lắc đầu ra chiều không tin tưởng nói:

- Con chắc phải vĩnh viễn chia lìa không bao giờ có thể trở lại được.

Qua một đoạn đường, Quách-Tỉnh đắn đo một lúc rồi hỏi:

- Có phải con không bằng lòng thím con chăng?

Dương-Qua nhanh nhẩu đáp:

- ấy chết! Xin chú chớ dạy thế. Con có bao giờ dám vô lễ? Con chỉ sợ thím không bằng lòng con mà thôi.

Quách-Tỉnh lại yên lặng tiến bước. Trong bụi đường chỉ nghe tiếng vó lừa nện trên sỏi đá.

Trưa hôm đó, hai người đến trước một tòa cổ miếu. Cả hai đều xuống lừa buộc vào gốc cây rồi cùng nhau vào miếu.

Họ bước vào nhà trai (phòng ăn) xin mỗi người một bát cơm chay rồi bưng ra ngoài gốc dương liễu ngồi ăn ngon lành.

Trong miếu có hơn bảy tám vị tăng đang ngồi ăn uống, nhưng thấy dáng điệu quê mùa của Dương-Qua và Quách-Tỉnh nên để ý nhìn chừng.

Đang ăn, Quách-Tỉnh chợt thấy phía sau một gốc tùng có một tấm bia đá để lộ ra hai chữ "Trường-Xuân".

Trường-Xuân chính là ký hiệu của Khưu-xứ-Cơ, vị giáo chủ phái Toàn-Chân, người cầm cân nảy mực cho vũ-phụ chính thống được thiên hạ nghiêng mình chiêm ngưỡng và được khắp trong giới vũ-lâm khâm phục.

Quách-Tỉnh mừng rỡ bỏ bát đũa xuống, chạy đến gốc tùng để xem những gì của Giáo chủ Toàn-Chân đã ghi tạc vào tấm bia kia.

Thì ra trên tấm bia đó chỉ có một bài thơ, ngụ ý thương dân mến nước, buồn cho dân tình phải ta thán cách đây mươi năm về nạn can qua.

Quách-Tỉnh chẳng ngờ vị chân nhân của phái Toàn-Chân lại cũng biết rung cảm trước cái khổ đau của nhân loại.

Quách-Tỉnh vô cùng hân hoan, nhiều hy vọng tràn ngập cõi lòng vì tin tưởng rằng Dương-Qua nếu được ký thác vào một tài năng có đức độ như Trường-Xuân Khưu-xứ-Cơ thì tương lai sẽ hữu dụng.

Dương-Qua thấy Quách-Tỉnh bỏ ăn, trầm ngâm suy nghĩ trước tấm bia, liền hỏi:

- Thưa chú, bài thơ nầy có gì mà làm cho chú phải bận tâm.

Quách-Tỉnh đáp:

- Bài thơ này do Khưu-tổ-sư phái Toàn-Chân sáng tác. Khưu-tổ-sư lại là sư phụ của cha con ngày trước. Cha con là người đệ tử được Khưu-tổ-sư đẹp ý nhất. Chú tin rằng lúc con đến với Khưu-tổ-sư, hình ảnh của con sẽ làm cho Tổ-sư nhớ tới tình sư đệ của cha con mà chăm sóc cho con. Con chỉ cần cố gắng học tập là mai sau được rạng rỡ.

Dương-Qua nghe nhắc đến cha mình vội hỏi:

- Thưa chú, chú có thể cho con biết sự việc nầy chăng?

Quách-Tỉnh trả lời:

- Được! Con muốn gì cứ hỏi. Ngoài tình sư phụ còn là nghĩa kim hằng, giữa chú với con có gì mà ái ngại.

Dương-Qua nghiêm nghị thưa:

- Thưa chú, chú có biết cha cháu như thế nào chăng?

Câu hỏi đột ngột của Dương-Qua làm cho Quách-Tỉnh lúng túng, nhớ lại sự kiện xảy ra trước kia ở Thiết-Thương miếu, toàn thân Quách-Tỉnh run lên.

Dương-Qua hỏi tiếp:

- Thưa chú, ai là người đã sát hại cha con?

Đến đây, Quách-Tỉnh không thể chịu nổi sự nghi ngờ chính đáng của Dương-Qua. Tuy Quách-Tỉnh là người điềm đạm hay nhịn nhục, nhưng mấy câu hỏi dồn dập đã làm cho Quách-Tỉnh điên người. Quách-Tỉnh mặt biến sắc, vung tay đấm mạnh vào tấm bia đá, hét:

- Ai dạy cháu ăn nói hồ đồ như thế?

Trong cơn giận, Quách-Tỉnh không để ý tự nhiên vận dụng toàn thể chưởng lực tập trung vào cái đấm tay làm cho tấm bia đá tan nát ra từng mảnh, văng tung tóe.

Thấy mặt mày giận dữ của Quách-Tỉnh, Dương-Qua ôn tồn nói:

- Thưa chú, có lẽ cháu nghe lầm, từ nay cháu không dám hồ đồ như thế nữa, xin chú rộng lòng bỏ qua.

Vốn sẵn có cảm tình với Dương-Qua từ lâu, cái giận của Quách-Tỉnh chẳng qua trong phút chốc trắc ẩn trong lòng, nên khi nghe Dương-Qua hối lỗi, Quách-Tỉnh tỏ ra quảng đại bao dung, mặt mày tươi tắn nhìn Dương-Qua trong tình thương mến như trước.

Giữa lúc đó có tiếng thầm thì sau lưng, Quách-Tỉnh quay lại thì thấy hai vị đạo sĩ trạc tuổi trung niên, đang chăm chú nhìn vào chiếc bia vỡ, và trao đổi với nhau những lời không ai nghe rõ.

Quách-Tỉnh xét thấy dáng điệu hai vị đạo sư nầy có vẻ hiên ngang biết ngay họ thuộc vào phái võ biền, và tài năng cũng không phải tầm thường. Từ đây đến Chung-Nam-Sơn không bao xa, hai người nầy có thể là những nhân vật của Trùng-Dương cung và cũng rất có thể họ là hai người trong bảy vị đệ tử trứ danh của phái Toàn-Chân.

Thật ra, từ ngày Quách-Tỉnh trở về đảo Đào-hoa đến nay thời gian thấm thoát trôi, Quách-Tỉnh không hề liên lạc với phái Toàn-Chân. Bởi vậy các môn đệ đương thời làm sao Quách-Tỉnh quen biết được. Vả lại danh tiếng phái Toàn-Chân bay khắp bốn phương thu hút nhiều anh hùng hào kiệt đến thụ giáo.

Biết vậy, Quách-Tỉnh nghĩ rằng chưa vội làm quen với môn đệ, điều cần thiết là phải đến yết kiến Khưu-tổ-sư trước đã.

Tuy nhiên hiện nay Quách-Tỉnh cũng chưa biết Khưu-tổ-sư tọa vị nơi nào, mà dẫu có biết cũng không dễ gì được xin yết kiến. Quách-Tỉnh lại nghĩ rằng tốt hơn nên dò lần theo chơn hai vị đạo sư này mà đi tìm Khưu-tổ-sư mới được.

Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh rời bỏ cổ miếu, dắt Dương-Qua lần bước theo hai vị đạo sư.

Hai vị nầy đi mau thoăn thoắt, Quách-Tỉnh và Dương-Qua vừa ra khỏi cổng thì họ đã đi xa miếu hàng chục dặm đường, hình người chỉ còn thấy li ti như hai cái chấm nhỏ trên con đường trắng xóa bò quanh sườn núi. Họ cặm cụi đi chẳng hề quan tâm nhìn lại phía sau.

Sợ mất hút hai bóng người, Quách-Tỉnh liền cặp nách Dương-Qua phi thân đuổi theo. Chỉ một lúc, Quách-Tỉnh đã theo kịp đến sát cạnh và cất tiếng lễ phép thưa:

- Xin nhị vị hãy dừng chân cho chúng tôi hỏi một lời.

Tiếng nói của Quách-Tỉnh vang vang, thế mà hai đạo sư vẫn như không nghe gì cả, cứ tiếp tục đi mãi.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Có lẽ hai người nầy điếc chăng?

Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh nhanh chân hơn nữa, bắn mình vượt đến trước hai đạo sư, rồi bất thần đứng lại, thả Dương-Qua xuống đất, chắp tay thi lễ và nói:

Thưa nhị vị, tôi xin phép được thưa truyện cùng nhị vị.

Hai đạo sư dừng chân, trố mắt nhìn Quách-Tỉnh một hồi như để tìm tòi nhận xét, rồi cất tiếng hỏi:

- Người muốn gì?

Quách-Tỉnh lễ phép thưa:

- Thưa nhị vị, tôi vốn là người quen biết của Khưu chân nhân, mong được bái vết vị đạo trưởng ấy. Xin phiền nhị vị giúp cho tôi được gặp gỡ.

Hai vị đạo sư một người cao mà ốm, một người mập mạp mà lùn.

Người mập và lùn cười nhạt nói:

- Ngươi có việc của ngươi, chúng ta có việc của chúng ta. Hãy tránh ra đừng cản trở vô ích.

Nói chưa dứt lời, đạo sư ấy đưa tay đấm vào bụng Quách-Tỉnh.

Quách-Tỉnh không kịp tránh né, thì người đạo sư cao và ốm cũng lại đánh bồi thêm một đấm vào mạng mỡ của Quách-Tỉnh nữa.

Thật ra, hai cú đấm đó Quách-Tỉnh không lạ lùng gì cả. Đã là đồ đệ của môn phái Toàn-Chân còn lạ gì cặp song chưởng "Đại-quang-môn". Tuy nhiên, Quách-Tỉnh không đề phòng là vì những đồ đệ của phái Toàn-Chân không bao giờ thì thố cặp song chưởng đó một cách hạ lưu đến thế.

Cặp song chưởng "Đại-quang-môn" phái Toàn-Chân chỉ dùng trong trường hợp tự vệ, hoặc trong lúc lâm nguy hay cứu người khác bị áp bức.

Thật ra Quách-Tỉnh không lầm rằng mình đã dự đoán hai đạo sư đó là người của Trùng-Dương cung, thuộc hạ của Khưu-chân-nhân, song chẳng biết vì sao hai đạo sư lại có hành động dị kỳ như vậy. Người của Trùng-Dương cung sao lại có hành động như thế bao giờ? Hoặc giả hai vị nầy lầm lẫn, hoặc giả họ muốn thử thách Quách-Tỉnh chăng?

Quách-Tỉnh nghĩ thế và không né những quả thôi sơn của hai vị đạo tăng.

Vừa hứng chịu những quả đấm, Quách-Tỉnh vừa lặng thinh, nín thở để đo lường chưởng lực của hai đạo tăng đến mức nào.

Chưởng lực khá mạnh tỏa đều chạy khắp trên cơ thể Quách-Tỉnh. Tuy nhiên, Quách-Tỉnh không hề biến sắc, trạng thái vẫn bình thường.

Qua những đòn chưởng độc hiểm, mà Quách-Tỉnh vẫn thư thái, hai vị đạo tăng thấy thế kinh ngạc. Họ lạ lùng vì thấy một ngón võ thông truyền của phái Toàn-Chân mà họ phải dày công tập luyện hơn hai mươi năm nay, bỗng nhiên không còn hiệu lực trước một kẻ lạ mặt. Như thế kẻ đó nếu không phải là tay ma quái thì cũng vào loại tà đạo.

Hai vị đạo tăng bắt đầu nao núng. Có lẽ họ vì tự ái của môn phái hơn là vì đố kỵ cá nhân. Cả hai nổi giận, vận tăng chưởng lực đánh nhầu vào Quách-Tỉnh. Bốn chân họ đá tung lên một lượt.

Quách-Tỉnh vẫn yên lặng chịu đựng, không phản ứng và lạ lùng tự bảo:

- Thất tử Toàn-Chân là những vị điềm đạm, tác phong bao giờ cũng ôn hòa, cớ sao bây giờ trở nên táo bạo như thế. Hay là sau mười năm say sưa trong ngưỡng mộ của thiên hạ, nay chính thống đã bắt đầu biến thể?

Quách-Tỉnh nhắm mắt, nghe qua tiếng chân đá cũng biết hai đạo sư đang dùng ngón võ "san ương ngọc liên hoàn"

Thấy ngón võ nầy cũng không hiệu quả nữa, hai vị đạo sư toát mồ hôi, nhìn Quách-Tỉnh vẫn đang bình thản suy nghĩ.

Họ liếc nhìn nhau thầm bảo:

- Thật là kỳ quái! hắn là người hay là quái vật! nếu là người thì thuộc phái võ siêu đẳng nào đây?

Thật ra, nếu về lãnh vực tinh thần, con người đã đạt được trạng thái thánh-linh bằng cách tham thiền nhập định để chế ngự những gì bên ngoài đột nhập, thì trong lãnh vực võ nghệ người ta cũng có thể dùng thái độ vô vi để đương đầu với đối thủ vì vô vi của võ nghệ không khác gì cái vô vi của Lão-Trạng. Nhìn bên ngoài tưởng là thụ động, nhưng kỳ thực bên trong lại vô cùng tích cực.

Quách-Tỉnh vốn đã sống nhiều năm dưới trường Trung-dương-Cung, đã nắm vững cái uyên thâm của võ pháp Toàn-Chân, cho nên đã quá hiểu tác động của mỗi thế võ đối với thân lực và tinh thần của người bị đánh. Quách-Tỉnh thông suốt những đường gân sớ thịt nào phải chịu đựng, cho nên khi địch thủ ra tay. Quách-Tỉnh có thể không cần chống đỡ, chỉ việc tập trung thần lực để vận động gân cốt là thừa sức phản công, mà con làm cho địch thủ phải bị ảnh hưởng nữa.

Do đó, hai vị đạo tăng qua một hồi đấm đá, cảm thấy đau đớn cả mình mẩy. Họ nhìn nhau tự thú nỗi bất lực của mình trước sự nhẫn nhục phi thường của Quách-Tỉnh. Họ đứng ngay người không biết phải xử trí ra sao.

Dương-Qua từ lúc nãy đã chứng kiến thái độ hung hăng của hai vị đạo sư, bây giờ trước thái độ nhường nhịn quá sức của Quách-Tỉnh nó không chịu được, nổi nóng cất tiếng mắng:

- Đồ súc sinh! Sao dám vô lẽ phạm đến sư phụ ta?

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Author dongta

Author Info Member since Nov-22-01:561 posts, 1 feedbacks, 2 points

ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 8"

Date/Time Jan-12-02, 06:03 PM ()

Message

In response to message #0

Quách-Tỉnh thấy thế liền đứng phắt dậy, quắc mắt nhìn cháu, nói:

- Qua Nhi! Chớ nên vô lễ, hãy đến bái chào nhị vị đạo sư!

Hai vị đạo sư không kịp đợi cho Quách-Tỉnh dứt lời, họ bất thần rút kiếm ra khỏi vỏ, người lùn và người mập đâm vào Dương-Qua, người cao và ốm chém vào Quách-Tỉnh.

Trước thế võ bất ngờ và nguy hiểm, Quách-Tỉnh xét thấy cần phải đối phó để cứu nguy cho Dương-Qua, nên lẹ tay dây nhẹ vào chuỗi kiếm của đạo sư ốm, chưa kịp chém tới đã văng ra một bên đánh tạt vào lưỡi kiếm của đạo sư lùn. Và cả hai thanh trường kiếm chạm nhau nẩy lửa, rồi đồng rơi xuống đất.

Đó là thủ pháp sở trường "dĩ địch công địch" mà Quách-Tỉnh thường dùng trong trường hợp một mình phải chống với nhiều đối thủ.

Hai vị đạo tăng thấy tài nghệ phi thường của Quách-Tỉnh hoảng hốt, hú lên một tiếng rồi bỏ chạy. Tiếng hú trầm bổng như biện tù và.

Quách-Tỉnh biết hai người đã dùng đến pháp thuật vận dụng phi kiếm, chàng không lo cho mình mà chỉ lo cho Dương-Qua. Chàng bối rối vì phải quyết định phương pháp trong nháy mắt mới mong kịp thời đối phó với bí pháp ấy.

Cái khó của Quách-Tỉnh là vừa phải bảo vệ sinh mạng cho Dương-Qua, vừa phải làm sao thủ lê với đối thủ mà chàng cho họ là môn đệ của Toàn-Chân.

Quách-Tỉnh tự bảo:

- Đây là bí thuật khai mào cho trân Thiên-cung Bắc-đẩu, nhưng họ chỉ có hai người thì làm sao có thể hoàn tất được kiếm phép thượng thặng này? Nên mình đối phó thì tánh mạng hai vị đạo tăng ấy lâm nguy, còn không đối phó thì tánh mạng Dương-Qua là khó toàn vẹn.

Cuối cùng Quách-Tỉnh nghĩ tốt hơn là tạm thời ôm Dương-Qua vào lòng, tập trung chưởng lực cho tỏa ra xung quanh để bảo vệ hai người, đồng thời cố gắng thuyết phục họ.

Quách-Tỉnh nói:

- Thưa nhị vị, tôi vốn là cố tri của Khưu chân nhân nhị vị hãy lơi tay để tôi có lời thưa gởi.

Vị đạo sư ốm nói:

- Dẫu nhà ngươi có là cố nhân hay cố tri của Mã chân nhân đi nữa cũng chẳng ích gì.

Quách-Tỉnh một mực lễ phép thưa:

- Thưa nhị vị, chính Mã chân nhân cũng là người truyền dạy võ nghệ cho tôi.

Vị đạo sư lùn nói:

- Thôi thôi! Chúng ta không muốn lắm lời! Có lẽ nhà ngươi cũng cho sư tổ Trùng-Dương là cố nhân của nhà ngươi nốt.

Trong lúc đó, hai lưỡi kiếm bay đến vèo vèo, lượn xung quanh mình Quách-Tỉnh và Dương-Qua, bào quang chói rực. Nhưng tuyệt nhiên không có mãnh lực nào có thể xâm phạm nổi.

Hai vị đạo tăng ngạc nhiên, thu hồi trường kiếm lại nhìn nhau, rồi lớn tiếng mắng:

- Dâm tặc quả nhiên lợi hại! Thôi chúng ta tạm lui gót rồi sẽ liệu.

Quách-Tỉnh xưa nay vốn tánh điềm đạm và kiên nhẫn, ít khi lưu ý đến lời chửi mắng của đối phương. Quách-Tỉnh cho rằng chửi mắng chỉ là hiện tượng điên cuồng của kẻ rối trí trong phút chốc. Thái độ của Quách-Tỉnh bao giờ cũng tỏ ra người quân tử bất chấp lời cuồng loạn. Tuy nhiên, chẳng hiểu sao hai tiếng "dâm tặc" của hai đạo sư thóa mạ, đã làm cho Quách-Tỉnh mất hẳn tự chủ.

Mặc dù hai đạo sư đã phi thân trốn tránh, Quách-Tỉnh vẫn ôm Dương-Qua đuổi theo cho bằng kịp để hỏi cho ra lẽ mới nghe.

Khi đã phi thân đến trước mặt hai đạo sư Quách-Tỉnh chặn đường, hầm hầm hỏi:

- Các ngươi mắng ta như thế nào hãy thử nói lại nghe?

Đạo sư lùn ra dáng e ngại, song không dám làm thinh, cố giữ vẻ hiên ngang đáp:

- Chúng ta nói ngươi đã từng mơ ước con gái của nhà họ Long. Nay ngươi muốn bén mảng đến Chung-Nam-Sơn để giở trò gì nữa?

Dứt lời, đạo sư lùn sợ Quách-Tỉnh phản ứng, bất thần nên chùn lại bấy bước.

- Ta đã từng mơ tưởng con gái nhà họ Long? Con gái nhà họ Long nhà ai nhỉ? Vì sao ta lại mơ tưởng đứa con gái đó?

Hai vị đạo sư thấy Quách-Tỉnh không hung hăng nữa mà đứng ngây người ra suy nghĩ, liền thừa cơ dùng ngón "Hoàng-chương-pháp" mỗi người thoi vào Quách-Tỉnh mỗi cái rồi phi thân bỏ trốn.

Dương-Qua thấy Quách-Tỉnh nhào xuống đất vội đỡ dậy, và nói:

- Chú ơi! Chú tỉnh lại! Chúng nó đã bỏ chạy hết rồi!

Quách-Tỉnh như vừa thoát khỏi cơn mơ, hỏi Dương-Qua:

- Sao? Ta mơ tưởng con gái nhà họ Long? Con gái nhà họ Long là ai vậy cháu?

Dương-Qua thủ thỉ nói:

- Chú chớ quan tâm lời nói ấy! Có lẽ hai thằng giặc kia đã nhận lầm chú ra một người nào khác chăng?

Quách-Tỉnh như hiểu ra, bật cười nói:

- à! Chắc có lẽ là thế? Nếu không có cháu, chú đã vì tức mà mất sáng suốt. Có bao giờ cháu nghe nói đến con gái nhà họ Long là ai đâu? Thôi, chúng ta cứ thẳng đường lên núi.

Dương-Qua nhìn thấy hai thanh trường kiếm của hai đạo sư bỏ lại trong lúc hấp tấp phi thân thoát nạn, liền nhặt lên trao cho Quách-Tỉnh xem.

Quách-Tỉnh thấy trên lưỡi kiếm có khắc ba chữ: "Trùng-Dương-Cung" thì gật đầu, tỏ vẻ hân hoan nói:

- Đúng rồi! Chú nhận không lầm. Họ là người của Trùng-Dương-Cung!

Hai người ung dung theo con đường ngoằn ngoèo lên đỉnh núi. Đi một lúc thấy một cái cổng lớn có ghi ba chữ "Cờ quan tự" và con đường trở nên eo hẹp, cong queo, chênh vênh trên sườn đồi.

Bấy giờ trời đã tối, mặt trăng hiện ra giữa lưng đồi. Đứng trên đỉnh núi nhìn quang cảnh thì thấy cực kỳ diễm ảo. ánh trăng trộn sương như ngọc pha châu, cảnh trí rất nên thơ mộng.

Quách-Tỉnh hỏi Dương-Qua:

- Cháu có mệt chăng?

- Cháu chưa mệt.

Quách-Tỉnh nói tiếp:

- Thế chúng ta cố gắng leo lên nữa!

Hai người cố sức leo lên một đoạn thì thấy sừng sững trước mặt một phiến đá rất lớn trông như một bà lão đang khom lưng đợi bắt một cái gì.

Dương-Qua cảm thấy ớn lạnh trong người. Nó đang chú ý nghe ngóng thì bỗng đằng sau vang lên một tiếng thét ghê rợn, tiếp theo bốn vị đạo sư xuất hiện.

Mỗi vị đạo sư tay cầm trường kiếm sắp thành hàng một chân lấy lối đi của hai người.

Quách-Tỉnh chắp tay lễ phép nói:

- Tại hạ là Quách-Tỉnh từ Đào-hoa đảo đến đây, ước mong được bái yết Khưu-tổ-sư.

Một vị đạo sư tiến lên một bước, một tay cầm cân, một tay nhìn lưỡi kiếm, nửa như để chào, nửa như để thủ thế nhìn Quách-Tỉnh cười nhạt nói:

Quách đại hiệp là kẻ vang danh trong thiên hạ, mà lại là nghĩa lễ của Hoàng lão, chúa đảo Đào-hoa, đâu phải là kẻ thô lỗ xấu xá như nhà ngươi. Thôi đừng mượn danh anh hùng đến đây toan làm việc tà dâm. Hãy lui ra mau kẻo mang họa vào thân.

Quách-Tỉnh tự bảo:

- Sao họ lại nhận xét người ở cái bế ngoài như vậy?

Đoạn, chàng lớn tiếng, nói:

- Thưa các ngài! Chính tại hạ là Quách-Tỉnh đây, xin cho tôi được phép diện kiến cùng Khưu chân nhân thì ngươi sẽ rõ hư thật.

Một vị đạo sư khác đáp lời:

- Súc sinh! Mày dám sử dụng đến tà pháp để quấy động Trùng Dương Cung! Đừng có lắm lời vô ích hãy xem kiếm thuật của chúng ta đây.

Trong đêm tối, Quách-Tỉnh nghe rõ ràng là tiếng của một trong hai vị đạo sư lúc ban chiều.

Tiếng nói vừa dứt, nhơ ánh trăng, Quách-Tỉnh thấy đường kiếm loáng bay vù vù, kiếm pháp "Phàn hoa phất liễu" hướng thẳng vào lưng và vai của Quách-Tỉnh để công kích.

Nhìn đường kiếm, Quách-Tỉnh ngạc nhiên, không hiểu sao kiếm pháp lại thay đổi toàn bộ quy củ của môn phái Toàn-Chân lúc trước. Phải chăng sau mười năm không tiếp xúc với Trùng-Dương-Cung vũ thuật của Quách-Tỉnh trở nên lạc hậu đối với sự tiến bộ đương thời chăng?

Quách-Tỉnh vội ôm Dương-Qua vào lòng giữ thanh trường kiếm bất động mà vẫn tránh được những đường tấn công tới tấp của đối thủ.

Bốn mũi kiếm của bốn vị đạo sư đua nhau hướng về tim của hai người. Hình như họ chỉ muốn tấn công ngay vào yếu điểm độc nhất đó mà thôi.

Quách-Tỉnh ôm Dương-Qua vào lòng để tránh, và la lớn:

- Thưa các ngài, tôi đích thị là Quách-Tỉnh đây. Các ngài muốn tôi còn phải nói thế nào nữa để các ngài mới có thể tin được.

Người đạo sư cao và ốm, lên tiếng:

- Ta chỉ nhìn nhận nhà ngươi khi nhà ngươi đoạt được thanh kiếm của ta.

Dứt lời, lão tung kiếm đâm vào bụng Quách-Tỉnh một nhát. ánh trăng vàng rung rinh theo lưỡi kiếm màu bạc.

Quách-Tỉnh liền ném ra một viên đạn nhỏ. Viên đạn trúng vào lưỡi kiếm tóe lửa. Tiếp theo ba tiếng "keng" nữa, bốn lưỡi kiếm đầu lần lượt rơi xuống đất.

Đêm tối, bốn vị đạo sư không rõ Quách-Tỉnh đã dùng vật gì để tung ba lưỡi kiếm đó, họ lấy làm kinh dị nhìn nhau.

Vị đạo sư ốm la lớn:

- Đúng là tên dâm tặc đó lại dùng tà pháp nữa rồi! Anh em, hãy lánh nạn.

Cả bốn đạo sĩ vụt chạy biến mất trong đêm tối, để lại bốn thanh trường kiếm nằm sáng giói dưới đất.

Quách-Tỉnh lần này bị nguyền rủa là "dâm tặc" nữa, nhưng chàng không tức giận lồng lộn lên như lần trước, mỉm cười bảo Dương-Qua:

- Cháu hãy nhặt bốn thanh trường kiếm lên. Chú đoán chắc thế nào họ cũng còn trở lại đây nữa.

Dương-Qua vâng lời đến nhặt bốn thanh trường kiếm, sắp thành hàng trên một phiến đá, với hai chiếc đã nhặt được trước kia là sáu.

Sáu thanh kiếm nhấp nhánh dưới ánh trăng như sáu vệt dài màu trắng xóa.

Dương-Qua cảm phục tài năng của Quách-Tỉnh đến nỗi không biết phải nói sao cho vừa, liền quỳ xuống, vòng tay thưa:

- Thưa chú, cháu phải nói rằng chú là bậc đệ nhất tài danh trong thiên hạ. Cháu chẳng muốn lên núi theo học với bọn đạo sư khả ố kia, chỉ muốn suốt đời theo chú mà thôi.

Quách-Tỉnh mỉm cười, nói:

- Chính tài năng của chú cũng nhờ ở vị tổ sư Trùng-Dương-Cung rèn đúc. Con chớ nản lòng.

Hai người lại lên đường, tiếp tục lên sườn núi.

Bỗng nghe gần đó có tiếng khí giới cọ nhau sang sảng. Rồi từ trong bụi rậm xuất hiện bảy vị đạo sư, người nào cũng lăm le thanh trường kiếm trong tay.

Quách-Tỉnh thấy họ phân ra hai toán, bên tả bốn người, bên hữu ba người dàn theo thế trận "Thiên-Cung Bắc-đẩu".

Điều nghi ngờ đầu tiên mà thành sự thật, Quách-Tỉnh nghĩ rằng muốn thoát khỏi thế trận này không khó lắm, duy chỉ ngại cho Dương-Qua.

Quách-Tỉnh nói nhỏ:

- Cháu tìm nơi nào tạm lánh mình và không cần lo cho tánh mệnh của chú.

Thằng bé vốn lanh lợi, bèn giả cách sợ sệt khóc và nói lớn:

- Chú ơi! Ma đó! Cháu sợ lắm? Cháu không dám đi với chú nữa.

Dứt lời, Dương-Qua nhảy lui ra đằng sau, đâm đầu chạy liền vào một bụi rậm.

Quách-Tỉnh khen thầm óc thông minh sáng suốt của Dương-Qua và tiếc rằng tính tình nó không hòa hợp với Hoàng-Dung để có thể trở thành một đồng bọn vô cùng lợi hại.

Vừa khen ngợi cơ xảo của Dương-Qua, Quách-Tỉnh lo phương pháp đối phó với "Thiên-Cung Bắc-đẩu trân".

Trong đêm trăng mờ, bảy vị đạo sư chỉ là bảy chiếc bóng đen lù lù không trông rõ mặt; họ tiến thối liên hoàn đúng theo trận pháp cổ truyền. Bóng đen nào cũng như có tóc dài xõa tận cung, mỗi lần di động là mỗi lần đầu rung rinh như chiếc tàn cây rậm.

Trong bảy bóng đen, một bóng có thân hình mảnh khảnh giống như thân hình của một đạo cô.

Hồi 9 : Quách Tỉnh với trận Bắc đẩu Thiên cang

Thấy thế Quách-Tỉnh nghĩ thầm:

- Đúng là Thất tử Toàn-Chân rồi, nhưng chắc có một vị trong bảy người bị thất tịch nên được thay thế vào một nữ. Đã mười năm qua, việc liên lạc với Trùng Dương Cung bị gián đoạn nên ta chẳng biết.

Nắm được địch tình, rõ được ý đích, và đoán được địch pháp, Quách-Tỉnh thấy việc phá trận "Bắc-đẩu Thiên-cang" chẳng khó khăn gì. Theo binh pháp, trận nầy có một yếu điểm là Bắc đẩu tinh vị, hễ chiếm được yếu điểm đó thì có thể thao túng được mọi kế hoạch tấn công. Cũng như công dụng của sao Bắc đẩu trên trời lúc ban đêm nó hướng dẫn chắc chắn cho mọi người dùng đường đúng lối. Tinh vị Bắc đẩu trong thế trận là chủ não của cuộc chiến, là bản doanh của tham mưu, mà nữ đạo cô đang giữ trọng yếu.

Và, người ta cũng phải lưu ý ở thế trận nầy là địa vị tối thượng của tinh thần.

Bắc-đẩu-trận không phải ai cũng có thể cho vào làm tinh binh, mà phải có những người và võ nghệ tuyệt luân, sức điều động tinh thần phải vượt qua sức mạnh của vũ khí mới có thể làm đúng theo pháp thuật.

Ngược lại, Bắc đẩu trận thường chỉ được bố trí để tấn công những người xuất chúng, đáng gọi là địch thủ.

Quách-Tỉnh đã rõ thông tài năng của Thất tử Toàn-Chân, lại hiểu rõ cái lợi hại của trận pháp nên không dám khinh thường, thận trọng từng hành động, cố đừng lầm lộn lọt vào tầm chi phối của quần tinh lúc di chuyển.

Đột nhiên, bảy đạo nhân như thiếu kiên nhẫn, tung kiếm chuyển từ thế thủ sang thế công tấn thối qua lại theo luật di chuyển của quần tinh trong trận pháp.

Quách-Tỉnh lợi dụng sự di chuyển trong đêm tối của phương vị, tấn công vào tinh vị Bắc đẩu, khiến cho đạo cô lọt ra ngoài vòng hệ thống và sáu vì sao kia rối loạn tinh thần, thiếu phối hợp, mất liên hoàn và người nào người nấy phải sử dụng võ khí để hộ thân.

Thế là trận pháp tan vỡ, chỉ còn lại vũ tài thuần túy, do sức lực từng người gánh vác lấy phương vị đã có, rất dễ dàng cho Quách-Tỉnh đối phó.

Đạo cô như rõ tài nghệ của Quách-Tỉnh, liền la lớn:

- Biến trận! Biến trận!

Thế là hàng ngũ bảy vị đạo nhân rối loạn, mỗi người tự mình đông xông tây đột để tự bảo vệ, không còn tiến thối theo thế liên hoàn của trận pháp nữa.

Trong ánh tối lờ mờ, các chiếc trường kiếm tung tăng lồng lộn. Giữa sự rối rắm của vũ khí đó, người nào cũng có thể nhầm phương vị mình với đồng bọn.

Quách-Tỉnh cố nhiên nắm vững tình thế, chỉ cần áp dụng thuật tấn công gián tiếp lúc phối hợp với địch thủ này để phản kích đối thủ kia, lúc vận dụng đường kiếm của đối phương để chống đỡ lại đối phương.

Mặc dù tiếng thép va chạm liên hồi, mà Quách-Tỉnh không cần phải ra tay, dụng sức.

Vị đạo cô cảm thấy cả bọn đều nằm trong thế "đương kế tựu kế" của Quách-Tỉnh, liền lớn tiếng ra lệnh, mục đích để củng cố tinh thần sáu vị đạo hữu.

- Giải thác! Giải thác!

Thác có nghĩa là lầm lẫn. Phàm trong qui tắc võ nghệ bấy giờ, khi các cấp chỉ huy hô lên lệnh "giải thác" có nghĩa là kế hoạch đầu tiên đã hỏng nhưng không phải vô phương bổ cứu.

Sáu vị đạo sư nghe lệnh hiểu ngay rằng đây mới chỉ là thất bại trong chiến thuật, còn có kế hoạch mới sắp được thi hành để bổ trợ. Họ lại hăng say cố gắng chiến đấu để chờ lệnh chỉ huy.

Vị đạo cô sau khi ra lệnh "giải thác" liền rút ra khỏi vòng chiến, để triệu hồi sáu vị đạo hữu kia ra ngoài, bày bố một kế hoạch mới.

Nhưng lạ thay! Cả sáu vị đạo nhân không người nào rời khỏi vị trí được, họ tưởng chừng như họ bị buộc vào một sợi dây vô hình, quây quần xung quanh đối thủ để rồi chống đối lẫn nhau, bảo vệ cho đối phương.

Dương-Qua đứng nấp trong một bụi rậm gần đấy, xem xét thế trận lấy làm kỳ dị.

Quách-Tỉnh, một mình đứng giữa bảy đối thủ, sắc mặt vẫn tươi tắn không gợn chút lo âu. Qua ánh trăng mờ xuyên vào các cành cây kẽ lá. Dương-Qua nhận rõ đôi mắt Quách-Tỉnh tròn xoe rực hào quang sáng chói, gườm gườm vào đối thủ giống hệt đôi mắt của một con rắn đang chú mục vào con mồi.

Nếu kẻ nào tinh xảo về trận pháp hẳn thấy rõ Quách-Tỉnh đang vận dụng tinh thần để trấn áp và điều khiển đối phương.

Bởi vì, thế trận Thiên-cang Bắc-đẩu là một trận thế tinh thần Quách-Tỉnh muốn thắng tất phải tập trung trí óc. Hơn nữa, Quách-Tỉnh đã chiếm được tinh vị chủ não, cho nên lại càng phải huy động mãnh liệt toàn bộ hệ thống cân não để làm tê liệt mọi ý phản công của địch.

Trong lúc đó, sáu vị đạo nhân kiếm vẫn cầm tay, múa tung tăng mà vẫn không sao tiến đến gần Quách-Tỉnh. Họ chỉ biết gờm vũ khí, đi tròn xung quanh Quách-Tỉnh như những vệ tinh di chuyển quanh một vì sao chính.

Vị đạo cô vẫn còn ở ngoài vòng chi phối của Quách-Tỉnh, tuy tài nghệ xa hơn đồng bọn, song nàng vẫn lo ngại chẳng chóng thì chầy, mãnh lực tinh thần của đối phương sẽ áp đảo trọn bộ.

Mà quả thật không sai, chỉ chốc lát, đạo cô cảm thấy như mình bị vương vấn trong hành động, đầu nặng trĩu, trí óc cảm thấy lờ mờ thiếu sáng suốt.

Bấy giờ là lúc Quách-Tỉnh chủ động toàn bộ. Quách-Tỉnh rất khoái chí.

Thì ra đây là một cuộc kỳ ngộ bất ngờ đã cho nhà hiệp sĩ đảo Đào-hoa thử lại tài nghệ mình sau mười năm cư tịnh. Tài nghệ đó đã tỏ ra toàn vẹn, và quý hơn nữa là Quách-Tỉnh vẫn còn sung sức để đương đầu với một biến hóa khác thường qua mười năm tiến triển của Trùng-Dương-Cung.

Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn có tánh tự nhiên, chẳng bao giờ dám tự phụ, vì vậy trước thắng lợi dễ dàng ấy, Quách-Tỉnh tự hỏi phải chăng mình đã gặp phải các đấu thủ non nớt, chưa nắm vững quy luật và nguyên tắc của trận "Bắc đẩu Thiên-cang".

Không lý gì một tài nghệ hèn mọn của mình rèn luyện qua mười năm lại có thể chiến thắng những bí quyết nơi Trùng-Dương-Cang một cách dễ dàng như vậy.

Mặc dầu vẫn lo ngại sẽ phải đương đầu với một trận thế mới mẻ và nguy hiểm hơn, song Quách-Tỉnh vẫn vui lòng vì đã rửa nhục được với những vị đạo nhân ngạo nghễ, dám ngang nhiên nhục mạ mình với những lời chửi rủa: nào dâm tặc, nào dùng yêu pháp...

Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh thấy cần phải có đôi hành động hi lộng hơn, liền cất tiếng gọi Dương-Qua với giọng nói oang oang như sấm:

- Qua nhi! Hãy xem chú sử dụng pháp thuật.

Dứt lời, Quách-Tỉnh nhún mình nhảy tung lên một đỉnh núi chênh vênh gần mé lò. Cả bảy đạo nhân cảm thấy khó chịu, toàn thân bị bao trùm bởi một mành lưới mà Quách-Tỉnh đã nắm vững đầu dây.

Theo bí pháp của trận, hễ Bắc vị tinh chuyển về đâu thì cả quần tinh hộ vệ phải chuyển theo, nếu không sẽ tan vỡ. Mãnh lực chi phối của Quách-Tỉnh vô cùng chặt chẽ, khiến cả bảy đạo nhân vẫn không sao thoát khỏi. Và muốn được an toàn họ tất phải hướng theo Quách-Tỉnh.

Thế là cả bọn nhún mình bay lên đỉnh núi. Nhưng chưa định vị trí thì Quách-Tỉnh đã nhảy tuốt lên ngọn cây và cúi đầu nhìn các đạo nhân rên la đau đớn.

Tinh nghịch, Quách-Tỉnh lại còn ngoái cổ nói xuống với đạo nhân:

- Hãy coi gió lộng đây nầy!

Dứt lời, Quách-Tỉnh phồng ngực thổi một hơi dài, làm rung động xào xạc cả cây lá, và làm tung bay y phục lướt thướt của các đạo nhân, người nào người nấy mặt mày trắng nhợt.

Một đạo nhân tức giận nói:

- Thằng quỷ sứ ma đầu này chẳng biết tung tích ở đâu mà pháp thuật cao cường! Phái Toàn-Chân chúng ta phen nầy không tránh khỏi nhục nhã.

Dẫu tức giận, nhưng ý thức sinh tồn buộc họ phải tìm những cứ điểm trên cây để có thể nấp tạm trong phạm vi tự phạt của hệ thống Bắc-đẩu.

Quách-Tỉnh thấy thế ái ngại, cảm giác mình đi quá xa trong trò chơi độc, liền dịu giọng nói:

- Thôi thế cũng vừa đủ. Tại hạ xin xuống vậy...

Nói rồi Quách-Tỉnh nhảy xuống chễm chệ đứng giữa bảy vị đạo nhân, nhưng vẫn không thoát ra ngoài hệ thống điều khiển, ôn tồn chắp tay thưa:

- Thật ra Tỉnh tôi có lỗi nặng đối với quý đạo huynh, xin quý đạo huynh miễn chấp và cho phép Tỉnh tôi được vào yết kiến Khưu chân nhân.

Một trong bảy vị đạo nhân tên là Thiên-Quyền, vốn tính tình táo bạo, thấy đối phương võ nghệ cao cường nhưng lại khiêm nhượng, lòng không thích, hét lớn nói:

- Dâm tặc! Chúng ta vốn là các đạo sĩ của phái Toàn-Chân rất ghét những sự xảo trá. Nhà ngươi muốn đến Chung-nam-Sơn để giở trò vô sỉ thì nói phứt cho rồi, đừng mượn kế bái yết người nầy người nọ làm chi.

Quách-Tỉnh tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi:

- Tôi làm điều gì mà bảo là vô sỉ?

Thiên-Quyền nói:

- Cứ xem võ công và yêu pháp của nhà ngươi thì cũng đủ rõ cần gì phải chối cãi? Bần đạo lấy tình thật khuyên ngươi nên hạ sơn đi là hơn.

Tuy trong căm tức nhưng lời nói của đạo nhân hàm chứa ý thức khâm phục tài nghệ của Quách-Tỉnh không ít, Quách-Tỉnh liền thưa:

- Tôi từ phương Nam băng ngàn vượt núi đến đây, khổ nhục đã nhiều, chỉ mong được bái yết Khưu chân nhân, nay nếu đã đến nơi mà phải xuống núi thì công phu đó đạo huynh không nghĩ tưởng hay sao?

Thấy Quách-Tỉnh vẫn khăng khăng nói ý muốn gặp Khưu chân nhân, Thiên-Quyền đạo nhân lạnh lùng nói:

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Author dongta

Author Info Member since Nov-22-01:560 posts, 1 feedbacks, 2 points

ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 9"

Date/Time Jan-12-02, 06:01 PM ()

Message

In response to message #0

- Thế nhà ngươi muốn gặp Khưu chân nhân với dụng ý gì?

Quách-Tỉnh nói:

- Thưa đạo nhân! Tôi từ nhỏ đã thụ đại ân của Mã và Khưu chân nhân. Nay mười năm xa cách tình thầy trò, lòng nhớ nhung lưu luyến, muốn được thăm viếng một phen.

Tuy lời nói của Quách-Tỉnh rất thành thực nhưng không làm sao trấn áp được ác cảm của các vị đạo nhân đã có thành kiến từ lúc mới gặp. Họ đều nhìn nhau lắc đầu cười thầm.

Quách-Tỉnh thấy thế lại cố gắng biện bạch thêm một lần cuối cùng, đem câu chuyện của Ngọc-dương-Tử, Vương-xứ Nhất chẳng quản nguy hiểm đã một lần cứu mạng cho Quách-Tỉnh lại tại Triệu-vương-phủ, ân nghĩa đó Quách-Tỉnh vốn khắc cốt ghi lòng.

Quách-Tỉnh nói:

- Tôi chắc rằng các đạo huynh đều là môn đệ của Vương chân-nhân, mà tôi là kẻ thụ ân của Vương chân-nhân. Nếu Vương-chân-nhân có tại nơi nầy thì cuộc trùng phùng giữa chúng ta thật đáng mừng như cuộc kỳ ngộ hiếm có. Tại sao các đạo huynh lại khư khư thành kiến để anh em cùng một nhà sát hại lẫn nhau.

Thật vậy, trừ vị đạo cô ra, sáu vị đạo nhân kia đều là môn đệ của Vương-xứ-Nhất. Song họ nhất định không nhận lời thành thật của Quách-Tỉnh. Họ hầm hầm nổi giận, tung kiếm vùn vụt, hướng về phía Quách-Tỉnh.

Nhanh nhẹn, Quách-Tỉnh ẩn mình trong phạm vi của tinh vị Bắc-đẩu. Vị đạo cô chống kiếm đứng yên lặng còn sáu đạo sư kia quay kiếm xung quanh Quách-Tỉnh như một quần tinh di động.

An toàn trong tinh vị Bắc-đẩu, Quách-Tỉnh hét lên một tiếng thất vọng:

- Tôi là Quách-Tỉnh đây! Các đạo huynh hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa thượng sơn của tôi. Vì sao quý đạo huynh lại cứ khăng khăng cho tôi là kẻ thù của quý vị? Như thế tôi biết phải làm sao để quí vị tin?

Thiên-Quyền đạo chân quát:

- Đừng nói vô ích. Người đã đoạt mất sáu thanh trường kiếm của phái Toàn-Chân. Vậy hãy đoạt luôn bảy thanh trường kiếm nầy nữa đi.

Rồi một vị đạo sư mặt lầm lì trong bọn phụ họa:

- Dâm tặc! Mày đã từng mặt dạn mày dày đến nhà họ Long bần tiện mua con gái của người ta là đồ đệ của môn phái Toàn-Chân.

Quách-Tỉnh như bỡ ngỡ lạ lùng trước lời nói không vô duyên cớ ấy, cất tiếng hỏi:

- Ô hay! Con gái của nhà họ Long nào. Tôi là Quách-Tỉnh từ Đào-hoa-đảo đến đây nào có biết?

Một vị đạo nhân cười ha hả nói:

- Thôi, đừng có giả bộ để đóng trò! Dâm tặc đi tìm dâm phụ thì có điều gì lạ đâu. Chỉ cần nhà người chớ nên mạo nhận mình là người của môn phái Toàn-Chân.

Quách-Tỉnh nói:

- Quý vị bảo ai là dâm tặc?

Một đạo sư đáp:

- Ta gọi ngươi là dâm tặc chứ còn ai nữa. Nếu không phải là dâm tặc ngươi hãy nguyền rủa con dâm phụ kia một lời cho chúng ta xem.

Quách-Tỉnh lại càng ngạc nhiên. Vốn là một kẻ đạo đức và trung hậu, Quách-Tỉnh nghĩ rằng con gái nhà họ Long với mình nào có quen biết, lại không oán không thù, nay vô cớ chưởi của người ta là vô lễ.

Nghĩ như vậy, Quách-Tỉnh nói:

- Tại sao quý vị bắt tôi phải chửi rủa người tôi chưa hề biết đến?

Các đạo nhân cho rằng Quách-Tỉnh làm bộ ngớ ngẩn, đồng cười rộ lên một lượt nói:

- Đó! Đã rõ ràng còn chối cãi vào đâu được nữa.

Trước thái độ hồ đồ của các đạo nhân, Quách-Tỉnh nghĩ không còn cách gì hơn là phải mở đường thượng sơn bằng võ thuật.

Quách-Tỉnh buồn rầu nói:

- Như thế này tôi biết làm sao? Nếu chu đạo huynh còn cản trở tôi nữa đừng trách tôi vô lễ.

Quách-Tỉnh nói chưa dứt lời thì bảy lưỡi kiếm đã vung lên một lượt, thành một hàng rào sáng giời. Một vị đạo nhân nói:

- Nếu nhà ngươi muốn chúng ta tin lời thì chớ nên dùng yêu pháp.

Quách-Tỉnh biết cả bọn đều nao núng tinh thần, liền nói:

- Vâng! Tôi không bao giờ dùng đến tà thuật, mà chỉ vận dụng thần lực thôi. Tuy nhiên, đối với hạng phàm phu tục tử, thần lực và tà pháp nào có gì khác nhau đâu?

Thật thế lời nói của Quách-Tỉnh không phải là ngụy ngôn. Thần lực và tà pháp trong võ nghệ chỉ là những phương tiện để đạt đến kết quả là làm cho đối phương thúc thủ. Nếu không phải chính người vận dụng phương tiện ấy thì ai là người phân biệt được. Chẳng khác nào trên đường hành đạo, vương đạo và bá đạo là hai lối đi khác nhau, song vẫn cùng đạt một mục đích duy nhất là chinh phục lòng người.

Quách-Tỉnh nghiêm nghị nói:

- Tỉnh tôi xin nói trước, tay tôi không động đến binh khí mà tôi có thể đoạt tất cả vũ khí của quí vị.

Bảy đạo nhân nghe nói nhìn nhau nửa sợ nửa hồ nghi cho lời Quách-Tỉnh là khoa trương khoác lác.

Một vị hỏi:

- Ngươi có dùng đến chân chăng?

Quách-Tỉnh cười đáp:

- Không cần phải đụng đến sức lực của chân tay. Phàm là môn phái Toàn-Chân, vũ thuật phải đạt đến mức vô vi, nghĩa là phải khắc phục được đối phương bằng tinh thần hơn là bằng vũ khí. Cái vô vi tích cực của võ nghệ còn khó hơn cái vô vi triết lý, bởi lẽ phải chi phối vật chất (vũ khí). Tỉnh tôi chưa dám tự hào đạt đến mức siêu việt, nhưng hàng ngày đã rèn luyện nhiều để được gọi là xứng đáng với môn đồ phái Toàn-Chân.

Dứt lời, Quách-Tỉnh ném vũ khí xuống đất, đứng trơ ở giữa như một pho tượng sống, vận dụng chưởng lực tỏa ra bốn bề ngùn ngụt, bảy lưỡi kiếm chém tới không hề hấn gì cả.

Bảy vị đạo nhân múa quay cuồng như những con thiêu thân bu quanh đĩa đèn sáng rực.

Lời giải thích của Quách-Tỉnh vừa rồi đã là một cuộc tấn công mở đầu làm tâm thần bảy đạo nhân xao xuyến. Tiếp đến là hiệu lực của chưởng lực chi phối làm cho võ khí trở nên vô nghĩa.

Không ai bảo nhau mà bảy đạo nhân người nào cũng cảm giác rằng nếu Quách-Tỉnh ra tay thì cả bọn không thoát khỏi vòng nguy hiểm.

Sự hoang mang tinh thần ấy nằm trong dụng ý của Quách-Tỉnh nên lúc Quách-Tỉnh nhận xét được trạng thái, liền quyết định hành động ngày.

Chúng ta ai cũng hiểu rằng khi một sức mạnh quay tròn chung quanh một cái trục, sức mạnh ấy tùy thuộc vào một ly tâm.

Ví như ta buộc một cục đá vào đầu một sợi dây quay tròn, sức quay càng nhanh thì sức ly tâm càng mạnh, đến khi thả đầu dây thì cục đá được thoát khỏi tầm ly tâm văng xa tùy theo sức mạnh của ly tâm.

Quách-Tỉnh nắm vững quy luật đó trong thế trận nhưng việc thả đầu dây vô hình không phải là việc khó, mà khó là làm cách nào làm tách rời chuôi kiếm khỏi tay bảy đạo nhân mà tánh mang bảy đạo nhân không bị nguy khốn.

Quách-Tỉnh dùng thần lực làm biến hóa sức chi phối của mình đối với thần trạng của bảy đạo nhân, và từ đó gây cho đối thủ có những cảm giác trọng lượng khác nhau đối với võ khí mỗi người đang nắm giữ.

Thật vậy, có lúc các đạo nhân cảm thấy như thanh kiếm mình nặng ngàn cân, có lúc cảm thấy thanh kiếm nhẹ như lông hồng.

Rồi nhân việc thay đổi trọng lượng đột ngột đó, Quách-Tỉnh hét lớn.

- Bay! Bay

Tiếng hét ầm vang như sấm làm cho các đạo nhân tâm thần rối loạn, tay chân bủn rủn, thanh trường kiếm trong tay văng bổng lên trời không kịp giữ lại.

Quách-Tỉnh cười khanh khách, trong lúc mọi người mặt mày khủng khiếp, đứng trân trân không nói nên lời.

Hồi 10 : Chung-nam-sơn khói lửa

Bảy đạo nhân mặt như chàm đổ, đứng thẳng không nhúc nhích. Qua một lúc, bỗng từ trong khe núi vang ra một tiếng hú, tiếng hú của các nhà quyền thuật. Bảy vị đạo nhân cùng một loạt co chân bỏ chạy, lui vào trong núi đá. Quách-Tỉnh thấy không còn ai cản trở bước tiến của mình nữa, lẩm bẩm:

- Họ thượng sơn cả rồi.

Đoạn quay lại gọi Dương-Qua sửa soạn cuộc hành trình. Nhưng Quách-Tỉnh gọi hai lần không thấy Dương-Qua trả lời đâu cả.

Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh rảo bước tìm vào bụi rậm thì thấy nơi bụi có một chiếc hài nhỏ bị rơi tại đó.

Quách-Tỉnh lượm chiếc hài lên xem thấy quả là chiếc hài của Dương-Qua, ngạc nhiên tự nghĩ:

- Ngoài bảy vị đạo nhân kia có lẽ còn có một người nữa phục kích đâu đây, và đã bắt cóc thằng bé này trong lúc mình đang say chiến đấu. Nhưng người ấy là ai? Không lẽ người của Trùng-Dương-Cung! Vì người của Trùng-Dương-Cung nhất cử nhất động phải làm việc "Đại nghĩa". Dù họ có hiểu lầm mình chăng nữa lẽ nào họ lại có thể làm trò trẻ nít thế kia.

Quách-Tỉnh lấy hơi chạy nhanh lên núi. Đường núi khấp khểnh quanh co, có chỗ đứng đứng lên như những vách đá khổng lồ, có chỗ nhỏ hẹp phải lách mình, phải nghiêng người mới qua được.

Đi chưa được bao lâu, bỗng mây đen kéo tới nghịt chân trời, bầu trời trắng đã chìm trong bóng tối đen đặc.

Quách-Tỉnh nghĩ bụng:

- Vùng này hiểm trở, đường lối lạ chưa hề quen các đạo nhân lại cố ý hãm hại ta, vậy ta phải cẩn thận lắm mới được.

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh dò lần từng bước một. Qua một lúc gió thổi mây đen bay về phía chân trời, ánh trăng huy hoàng tỏa xuống khắp đồi cây kẽ lá, rọi vào các mặt phẳng của mấy phiến đá bên đường lóng lánh như pha lê.

Cảnh vật êm đềm lặng lẽ, Quách-Tỉnh nghe rõ từng hơi thở, của lối một trăm người đang ẩn núp đâu đây. Mặc dù chưa thấy bóng dáng họ, Quách-Tỉnh hình dung một số đông người đang mai phục và một cuộc trả thù sắp diễn ra.

Tuy lòng không hề dao động, Quách-Tỉnh cũng mong cho việc rắc rối có thể tránh khỏi liền lách mình rẽ vào một lối khác.

Con đường đó đưa Quách-Tỉnh đến một thung lũng rất rộng bốn mặt có núi bao vây, chính giữa là một gò cát phẳng phiu, xa xa về phía chân núi có một cái hồ lớn, ánh trăng rọi vào mặt hồ lấp loáng như bạc.

Bỗng một tiếng hú vang lên, trước mặt hồ hiện ra lối một trăm bóng đen, hay nói đúng hơn là một trăm đạo nhân, đồng phục màu tro, đầu thắt khăn vàng, tay mỗi người đều cầm một thanh trường kiếm lóng lánh.

Họ sắp thành hàng gồm có 14 tổ, mỗi tổ 7 người, bố trí thành hình Thiên cang Bắc đẩu. Rồi mỗi tổ lại dàn thành hình "đại Bắc-đẩu" trong thanh thế rất oai nghi lẫm liệt.

Cứ hai Bắc đẩu thì một ô thế này, một ô thế khác, dựa theo lý sinh khắc chế hóa để nương tựa nhau.

Quách-Tỉnh không ngờ họ lại dùng thanh thế đối với mình như vậy, trong lòng không vui tự nghĩ:

- Từ trước đến nay mình chưa hề được nghe Khưu chân nhân nói tới cái thế Bắc đẩu đại trận này, chỉ có Trùng-Dương đại sư truyền dạy mà thôi. Thế thì chắc có Trùng-Dương đại sư truyền dạy cho họ bao nhiêu năm nay nên họ mới có thể tinh thục như vậy được.

Một người trong thế trận hú lên một tiếng ra hiệu, tức thì chín mươi tám vị đạo nhân phi chuyển từ thế này sang thế khác tiến lui từ hệ thống trận pháp rất linh động và biến ảo. Họ vây Quách-Tỉnh vào giữa, và mỗi người đều rất kiếm ra khỏi vỏ, mắt không chớp trừng trừng nhìn nhau lặng lẽ chẳng nói một lời.

Quách-Tỉnh khoanh tay nói:

- Tôi xin thành thực muốn lên núi Bảo-sơn bái huấn Khưu-chân-nhân, xin quý đạo huynh giúp đỡ cho tôi gặp người, đừng cản trở làm gì mà bận tâm quý vị. Thật ra tôi chẳng có ý gì xấu cả.

Đạo nhân râu dài chẳng biết thành tâm hay có ý trêu tức, nói:

- Tôn huynh võ nghệ cao cường sao lại không biết tự trọng lại nhận làm gì vào hàng ngũ của bọn hèn yếu chúng tôi? Bần đạo dám kính xin có đôi lời nhủ cùng tôn huynh chẳng nên dùng kế nhu mì, lời lẽ đường mật mà dối người. Bần đạo biết rằng sư huynh đã mười năm nay từng được khổ công rèn luyện tài nghệ đã đến mức tuyệt luân, vậy còn đến đây làm gì cho mất công đối phó.

Đạo nhân râu dài nói với giọng trầm trầm, nhấn mạnh từng tiếng oang oang, chứng tỏ trong người có một sức nội công đã khá uyên thâm.

Lời nói đó dầu thành khẩn hay có dụng ý vẫn làm cho Quách-Tỉnh tự thấy buồn cười, nghĩ thầm:

- Chẳng biết lão già này xem ta là hạng người thế nào? Nếu hắn đã thấy được vẻ nhu mì của ta thì sao hắn lại nghi ngờ thiện ý của ta được.

Nghĩ đoạn Quách-Tỉnh nói:

- Xin đạo huynh cứ cho tôi được bái yết Khưu chân nhân thì sẽ rõ được hư thực.

Đạo nhân râu dài nói:

- Nếu tôn huynh khăng khăng không chịu tỉnh ngộ, còn dùng cách lừa dối chúng tôi thì thôi hãy cứ phá toàn bộ "Thiên cang Bắc đẩu trận" của sư phụ đã truyền dạy chúng tôi đi.

Quách-Tỉnh đáp:

Kẻ hèn này tài nghệ thấp kém, lại ở giữa nơi xa lạ này đâu dám dại dột chống đối với quý huynh là những trang anh hùng nơi Trùng-Dương-Cung. Xin quý huynh coi kẻ hèn này như một đứa con nít mà đưa vào yết kiến Khưu chân nhân là vinh hạnh biết chừng nào".

Đạo nhân râu dài chẳng biết vì ý gì, nổi giận lớn tiếng thét:

- Thôi đừng có dùng lối nhu mì bên ngoài để lừa dối mà bên trong dùng nội công để hãm hại chúng ta. Nhà ngươi nên lưu ý rằng nếu cứ các khí cục điếm đàng ấy thì có trở về Nam Sơn trước mặt sư phụ ở chốn điện đài, ngươi cũng chẳng thể nào được người dung thứ.

Dứt lời đạo nhân vung kiếm lên, tức thì ngàn vạn tiếng ù ù chuyển động. Chín mươi tám thanh kiếm đều tung ra một lượt như một trận cuồng phong, loang loáng phản chiếu vào ánh trăng như một vùng màu bạc.

Quách-Tỉnh lòng rầu rầu nghĩ:

- Họ dàn trận đủ mọi ưu thế, còn ta một thân cô độc, làm sao chiếm nổi cái thế ưu tiên của "Bắc đẩu tinh vị" được. Nếu không chiếm được tinh vị ấy đành chịu thúc thủ mà thôi.

Trong lúc Quách-Tỉnh chưa nghĩ ra phương kế gì để chiến đấu thì hai cánh cửa thế "Bắc đẩu đại trận" gồm chín mươi tám vị đạo sĩ tài cao đã khép chặt lại. Vũ khí tỏa ánh sáng như muôn ngàn đạo hào quang, không để hở một chỗ nào địch thủ có thể thoát ra được.

Vị đạo sĩ râu dài kêu lớn nói:

- Tôn huynh hẳn đã từng phen lăn lộn ở chiến trường, vậy cứ thử xuất trận xem sao.

Quách-Tỉnh thầm nhủ:

- Bắc đẩu đại trận tuy khó phá nhưng ta thử xem trận pháp của họ ra sao. Nếu không gặp điều gì trở ngại rủi ro thì thật ra phần thắng bại cũng chưa biết đâu mà lường trước được.

Trong lúc Quách-Tỉnh trầm ngâm suy tính thì đột nhiên thế trận nhẹ nhàng chuyển về hướng Tây Bắc. Mười tám cánh tay giơ cao vẫy vẫy như mười tám con rồng ở thế "tiềm long vật dụng". Nghĩa là muời tám con rồng còn ở ẩn chưa thi thố tài năng. Mười tám cánh tay ấy, cứ cái này co, cái kia duỗi, tạo nên một uy mãnh như muốn đun đẩy người khác phải lùi đi.

Còn bảy đạo nhân khác chuyển biến từ phải sang trái để dẫn đầu cho nên thế trận từ từ di chuyển.

Quách-Tỉnh trông thấy liền xuất thần. Bao nhiêu thần lực về cân não tập trung vào bảy vị đó.

Tức thì bảy đạo nhân đó nao núng phải vận dụng hết thần lực để cưỡng lại.

Nhưng rồi họ thấy uy mãnh của thần lực đối phương chuyển lần vào cảm giác của họ khiến cho họ không còn tự chủ nữa; mặt mày họ cảm thấy như có đất bụi bám vào.

Đạo nhân râu dài cảm thấy đối phương có một sức mạnh thần lực phi thường mới vừa chuyển tâm linh mà đã làm cho bảy đạo nhân cao cường bị áp đảo lấy làm kinh sợ.

Thần lực của Quách-Tỉnh vừa vận dụng chẳng những trấn áp bảy đạo nhân di động mà làm lay chuyển luôn cả mười bốn tổ trong Bắc đẩu trận nữa.

Bấy giờ Quách-Tỉnh lại vận dụng sức nội công tăng lên gấp mười.

Thật vậy, nếu Quách-Tỉnh không có sức nội công uyên thâm đó thì làm sao đẩy lui được thần lực của chín mươi tám vị đạo nhân kia.

Quách-Tỉnh lại nhớ đến ngày đại chiến tại Quần-sơn thuở nọ nên nghĩ rằng mình chẳng nên kéo dài cuộc chiến đấu với các đạo nhân ấy.

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh áp dụng chiến thuật phi thân vượt ra ngoài vòng vây để tránh cuộc chạm trán tổn thương đến sinh mệnh.

Quách-Tỉnh phi thân từ đầu này sang đầu kia, từ điểm này qua điểm khác làm cho thế trận xao động lạ thường, mũi gươm tua tủa như những làn sóng bạc nhấp nhô dưới đêm trăng nơi bể cả.

Mặc dù cố tình không phạm đến sinh mạng mọi người nhưng Quách-Tỉnh phi thân một hồi vẫn không tìm ra kẽ hở để thoát ra.

Chàng lẩm bẩm:

- Từ trước đến nay ta chưa hề gặp phải trận nào lợi hại như vầy. Muốn thoát khỏi vòng vây không phải dễ. Mà không thoát khỏi vòng vây thì làm sao yết kiến Khưu đạo trưởng.

Quách-Tỉnh nghểnh cổ lên nhìn thấy phía trên bên phải dãy núi đá xa xa có một tòa lâu đài hùng vĩ ra vẻ một chốn đạo trường. Quách-Tỉnh nghĩ rằng phải vận dụng nội công kêu gọi thì chắc ở Trùng-Dương-Cung có thể nghe tiếng được.

Bèn vận khí xuống đan điền đợi đến khi thấy đàn diễn minh tinh đã ngưng khi đã tụ đầy đủ, liền phát ra một tiếng hú, tiếp theo với giọng nói vang vang:

- Đệ tử Quách-Tỉnh cần bái yết! Đệ tử Quách-Tỉnh bái yết!

Tiếng nói to như sấm, như tiếng rồng gầm ầm ầm chuyển động làm cho các đạo sĩ phải ù tai mờ mắt, lảo đảo mất cả khí thế của những kẻ đang hăm hở muốn tấn công người.

Lão đạo nhân râu dài nói:

- Tôn huynh quỷ quyệt quá, toan dùng nhu kế để lường gạt ta. Bây giờ thì các tiểu xảo đó đã lộ ra rồi đừng hòng gạt ta nữa.

Quách-Tỉnh nghe nói nổi giận, nghĩ bụng:

- Trận nầy do lão đạo sư râu dài đó điều khiển. Ta chỉ cần hạ được hắn là trận thế chẳng khác nào như rắn không đầu, có khó gì không phá nổi.

Quách-Tỉnh giơ tay lên hướng về phía đạo nhân. Chưởng lực phát xuất làm cho đạo nhân râu dài tái mặt. Nhờ đó, Quách Tỉnh hiểu rằng trận nầy cốt làm sao nhử địch, công kích người chủ súy là trận thế phải núng.

Quách-Tỉnh chỉ bước năm bảy bước rồi dừng lại theo lối "cảm tĩnh thế". Nhưng áp lực phía sau lại gia tăng, cả hai bên cũng thêm sức nặng nề.

Trong cảnh nguy hiểm ấy, Quách-Tỉnh vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt. Dũng khí như dần dần một lúc một tăng thêm Quách-Tỉnh nghĩ thầm:

- Bọn nầy quả hiểu lầm ta là tên dâm tặc nào đó chúng muốn biết lòng ta đã xuất gia tầm đạo, lấy từ bi hỉ xả làm hoài bão có bao giờ muốn gây chuyện sát sinh. Nhưng họ xâm phạm đến tính mạng ta thì ta làm sao có thể để yên được.

Nghĩ như thế Quách-Tỉnh liền nhún mình phi thân lên một tảng đá cao, dùng chân đá nhẹ vào một tiểu đạo nhân, đưa tay trái đoạt lấy thanh trường kiếm của hắn.

Vừa giật được thanh trường kiếm, thì về phía sau bên tay mặt bảy thanh kiếm đã kề tới. Chàng liền tung kiếm ứng chiến.

Tám thanh kiếm giao nhau, tiếng loảng choảng nghe kinh hồn. Chỉ chốc lát bảy thanh kiếm kia đều bị gãy làm đôi rơi xuống đất, còn kiếm của Quách-Tỉnh vẫn y nguyên không hề hấn gì cả.

Thật ra, thanh kiếm của Quách-Tỉnh cũng chỉ là một thanh kiếm thường như mọi thanh kiếm khác, song được Quách-Tỉnh vận dụng nội công truyền ra đầu kiếm nên có một sức bén nhọn phi thường, các kiếm khác chạm vào đều phải gãy nát.

Bảy đạo nhân kia kinh hãi mặt như chàm đổ để chỉ còn biết đứng đờ người ra. Bỗng phía bên kia, hai toán "bắc đẩu trận" chuyển về phía trước để ứng chiến. Toán thì cầm kiếm tay mặt, toán thì cầm kiếm tay trái như để hỗ trợ cho nhau, mười bốn người dồn khí lực vào thành một.

Quách-Tỉnh lại một lần nữa dùng thần lực vung kiếm áp đảo cả mười bốn thanh kiếm kia.

Trong số mười bốn đạo nhân ấy có người toan tìm cách đoạt lấy thanh kiếm của Quách-Tỉnh. Nhưng kẻ ấy có biết đâu rằng thanh kiếm Quách-Tỉnh bây giờ không còn là loại kim khí sáng loáng thông thường mà nó đã trở nên dẻo mềm như xương thịt, cứng mạnh như sức thiên thần.

Quách-Tỉnh dùng thần lực đo lường sức mạnh hợp nhất của mười bốn vị đạo nhân kia, thấy sức mạnh họ còn ấu trĩ, không đáng kể. Quách-Tỉnh hét lên một tiếng:

- Phường tiểu nhân.

Rồi chàng vận dụng sức từ đơn điền lên tiếp khí để tiếp tục trận đấu.

Mười hai thanh kiếm bị gãy một lúc, chỉ còn lại hai thanh kiếm bay vụt ra khỏi tay hai đạo nhân, rớt nguyên vẹn dưới đất.

Mười bốn đạo nhân kinh hãi rút lui về đàng sau, Quách-Tỉnh than tiếc:

- Thực vũ thuật ta chưa đến mức tuyệt luân nên còn sót lại hai thanh kiếm bay đi không bị gãy.

Các đạo sĩ khác thấy thế, trong lòng đều nao núng, vẻ lo âu lộ ra trên nét mặt.

Hai mươi mốt vị đạo sĩ kia tuy mất vũ khí, song họ vẫn còn chiến đấu bằng cách dùng tay không gây khó để tương trợ.

Quách-Tỉnh sử dụng kiếm thuật đã tuyệt diệu, song chàng vẫn còn áy náy, chưa lấy thế làm vừa lòng.

Chàng tự hỏi:

- Sao trận thế của họ lại bền vững đến thế nhỉ?

Chàng đoán biết rằng Khưu-chân-nhân quen lối dùng trận thế vương đạo đã từ bao năm, chắc dàn ra thế Bắc đẩu trận này hẳn là vi điệu lắm. Nếu các đạo nhân kia biết cách biến hóa thì chàng làm sao thoát khỏi được. Tốt hơn, chàng phải ra tay trước thì hơn.

Nghĩ thế, Quách-Tỉnh gọi lớn:

- Nếu quý đạo huynh không dành cho tôi đường rút thì đừng trách tôi vô lễ đối với quý huynh.

Đạo sĩ râu dài cho rằng dù võ thuật Quách-Tỉnh có cao siêu đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi thần diệu của Bắc-đẩu-trận.

Do đó, ông ta coi tiếng thét của Quách-Tỉnh cũng chỉ là những tiếng cười nhạt, nào có nghĩa lý gì. Và, Quách-Tỉnh càng giận dữ thì cái nguy hiểm càng đến với Quách-Tỉnh nhiều hơn.

Quách-Tỉnh nhún người xuống phi thân sang phía đông bắc, và đoán rằng phía đối diện hai tổ ở phía tây nam tất nhiên sẽ di chuyển theo hộ trợ. Quách-Tỉnh bèn dùng phép thuật chỉ mũi kiếm vào sau lưng, tức thì mười bốn đạo nhân ở tổ tây nam bị thần chưởng điểm vào các huyệt Dương-cốc, tay họ bị bủn rủn, mình mẩy rời rã, phải buông thả vũ khí.

Mỗi người bị pháp thuật chỉ ngọn kiếm đó, vội nhảy xổ về phía sau, nhìn vào cổ tay thấy cốc huyết bị vết quần hồng rớm máu mà ngoài da không bị thương tích gì cả. Các đạo nhân khác đều khiếp vía nghĩ bụng rằng nếu Quách-Tỉnh không nhân nhượng có lẽ tay họ bị cắt đứt hết rồi.

Từ nãy đến giờ đã có hơn ba mươi lăm thanh kiếm bị rời khỏi tay các đạo sĩ. Đạo nhân râu dài dường như căm tức lắm, biết rằng Quách-Tỉnh chưa đem hết tài lực, nếu cứ dây dưa mãi thế trân sẽ lâm nguy, ông ta liền ra lệnh siết chặt vòng vây, đối phó một phen quyết liệt.

Quách-Tỉnh nghĩ rằng:

- Các đạo nhân này thực không hiểu gì cả, không chịu nghe lời van xin chỉ mực liều chết để hãm hại người khác mà thôi.

Chàng phi thân cấp thời đến chiếm ngôi Bắc đẩu tinh vị. Lão đạo nhân liền vận dụng hai toán liên hoàn đến ứng phó.

Như thế tức là Bắc-đẩu đại trận có tới mười bốn ngôi bắc đẩu tinh vị, Quách-Tỉnh một mình làm sao chiếm trọn cả được. Chàng chỉ tận dụng thuật phi thân chiếm lấy một ngôi chủ vị rồi sau lần lượt chiếm tới ngôi chủ vị thứ nhì.

Với kế hoạch ấy, Quách-Tỉnh đã làm cho thế trận rối loạn không ít. Lão gia râu dài xem chừng không lợi liền huy động các đạo nhân kia theo trận pháp lấy tĩnh chống động.

Từ trước đến giờ, Quách-Tỉnh dùng thuật phi thân di chuyển rất lẹ làng, hễ có chỗ sơ hở nào là Quách-Tỉnh gây xao động cho chỗ ấy. Bao giờ các đạo nhân đổi chiến thuật, có giữ thế thủ bằng cách bất động. Mười bốn thế dựa vào thần lực của mười bốn tinh vị, dù Quách-Tỉnh có lanh lẹ cũng không thể xông tới chiếm được.

Quách-Tỉnh nghĩ thầm:

- Các đạo nhân này quả thật trận pháp tinh vị. Ta muốn phá ngay cũng khó, chỉ khơi nguồn cho một cuộc máu lửa mà thôi chi bằng tiếp tục gọi đến Trùng-Dương-cung xem sao.

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh ngẩng đầu về phía võ điện, chợt thấy nơi võ điện nguy nga có mấy lằn sáng tiếp do có tiếng thép vọng từ xa.

Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh quay đầu nhìn về phía đạo nhân râu dài thì thấy vẻ mặt ông ta đang có gì lo âu khó đoán được.

Quách-Tỉnh như hiểu ra điều gì, lẩm bẩm:

- Có lẽ kẻ nào đã lọt vào Trùng-Dương-Cung gây rối. Bây giờ ta phải đợi xem tình hình ra sao đã.

Bỗng nhiên, Quách-Tỉnh cảm thấy trong người nóng nảy, bèn dùng ấn quyết "Rồng lên mặt ruộng" để xét đoán.

Lúc đó chín mươi tám vị đạo nhân cũng ấn quyết theo thế của Quách-Tỉnh, làm cho Quách-Tỉnh bị sức cản không thể nào nhận rõ tình địch được.

ấn quyết như thế là để mở thần nhãn, thần nhĩ. Cái khó là làm sao để giữ cho hai tay được thăng bằng. Thấy Quách-Tỉnh đang mở thần nhãn, thần nhĩ để dò đoán địch tình nên các đạo nhân kia phải phá cho kỳ được.

Cánh bên phải thì ấn quyết ngược lại tay trái của Quách-Tỉnh, còn cánh bên trái thì ấn quyết ngược lại tay mặt của Quách-Tỉnh làm cho Quách-Tỉnh rối loạn ấn quyết không mang lại được kết quả mong muốn.

Quách-Tỉnh thấy thế liền chuyển qua thế "Cảng long hữu bối". Thế nầy hai bên phải giao hoàn quân binh, nên chênh lệch một tí sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng.

Quả thật, thế "Cảng long hữu bối" của Quách-Tỉnh đã làm cho hai cánh hữu tả của "bắc đẩu trận phải lung lay. Chỉ phút chốc có hàng mười đạo nhân bị thương.

Sở dĩ Quách-Tỉnh gây được trạng huống nầy là vì chàng nắm được chỗ sơ hở của người chủ súy.

Đạo nhân râu dài đã dùng tĩnh chống động nhưng lầm tưởng không được ổn định, hỉ nộ thường phát hiện trong trận là một điều tối kỵ trong việc dùng pháp thuật "vô vi thanh tịnh" vậy.

Lợi dụng tình thế, Quách-Tỉnh phi thân nhảy về phía trước như bay. Các đạo sĩ đều đuổi theo bén gót.

Quách-Tỉnh vượt đến bờ hồ, nhìn thấy có ánh sáng ngời trên mặt nước, liền cúi xuống để xem cảm ứng ra sao. Chàng lấy thanh kiếm chống xuống mặt nước thì mũi kiếm nhảy vồng lên mấy cái, Quách-Tỉnh liền phi thân, đặt chân lên đầu thanh kiếm nhảy vọt sang bên kia bờ.

ấy vì kiếm kia tuy bằng thép song được thần lực của chàng truyền vào thì không còn là thanh kiếm thường nữa.

Các đạo nhân đuổi theo, tai nghe văng vẳng có lệnh vượt qua bốn năm mươi người phi thân qua mà không hãm nổi nên bị chìm xuống nước, người nầy cỡi trên vai người khác. Còn có một số đạo nhân vì chưa học môn thủy tính nên chìm nổi bập bềnh, kêu cứu vang trời.

Đã thế còn nói gì đến chuyện truy kích Quách-Tỉnh được nữa.

Đang lúc hàng ngũ Bắc-đẩu-trận rối loạn thì bỗng nhiên có tiếng chuông ngân vang từ Trùng-Dương-Cung truyền lại âm thanh nghe rõ là tiếng kêu cứu.

Quách-Tỉnh khi thoát khỏi vòng vây của các đạo nhân, vội vã phi thân về phía Trùng-Dương-cung. Nghe tiếng chuông kỳ lạ liền ngẩng đầu lên nhìn.

Chàng nhận ra phía sau Trùng-Dương cung lửa cháy nghịt trời, ngạc nhiên lẩm bẩm:

- Môn phái chính truyền của võ thuật sao ngày nay có người dám đến tấn công. Ta phải cấp tốc tiếp cứu mới được.

Bỗng phía sau Quách-Tỉnh lại có tiếng thét vang trời của các đạo nhân đang chỉ gươm về phía địch nhân đang phá cung điện của đạo trưởng.

Quách-Tỉnh lẩm bẩm:

- Hẳn bây giờ các đạo huynh mới thấy được tôi là bạn hay là thù. Trong lúc đạo trưởng lâm nguy chắc quý đạo huynh không hẹp hòi gì mà không nhận tôi cùng một hàng ngũ.

Bấy giờ mọi người đều rã chân về phía Trùng-Dương cung.

Năm xưa, trên sườn núi êm đềm tĩnh mịch ở miền Mông-cổ, Mã-Ngọc đã truyền cho Quách-Tỉnh thuật phi thân, có ngờ đâu hơn mười năm sau, thuật này lại dùng để giải nguy cho môn phái mình.

Quách-Tỉnh nhờ thuật phi thân ấy có thể nhún mình một cái mà nhảy đi hàng mấy chục trượng. Từ bờ hồ phi về Trùng-Dương điện, chàng chỉ mất trong khoảng thời gian chốc lát là sẽ tới nơi.

Lửa khói bốc lên cao ngất trời, sức nóng xông ra chịu không nổi. Khí thế của lửa mỗi lúc một lan rộng thêm. Có điều lạ là mấy trăm đạo sĩ ở Trùng-Dương điện, ai cũng vũ nghệ cao cường mà chẳng thấy một ai ra tiếp cứu.

Quách-Tỉnh lấy làm kinh hãi khi thấy tòa võ điện đồ sộ nguy nga mỗi lúc một tan dần dưới sự tàn phá của hỏa lực.

Chàng bèn phi thân qua bức tường cao, vào tới sân trong thì chỉ thấy đông nghẹt những người đang hùng hổ đánh nhau.

Quách-Tỉnh định thần nhìn kỹ thì thấy bốn mươi chín đạo sĩ mặc áo vàng hợp thành bảy thế Bắc-đẩu-trận đang chống với sáu bảy mươi kẻ địch. Bọn nầy tầm thước chẳng đều nhau, có người cao kẻ thấp, người mập kẻ ốm. Họ thuộc vào môn phái khác, có

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Author dongta

Author Info Member since Nov-22-01:559 posts, 1 feedbacks, 2 points

ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 10"

Date/Time Jan-12-02, 05:59 PM ()

Message

In response to message #0

kẻ dùng binh khí, có kẻ dùng nội công chuyển ra bàn tay cố hết sức mình để tấn công. Họ là những người võ nghệ cũng khó, nhân số lại đông nên đua nhau hăng say trong máu lửa. Tuy nhiên, họ chiến đấu rời rạc, trông cậy vào từng sức cá nhân nên lực lượng không được thống nhất.

Ngược lại, về phía các đạo nhân Trùng-Dương điện, tuy ít hơn nhưng theo Bắc-đẩu trận, được sự liên hoàn tương trợ gây nên một thế thủ rất vững chắc.

Quách-Tỉnh thấy cuộc chiến hỗn loạn, toan lên tiếng hỏi để rõ căn nguyên, thì bỗng chàng cảm thấy từ bên phía trong điện có tiếng gió vun vút thổi ra. Với hơi gió đó, Quách-Tỉnh biết rằng bên trong hẳn có người đang chiến đấu, mà kẻ đang chiến đấu trong đó hẳn có một tài lực đáng kể.

Chàng lách mình sang Bắc-đẩu trận. Các đạo sĩ và mọi người đang chiến đấu thấy một bóng người luồng qua giữa rừng kiếm thì thất kinh, toan đuổi theo. Nhưng chỉ trong nháy mắt bóng Quách-Tỉnh đã mất hút vào nội điện.

Vào đến nội điện, Quách-Tỉnh thấy ánh sáng lập lòe của mười cây nến vẫn đang cháy. ánh lửa đằng sau chiếu đến cùng với những làn khói làm cho ánh sáng của nến chỉ là một thứ ánh sáng của những đóm lửa tàn.

Giữa điện, bảy vị đạo nhân với bảy bàn tay trái nắm chặt vào nhau, ngồi theo lối tọa kiết già trên bảy chiếc mâm, tay phải thì giơ lên, phóng tầm lực để chống lại với mười mấy địch nhân đang vây quanh.

Quách-Tỉnh không để ý đến những kẻ đứng đó là ai, chỉ nhìn vào phía bảy vị đạo nhân, thấy trong số đó có ba người già và bốn người trẻ. Ba người già là Mã-Ngọc, Vương-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất. Còn bốn người trẻ chàng chỉ biết có một mình Doãn-chí-Bình thôi. Bảy vị nầy ngồi theo các tinh vị trên trời, từ sao Đạo-quang tới sao Thiên-khu. Trong bảy người có một người ngồi cúi mặt xuống không trông thấy gì cả.

Nhìn kỹ, Quách-Tỉnh cảm thấy Mã-Ngọc tiên sinh nét mặt đỏ bừng, máu nóng bốc lên cuồn cuộn biết rằng bảy vị đó đang ở trong trạng huống nguy ngập, Quách-Tỉnh hét lớn:

- Những thằng giặc kia! Chúng bay gan dạ dường nào mà dám đến Trùng-Dương võ điện này phá phách.

Dứt lời, Quách-Tỉnh đưa tay tóm hai địch thủ gần nhất toan ném ra cửa.

Nhưng võ thuật hai người nầy đâu phải hạng thường. Họ vận nội công làm cho hai chân như cắm chặt xuống đất, không một sức mạnh nào lay chuyển nổi.

Quách-Tỉnh cả kinh, nghĩ thầm:

- Những tên giặc nầy từ đâu đến lại có bản lãnh dường ấy? Chẳng trách hôm nay Trùng-Dương cung bị phá phách là phải.

Chàng vận nội công nắm chặt vào lưng rồi thốt nhiên buông ra, co chân đá vào hông địch thủ một cái. Hai địch thủ đang vận khí ngàn cân để chống đỡ, không ngờ lại bị một đòn cước dường ấy chẳng kịp đề phòng, hai cái xác tung bổng lên trời, lọt qua ngoài khung cửa, làm gãy cả một chấn song.

Hai địch thủ khác nhảy xông vào tiếp cứu, quát:

- Mày là ai?

Quách-Tỉnh đang ở trong thắng thế, cứ ngậm miệng giữ lấy sức không thèm đáp lời, tung hai tay một lượt như hai quả chùy hướng về địch thủ. Chưởng lực quá mạnh, khiến cho hai địch thủ chưa đến sát mình Quách-Tỉnh đã bị dội lại, lưng họ va vào bức tường như một tấm ván đổ. Máu hồng từ bên trong phụt ra miệng mũi. Họ chỉ lảo đảo được một chốc rồi ngã quỵ xuống.

Chỉ trong chốc lát mà chàng đã hạ được bốn người, khiến cho các địch thủ kinh khủng, không còn ai dám liều lĩnh xông vào tiếp ứng nữa.

Bấy giờ Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ nhận ra được Quách-Tỉnh lòng mừng rỡ nghĩ bụng:

- Đã có người này đến đây rồi thì phái Toàn-Chân của chúng ta không còn lo sợ gì nữa.

Còn Quách-Tỉnh sau khi hạ bốn địch thủ vì lòng sùng kính tổ sư, không kể gì đến việc kẻ địch đang bao quanh, vội quỳ xuống trước mặt Mã-Ngọc lạy và nói:

- Đệ tử Quách-Tỉnh xin bái yết Tiên-sinh.

Ngày nay, Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất cả ba đều râu tóc bạc phơ, tuổi già đã làm mất những nét hùng mạnh trong con người siêu việt đó.

Ba người nhìn Quách-Tỉnh gật đầu đáp lễ, với những nụ cười sung sướng.

Bỗng Doãn-chí-Bình la lớn:

- Quách đại huynh coi chừng.

Nghe tiếng gió vù vù từ xa, hướng đến sau gáy, Quách-Tỉnh biết ngay có kẻ đang tiến đánh tập hậu, liền cúi xuống hai tay chống đất rồi tung mình lên để rơi trên mình hai địch thủ. Hai gối chàng đánh vào lưng hai đối thủ làm cho họ té sấp và cũng làm cho hai địch thủ bủn rủn tay chân, họ chỉ còn là hai cái xác dùng để cho Quách-Tỉnh quỳ hai gối lên trên.

Mã-Ngọc mỉm cười, nói:

- Đã mười năm ta không gặp con, ngày nay lại được thấy võ nghệ con tiến bộ rất nhiều.

Quách-Tỉnh quay thẳng người thưa:

- Xin đạo trưởng cho đồ đệ lãnh ý về việc đối xử với những tên ác tặc này.

Mã-Ngọc chưa kịp đáp lời thì Quách-Tỉnh đã nghe hai giọng cười vang vang trong điện. Một giọng rất chói tai và một giọng êm ái.

Quách-Tỉnh quay lại, thấy đằng sau có hai người. Một người mặc áo đỏ khăn vàng, hình dung khô đét như một que củi, có vẻ là một nhà sư Tây-tạng, còn một người nữa mặc áo vàng, tay cầm chiếc quạt, tuổi còn trẻ, dáng điệu tao nhi như một chàng công tử.

Cả hai đều phong độ điềm tĩnh khác thường, làm cho Quách-Tỉnh không dám khinh khi.

Quách-Tỉnh cúi đầu chào hai người thưa:

- Hai vị là ai? Đến đây có việc gì?

Chàng trai có vẻ công tử mỉm cười, hỏi lại.

- Thế mày là ai? Đến đây có việc gì?

Quách-Tỉnh ôn tồn nói:

- Tôi họ Quách tên Tỉnh, vốn là đồ đệ của các tôn sư đây.

Chàng công tử nói:

- A! không ngờ trong Toàn-Chân phái cũng có được những nhân vật như thế!

Quách-Tỉnh nhận xét chàng công tử đó tuy tuổi chưa đầy ba mươi mà vẻ kiêu ngạo quá lắm, coi Quách-Tỉnh không ra gì cả. Chàng cũng muốn hỏi xem họ là ai và nói rõ cho họ biết mình tuy là đồ đệ của mấy vị đó, nhưng không phải là người hiện ở trong phái Toàn-Chân. Tuy nhiên, thấy vẻ kiêu ngạo của thanh niên, Quách-Tỉnh lại không muốn tỏ bày. Bản tính Quách-Tỉnh là người ít nói, không hay biện bác.

Chàng hỏi:

- Hai người có thù gì đến Toàn-Chân giáo mà sai người đến gây chuyện, đốt phá đền đài?

Người có dáng công tử cười lớn, hỏi lại:

- Mày là kẻ nào mà dám xen vào hỏi đến chuyện này.

Quách-Tỉnh giận dữ, đáp:

- Ta là ta! Dẫu ta xen vào thì mày làm gì?

Lúc ấy ngọn lửa nơi điện cứ cháy lan ra mãi. Cứ đà ấy thì chẳng mấy chốc Trùng-Dương cung sẽ thành tro khói. Chàng công tử phe phẩy chiếc quạt có hình bông mẫu đơn màu trắng. ánh lửa chói sáng trông rất đẹp mắt.

Hắn nghe Quách-Tỉnh thách thức liền tiến lên một bước, vừa cười vừa nói:

- Mày mà đỡ nổi ba mươi thế võ của tao thì tao tha chết cho cả bọn đạo sĩ này được. Mày vui lòng chứ?

Chẳng thèm đáp, Quách-Tỉnh lấy tay phải hất chiếc quạt của hắn, kéo mạnh về phía mình. Với lối dằng co đó, nếu chàng công tử kia không dùng khí lực sẽ phải vấp ngã về phía trước. Trong bất ngờ chàng công tử không đến nỗi té nhưng cũng bị loạng choạng đôi chút.

Quách-Tỉnh giật mình, nghĩ thầm:

- Hắn nhỏ tuổi mà chịu đựng nổi sức mạnh của ta thì kể ra cũng là cừ khôi đó. Sao từ trước đến nay ta chưa từng được nghe tên tuổi?

Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh liền vận khí lên quát vào mặt chàng công tử đó một tiếng.

Tiếng quát là một sức nội công tỏa ra, làm cho mặt chàng công tử đỏ ửng biến thành trắng toát như mặt ngọc.

Thấy vậy, Quách-Tỉnh lại nghĩ thầm:

- Té ra hắn đã vận sức nội công thượng thặng để chống lại tiếng quát của ta. Nếu ta quát thêm mấy tiếng nữa chẳng những hắn phải bị thương mà nội tạng của hắn cũng đều hôn mê nữa.

Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn là võ nhân từ, biết chàng trai kia đã lập tuyện đến mức đó không phải là ít công phu. Chàng không muốn hại mạng của một thanh niên còn đầy hy vọng.

Quách-Tỉnh nhìn mặt chàng công tử mỉm cười, cái cười tỏ ý biết sức nội công còn non kém của đối phương.

Chàng công tử lợi dụng lúc Quách-Tỉnh mỉm cười, sức nội công không còn nữa, đưa tay giật cây quạt lại. Nhưng lạ thay! chàng vận hết sức lực mà cây quạt cũng không nhúc nhích.

Đó là vì sức lực của Quách-Tỉnh còn truyền sang cây quạt nên vẫn còn có sức mạnh.

Biết thế yếu chàng công tử vội vàng buông tay nhảy ra phía sau cúi đầu bái Quách-Tỉnh và hỏi:

- Xin cho biết quý danh.

Quách-Tỉnh nói:

- Tiểu danh không đáng kể. Mã, Khưu và Vương chân nhân đây vốn là bực sư phụ của ta.

Chàng công tử bán tin bán nghi, nghĩ rằng:

- Vừa rồi phái Toàn-chân bị đánh đến nửa ngày nếu không nhờ Thiên-cang Bắc-đẩu trận hợp lực nhau để thủ thế thì họ làm sao cầm cự nổi. Nếu cứ đánh tay đôi thì cả môn phái nầy chưa ai địch nổi ta tại sao trong bọn lại có một người võ nghệ cao cường đến thế nhỉ?

Chàng công tử quay ra ngắm dung nhan Quách-Tỉnh, trông Quách-Tỉnh ăn mặc quần thô kệch như một nông dân, lấy làm lạ, muốn hỏi vài lời xã giao.

Song chàng chưa kịp hỏi, chỉ vừa nói được câu:

- Võ nghệ của ông quả đã đến mức tuyệt vời. Kẻ hèn xin hẹn mười năm nữa sẽ hội ngộ.

Thì đàng xa bỗng vang vang tiếng nhạc. Tiếng nhạc êm đềm khiến ai cũng phải xúc động.

Quách-Tỉnh vội đáp lễ chàng công tử, và nói:

- Mười năm nữa ta sẽ gặp ngươi tại đây.

Chàng công tử từ từ lui gót ra khỏi cửa, quay lại thưa:

- Cuộc so tài giữa chúng tôi và môn phái Toàn-Chân hôm nay tôi chịu thua.

Theo tập quán của giới giang hồ thì nếu có một địch thủ đã chịu thua và hẹn ngày rửa hận thì ngày đó chưa đến dù có gặp nhau cũng không được ra tay. Bởi vậy, khi nghe chàng công tử nói, Quách-Tỉnh vội đáp lời:

- Đó là lẽ dĩ nhiên, khỏi phải thắc mắc.

Chàng công tử vái chào sắp sửa bước ra. Khưu-xư-Cơ thốt nhiên hét lớn:

- Không cần đợi đến mười năm Khưu đây sẽ tìm đến tận nhà ngươi.

Tiếng quát như sấm làm cho chàng công tử ù tai, choáng váng chàng cũng biết ra rằng các đạo sư đó chưa trổ hết tài năng, nên sợ quá từ từ lui ra ngoài.

Bên ngoài, tiếng thép loảng choảng dần dần thưa, rồi im bặt Quách-Tỉnh đoán biết họ đã rút lui toàn bộ.

Nhìn vào trong điện Quách-Tỉnh lại thấy đàng sau chỗ Mã-Ngọc ngồi còn mấy người nằm dài dưới đất. Đó là Quảng-tử-Ninh và Xich-đại-Thông. Mặt họ trắng nhợt như đã bị thương quá nặng.

Sở dĩ Mã-Ngọc và sáu người kia cố ngồi yên khi ngọn lửa đã bốc cháy gần kề là để bảo vệ sinh mạng cho hai người ấy.

Quách-Tỉnh vội bước vào, cởi đạo bào thì thấy ngực họ có in một vết bàn tay tím bầm ăn sâu vào trong thịt. Chàng cảm thấy lo sợ vì trong nghề võ chàng chưa hề được nghe nói đến miếng võ gây thương tích cho địch nhân như thế.

Chàng thầm nghĩ:

- Mình an cư nơi Đào-hoa đảo suốt mười năm trời không dễ thế sự có những đổi thay lớn lao mà mình không hay biết.

Rồi chàng cúi xuống điểm vào hai huyệt nơi hai bên hông Xích-đại-Thông.

Điểm như thế tuy không làm bệnh nhân lành vết thương nhưng cũng làm cho bệnh nhân đỡ đau trong khoảng thời gian mười hai tiếng đồng hồ.

Bốn bề lửa cháy rần rần, không còn có cách gì cứu chữa nổi nữa.

Khưu-xứ-Cơ vừa bồng Xích-đại-Thông dậy vừa nói:

- Thôi! Chúng ta rút đi nơi khác là hơn.

Quách-Tỉnh sực nhớ đến Dương-Qua, liền hỏi:

- Tôi có đem theo một đứa nhỏ, chẳng biết nó đã bị vào tay đại huynh nào bắt giữ, xin giao lại cho tôi, đừng để nó bị lửa thiêu.

Từ trước đến giờ, Khưu-xứ-Cơ và các vị đạo hữu lo để ý đến việc chống kẻ địch không để ý đến việc gì khác. Bất ngờ Quách-Tỉnh vừa dứt lời thì một đứa bé từ trên không rơi xuống đúng phải giữa điện, mặt mày hí hửng, nói:

- Thưa chú, cháu có mặt đây rồi.

Quách-Tỉnh vui mừng, vừa ngạc nhiên hỏi:

- Sao cháu lại trốn trên xà nhà. Có gì nguy hiểm chăng?

Đứa bé ấy đúng là Dương-Qua! Nó nhanh nhẩu đáp:

- Thưa chú, lúc chú với thằng đạo sư khốn kiếp...

Quách-Tỉnh chận lời, mắng:

- Đừng vô phép! Hãy ra lạy sư phụ đi nào!

Dương-Qua lè lưỡi quì trước Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất lạy mấy lạy. Khi đến Doãn-chí-Bình là người trẻ tuổi hơn, thằng bé quay sang hỏi Quách-Tỉnh:

- Người nầy chắc không phải sư phụ như thế con không cần lạy.

Quách-Tỉnh nói:

- Vị đó không phải là sư phụ, nhưng là sư bá. Vậy con phải lạy ra mắt.

Dương-Qua tuy trong bụng không muốn nhưng phải tuân lời Quách-Tỉnh, lạy mấy lạy.

Quách-Tỉnh thấy Dương-Qua chỉ lạy Doãn-chí-Bình chứ không lạy ba đạo sư trung niên khác, thì mắng:

- Dương-Qua! Sao cháu vô lễ thế!

Dương-Qua cười hề hề, nói:

- Đợi con lạy đủ ba vị nữa thì có một việc gấp không còn cứu kịp

Biết Dương-Qua là đứa cơ xảo, Quách-Tỉnh hỏi:

- Việc gấp gì cần phải cứu?

Dương-Qua thưa:

- Có một vị bị trói ở phòng gần đây, nếu không cấp thời đi cứu sợ người ấy sẽ bị chết cháy mất.

Quách-Tỉnh vội vã hỏi:

ở phòng nào? Tại sao cháu biết?

Thằng bé mỉm cười nói:

- Để cháu nghĩ coi! à, nơi gian phòng đàng sau xa! Còn tại sao bị trói cháu quên mất.

Doãn-chí-Bình thấy Dương-Qua nói giọng nửa thật nửa đùa trong lúc mọi người đang nóng ruột lấy làm bực tức, lườm thằng bé một cái rồi chạy vụt sang dãy phòng phía đông.

Doãn-chi-Bình lục lạo khắp nơi nhưng không thấy bóng của một người nào cả, miệng lẩm bẩm rủa liên hồi.

Qua khỏi mấy dãy phòng dùng làm nơi trú ngụ của các đạo sư, và đến gian phòng dùng để tập luyện võ công, Doãn-chi-Bình mở ra một cánh cửa thì thấy khói lửa mịt mù, trong góc một gian phòng hẹp có một đạo sư bị trói nằm trên giường, miệng ú ớ nói không ra tiếng.

Doãn-chi-Bình bước vội đến mở trói, kéo mạnh đạo nhân ấy dậy, thì thấy chân tay buộc bằng một sợi dây luộc, sợi dây mà các đạo sư thường dùng tập luyện võ công.

Sợi dây ấy quá chắc, Doãn-chi-Bình phải dùng kiếm cắt đứt ra mới được.

Đạo nhân tay chân được cởi mở, đưa tay rút đùm giẻ trong miệng ra, thở hào hển.

Lửa cháy rần rần, Doãn-chi-Bình thấy không tiện ở đấy han hỏi lý do, nên đưa vai cõng đạo nhân chạy biến ra ngoài.

Trong lúc đó, Khưu-xứ-Cơ, Quách-Tỉnh và Dương-Qua đã ra khỏi võ điện, đứng trên một mô đất cao, đưa mắt nhìn ngọn lửa đang tàn phá ngôi đền đài đồ sộ, công trình mà bao nhiêu thế hệ đã đóng góp vào để dựng nên.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Chúng ta không còn phương nào cứu chữa nổi sao!

Khưu-xứ-Cơ buồn bã gật đầu nói:

- Đành chịu thôi! Trên núi nầy chỉ có một con suối nhỏ, sức nước không đủ áp đảo sức lửa bạo tàn đó.

Quách-Tỉnh đau lòng toan hỏi xem kẻ đến phá đều là ai, nhưng chưa kịp mở lời thì đàng sau Doãn-chi-Bình hấp tấp cõng một đạo nhân bước tới, đặt trước mặt mọi người với vẻ mặt chua chát.

Đạo nhân đó bị sặc khói, mặt mày đen như lọ, nước mắt ràn rụa. Ông ta dụi mắt mấy cái mới mở được, và khi trông thấy Dương-Qua ông ta như một con hổ dữ, chồm tới toan túm lấy Dương-Qua xé ra từng mảnh cho hả giận.

Dương-Qua lanh lẹ né sang một bên, miệng cười hề hề.

Đạo nhân kia nắm hụt, đưa tay chỉ vào mặt Dương-Qua chưởi rủa:

- Thằng ranh con khốn kiếp! Mầy toan giết ta ư?

Vương-xứ-Nhất hỏi:

- Tỉnh-Quang! Có việc gì lại tức giận đến thế? Hãy nói ra đây cho chúng ta rõ!

Vị đạo nhân gọi là Tỉnh-Quang vừa được thoát chết, tâm thần đều loạn, khi thấy Dương-Qua, kẻ thù mình, toan túm lấy đánh một trận trả thù, ông ta quên rằng mình đã làm một việc vô lễ, trước mặt vị sư bá là Vương-xứ-Nhất. Khi nghe Vương-xứ-Nhất nói, Tỉnh-Quang giật mình biết đã phạm tội vô lễ, liền chắp tay thưa:

- Đệ tử vô ý phạm tội vô lễ thật đáng chết.

Vương-xứ-Nhất nói:

- Có gì mà đáng chết, hãy nói cho ta biết việc giận dữ của con

Tỉnh-Quang nói:

- Đệ tử ngày nay thật là đứa vô dụng. Đệ tử đã cho thằng nhãi ranh đó chà đạp trên danh dự...

Nói đến đây, Tỉnh-Quang lườm lườm Dương-Qua ý muốn xông đến, nhưng trước mặt các vị đạo sư, Tỉnh-Quang không dám, liền kể:

- Đệ tử phụng mệnh sư thúc Triệu-chí-Nguyên đứng gác ở sau vườn. Sau đó Triệu sư thúc trao đứa bé nầy, và cho biết hắn là một địch thủ rất lợi hại của môn phái ta, bảo đệ tử phải đem hắn nhốt trong tịnh thất phía đông. Ngồi trong đó một lúc, hắn bảo là hắn mắc tiểu, và yêu cầu cởi trói cho hắn. Đệ tử thấy hắn có vẻ tinh ranh nên không chịu cởi trói, phải chính tay cởi quần cho hắn đi tiểu. Hắn đi tiểu xong, thừa lúc đệ tử đang thắt quần lại, hắn đưa tay xô mạnh đệ tử, khiến đệ tử phải té nhủi xuống đất...

Thần Điêu Đại Hiệp : Hồi 11 Đôi tình nhân thuở trước của Chung-Nam-Sơn

Tỉnh-Quang nói đến đây, Dương-Qua xen vào cười hề hề, làm cho Tỉnh-Quang không dằng nổi cơn giận, chỉ mặt mắng:

- Đồ nhãi ranh! Mi cười cái gì đó.

Dương-Qua ngẩng đầu lên, nói:

- Tôi cười việc của tôi có can hệ gì đến ông.

Tỉnh-Quang toan xông vào tóm cổ Dương-Qua đánh một trận nhưng Vương-xứ-Nhất biết trước, chận lại, nói:

- Đừng cãi vã với trẻ con, hãy kể rõ đầu đuôi cho ta nghe.

Tỉnh-Quang hậm hực thưa:

- Xin sư phụ biết cho con là thằng bé ấy rất đỗi tinh nghịch nó toan giết con

Rồi Tỉnh-Quang kể tiếp:

- Lúc đó con ngã sấp xuống vũng nước tiểu của nó, vừa muốn đứng dậy tát cho nó mấy cái, thì nó cười hì hì, nói: "ấy chết, cháu làm bẩn cả quần áo của chú rồi".

Mọi người nghe Tỉnh-Quang nhại lại giọng nói của Dương-Qua, ai nấy đều buồn cười. Vương-xứ-Nhất cau mày tỏ vẻ khó chịu khi thấy đệ tử của mình hành động không mấy đẹp mà phải bêu rếu trước mặt người khác.

Tỉnh-Quang lại kể:

- Đệ tử nghe nó nói vậy tưởng nó là đứa vô dụng, chẳng nên chấp trách làm chi. Ngờ đâu nó tiến sát đến với dáng điệu như van lơn, rồi bất thần nó nhảy lên lưng con, cắn vào cổ con.

Kể đến đây, Tỉnh-Quang lấy tay sờ cổ như còn đau đớn lắm, và nói:

- Con giật mình định trở người vật nó xuống, nhưng nó cắn quá mạnh con sợ lủng cổ không dám cựa quậy. Nó được dịp cứ cắn mãi bảo gì cũng không nhả, túng thế quá con mới năn nỉ nó, xem nó muốn gì con chiều ý nó. Song nói gì nó cũng lắc đầu. Cuối cùng con bảo: "Mầy đừng cắn nữa, tao mở trói cho mầy". Bây giờ nó mới gật đầu.

Ngừng một chút để lấy hơi, Tỉnh-Quang kể tiếp:

- Thật ra đứa bé nhỏ nhít như thế, dẫu mà cởi trói cho nó, nó cũng không thể nào thoát được tay con. Vì vậy con quyết định mở trói cho nó, để nó khỏi cắn, rồi sau sẽ hay. Nhưng con vừa lần mò mở hết tay chân nó, xong thì lanh như cắt nó rút thanh kiếm trong lưng con, dí vào ngực con và hăm dọa: "Nếu nhúc nhích nó đâm chết liền".

Đoạn, nó ra lệnh cho con phải dùng sợi dây con đã trói nó, tự trói lấy chân, không thì nó đâm chết. Mắt nó nhìn con không chớp như nó sẵn sàng nhấn mạnh lưỡi kiếm vào tim con. Do đó, không biết làm sao, buộc lòng con phải tự trói lấy mình.

Con vừa trói chân xong, nó lanh lẹ nhảy ra phía sau lưng, dí mũi kiếm vào lưng ra lệnh bắt con đưa hai tay ra đằng sau, rồi nó dùng dây trói nốt.

Trói xong cả chân tay của con rồi, nó cắt vạt áo nhét vào miệng, đến lúc lửa cháy nơi võ điện con không còn la lối kêu cứu được nữa, đành nằm đó chịu chết. Nó không có Doãn tiên sinh vào thì tánh mạng của con chẳng còn.

Mọi người nghe Tỉnh-Quang kể hết, ngó Dương-Qua lại ngỏ Tỉnh-Quang. Thật là hai thái cực. Một đàng thì to lớn vạm vỡ, một đàng thì nhỏ thó, ai cũng phải phì cười.

Đợi đến lúc Tỉnh-Quang kể hết câu chuyện, mọi người đều cười rộ lên. Tỉnh-Quang sượng sùng, bứt đầu gãi tai tỏ vẻ giận dữ cho đỡ ngượng.

Mã-Ngọc cười hỏi Quách-Tỉnh:

- Thằng bé này là con của đồ đệ phải không? Đúng là nó theo mẹ nó nên có tánh ngỗ ngịch tinh quái dường ấy.

Quách-Tỉnh lắc đầu thưa:

- Đâu phải! Nó chính là con của một người bạn thân, kết nghĩa từ thủa bé. Cha nó là Dương-Khang.

Khưu-xứ-Cơ nghe nhắc đến Dương-Khang bỗng lòng hồi hộp, chăm chú nhìn Dương-Qua như để tìm lại trong người thằng bé những nét di lưu của cha nó.

Khưu tiên sinh với Dương Khang là tình sư đệ. Nhưng về sau Dương-Khang tham mùi phú quí nên hắn đã chạy theo đường tà.

Giờ đây Khưu-xứ-Cơ biết được Dương-Khang có con, lòng rất hoan hỉ nhân dịp nầy ông ta cố hỏi câu chuyện cho rõ đầu đuôi, nên xoắn xuýt bên Dương-Qua không rời.

Trong lúc đó, các đạo nhân ở Trùng-Dương cung cũng có dịp ngồi nhìn tòa võ điện điêu tàn chỉ còn lại một đống tro tàn, đượm màu bi thảm.

Thật vậy, Trùng-Dương điện hôm qua còn là một tòa đài đồ sộ nguy nga, mà giờ đây chỉ còn lổm chổm một mớ than hồng, và từng đống gạch ngói ngổn ngang.

Mã-Ngọc và nhiều đạo sư khác vốn là những người có đạo tâm, nên chẳng màng gì đến ngoại vật. Họ đối với ngôi võ điện là bao nhiêu mồ hôi của biết bao nhiêu người trong hàng mấy mươi năm trùng tu, trong chốc lát bị thiêu thành khói lửa, làm sao họ chẳng buồn.

Bấy giờ Quách-Tỉnh kể sơ lược về thân thế của Dương-Qua cho mọi người nghe, ai nấy đều khe khẽ gật đầu thương hại.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Này Quách đồ đệ. Võ nghệ của đồ đệ nay đã cao cường hơn bọn ta nhiều, sao lại không đem truyền cho đứa bé này.

Quách-Tỉnh nói:

- Đệ tử sẽ xin thưa với sư phụ sau này về chuyện ấy. Bây giờ dám xin sư phụ thấu hiểu rằng đệ tử rất lấy làm áy náy. Hôm nay toan thượng sơn để yết kiến sư phụ thì lại phạm phải tội lỗi với các đạo huynh ở đây.

Kế đó Quách-Tỉnh kể lại chuyện vị đạo trưởng tưởng lầm mình là kẻ địch nên bố trí trận bắc đẩu để cản ngăn.

Khưu-xứ-Cơ nghe nói trợn mắt nhìn Triệu-chí-Kính, nói:

- Chí-Kính giữ phía ngoài sao không phân biệt được bạn thù, thực là đồ vô dụng. Ta lấy làm lạ chẳng biết vì sao phía ngoài bố trí mạnh mẽ dường ấy mà trong chớp mắt địch nhân lại có thể vào được võ điện để chúng ta trở tay không kịp. Giờ đây mới biết họ đã đem bắc đẩu đại trận để cản trở đệ tử, làm sai lạc việc kháng dịch.

Nói đến đó, râu tóc Khưu-xứ-Cơ dựng ngược lên vì giận dữ.

Quách-Tỉnh thưa:

- Có lẽ chỉ vì lúc ra chân núi, trong Phổ-Quang-Tự, đệ tử đã vô ý làm bể tấm bia có khắc chữ nên các đạo huynh hiểu lầm chăng?

Khưu-xứ-Cơ dịu nét mặt, nói:

- Đúng vậy! Hèn chi sự việc xảy ra như thế. Thật ra cũng không đáng trách các vị đạo sư vì bọn tà đạo đến phá Trùng-Dương cung cũng lấy việc đập bia làm hiệu lệnh. Hành động của đệ tử ăn khớp với hành động của bọn tà đạo làm sao họ không lầm!

Quách-Tỉnh nói:

- Bọn nó to gan thực, dám đến phá quách Trùng-Dương điện. Thưa sư phụ, bọn chúng là loại người nào vậy?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chuyện nầy dài lắm! Vậy trước tiên đệ tử hãy theo ta ra phía sau điện này có chút việc.

Quách-Tỉnh đứng dậy, bước theo Khưu-xứ-Cơ. Hai người tiến bước về phía sau núi, và dặn Dương-Qua

phải ở yên nơi đấy, không được đi đâu cả.

Khưu-xứ-Cơ chân bước thoăn thoắt, trông dáng điệu còn quắc thước chẳng khác lúc thiếu thời. Quách-Tỉnh lòng rất khâm phục.

Đi chừng một lúc, đến một đỉnh núi cao chót vót, Khưu-xứ-Cơ dừng chân, đến sau lưng một tấm đá lớn, lẩm bẩm nói:

- ở đây có khắc ít chữ...

Bây giờ trời đã xẩm tối, phía sau tảng đá lại càng tối hơn, Quách-Tỉnh đưa tay mò vào tảng đá, quả nhiên thấy dấu chữ ăn sâu vào đó, biết là một bài thơ:

"Tử-Phòng xưa chí diệt Tần,

Khuông phò Hán-đế đem thân giúp đời.

Tài ba nắm vững cơ trời,

Dưới cầu nhặt dép, đợi thời ra tay.

Phong lưu cuộc thế đến ngày,

Giàu sang không thiết, phải tay xa đời.

Xích-Tùng cùng bạn thảnh thơi,

Anh hùng cảm mến, người đời nể danh.

Truyền rằng từ buổi sơ khai,

Nhị tiên tương ngộ cả hai mở đường.

Sau khi mò tay lên tảng đá, lần theo dòng chữ, Quách-Tỉnh ngạc nhiên quay lại nói với Khưu-xứ-Cơ:

- Chữ này đâu phải khắc, hình như kẻ nào đã lấy tay vạch lên đá!

Khưu-xứ-Cơ vừa cười vừa nói:

- Đệ tử thật tinh ý, nhận không sai. Thực ra việc này ai cũng cho là kỳ quái! Bởi vì làm thế nào có thể dùng ngón tay mà viết lõm xuống thành chữ được!

Quách-Tỉnh phụ họa:

- Chẳng lẽ trên đời này lại có kẻ thần thánh đến ư? Họa chăng chỉ có thánh thần mới làm nổi.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Kẻ viết đó không phải thần thánh mà là một người bằng xương bằng thịt, võ nghệ tuyệt luân, mưu trí không lường, một trăm năm giang hồ dễ có một người.

Quách-Tỉnh xoắn xuýt hỏi:

- Sư phụ có biết người ấy là ai chăng? Nếu biết xin nói cho đệ tử rõ để đệ tử được đến bái kiến thì thật vạn hạnh.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Ta cũng chưa hề thấy mặt người ấy lần nào, chỉ nghe nói thế thôi. Vậy cứ ngồi xuông đây nghe ta kể một câu chuyện để rõ nguyên do.

Quách-Tỉnh vâng lời ngồi xuống tấm đá, ngoảnh nhìn về phía sườn núi chỗ võ điện đã biến thành một đống than hồng, lòng chàng tự nhiên thấy có cái gì hậm hực lạ lùng.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- ý nghĩa bài thơ này ra sao con có hiểu rõ chăng?

Quách-Tỉnh bây giờ đã đến tuổi trung niên mà Khưu-xứ-Cơ vẫn ăn nói với Quách-Tỉnh cũng chẳng có gì thay đổi lắm.

Quách-Tỉnh thẫn thờ nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

- Đoạn đầu bài thơ nói về Trương-Lương giúp Hán diệt Tần, đến lúc thành công không màn phú quí cũng với Xích-Tùng bỏ đi ẩn thân. Còn đoạn sau nói về đức Trùng-Dương tổ sư là người sáng lập môn phái Toàn-Chân, nhưng đoạn nầy con không rõ lắm.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Con có biết Trùng-Dương tổ sư là người thế nào chăng?

Quách-Tỉnh lấy làm lạ đáp:

- Con chỉ biết Trùng-Dương tổ sư là người sáng lập ra môn phái Toàn-Chân, xưa kia đã thuyết về kiếm đạo ở núi Hoa-Sơn, võ nghệ giỏi vào bậc nhất trong thiên hạ.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Đúng vậy! Nhưng con có biết lúc thiếu thời Trùng-Dương tổ sư là người thế nào chăng?

Quách-Tỉnh lắc đầu:

- Con chưa hiểu rõ điều ấy!

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Trùng-Dương tổ sư không phải lúc sinh ra đã xuất gia tu đạo. Người là một nhà ái quốc. Thuở thiếu thời tổ sư thấy quân xâm lược phạm đến bờ cõi, lấy làm phẫn nộ, ngồi đứng không an. Đã bao lần tổ sư khởi nghĩa chống quân Kim, nhưng đã mấy lần tổ sư bị thua, quân sĩ chết hết. Quân Kim quá mạnh, không làm sao cự nổi, tổ sư phải nuốt hận xuất gia ẩn nặc mang tên là Hoạt-tử-Nhân, mấy năm liên tiếp ở trong ngôi mộ dài tại núi này. Và, tổ sư chẳng bao giờ bước ra khỏi mộ một bước để giữ trọn lời thề là cùng quân Kim chẳng đội trời chung, tuy còn sống, nhưng tổ sư coi như mình đã chết. Đó là một việc thủ tiết của biệt hiệu Hoạt-tử-Nhân.

Quách-Tỉnh nghe nói cảm động rưng rưng nước mắt, chàng hồi tưởng lại trong ký ức hình ảnh của Mục-niệm-Tử và Dương-Khang năm xưa cãi nhau trong võ điện. Và cũng ở trong võ điện ấy, Quách-Tỉnh trông thấy một bức ảnh có đề chữ "Hoạt-tử-Nhân". Chính hình ảnh ấy đã gợi cho Quách-Tỉnh ý muốn xuất gia tầm đạo.

Thì ra vị đạo sĩ trong tranh kia lại là Trùng-Dương tổ sư đó sao!

Khưu-xứ-Cơ kể tiếp:

- Ôi! Đã từ lâu lắm rồi, các thân bằng cố hữu của tổ sư không ngớt đến thăm viếng, và yêu cầu Tổ sư rời khỏi ngôi mộ kia để ra gánh vác việc đời. Nhưng Tổ sư vẫn không lay chuyển, chán ngán cho thân thế sự nghiệp mình, chẳng còn muốn ngó tới bạn hữu thâm tình thuở trước.

Mãi tám năm sau, một dịch nhân cũ của Tổ sư đến trước mộ đài chưởi bới Tổ sư ròng rã bảy đêm ngày. Tổ sư chịu không nổi nên ra khỏi mộ, định đấu với địch nhân một trận để địch nhân hết đến phá phách. Nhưng lúc Tổ sư ra khỏi mộ thì địch nhân cười hề hề, xem chừng đắc ý vì đã dùng kế làm cho Tổ sư xuất mộ đài.

Địch nhân nói:

- Thôi thế cũng đủ rồi! Đạo hữu đã ra khỏi mộ tức là tôi đã thắng cuộc, chẳng cần chiến đấu làm chi! Hẳn đạo hữu không còn trở vào mộ nữa chứ?

Về sau, Tổ sư biết rằng địch nhân vì lòng tốt, tiếc đức hạnh và tài năng của Tổ sư, muốn tổ sư ra cứu dân giúp nước, không muốn Tổ sư chôn sống cuộc đời trong nắm mộ, nên đến trêu chọc mà thôi. Và, cũng từ đấy, hai người cứu địch trở thành đôi bạn ý hiệp tâm đầu, cùng nhau dong ruổi trong chốn giang hồ nghĩa hiệp.

Quách-Tỉnh nghe kể đến đấy lấy làm xúc động, hỏi:

- Thưa sư phụ, vị địch nhân trở thành bạn của Tổ sư có phải là một trong các người: Đông-Tà, Tây-Độc, Nam-Đế, Bắc-Cái chăng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Không phải đâu! Nói đến võ nghệ thì người này cao hơn bốn vị tổ sư kia một bực, nhưng vì người ấy là bực nữ lưu nên không xuất đầu lộ diện, không ai biết đến và tiếng tăm cũng chẳng có gì.

Quách-Tỉnh ngạc nhiên nói:

- ồ! Lại thuộc vào phái nữ lưu ư? Thật hiếm có vậy.

Khưu-xứ-Cơ tiếp:

- Người ấy rất có thâm tình với tổ sư, muốn theo hầu tổ sư, ước ao sẽ trở thành phu phụ. Nhưng tổ sư biết ý, thường tỏ với người ấy: "Chưa diệt được hung nô, đâu màng đến chuyện gia thất". Rồi bề ngoài giả điên giả dại như người chẳng biết gì. Vị nữ lưu kia lầm tưởng tổ sư khinh mình nên lấy làm tức giận. Thế là đôi bạn từ thù đến thân, rồi lại từ thân đến thù. Họ hẹn nhau một cuộc tỉ thí tại núi Chung-Nam.

- Oái oăm thế chứ sao? Chỉ vì tổ sư cứ tưởng rằng nàng có lòng yêu tất phải tương nhượng nhau, chẳng ngờ nàng lại có ý khác. Một lần nàng nói với tổ sư:

- "Đạo hữu coi tôi chẳng ra gì, thế thì đạo hữu phải trở thành đối thủ của tôi".

Thế là tổ sư cứ bị vị nữ lưu ấy thách đố mãi, cuối cùng tổ sư phải nhận đấu một trận nơi núi Chung-Nam.

Hai bên đánh nhau trong ít ngàn hiệp, nhưng tổ sư chẳng bao giờ đánh hết tay, dùng hết sức.

Thấy thế, vị nữ lưu kia lại càng tức giận mắng:

- Thì ra đạo hữu chẳng thèm để tâm vào việc đấu chiến với tôi, đạo hữu xem tôi là loại người thế nào đây?

Tổ sư đáp:

- Đấu võ xem ra khó phân thắng bại, thôi thì đấu văn cho dễ biết hơn thua.

Vị nữ lưu cũng bằng lòng nói:

- Thế cũng được. Nếu tôi thua đạo hữu tôi thề suốt đời không gặp mặt đạo hữu nữa, để trí óc đạo hữu được thảnh thơi.

Tổ sư nói:

- Nếu ngược lại ta bị thua cô nương thì sao?

Vị nữ lưu mỉm cười bảo:

- Nếu đạo hữu thua tôi thì xin nhường lại ngôi mộ đài kia cho tôi ở.

Thật ra ngôi mộ đài Hoạt-tử-Nhân ấy, tổ sư đã gởi gắm không biết bao nhiêu tâm huyết trong bao nhiêu năm trời, nếu để cho vị nữ lưu ấy chiếm đi thì sao an lòng được, còn nếu thắng nàng để cho nàng phải vĩnh viễn xa lìa tổ sư thì cũng là chuyện không hay.

Tuy nhiên, hai đàng phải chọn một, tổ sư thấy võ nghệ mình cao hơn nàng một bực, thôi thì đấu với nàng một phen để nàng lảng đi cho rảnh.

Tổ sư bằng lòng giao đấu thì vị nữ lưu lại hẹn đến hôm sau, nói:

- Hôm nay trời đã tối và cả hai có vẻ mệt nhọc rồi. Vậy để ngày mai sẽ tranh hùng.

Hôm sau đúng hẹn, hai người lại gặp nhau ở đỉnh núi nầy. Trước khi giao đấu, nàng nói:

- Trước khi quyết định việc ăn thua tôi muốn chúng ta cùng thề đi đã.

Tổ sư hỏi:

- Phải thề làm sao bây giờ?

Nàng nói:

- Thề rằng: nếu đạo hữu thắng tôi, tôi phải tự vận trước mặt đạo hữu, còn nếu tôi thắng đạo hữu thì đạo hữu phải lìa khỏi mộ đài để tu luyện thành một đạo sĩ hay một hòa thượng, và phải xây một ngôi đền trên đỉnh núi nầy mà ở, ít ra cũng phải ở đó trên mười năm.

Tổ sư nghe vị nữ lưu đó nói thế hiểu ý, nói:

- Cô nương kia bảo ta làm đạo sĩ hay hòa thượng cốt buộc ta suốt đời không lấy vợ. Điều đó ta đã hiểu. Còn việc cô nương bị thua, cô nương tự vận trước mặt ta là để làm gì?

Nàng nói:

- Thì để khỏi phải nhìn cái bạc bẽo của cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta đã giao hẹn nhau thi văn, vậy thì mỗi người chúng ta lấy tay viết vào đá ít dòng chữ, hễ ai viết sâu nét hơn thì người đó thắng cuộc.

Tổ sư nghe nói ngạc nhiên hỏi lại:

- Lấy ngón tay viết mà có thể in sâu nét chữ vào đá sao?

Nàng cười lớn nói:

- Chứ sao nữa! Ai viết nét chữ sâu hơn thì thắng cuộc.

Tổ sư lắc đầu:

- Ta đâu phải bậc thần tiên mà làm cái chuyện đó được. Cô nương đừng tìm cách đùa giỡn.

Vị nữ lưu nghiêm nghị nói:

- Đâu phải tôi bày chuyện đùa giỡn. Nếu tôi khắc chữ được vào đá bằng ngón tay, đạo hữu phải chịu thua cuộc chứ?

Tổ sư không tin nàng có thể làm được chuyện đó, nên đáp:

- Nếu cô nương làm được ta chịu thua, bằng cô nương làm không được thì hai bên hòa nhau không đàng nào thắng.

Lời nói ấy, làm cho vị nữ lưu đó thấy rõ cảm tình của tổ sư đối với nàng. Dẫu không kết nghĩa với nàng làm phu phụ, song cũng không bạc tình lắm.

Vị nữ lưu mỉm cười, nói:

- Được, tôi làm thần tiên cho đạo hữu xem.

Dứt lời, nàng lấy tay rờ vào tấm lá, rồi tì ngón tay viết mấy hàng chữ, nét chữ ăn sâu hơn khắc.

Tổ sư trông thấy ngón tay nàng đưa đến đâu là bột đá từ từ rơi đến đó, nét chữ lõm sâu vào làm cho tổ sư kinh ngạc trố mắt nhìn không biết sao mà nói.

Những dòng chữ nàng viết trên tấm đá đó là đoạn đầu bài thơ mà đồ đệ vừa đọc.

Tổ sư thua cuộc chẳng còn biết nói gì hơn, liền theo lời ước ra khỏi mộ đài, sống một cuộc đời đạo sĩ, lập nơi núi này một cái đền nhỏ mà thờ, ấy gọi là Trùng-Dương điện của tiền nhân vậy.

Quách-Tỉnh nghe kể, thầm phục tài năng của vị nữ lưu kia vô cùng. Chàng đưa tay sờ soạng các nét chữ trên đá một lần nữa, quả nhiên các nét chữ ấy đúng là vết ngón tay ghi sâu vào. Chàng nói:

- Công phu luyện tập nhân diện của vị nữ lưu kia thật là siêu việt. Đời nay có người nào sánh kịp.

Khưu-xứ-Cơ ngẩng đầu lên trời cười lớn.

Quách-Tỉnh ngạc nhiên, trố mắt nhìn không hiểu gì cả.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Tài năng ấy lừa được tổ sư, lừa được ta, lừa được đồ đệ, chứ nếu đem nói với Hoàng-Dung, vợ của đồ đệ thì hẳn vợ của đồ đệ không lấy làm kinh ngạc.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Làm sao vợ của đồ đệ lại hiểu được việc nầy. Hẳn trong việc nầy có gì gian ý chăng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Đúng vậy, việc đó chỉ lừa được những kẻ thực tâm chất phác mà thôi.

Quách-Tỉnh bán tin bán nghi, nói:

- Lấy tay viết được trên đá hẳn kẻ ấy có luyện được phép nhân điện tuyệt đỉnh mới phải.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Tài siêu việt như Đoan-hoàng-gia Nhất-Đăng mà vẫn chưa thế lấy ngón tay viết sâu vào gỗ, huống hồ trên phiến đá.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Vì đâu sư phụ lại biết việc ấy có gian ý, và gian ý như thế nào?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Tổ sư xuất gia tu đạo một thời gian mà vẫn không sao hiểu được việc đó, nghĩ mãi không ra. Sau Tổ sư đem nói lại với Hoàng-dược-Sư. Hoàng-dược-Sư ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Việc ấy tôi cũng làm được, nhưng chưa luyện xong. Một tháng nữa tôi sẽ trở lại tiếp kiến.

Nói xong Hoàng-dược-Sư cười lớn rồi xuống núi.

Qua một tháng, Hoàng-dược-Sư trở lại, cùng với Tổ sư ra coi phiến đá kia, và cũng để đề tiếp vào đó bài thơ của vị nữ lưu còn bỏ dở.

Thật vậy Hoàng-dược-Sư sờ sẫm vào tấm đá một lúc rồi viết hai câu:

"Trùng-Dương môn phái Toàn-Chân,

"Trên cao nhìn xuống long vân đợi thời".

Đến đó thì ngừng. Hai câu thơ này tỏ ý tán dương môn phái Toàn-Chân lúc nào cũng làm việc nghĩa và đợi thời ra giúp nước.

Thấy Tổ sư ngạc nhiên, Hoàng-dược-Sư cười lớn viết tiếp mấy câu cho đến hết bài thơ có ý ca tụng Tổ sư, người sáng lập ra môn phái ta.

Tổ sư lấy làm lạ, nghĩ rằng Hoàng-dược-Sư võ nghệ thua Tổ sư một bậc, làm sao mà điện lực lại có thể phát xuất nơi đầu ngón tay mạnh đến thế.

Bất thần Tổ sư lấy ngón tay chỉ vào mặt phiến đá, thì phiến đá lủng sâu vào một lỗ.

Nghe nói đến đây, Quách-Tỉnh ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao có chuyện lạ lùng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Không có gì lạ! Nhưng nếu lúc đó Hoàng-dược-Sư không cắt nghĩa rõ ràng với tổ sư hì có lẽ đến bây giờ chúng ta cũng không được biết cái bí quyết kỳ diệu đó.

Quách-Tỉnh lấy tay đặt vào cái lỗ bỏng thì thấy vừa vặn một ngón tay ấn xuống. Chàng cũng bắt chước vận dụng điện lực lấy đầu ngón tay ấn xuống mặt phiến đá, nhưng phiến đá dọi lên làm cho đầu ngón tay chàng đau nhói, chàng hỏi:

- Cái bí quyết kỳ diệu gì? Chẳng lẽ mặt phiến đá nầy khác hơn các tảng đá khác sao?

Khưu-xứ-cơ nói:

- Không khác gì cả, nó cũng cứng y nhau. Nhưng theo lời Hoàng-dược-Sư thì muốn viết trên mặt đá tất phải luyện được chất hoá thạch đơn. Chính chất hoá thạch đơn đã làm cho phiến đá lưu kia, trước khi viết họ đưa tay trái lên mân mê mặt đá chính là để bôi chất hoá thạch đơn vào.

Quách-Tỉnh nghe đến đây chắc lưỡi nhủ thầm:

- Ôi chao! Thế thì nhạc phụ ta quả là người cao kiến.

Lòng Quách-Tỉnh mang mang nhớ đến Hoàng-dược- Sư, không biết hiện giờ ông ta ở nơi nào.

Khưu-xứ-Cơ không để ý đến cử chỉ nhớ nhung của Quách-Tỉnh nói tiếp:

- Tổ sư ta lúc bắt đầu tu luyện cũng không vì phẫn chí hay vì khổ cực mà chính vì tổ sư đã đọc sách nhiều hiểu rõ cái cơ diệu huyền trong phép thanh tịnh hư vô. Cho nên tổ sư đã lập ra Trùng-Dương điện, thu thập đồ đệ làm cho môn phái Toàn-Chân trở nên vinh dự. Ngày hôm nay chúng ta được thừa hưởng cũng nhờ công khó của tổ sư.

Ngừng một lúc, Khưu-xứ-Cơ cười lớn nói:

- Nếu không có lời thách thức của vị nữ lưu thuở trước chắc gì bây giờ chúng ta có Trùng-Dương điện, có một số môn đồ di lưu hậu thế.

Quách-Tỉnh gật đầu nói:

- Vị nữ lưu kia tên họ gì, ngày nay ở chốn nào, có còn sống chăng?

Khưu-xứ-Cơ thở dài:

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Author dongta

Author Info Member since Nov-22-01:558 posts, 1 feedbacks, 2 points

ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 11"

Date/Time Jan-12-02, 05:57 PM ()

Message

In response to message #0

- Ngoài Tổ sư ra không ai biết tên thực của nàng. Tổ sư cũng không cho ai biết người ấy sống hay chết ra sao. Chẳng biết vì đâu một người võ nghệ dường ấy mà chẳng bao giờ xuất đầu lộ diện, để người đời biết đến.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Chẳng biết hiện nay có người nào thừa hưởng sự nghiệp võ nghệ của vị nữ lưu đó chăng?

Khưu-xứ-Cơ thở dài đáp:

- Bao nhiêu rắc rối là ở chỗ đó. Vị tiền bối nọ bình sanh không nhận môn đệ, chỉ có một người con gái nhỏ theo hầu tên là ả-Hoàn. Hai người cùng sống chung với nhau trong mộ đài hơn mười mấy năm, không một lần ra khỏi cửa. Bao nhiêu điều bí ẩn huyền diệu trong võ nghệ, ả-Hoàn đều được truyền thụ. Nhưng trong giới võ lâm cũng không ai biết đến ả-Hoàn. Bởi vì ả-Hoàn chưa bao giờ bước chân vào đường giang hồ nghĩa hiệp.

ả-Hoàn lại có thâu nhận hai người đệ tử. Người lớn họ Lý, trong giới giang hồ đều gọi là Lý-mạc-Thu, tên tự là Xích-Luyện Tiên tử.

Quách-Tỉnh nghe nói đến đây reo lên một tiếng:

- A! Thì ra tông tích của Lý-mạc-Thu là thế!

Khưu-xứ-Cơ hỏi:

- Con đã biết nàng con gái ấy rồi sao?

Quách-Tỉnh nói:

- Mấy tháng trước con đã từng đấu với ả ít hiệp ở Giang Nam. Võ nghệ của nàng cũng thuộc vào bậc khá cao.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Con không đả thương nàng chứ?

Quách-Tỉnh lắc đầu:

- Không! Nhưng con thấy nàng ấy hạ thủ mấy người nhà họ Lục với những ngón đòn rất độc, hơn cả Mai-siêu-Phong và Đồng-Thi.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- May mà con không đả thương Lý-mạc-Thu, nếu dã phạm đến nàng thì không sao tránh nổi nguy biến. Nàng còn có một người em nữ đạo-sĩ họ Long...

Quách-Tỉnh nghe đến đây giật mình hỏi:

- Sao? Người con gái họ Long ư?

Khưu-xứ-Cơ hơi biến sắc hỏi dồn:

- Con đã gặp nàng ấy rồi ư? Có chuyện gì nguy hiểm xảy ra chăng?

Quách-Tỉnh thấy Khưu-xứ-Cơ sắc diện thay đổi, vội vàng đáp:

- Con chưa gặp lần nào. Nhưng vừa rồi lúc đăng sơn, các đạo hữu cứ mắng con là dâm tặc, và cho con thượng sơn vì người con gái họ Long, con chẳng biết ý sao cả.

Khưu-xứ-Cơ thở dài, vừa cười vừa nói:

- Cũng vì thế mà Trùng-Dương cung mới xảy ra tai nạn vừa qua. Nếu không có sự hiểu lầm như vậy thì Bắc-đẩu trận có thể thắng được bọn giặc kia mà con còn có thể lên núi sớm hơn.

Khưu-xứ-Cơ thấy Quách-Tỉnh ngẩn người, liền nói:

- Nay là ngày sinh nhật của người con gái họ Long vừa đúng hai mươi tuổi.

Quách-Tỉnh thuận mồm hỏi:

- Kỷ niệm ngày sinh nhật hai mươi tuổi của cô gái nhà họ Long mà có thể gây biến loạn nơi Trùng-Dương cung đến thế sao?

Tuy nói thế, Quách-Tỉnh hình như để ý nghĩ vào đâu không chú ý đến câu hỏi của mình.

Khưu-xứ-Cơ cũng không đáp ngay câu hỏi của Quách-Tỉnh, nói trống:

- Người con gái họ Long nầy tên là gì cũng chẳng ai biết thấy, bọn tà thuật kia gọi nó là Tiểu-long-Nữ thì chúng ta cũng gọi là như vậy thôi.

Quách-Tỉnh như sực nhớ lại cuộc đàm thoại, vội hỏi:

- Lý lịch của cô gái đó thế nào, sư phụ biết rõ chứ?

Khưu-xứ-Cơ gật đầu, chậm rãi nói:

- Cách đây hai mươi năm về trước. Một tối nọ, các đạo sĩ trong Trùng-Dương cung đều nghe tiếng khóc của một hài nhi giữa cảnh đêm trường tịch mịch của núi rừng. Hài nhi đó do đâu mà có, nào ai biết được, mọi người đều chạy ra, thì thấy đó là một đứa bé gái, bọc vào một tấm khăn đặt dưới đất. Các nhà tu hành không tiện việc nuôi nấng trẻ thơ trong điện đài được, nhưng bỏ rơi đứa bé sơ sinh thì thật là tội nghiệp.

Lòng tư bi là đạo hạnh đầu tiên của việc tu hành, nên ai cũng cố tìm phương kế để cứu giúp đứa trẻ sơ sinh.

Nhưng trong lúc mọi người chưa tìm ra kế hoạch giải quyết, thì bỗng một thiếu phụ từ phía sau núi đi lại, tuổi trạc trung tuần, thấy vậy tỏ lời thương xót ngỏ ý muốn rước đứa bé về nuôi. Mọi người như thoát được cơn lo, trao đứa bé cho thiếu phụ.

Quách-Tỉnh nóng lòng hỏi:

- Người thiếu phụ đó là ai vậy?

Khưu-xứ-Cơ đáp:

- Mãi đến sau này Mã sư huynh và ta nghe nói lại mới đoán được thiếu phụ đó là ả-Hoàn, người đàn bà tu luyện trong mộ đài Hoạt-tử-Nhân.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Làm sao sư phụ đoán được thiếu phụ ấy là ả-Hoàn?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- ả-Hoàn cũng đã có lần gặp thất tử trong phái Toàn-Chân nhưng chẳng bao giờ chuyện trò. Vì thế nên ta mới đoán biết. Trùng-Dương điện và mộ đài cách nhau không xa, gà gáy chó sủa, hai bên đầu nghe rõ tiếng, nhưng vì tiền nhân có rắc rối với nhau, hai bên không bao giờ lai vãng. Lúc đó bọn ta nghe chuyện cũng biết vậy chứ không để ý làm gì.

Sau này đệ tử của ả-Hoàn là Lý-mạc-Thu xuất sơn. Lý-mạc-Thu tâm địa độc ác nhưng võ nghệ cao cường, đã nhiều phen làm những chuyện động trời trong giới giang hồ nghĩa hiệp. Môn phái Toàn-Chân cũng nhiều lần toan ra tay sửa trị, song vì nể nang vị đạo hữu trong mộ đài chẳng tiện ra tay.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Thế chúng ta không tìm cách nào để ngăn cản Lý-mạc-Thu trên bước đường tàn ác sao?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chúng ta đã có nhiều lần gởi thư đến mộ đài, nói rõ hành động của Lý-mạc-Thu, có ý tố cáo với ả-Hoàn, nhưng bao nhiêu thư đều chẳng được hồi âm. Mà ả-Hoàn cũng chẳng ngăn cản Lý-mạc-Thu, để Lý-mạc-Thu lộng hành khắp chốn.

Rồi cách đây khoảng mười năm, thấy trong đám sậy có một khuông vải trắng, chúng ta đoán biết vị đạo trưởng trong mộ đài đã qua đời nên sáu sư huynh đệ đến ngoài mộ tế viếng.

Vừa hành lễ xong, một đứa bé độ mười tuổi, từ trong đám sậy bước ra vái trả lễ và nói:

- Lúc sư phụ tôi sắp qua đời có ra lệnh cho tôi nói cùng quí đạo trưởng biết: Người nào tung hoành làm điều ác nghiệt, sư phụ tôi đã có cách kềm chế họ lại, quí đạo trưởng khỏi phải nhọc lòng.

Nói dứt lời, đứa bé quay gót vào mộ đài. Bọn chúng ta định hỏi thêm cho cặn kẽ, nhưng đứa bé đã mất dạng.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Sao chúng ta không vào thẳng mộ đài để nói với họ cho rõ ràng lại thư đi thư lại làm chi?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- ấy chết! Lúc tổ sư qua đời có dặn trong môn phái chúng ta không ai được lẻo hánh đến mộ đài dù là ngoài cửa. Bởi thế trong phái Toàn-Chân ai cũng phải tuân theo lệnh ấy.

Quách-Tỉnh nói:

- Lạ thật! Vị đạo trưởng trong mộ đài đã qua đời còn làm sao cản trở được đứa học trò tinh nghịch như Lý-mạc-Thu mà trăn trối với chúng ta như vậy.

Khưu-xứ-Cơ chậm rãi gật đầu nói:

- Bọn chúng ta cũng nghĩ như vậy. Ai cũng lấy làm lạ rằng người chết còn có cách gì có thể kềm chế được đệ tử còn sống. Hơn nữa, mọi người thấy đứa nhỏ kia bé bỏng sống cô độc một mình, không người nương tựa, nên đem lòng thương, muốn đến săn sóc tiếp tế lương thực, song gởi gì đến đứa bé cũng từ chối không nhận. Có lẽ tính tình nó ưa sống cô độc như sư phụ của nó.

Ngừng một lúc, Khưu-xứ-Cơ nói tiếp:

- Từ đó, chúng ta vì bận viện ít khi ở trong võ điện, nên không được nghe tin tức của đứa bé kia. Và cũng từ đó Lý-mạc-Thu bỗng nhiên vắng hoạt động trong giới giang hồ.

Mãi đến ba năm trước đây, lúc ta cùng với Vương sư đệ có việc sang Tây-Vực, vào trú nơi nhà một vị đại nghĩa hiệp, trong khi chuyện trò bỗng nghe một tin kinh dị.

Quách-Tỉnh hỏi dồn:

- Tin gì vậy?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Đó là tin các tà đạo khắp nơi hẹn nhau tập trung đến Chung-Nam sơn để hành sự.

Chúng ta ái ngại nghĩ rằng Chung-Nam sơn là nơi võ điện của phái Toàn-Chân, chúng tập trung đến đây nếu không ngoài mục đích phá rối đạo giáo chúng ta thì còn làm gì nữa.

Tuy nhiên, tin ấy chưa căn cứ, chúng ta chưa vội tin. Đến khi cho người đi dò xét, thì mới biết tin ấy quả xác thực.

Thấy Quách-Tỉnh ngơ ngác, Khưu-xứ-Cơ cười nói tiếp:

- Không phải chúng tập trung nơi Chung-Nam-Sơn để phá rối chúng ta mà để đối phó với Tiểu-long-Nữ.

Quách-Tỉnh càng ngạc nhiên hơn, nói:

- Tiểu-long-Nữ! Con bé ấy thủa nay chưa ra khỏi mộ đài, nào có thù oán với ai mà họ đối phó, vậy đối phó vì lẽ gì?

Khưu-xứ-Cơ cười hề hề nói:

- Việc thật rắc rối! Tuy Tiểu-long-Nữ chưa bao giờ cất bước ra khỏi mộ đài, song Lý-mạc-Thu, đệ tử của ả-Hoàn, một đứa ác tặc đã từng gây sóng gió trong giới giang hồ gây nên việc ấy.

Quách-Tỉnh nói:

- Thế sao họ không đối phó với Lý-mạc-Thu lại đến đây để đối phó với con bé Tiểu Long?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Nguyên là vì sư phụ Lý-mạc-Thu dạy nàng trong ít năm, thấy tánh nết của nàng không có đạo hạnh, không thể trở thành thiên nhân được, nên đã dạy nửa chừng rồi nói dối là đã thành tài và cho hạ sơn.

Lý-mạc-Thu lúc còn vị sư phụ tuy làm những điều ác nhưng vẫn nể sợ, đến lúc sư phụ hắn qua đời, hắn trở nên bất chấp đạo lý, lấy cớ đi đến phúng điếu sư phụ, đột nhập vào Hoạt-tử-Nhân mộ đài toan đuổi Tiểu-long-Nữ ra để độc chiếm những bảo vật.

Lý Mạc Thu đã thông thuộc hết mọi nẻo trong mộ đài, thế mà nàng đem hết sức bình sinh chỉ vượt qua được có hai cửa, đến lần cửa thứ ba, Lý Mạc Thu thấy có mấy chữ của sư phụ hắn ghi lại. Sư phụ hắn đoán biết ngày Lý Mạc Thu trở lại phá phách, và ngày Tiểu-long-Nữ xuống núi tìm cha, nên đã di chúc khuyên hai người nếu gặp nhau trên đường giang hồ nghĩa hiệp phải giữ vẹn tình đồng môn, chớ nên tranh chấp. Ngoài ra sư phụ hắn còn khuyến cáo hành động Lý Mạc Thu phải làm sao cho hợp với chánh đạo, để khỏi gặp những hậu quả không tốt.

Nhưng Lý Mạc Thu lòng tham ngùn ngụt không kể đến lời di chúc người trêu, không nghĩ đến chánh đạo, đẩy cánh cửa thứ ba toan xông vào. Nhưng vừa đặt chân qua ngưỡng cửa thì nàng trúng phải thứ kim độc của sư phụ nàng đã cài sẵn. Nếu không nhờ Tiểu-long-Nữ cứu chữa thì có lẽ nàng đã chết ngày tại chỗ.

Nàng thấy không thể phá phách được, rút lui ra khỏi mộ, hạ son.

Nhưng chẳng lẽ đành chịu thúc thủ hay sao? Lý Mạc Thu là đứa kiêu hãnh không chịu nhục nổi nàng, lại xông lên mấy lần, nhưng lần nào cũng bị thiệt hại, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Lần sau cùng, Lý Mạc Thu toan hạ Tiểu-long-Nữ, chẳng ngờ lúc bấy giờ Tiểu-long-Nữ tuy mới mười bảy tuổi mà võ nghệ đã vượt hơn nàng rất nhiều. Nếu không vì tình đong môn, nàng bị Tiểu-long-Nữ hạ sát như chơi.

Quách-Tỉnh nghe đến đây ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Chuyện này con e các giới giang hồ đã xuyên tạc sự thực.

Khưu-xứ-Cơ nhìn Quách-Tỉnh hỏi:

- Vì sao con lại nghĩ thế?

Quách-Tỉnh thở dài, nói:

- Con đã đấu với Lý-mạc-Thu trong mấy hiệp, Lý-mạc-Thu kẻ võ nghệ phi thường có nhiều ngón độc đáo, thiên hạ ai nghe đến tên nàng cũng phẳi khủng khiếp, còn Tiểu-long-Nữ kia một cô gái mới đến tuổi hai mươi làm sao địch nổi với nàng.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Thật ra Lý Mạc Thu đã từng đem võ nghệ gây sóng gió trong giới giang hồ không phải ít. Song việc nầy Vương-sư-đệ nghe một người bạn trong Cái-Bang kể lại rằng chính Tiểu-long-Nữ đã thắng Lý Mạc Thu. ấy thế nên Lý Mạc Thu mới căm tức Tiểu-long-Nữ, rêu rao khắp nơi rằng ngày nầy tháng nầy Tiểu-long-Nữ ở trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài, xuất đầu lộ diện, tỳ thi với thiên hạ anh tài để chọn người tuấn kiệt.

Quách-Tỉnh nghe đến đấy gật gù nói:

- à ra thế thì đó là một lối trả thù của Lý-mạc-Thu đối với cô gái Tiểu-long-Nữ kia sao?

Khưu-xứ-Cơ gật đầu nói:

- Đúng vậy, hắn đánh không lại bạn đồng môn nên dùng thủ đoạn mượn tay thiên hạ đến đánh. Lý-mạc-Thu rêu rao rằng nếu ai thắng nổi Tiểu-long-Nữ thì không những được Tiểu-long-Nũ chọn làm bạn trăm năm, mà bao nhiêu báu vật trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài sẽ được nàng đem hiến dâng trọn. Thế là những tay háo sắc, những phường dâm tặc, những bọn tà ma ngoại đạo đua nhau để xô đến đem tài sánh cùng Tiểu-long-Nữ để mong đoạt lấy nguyện vọng.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Làm sao họ biết được nhan sắc của con bé Tiểu-long-Nữ thế nào mà liều đem tánh mạng đến để cầu duyên?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Những kẻ háo sắc chẳng hề biết Tiểu-long-Nữ ra sao, nhưng Lý-mạc-Thu tuyên truyền ầm ĩ rằng sư muội của hắn đẹp hơn hắn nhiều, võ nghệ lại ít ai bì kịp, ngay cả đến các tiểu thư đài các cũng không ai có thể sánh vơi nhan sắc của nàng.

Quách-Tỉnh mơ màng liên tưởng đến việc cầu hôn của mình, bụng bảo dạ:

- Như thố có lấy gì làm lạ! Người yêu của ta còn đẹp gấp trăm phần.

Thực ra, chỉ vì Quách-Tỉnh sủng ái người yêu của mình nên tưởng Hoàng-Dung lúc nào cũng là người đẹp nhất thế gian. Cứ theo lẽ công bằng thì về mặt thùy mị Hoàng-Dung làm sao địch nổi Lý-mạc-Thu.

Khưu-xứ-Cơ nói tiếp:

- Trong đám tà ma ngoại đạo sống đời giang hồ hiệp sĩ rất có nhiều người cảm cái nhan sắc của Lý-mạc-Thu, nhưng thấy Lý-mạc-Thu đã lớn tuổi, lại tánh tình trở nên đọc ác nên không ai dám động đến. Bây giờ nghe nói nàng có sư muội đẹp hơn, lại đang thách người tỷ thí để tìm bạn trăm năm, thì ai lại chẳng muốn ứng thí.

Quách-Tỉnh nói:

- à ra vì bọn nầy muốn đến Chung-Nam sơn để cầu thân với con bé Tiểu-long-Nữ, hèn chi lúc con thượng sơn, quí đạo huynh đã lầm tưởng con là bọn đó và mắng con là đứa dâm tặc.

Khưu-xứ-Cơ lớn tiếng cười hề hề nói:

- Chính thế mà Trùng-Dương cung mới bị hại như ngày hôm nay.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Nếu bọn chúng đến đây để cho con bé Tiểu-long-Nữ kén duyên thì có oan hệ gì đến Trùng-Dương cung mà sư phụ ra công cản trở. Điều ấy thực con không biết.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Ta và Vương sư đệ được tin nầy nghĩ bụng rằng: bọn ta và Tiểu-long-Nữ tuy mới thấy mặt nhau có một lần song là tình lân bang, hơn nữa đời trước tiền nhân đi lại với nhau rất thân thiết. Vả lại bọn dâm tặc yêu tinh mà dồn đến là dám coi thường Toàn-Châu môn phái của chúng ta, bọn ta chẳng lẽ chỉ biết ăn no ngồi nhìn chúng hoành hành ở chốn Chung-Nam sơn này sao. Vì thế chúng ta mới phải truyền lệnh đi khắp nơi, triệu tập những tay cự phách trong môn phái trước mười hôm tại Trùng-Dương cung, và một mặt tập dượt Bắc-đẩu đại trận, một mặt đưa tin vào trong mộ đài để báo tin cho Tiểu-long-Nữ biết trước để đề phòng. Ai ngờ bức thư đưa tới như liệng đá vào lòng Trùng-Dương. Tiểu-long-Nữ chẳng thèm để ý, và cũng chẳng thèm phúc đáp:

Quách-Tỉnh nói:

- Hay là nàng không còn ở trong mộ đài nữa chăng?

Khưu-xứ-Cơ lắc đầu nói:

- Không! Mỗi ngày chúng ta vẫn thấy khói từ trong mộ đài tỏa ra, quyện khắp rừng cây...

Nói đến đây Khưu-xứ-Cơ chỉ tay về phía trước mặt, mắt đăm đăm nhìn:

- Kìa! Con hãy nhìn kìa!

Quách-Tỉnh nhìn theo phía tay chỉ thấy núi rừng trùng điệp, trong khoảng trên mười dặm, toàn là rừng cây, chẳng biết Hoạt-tử-Nhân mộ đài ở đâu cả.

Khưu-xứ-Cơ lại nói:

- Bọn ta họp nhau thảo luận, quyết định ngăn ngừa kẻ địch, che chở cho Tiểu-long-Nữ, phái người đi dò tin tức bọn dâm tặc trước đây năm ngày. Tin tức dồn dập đưa về cho biết có rất nhiều bọn vô đến Chung-Nam sơn đấu võ cầu thân. Có bọn thấy Trùng-Dương cung ở sát cạnh mộ đài cũng ngán, có bọn lại vì cô thế chẳng dám bén mảng đến đây. Tuy nhiên, bọn cô thế kia lại được một số ngoại đạo giúp sức, nên chúng mới thừa cơ hội theo đám ăn tàn tụ họp nơi Phổ-Quang-Tự dưới chân núi, lấy ám hiệu vỗ tay trên bia đá làm đích.

Quách-Tỉnh gật đầu lẩm bẩm:

- Hèn chi, con vì sơ ý đấm vỡ bia đá làm cho các đạo huynh nghi kỵ.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Nhất là cái đấm của con lại là cái đấm xuất quần, biểu lộ một tài nghệ tuyệt luân trong phái giang hồ hiệp khách.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Chẳng hay bọn cầm đầu trong đám phá phách Trùng-Dương cung là ai vậy?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chúng gồm có hai bọn đều thuộc về ngoại đạo. Chúng đều là những bọn đã nổi danh trong thiên hạ, nhưng ít khi đến miền Trung-Nguyên nầy. Đã hơn mười năm nay, con ẩn thân trên Đào-hoa đảo nên không biết rõ sự thể. Chàng công tử nọ chính là con vua Mông-Cổ, cháu Thành-Cát Tư-Hãn. Hắn sống ở miền tây được một vị Quách-hiền nào đó truyền dạy, cho nên tuy còn nhỏ tuổi mà đã luyện được võ công rất uyên thâm, mọi người đều gọi hắn là Hoắc-Đô Hoàng-tử.

Quách-Tỉnh nhẩm đi tính lại bốn tiếng "Hoắc-Đô Hoàng-tử", hồi tưởng hình dung và cử chỉ của hắn, nghĩ mãi không rõ hắn giống ai, chỉ thấy cử chỉ của hắn trang nhã và đôi mắt ngời oai vệ.

Khưu-xứ-Cơ hỏi:

- Con ở nơi sa mạc lâu ngày đã từng tiếp xúc với những người trong vương tộc Mông-Cổ, con có thể nhận được lai lịch của chàng trai đó chăng?

Quách-Tỉnh thưa:

- Thành-Cát Tư-Hãn có bốn người con, người con trưởng là Thuật-Xích rất hung tợn, người con thứ hai là Sắp-hợp-Đài rất cuồng bạo, người thứ ba là Ô-phá-Đài tức là vua Mông-Cổ bây giờ, tính tình nhân từ, còn người con thứ tư là Phi-Lôi thì có khí phách hơn người. Nhưng tướng mạo bốn người đó đều không giống Hoắc-Đô Hoàng-tử một chút nào cả.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chỉ ngại hắn muốn đề cao phẩm giá để cầu hôn mà thôi. Tuy nhiên tài năng của hắn, bọn ta không thể chối cãi vào đâu được. Đầu năm nay, vừa mới vào miền Trung-Nguyên, hắn đã ra tay trổ tài đả thương tam hùng miền Giang-Nam, sau về trên con đường Cam-Lương một mình hắn đã giết chết thất bá miền Giang-Châu, tiếng tăm của hắn nổi lên như sấm. Bọn ta không ngờ hắn lại nhúng tay vào việc nầy nữa.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Còn người sư Tây-Tạng kia là ai mà cũng tùng hành theo hắn?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Nhà sư ấy tên Đạt-nhĩ-Ba, thuộc về một tông ở Tây-Tạng, làm trưởng giáo. Hắn nổi tiếng đã từ lâu, kể ra về võ nghệ hắn cũng đóng bực với ta đó. Hắn là một hòa thượng, mà đương nhiên, đến chốn nầy không phải với ý muốn chiếm đoạt Tiểu-long-Nữ, có lẽ hắn đến để đoạt các bảo vật trong mộ đài, hoặc giả để phô trương thinh thế. Còn bọn dâm tặc khác thấy được hai người kia đứng đầu, không còn dám nuôi ý tưởng cầu hôn nữa, mà chỉ muốn theo đám ăn tàn, gỡ gạc được chút nào hay chút ấy. Do đó có hơn hàng trăm người đến Chung-Nam-Sơn này. Lẽ ra Bắc-đẩu trận của chúng ta có thể chận được bọn chúng không cho bước lên khỏi chân núi, hoặc không bắt sống được số đông bọn chúng cũng chẳng cho chúng đến gần Trùng-Dương cung. Âu cũng là việc rủi ro nên mới khiến trong môn phái ta hiểu lầm nhau để xẩy ra câu chuyện đáng tiếc.

Quách-Tỉnh lấy làm ăn năn toan ngỏ lời tạ lỗi với Khưu-xứ-Cơ thì Khưu-xứ-Cơ đã hiểu ý nói:

- Những điện đài lầu các đều là những vật ngoài thân mình. Ngay cả cái thân xác mình đây cũng còn chẳng nên lưu luyến quá, huống chi là lầu đài. Con đã tập luyện đến mức cao điệu lẽ đâu không thấu tiệt đạo lý.

Quách-Tỉnh thưa:

- Sư phụ dạy rất phải. Lòng con chỉ tiếc là tiếc cái công trình Trùng-Dương điện đã qua bao nhiêu đời góp nhặt, bao gian lao trong giáo phái, nay chỉ vì bọn dâm tặc kia mà một phút ra tro.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Bởi Bắc đẩu đại trận vây chặt lấy con, nên hai gã kia mới thừa cơ đột nhập vào Trùng-Dương điện, châm lửa đốt. Xích sư đệ đấu với Hoắc-Đô công-tử chỉ vì khinh địch trước một kẻ võ nghệ khác thường, tài nghệ chênh lệch nên vô ý bị hắn đánh một chùy vào ngực. Bọn ta vội lập thế để bảo vệ Xích sư đệ. Người thay Xích sư đệ lại quá kém nên phép tắc của trận pháp không tinh vi, nếu không có con đến kịp thời can thiệp thì môn phái Toàn-Chân hôm nay ắt vướng phải một nhục nhã không ít.

Hai thầy trò Quách-Tỉnh vừa nói chuyện đến đấy thì bỗng đàng xa vọng lại một hồi tù và, tiếng tù và rất nên kích động.

Quách-Tỉnh hồi tưởng lại lúc chàng còn ở trong bãi sa mạc mênh mông cũng đã từng nghe giọng tù và ấy cuả quân Mông-Cổ.

Thần Điêu Đại Hiệp : Hồi 12 Người đàn bà trong cổ mộ đài

Bốn bề đều có người đuổi bắt làm cho Dương-Qua hoảng sợ. Nó chạy mãi vào rừng, không dám dừng bước.

Bỗng trước mặt có bóng một đạo sĩ chạy đến đón đường, nó vội rẽ sang phía khác, thì lại có tiếng kêu:

- Nó kìa! bắt lấy nó!

Đạo sĩ ấy vừa nói, vừa nhảy ra đón đường toan thộp lấy nó.

Nhanh như cắt, Dương-Qua cúi đầu khom lưng, vận dụng miếng võ "hàm mô công" bắn vào đối phương". Đạo sĩ kia, tuy không chết cứng như Tỉnh-Quang song cũng bị thương văng ra xa hơn bảy thước.

Hai đạo sĩ khác thấy nó đánh hiểm độc quá cũng hết hồn chẳng dám đến gần, chỉ đứng đằng xa kêu cứu om sòm. Nhờ vận dụng thế "hàm mô công" Dương-Qua đã thắng được hai đạo sĩ. Nó cảm thấy bớt sợ hãi. Tuy nhiên, chân nó vẫn chạy không ngừng.

Chạy một hồi, nó thấy đã xa những đạo sĩ kia, nên lấy làm sung sướng.

Bỗng nhiên ở chòm cây trước mặt nó có tiếng sột sạt rồi một người diện mạo phương phi, hình dung tuấn tú xuất hiện theo sau là Doãn-chí-Bình, đệ tam đại đệ tử của Khưu-xứ-Cơ, lấy làm lạ, nghĩ thầm:

- Vị đạo trưởng nầy sao lại trở về trong lúc nó tìm đường trốn thoát.

Lòng nó phân vân chưa biết phải đối phó ra sao, thì nhanh như chớp Doãn-chí-Bình đã nhảy sang một bên, đưa tay thộp vào ngực nó, nói lớn:

- Mày có chạy đi đàng trời mới thoát nổi tay ta.

Dương-Qua phản ứng ngay. Nội công "hàm mô" được vận dụng lên tức thời ở đầu ngón tay. Doãn-chí-Bình cảm thấy sức điện nội công của nó lợi hại liền siết chặt cổ tay nó, để ngăn nội công không cho phát xuất và buộc phải thối lui về đơn điền.

Thuật "hàm mô công" tuy là một thuật nội công lợi hại vào bực nhất, song Dương-Qua thời gian tập luyện chưa được bao nhiêu, vả lại đối với một người như Doãn-chí-Bình, cao đệ trong môn phái Toàn-Chân, dày công tập luyện và chiến đấu thì nó làm sao thắng nổi.

Bị ngăn nội công lại, chân nó nhảy chồm chồm lên như một con cóc. Thì ra nội công không trở về đơn điền mà lại trở dồn xuống dưới chân, phì ra đằng mồm, buộc nó phải thốt ra những lời chưởi rủa:

- Khốn nạn! Dã man! Tàn ác!

Thốt nhiên, Doãn-chí-Bình buông tay Dương-Qua, bảo:

- Mi muốn trốn thoát hãy hạ sơn đi. Ta đứng đây bảo vệ cho mi.

Nếu mi chần chờ sư phụ mi bắt được thì cái mạng nhỏ nhoi của mi ắt không toàn vẹn.

Doãn-chí-Bình xưa kia vốn cùng Dương-Khang, cha của Dương-Qua, tập luyện võ nghệ, tình đồng môn thực thắm thiết. Nay Doãn-chí-Bình vừa về đến thì được biết câu chuyện của Dương-Qua, lại nghe nói Triệu-chí-Kính hẹp hòi nghiêm khắc quá mức, đối với Dương-Qua nhiều ác ý. Bởi vậy khi nhìn thấy mặt mày Dương-Qua sưng húp và tím bầm, quần áo rách nát, Doãn-chí-Bình cảm thấy thằng bé bị đánh đập quá nhiều đem lòng thương hại.

Dương-Qua lấy làm lạ đứng ngây người, không hiểu thái độ của Doãn-chí-Bình đối với mình ra sao cả.

Nhưng ngày vừa qua nó gặp nhiều cơ nhục quá nên chẳng biết tin vào lòng tốt bất cứ ai. Bởi vậy, tuy Doãn-chí-Bình đã thả nó ra mà nó vẫn nghi ngờ chẳng biết đây có phải vì lòng tốt hay vì một xảo kế nào để hãm hại nó. Nó chẳng nói chẳng rằng, cắm đầu chạy một mạch, không quay lại.

Giây phút, nó nghe một nhóm người đàng sau nó đang cãi lộn lao xao.

Tứ chi nó không đến nỗi rã rời mệt mỏi, vì nó đã có công luyện tập nội công hồi nhỏ. Nó chạy gần đến chân núi, nhảy vượt qua mấy đám sậy, rồi ngẩng mặt lên nhìn thì lúc đó trời đã bắt đầu tối nhá nhem. Cơ thể nó đã vận dụng sức lực quá nhiều, cho nên nó thấy cần phải vận dụng hơi thở để lấy lại sức. Nó ngồi trên một tảng đá, ngẩng cổ lên hút những làn không khí trong lành của miền rừng núi.

Ngồi nghỉ được một lúc, nó cảm thấy đã khỏe khoắn, toan đứng dậy chạy nữa thì bỗng nhiên trước mặt nó, vị đạo sĩ râu dài, đứng sừng sững tự lúc nào.

Vị đạo sĩ ấy chính là Triệu-chí-Kính, sư phụ của nó.

Triệu-chí-Kính gương to đôi mắt nhìn nó chòng chọc, hơi giận dữ bốc lên ngùn ngụt.

Dương-Qua thốt nhiên kêu to lên một tiếng, rồi cắm đầu vụt chạy.

Triệu-chí-Kính phi thân đuổi theo.

Dương-Qua tay quờ được hòn đá ném lại phía sau, Triệu-chí-Kính tránh được. Hai thầy trò kẻ trốn người theo bắt, chạy ngoằn ngoèo trong rừng đêm.

Dương-Qua chạy được một lúc thì thấy trước mặt có bức tường đá chắn ngang. Nó hoảng hồn chưa biết làm sao, thì thấy dưới chân tường ấy có một con suối. Chẳng ngần ngại, nó nhảy ùm xuống đấy.

Triệu-chí-Kính thấy nó nhảy xuống suối, biết nó sẽ lội sang bãi cỏ xanh để vào rừng thông trước mặt trốn thoát nên đi vòng qua bờ suối đến đón ở rừng thông.

Nhưng, trong lúc Triệu-chí-Kính đi vòng bờ suối thì Dương-Qua đã vượt khỏi suối, chạy vào khu rừng. Triệu-chí-Kính, phải theo dấu đường mòn đuổi theo.

Rừng càng sâu cây cối càng rậm, màn đen phủ dăng như mực.

Bỗng nhiên, Triệu-chí-Kính nhớ lại nơi đó là Hoạt-tử-Nhân mộ đài, chỗ của vị sư tổ Trùng-Dương võ điện.

Luật lệ của Toàn-Chân môn phái cấm ngặt không, cho đệ tử nào được vào đấy một bước, nên Triệu-chí-Kính cho rằng Dương-Qua không thể vào đấy dung thân được, bèn kêu lớn:

- Dương-Qua! Dương-Qua! muốn sống thì ra ngay.

Kêu mấy tiếng vẫn không có người đáp lại, Triệu-chí-Kính bôn bả đuổi theo. Nhưng vừa tiến vào ít bước thì ông ta thấy một hàng chữ khắc trên bia đá, nhờ có ánh sao, nên có thể vận nhỡn quang dọc được:

"Người ngoài hãy dừng bước".

ái ngại, Triệu-chí-Kính không dám đi sâu vào cất tiếng kêu:

- Thằng nhãi ranh Dương-Qua! Nếu mày không trở ra mày sẽ chết tươi trong đó không kịp trối!

Vừa dứt tiếng, Triệu-chí-Kính nghe bên mình có tiếng o! o! o!, tiếng kêu khác thường. Tiếng đó, trong bóng tối chập chờn hiện ra một đàn ong không đáp xuống được.

Nhưng loại ong nầy rất linh tính, thấy Triệu-chí-Kính dùng áo che chở tách ra làm hai bầy, một bầy tấn công phía trước, một bầy tấn công phía sau. Triệu-chí-Kính lại múa áo vòng quanh thân thể để đón ngừa. Bầy ong lại rẽ làm tư tấn công vào bốn mặt.

Triệu-chí-Kính thấy nguy, chỉ còn có cách lấy vạt áo che kín đầu, kín mặt, chạy thối lui cho nhanh.

Bầy ong vù vù đuổi theo sát Triệu-chí-Kính chạy hướng nào chúng bay theo hướng đó.

Triệu-chí-Kính thỉnh thoảng phải hé mắt ra để thấy đường chạy. Bỗng hai chú ong thấy chỗ sơ hở đó, thừa dịp luồn vào, đốt ngay nơi trán. Triệu-chí-Kính không chịu nổi hét lớn:

- Ôi chao! Ong gì mà đốt đau đến thế. Có lẽ lần này ta sẽ chết mất.

Thật vậy, loài ngọc ong rất độc, chỉ cần chích một mũi mà nạn nhân đủ thấy rêm khắp người, bất tất phải bị nhiều mũi.

Triệu-chí-Kính đến độ đau không sao chịu nổi, nằm lăn xuống bãi cỏ, vật mình kêu la.

Bầy ong thấy đã thắng trận kéo nhau bay vào rừng.

Lúc bấy giờ, Dương-Qua cũng không tránh khỏi sự tấn công của bầy ong. Nó bị ngã gục xuống bãi cỏ bất tỉnh chẳng biết tự lúc nào.

Cho đến khi nó tỉnh dậy thì thấy toàn thân đau nhức, quanh mình nó vẫn còn lảng vảng mấy con ong trắng. Tuổi nó còn nhỏ, nó vừa trải qua một ngày gian lao khổ cực nào đấu võ với các đạo sĩ kia nào các đạo sĩ Toàn-Chân rượt bắt, bây giờ nó lại bị ong độc cắn nữa. Với tấm thân bé bỏng đó, sức đâu chịu nổi. Nó đã đến lúc kiệt quệ, mắt nó hoa lên không còn trông thấy đường nó, thiếp đi một hồi lâu.

Trong cơn mê, nó cảm thấy một vị thơm thơ ngọt ngào mát mẻ tan dần vào miệng nó, rồi từ từ chạy xuống cổ họng. Nó sung sướng nuốt vào bụng. Nước ấy chạy đến đâu là mát rượi đến đấy. Nó mở bừng mắt ra tỉnh dậy thì thấy trước mặt nó một bà lão mặt mày xấu xí lạ thường.

Bà lão mặt mày xấu xí ấy, tay trái đặt lên trán nó, tay mặt cầm một cái bình nhỏ, trút lần lần chất nước ngọt kia vào miệng.

Thứ nước thần thánh ấy chính là thứ mật ong ngọc, có tác dụng trừ nọc độc và làm cho tinh thần người mệt nhọc được sảng khoái rất mau lẹ.

Mật ong kia làm cho Dương-Qua mỗi lúc một tỉnh. Nó biết rằng bà lão mặt mày xấu xí đó đã cứu sống nó, bà là một ân nhân chứ không phải một địch thủ, toan hãm hại nó. Lòng nó lâng lâng một niềm thương, để tỏ vẻ tri ân, nó mỉm miệng cười. Bà lão thấy nó cười tỏ ra là hiểu ý nó.

Nó mở mắt nhìn, thấy nụ cười bà lão làm nhăn nheo cả một khuôn mặt già nua. Vẻ xấu xí lại càng xấu xí hơn khiến cho ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.

Nhưng đối với Dương-Qua trong phút nầy nó đã chán ghét những khuôn mặt hùng hồn quắc thước rồi. Nó cho rằng những khuôn mặt quắc thước yên hùng chỉ là những khuôn mặt chứa đựng cái gì tàn ác hung hăng. Chỉ có khuôn mặt xấu xa mới giữ được nơi đó những cái hiền từ đáng mến.

Tuy ý nghĩ của nó nông cạn, song hoàn cảnh đã tạo cho nó một ý nghĩ kỳ quái như thế thì còn biết làm sao? Nó thấy khuôn mặt của bà lão đã làm cho lòng nó ấm áp, chứ không như những khuôn mặt của các đạo sĩ Trùng-Dương cung mà lúc nào nó cũng thấy lạnh nhạt như băng tuyết.

Nó buột miệng se sẽ nói:

- Bà ơi! Bà đừng để sư phụ con đến bắt con nhé!

Bà lão thấy giọng xưng hô thân mật của nó, mừng rỡ hỏi:

- Cháu ơi! Sư phụ cháu là ai thế?

Đã từ lâu, Dương-Qua chưa bao giờ nghe được một câu nói êm đềm thân mật như thế. Còn nhỏ tuổi, tuy đã trải qua những ngày thực là phiêu lưu vất vả, tâm hồn nó vẫn còn dễ xúc động trước những hành vi cao đẹp nhân từ.

Quá cảm kích, Dương-Qua nghẹn ngào không nói nên lời, òa lên khóc nức nở.

Bà lão tay siết chặt lấy nó không một lời an ủi. Bà ta chỉ ngoẹo đầu sang một bên, đôi mắt long lanh như mặt sóng trùng dương, chứa đựng một tình thương mênh mông không bờ bến.

Bà lão đợi cho Dương-Qua khóc một hồi rồi mới cất giọng hỏi:

- Cháu đã bớt đau chưa hở cháu?

Bản tính Dương-Qua ưa ngọt chứ không ưa xẵng. Cũng vì thế mà nó không sao chịu nổi cảnh hà hiếp, khắc bạc của mọi người. Vả lại, đối với những kẻ hà hiếp khắc bạc, nó chẳng bao giờ nhỏ ra một giọt nước mắt, mà nó chỉ xúc động trước cái dịu hiền tình cảm mà thôi.

Bởi vậy, bà lão chỉ nói vài câu đã làm cho nước mắt nó tuông tràn không dứt.

Nó khóc! Khóc mãi không nói ra lời! Tuy nó không nói được mà hai dòng nước mát nó đã nói lên tất cả.

Bà lão lấy khăn nhẹ nhàng lau nước mắt cho nó, và dùng lời dịu ngọt dỗ dành chẳng khác gì bà đã dỗ một đứa con.

- Thôi nín đi cháu! Cháu đừng khóc nữa! Chỉ chốc lát cháu sẽ khỏi hẳn.

Dương-Qua chẳng cần biết bà lão nói gì, nó chỉ cần nghe cái giọng dịu hiền kia cũng đủ làm cho nó khóc ngất rồi.

Bà lão càng nói nó càng khóc, và khóc ngất không thôi.

Bỗng một giọng ngọt ngào và trong như nước suối, từ trong rặng cây vẳng lại:

- Tôn bà! Sao tôn bà lại thân ái với một đứa bé dối trá, khinh nhờn đệ tử của người khác?

Dương-Qua ngẩng đầu lên nhìn thấy sau rèm cây, một thiếu nữ đẹp tựa tiên sa, nõn nà trong bộ xiêm y trăng buốc. Một sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn mà trong cõi trần gian tưởng chưa bao giờ thấy.

Tự nhiên mặt Dương-Qua đỏ bừng lên, nó cúi xuống vì xấu hổ như nhận thấy thiếu nữ đưa mắt nhìn từ đầu đến chân nó.

Bà lão vừa cười vừa nói:

- Ta chẳng biết làm thế nào cho nó nín, xin cô nương khuyên nhủ nó giùm ta.

Thiếu nữ tiến đến gần nhìn những vết thương của Dương-Qua bị ong đốt, rồi đưa tay sờ lên trán nó xem nó nhiễm độc đến mức nào.

Lòng bàn tay thiếu nữ vừa chạm vào trán Dương-Qua thì Dương-Qua có cảm giác như lành lạnh. Nhưng không phải lạnh như băng tuyết, mà cái lạnh êm đềm như nhung gấm.

Nàng nói:

- Không sao đâu! Em nhỏ ạ! Em đã uống chút mật rồi chỉ trong nửa ngày em sẽ bình phục.

Dương-Qua nhìn chăm chăm vào thiếu nữ, chưa biết thiếu nữ ấy là ai? ở đâu? Tại sao lại có một sắc đẹp hồn nhiên, nõn nà, trong trẻo đến thế, thì bà lão như đã hiểu ý, nói:

- Vị nầy là chủ nhân chốn nầy, cháu phải lễ phép đối xử với cô nương.

Người thiếu nữ đẹp như hoa, trắng như ngọc kia, chính là Tiểu-long-Nữ, trong mộ đài Hoạt-tử-Nhân mà khách giang hồ đã từng được nghe danh hiệu. Còn bà lão chính là người lão bộc của vị tổ sư mộ đài và Trùng-Dương cung vậy.

Từ ngày vị đạo trưởng ở mộ đài tạ thế, hai người nầy vẫn sống chung với nhau trong mộ đài không rời nửa bước.

Vừa rồi, nghe tiếng ong bay. Tôn bà biết có người xâm nhập địa phận mộ đài, và kẻ ấy tất bị ong cắn trọng thương nên ra nhìn thử xem sao, bỗng thấy Dương-Qua, một thằng bé trong tuổi ấu thơ. Tôn bà đem lòng thương hại ra tay cứu độ cho nó.

Tôn bà đã đưa nó vào trong lấy mật cho uống giải độc. Do đó, Dương-Qua mới được hồi tỉnh mau chóng như vậy.

Theo luật lệ thì người ngoài không được vào mộ đài, đầu là nơi của mộ, tối kỵ nhất là nam giới. Dương-Qua tuy thuộc vào nam giới song tuổi còn nhỏ, lại bị ong độc cắn bị thương nặng quá, Tôn bà đánh liều vượt ra ngoài luật lệ đã quy định để mong cứu sống nó làm phước.

Nếu Tôn bà là một sư phụ xấu nhất ở trần gian thì cũng là một người có lòng tốt nhất, từ bi nhất trên cõi thế.

Dương-Qua lần lần thấy các vết thương êm dịu và tinh thần trở nên mạnh mẽ vô cùng. Nó ngồi sụp xuống đất, cúi đầu lạy bà lão và Tiểu-long-Nữ cô nương.

Nó nói:

- Cháu là Dương-Qua kính bái Tôn bà và Long cô nương.

Vẻ hoan hỉ lộ trên nét mặt bà lão. Bà đỡ Dương-Qua dậy nói:

- A! Cháu tên Dương-Qua! Thôi chẳng cần phải lạy nữa!

Bà lão dắt nó vào trong mộ đài.

Tôn bà ẩn cư trong mộ đài đến nay đã hàng mấy mươi năm, chẳng bao giờ tiếp xúc với người ngoài nay bỗng dưng thấy Dương-Qua một đứa bé khôi ngô, ăn nói lanh lợi, lâm vào hoàn cảnh tai nạn nên đem lòng thương mến.

Tiểu-long-Nữ lúc nào dáng mặt cũng trầm lặng như mặt nước hồ thu. Nàng ngồi trên một chiếc tràng kỷ gần đó, chỉ khe khẽ gật đầu khi nhìn nó.

Tôn bà hỏi Dương-Qua:

- Cháu từ đâu đến? Vì sao mà bị nhiễm thương tích? Có kẻ nào ác nghiệt đánh cháu như thế?

Dứt lời, Tôn bà không chờ Dương-Qua đáp, lấy một cái bánh cho Dương-Qua bảo ăn cho đỡ đói.

Dương-Qua ăn mấy miếng bánh ngon miệng, đem đầu đuôi câu chuyện mình kể lại cho hai người trong mộ đài nghe. Nó ăn nói hoạt bát, linh lợi, thỉnh thoảng ph vào câu chuyện những lời nói tình cảm khiến người nghe phải xúc động không ít.

Tôn bà nghe kể xót xa cho thân thế nó, thỉnh thoảng thở dài chép miệng, Tiểu-long-Nữ thanh sắc vẫn không lúc nào thay đổi. Nàng vẫn thư thái ngồi nghe cho đến lúc Dương-Qua kể đến chuyện Lý Mạc Thu, nàng mới đưa mắt nhìn Tôn bà một chút.

Tôn bà nghe Dương-Qua kể hết câu chuyện. Liền dang tay bế nó vào lòng âu yếm, nói:

- Ôi thôi! Sao mà số phận của cháu lại khổ cực đến thế.

Tiểu-long-Nữ từ từ đứng dậy nhìn Tôn bà nói:

- Những vết thương của em bé chẳng có gì đáng ngại. Thưa Tôn bà, xin Tôn bà hãy đưa cháu ra khỏi mộ đài đi.

Câu nói của nàng làm cho cả hai người đều run lên.

Dương-Qua thổn thức nói:

- Cháu chẳng muốn trở về! Cháu chẳng muốn trở về! Xin cho cháu ở lại đây với bà với cô nương, dẫu đến chết cháu cũng chẳng rời.

Tôn bà nói:

- Dám thưa cô nương! Nếu để nó trở về Trùng-Dương cung nó sẽ bị cực khổ lắm. Sư phụ nó chẳng ưa gì nó!

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Tôn bà nên dẫn nó ra ngoài. Còn về đâu, ở đâu tùy ý nó. Tôn bà có thể bảo với sư phụ nó đừng khe khắc nó nữa.

Tôn bà nói:

- Ôi! Việc bên Trùng-Dương cung chúng ta nào có biết ra sao.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà lấy cho nó một hũ mật để nó mang theo rồi đem nó ra khỏi chốn nầy.

Lời nói của nàng tuy rất nhẹ nhàng, song có vẻ uy nghiêm làm cho người khác không dám chống lại.

Tôn bà thở dài, biết rằng Tiểu-long-Nữ đã nói đi nói lại như thế là đã quyết định rồi dẫu có nói gì nàng cũng chẳng nghe. Hai mắt bà lão nhìn Dương-Qua có vẻ luyến tiếc.

Dương-Qua động lòng, đứng phắt dậy chắp tay cúi đầu bái hai người và nói:

- Cháu xin tạ ơn Tôn bà và cô nương đã chữa cho cháu khỏi các vết thương. Cháu xin phép Tôn bà và cô nương đặng lên đường.

Tôn bà nhìn Dương-Qua với vẻ mặt rất ái ngại, nói:

- Bây giờ cháu định về đâu?

Dương-Qua lặng người đi một lúc rồi đáp:

- Trời đất vô cùng vô tận... Cháu thấy chỗ nào tốt thì về thôi. Giờ đây cháu chưa thể nào biết trước được.

Thật ra, Dương-Qua cũng chưa biết rồi đây nó sẽ ra sao? Đi về đâu? ở đâu? Nó phó mặc tấm thân nó cho hoàn cảnh.

Thấy nét mặt buồn rầu của nó đượm vào hai ánh mắt, Tiểu-long-Nữ nói:

- Em đừng lấy làm lạ khi thấy ta phải giục em rời khỏi chốn này. ấy bởi qui luật nơi đây nghiêm ngặt, không cho phép người ngoài được vào chớ đừng nói đến chuyện lưu trú nữa.

Dương-Qua đáp với giọng hồn nhiên:

Em đã từng sống trong hoang lạnh thì nay dẫu có ra đi cũng chẳng sao. Nhưng chẳng biết đến bao giờ em có thể thấy lại được Cô nương và Tôn bà!

Lời nói tuy bắt chước người lớn, song hàm xúc ít nhiều cái ngây thơ của một đứa bé! Tôn bà nghe giọng nói ấy vừa buồn cười vừa thương hại, nhìn vào mặt nó thấy đôi mắt nó rướm lệ, hai giọt nước mắt đang cuộn tròn lăn xuống đôi gò má.

Tôn bà không cầm được lòng thương, lại năn nỉ Tiểu-long-Nữ,

- Thưa cô nương! Thân nó bé bỏng, giữa đêm khuya canh vắng biết đâu mà về. Xin cô nương cho nó lưu lại đến sớm mai.

- Tiểu-long-Nữ đã quyết định điều gì thì đâu có ai năn nỉ cũng coi như chẳng nghe thấy. Nàng nể lời khe khẽ lắc đầu nói:

- Thưa Tôn bà, Tôn bà đã quên qui luật mà Tiên sư đã dặn sao?

Tôn bà biết có nói nữa cũng chẳng ích gì, tiến đến gần Dương-Qua nói nhỏ:

- Thôi ta cùng với cháu đi chơi vậy.

Dương-Qua dụi mắt cúi đầu bước ra, nói:

- Thưa bà, cháu chẳng dám phiền bà dẫn cháu ra đi.

Nó vừa ra đến cửa mộ, bỗng có tiếng nói từ ngoài vọng vào:

- Tôi là đệ tử của Toàn-Chân phái Doãn-chí-Bình, phụng mệnh sư phụ tôi đến xin yết kiến Tiểu-long-Nữ cô nương.

Tiếng nói rõ ràng từ trong rừng gần mộ đài nghe rõ mồn một.

Tôn bà vội lướt tới, nắm chặt tay Dương-Qua nói:

- Có người ở ngoài toan bắt cháu. Cháu đứng yên nơi đấy, đừng ra nữa.

Mặt Dương-Qua bỗng nhợt nhạt, nửa kinh hãi, nửa tức giận, thân thể nó run lên.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Thưa Tôn bà, xin Tôn bà hỏi xem họ muốn yết kiến chúng ta có điều chi.

Tôn bà nghĩ ngợi một lát rồi quay sang nói với Dương-Qua:

- Cháu ở đây, để ta ra ngoài hỏi xem họ muốn yết kiến cô nương có việc gì?

Dương-Qua bẩm tính vốn ngang ngạnh, lúc bấy giờ khí uất lại nổi lên, nó trọn đôi mắt tròn xoe nhìn ra ngoài nói:

- Thưa Tôn bà, Tôn bà chẳng cần che chở cháu làm chi, việc cháu làm cháu chịu, cháu đã lỡ tay đánh chết một đạo sĩ ở Trùng-Dương cung, dù cháu có bị họ giết cũng được.

Nói dứt lời nó nhảy thót ra ngoài.

Bà lão thở dài, nói:

- Thằng bé nầy thực khó bảo. Bọn họ đang ở nơi trung tâm khu vực của mộ đài, nó làm sao thoát ra khỏi được.

Nói là mộ đài, nhưng kỳ thực đây là một tòa nhà rộng lớn xây ngầm dưới lòng núi. Xưa kia chính Vương-trùng-Dương đã dùng chốn nầy để luyện tập võ nghệ. Lúc đầu, Vương-trùng-Dương chỉ xây cất sơ sài nhưng cũng đã bố trí nghiêm chỉnh nơi cư trú của mình, để xứng đáng là nơi trung tâm của một môn phái. Sau đó người bạn cũ của Vương-trùng-Dương đến ở, lại chỉnh đốn thêm lên, làm cho mộ đài thêm vẻ uy nghi diễm lệ, nhất là các phòng, các động và những lối ra vào trở nên huyền ảo khác thường.

Bấy giờ Tôn bà thấy Dương-Qua bướng bỉnh liền nhảy theo, nắm tay dắt đi.

Chỉ một lúc, hai người ra khỏi cửa động, xuyên qua rừng thông đến một miếng đất trống trước rừng.

Trăng sáng, xuyên qua các cành cây kẽ lá như thếp vàng, dưới ánh trăng, có bóng sáu, bảy đạo sĩ. Đàng xa lại có bốn đạo nhân đang phục dịch săn sóc cho hai người bị thương là Tỉnh-Quang và Triệu-chí-Kính.

Mấy đạo nhân trông thấy Dương-Qua liền bàn luận với nhau rồi tiến lên phía trước mấy bước.

Dương-Qua giật tay ra khỏi bàn tay bà lão, chạy đến đàng trước nói lớn.

- Ta ở chỗ nầy chờ chúng bay đến để giết chết ta đây.

Mấy đạo nhân không ngờ tánh khí Dương-Qua lại có thể cứng cỏi và liều lĩnh đến thế. Trong đám đạo nhân ấy có một người xông ra, định chộp lấy Dương-Qua ấn đầu đẩy nó về phía trước.

Dương-Qua điềm tĩnh, cười nhạt, nói:

- Ta đâu thèm trốn tránh mà ngươi lại vội vàng đến thế.

Vị đạo nhân ấy là đệ tử của Triệu-chí-Kính. Vì thế sư phụ nó vì Dương-Qua mà bị ong đốt trọng thương nên nó nóng lòng muốn bắt Dương-Qua đánh cho chết. Từ thuở nhỏ, đạo sĩ nầy sống bên Triệu-chí-Kính được Triệu-chí-Kính săn sóc coi như con đẻ vậy, nay Triệu-chí-Kính bị ong đốt, chết đi sống lại làm sao nó khỏi đau lòng. Nó hăm hở dùng quyền đánh vào đầu Dương-Qua.

Tôn bà định bụng sẽ đem lời phải trái nói chuyện với các đạo sĩ, song thấy Dương-Qua bị đạo sĩ kia nắm đầu, đột kích một cách tàn nhẫn, bà lão phút động lòng thương liền phi thân tới phóng vạt áo đánh vào bọn kia để cứu Dương-Qua. Bọn kia bị đau tê tái cả người tưởng như một lằn roi sắt đánh vào da thịt, vì thế bọn chúng phải buông Dương-Qua ra.

Tôn bà tay trái bồng Dương-Qua, tay phải chống vào hông, hiên ngang lui về phía rừng thông.

Miếng đánh bằng vạt áo để cướp lại người nhanh như điện, khiến cho các đạo sĩ đứng ngây người, không kịp đề phòng.

Tôn bà đi xa được vài trượng thì ba đạo sĩ tức giận hét lớn:

- Bỏ thằng ấy ra!

Dứt lời, họ hò nhau xông đến. Tôn bà ngãnh đầu lại, cười nhạt nói:

- Các người làm gì thế.

Bấy giờ Doãn-chí-Bình xông đến, nhận ra được bà lão là người đã ở lâu năm trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài, nên chẳng dám khinh thường, sợ mắc tội với tiền nhân liền ra lệnh cho các đạo sĩ kia:

- Tất cả mọi người đều phải dang ra, không được vô lễ với Tôn bà.

Đoạn Doãn-chí-Bình cúi rạp đầu làm lễ:

- Đệ tử Doãn-chí-Bình xin kính bái bậc tiền bối.

Bà lão hỏi:

- Có chi thế.

Doãn-chí-Bình thưa:

- Có thằng bé kia là đệ tử của Toàn-Chân phái, kính xin tiền bối vui lòng trả lại cho.

Tôn bà quắc mắt nghiêm nghị nói:

- Trước mặt ta, các ngươi dùng những đòn độc ác đánh nó. Nếu ta trao nó cho các ngươi mang về Trùng-Dương cung thì không biết các ngươi còn đối xử tàn ác với hắn bằng cách nào nữa. Ta nỡ lòng nào để cho đứa trẻ thơ phải chịu đày đọa oan uổng?

Doãn-chí-Bình nuốt nhục, nói:

- Thằng nhỏ nầy thực ngoan cố chưa từng thấy. Nó lừa thầy dối bạn, không còn biết lễ nghĩa, trời đất là gì. Chúng tôi răn phạt nó thì nó lại còn ươn ngạnh hơn.

Bà lão vẫn giận dữ, nói:

- Ghê gớm chưa! Nó lừa thầy bạn ư? Hay là những bậc làm anh làm cha đã lừa dối nó? Suốt nửa năm, chẳng dạy nó được một ngón võ nào, thế mà bảo nó phải ra tỉ thí với những đồ đệ hảo hán trong phái. Nó không muốn đấu mà cứ ép nó phải đấu. Đến khi đấu tất phải có kẻ hơn người thua, sao lại buộc nó vào tội ươn ngạnh? Đối với một đứa trẻ thơ như thế đó mà mọi người xúm lại đánh nó như đánh một kẻ thù thì còn mặt mũi nào dám xưng là sư phụ, sư thúc, sư bá của nó ư? Bực trên lầm lỗi bao giờ cũng đắc tội hơn kẻ dưới.

Tôn bà có nét mặt xấu xí, khi máu giận bốc lên, mặt đỏ gay, các bắp thịt nhăn nheo rung chuyển lại càng làm cho bà lão thô kịch hơn nữa. Các đạo sĩ ai nhìn vào mặt bà cũng phải rợn người.

Doãn-chí-Bình nghe bà lão nói một hồi, nghĩ bụng:

- Việc đả thương Tỉnh-Quang đâu phải là lỗi của Dương-Qua, chỉ tại những người đứng xem kích bác.

Nghĩ như vậy, hắn nói:

- Việc phải quấy chúng tôi cần trình với vị đạo trưởng chúng tôi phân xét. Bây giờ xin kính lão tiền bối giao trả Dương-Qua thôi.

Tôn bà cười nhạt nói:

- Toàn-Chân môn phái từ Vương-trùng Dương trở về sau không có lấy một người xứng đáng. Bởi thế tuy bọn ta ở gần mà chẳng bao giờ lui tới.

Doãn-chí-Bình nghe nói, bảo thầm:

- Lỗi ấy do mộ đài đâu phải lỗi của bọn ta không lui tới.

Tuy nghĩ thế, Doãn-chí-Bình cũng chẳng muốn biện luận làm gì với bà lão, chỉ muốn bà lão trả Dương-Qua lại cho xong việc bèn nói xuôi:

- Lão tiền bối là bậc tài cao đức trọng, nếu trong phái Toàn-Chân chúng tôi có điều gì sơ xuất dám xin lão tiền bối nói với đạo trưởng chúng tôi để răn dạy, và cũng để có dịp chúng tôi đến tạ tội cùng bậc tiền bối và Long cô nương.

Giữa lúc đó, Dương-Qua đang được Tôn bà bế ngang hông, kề tai nói nhỏ:

- Thưa Tôn bà, lão đạo sĩ nầy quỉ quái lắm, nhiều mưu kế thâm độc lắm, xin Tôn bà hãy cẩn thận kẻo lầm mưu đó.

Tôn bà thấy thằng bé đối với mình thân thiết chẳng khác tình bà cháu ruột thịt, lấy làm thích thú, nghĩ bụng:

- Dù chúng có nói đến đâu ta cũng không thể trao trả thằng bé nầy cho chúng hành hạ được.

Tôn bà nói lớn:

- Ngươi định đem thằng bé nầy về Trùng-Dương-cung để đối phó với nó chớ gì. Trời ơi! làm bậc sư phụ lại phải đối phó với đệ tử, đối phó với con nít ư?

Doãn-chí-Bình nói:

- Đệ tử đây với cha đứa bé xưa kia vốn là tình đồng môn. Nay cha nó mất đi, nó là đứa con côi cút, đệ tử nỡ nào quên tình cha nó mà xử tệ với nó. Xin trưởng lão cứ an tâm.

Bà lão lại lắc đầu nói:

- Già này vốn chẳng ưa kẻ khác nói nhiều lời.

Nói đoạn Tôn bà bồng Dương-Qua rảo bước vào rừng.

Bấy giờ Triệu-chí-Kính đang bị ong độc cằn, được mọi người cứu chữa gần đấy. Tuy Triệu-chí-Kính vẫn còn đau đớn khó chịu, tỉnh mỉnh tâm thần. Khi nghe bà lão nói, Triệu-chí-Kính nghe rõ và không đằng được sự căm tức, liền vùng dậy chạy về hướng Tôn bà quát lớn:

- Thằng nhỏ kia là đệ tử của ta, muốn đánh muốn mắng chưởi nó là do quyền ta quyết định. Ai ngăn cản sư phụ không cho trừng phạt đệ tử tất kẻ ấy không biết điều.

Bà lão thấy Triệu-chí-Kính nhảy lồng lộn như đứa mất trí, lại nghe giọng nói hỗn láo ấy biết hắn là sư phụ của Dương-Qua, và lời Dương-Qua là đúng, nên chẳng thèm phân lời hơn thiệt, cất tiếng nói:

- Ta chẳng để cho ngươi có quyền, ngươi làm gì ta.

Triệu-chí-Kính đỏ ngầu đôi mắt, quát:

- Đứa bé đó là đệ tử của ta. Bà có can hệ gì đến nó? Bà có quyền gì giữ lấy nó.

Tôn bà giọng run run, đáp:

- Từ trước nó đã không phải là người trong môn phái Toàn Chân. Nó đã tôn Tiểu-long-Nữ làm sư mẫu, Tiểu-long-Nữ trong mộ đài có quyền định đoạt số phận của nó, các ngươi không có quyền.

Các đạo sĩ nghe bà lão nói đều nhốn nháo lên.

Bởi vì theo quy tắc trong võ lâm, một đệ tử đã nhận ai làm thầy rồi thì không có quyền chạy sang thầy khác khi không có sự đồng ý của thầy trước. Trái lẽ đó sẽ bị ghép vào tội bội nghịch. Ngược lại, các bậc thầy cũng không có quyền nhận đệ tử của kẻ khác làm đệ tử của mình khi chưa được vị thầy trước yêu cầu. Hơn nữa, một đệ tử người nầy sang học người khác cũng không được gọi người khác bằng sư phụ. Trong đời võ chỉ được gọi một người bằng sư phụ mà thôi. Ví như Quách-Tỉnh trước kia đã làm lễ thụ giáo Giang-Nam thất tử, sau đến học Hông-thất-Công, vẫn không được gọi Hông-thất-Công là sư phụ. Mãi đến Kha-trấn-ác vì có sự dàn xếp chính thức với Thất tử, thỏa thuận phân công nên mới gọi Kha-trấn-ác là sư phụ.

Tôn bà bị Triệu-chí-Kính vặn hỏi, không biết trả lời làm sao phải nói bừa như thế, bà không biết rằng nói như thế là trái với quy tắc trong võ lâm. Hơn nữa, bà lão tự thuở nay có bao giờ giao thiệp với người ngoài đâu mà hiểu biết quy tắc.

Các đạo sĩ trong phái Toàn-Chân nghe bà lão nói, ai cũng tỏ vẻ cấm tức, bởi vì bà đã công khai phản lại luật lệ của tổ sư.

Triệu-chí-Kính cắn răng cố nhịn đau, thét hỏi Dương-Qua:

- Dương-Qua! Có đúng thế chăng? Có phải mày đã nhìn nhận Tiểu-long-Nữ làm sư phụ chăng?

Dương-Qua chỉ là một đứa bé, đâu biết trời đất là gì. Nó thấy ai bênh vực cho nó thì nó hưởng ứng nói theo.

Bởi vậy nó gườm mắt nhìn Triệu-chí-Kính, quát lớn:

- Đạo sĩ khốn kiếp kia! Cả bọn đánh ta, ta còn làm sao nhận là thầy được! Ta đã bái lạy Tôn bà làm sư mẫu và cả Tiểu-long-Nữ cô nương nữa.

Lửa giận xông lên ngùn ngụt ở họng ở cổ, Triệu-chí-Kính như muốn xé tung lồng ngực, Triệu-chí-Kính vùng dậy như một con hổ đói, lấy tay xỉa về phía bà lão.

Tôn bà mắng lớn:

- Súc sanh! Ngươi muốn làm gì ta?

Rồi bà lấy tay gạt phắt Triệu-chí-Kính ra.

Triệu-chí-Kính vốn là một tay cự phách trong phái Toàn-Chân so với những người trong hàng đệ tam đại đệ tử. Bởi vậy mặc dù đang bị thương, Triệu-chí-Kính ra quyền vẫn còn mãnh liệt lắm.

Sau một đòn chạm nhau, cả hai bên đều lui về một bước để thủ thế.

Tôn bà lườm mắt nhìn Triệu-chí-Kính nói:

- Khá khen mi cũng là tay bản lĩnh, không phải là tầm thường.

Triệu-chí-Kính lại xông vào xỉa một đòn thứ hai nữa. Nhưng ngón đòn này cũng bị Tôn bà đánh vẹt ra.

Lấy làm uất ức, Triệu-chí-Kính lấy toàn lực tấn công đòn thứ ba nữa.

Lần nầy Tôn bà không gạt, né sang một bên vút vạt áo tung ra, Triệu-chí-Kính nghe tiếng gió toan tránh sang một bên thì bỗng nhiên đến lúc cái vết độc trong người trở lại hành hạ làm cho Triệu-chí-Kính đau nhức không chịu nổi, ôm đầu ngồi phịch xuống đất.

Tôn bà tiến đến đá vào mông Triệu-chí-Kính một đá làm cho Triệu-chí-Kính tung bổng lên trời như một trái banh, tiếng la ú ớ không dứt.

Thấy vậy các đạo sĩ hô nhau lập bày thế trận Bắc-đẩu để đối phó với Tôn bà.

Tuy Tôn bà không biết đến trận Bắc-đẩu, song chỉ giao đấu vài hiệp, bà lão đã biết thế trận lợi hại như thế nào rồi. Tay trái bà phải bồng Dương-Qua chỉ còn có một tay mặt để ứng phó với đối phương mà thôi.

Sau khi đánh tới hiệp thứ mười ba, bà lão đã bị thế trận vây hãm, buộc bà ở trong tình trạng hiểm nghèo.

Thật ra, nếu đem tài võ nghệ của từng mỗi đạo sĩ ra mà so sánh thì trong bọn còn kém thua bà lão nhiều. Nhưng nhờ thế trận Bắc-đẩu bảy người hợp sức lại thành một, nên mãnh lực phi thường, trận thế nhờ đó biến chuyển theo lối liên hoàn làm cho bà lão ở trong thế "mãnh hổ nan địch quần hồ".

Mỗi ngọn cước Tôn bà công kích đều bị Doãn-chí-Bình chỉ huy trận thế một cách linh diệu, giải vây một cách dễ dàng.

Còn thế công của Bắc đẩu trận luôn luôn liên tục, không hề gián đoạn. Bởi vậy, chỉ đánh thêm mười hiệp nữa, là Tôn bà bị hai đạo sĩ khóa được tay phải, mé hông trái lại bị hai người nữa công kích bằng những đòn bổ thượng.

ở vào thế bắt buộc, Tôn bà phải buông Dương-Qua ra để được rảnh tay ứng chiến.

Nhưng bà vừa buông Dương-Qua thì bỗng nghe một tiếng huýt hai đạo sĩ xông đến bắt Dương-Qua.

Tôn bà nghĩ bụng:

"Dương-Qua mắng bọn đạo sĩ kia là khốn khiếp thật cũng đúng. Ta không ngờ bọn chúng lại nhiều thù oán với thằng bé như thế".

Đoạn , bà lão tung vạt áo quất đuổi hai người , mồm ngân lên mấy tiếng o ! o !. Tiếng ngân lúc đầu nhỏ sau lớn dần .

Doãn-chi-Bình đã rõ được tài nghệ của lão bà nên từ lúc giao đấu đến giờ hết sức thận trọng . Doãn-chí-Bình thừa hiểu vị tiền bối kia từ xưa đến nay cư trú trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài , so với vị tổ sư sáng lập ra môn phái Toàn-Chân thì tài nghệ kể cũng suýt soát , chỉ vì bà lão già nua vậy thôi .

ấy vậy , muốn thắng bà lão đâu phải chuyện dễ , dẫu rằng với thế Bắc đảu trận.

Lúc nghe tiếng o ! o ! o ! Doãn-chí-Bình tưởng rằng đó là một phép " truyền âm nhiếp tâm " để điều hoà hơi thở và ổn định tâm thần , phòng bị địch nhân dùng pháp thuật chế ngự , nào ngờ đâu những âm thanh ấy mỗi phút một lớn dần , rồi gây nên một biến cố làm cho các đạo sĩ phải kinh hoàng khiếp vía.

Thần Điêu Đại Hiệp : Hồi 13 Mộ đài Hoạt Tử Nhân

Tiếng ngân o ! o ! o ! của bà lão hoà với tiếng vo vo từ đằng xa vọng lại.

Doãn-chí-Bình thất sắc ra lệnh cho cá đạo sĩ :

- Toàn thể hãy rút lui lập tức .

Mọi người nghe hiệu lệnh ngẩn người ra , không hiểu tại sao bọn chúng đang thắng thế , bà già kia chỉ ngân mấy tiếng o ! o 1 o 1 mà phải rút lui , sợ sệt .

Thì ra , một bầy ong trắng nhấp nhó trong ánh trắng đang tiến đến vun vút . Chỉ phút chốc , bầy ong đã bủa vây trên đầu các đạo sĩ .

các đạo sĩ đã chính mắt trônt thấy Triệu-chí-Kính bị ong cắn đau đớn thế nào rồi nên lúc thấy bầy ong , ai nấy thất sắc , cắm đầu chạy không dám ngoảnh cổ lại .

Đàn ong trắng cố sức bay nhanh đuổi theo.

THấy các đạo sĩ không thể nào tránh nổi ong độc đốt , bà lão mỉm cười sung sướng .

Giữa lúc nguy biến đó , bỗng phía trùng-Dương cũng xuất hiện một đạo nhân râu tóc bạc , hình dung quắc thước , tay cầm một cây đuốc , lửa cháy ngùn khói toả um tùm . chạy đến nung vào bầy ong đốt , Bầy ong trắng bị khói lửa liền bay tứ tán vào rừng hết .

bà lão trông thấy ngạc nhiên , cất tiếngh ỏi lớn ;

- lão đạo sĩ kia là ai mà dám cả gan phá hoại bầy ong của ta ?

Vị đsạo sĩ ấy , sau khi xua đuổi bầyong , bước đến trước mặt bà lão , vừa cười vừa nó :

- Bần đạo chính là Xích-đại-Thông , kính chào Tôn bà đó .

Tôn bà xưa nay không tiếp xúc với người trong phái võ lâm song vì ở gần Trùng-Dương cung nên có nghe danh Xích-đại-Thông là một tay trong bảy cao sư đại đệ tử của Vương-trùng-Dương , czo thủ trong Toàn-Chân phái .

Thấy Xích-đại-Thông uy dũng như thế , Tôn bà liên tưiứng đến Doãn-chí-bình và các đạo sĩ đồng hạng khác không phải là những tay tầm thưoừng .

trong lúc đó , đằng sau Xích-đại-Thông có một đạo sĩ nói lớn :

- Khưu , Vương sư huynh ! Chúng ta có thể dừng chân nơi đây mà không sợ bị ong đốt nữa đâu .

Xích-đại-Thông quay lại nhìn thì thấy Khưũ-ứ-Cơ cà Vương- xứ-NHất , hai người này quần áo còn vương nté bụi đường chưa phai , liền hỏi :

- ủa ! Sư huyenh Khưu , vương đã về đến rồi sao . Cuộc du hành có gì lạ không ?

KHông đợi Vương xứ Cơ và vương xứ nhất đáp lời , Xích đại Thông quay lại nhìn Tôn bà thì bấy giờ Tôn Bà đá mất dạng .mọi người chỉ nghe trong phía rừng sâu có tiếng cười the thé của bà lão .

Doãn chí Bình nói :

- Xích sư thúc ! Chúng ta có đuổi theo chăng ?

Xích đại Thông lắc đầu đáp :

- khôn nên ! Tổ sư chúng ta đã căn dặn không ai được rừng . Chúng ta nên trở lại võ điện hội kiến rồi lo liệu .

Lúc đó Tôn Bà đã bồng Dương Qua trở lại Hoạt tử Nhân mộ đài .

Qua một cơn biến cố , hai bà cháu càng quyến luyến nhau hơn trước . Dươmng Qua lòng hồi hopọp , không biết Tiểu long Nữ có bằng lòng cho mình lưu trú chăng nên nét mặt dàu dàu .

- Không sao ! Cháu cứ yên tâm , bà sẽ tìm cách nói thế nào cho cô nương phải chấp nhận.

kế đó , bà lão dặn Dương Qua ngồi ở phòng ngoài , còn bà vào một mình để bàn bạc với Tiểu long Nữ .

Một lúc sau , Dương Qua chờ mãi không thấy bà lão ra , lòng nó nghĩ mniên man , hết chuyện nọ sang chuyện kia , bụng bảo da j :

- Thế này chắc là Long cô nương không bằng lòng nhận mình ở lại đây rồi . Nếu để Tôn bà cứ ép cô nương tức là mình đã làm phiền lòng luôn cả hai người . Như vậy đâu phải mình báo ân họ .

Nghĩ vậy , dương Qua quyết rời khỏi mộ đài . Nó đứng dậy đi ra .

vừa ra đến cửa thì Tôn Bà đã hơ hãi chạy đến hỏi nó :

- Cháu đi đâu thế ? Phải cháu tìm ta chăng ?

Dương Qua rơm rớm nước mắt nói :

- Thưa Tôn bà , cháu đi đây ! Cháu đã lớn rồi chẳng lẽ cứ làm phiền đến Tôn bà mãi sao ?

Tôn bà nói :

- Không 1 Ta phải đưa cháu đến gửi một nơi nào và phải làm thế nào để họ thành tân dạy dỗ cháy mai sau trở nên ngwoif .

Nghe Tôn bà nói vậy , Dương Qua biết Tiểu long nữ không muốn cho nó trú tại mộ đài , lòng nó se thắt , một nỗi buồn vô hạn từ đâu đột nhập vào người nó . Nó cúi đầu nói :

- Cũng chẳng sao ạ ? Chãu là một đứa bé hư hỏng thì dầu đến đâu cũng chẳng ai ưa cháu . Dám xin Tôn bà đừng vì tình thương cháu mà phí công .

Lời nói như hờn dỗi ấy đã làm cho lòng bã lão đau đớn .

Bà lão vốn là người nhanh chân nhẹ miệng dễ vui mà cũng dễ cảm động . Sau khi thuyết phục Tiểu long Nữ mà nang cứ nhất định không cho Dương Qua ở lại , bà lão đã có ý giận hờn , bây giờ nghe Dương Qua nói , bà lão gắt lên :

- Thôi được , bà cháu ta cùng ra đi . Cháu ở chốn nào ta ở chốn nấy , miễn bà cháu ta được gần gũi nhau .

Thật ra , tánh tình một bà già có khác . Do cái bất thường ấy mà người đời có câu " già trẻ đồng nhau " .

Dương Qua mừng rỗ , trố mắt nhìn bà lão tươi cười hỏi :

- Bà thương cháu đến thế sao ? Nếu bà đi theo cháu rồi bỏ cô nương cho ai ?

Bà lão nói :

- Ta nuôi cô nương từ lúc nhỏ đến giờ . Nay cô nương đã lớn rồi , không cần đến bà cũng được . Còn cháu , cháu quá nhỏ dại , nếu để cháu ra đi một mình tất bị cúng hà hiếp .

Giọng nói của Tôn bà run lên vì cảm động .

Hai bà cháu dắt nhau ra cửa mộ . Trong lúc bực tức , bà lão không đem theo gì cả . Bỗng sực nhớ đến Triệu chí Kính bị thương vì nọc độc , bà lão lẩm bẩm :

- Hắn ta là người ác song cũng chưa đáng tội chết . Nếu không đưa một ít mật ong để cứu hắn thì không thoát khỏi tay tử thần .

bà lão quay vào lấy ra một hũ mật rồi dăt tay Dương Qua tiến bước về Trùng Dương cung .

Bây giờ , Trùng Dương cung tuy đã sửa sang lại rồi song so với lúc trước thì khoong qui mô bằng . Các vách tường , các mái ngói đều kém vẻ uy nghi .

Thấy Tôn bà cứ hướng về phía Trùng Dương cung mà đi , Dương Qua nắm tay bà nói :

- Thưa Tôn bà , tại sao Tôn bà lại đến đó .

Tôn bà nói :

- Ta đến để cho họ một ít thuốc .

Dương Qua tin ở lòng tốt của Tôn bà nên khong có ý nghĩ gì , ngoan ngoãn bước theo .

Chỉ chốc lát , hai bà cháu đến trước một ngôi võ điện , Tôn bà nhảy qua tường nơi chánh điện mà vào .

Bỗng một hồi chuông rung lên làm chuyển động cả núi rừng , Hồi chuống đó là hồi chuông báo động .

Tức thì xa gần có tiếng người lao xao , bầu không khí tĩnh mịch trở nên náo loạn . Tôn bà tuy là người võ nghệ cao cường đảm lược có dư cũng không khỏi rợn người .

Cũng nên biết rằng Toàn Chân môn phái là một môn phái lớn trong võ lâm . Ngày thường lối canh phònh cẩn mật rồi , những ngày gần đây có nhiều biến cố xảy ra nên việc canh phòng lại còn thận tỷọng hơn gấp bội . Bốn bề tmá hướng đều có người canh gác . Hễ trông thấy một bóng người nào bén mảng là lập tức báo động không những ở phía trong các đạo sĩ phân công rõ ràng nghênh địch mà phía ngoài một số đạo sĩ đã bố trí sẵn sàng để bao vây .

Tôn abf thấy sự thế như vậy , lòng bị dao động song vẫn lớn tiếng nói :

- Triệu chí Kính đâu rồi ? Mau ra ngay ! Ta có chuyện nói vơi ngươi .

Trên nóc đại điện có một đạo sĩ tuổi đã trũng niên ứng khẩu đáp :

- kính thưa tiền bối ! Chẳng hay đêm khuya tiền bối có điều gì đến đây chỉ giáo .

Bà lão giơ chiếc bình mật ong ra trước mặt nói :

- Đây là thuốc trị nọc độc ong . Hãy mầm lấy mà mang vào cho Triệu chí Kính .

Dứt lời , bà lão ném chiếc bình mật ong đến cho đạo sĩ đó .

Đạo sĩ đưa tay bắt lấy nhưng lòng bán tín bán nghi tự hỏi :

- Lại cho thuốc ư ? sao bà ta lại tốt như thế nhỉ ?

Rồi sang sảng nói :

- Thưa tiền bối ! Thuốc này là thuốc gì vậy ?

Bà lão nói :

- Hỏi làm chi cho nhiều lời , cứ đem vào cho hắn uống tự nhiên sẽ biết .

Lời nói của Tôn bà khiến cho đạo sĩ kia thêm nghi . Hắn nói :

- Tôi chẳng biêt đây là lòng tốt hay ý độc . FFây là thuốc giải hay thuốc ddoocj .triệu sư huynh tôi đối với Tôn bà không được xúng ý mấy , lẽ nào có thể nhận được tấm lòng Bồ tát của Tôn bà ?

Tôpn bà vốn tính thẳng , đã đem thuốc giúp người mà bị người ta nghi kỵ lấy làm tức , không kiềm nổi giận dữ , bỏ Dương Qua nhảy lên phía trước giành lấy bình mật ong , quay sang bào Dương QUa :

- Cầm lấy , mở ra !

Dương Qua chẳng hiểu dụng ý của Tôn bà , hể bảo đâu làm đó , nó mở nút bình .

Tôn bà dốc cả bình mật ong vào môm Dương Qua và nói :

- Càng tốt phải không cháu ? Bị người ta nghi ngờ là độc dược thì thôi , mình uống hết đi có sao ?

Dứt lời , bà cầm tay dương Qua dắt ra phía ngoài tường .

đạo sĩ kia thấy Tôn bà lấy lại bình thuốc cho dương Qua uông biết không phải là thuốc độc nhưng đã trễ . đạo sĩ lại nghĩ đến bệnh tình của Triệu chí Kính nếu khômng có thứ thuốc kia thì khó mà khỏi đưọc , liền phóng đến đón Tôn bà lại , nói :

- Thưa Tôn bà , có gì mà Tôn bà phải giận dữ đến thế ? Tôi buộc mồm nói một câu vô lễ xin Tôn bà miến chấp mà ban cho bình thuốc giải độc kia .

Tôn bà nghe giọng nói cuả đạo sỹ càng thêm chán ghét , cười nhạt nói :

- Ta chỉ có một bình thuốc mà thôi , dâu có nhiều mà cho nưqã . nếu Triowuj chí Kính có mệnh hệ nào thì là lỗi ở ngươi tất cả đó .

Dứt lời , bà lão dùng mu bàn tát vào mặt đạo sĩ một cái mắng :

- Ngươi không biết kính trọng bậc tiền bối ! Ai dạy ngươi những cử chỉ vô lễ thế ?

Cái tát cấy quá mạnh và quá nhanh , đạo sĩ kia không tránh được , để trúng vào phía thái dương đau nhói . Đạo sĩ ngã quỵ xuống đất kêu cứu .

Hai đạo sĩ đứng ngoài nghe tiếng kêu thất thanh biến sắc lẩm bẩm :

- Lại gây rắc rối với vị tiền bối rồi .

Đoạn hai người tiến vào , một người bên mặt , một người bên trái tấn công bà lão .

Tôn bà thấy hai ngườ xuất thủ , biết ngay họ dùng thế trận Bắc đẩu vô cùng lợi hại nên chẳng muốn nghênh chiến , vội cắp Dương Qua nhảy thoát lên tường .

Nhìn về phía chân tường không thấy bóng người , bà lão toan nhảy xuống thì bỗng có một giọng quát lớn :

- Xuống ngay .

Tiếng hét vừa dứt thì bõng một đạo nhân xuất hiện . Hanứ chuyển khí và giơ cả hai tay ra , trong lúc Tôn Bà còn lơ lửng trên không , nhảy chưa xuống đất , tay mắc cặp Dương Qua chân không chỗ dựa để đối phó với đòn chưởng ấy .

Tuy vậy Tôn bà vẫn lách người đi tránh được sức mạnh của đối phương .

Khi Tôn bà xuống đến mặt đất thì lại bị sức công của bày đạo sĩ đánh một lượt , bà lão chỉ còn có cách luig lại để tránh .

Mấy người này dồn cả nội khí ra ép bà lão vào góc tường .các đạo sĩ này thuộc vàop hàng đệ tam đại đệ tử là những tay cự phách , giữ nhiệm vụ đứng phònh thỉ bên ngoài võ điện .

Qua một lúc giao đấu , có lúc tiến , có lúc thoái , bà lão vẫnk hông nao núng . Các đạo sĩ sở dĩ dồn vào được tận góc tường là vì bà lão một tay mắc bồng Dương Qua còn một tay ddể đối phó . Nếu không , bảy đạo sĩ kia không làm sao địch nổi bà .

Qua mười hiệp đấu , người chỉ huy phòng thủ là Trướng chí Quang được biết đối phương không thể nào làm gì hơn được , bèn ra lệnh đốt đèn lên để vây hãm bà lão .

CHỉ mười chiéc lồng đèn ánh sáng đủ làm rực rỡ một phía góc tường .

Bây giờ nét mặt xấu xí của bà lão đượm vẻ buồn lành lạnh làm cho ai troiong thấy cũng phải khiếp sợ .

Trương chí Quang ra lệnh cho các đạo sĩ khép chặt vòng vây chỉ giữ bà lão không cho thoát chứ không tấn công nữa .

Các đạo sĩ được lệnh liền nhảy lùi lại , rút tay về trước ngực để nhận điện lực của mình quy hồi nội thân , đứng giữ thế thủ .

Tôn bà thấy vậy cười nhạt nói :

- Toàn Câhn môn phái vang danh tron thiên hạ , thật chẳng lưu truyền . Mây thanh niên vây đánh một bà già và một đứa con nít , cử chỉ bắt nạt như thế có anh hùng chăng ?

Trương chí Quang mặt mày đỏ lên vì hổ thẹn , gượng gạo nói :

- Chúng tôi có nhiệm vụ canh gác nơi võ điện này , bất kỳ kẻ lạ mặt nào đến đều phải bị giữ lại . Bà đã ngang nhiên vào thì phải cúi đầu mà ra .

Tôn bà cười ha hả nói :

- Thế nào ? Ngươi bảo ta phải cúi đầu mà ra ư ?

Dứt lời , bà lão xông tới đánh vào mặt Trương chí Quang một chuỳ đau nhói lên .

Trương chí Quang không kịp né tránh cú đánh bất ngờ ấy , vận nội công chịu đựng .

Đợi cho hết đau , Trương chí Quang tiến tới một bước nói :

- Có khó khăn gì đâu mà bà phải giận dưqx . Nếu bà làm đúng ba điều kiện này chuíng tôi sẽ mở rộng vòng vây cho bà trở về mộ đài .

Bà lão hỏi :

- Ba điều kiện gì vậy ?

Trương chí Quang nói :

- Điều thứ nhất bà phải đưa chai thuốc giải độc để cứu chữa cho Triệu chí Kính . Điều thứ hai bà phải hoàn trả đứa bé kia cho môn phái Toàn Câhn vì nó là đệ tử của môn phái Toàn Câhn , chỉ có những người trong môn pháiToàn Chân mới có quyền định đoạt số phận của nó . Điều thứ ba là bà đã đương nhiên đột nhập vào Trùng Dương Cung mà quỳ gối tạ tộ .

Tôn bà cất tiếng cười hề hề , nói :

- ta cũng phải về báo cho Tiểu long Nữ cô nương rằng các đạo sĩ Toàn Chân không có ai lầm lỗi chi cả chỉ có già này lầm lỗi mà thôi . Thôi lại đây , ta xin cúi đầu đền tội với ngươi .

Dứt lời , bà lão quỳ gối xuống đất làm cho Trương chí Quang không ngờ ngỡ rằng bà đã nhậ lỗi . Bỗng nhiên từ phía sau lưng Tôn Bà , một mũi tên bắn ra trúng vào hàm bên trái của Trương chí Quang . Tên bắn nhanh quá sức , Trương chí Quang không tránh kịp chỉ biết kêu lên một tiếng " ối trời ". http://hello.to/kimdung

Thứ khí giới bí ấy làm cho mọi người xôn xao , sửng sốt , không ai hiểu ra sao cả .

Thực ra Tôn bà đã để sẵn một chiếc cung trong lưng áo , lúc cúi xuôpngs cánh cung bị hai vai ấn xuống , dẩy dây cung bất lên , tên chọc qua khỏi lằn vải mà bắn tra . Cái khó là làm sao xử dụng được hai vai ấn trúng cánh cung không động đến giây cung và làm sao cúi xuống vừa tầm để nhắm trung kẻ địch . Tôn bà trong bụng muốn bắn vào cổ họng Trương chí Quang nhưng đã nhắm sai bắn trúng lên quai hàm.

Lúc đó, các đạo sĩ đều cung kiếm một lên lượt. ánh kiếm loang loáng khắp nơi. Tôn bà dựa vào tường để giữ thế thủ, và mỉm cười đoán biết câu chuyện ngày hôm nay còn dây dưa rắc rối hơn thế nữa. Bẩm tính của bà lão vốn chẳng bao giờ chùn chân trước khó khăn, và khuất phục trước uy vũ, cho nên bà lão quay sang nói với Dương-Qua:

- Cháu có sợ chăng?

Dương-Qua lúc đó thấy bọn đạo sĩ tuốt kiếm ra, phủ vây bốn phía, nghĩ thầm:

- Nếu chú Quách-Tỉnh mà gặp trường hợp nầy thì bọn đạo sĩ khốn kiếp kia phải tan xương nát thịt tức thì. Còn Tôn bà tuổi tác quá già nua, chẳng biết có đối phó với chúng được không?

Nghe Tôn bà hỏi, Dương-Qua dõng dạc đáp:

- Dám thưa Tôn bà, xin Tôn bà để cho cháu xông ra, dẫu chúng có giết cháu cũng được, cháu chẳng bao giờ sợ chết.

Tôn bà thấy thằng bé can đảm khác thường, vì mình mà nó liều chết, lòng lại thấy thương yêu hơn nữa.

Bà lão nói:

- Bà đâu có để cháu chết nơi chốn nầy để chúng hả lòng hả dạ?

Đột nhiên, bà lão quát lớn lên một tiếng, tức thì hai thanh kiếm của đối phương lọt vào tay bà. Bà lão lại tung mình tới dùng chân đá vào một huyệt ở cổ tay một đạo sĩ làm cho đạo sĩ ấy bủn rủn phải buông kiếm ra. Nhanh như chớp, bà lão đoạt thanh kiếm giắt vào mình, rồi lại tung người sang phía khác nắm lấy cổ tay một đạo sĩ nữa. Tay bà vừa rờ đến thì thanh kiếm của đạo sĩ ấy không còn hiệu lực, phải rời ra khỏi bàn tay lập tức.

Chỉ loáng mắt, bà lão đã đoạt bốn thanh kiếm của bốn đạo sĩ như chơi.

Các đạo sĩ thấy lối thoát của bà lão vô cùng lợi hại, đều trố mắt nhìn, lấy làm kinh ngạc.

Tôn bà trao cho Dương-Qua một thanh kiếm và nói:

- Cháu có dám ra tay với những tên đạo sĩ hèn hạ này chăng?

Dương-Qua thưa:

- Thưa Tôn bà, họ là kẻ hèn hạ, cháu dẫu là đứa trẻ thơ vẫn không sợ họ bao giờ. Nhưng cháu chỉ tiếc thiếu mặt một người...

Bà lão hỏi:

- Người nào? Người ấy là ai?

Dương-Qua nói:

- Người ấy là một kẻ biết sỉ nhục, rõ được lẽ phải trái. Người ấy sẽ chứng kiến cái uy dũng của phái Toàn-Chân ngày hôm nay ra tài để uy hiếp một bà lão và một trẻ thơ.

Dương-Qua tuy còn bé song nó lanh lợi lắm. Qua một hồi nghe Tôn bà và Trương-chí-Quang đối đáp, nó khai thác được chỗ yếu của đối phương. Vì vậy nó đã đánh một đòn tâm lý vào các đạo sĩ trước mặt nó.

Quả nhiên danh dự của các đạo sĩ bị chạm! Câu nói của nó đã làm cho các đạo sĩ Trùng-Dương cung nổi lên lòng tự ái. Họ nhìn nhau bàn tán:

- Hay là chúng ta vào trình với sư trưởng quyết định.

Trương-chí-Quang từ lúc bị trúng tên đau buốt, đau mỗi lúc một tăng, lòng lại sợ bà lão dùng tên độc thì bỏ mạng nên hắn cố bắt sống bà lão cho được để đổi thuốc giải độc.

Hắn nói:

- Chúng ta cứ bắt sống cho được bà lão trước đã, rồi sẽ trình cùng sư trương cũng chẳng muộn.

ấy chỉ vì Trương-chí-Quang nghĩ sai lầm mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc.

Hơn nữa, lúc bấy giờ Mã-Ngọc, người điều khiển nơi Trùng-Dương cung lại mắc đi ra ngoài mười dặm để tu tỉnh, việc trong Trùng-Dương điện giao cho Doãn-chí-Bình định đoạt. Nếu Mã-Ngọc hay được chuyện ấy hắn đã tìm cách dàn xếp, không dám vô lễ với Tôn bà.

Tiếc thay! Mã-Ngọc không có ở đây, Trương-chí-Quang vì sợ chết quên các nghĩa nhân, còn Xích-đại-Thông thì tánh tình nóng nảy, không suy trước tính sau.

Trận Bắc đẩu lần lần thu hẹp lại. Tuy vậy, Tôn bà cũng bị bó tay vì vướng Dương-Qua. ấy thế mà các đạo sĩ kia không thể tiến quá ba thước sát bà, vì bà đã thủ một thế rất lợi hại.

Nếu trận đấu đó chính Trương-chí-Quang điều khiển thì thế trận sẽ biến hóa vô cùng lợi hại. Đằng này Trương-chí-Quang bị thương, lòng nơm nớp lo sợ, vết thương mỗi lúc một đau, máu cứ rơm rớm chảy mãi, nên Trương-chí-Quang không dám ra trước trận tiền, chỉ đứng một chỗ hô hoán. Do đó uy thế Thiên cang Bắc đẩu trận bị sút giảm đi nhiều.

Phần khác, các đạo sĩ đánh mãi không thắng, lòng rất hoang mang.

Bà lão lợi dụng cơ hội ấy, hét lên một tiếng, buông thanh trường kiếm xuống, xông vào giữa rừng gươm thộp cổ một đạo sĩ ít tuổi lôi ra khỏi vòng vây, và nói:

- Nhãi con khốn kiếp! Bây giờ là lúc chúng bay phải nhường đường cho ta đi.

Thế trận bị rối loạn. Tôn bà toan phi thân nhảy ra ngoài vòng chiến thì đàng sau bỗng có một người xuất hiện, nắm lấy cổ tay bà lão, làm cho bà lão đau buốt phải buông đạo sĩ kia ra để tự vệ.

Nhanh như chớp, Tôn bà tấn công vào kẻ mới đến một đá. Người mới đến đưa tay chận được đòn cước của ba lão rồi đánh trả lại một đòn.

Khí lực hai bên chạm nhau làm cho mỗi người phải dang ra mấy bước. Tôn bà nhìn đối phương nghĩ thầm:

- Chà! Tay nầy cũng cừ khôi lắm!

Người kia, sau khi lùi lại mấy bước đã vận dụng nội công kịp liền tấn công vào bà lão một đòn thứ hai. Bà lão đưa hai bàn tay ra trả miếng lại, nhưng lần nầy bà lão phải lùi thêm hai bước. Đối phương tiến tới và vận dụng sức lực đánh ngón đòn thứ ba. Ngón đòn nầy còn nặng hơn gấp mấy lần hai ngón đòn trước. Bà lão bị ép vào chân tường, tâm thần không còn được thư thái nữa.

Thấy đối phương hung hăng và lợi hại, bà lão liếc nhìn dung mạo thấy đó là một đạo sĩ tóc bạc râu dài, thân hình quắc thước, chính là đạo sĩ đã dùng đuốc để xua đuổi bầy ong bạch, tên hắn là Xích-đại-Thông vậy.

Nội công của Xích-đại-Thông rất thâm hậu, nổi tiếng trong phái Toàn-Chân, còn bà lão tuy võ nghệ cao cường song tuổi tác già nua làm sao địch lại. Nếu Xích-đại-Thông vận dụng hết nội công thì Tôn bà lùi bước là phải.

Tuy nhiên, Tôn bà bổn tính cương ngạnh, thà chết chứ chẳng khuất phục ai, bà nói lớn:

- Ta nhất định giữ đứa bé nầy. Nếu ngươi muốn bắt nó lại thì hãy giết ta trước đã.

Xích-đại-Thông biết Tôn bà đối với Tổ sư Vương-trùng-Dương trước kia ân nghĩa thật sâu xa, nên chẳng dám đem hết sức mình làm cho bà lão bị tổn thương, liền ôn tồn nói:

- Chúng ta từ mấy chục năm nay là chỗ lân cư, lẽ đâu chỉ vì một đứa bé dại khờ kia mà để mất hòa khí?

Tôn bà cười nhạt, nói:

- Ta đến đây với tất cả thịnh tình giao hảo nên mang theo thuốc giải độc để cứu Triệu-chí-Kính. Ngươi hỏi lại tên đệ tử của ngươi ăn nói với ta như thế nào?

Xích-đại-Thông chưa kịp đáp lời thì bà lão đã tung người lên, dùng chân đá vào bụng dưới Xích-đại-Thông một đòn rất mạnh.

Ngón cước ấy nhanh như điện, lẹ làng đến nỗi chân đá mà kiếm không kịp tung lên. Ngón đá ấy bà lão đã dày công tu luyện được mệnh danh là ngón "Quần lý thối" nghĩa là đã ngầm trong mộng.

Ngọn đá trúng vào bụng dưới Xích-đại-Thông đánh nhói một cái. Xích-đại-Thông hứng chịu, không kịp lùi lại để làm giảm bớt sức mạnh.

Tuy nhiên, là một đệ tử cao thủ của Vương-trùng-Dương, đã nhiều kinh nghiệm giao đấu với các bậc anh hùng trong thiên hạ, Xích-đại-Thông dù có bị đau cũng đã quen chịu. Vả lại sức nội công của Xích-đại-Thông rất mực uyên thâm nên không làm cho hắn giảm mất nhuệ khí.

Cơn nóng giận phừng phừng, Xích-đại-Thông vận hết sức lực mình dồn vào hai tay, miệng hét lên một tiếng, đánh tạt về phía Tôn bà. Sức gió và áp lực nội công của Xích-đại-Thông quá mạnh, đẩy bà lão đánh huỵch vào tường.

Tường bị rung chuyển, gạch ngói rơi xuống, và bà lão bị hộc máu ra, té xỉu xuống.

Dương-Qua thấy thế kinh sợ, nhảy tới án ngữ trước mặt Tôn bà, và nói lớn:

- Các người là quân sát nhân! Sao không giết ta lại giết Tôn bà?

Tôn bà mở mắt khe khẽ mỉm cười, nói:

- Cháu ơi! Có lẽ ta phải chết ở chốn nầy chăng?

Dương-Qua đau lòng, hai tay ôm Tôn bà, quay mặt về phía đạo sĩ, quên rằng mình đang ở trong tình thế hiểm nghèo, nói lớn:

- Hãy giết ta đi! Hãy giết ta nữa đi! Ta quyết chết theo Tôn bà.

Lúc đó Xích-đại-Thông thấy lòng hối hận, tiến bước về phía Tôn bà để xem xét thương thế Tôn bà ra sao. Nhưng Dương-Qua chắn lối, không để ai động đến Tôn bà cả.

Xích-đại-Thông hét:

- Dương-Qua, hãy tránh ra để ta xem Tôn bà ra thế nào.

Dương-Qua không tin lòng tử tế của ai cả, hai bàn tay nó cứ ôm chặt lấy Tôn bà.

Nói mãi, Dương-Qua vẫn chẳng nghe lời. Xích-đại-Thông liền gỡ tay nó ra, hất mạnh nó một cái làm cho nó té sang một bên.

Nó tức giận, hét:

- Đạo sĩ khốn nạn! Ta không bao giờ để chúng bây hãm hại Tôn bà.

Đang lúc Xích-đại-Thông dằng co với Dương-Qua thì đằng sau bỗng nhiên nổi lên một giọng nói lạnh lùng:

- Bắt nạt bà già trẻ con như thế có đáng một anh hùng chăng?

Giọng nói lạnh như băng tuyết ấy làm cho mọi người kinh ngạc. Xích-đại-Thông quay đầu lại thì thấy một thiếu nữ nhan sắc diễm ảo đã đứng sững trước điện đài từ bao giờ.

Nàng nõn nà trong bộ xiêm y màu trắng, thần sắc lạ lùng không biết lấy gì để so sánh. ánh mắt sáng ngời nhưng lạnh lùng của nàng như có mãnh lực trấn áp, chế ngự mọi người khác.

Bấy giờ, nơi Trùng-Dương cung tiếng chuông báo động cho môn đệ xa gần trong phạm vi mười dặm phải cẩn mật canh phòng thế mà nàng lọt vài đại điện chẳng một ai hay biết.

Xích-đại-Thông có cảm giác rờn rợn trước cái uy nghi của thiếu nữ. Ông ta cất tiếng hỏi:

- Cô nương là ai? Đến đây có điều chi chỉ giáo?

Thiếu nữ không đáp, tiến về phía Tôn bà.

Dương-Qua ngẩng đầu lên trông thấy buồn rầu nói:

- Kính thưa Long cô nương, người đạo sĩ độc ác kia đã đánh chết Tôn bà rồi.

Người thiếu nữ y phục màu trắng đó chính là Tiểu-long-Nữ.

Nàng có ngờ đâu Tôn bà cõng Dương-Qua rời khỏi mộ đài, vào Trùng-Dương cung, vì thế bách phải giao đấu, đến nỗi bị Xích-đại-Thông đánh trọng thương.

Khi thấy Dương-Qua lấy thân mình che chở cho Tôn bà, Tiểu-long-Nữ nghĩ bụng:

- Thằng bé nầy có bản tính thế nhân, đa tình, đa cảm.

Đến khi thấy Dương-Qua ôm Tôn bà khóc nức nở. Tiểu-long-Nữ nói:

- Việc gì phải thế? Ai lại khỏi chết được?

Tôn bà là người nuôi nấng Tiểu-long-Nữ từ tấm bé, ơn sâu nghĩa nặng chẳng khác tình mẹ con, Tiểu-long-Nữ há chẳng biết lẽ ấy sao? Chẳng qua bẩm tính của nàng trầm tĩnh, lại đã luyện nội công từ ngày thơ ấu. Trong phép luyện nội công thì iệc trừ thất tính: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục là điều cần thiết. Bởi vậy, dầu việc gì đau đớn bi thương, hờn giận đến đâu nàng cũng vẫn lạnh lùng như băng tuyết. Tình cảm của nàng có lẽ cũng vì cuộc sống mà khác hơn người thường chăng?

Xích-đại-Thông thoáng thấy Tiểu-long-Nữ hơn buồn một chút rồi vẻ mặt lại thản nhiên không hề đổi sắc.

Nàng ung dung đưa mắt nhìn các đạo sĩ qua một loạt. Các đạo sĩ gặp phải thái độ lạnh lùng của nàng, ai nấy đều rợn người như chạm phải băng tuyết, chỉ trừ Xích-đại-Thông sức nội công đã uyên thâm nên tâm vẫn định.

Tiểu-long-Nữ cúi xuống hỏi bà:

- Tôn bà bị đả thương vào đâu thế?

Tôn bà thở dài nói:

- Cô nương! Từ trước đến nay tôi chẳng hề dám phiền đến cô nương, nay có việc cần cô nương giúp đỡ, chẳng biết cô nương có vui lòng chăng?

Tiểu-long-Nữ linh cảm rất thông, nghe Tôn bà nói nàng đã đoán biết ý định phần nào, liền hỏi:

- Tôn bà có điều gì sai bảo con đây?

Tôn bà khẽ gật đầu, lấy tay chỉ vào Dương-Qua.

Rồi bà ngất xỉu đi, không nói nên lời nữa.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà muốn dặn con coi sóc nó phải không?

Tôn bà vận dụng hết tàn lực phều phào nói:

- Cô nương, lo liệu, săn sóc, dạy dỗ cho nó nên người, không thể gởi gắm nó vào tay ai được.

Tiểu-long-Nữ chần chờ nói:

- Lo liệu cuộc đời cho nó ư?

Tôn bà với giọng nói đã hết sinh lực, nhưng vẫn cố gắng nhếch mồm, ú ớ:

- Này cô nương! Nếu già nầy chưa chết thì vẫn còn săn sóc cô nương. Lúc còn nhỏ, già đã chăm nom cô nương từng miếng ăn miếng trông... bây giờ cô nương báo đền cho già như thế sao?

Tiểu-long-Nữ thở dài, cắn môi nói:

- Được! Con xin tuân lời Tôn bà.

Trên nét mặt xấu xí của Tôn bà hiện lên một nét vui. Bà mỉm cười, mắt nhìn sang phía Dương-Qua như muốn nói điều gì, nhưng không còn nói được nữa.

Dương-Qua biết ý, ghé sát vào mặt bà lão, khe khẽ thưa:

- Thưa Tôn bà, Tôn bà muốn bảo cháu điều gì?

Bà lão nói trong hơi thở:

- Cháu hãy ghé vào nữa, ghé vào mồm ta...

Dương-Qua ghé tai sát bên mồm. Tôn bà chỉ còn nói được mấy tiếng:

- Cháu cởi áo bông ngoài của ta, áo này...

Tôn bà không còn hơi nữa. Huyết từ trong miệng chảy ồng ộc. Bà thở dốc lên, trợn mắt rồi nhắm nghiền lại.

Dương-Qua kêu thất thanh:

- Tôn bà! Tôn bà ơi!

Rồi hắn ôm Tôn bà khóc không ngó.

Người đàn bà xấu xí nhất đời lại có tấm lòng vàng ngọc kia không còn nữa. Bà đã chết trong lúc bà mang thuốc đến để cứu kẻ địch thật đáng quí hóa cho lòng từ tâm của bà.

Những tiếng khóc thảm thiết của Dương-Qua thốt ra tự lòng chân thành, thương tiếc một người đã chết vì nghĩa làm cho các đạo sĩ không khỏi áy náy.

Xích-đại-Thông bước đến bên xác Tôn bà, cúi đầu hành lễ, lẩm bẩm:

- Thưa Tôn bà, tôi lỡ tay đánh Tôn bà đến mạng vong, thật tôi có tội với kẻ tiền bối. Tuy nhiên đó là chuyện rủi ro, thực tình tôi không cố ý, xin vong linh Tôn bà xét cho.

Tiểu-long-Nữ đứng gần đó, nét mặt vẫn bình thản như mặt nước hồ thu. Nàng liếc nhìn Xích-đại-Thông trong lúc ấy Xích-đại-Thông cũng đưa mắt nhìn Tiểu-long-Nữ để dò xét ý tứ.

Qua một lúc, Tiểu-long-Nữ nhíu đôi mày, trừng mắt nói với Xích-đại-Thông:

- Sao? Nhà người không chịu hủy diệt để đền tội còn đợi chừng nào?

Xích-đại-Thông là kẻ võ nghệ cao cường, tâm đạo khá cao, thế mà khi nghe câu nói đầy vẻ uy phong của Tiểu-long-Nữ cũng phải rởn ốc.

Xích-đại-Thông ú ớ:

- Sao? Sao...?

- Giết người phải đền mạng. Nếu ngươi biết điều tự xử lấy thì ta có thể dung tha cho tất cả các đạo sĩ ở Trùng-Dương cung nầy.

Xích-đại-Thông đứng lặng người đi một lúc. Trong khi ấy các đạo sĩ kia nhao nhao lên vì sợ sệt cũng có, vì tức giận cũng có.

Sau phút giận dữ vì chạm lòng tự ái, Xích-đại-Thông trở lại trầm tĩnh, kêu Tiểu-long-Nữ nói:

- Tiểu cô nương mau lùi bước. Tuy lời nói của cô nương có xúc phạm đến danh dự của môn phái ta, song cô nương là một cô gái bé bỏng chúng ta không trách móc làm gì.

Tiểu-long-Nữ không nói gì cả, thong thả lấy ra hai cuộn dây trắng toát như hai vuông lụa, dùng tay mặt quấn lấy đầu dây.

Các đạo sĩ đứng xung quanh lấy làm lạ, không biết nàng lấy cuộn dây để làm gì, và tác dụng cuộn dây ấy ra sao.

Tiểu-long-Nữ nhìn Xích-đại-Thông ung dung nói:

- Lão đạo sĩ kia, ngươi đã ham sống sợ chết không chịu tự vẫn thì hãy rút kiếm ra để ứng chiến.

Xích-đại-Thông rầu rầu nói:

- Bần đạo đây lỡ tay làm bà lão bị tử thương, thực ra không muốn có sự xích mích như thế. Vậy cô nương liệu bề cõng Dương-Qua ra khỏi điện này thì tốt hơn.

Nói như thế, Xích-đại-Thông nghĩ rằng, Tiểu-long-Nữ còn nhỏ tuổi dẫu võ nghệ cao cường đến đâu nữa cũng chẳng qua như Tôn bà là cùng. Nay Xích-đại-Thông đã nhân nhượng lắm rồi.

Nhưng Xích-đại-Thông có ngờ đâu lời nói của hắn chỉ là một cơn gió thoảng, không lọt vào tai Tiểu-long-Nữ.

Nàng vung tay trái lên một cái thì một dải lụa trắng được phóng ra đụng vào mặt Xích-đại-Thông; sự xảy đến thực không ngờ được.

Dưới ánh sáng của những cây nến, dải lụa lóng lánh ở ngoài đầu một vật tròn như một quả cầu bằng kim khí.

Xích-đại-Thông thấy nàng xuất thủ mãnh liệt và nhanh như chớp, êm như ru, lại sử dụng một thứ vũ khí quái dị, chưa tìm ra cách nào để ứng phó.

Xích-đại-Thông là người đã lớn tuổi, giàu kinh nghiệm chiến đấu trên bước giang hồ, nên việc gì dẫu lớn nhỏ cũng đều dè dặt.

Vì vậy, thấy Tiểu-long-Nữ xuất thủ, hắn chỉ né tránh để xem chừng sức lực và tài nghệ của đối phương.

Dải lụa của Tiểu-long-Nữ có thể tự động sai khiến quả cầu quay tít trên không nhắm vào đối phương tấn công như vũ bão.

Ba tiếng "tinh! tinh! tinh" ngân dài, quả cầu nhanh như chớp nhảy lên nhảy xuống ba lần điểm vào ba huyệt đạo: tử bạch, hạ quan và địa thương không sai một mảy.

Xích-đại-Thông là người đã giàu kinh nghiệm, trông xa thấy rộng, nên khi nghe tiếng "tinh, tinh, tinh" của quả cầu biết ngay địch thủ dùng ngón độc liền ngả người về phía sau dùng thế "thiết băn kiều" để tránh. Xích-đại-Thông để cho quả cầu xoay qua khỏi mũi mình rồi lần lần đưa tay đẩy sang một bên.

Ngón "Thiết băn kiều" có nghĩa là tấm cầu bằng sắt. Ngón nầy Xích-đại-Thông đã dày công rèn luyện mấy mươi năm trời, nhờ sức nội công uyên thâm mới có thể luyện nổi...

Thật vậy, thế ấy đã cứu nguy cho Xích-đại-Thông trước làn kinh cầu của Tiểu-long-Nữ.

Sau khi quả kim cầu bị mất hiệu lực, Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:

- Ta dùng quả cầu điểm huyệt đối phương cả trăm lần chưa sai một, thế mà tên đạo sĩ nầy tự giải cứu được, kể ra hắn cũng thuộc vào bậc nhất trong thiên hạ rồi.

Tuy Xích-đại-Thông vận nội công dùng miếng võ điêu luyện để phản nguy, song không vì thế mà tránh khỏi ảnh hưởng về điện lực. Sức quả cầu quá mạnh, làm cho Xích-đại-Thông phải dùng hết sức mình. Mặt ông ta bỗng tái nhợt đi, rồi đờ người ra.

Các đạo sĩ đứng xung quanh tuy không phải là học trò của Xích-đại-Thông, song thấy Xích-đại-Thông như thế đều nóng lòng nhảy vào tiếp cứu.

Bốn vị đạo sĩ thuộc vào hạng khá, vung trường kiếm xốc vào.

Tiểu-long-Nữ hét:

- Này, hãy chuẩn bị binh khí chống đỡ đi.

Dứt lời, nàng múa hai tay lên, hai dải lụa trắng như hai con rắn uốn khúc trên không. "Tinh! tinh!" hai tiếng, rồi "Tinh! tinh!" hai tiếng nữa, huyệt "đại uyên" ở cổ tay các đạo sĩ đều bị quả cầu bằng kim khí điểm vào, bốn thanh trường kiếm rơi xuống đất.

Các đạo sĩ tái mặt kẻ ôm đầu người rút cổ bỏ chạy ra khỏi vòng chiến đấu.

Xích-đại-Thông lúc đầu gặp Tiểu-long-Nữ không ngờ nàng có một sức nội công mãnh liệt như thế nên thiếu đề phòng. Bây giờ hắn đã lấy lại được uy mãnh, bước đến giật một thanh trường kiếm trong tay một đạo sĩ gần đây, và nói với Tiểu-long-Nữ:

- Long cô nương tài nghệ đến mức tuyệt luân. Bần đạo không còn dám khinh xuất trước cô nương nữa, mong cô nương chỉ giáo cho bần đạo một ngón cao cường hơn.

Tiểu-long-Nữ gật đầu một cái. Tức thì hai tiếng "Tinh! tinh!" phát ra, dải lụa trắng từ tay trái sang tay phải vút ngang mặt Xích-đại-Thông rồi lại thu về.

Xích-đại-Thông ngả người ra tránh và so tài mình với Tiểu-long-Nữ thấy còn thua nàng một bực.

Để tỏ lòng tôn kính bậc lớn tuổi hơn mình, Tiểu-long-Nữ nhường cho Xích-đại-Thông đánh trước ba ngọn.

Xích-đại-Thông vung kiếm tấn công ba hiệp liên tiếp, nhưng Tiểu-long-Nữ như một vị nữ thần không hề nao núng. Nàng chỉ tung dải lụa kia ra làm vũ khí của Xích-đại-Thông trở nên yếu hèn vô dụng.

Xích-đại-Thông nghĩ bụng:

- Người con gái nầy có nhiều ngón võ độc đáo, được rèn luyện rất công phu, nếu nàng được nhiều kinh nghiệm giao đấu nữa thì chắc trong thiên hạ không ai bì kịp.

Nghĩ như vậy, Xích-đại-Thông cố dùng hết cái uyên thâm về kiếm thuật trong phái Toàn-Chân để đối phó với thuật dùng kim cầu của Tiểu-long-Nữ.

Kiếm pháp phái Toàn-Chân quả thật mãnh liệt, Xích-đại-Thông cố gắng biểu diễn hết những nét độc đáo trong nghề, mong áp đảo hai quả kim cầu kia.

Các đạo sĩ đứng xung quanh đều nín hơi xem đấu. Dưới ánh đèn lồng, thấp thoáng bóng một thiếu nữ xiêm y màu trắng uyển chuyển như một cành mai, sắc đẹp như một nữ thần và một lão đạo sĩ da hồng, râu tóc phất phơ, áo quần màu tro, chít khăn vàng, đang so tài thử sức mỗi lúc một kịch liệt.

Với mười năm khổ công rèn luyện, Xích-đại-Thông là một tay kiếm lợi hại trong hạng ba bốn người tài cao của phái Toàn-Chân thế mà khi đem so với Tiểu-long-Nữ trong ít chục hiệp, người ta thấy đường kiếm của Xích-đại-Thông mỗi lúc một bối rối thêm.

Tiểu-long-Nữ thì vận dụng hết tinh lực của hai quả cầu, xử dụng bằng hai dải lụa, uốn khúc như rồng bay phượng múa, thỉnh thoảng phát ra những tiếng "Tinh! Tinh" làm cho đối phương phải hồn xiêu phách lạc.

Đánh lâu mà không sao áp đảo được đối phương. Xích-đại-Thông tự hổ thẹn cho tài nghệ mình, lòng bối rối, khiến cho sức nội công vì thế mà suy giảm. Đường kiếm bám sát vào dải lụa không cho kim cầu tự do hoạt động, bây giờ chỉ đủ sức ngăn cản kim cầu không còn áp đảo được sức vùng vẫy của hai dải lụa nữa.

Đánh thêm ít hiệp nữa, sức vùng vẫy của hai dải lụa đã điều khiển hai kim cầu một cách mạnh mẽ chạm vào lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông nghe lẻng kẻng.

Xích-đại-Thông kinh hãi, liền vận dụng sức nội công uyên thâm của mình mong đánh đội hai quả kim cầu trở lại. Mũi kiếm được nội công tiếp sức tấn công như vũ bão.

Các đạo sĩ đứng xem hoan hô cổ võ khi thấy Xích-đại-Thông phóng mũi kiếm quấn vào dải lụa chuyển về phía tay Tiểu-long-Nữ. Nếu Tiểu-long-Nữ không buông dải lụa tất mũi kiếm đâm lủng tay.

Nào ngờ, Tiểu-long-Nữ mặt lạnh như đồng, chẳng hề đổi sắc dùng tay phải chận thanh kiếm rồi hãm khí phóng ra. Thanh kiếm bị gãy làm đôi nơi giữa lưỡi.

Thấy thế các đạo sĩ la thất thanh, và kinh ngạc.

Xích-đại-Thông chạy đến tay run run lượm thanh kiếm gãy, mặt tái đi vì hổ thẹn, nghĩ bụng:

- Công phu ta tập luyện mấy mươi năm trời, nay đánh không lại một đứa con gái nhỏ thế nầy, còn gì là uy danh nữa.

Đoạn Xích-đại-Thông cất giọng nói với Tiểu-long-Nữ:

- Bần đạo xin khuất phục tài nghệ cô nương. Vậy cô nương có quyền đem Dương-Qua về dạy dỗ. Chúng tôi xin nhường hắn cho cô nương đó.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:

- Ngươi đánh chết Tôn bà rồi chịu nhường đệ tử và thú nhận cái bất lực của ngươi như thế là xong chuyện ư?

Xích-đại-Thông ngẩng mặt lên trời cười ngạo nghễ nói:

- Nếu biết ta là một đạo sĩ biết trọng danh dự, ngươi chớ quá hồ đồ.

Dứt lời Xích-đại-Thông đưa lưỡi kiếm gãy vào cổ toan quyên sinh.

Ngay lúc đó, bỗng một tiếng "keng" nổi lên làm đội lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông ra, rơi xuống đất.

Xích-đạo-Thông ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Ai đã dùng thủ đoạn nầy để cản trở ta? Kẻ nào đây nhỉ?

Hắn quay lại nhìn, không thấy bóng người nào cả.

Nghĩ một lúc Xích-đại-Thông lẩm bẩm:

- Chỉ có Khưu-xứ-Cơ mới sử dụng được ngón bí quyết này.

Nghĩ như vậy Xích-đại-Thông nói lớn:

- Thưa sư huynh, đệ tử là kẻ bất tài đã làm nhục cho môn phái xin sư huynh xét lại.

Dứt lời, Xích-đại-Thông lại cúi xuống nhặt thanh kiếm gãy lên.

Bỗng từ ngoài võ điện, một tràng cười nổi lên, tiếp theo giọng nói:

- Sư đệ Xích-đại-Thông ơi! Thua được là chuyện thường. Đây là một dịp thúc đẩy chúng ta phải tập luyện nhiều hơn nữa. Đã có mười tám người nữa rửa nhục cho sư đệ.

Rồi theo tiếng nói đó, một đạo sĩ râu tóc bạc phơ, tay cầm trường kiếm nhảy qua bức tường mà nói.

Đạo sĩ ấy chính là Khưu-xứ-Cơ. Bẩm tính Khưu-xứ-Cơ ít ưa chuyện dài dòng khách sáo, nên vừa chạm mặt Tiểu-long-Nữ là ông ta vung trường kiếm đâm thẳng tới, và nói:

- Bần đạo là Trường-Xuân Khưu-xứ-Cơ xin lãnh giáo vài đường với người láng giềng tài cao.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ngươi chắc thừa hiểu tài năng ta cũng chẳng có gì.

Đoạn nàng đưa tay bắt lấy thanh trường kiếm của Khưu-xứ-Cơ.

Xích-đại-Thông đứng bên ngoài trông thấy kêu thất thanh:

- Sư huynh! Sư huynh! coi chừng.

Nhưng câu nói Xích-đại-Thông đã trễ. Hai người đang vận nội công giành nhau thanh kiếm.

Một tiếng "rắc" thanh trường kiếm gãy làm đôi. Khưu-xứ-Cơ thất kinh. Còn Tiểu-long-Nữ lần nầy cảm thấy tay nàng đau buốt và ngực hơi thiếu thở.

Nàng nghĩ thầm:

- Lão nầy hơn Xích-đại-Thông một bực. Ta chưa luyện xong Ngọc nữ tâm kinh chưa chắc nắm phần thắng được.

Nghĩ như vậy Tiểu-long-Nữ một tay bồng xác Tôn bà một tay ôm Dương-Qua khinh thân qua khỏi vách tường biến dạng.

Khưu-xứ-Cơ và Xích-đại-Thông đã giao đấu với Tiểu-long-Nữ đoán biết tài vũ công của nàng cũng chẳng hơn họ bao nhiêu, song với lối khinh thân thần tốc của nàng làm cho mọi người không ngớt kinh dị. Tài khinh thân ấy không có một ai so sánh nổi.

Xích-đại-Thông nhìn Khưu-xứ-Cơ, nói:

- Thật là quá đỗi! Ôi thôi!

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Xích sư đệ, chúng ta uổng công tập luyện mấy mươi năm trường, há chẳng chiêm nghiệm cuộc thua trận nhục nhã này sao? Nhưng thôi, chuyện nầy chưa vội, bây giờ một số trong chúng ta phải đi Sơn Tây gấp đã.

Xích-đại-Thông ngạc nhiên hỏi:

- Lại có việc gì gây rối sao? Có ai bị thương đó?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chuyện nầy kể ra còn dài dòng. Hiện giờ Mã-Ngọc sư huynh đã lên đường rồi. Chúng ta tiếp tục nối gót.

Thần Điêu Đại Hiệp : Hồi 14 Năm cỗ quan tài

Đến đây, chúng ta cũng cần biết nguyên nhân nào đã thúc đẩy các đồ đệ của môn phái Toàn-Chân phải đấu bước giang hồ.

Số là, Xích-Luyện Tiên tử Lý Mạc Thu từ khi đả thương một số người ở miền Giang-Nam, Hồ-Châu, tự thấy mình kết oán, gây thù sâu sắc, nên chuyển bước sang đất Sơn Tây. Tại đây, Lý Mạc Thu vẫn không bỏ tánh háo chiến. Nàng đả thương một số anh hùng hào kiệt ở Tấn Bắc, làm cho các thủ lãnh trong giới giang hồ đều căm phẫn. Họ kêu gọi các môn phái hợp tác nhau để khử trừ cho được Lý Mạc Thu.

Toàn-Chân là một môn phái có hạng trong thiên hạ, bấy giờ do Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ lãnh đạo. Hai vị nầy thấy Lý Mạc Thu lắm điều tội lỗi, song khổ nỗi nàng lại ở trong môn đồ của Vương-trùng-Dương vị Tổ sư của họ, nên chẳng biết làm thế nào hơn là đóng vai trò trung gian hòa giải, tìm cách cho Lý Mạc Thu cải tà quy chánh.

Bây giờ, Lưu-xứ-Huyền và Tòa-bất-Nhị liên hiệp nhau ở phía Bắc. Lý Mạc Thu chẳng kể ai vào đâu cả, coi đời bằng khóe mắt, nghe tin họ liên hiệp để chống lại mình, liền mò đến đánh. Trước sau Lý Mạc Thu đã hạ Lưu và Tôn hai trận liên tiếp.

Sau này Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất, hai tay cao cường trong Toàn-Chân phải đến ứng chiến. Lý Mạc Thu khôn ngoan tự thấy một mình không thể đánh nổi số đông, liền dùng lời lẽ ôn tồn làm cho Khưu và Vương bị khích động không thể tham chiến. Nàng hẹn với Khưu và Vương sẽ tỉ thí với nàng ở một nơi khác.

Ngày thứ nhất, tỉ thí với Tôn-bất-Nhị, Lý Mạc Thu

đã dùng kim độc phóng vào huyệt "thân thượng" của đối phương. Sau đó nàng lại cho người mang thuốc đến giải trừ.

Hành động ấy khiến cho Khưu-Vương hai người không rõ tâm tánh của Lý Mạc Thu ra sao cả.

Phàm trong nguyên tắc võ lâm, kẻ đã cứu đối thủ không thể coi như kẻ thù được.

ấy vậy các tay thủ lãnh đến hợp tác với Tôn-bất-Nhị thấy vậy đều mỉm cười chua chát rồi rút lui không tham chiến nữa.

Cũng may, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất tự thấy mình chưa phải là lúc ứng chiến với Lý Mạc Thu nên mới trở về kịp Trùng-Dương-cung cứu nguy cho Xích-đại-Thông.

Nhắc lại, Tiểu-long-Nữ lúc ra khỏi Trùng-Dương điện, một tay bồng xác Tôn bà một tay bồng Vương-Qua, khinh thân thẳng về Hoạt-tử-Nhân mộ đài một mạch.

Nàng đặt xác Tôn bà lên giường nàng ngủ thường ngày, còn nàng thì ở trên ghế trường kỷ chống tay thẫn thờ suy nghĩ.

Dương-Qua ôm xác Tôn bà khóc sướt mướt không thôi. Một lúc lâu Tiểu-long-Nữ mới nói:

- Đàng nào Tôn bà cũng đã chết, khóc mãi chẳng ích gì? Bây giờ mi khóc Tôn bà như thế, ngày mai mi chết có ai khóc cho mi chăng?

Nghe Tiểu-long-Nữ nói những câu lạnh nhạt như vậy, Dương-Qua không hiểu gì cả buồn rầu hơn, và càng khóc to hơn nữa!

Tiểu-long-Nữ nói:

- Thôi ta đi an táng Tôn bà đây. Mi hãy theo ta.

Nói dứt lời, nàng bước đến bồng xác Tôn bà đi về phía Tây. Dương-Qua lấy vạt áo chùi nước mắt bước theo.

Đường trong mộ đài tối lờ mờ, ánh sáng bên ngoài rọi vào yếu ớt. Dương-Qua phải chú mục vào màu trắng của xiêm y Tiểu-long-Nữ để nối gót.

Hai người đi quanh co một lúc thì đến một con đường hầm tối đen như mực. Con đường hầm đó dẫn đến một cánh cửa bằng đá Tiểu-long-Nữ đưa tay đẩy cánh cửa thì bên trong lộ ra một căn phòng cũng bằng đá, và tối om. Nàng rút trong bọc ra lấy một viên đá lửa đập vào một tảng đá. Bùi nhùi nàng đã chuẩ bị sẵn. Lửa bén vào, cháy bùi nhùi tỏa ánh sáng tạo thành một màu kinh dị.

Tiểu-long-Nữ thắp một ngọn đèn dầu đặt giữa căn phòng.

Nhìn bốn phía Dương-Qua cảm thấy trong người ớn lạnh.

Đó là một căn phòng rộng, trống rỗng, trơ trọi có năm cái quan tài bằng đá.

Nó nín hơi lấy can đảm đưa mắt nhìn về năm cỗ quan tài ấy thì thấy hai cái đã có nắp đậy kín, còn ba cái nắp đậy hở.

Nó ngơ ngẩn tự hỏi:

- Chẳng biết trong ba cỗ quan nắp hở nầy đã có xác người chết hay chưa.

Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ chiếc quan tài bên trái nói:

- Sư phụ phu nhân an giấc ở chỗ này.

Rồi nàng lại chỉ vào cái quan tài bằng đá thứ hai, nói:

- Còn sư phụ an giấc ngàn thu ở chỗ này đây.

Tiếp đó, nàng lại đưa tay chỉ vào chiếc quan tài thứ ba.

Dương-Qua lòng ngờ ngợ, chẳng biết Tiểu-long-Nữ sẽ bảo ai an giấc trong đó. Nhìn nắp quan tài chưa đậy, nó chẳng biết có xác chết nào trong đó chưa.

Bỗng nghe Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà an giấc trong cỗ quan tài nầy.

Nó đánh thót người nhẹ nhõm và tìm hiểu rằng: "những chiếc quan tài chưa đậy nắp là chưa có người chết".

Trí tò mò của nó lại nổi dậy, nó nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Thưa cô nương, còn hai cỗ quan tài không kia nữa.

Tiểu-long-Nữ thản nhiên đáp:

- Một cái dành cho sư tỉ của ta là Xích-Luyện tiên tử Lý Mạc Thu.

Dương-Qua ngẩn người hỏi:

- Lý cô nương cũng lại về đây an giấc sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Sư mẫu ta đã dự liệt trước, sư tỉ rồi thế nào cũng phải về.

Dương-Qua lại hỏi:

- Còn một cỗ quan tài nữa?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Cỗ quan tài đó dành cho ta. ở đây còn thiếu một cỗ quan tài nữa chỉ vì sư mẫu ta không dự liệu được rằng mi sẽ đến đây.

Nghe nói vậy, Dương-Qua giật mình. Tự nhiên bản tính "uý tử cầu sinh" nổi dậy, nó hoảng hốt đáp:

- Cô nương ơi! Tôi không chết nơi đây đâu! Tôi không muốn chết!

Tiểu-long-Nữ nghiêm nét mặt nói:

- Ta nhớ lời dặn của Tôn bà là sẽ chăm lo săn sóc đến mi trọn đời. Lời hứa ấy ta chẳng dám sai.

Dương-Qua lạnh toát cả mình, nhất là trước căn phòng âm u với năm cỗ quan tài ấy, làm cho nó ám ảnh một mối buồn rùng rợn.

Nó nói rối rít:

- Nếu cô nương không bằng lòng để tôi đi thì lúc cô nương chết rồi tôi cũng tìm cách ra khỏi chốn nầy.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã bảo theo lời trăn trối của Tôn bà, ta phải lo liệu cho mi trọn đời, thì có bao giờ ta để cho mi chết sau ta?

Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Tại sao vậy? Cô nương nhiều tuổi hơn tôi mà!

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:

- Chết sống không cần phải ít hay nhiều tuổi. Phỏng sử ta có chết trước mi ta cũng tìm cách cho mi được chết theo.

Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song tâm cơ đã có nhiều mưu trí. Mặc dù vậy, những mưu trí có hay đến đâu cũng chỉ là mưu trí của trẻ con.

Khi nghe Tiểu-long-Nữ nói như vậy, tâm trạng chống đối lại âm thầm nổi đậy trong đầu óc nó.

Nó nghĩ thầm:

- Tại sao lại buộc ta phải chết, mà phải chết nơi đây? Nhưng cái chết cái sống hãy còn xa vời, ta có đủ thì giờ để đối phó.

Tiểu-long-Nữ thấy nó thẫn thờ suy nghĩ hiểu ngay tâm trạng của nó, liền bước đến giờ nắp quan tài, đặt xác Tôn bà vào trong.

Dương-Qua chợt nhớ đến lời trăn trối của Tôn bà: "Mi hãy lấy chiếc áo bông phủ ngoài của ta. áo này..."

Nó vùng đứng dậy, chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, nói:

- Thưa cô nương! Theo lời trăn trối xin cô nương cho tôi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà.

Tiểu-long-Nữ không muốn cho người bên mình phải buồn phiền, lại thấy Dương-Qua với Tôn bà quen biết mới trong ngày mà tình quyến luyến đã sâu đậm, nên cởi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà trao cho Dương-Qua.

Dương-Qua cầm lấy chiếc áo khóc nức nở, nghĩ đến lời trăn trối của Tôn bà, mặt mày nó đau đớn như mất một người thân.

Tiểu-long-Nữ thừa lúc nó gục mặt xuống khóc, lấy tay kéo nắp quan tài đậy kín lại khít rịt, không khí không còn ra vào được nữa.

Tiểu-long-Nữ sợ Dương-Qua lại khóc nữa, liếc mắt nhìn nó một chút, rồi nhìn lãng sang chỗ khác nói:

- Thôi! Hãy theo ta ra ngoài.

Dứt lời, nàng lấy vạt áo quạt một cái, ngọn đèn dầu tắt, căn phòng rộng lớn bao la bỗng trở nên tối đen như mực.

Dương-Qua sợ nàng bỏ rơi nó lại trong căn phòng mộ địa này vội vàng vớ chiếc áo bông của Tôn bà mà theo luôn Tiểu-long-Nữ bước ra.

Trong mộ đài, ngày cũng như đêm bóng tối đen ngòm.

Vì hai người đã hoạt động hơn nửa ngày, nên ai cũng có cảm giác mệt mỏi. Tiểu-long-Nữ ra lệnh cho Dương-Qua ngủ ở căn phòng mà bình sinh Tôn bà dùng làm chỗ nghỉ ngơi.

Dương-Qua từ tấm bé, tuy đã trải qua những lúc quạnh hiu cô độc, đã từng ngủ ở đầu hè, xó chợ, đã từng ngủ nơi núi rậm, rừng sâu, song đối với mộ đài nầy như cái gì rùng rợn oai nghiêm làm cho nó muốn rỡn óc. Nó không dám tuân lời của Tiểu-long-Nữ.

Thấy như nó không để ý đến lời mình, Tiểu-long-Nữ nhìn nó hỏi:

- Mi không nghe ta nói gì sao?

Dương-Qua thưa:

- Thưa cô nương, tôi sợ...

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sợ cái gì?

Dương-Qua thở dài đáp:

- Tôi cũng không hiểu nữa... Tôi không dám ngủ một mình.

Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:

- "Tuổi nó hãy còn nhỏ, nó sợ sệt cũng phải".

Nàng suy nghĩ một lúc rồi thở dài, khẽ nói:

- Được, cứ theo ta vào đây mà ngủ.

Rồi nàng dẫn Dương-Qua vào phòng nàng. Nàng thường có thói quen không thắp đèn, nhưng nay có Dương-Qua, nàng thắp lên một ngọn đèn dầu nhỏ.

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dung mạo mỹ miều, không gì sánh kịp, trong bộ y phục trắng như tuyết không vướng chút bụi trần, ngỡ rằng khuê phòng nàng hẳn trần thiết cực kỳ diễm ảo. Nào ngờ lúc bước vào phòng thì thực là thất vọng. Phòng xây bằng đá trống rỗng, không có gì cả, chẳng khác gì căn phòng có năm cỗ quan tài kia. Giường nàng là một phiến đá xanh dài có trải thảm bằng cỏ, trên phủ một lần vải thô. Ngoài mấy thứ ấy ra, căn phòng chẳng còn có gì khác.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Chẳng biết nàng cho mình nghỉ ở đâu nhỉ! Có lẽ nàng bắt mình nằm dưới đất là phải.

Đang lúc nó phân vân chưa kịp hỏi thì Tiểu-long-Nữ cất tiếng bảo:

- Mi leo lên giường nằm ngủ đi.

Dương-Qua hỏi:

- Thế thì cô nương ngủ ở đâu?

Tiểu-long-Nữ nghiêm nghị nói:

- Ta đã có chỗ khác, mi khỏi phải lo.

Dương-Qua nói:

- Ngủ trên giường bất tiện, xin cô nương cho tôi ngủ dưới đất cũng được.

Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt nói:

- Ta là bậc sư phụ mi, ta nói gì mi cũng phải nghe. Mi đừng quen thói đánh lại sư phụ như ở bên Trùng-Dương cung mà mất mạng đó.

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dùng lời gay gắt, vội nói:

- Xin cô nương đừng giận dữ như thế. Tôi chỉ cần vâng theo lời cô nương là được chứ gì?

Tiểu-long-Nữ thấy giọng nói của Dương-Qua có vẻ không tôn kính mình nên không vừa ý, nói:

- Mày bướng bỉnh phải không?

Dương-Qua thấy nàng còn ít tuổi lại đẹp đẽ mỹ miều, không có vẻ gì đang bậc sư phụ mình, nên nó chép miệng một cái, rồi nói:

- Tôi đâu dám chẳng tuân lời...

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua chép miệng, đoán được ý nó, hét:

- Tại sao mi có cử chỉ khinh thường ấy. Mi không phục ta phải không?

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ làm dữ, không dám nói nữa vội tuột hài, nhảy phóc lên giường nằm.

Nằm được một lúc, nó cảm thấy lạnh buốt xương, vội chồm dậy, tụt xuống đất la lớn:

- Lạnh quá! Lạnh chết đi thôi!

Tiểu-long-Nữ không nhịn được cười, chạy đến phía sau vách lấy chiếc phất trần chỉ vào mặt nó:

- Ta bảo mi phải nằm lên đó, và ngủ đi. Nếu còn rên rỉ than lạnh ta đánh cho mười roi nầy.

Dương-Qua thất kinh, vội leo lên giường nằm nữa, lần nầy nó cố chịu đựng, nhưng lạ thay, sức lạnh từ đâu xông vào người nó, làm cho nó tê cứng cả người, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập.

Tiểu-long-Nữ lấy chiếc áo bông của Tôn bà để vào một nơi khiến Dương-Qua không rờ tới.

Lạnh quá, nhưng Dương-Qua sợ đánh đòn không dám tuột xuống như lần trước nữa, ré lên:

- Ôi chao! Cô nương ơi!

Tiểu-long-Nữ mỉm cười hỏi:

- Cái gì thế?

Dương-Qua nói:

- Ôi chao! Chiếc giường nầy như có gì kỳ lạ! Tôi không thể nằm được lâu.

Rồi nhìn thấy nét mặt tươi cười của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cho rằng nàng đã sung sướng trước cái đau khổ của nó, nó nổi giận nói:

- Tôi không muốn nằm nơi đây nữa đâu. Cô nương cho tôi nằm dưới đất mà thôi.

Tiểu-long-Nữ giơ chiếc phất trần trước mặt nó nói:

- Hãy nằm im và ngủ. Trái lời, mi đừng trách ta độc ác.

Dứt lời, nàng rút hai sợi dây cột vào kẹt đá, leo nằm lên hai sợi dây đó, rồi lấy tay vẫy một cái, ngọn đèn phụt tắt.

Trong phòng tối mịt, Dương-Qua lấy làm lạ:

"Tại sao nàng lại có thể nằm ngủ lơ lửng trên hai sợi dây như thế nhỉ?" Nó bắt đầu khâm phục tài nghệ của Tiểu-long-Nữ, và hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương có thể dạy tôi nằm ngủ như thế chăng?

Bản tính con nít dễ giận mà cũng dễ làm thân. Nó vừa có ác cảm với Tiểu-long-Nữ, bây giờ thấy Tiểu-long-Nữ vui vẻ, nó lại cảm mến ngay.

Tiểu-long-Nữ thấy tánh nết trẻ con của nó cũng tức cười. Nàng nói:

- Dạy mi nằm ngủ như thế nầy để làm gì? Ta còn lắm điều phải chỉ dạy cho mi.

Câu nói ấy làm cho Dương-Qua đoán biết Tiểu-long-Nữ không có ác ý với nó, mà chỉ muốn dạy dỗ nó thôi. Nó hối hận cất tiếng nói:

- Thưa cô nương! Cô nương có thể cho tôi biết những điều mà cô nương sắp dạy bảo tôi chăng? Lúc nãy tôi có lỗi với cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta biết rồi! Tự nhiên mi oán ta! Điều đó có gì lạ!

Dương-Qua vội nói:

- Không, không! Tôi đâu dám oán giận cô nương. Lúc nãy tôi cứ tưởng cô nương cũng như sư phụ trước của tôi, cứ hành hạ tôi mà không truyền dạy cho tôi gì cả.

Tiểu-long-Nữ cười lạt nói:

- Mi trách sư phụ trước của mi không dạy dỗ cho nên mi oán hận. Bây giờ ta dạy dỗ sao mi cũng oán hận?

Dương-Qua nói:

- Chỉ vì cô nương cũng hành hạ tôi, bắt tôi nằm trên chiếc giường giá lạnh này.

Tiểu-long-Nữ nói:

- à ra mi cho thế là ta đã hành hạ mi ư? Ta thiết tưởng suốt đời mi nên tìm cái cực nhỏ như vậy để nên người.

Dương-Qua trố mắt nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Thế thì sống để chịu cực hình sao?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Các cực hình ấy sẽ đem lại cho mi biết bao điều hay!

Dương-Qua mới hiểu ra, hỏi:

- Thưa cô nương, chiếc giường lạnh nầy có gì bí quyết ư?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Những tay võ nghệ cừ khôi trong thiên hạ chưa chắc đã nằm nổi trên chiếc giường này. Nhưng thôi, việc đó mi sẽ hiểu sau, bây giờ mi phải nhắm mắt ngủ đi, không được nói nữa.

Trong căn phòng tối om, Dương-Qua chỉ nghe giọng kêu cót két của hai sợi dây mà Tiểu-long-Nữ dùng làm võng.

Sau câu nói như ra lệnh của nàng, Dương-Qua không dám hỏi nữa, song nó không làm sao ngủ được. Chốc chốc nó lại xuýt xoa vì lạnh.

Một lúc lâu nó cất tiếng khẽ nói:

- Cô nương ơi! Tôi không chịu nổi sự lạnh nầy nữa.

Không nghe tiếng Tiểu-long-Nữ đáp lại, nó lắng tai nghe thì thấy hơi thở của nàng đều đều và chậm lại.

Nó đoán chừng Tiểu-long-Nữ đã ngủ, nó nghĩ bụng:

- Cô nương đã an giấc, vậy ta xuống đất một chút cho đỡ lạnh cũng chẳng sao.

Nghĩ vậy nó rón rén tụt xuống giường, không dám thở mạnh.

Nào ngờ nó vừa bước chân xuống đất thì một tiếng đàn cầm vang lên. Tiểu-long-Nữ từ trên dây nhảy xuống một tay vớ cây phất trần, một tay thộp vào cổ nó, quất mấy cái vùn vụt nói:

- Mi dám trái lời ta sao! nếu còn lừa dối ta sẽ đánh đến chết.

Nàng đánh đủ mười roi khiến Dương-Qua đau tím ruột.

Nó lồm cồm lên giường nằm trở lại không dám động đậy.

Tiểu-long-Nữ ngỡ là sau trận đòn thế nào Dương-Qua cũng khóc và oán trách nàng. Nhưng thấy nó nằm im thin thít không hề than thở gì cả. Tiểu-long-Nữ lấy làm lạ gọi nó hỏi:

- Dương-Qua tại sao mi nằm im thế?

Dương-Qua thỏ thẻ:

- Cô nương bảo sao làm vậy. Cô nương bắt nằm là phải nằm, bảo đánh thì đánh, thế thì khóc lóc ích gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- A! Thế ra mi nằm im để hờn dỗi ta phải không?

Dương-Qua nói:

- Tôi chẳng bao giờ hờn cô nương. Tôi đã thấy lòng cô nương thương mến tôi rồi.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ai bảo mi thế?

Dương-Qua nói:

- Cô nương đánh tôi, nhưng thực ra cô nương không đánh mạnh. Như vậy không phải vì cô nương sợ tôi đau sao.

Thật vậy, Tiểu-long-Nữ đánh Dương-Qua là để bắt nó thi hành theo lệnh mình. Vì vậy nàng chỉ đánh mạnh hai roi đầu, còn mấy roi sau chỉ đánh cho đủ số.

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua ranh mãnh, tìm hiểu được dụng ý của mình, liền hét lớn:

- Đừng tưởng lầm! Nếu lần sau mi còn trái lệnh ta sẽ đánh đến thối thịt đó.

Dương-Qua thấy lời nói nàng tuy hăm dọa nhưng có âu yếm, lòng hớn hở nói:

- Dù cô nương có đánh đến tan xương nát thịt tôi vẫn vui lòng.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta chỉ sợ rồi đây với tánh ương ngạnh, rắn mắc của ngươi, ngày nào cũng bị đòn là khác.

Dương-Qua nói:

- Tôi chỉ ghét và thù hằn những người đánh tôi với ác ý. Còn như cô nương vì thương tôi mà đánh, tôi đã không giận mà lại còn sung sướng hơn nữa. Cô nương thuộc vào những người tôi thương.

Tiểu-long-Nữ nghe nó nói, mỉm cười, hỏi:

- Mi thử kể ta nghe ai là người mi ghét? Ai là người mi thương.

Dương-Qua nói:

Những người tôi ghét tôi không thèm nhớ đến làm chi. Còn những người tôi thương như mẹ tôi thì đã chết mất rồi. Âu-dương-Phong là cha nuôi tôi, rồi đến Quách-Tỉnh và sau nữa là Tôn bà và cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã làm gì mà mi thương ta?

Dương-Qua nói:

- Vì cô nương đã thương tôi.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chưa chắc ta đã thương mi. Chỉ vì Tôn bà dặn ta săn sóc mi thì ta phải làm tròn lời hứa. Còn việc ta thương mi, mi chớ vọng tưởng.

Câu nói của Tiểu-long-Nữ như một gáo nước lạnh tưới vào mình Dương-Qua. Nó đang lạnh lại cảm thấy còn lạnh hơn. Nó nói như trách móc:

- Thưa cô nương! Chắc tôi có điều gì không tốt nên cô nương ghét tôi.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi tốt hay không, không quan hệ đến ta. Ta chưa hề biết ghét thương ai cả, suốt đời ta chỉ biết ngôi mộ đài nầy.

Dương-Qua hỏi:

- Thế ra từ lúc nhỏ đến giờ cô nương chẳng hề có một lần du ngoạn sao?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta chưa hề ra khỏi Chung-Nam sơn nầy.

Dương-Qua vỗ tay lớn tiếng nói:

- Ôi chao! Thế thì uổng lắm! Cô nương không được thưởng thức bao nhiêu cảnh đẹp bên ngoài.

Tiểu-long-Nữ nói:

- ở ngoài bất quá cũng là rừng núi, trăng thanh, gió mát là cùng. Những cái đẹp đó nơi đây cũng có.

Dương-Qua nói:

- Nào phải có thế thôi! ở mộ đài tuy đẹp, song nhìn mãi cũng chán mắt. Còn cảnh đẹp bên ngoài biến ảo không cùng, mỗi nơi có cái đẹp mỗi khác, chẳng bao giờ làm cho ta chán được.

Rồi ngay lúc đó, Dương-Qua thuật lại cho Tiểu-long-Nữ nghe những chuyện xảy ra trong cuộc đời nó từ tấm bé, và những cảnh đẹp đó đây, mà vì hoàn cảnh nó đã trải qua.

Với tài ăn nói của nó, nó thêu dệt nhiều chỗ làm cho câu chuyện trở nên kỳ thú, lạ lùng.

Đối với Tiểu-long-Nữ, một cô gái từ tấm bé đến giờ chưa bước ra khỏi ngôi mộ, nào có hiểu đời là gì, nên dầu Dương-Qua có thêu dệt thế nào nàng cũng cho là sự thực.

Nghe Dương-Qua kể một lúc, nàng buông tiếng thở dài.

Dương-Qua nói:

- Thưa cô nương! Tôi muốn dẫn cô nương đi du ngoạn, cô nương có bằng lòng chăng?

Tiểu-long-Nữ có vẻ giận dữ, mắng:

- Mi đừng nói nhảm! Lời di huấn của tổ sư để lại rằng:

"Phàm người nào đã sống ở Hoạt-tử-Nhân mộ đài thì không được ra khỏi Chung-Nam sơn nửa bước".

Dương-Qua giật mình hỏi:

- Thế tôi cũng không được ra ngoài nửa bước sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Dĩ nhiên là thế.

Dương-Qua nghe nàng nói như vậy, nghĩ bụng:

- Té ra mình không thích cảnh tù túng ở đảo Đào-hoa, đem thân đến đây để bị giam hãm thì đời sống còn gì là vui nữa. Chẳng lẽ thân ta sống để chôn vùi trong mộ đài nầy sao?

Tuy nghĩ thế, song gần Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cũng cảm thấy không còn cô độc nữa. Dẫu có ở mãi trong mộ đài nó thấy cũng vui.

Trong lúc chuyện trò với Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua quên cả lạnh. Đến khi Tiểu-long-Nữ không nói chuyện nữa, nó cảm thấy rét buốt tràn trề, liền nói:

- Cô nương có thể tha cho tôi khỏi nằm nơi giường đá nầy chăng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi có muốn cho các đệ tử môn phái Toàn-Chân tha cho mi đừng đánh mi nữa chăng?

Dương-Qua nói:

- Họ là những kẻ thù của tôi! Nếu họ giết tôi, tôi cũng không khi nào xin tha cả.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Như vậy sao mi nằm trên giường nầy lại than vãn.

Dương-Qua nói:

- Vì cô nương tốt với tôi! Cô nương không muốn cho tôi phải khổ cho nên tôi mới than vãn.

Tiểu-long-Nữ từ nhỏ nhờ ơn sư mẫu và Tôn bà nuôi nấng dạy dỗ, đã hai mươi năm trời chỉ biết sống gần hai người cao tuổi ấy mà thôi. Hai người nầy tuy đối với nàng thực là tốt, nhưng từ buổi nàng lúc còn nhỏ họ đã dụng ý đào luyện nàng thành một người mất cả thất tình: "hỉ, nộ, ái, ố, dục" để có thể nối dõi rèn luyện môn "Ngọc nữ tâm kinh" là ngón võ duy nhất và lợi hại nhất của Cổ Mộ đài.

Bởi vì muốn luyện "Ngọc nữ tâm kinh", điều căn bản trước tiên là phải cởi bỏ thất tình đi đã.

Ngày nay, Dương-Qua tới chốn này, mang vào đây những tình cảm nồng nhiệt của một thường nhân thật là trái mong muốn của các bậc tiền nhân trong mộ đài vậy.

Tiểu-long-Nữ từ khi thừa tiếp Dương-Qua đã rõ lẽ đó, song vì có lời Tôn bà, không dám làm khác hơn.

Dương-Qua thấy bề ngoài Tiểu-long-Nữ vẫn với thái độ lạnh lùng song bên trong không khỏi có tình cảm với nó. Nó nói:

- Ôi chao! Cô nương bắt tôi nằm đây lạnh quá có lẽ tôi hông còn chịu nổi nữa.

Thực ra, chiếc giường ấy lạnh lắm, song không đến nỗi làm cho Dương-Qua lồng lộn lên như thế. Một phần nào nó giả vờ để thử lòng Tiểu-long-Nữ đối với nó.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi đừng than vãn gì cả. Ta sẽ cho mi nghe sự ích lợi của chiếc giường nầy.

Dương-Qua nghe nói mừng quýnh hỏi vội:

- Hay lắm! Xin cô nương vui lòng cho tôi biết một chút. Vì đâu nó lại lạ lùng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Lúc nãy ta nói với mi là những khách anh hùng trong thiên hạ vị tất đã hiểu được cái huyền diệu của chiếc giường nầy. Tổ sư phu nhân ta đã phải mất bảy năm công trình lao tâm lao lực đến mãi tận miền băng tuyết đào hàng trăm trượng dưới đất sâu mới lấy được thứ ngọc lạnh nầy đem về luyện nội công. Nằm trên giường ngọc nầy luyện nội công trong một năm thì hiệu quả bằng mười năm.

Dương-Qua kinh ngạc nói:

- à ra lai lịch chiếc giường nầy là thế? Chiếc giường bằng ngọc mà tôi không biết cứ ngỡ là đá!

Tiểu-long-Nữ nói tiếp:

- Lúc đầu mi ngủ trên giường nầy thấy lạnh buốt không chịu nổi, phải vận dụng hết sức để kháng cự lại sức lạnh đó. Nhưng lâu ngày thành thói quen tự nhiên ngủ được. Ngay trong giấc ngủ, tự nhiên cơ năng vẫn vận dụng tình lúc để đề kháng. Như vậy là cơ năng suốt ngày đêm luyện tập không lúc nào nghỉ.

Theo người thường khi luyện nội công chỉ luyện lúc thức mà thôi, đến khi ngủ thì cơ năng trở lại bình thường. ấy vậy, họ tập được bao nhiêu thì phải phí đi một ít trong lúc nghỉ ngơi. Đằng nầy, chúng ta nhờ chiếc giường có thể luyện từ ban đêm, từ trong giấc ngủ. Suốt ngày đêm cơ năng luôn luôn tiến tới để chiếm đoạt sức đề kháng bên ngoài. Do đó nội công tiến bộ phi thường.

Dương-Qua vốn thông minh và lanh lợi nghe nàng nói đến đâu là lãnh hội đến đó.

Nó hỏi:

- Nhưng tại sao lại phải nằm trên chiếc giường lạnh buốt nầy?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta đã bảo rằng muốn luyện nội công tất cơ năng con người phải vượt qua sức uy hiếp của mãnh lực bên ngoài. Nằm trên giường tức là luyện cho sức nóng chống lại với lạnh. Lạnh mạnh quá, sức nóng phải thua chạy vào trong trở vào tiềm phục trong huyệt đạo của nó. Dần dần quen, thân thể người luyện tập hóa thành nước. Tiến hơn lên bước nữa, nước hoá thành băng tuyết so với sức lạnh của hòn ngọc chỉ mới một phần mười. Đại phàm tập luyện nội công là phải hàm súc chân hỏa không bao giờ để nó thoát ra ngoài sào huyệt của nó. Hàn ngọc là một vật chí âm. Lạnh nhiều tức cũng là hàm dưỡng sức nóng. Sức nóng đã được tập trung đến cực độ thì đến lúc vận dụng chân hỏa chúng ta sẽ đạt được một sức mạnh phi thường không gì sánh kịp.

Dương-Qua hiểu ra, sung sướng nói:

- Thưa cô nương, cô nương đối với tôi thật chí tình. Tôi đã được nằm trên giường nầy rồi chắc sau nầy không còn phải sợ một ai trong võ lâm nữa. Ngay như Quách, Hoàng tôi cũng chẳng sợ. Còn như Triệu-chí-Kính với sức nội công ấy chắc tôi sẽ đuổi kịp.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:

- Di huấn của Tổ sư phủ nhận chẳng cho một ai trong mộ đài này có tính hiềm khích. Muốn tập luyện mi phải bỏ hết thú hắn và ý nghĩ ganh đua mới được.

Dương-Qua nói:

- Tôi xin vâng lời cô nương. Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu vì đâu bọn họ lại khi dễ tôi, ghen ghét tôi, họ lại dám đánh chết Tôn bà người tôi yêu quí. Cái chết của Tôn bà, cô nương cũng không cho phép tôi được thù hận họ sao.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ai là người chẳng phải chết? Vì dù Tôn bà chẳng chết vì Xích-đại-Thông thì vài ba năm nữa cũng phải chết vì duyên cớ khác. Sống thêm ít năm hay chết trước ít năm nào có nghĩa lý gì. Ta không muốn rằng từ nay trở đi mi còn nói đến chuyện oán hận, phục thù...

Dương-Qua xem chừng lời nói ấy có lý lắm, song nó vẫn không khỏi thắc mắc trước hoàn cảnh của nó đã trải qua.

Tiểu-long-Nữ dò hỏi xem cha nuôi của nó là Âu-dương-Phong dạy nội công cho nó như thế nào.

Nó lần lượt kể lại sự thật tất cả. Tiểu-long-Nữ bảo nó áp dụng nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy, xem có hiệu quả gì chăng.

Nó lấy gân suốt từ đầu đến chân nằm thẳng đờ trên giường đá lạnh buốt. Khí lực chuyển khắp nơi trong mình nó. Nó thấy khắp người nóng ran. Nó nằm nghiêng một phía mắt nhắm lại, cố mơ màng để ngủ.

Nhưng nó ngủ được một khoảng ngắn thì khí nóng trong người nó lại tiêu tan đâu mất. Cả người nó lạnh buốt như cũ.

Nó lại vận gân cốt nữa. Rồi cứ thế, ngủ và thức, nóng và lạnh cứ tiếp diễn mãi suốt đêm.

Tuy nhiên, đến sáng trong mình nó không chút mệt nhọc. Nó cảm thấy tinh thần thanh sảng vô cùng.

Tiểu-long-Nữ sờ trán nó, thấy nhiệt độ điều hòa lấy làm lạ tỉ tê hỏi nó.

Nó đem việc áp dụng phương pháp nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy kể lại.

Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:

- Mỗi người có một lối tập luyện và phương pháp nào cũng lợi cả.

Nàng nghiền ngẫm lối nội công của thân mẫu Dương-Qua và lối nội công của Âu-dương-Phong rồi đem so sánh với lối tập luyện của nàng. Bấy giờ nàng không còn có ý khinh thường các môn phái khác nữa.

Sáng hôm ấy, hai người dùng cơm xong, Dương-Qua xuống dưới bếp rửa chén, và làm những việc thay thế Tôn bà.

Khi Dương-Qua trở lại phòng lớn, Tiểu-long-Nữ bảo nó:

- Ta có một điều cần hỏi mi. Vậy mi phải suy nghĩ kỹ càng trước khi trả lời mới được.

Dương-Qua thưa:

- Việc gì xin cô nương cứ dạy.

Tiểu-long-Nữ nói:

Mi muốn nhận ta làm thầy mi chăng? Và suốt đời mi có chịu nghe ta chỉ dạy chăng?

Dương-Qua không ngần ngừ đáp:

- Sao cô nương lại nói thế. Tôi nguyện sống với cô nương, nhờ cô nương, chỉ bảo mà.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Nếu mi không nhận ta làm thầy mà ta chỉ dạy cho mi sau nầy thế nào mi cũng bỏ ngôi mộ nầy mà đi.

Dương-Qua nói:

- Tôi xin nhận cô nương làm thầy. Dù cô nương không truyền cho tôi chút võ nghệ nào tôi vẫn coi cô nương như bậc sư phụ, lúc nào tôi cũng vâng theo lời cô nương không chút trái ý.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Tại sao ta không truyền võ nghệ cho ngươi mà ngươi vẫn kính ta là thầy?

Dương-Qua nói:

- Thưa cô nương, lòng cô nương đối đãi với tôi như vậy lẽ nào tôi không biết.

Tiểu-long-Nữ tươi hẳn nét mặt, nói:

- Được, ta sẽ xem mi có thành thực với ta chăng? Mi có chịu nghe lời ta chăng? Mi đã nhận ta làm thầy vậy phải ra đằng sau làm lễ.

Dứt lời nàng bước ra phía phòng sau. Dương-Qua vội vã nối gót theo.

Đó là một căn phòng không trần thiết vật gì cả, ngoài hai bức chân dung treo ở vách tường.

Vách tường phía Tây treo một bức họa, vẽ hình hai thiếu nữ một người trạc độ hai mươi lăm tuổi, đang đứng trước gương chải đầu và sửa sang quần áo. Một người trạc độ mười sáu tuổi một tay đang cầm một cái bồn đứng hầu bên cạnh.

Người thiếu nữ nhiều tuổi lông mi dài đẹp, đôi mắt như có ẩn sát khí căm hờn.

Dương-Qua nhìn hai bức chân dung không hiểu gì cả.

Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chân dung người thiếu nữ lớn tuổi nói:

- Đây là di ảnh sư tổ phu nhân. Mi phải quỳ xuống ra mắt.

Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Người ấy là sư tổ phu nhân sao? Tại sao lại ít tuổi như thế? Thưa cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bức di họa đó về lúc sư tổ còn trẻ tuổi.

Dương-Qua nghe Tiểu-long-Nữ nói thế, lòng suy tư lẩm bẩm:

- Lúc còn trẻ... và sẽ già đi...

Nó ngắm bức tranh một hồi, chẳng biết nghĩ sao, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn nó, đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa.

Tiểu-long-Nữ vô tình, không làm sao hiểu được mối cảm xúc của nó, lại chỉ vào bức chân dung thứ hai, nói:

- Đây là ảnh sư mẫu ta, mi phải quỳ xuống làm lễ.

Dương-Qua sụp lạy, nghĩ thầm:

- Sư tổ, sư mẫu đều ít tuổi cả, và ai cũng có sắc đẹp phi phàm. Chẳng hiểu đến lúc già, sắc đẹp họ ra sao nhỉ?

Tiểu-long-Nữ đợi Dương-Qua bái kiến xong, mới chỉ sang bức tường phía đông, nơi có treo một bức ảnh, nói:

- Mi hãy khạc nhổ vào hình đạo nhân này.

Dương-Qua liếc mắt nhìn thấy người đạo sĩ trong tranh dáng điệu cao lớn, lưng giắt thanh trường kiếm, tay phải đang chỉ về hướng đông bắc, lưng xây ra ngoài nên không trông rõ mặt.

Nó ngạc nhiên hỏi:

- Người ấy là ai? Vì sao phải khạc nhổ?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Đó là giáo chủ của môn phái Toàn-Chân tên Vương-trùng-Dương. ở đây đã có lệ, hễ làm lễ trước Tổ sư phu nhân xong rồi thì phải quay sang khạc nhổ vào bức hình đó.

Dương-Qua đã sẵn có thành kiến ghét môn phái Toàn-Chân, nên khi nghe nàng bảo, không ngần ngừ gì cả, liền khạc nhổ vào bức họa Vương-trùng-Dương một bãi rất lớn.

Đoạn nó hỏi:

- Thưa cô nương. Tổ sư phu nhân có gì oán hận Vương-trùng-Dương sao?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Đúng vậy.

Dương-Qua nói:

- Thế sao không đem bức ảnh của hắn liệng quách ra ngoài rừng còn treo nơi đây làm gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta cũng chẳng hiểu nữa, chỉ nghe thấy sư mẫu và Tôn bà bảo là những người đàn ông trong thiên hạ không ai tốt cả.

Nói đến đấy đột nhiên nàng nghiêm sắc mặt, quay nhìn Dương-Qua:

- Mai này lúc lớn lên, nếu mi có những điều xấu xa mi sẽ coi ta có tha thứ cho mi chăng?

Dương-Qua nói:

- Tuy nhiên cô nương sẽ tha thứ cho tôi.

Câu nói bất ngờ và đột ngột ấy của Dương-Qua làm cho Tiểu-long-Nữ chột dạ. Nàng vốn có tánh uy hách, muốn cảnh cáo Dương-Qua không ngờ Dương-Qua lại nói thế.

Nàng trừng trừng nhìn Dương-Qua bảo:

- Hãy quỳ xuống lạy sư mẫu của mi đi.

Dương-Qua nói:

Thưa cô nương! Việc quỳ lạy sư mẫu là việc dĩ nhiên rồi, tôi không thể nào từ chối. Song xin cô nương nhận cho đệ tử này một điều kiện đã.

Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:

- Xưa nay chỉ có bậc sư phụ mới buộc đệ tử điều kiện này điều kiện nọ chứ làm gì có chuyện môn đồ buộc sư phụ phải theo điều kiện.

Tuy nhiên, nàng vẫn trầm tĩnh muốn tìm hiểu ý muốn của hắn thế nào.

Nàng hỏi:

- Được. Mi muốn gì cứ nói, ta sẽ xét nghĩ cho.

Dương-Qua nói:

- Lòng tôi kính cô nương như sư mẫu. Cô nương dạy bảo tôi cũng nghe, không dám sai lời. Song cô nương cho phép tôi gọi bằng cô nương, không gọi bằng sư mẫu có được chăng?

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Như thế nghĩa là thế nào?

Dương-Qua thưa:

- Tôi đã có những người từng làm sư phụ tôi. Những người đó đều không tốt đối với tôi, nên lòng tôi oán hận lắm. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng nguyền rủa sư phụ tôi. Chẳng lẽ bây giờ tôi gọi cô nương bằng sư mẫu, cũng là bậc sư phụ, thì thế nào cũng sẽ lẫn lộn giữa người thương và kẻ ghét. Xin cô nương chăm chước cho tôi điều đó.

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua có ý nghĩ ngộ nghĩnh, mỉm cười, hỏi:

- Thế ra mi chỉ kính ta trong lòng thôi sao?

Dương-Qua nói:

- Không phải! Tôi kính cô nương cả trong lòng, ngoài mặt, và suốt đời, song chỉ không gọi là sư mẫu mà thôi.

Tiểu-long-Nữ vốn còn trẻ tuổi cũng chẳng cần tiếng gọi sư mẫu sớm, nàng gật đầu nói:

- Được, ta bằng lòng đó.

Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:

- Được, ta bằng lòng đó.

Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:

- Đệ tử Dương-Qua, tôi từ nay trở đi kính bái Tiểu-long-Nữ cô nương làm thầy. Kể từ đây tôi vĩnh viễn nghe lời cô nương. Nếu cô nương gặp điều gì hiểm nghèo cùng quẫn tôi sẽ đem cả tính mệnh ra để bảo vệ cô nương. Nếu có người nào làm nhục cô nương tôi quyết tâm giết hắn.

Thực ra, lúc đó Dương-Qua cũng chưa biết Tiểu-long-Nữ võ nghệ đến bực nào. Nó chỉ thấy Tiểu-long-Nữ là người trang nhã, kiều mị, khả ái, nên nó đem lòng kính mến, muốn được con người đẹp như thế bảo vệ cho mình, và nguyện đem thân để phụng sự người đẹp mà thôi. Đó cũng là bản tính tự nhiên của những chàng trai đối với phái nữ lưu vậy.

Lời nói của nó mỗi lúc một khẳng khái hơn, bộc lộ sự thành khẩn, làm cho Tiểu-long-Nữ không khỏi động tâm.

Dương-Qua vập đầu làm lễ xong, đứng dậy với nét mặt vui mừng hớn hở.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi quá nhiều thiện chí đối với ta. Ta chỉ sợ tài nghệ của ta không đủ cho lòng ngưỡng mộ của ngươi, không chắc đã thắng các vị lão thành trong môn phái Toàn-Chân và chưa chắc đã thắng nổi Quách-Tỉnh, sư bá của mi.

Dương-Qua nói:

- Những người ấy chẳng can hệ gì đến tôi. Họ có giỏi họ cũng chẳng truyền dạy cho tôi được chút nào. Xin cô nương cứ thương tình truyền dạy cho đệ tử là được.

Tiểu-long-Nữ thở dài nói:

- Dẫu ta có cố gắng truyền dạy cho mi thành tài thì cũng chẳng ích gì, vì suốt đời mi không được ra khỏi chốn nầy. Và ở nơi mộ đài nầy thực là vô sự.

Dương-Qua hỏi:

- Nếu học hành mà không đem tài năng thi thố với anh hùng thiên hạ thì chẳng uổng công tập luyện lắm sao?

Tiểu-long-Nữ trầm lặng, mắt mơ màng như nghĩ đến điều gì xa xăm, nàng nói:

- Ta dạy mi để mi trông coi mộ đài, để ta rảnh rang có dịp phải đi xuất du một lần.

Dương-Qua nghe nói đến việc phải ở trong mộ đài một mình, đâm ra lo sợ, nói như mơn trớn:

- Này cô nương! Hay là cả tôi lẫn cô nương, hai ta cùng đi nhé.

Tiểu-long-Nữ gườm vào mặt nó, nói:

- Mi đã thề vĩnh viễn nghe theo lời ta, sao mới đó đã trái ý?

Dương-Qua thở dài nói:

- Tôi sợ... lắm!

Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt bảo:

- Là tu mi nam tử, muốn trở thành bậc trượng phu mà lại sợ thì còn làm nên trò trống gì. Thế mà mi nói vì ta mi đánh những kẻ toan làm hại...

Câu nói ấy chạm vào lòng tự ái của đứa bé đã quyết tâm. Nó suy nghĩ một lúc rồi hăm hở bảo:

- Được! Tôi sẽ ở lại một mình. Nhưng thế nào cô nương cũng mau trở về nhé.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng như không mấy để ý đến lời nói của Dương-Qua, nàng nói trong ngớ ngẩn:

- Chẳng thể định trước được! Còn phải xem có làm được xong công việc khi xuất mộ đài không đã! Phải bắt...

Nói đến đó, nàng lặng thinh.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- Làm được việc gì? Cô nương định bắt ai?

Tiểu-long-Nữ như sực tỉnh, nhìn Dương-Qua không đáp, bỏ ra ngoài.

Nàng đi khỏi, không khí trong phòng trở nên lặng lẽ phi thường. Không một tiếng động, dù là tiếng động trong không gian.

Dương-Qua phân vân chẳng biết nàng xuất mộ đài để làm gì? Để bắt ai? Chẳng biết nàng có phải qua Chung-Nam sơn để bắt bọn đạo sĩ Toàn-Chân chăng?

Nó nghĩ quanh quất một hồi rồi ung dung ra khỏi căn phòng lớn, rảo bước về phía tây. Đi chừng mười lăm bước, nó thấy tối om. Một con đường hầm bằng đá sâu ngòm chẳng biết ăn thông vào đâu. Nó lần mò theo đường hầm. Bóng tối mỗi lúc mỗi đen đặc. Nó không còn trông thấy đường nữa, phải đưa tay mò mẫm vào các tường đá để đi.

Đi mãi không tìm ra ánh sáng, nó thất kinh, quay lưng trở lại, định trở về đại sảnh.

Nhưng tìm mãi không thấy đại-sảnh đâu nữa. Những con đường hầm ngoằn ngoèo cứ dẫn nó càng đi càng tiến sâu vào bóng tôi.

Thực sự, nó đã lạc đường rồi. Nó la hoảng:

- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Cứu tôi với!

Nó chỉ nghe tiếng kêu của nó vọng lại đáp lời. Nó hoảng vía băng mình vụt chạy về phía trước.

Chạy được một lúc, nó cảm thấy chân nó bỗng nhiên nong nóng khác thường, và dưới đường có bùn. Nó đoán biết nó chẳng còn ở trong mộ đài nữa. Đó là đường mộ đài ăn thông ra hang núi này.

Nó càng sợ sệt hơn, nghĩ thầm:

- Bây giờ mình đã ra khỏi mộ đài thì làm sao cô nương trông thấy để cứu mình được. Hơn nữa, nếu cô nương bắt gặp mình bỏ trốn thì còn nguy hiểm hơn nữa.

Sờ thấy một phiến đá, nó bấu tay trèo lên, ngồi thừ ra, mặt lo lắng không ngớt.

Bỗng đàng sau nó có tiếng gọi:

- Dương-Qua! Dương-Qua!

Nghe giọng kêu, nó mừng quýnh nhận ra đó là tiếng kêu của Tiểu-long-Nữ. Nó nhảy xuống chạy về phía đó, gọi lớn:

- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Tôi ở chốn này.

Tiếng kêu ấy lại im bặt không đáp lại. Bốn bề vẫn lặng ngắt. Nó càng sợ hơn, phân vân chẳng biết tiếng gọi vừa qua là tiếng gọi của Tiểu-long-Nữ hay của ma quái.

Bỗng nhiên, tai nó đau nhói. Một bàn tay véo vào tai nó. Nó giật mình kinh sợ, quay lại, thì đó là Tiểu-long-Nữ.

Nó mừng quýnh reo lên:

- Cô nương ơi! Cô nương đến lúc nào mà tôi chẳng biết?

Tiểu-long-Nữ sừng sộ hỏi:

- Mi đến chốn này để làm gì?

Dương-Qua đáp:

- Tôi bị lạc đường.

Tiểu-long-Nữ tu mồm "suỵt" một tiếng rồi đưa tay nắm lấy nó dắt về phía đường hầm.

Trong đường hầm tối nghịt, chằn chịt như màn nhện, thế mà Tiểu-long-Nữ bước đi thoăn thoắt, lúc rẽ bên này, lúc sang lối nọ như đi giữa chốn ban ngày.

Dương-Qua khâm phục quá thốt ra miệng:

- ồ! Sao cô nương lại trông thấy nhỉ! Tôi mù mịt chẳng biết đâu là đâu cả.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta từ nhỏ sống trong chốn tối tăm nầy đã quen, chẳng cần đến ánh sáng.

Dương-Qua nói:

- Thế thì tôi có thể quen đi được như cô nương chăng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Dĩ nhiên, nếu mi là người của cổ mộ đài.

Chỉ chốc lát Tiểu-long-Nữ dắt Dương-Qua về đến đại sảnh.

Dương-Qua vừa mừng vừa sợ, thở dài nói:

- Cô nương ơi! Tôi khâm phục cô nương quá! Nhưng tôi sợ...

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sợ cái gì? Ta đã đến cứu mi dẫn về còn sợ gì nữa?

Dương-Qua nói:

- Không, tôi chẳng sợ những việc đó nữa. Tôi chỉ sợ cô lại cho rằng tôi trốn đi thì buồn quá.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Nếu mi trốn đi thì ta chẳng còn giữ lời trối trăn của Tôn bà và chẳng biết ta sẽ phải đối xử với mi thế nào đây?

Dương-Qua thì vẫn còn giữ tính tình của con người thường với đầu đen máu đỏ, còn Tiểu-long-Nữ thì từ tấm bé luyện nội công đã dứt hẳn được thất tình, nên lúc nào nàng cũng lạnh nhạt, chẳng chút bợn lòng.

Tâm lý hai người đã không giống nhau thì sự suy tư nào có giống nhau được.

Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương để tôi đi bắt, được chăng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã bắt rồi.

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương làm thế nào mà bắt được hắn? Và bắt hắn để làm gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bắt hắn để về luyện tập võ nghệ cho mi. Mi hãy theo ta ra ngoài nầy.

Dương-Qua bước theo Tiểu-long-Nữ, nhưng lòng phân vân tự hỏi:

- Cô phải nàng đã bắt một người trong phái Toàn-Chân chăng?

Nếu nàng bắt một người trong phái Toàn-Chân đem về luyện võ nghệ cho mình thì còn gì thú vị nữa.

Tuy phân vân, song không dám hỏi, Dương-Qua lặng lẽ lẽo đẽo theo chân Tiểu-long-Nữ.

Hồi 15 Thiên La địa võng: thế nhập môn của phái cổ-mộ Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn phòng nhỏ xây toàn bằng đá. Mở cửa bước vào trong thấy phòng vừa chật vừa thấp, phải đi cẩn thận để khỏi va chạm. Nóc nhà cũng toàn bằng đá. Dương-Qua đi theo, lòng hồi hộp nghĩ chắc phòng này thế nào cũng có nhốt một tên Đạo sĩ của phái Toàn-Chân. Một chập sau nhìn không thấy gì hết, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, người Đạo sĩ nhốt chỗ nào rồi?

- Tại sao lại hỏi như vậy, làm gì có Đạo sĩ!

- Thế không phải cô đã bắt Đạo sĩ đem về đây để luyện võ cho tôi sao?

Tiểu-long-Nữ mỉm cười chỉ vào trong và nói:

- Ta nào có bắt Đạo sĩ, mà chỉ tìm thứ này cho ngươi thôi, tý nữa sẽ thấy.

Nói xong, nàng bước thêm vài bước rồi cúi lom khom lấy một cái túi vải đặt tại góc phòng, hí hoáy mở nút. Bỗng có tiếng vỗ cánh, ba con chim sẻ vụt bay ra.

Dương-Qua vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng chưa dám hỏi, tự nghĩ:

- Chẳng lẽ nào cô nương xuất mộ đài để bắt chim sẻ ư?

Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua tìm cách bắt lại ba con chim sẻ ấy cho nàng, nhưng không được làm chúng bị thương tích lũy rụng lông.

Tưởng dễ ăn, Dương-Qua vội đáp:

- Vâng tôi sẽ bắt được liền!

Nhưng sự thật đâu phải dễ. Chim sẻ vừa nhỏ vừa lanh lẹ, bay nhảy lung tung từ đông sang tây, từ cao xuống thấp. Dương-Qua chụp mãi mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc vẫn không chụp được con nào, phải đứng thẫn thờ nhìn theo, mặt có vẻ bẽn lẽn.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười bảo nếu không bắt được, nàng sẽ dạy phương pháp. Lúc đầu nàng dạy lối đứng trên cao nhảy xuống để chụp.

Có tánh thông minh sẵn, Dương-Qua dư hiểu nàng lợi dụng lối bắt chim sẻ để luyện võ cho mình, nên nó chăm chú nghe và để ý bắt chước làm theo y như lời dạy.

Nói thì dễ, nhưng đưa ra làm thật quả là khó. Tuy nhiên sau khi chỉ bảo kỹ, nàng dặn thêm phải bền chí và cố gắng tập thành thuộc rồi bỏ đi ra ngoài ngay.

Suốt ngày hôm ấy, Dương-Qua mệt nhoài người không bắt được con nào. Chiều đến cơm nước xong, Dương-Qua lại lên giường lạnh luyện nội công và ngủ.

Suốt ngày hôm sau và ba bốn hôm nữa vẫn chưa bắt được con nào hết. Nó đổi cách nhảy, lối rình và chụp nhưng không kết quả, lòng vừa buồn vừa chán nhưng vẫn cố gắng tiếp tục.

Mãi đến ngày thứ năm nó mới vồ được một con. Nó hân hoan cầm con sẻ đến trình với Tiểu-long-Nữ, nhưng nàng chỉ lạnh lùng bảo:

- Một con thì được tích sự gì đâu? Phải bắt cho được ba con.

Dương-Qua nghĩ hễ bắt một con rồi thì ba con bắt chẳng khó gì. Nhưng suốt hai ngày sau vẫn không bắt được con nào nữa.

Thấy ba con sẻ đã đói và mệt nhiều nên Tiểu-long-Nữ đem gạo vào cho chúng ăn rồi thả bay mất. Đoạn nàng tìm bắt ba con khác vào thả trong phòng cho Dương-Qua tập nữa.

Mãi đến ngày thứ tám, Dương-Qua mới bắt được cả ba con sẻ. Thấy nó bắt đã thuần thục, nàng bảo:

- Thôi được rồi! Bây giờ đi theo ta tới Trùng-Dương cung.

Dương-Qua ngạc nhiên quá, vội hỏi:

- Theo cô, đến đó để làm gì?

Nàng không trả lời, chỉ rảo bước đi ra, nó vội vàng chạy theo.

Sau mấy ngày luyện tập trên giường hàn ngọc và bắt sẻ, Dương-Qua thấy đã tiến bộ nhiều. Bước đi nhẹ nhàng thoăn thoắt, mạnh và chắc chắn hơn trước.

Đến gần Trùng-Dương-cung, Tiểu-long-Nữ lớn tiếng gọi:

- Triệu-chí-Kính đâu, ra đây mau!

Tiếng nói lanh lảnh vọng đi rất xa và rõ mồn một. Một chập sau cửa Trùng-Dương-cung mở rộng, có mười đạo sĩ đi ra. Hai người đi đâu dìu Triệu-chí-Kính đi chầm chậm, bước từng bước một, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc, mắt thâm quầng, da mét xanh, chân run lẩy bẩy.

Vừa trông thấy hai người đến gần các đạo sĩ đã rút kiếm hờm sẵn, nét mặt hầm hầm.

Tiểu-long-Nữ rút bọc lấy một bình nhỏ bằng sứ đưa cho Dương-Qua bảo lớn:

- Mi đưa bình này cho Triệu-chí-Kính, đấy là mật ong trắng, dùng làm thuốc chữa nọc độc đấy.

Nhìn thấy mặt Triệu-chí-Kính, Dương-Qua cảm thấy oán hận tràn trề, máu nóng xông lên, chỉ muốn túm lấy đánh cho đã giận. Nhưng không dám làm phật ý cô nương trước mặt người lạ, nó lẳng lặng tiếp lấy bình mật, nhanh nhẹn đem giao cho Triệu-chí-Kính.

Tất cả các người của Trùng-Dương-cung đoán chắc Tiểu-long-Nữ đến đánh để phục hận và trả thù cho Tôn bà, nhưng không ngờ nàng lại đem mật đến để cứu Triệu-chí-Kính, cho nên ngạc nhiên đứng ngẩn người không biết nói năng làm sao.

Đặt bình mật trước mặt Triệu-chí-Kính xong, Dương-Qua liếc nhìn y với cặp mắt khinh bỉ rồi lầm lũi chạy trở lại.

Vừa nhìn thấy Dương-Qua, Tỉnh-Quang giận sôi không dằn nổi, ở trong đám đông bước ra quát lớn:

- Thằng nhắt con, đã đến trước cửa thầy, tại sao còn bỏ chạy?

Nói xong hắn nhảy xổ theo Dương-Qua cố đánh cho được để trả mối thù trước kia bị Dương-Qua dùng "Hàm mô công" đánh gần chết, may nhờ Mã-Ngọc cứu thoát.

Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:

- Hôm nay ngươi không được ra tay đánh đập đấy nhé!

Dương-Qua đang chạy bỗng nghe tiếng chân phía sau và thoáng một luồng gió lộng như có bàn tay chộp trên lưng.

Nhờ bao nhiêu ngày luyện công trên giường hàn thạch và tập bắt sẻ là những phương pháp tối điệu riêng biệt của phái Cổ Mộ đài, Dương-Qua đã thấy tiến bộ nhiều và chủ động được ý muốn, cử chỉ mình. Nó bình tĩnh ngồi sụp xuống, đưa tay khẽ đẩy một bên, Tỉnh-Quang đang hăm hở chạy đến, bất ngờ lại bị nó đẩy ngang một cái mất thăng bằng, té lăng đùn như trời giáng.

Khi lóp ngóp đứng dậy được thì thấy Dương-Qua đã đến bên cạnh Tiểu-long-Nữ rồi. Tỉnh-Quang tức cành hông, la hét om sòm, toan chạy đến đánh nữa, nhưng bỗng một đạo sĩ xông đến khóa cánh tay hắn lôi về hàng cũ. Tỉnh-Quang cảm thấy cánh tay tê buốt, toàn thân cứng đờ không cưỡng nổi, phải riu ríu bước đi và ngó lại thấy đó là sư thúc Doãn-chí-Bình.

Doãn-chí-Bình mắng thêm mấy câu rồi đuổi hắn ra phía sau đám đông.

Doãn-chí-Bình lễ phép bước tới nói:

- Đa tạ cô nương đã có lòng tốt đem thuốc cho chữa bệnh.

Nói xong cúi đầu làm lễ.

Tiểu-long-Nữ không đáp lễ chỉ nắm tay Dương-Qua bảo:

- Thôi, chúng ta về!

Doãn-chí-Bình nói thêm:

- Dương-Qua là đệ tử của phái Toàn-Chân, cô nương định chiếm bắt nó hay sao?

Nàng lạnh lùng đáp:

- Tôi không thích nhiều lời.

Nói xong nàng kéo Dương-Qua thoăn thoắt trở về Cổ Mộ đài. Tất cả các đạo sĩ chỉ biết ngẩn người nhìn theo cho đến khi hai người đi khuất vào rặng cây rừng đàng xa.

Về đến Cổ Mộ đài Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Võ công của mi có mòi tiến bộ hơn trước chút ít, nhưng lối đánh tên đạo sĩ mập té như thế chưa phải cách chút nào.

Dương-Qua lễ phép thưa:

- Thưa cô nương, tên đạo sĩ ấy đã từng đánh tôi bị thương nặng, tiếc rằng cô nương đã ra lệnh nên hôm nay tôi chưa được cơ hội đánh trả thù cho hả dạ. Nhưng thưa cô nương, vì sao tôi không được đánh hắn?

Tiểu-long-Nữ bắt đầu đáp:

- Không phải là mi không được đánh hắn, nhưng ta thấy võ nghệ mi còn non kém, chưa muốn cho thi thố trước mặt người. Lối đánh ngã sấp không phải cách. Cần đánh cho hắn ngã ngửa mới được.

Dương-Qua mừng rỡ hỏi ngay:

- Thưa cô nương, làm sao đánh được như thế, cô nương dạy tôi nhé!

Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua giả làm lão đạo sĩ mập còn mình giả làm Dương-Qua. Nàng vừa nói chuyện vừa chầm chậm đi tới.

Dương-Qua thích chí tiến tới toan chụp lấy Tiểu-long-Nữ. Nhưng Tiểu-long-Nữ hình như nhìn thấy phía sau cho nên hễ nó đuổi mau thì nàng bước mau, nó đuổi chậm thì nàng bước chậm lúc nào khoảng cách giữa hai người cũng độ một thước.

Dương-Qua vừa cười vừa nói lớn:

- Tôi bắt cô nương đây nè

Nói xong nó lạc mình về phía trước, hai tay ôm choàng ngang eo ếch nàng. Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không tránh né, chờ khi tay Dương-Qua đến gần sát, nàng dùng vai hất vào hàm nó. Dương-Qua bị một sức mạnh đẩy mạnh về phía sau loạng choạng mất thăng bằng. Nàng tiếp luôn dùng tay đánh vào hai tay nó để nó khỏi băm vào lôi nàng ngã theo.

Cả đầu và lưng ngã về sau, hai tay không chống đỡ được. Dương-Qua bị ngã bật xuống, toàn thân ê ẩm.

Tiểu-long-Nữ cầm tay mặt của nó kéo đứng dậy.

Dương-Qua mừng rỡ nói rối rít:

- Cô nương tài tình quá, lối đánh thật tuyệt diệu.

- Mi cố tập bắt sẻ cho thuần thục, tự nhiên sẽ biết những thế đánh hay ho như vừa rồi.

- Tôi đã tập bắt được rồi cơ mà.

Nàng mỉm cười nói:

- ồ, thế đã ra gì mà gọi là bắt được rồi! Nếu vậy, hóa ra võ thuật của phái ta dễ dàng quá sao?

Dương-Qua không dám nói nhiều, chỉ đứng lặng yên. Thấy nó im lặng tỏ vẻ phục thiện, nàng đưa tay bảo:

- Thôi, đi theo ta.

Dương-Qua ngoan ngoãn bước theo. Hai người đi đến một căn phòng đá khác. Phòng này rộng hơn phòng trước, có nhốt sẵn sáu con chim sẻ. Phòng lớn, sẻ lại nhiều hơn, bắt được chúng không phải dễ. Nhưng nhờ được Tiểu-long-Nữ chỉ cách bắt có qui củ và truyền thụ thuật khinh công nên sau chín ngày tập luyện, Dương-Qua đã bắt được trọn sáu con sẻ.

Cứ như thế tiếp tục, những phòng sau càng rộng hơn, số chim lại tăng thêm nữa, cuối cùng đến nhà đại sảnh, số chim sẻ tăng đến 81 con.

Ngày bắt sẻ, đêm nằm luyện công trên hàn thạch, sắc diện của Dương-Qua có mòi hưng vượng thêm, da mặt hồng hào, sức lực tăng tiến rõ rệt. Ba tháng sau nó đã bắt luôn một lúc cả 81 con sẻ.

Thấy nó tập luyện tiến bộ nhiều, Tiểu-long-Nữ mừng rỡ lắm. Một ngày kia nàng bảo:

- Hôm nay chúng ta xuất mộ tìm bắt nữa.

Suốt ba tháng liền cầm chân trong Mộ đài, nay được đi ra ngoài thật không có gì đáng mừng hơn nữa, nên Dương-Qua cuống quít vâng dạ luôn mồm.

Tiểu-long-Nữ bảo:

- Có gì mà cuống quít như thế! Lối tập luyện này không thể vội vàng hấp tấp được. Phải làm thế nào cho cả 81 con sẻ không bay thoát được.

Nói xong nàng bắt cả 81 con nhốt vào một cái túi xách đi ra khỏi Mộ đài.

Lúc này đã bước qua thượng tuần tháng ba, khí trời mát mẻ, cây cối đua nhau đâm chồi nẩy lộc đầy nhựa sống. Hoa rừng nở khắp nơi, bướm lượn từng đoàn, phơi màu sắc rực rỡ tưng bừng.

Nhìn cảnh vật ngày cuối xuân, ngửi mùi hoa rừng ngào ngạt, Dương-Qua cảm thấy cõi lòng rạo rực như một luồng sinh khí mới chạy khắp huyết quản, tâm hồn thơ thới hân hoan.

Tiểu-long-Nữ tháo dây cột túi vải cho bầy sẻ cất cánh tung bay. Nàng lấy tay gạn giúp chúng bay ra từng đàn theo thứ lớp khỏi xô đẩy nhau. Vừa được tự do, 81 con sẻ mặc tình vỗ cánh bay tứ hướng.

Nhưng nàng vận khí chuyển nơi tay, dang rộng hai tay một vòng lưới bủa. Lạ thay, cả 81 con sẻ hình như bị một lực gì bao phủ không thoát đi xa được, chỉ quanh quẩn quanh nàng chừng non một thước.

Đoạn nàng vung tay xoay múa một hồi, chưởng lực từ ngón tay chuyển đi chia thành 81 luồng điện lực cho 81 con chim, hút chúng lại gần, không con nào chạy thoát. Nàng túm từng con bỏ vào túi.

Dương-Qua trân trối nhìn, lòng lạ lùng say mê vừa nể vừa kinh ngạc.

Nó muốn hỏi, nhưng bỗng nghĩ bụng "cô nương đã dạy ta luyện công tập võ, ta cần chú tâm theo dõi để ghi lòng tạc dạ từng cử chỉ, từng điệu bộ để thấm nhuần mà tập luyện.

Nó chăm chú ngưng thần theo dõi từ lối vận chuyển xuất động nội công từ động tác một, thật là phân minh rành mạch vô cùng linh động, kỳ diệu.

Nhờ khiếu thông minh thiên phú, nó hiểu rõ rành và ghi nhớ nằm lòng để sau tập lại.

Giữ chúng một chập, nàng thu hồi dưỡng lực, phóng tay cho chúng được tự do như mở trói, 81 con chim sẻ được tự do vỗ cánh tung trời bay bổng.

Nhưng nàng múa hai vạt áo, gây thành sức gió, hút cả ầy chim sẻ cách rơi xuống đất, chim kêu chíp chíp rối rít. Mãi một chập sau chúng mới bay trở lại được.

Dương-Qua vô cùng thán phục bản lĩnh cực kỳ siêu việt và lối tập luyện kỳ lạ của nàng, kéo vạt áo Tiểu-long-Nữ và nói:

- Cô nương, tôi thấy bác Quách-Tỉnh còn kém cô nương xa, vì bác ấy không có lối luyện công này.

Nàng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt nó ôn tồn nói:

- Lối xuất nội công này gọi là "Thiên la địa võng thế", một bài nhập môn của phía Cổ-mộ đài của chúng ta đó. Mi cố sức mà luyện tập cho được nhé.

Nàng tuần tự chỉ vẽ cho nó từng cách tập, biết từng đường xuất nhân điện lực tích tụ ở đơn điền ra ngón tay, cả thảy 10 đường, mỗi đường có một động tác khác nhau.

Sau đó, liên tiếp mười ngày trọn, Dương-Qua lần lượt học hết một bài thế "Thiên la địa võng".

Tiểu-long-Nữ khi thấy Dương-Qua tập luyện đã thuần thục, nàng đưa ra một con sẻ và tập cho Dương-Qua biết cách dùng điện lực kìm chế không cho nó bay thoát, nàng dạy cách điện dụng đúng phép, chuyển ra đầu ngón tay để cho chim không bay, không nhúc nhích được. Lúc đầu Dương-Qua giữ được một giây, nhưng vì yếu sức, sơ hở, chim sẻ thừa cơ đã bay mất. Tiểu-long-Nữ dùng phép xuất nội công ra bắt trở lại.

Ngày ngày lần lượt trôi qua, việc tập luyện vẫn được tiếp tục. Dương-Qua luyện nội công đến lối vận dụng ra ngoài thành chưởng lực, không kể sớm tối, ngày đêm, gió mưa, nóng rét.

Qua hạ sang xuân, thấm thoắt Dương-Qua đã lớn như thổi. Từ một chú bé nay đã thành một thiếu niên, thân hình vạm vỡ, tiếng nói sang sảng, gương mặt đẹp thanh tú, không còn giống ngày nào trong Cổ Mộ đài.

Nhờ sự tập luyện đúng cách, sức khỏe dồi dào, lối đi đứng vững vàng, da đỏ hồng hào, hơn nữa một phần nhờ thiên tư đĩnh ngộ và Tiểu-long-Nữ tận tình dạy bảo nên bản lĩnh tăng tiến rất mau.

Cuối thu, dượt tập thuần thục các thế "Thiên la địa võng", chưởng pháp của Dương-Qua trở nên thâm hậu vững vàng, phát xuất mau lẹ, có thể sử dụng kìm chế được 81 con chim sẻ, mặc dầu đôi lúc sơ hở vẫn còn để một vài con bay thoát.

Một buổi sáng, Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Đến nay chưởng lực và nội công của mi đã tiến bộ nhiều. So với nhiều người trong giới võ lâm, chưa chắc mấy ai đối địch nổi. Bây giờ mi hãy tìm tên đạo sĩ mập ngày nọ khiêu khích hắn đấu một trận xem thử sức lực ra sao.

Nghe nói, Dương-Qua như cởi mở tấm lòng, tự thấy như lớn hơn trước nhiều. Nó hân hoan hỏi:

- Thưa cô nương, có phải cô nương muốn tôi đấu với tên Triệu-chí-Kính hay không?

Vốn biết rõ Triệu-chí-Kính là một cao thủ có hạng, thuộc hàng đệ tam đệ tứ của Toàn-Chân phái, đã từng nổi tiếng trên giang hồ, so với hắn tài nghệ của Dương-Qua còn thua kém xa, nên nàng lặng yên không trả lời.

Thấy Tiểu-long-Nữ làm thinh không đáp, Dương-Qua biết ý vội hỏi:

- Thưa cô nương, tôi chắc chưa đủ sức đấu với hắn. Thôi tôi cố gắng luyện tập ít năm nữa chẳng muộn gì. Chừng nào võ nghệ vượt được hắn sẽ tính sau. Thưa cô nương võ nghệ của phái Cổ Mộ đài tài hơn hẳn bên Toàn-Chân nhiều phải không?

Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn tấm đá gắn trên nóc nhà có khắc chữ và nói:

- Lời nói tiên tri khắc trên đá này cho biết ta và mi có thể tin nhau được. Trước đây ta có đấu với lão đạo sĩ họ Khưu bên Toàn-Chân thì quả võ nghệ ta còn kém hắn. Nhưng như thế đâu phải là phái ta thua môn phái Toàn-Chân. Chẳng qua vì ta chưa luyện được đến chỗ tuyệt diệu của võ thuật Cổ-Mộ đài. Nghe Tiểu-long-Nữ bảo Khưu-xứ-Cơ hơn nàng; Dương-Qua không được hài lòng vội hỏi tiếp:

- Thưa cô nương chỗ tuyệt diệu ấy là gì cô đã bắt đầu tập chưa và đã đến mức nào rồi?

- Bây giờ mi đã nhận ta là thầy trước bàn thờ Tổ sư phu nhân thì ta cũng có thể kể cho mi nghe một ít lai lịch về người. Tổ sư vốn họ Lâm tên gọi Triều-Anh đã nổi danh trên võ lâm nên cách bảy mươi năm về trước giới giang hồ đã có câu:

Nam Lâm Bắc Vương

Bà lại hơn ông

Nam-Lâm tức là tổ sư phu nhân của ta quê ở Quảng-Tây, Bắc-Vương là Vương-trùng-Dương quê ở Sơn-Đông.

Trong thời bấy giờ hai vị là người giỏi nhất trong hạng võ nghệ cao cường, khó mà phân biệt ai hơn ai kém. Sau này vì phải lo khởi nghĩa đánh giặc Kim nên Vương-trùng-Dương phải gác việc tập luyện để lo việc nước. Trong lúc đó tổ sư phu nhân vẫn tiếp tục trau dồi bản lĩnh. Như thế đương nhiên phải vượt hẳn Vương-trùng-Dương một bực, nghĩa là bà đã thắng ông.

Sau này vì thất bại trong việc lớn, Vương-trùng-Dương phẫn chí lui về trong Cổ Mộ này để trau dồi lại võ nghệ.

Khi ấy tổ sư phu nhân lại xuất bước giang hồ làm việc nghĩa và có dụng ý chờ đợi Vương-trùng-Dương hạ sơn lần nữa. Một thời gian dài trôi qua hai người không hề gặp nhau. Sau đó không hiểu vì một lẽ gì bất hòa cả hai đánh cá với nhau và đấu võ. Vương-trùng-Dương thua nên nhường Cổ-Mộ đài cho phu nhân. Ta sẽ đưa mi đi coi để thấy các di tích của hai vị tiền bối ấy.

Tất cả các nơi trong Cổ-Mộ đài đều kiến trúc bằng đá. Không hiểu các vị đã dùng cách nào xây dựng nên.

Ngay sau đó, Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn nhà kiến trúc thật lạ lùng. Bên ngoài hẹp, bên trong rộng hình như cái thang, phía đông có một khoảnh hình bán nguyệt và phía tây một khoảnh hình tam giác.

Thấy lạ lùng quá, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, tại đây kiến trúc sao kỳ lạ thế này?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Chính đây là nơi Vương-trùng-Dương dùng để luyện võ. Phía trước hẹp để xuất chưởng lực tập trung, phía sau rộng để sử dụng quyền thuật, bên khoảnh tròn để sử dụng bát xà mâu. Dương-Qua chạy tung tăng khắp nơi nhìn kỹ và nhận thấy đây quả là một cung đài vừa sâu vừa cao. Nhưng Tiểu-long-Nữ đưa tay trở lên trên mà bảo rằng:

- Nơi đây thể hiện tất cả những cái tinh túy ảo diệu nhất của võ nghệ mà Vương-trùng-Dương đã ghi chép.

Nhìn theo ngón tay của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua nhận thấy có khắc sâu vào đá những nét ngòng ngoèo như chữ bùa hay hình chữ cổ tự, chỗ sâu chỗ cạn, nét nào cũng rõ ràng tinh xảo, diễn tả sự linh động của sự kỳ diệu tinh vi.

Bước qua một bên, Tiểu-long-Nữ khép một cánh cung thì thấy một cánh cửa đá từ từ mở rộng. Nàng đốt một cây đèn cầy soi đường và nắm tay Dương-Qua dắt vào.

ở đây cũng có một căn phòng nữa bằng phòng bên kia, xây toàn bằng đá, phía trước rộng, phía Tây tròn và phía Đông hình ba góc.

Nhìn kỹ trên nóc đá, Dương-Qua cũng trông thấy những nét chữ và dấu hiệu khắc sâu diễn tả những phù chú và có nơi chạm hình người.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chốn này thì chép lại tất cả những linh diệu kỳ ảo của vũ thuật của tổ sư phu nhân.

Xưa kia Tổ sư phu nhân chiếm lại tòa Cổ-Mộ của Vương-trùng-Dương không phải vì tài nghệ mà nhờ xảo kế. Thật ra bản lãnh của người so với Vương-trùng-Dương vẫn còn thua sút. Nhưng suốt bao nhiêu năm sống ẩn dật tại đây, người đã khổ tâm nghiên cứu tất cả những tinh diệu đã học phối hợp với võ nghệ của Vương-trùng-Dương rồi sáng chế ra được một pho võ công hết sức tinh vi. Tất cả nhưng thế độc đáo của người đều có ghi khắc vào đây để lưu hậu thế.

Nghe nàng kể, Dương-Qua vừa mừng vừa kỳ lạ, nên khi Tiểu-long-Nữ dứt lời nói đã nói ngay:

- Thưa cô nương, như vậy thật là lạ lùng đáng phục thật. Bọn Khưu-xứ-Cơ, Xích-đại-Thông và bọn bên phái Toàn-Chân dẫu có tài giỏi bất quá cũng như Vương-trùng-Dương là cùng. Pho võ công này tổ sư phu nhân đã dùng cả võ thuật của hai người chế biến thêm ra thì quả đã đều một mức cao diệu hơn rồi. Nếu cô nương luyện xong các ngón này, chắc chắn sẽ thắng được bọn họ dễ dàng như bỡn.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Đúng đấy, nhưng chỉ tiếc ta không có người phụ giúp.

Dương-Qua đáp ngay:

- Tôi xin lãnh phần ấy.

Tiểu-long-Nữ điềm tĩnh nhìn nó rồi bảo:

- Mi không làm được việc ấy đâu.

Dương-Qua cụt hứng và bẽn lẽn đỏ mặt làm thinh nhìn nơi khác.

Tiểu-long-Nữ giải thích thêm:

- Môn võ thuật nầy Tổ sư phu nhân đặt tên là "Ngọc-Nữ Tâm-Kinh". Luyện môn nầy cần phải có hai người để hòa hợp công lực và phù trợ lẫn nhau mới có kết quả. Xưa kia Tổ sư phu nhân đã có dạy cho ta với một người nữa gần đến mức thành công.

Dương-Qua bỗng nghĩ được một cách để chữa thẹn và để tâng bốc Tiểu-long-Nữ:

- Tôi là học trò của cô, chắc có thể luyện với cô được chứ?

Tiểu-long-Nữ trầm ngâm một chập đoạn đáp nho nhỏ:

- Cũng được, để ta thử xem đã. Bây giờ mi cần luyện cho biết tất cả các môn võ công của môn phái cho thành thuộc để gây của một nền tảng căn bản vững chắc, sau đó mới học đến các ngón võ Toàn-Chân phái. Khi ta nhận thấy có đủ điều kiện sẽ cho luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh".

Từ đó trở đi, ngày ngày Tiểu-long-Nữ truyền thụ cho Dương-Qua tất cả các môn quyền thuật, chưởng thuật, cách sử dụng đủ loại binh khí, ám khí của Cổ Mộ đài.

Một năm trôi qua, nàng tận tình dạy bảo từ lý thuyết đến thực hành. Thời gian tuy ngắn, nhưng nhờ đêm đêm Dương-Qua luyện nội công trên giường hàn thạch, mức tiến bộ nhanh chóng lạ thường, hơn nữa vốn nhờ bản chất thông minh lanh lợi, nghe ít hiểu nhiều, nên bản lãnh cũng có thể ngang với người thường khổ luyện năm bảy năm.

Võ nghệ của phái Cổ-Mộ đài đã bốn đời truyền thụ, từ người sáng lập cho đến các đệ tử nối tiếp đều là đàn bà, cho nên bản chất nặng về phụ nữ, mềm yếu linh động, ẻo lả, tuy đẹp mắt nhưng thiếu tính chất sâu sắc, cường dũng. Dương-Qua bình sinh phù táo, khinh động nên rất hợp với môn pháp này.

Thời gian qua, Tiểu-long-Nữ ngày càng lớn thêm, càng đẹp, mỹ miều. Nhan sắc nàng càng lộng lẫy, duyên dáng, từ thân mình tuyệt mỹ do công phu khổ luyện, đến nước da trắng mịn như tuyết khuôn mặt sáng rỡ, đôi mắt đen láy, đẹp vô ngần.

Năm ấy, Dương-Qua cũng được 16 tuổi, nó đã thành một thiếu niên đẹp trai, thân hình cân đối, bề cao đã bằng sư phụ rồi? Tuy nhiên Tiểu-long-Nữ xem nó như con nít, nên không e ngại gì về vấn đề nam nữ gần nhau.

Hai thầy trò chung sống với nhau, ngày càng thắm thiết. Tiểu-long-Nữ thương mến tánh ngoan ngoãn, khéo léo và siêng năng của Dương-Qua. Đối với sư phụ, Dương-Qua luôn luôn tỏ lòng kính mến, trọng vọng không bao giờ làm trái ý thầy.

Dương-Qua còn khéo léo tìm hiểu tánh ý của thầy để chiều chuộng. Gặp việc gì Tiểu-long-Nữ không bằng lòng thì dù có muốn hết sức nó cũng không dám nói ra lời, lắm khi còn tìm lời biện bác bào chữa bênh vực quan niệm của nàng nữa.

Vốn có bản chất lãnh đạm từ ngày tấm bé, Tiểu-long-Nữ lúc nào cũng có vẻ lạnh lùng, ít khi để ý hay bàn cãi nhiều. Mỗi khi nghe Dương-Qua bàn luận nàng thường làm thinh. Đã từng quen với tánh ý ấy rồi, nên Dương-Qua không còn nhận thấy nữa, vì vậy nên trong sự giao thiệp hàng ngày không hề có sự bất mãn hay phiền lòng.

Một ngày kia Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Đến nay mi đã học hết môn võ của phái Cổ Mộ đài, mai đây ta sẽ luyện cho mi các môn võ của phái Toàn-Chân.

Qua nhiều ngày sau, Tiểu-long-Nữ cứ dựa theo các dấu hiệu chỉ dẫn trên phiến đá để giảng dạy cho Dương-Qua. Nhưng phù chú văn tự, hình vẽ kỳ lạ đều do Vương-trùng-Dương dùng mũi kiếm khắc sâu vào đá trên xà nhà.

Lâm triều Anh và Vương-trùng-Dương vốn là hai bạn chí thân đã từng am thạo vũ thuật bản lãnh của nhau.

Võ thuật của Vương-trùng-Dương đã cao siêu rồi. Lâm-triều-Anh còn dùng nó để biến chế thêm nữa, cao siêu hơn, và thích hợp với bản chất của phụ nữ hơn. Triều-Anh tự luyện thật tinh thục, truyền lại cho A-Hoàn. A-Hoàn truyền lại cho Tiểu-long-Nữ và ngày nay Tiểu-long-Nữ truyền đến Dương-Qua.

Trong mấy ngày đầu, Dương-Qua tập thấy tiến bộ lạ thường, bởi vì nó có căn bản sẵn, khi nghe nói đã lãnh hội được ngay. Nhưng từ mười ngày sau nó không thấy tiến nữa mà càng tập càng lùi là khác. Càng luyện nó càng cảm thấy toàn thân rung động, tay chân hình như bị giảm bớt năng lực.

Sự thay đổi kỳ lạ đột ngột này làm cho Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên. Nàng suy nghĩ, cố tìm ra nguyên nhân vì sao có hiện tượng này.

Dương-Qua thì buồn vô cùng nhưng không dám hé môi.

Sau một thời gian suy nghiệm, Tiểu-long-Nữ đã tìm ra nguyên nhân của sự trở ngại này nên nàng bảo Dương-Qua:

- Thôi đừng buồn phiền làm gì nữa. Ta đã hiểu nguyên nhân này rồi. Bây giờ ta cứ đi tìm cho được một tên đạo sĩ bên phái Toàn-Chân rồi buộc hắn phải truyền dạy cho mi những khẩu quyết nhập môn của phái này, như thế là vừa xong chứ có khó gì đâu. Thôi chúng ta đi ngay bây giờ thì vừa.

Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm cho Dương-Qua bỗng sực nhớ lại những khẩu quyết do Triệu-chí-Kính đã buộc nó học thuộc lòng:

"Phải sử dụng cân lực dần dần", ở đoạn giữa lại có nói:

"Sức mạnh không phải do đâu đưa đến mà chỉ do tứ nội tại con người phát sanh ra.

"Vận dụng tâm lực mà để tâm rung động, thì chẳng khác nào thu vào tay này mà dùng tay khác vứt đi, lực lượng tự nhiên xuất mà không biết nữa. Như nước triều chảy, như sấm rung động, là những điểm thuyết yếu. Như đi thuyền trên sóng, phải chầm chậm vậy.

Thêm đoạn sau có nói:

"Phép luyện căn cứ ở quẻ Dịch. Dịch là biến động, thay đổi mãi mãi. Thay đổi có thể dùng sang lực bên trong phù trợ bên ngoài cho nên gân có thể cứng rắn như sắt vậy".

Tiểu-long-Nữ nghiêng tai chú ý nghe đọc, suy nghĩ một chập và nói:

- Thôi được rồi! Trước kia tiên sư có dạy ta tập luyện được nửa chừng rồi bỏ dở, nguyên nhân cũng vì thiếu căn bản nhập môn. Khi học đến đoạn giữa của môn phái Toàn-Chân bỗng dừng lại không tiến được nữa. Rất tiếc lúc đó phu nhân đã qua đời nhưng không thể hỏi han tập thêm tới nơi tới chốn. Phàm không học được từ đầu khẩu quyết chân truyền của một môn phái không làm sao đoạt được đến mức thành công mỹ mãn. Tiên sư vốn giàu lòng tự ái, người nhất định bác bỏ ý kiến của ta muốn yêu cầu cho qua bên Trùng-Dương cung học các khẩu quyết nhập môn của phái này. Ngày nay mi học cũng khá nhiều nhưng vẫn chưa đầy đủ để luyện tập.

Dương-Qua cố nhớ lại hết tất cả khẩu quyết do Triệu-chí-Kính đã truyền dạy và đọc cho nàng nghe thêm. Những khẩu quyết này nó học như vẹt chứ chưa bao giờ được thực hành luyện tập.

Nhưng đối với Tiểu-long-Nữ nhờ có bản lãnh, nên sau một hồi suy nghĩ nàng đã quán thông được ý lý, phối hợp đối chiếu với lý thuyết đã được Tần-nam-Cầm đã dạy, tức cũng là pháp huyền môn mà Mã-Ngọc đã chân truyền cho người khác.

Nghiên cứu hai sự hiểu biết này trong vòng mấy tháng, Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã thấu triệt được tất cả những gì do Vương-trùng-Dương đã ghi khắc trên nền đá kia.

Một ngày kia, sau khi hai người đang tập luyện kiếm thuật trong căn nhà đá, Tiểu-long-Nữ bỗng dừng kiếm, buồn rầu nói với Dương-Qua:

- Mấy lúc này ta mắc phải một khuyết điểm lớn là tự phụ, xem thường võ thuật của phái Toàn-Chân. Ngày nay phái này đã nổi danh đệ nhất thiên hạ, lại một chân truyền chính cống, đáng kể là đệ nhất võ lâm. Thật ra bấy giờ ta mới nhận thấy võ thuật Toàn-Chân thật kỳ ảo, biến hóa vô cùng, càng luyện càng thấy tinh vi huyền diệu.

Mặc dầu ta đã tìm hiểu được các căn bệnh kỳ yếu, nhưng về mặt tập luyện thực hành làm sao cho tay chân theo kịp sự hiểu biết của óc não, hễ tâm động thì tay cứng, sức lực tự nhiên phát ra, chẳng biết còn phải bao nhiêu năm tháng nữa mới thành công được.

Vốn còn non như con nghé đâu biết sợ oai cọp, Dương-Qua đáp:

- Thưa cô nương, võ thuật Toàn-Chân tuy cao siêu, nhưng Tổ sư phu nhân đã nghiên cứu kỹ, biến chế hết những cái tinh túy, tìm cách khắc chế nó rồi, ta chỉ theo đó mà luyện tập cũng như bước theo một kẻ dẫn đường, chắc chắn một thời gian ngắn cũng đoạn kết quả mong muốn. Như thế dù võ thuật Toàn-Chân có cao cũng không vượt nổi võ thuật của Tổ sư ta.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Kể từ ngày mai ta cần luyện lại "Ngọc-nữ Tâm-knh" đi thôi.

Ngày hôm sau, hai người đưa nhau đến gian phòng đá thứ hai, theo các dấu hiệu phù chú ghi khắc sẵn để tự luyện.

Môn pháp này có phần dễ dàng hơn pháp môn Toàn-Chân phái nhiều. Sở dĩ trước kia Lâm-triều-Anh sáng chế môn nầy để khắc phục võ thuật Toàn-Chân của Vương-trùng-Dương, căn cứ vào pháp môn của mình, biến đổi thêm phần tinh diệu nữa, cho nên cả hai có căn bản hiểu rõ võ thuật của đôi bên rồi, nên học rất dễ.

Sau một thời gian học hết các khẩu quyết, thực hành xong "Ngọc-nữ Tâm-kinh" pháp môn đến mức có thể sử dụng phát huy ngoại công được rồi, hai người cùng nhau đấu dượt. Có khi Dương-Qua dùng kiếm pháp Toàn-Chân đấu với Tiểu-long-Nữ sử dụng Ngọc-nữ kiếm pháp. Cũng có khi Tiểu-long-Nữ dùng kiếm pháp Toàn-Chân khắc chế Ngọc-nữ kiếm pháp do Dương-Qua sử dụng. Nhưng bất cứ trong trường hợp nào Ngọc-nữ kiếm pháp vẫn thấy trội hơn và có thể khắc phục rất hiệu quả từng thế một của võ thuật Toàn-Chân phái, mặc dầu được người sử dụng linh hoạt tài tình đến đâu cũng vậy. Ngoại công tập xong, tiếp đến luyện nội công. Môn nội công của Toàn-Chân cũng đã huyền diệu không lường. Muốn sáng chế ra một môn khác biệt nữa đâu phải chuyện dễ. Tuy nhiên với một ý chí mạnh mẽ muốn tiến bộ vượt bực hơn người, Lâm-triều-Anh đã vận dụng tất cả học lực, kinh nghiệm sẵn có, đồng thời sử dụng lối luyện công trên giường hàn thạch, nên đã khai ra một môn mới riêng biệt. Phép luyện công trên giường hàn thạch của bà tuy rất khó nhọc đòi hỏi cả một sự quyết tâm, chịu đựng kiên trì, nhưng lúc đã có theo học được thì mức tiến bộ thực phi thường. Khổ luyện trong một thời gian, nhưng kết quả vượt hẳn bên Toàn-Chân phái.

Sau khi nhìn một đoạn chữ khắc trên nóc nhà, Tiểu-long-Nữ bỗng thở dài rồi lặng thinh chỉ lắc đầu không nói gì nữa. Liên tiếp mấy ngày sau nàng cũng chỉ giữ một thái độ yên lặng và sau cùng vẫn lắc đầu rồi thở dài mấy cái.

Dương-Qua e ngại hỏi:

- Thưa cô nương, đoạn này khó tập lắm sao?

Tiểu-long-Nữ nhìn Dương-Qua một chập rồi điềm nhiên nói:

- Trước kia nghe sư phụ dạy ta phép "Ngọc-nữ Tâm-kinh" này phải có hai người cùng luyện tập một lúc. Ta những tưởng có thể cùng tập với mi nhưng đến nay mới biết không thể được.

Dương-Qua hết sức kinh ngạc vội hỏi:

- Tại sao vậy hở cô nương?

Tiểu-long-Nữ ngập ngừng một chập rồi nói:

- Nếu mi là gái thì mới được.

Dương-Qua ngẩn ngơ một chập rồi hỏi liến thoắng:

- Sao lại có việc phân biệt nam và nữ như thế? Hễ có đủ sức lực và có ý chí thì trai hay gái cũng có thể tập luyện được chứ.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu không đáp, một chập sau mới nói:

- Không thể khác giống được. Mi cứ nhìn trên những nóc nhà thì tức khắc hiểu.

Dương-Qua nhìn theo tay nàng chỉ, thấy trên mặt đá có những hình người khắc bằng mũi kiếm, cả thảy chừng mười người, mỗi người một kiểu, toàn là đàn bà lõa thể không mặc y phục. Bấy giờ Dương-Qua mới hiểu:

- Thưa cô trong lúc luyện nội công "Ngọc nữ Tâm kinh" không thể mặc y phục phải không?

Tiểu-long-Nữ đáp đúng như thế và lời ghi chú cũng có dạy rõ như sau:

Khi luyện nội công sức nóng trong người bốc ra cần phải để cho nó tản thoát hết đi. Vì vậy lúc tập phải tìm nơi khoáng đãng, không có người và không mặc quần áo. Nếu không, nhiệt khí uất tích sẽ nhiễm vào trong, nếu ít thì lâm trọng bệnh, nếu nhiều thì có thể chết".

Dương-Qua thản nhiên nói:

- Như thế thì ta không mặc quần áo tập luyện chứ sao. Tiểu-long-Nữ mắc cỡ đỏ mặt, nói:

- Khi tập luyện phải truyền khí lực cho nhau, ta với mi nam nữ cách biệt, nếu không mặc quần áo ở trước mặt nhau thì còn ra thể thống gì nữa.

Phàm trai mười sáu gái mười ba là đến tuổi dậy thì, cần phải giữ gìn khi tiếp xúc giao thiệp. Dương-Qua đã mười sáu tuổi rồi nhưng bản chất hồn nhiên, nó chưa hề biết gì về tình ái và chưa để ý đến vấn đề nam nữ. Thấy sư phụ nó đẹp đẽ tuyệt vời nó càng thấy vui mừng thích thú. Nó cũng nhận nếu nữ sư phụ và nó cùng lõa thể trong lúc tập luyện thì có sự bất tiện, nhưng vì lẽ cũng không hề để ý và chưa biết giải thích ra sao.

Về phần Tiểu-long-Nữ tuy đã hai mươi hai tuổi đầu nhưng từ bé đến giờ sống trong Cổ Mộ đài, cuộc đời riêng biệt không hề tiếp xúc với người ngoài nên đối với Dương-Qua càng ngây ngô hơn nữa. Ngoài ra vì cần phải tu tâm khổ luyện nên vấn đề tình dục và nam nữ càng không hề có một ý thức gì. Hai thầy trò tuy là nam nữ thanh niên chung sống với nhau tại chốn hoang vu vắng vẻ, sớm hôm gặp gỡ nhưng rất tự nhiên và lúc nào cũng đối xử với nhau không hề có ý thức gì vượt ngoài vòng lễ nghi. Hôm nay khi đề cập tới việc lõa thân để tập luyện nội công, họ cảm thấy có điều gì chướng và khó chịu. Nhưng chỉ có thể thôi chớ không hề có ý nghĩ gì khác.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta cần phải đào luyện môn nội công tinh thục hơn nữa. Nếu luyện thành thục cũng đủ sức đánh bại những tay cự phách nhất của phái Toàn-Chân. Vì vậy tưởng không cần luyện môn nội công này nữa.

Biết sư phụ không muốn tiếp tục luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh" nữa, nên Dương-Qua cũng thuận theo không hề đòi hỏi.

Một ngày kia sau khi tập luyện xong, Dương-Qua xuất Mộ săn bắn ít thú rừng về làm lương thực. Vừa bắn được một con nai rồi nó bỗng gặp một con thỏ lông đỏ, đầu đen, rất tinh khôn và nhảy mau lẹ. Lúc bấy giờ thuật khinh thân đã tiến một bực nhưng vẫn chưa lanh bằng thỏ. Nhưng vì tuổi trẻ nhiền anh hùng tính, Dương-Qua tự nhiên nảy ý nghĩ muốn đuổi bắt thỏ cho kỳ được, không dùng đến ám khí để sát hại. Nghĩ xong, nó vận dụng khinh thân đuổi thỏ chạy khắp rừng cố làm cho đuối sức rồi sẽ bắt. Cuộc đuổi bắt tiếp tục thỏ trước người sau, càng lâu càng đi xa. Khi đến gần chóp núi, con thỏ chạy ngoặc vào một cái miếu mọc đầy hoa hồng, rồi biệt tích tìm không ra. Dương-Qua chắc lưỡi thầm tiếc con thỏ đẹp đã uổng công trình quần đuổi nửa ngày ngày để sẩy mất.

Dương-Qua đứng ngẩn ngơ nhớ nhung chú thỏ và đưa mắt nhìn thấy cái miếu bề dài độ mười trượng, mùi hương bay lên ngào ngạt khắp xung quanh hoa hồng mọc bao phủ từng lớp, hết lớp này đến lớp khác, những cánh hoa vừa thơm vừa đẹp, mơn mởn nằm trên thảm lá xanh tươi, chẳng khác nào một nhà kết hoa, càng trông càng tuyệt vời.

Dương-Qua thích quá lại gần quan sát, đưa tay ngắt một mớ hoa hồng, định mang về tặng Tiểu-long-Nữ.

Nhưng khi về khoe với Tiểu-long-Nữ, nàng thản nhiên bảo:

- Ta không ưa hoa, mi giữ lấy mà chơi.

Dương-Qua tiu nghỉu một chập nhưng bỗng sực nhớ một điều, vội nói:

- Tôi không có chủ định hái hoa về cho cô nương, nhưng muốn điềm chỉ cho một chỗ rất thích hợp để luyện nội công Ngọc-nữ Tâm-kinh. Nơi miếu này hoàn toàn hoang vu vắng vẻ, hoa hồng bao phủ tứ bề, ở cách nhau vài thước không trông thấy. Dù phải lõa thể theo điều kiện bắt buộc cũng tiện không ai trông thấy. Khi nàng luyện tập tôi sẽ ở đàng cuối miếu canh phòng cho nàng, cũng như nàng sẽ coi chừng hộ khi tôi luyện tập.

Phàm phép luyện nội công lúc nào cũng phải lặng lòng không gợn một chút lo nghĩ xao xuyến, tâm tư hết sức bình thản để dốc vào sự tập nội tâm, gạt bỏ tất cả những gì thuộc ngoại cảnh, không được để ý đến điều mắt thấy tai nghe.

Khi đang tập luyện, nếu có ai phá rối, hay địch tấn công thì hết sức nguy hiểm, đã làm hỏng mất cả phép nội công mà còn có thể mất mạng như chơi. Vì vậy lúc tập cần có người canh giữ, đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.

Xưa kia Hoàng-Dung tập nội công bị tả công khí xâm nhập, Quách-Tỉnh đứng canh phòng, trời đang mưa lớn, mẹ của Dương-Qua là Tần-nam-Cầm, lúc còn là gái tân phải cắm dù che mưa, không dám đưa vào nhà dụt vì tránh giật mình trong lúc tham thiền nhập định dễ gây nguy hại đến mạng sống của nàng.

Lúc tham thiền nhập định luyện công chẳng những phải có bản lĩnh cao mà còn phải có chí cương quyết giữ được tâm thần khỏi rung động và kỵ nhất là những sự náo động bất ngờ có thể xảy đến. Vì vậy nên yếu tố vắng vẻ của nơi luyện tập và cần người canh giữ cần thiết lắm.

Nghe Dương-Qua nói đến miếu nầy, Tiểu-long-Nữ nhận thấy có lẽ được, muốn quan sát lại.

Nàng liền xuất Mộ Đài, phi thân lên ngọn cây cao nhất đưa mắt nhìn vào hướng ấy, trông thấy tòa cổ miếu nằm khuất trong rặng hoa hồng tứ bề vắng lặng, tĩnh mịch, ngoài tiếng suối reo, gió thổi, chim kêu, không thấy một điều gì có thể làm xao động, thật là một nơi hết sức thuận lợi cho công cuộc luyện công.

Nàng nói với Dương-Qua:

- Ta rất đồng ý với mi. Vậy chiều nay, chúng ta cùng tới đó để luyện tập.

Nàng đã học thuộc lòng từ lâu tất cả khẩu quyết "Ngọc-nữ âm-kinh" nay đọc mấy câu cho Dương-Qua nhớ.

Vào khoảng canh hai, hai thầy trò đưa nhau đến miếu ấy tìm chỗ sân bằng phẳng kín đáo nhất để tập. Rừng khuya lặng lẽ, mọi vật lắng trong màn sương, cả tòa miếu chìm trong rặng hoa hồng mùi thơm ngào ngạt. Cả hai người ngồi cách nhau một đoạn, có thể nói chuyện được, nhưng không nhìn thấy nhau, cởi hết y phục để bắt đầu luyện tập.

Dương-Qua cố ý đánh dấu hướng ngồi của sư phụ đề phòng lúc bất trắc có thể vận nội công hỗ trợ lẫn nhau. Họ ngồi cách nhau độ hơn một sải tay.

Kể từ hôm ấy trở đi, cứ đêm đêm họ đưa nhau vào đấy tập luyện, ban ngày về Cổ-Mộ để nghỉ sức dưỡng thân.

Lúc bấy giờ đang giữa mùa hè, khí hậu oi bức, nên tập về đêm mát mẻ dễ chịu hơn.

Thời gian thấm thoát đã hơn hai tháng, Tiểu-long-Nữ đã luyện đến phần thứ bảy của chín đoạn phép Ngọc-nữ tâm-kinh.

Trong quy tài tập luyện số lẻ là "âm tiến", số chẵn là "dương thoái". Khi đó Dương-Qua cũng luyện đến phần thứ sáu.

Tối hôm ấy trời mát trăng song, giữa miếu hồng, hai người đang ngồi luyện tập, nhiệt khí trong người bốc ra ngùn ngụt, hòa lẫn mùi hoa thơm ngào ngạt. Trăng sáng vằng vặt vừa đứng đỉnh đầu, hai người sắp hoàn thành đoạn 6 và đoạn 7 của Ngọc-nữ tâm-kinh, thì bỗng đàng xa có tiếng chân bước dồn dập khua lá động xào xạt hướng về miếu hồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện lớn tiếng, làm náo động cả cảnh rừng đêm lặng lẽ. Họ vừa nói vừa đi, bước chân càng lúc càng gần.

Khi ấy Dương-Qua sắp hoàn thành đoạn chót của buổi tập, còn Tiểu-long-Nữ mới bước qua giai đoạn vận khí vào, tức là phần quan trọng nhất. Nàng đang tập trung hết tư tưởng vào việc tập luyện nên không nghe biết sự gì bên ngoài nữa.

Khi nghe có tiếng nói, Dương-Qua thất kinh vội vàng xả hết trọc khí ở đan điền thật hết để hoàn tất buổi tập, thì tiếng chân bước càng gần thêm, giọng người nói nghe rõ mồn một.

Dương-Qua lắng nghe đó là Triệu-chí-Kính và Doãn-chí-Bình đang cãi cọ lẫn nhau.

Triệu-chí-Kính nói:

- Thôi sư đệ chối cãi làm chi nữa, để ta trình lại Khưu-sư-bá xét định.

Doãn-chí-Bình giận dữ đáp:

- Anh cứ buộc tôi làm gì. Tôi thừa hiểu rồi, trong hàng ngũ các đệ tam đại, đệ tứ đại sau này, anh tưởng tôi không thể đoạt được hàng trưởng giáo chăng?

Triệu-chí-Kính cười mãi nói:

- Anh không giữ được quy tài, phạm giới cấm thì làm sao có đủ tư cách để thành người đứng đắn của các đại đệ tử nhóm này được.

- Tôi đã làm gì mà gọi là phạm giới cấm?

Triệu-chí-Kính nổi nóng quát lớn:

- Thôi đừng già mồm ngụy biện nữa. Ngươi há biết hết bổn giới trong luật của môn phái rồi sao? Ngươi đã phạm vào luật giới dâm nghe chưa?

Dương-Qua núp trong đám hoa hồng, vội ngẩng đầu lên dòm thấy hai người đang ngồi đối diện nhau. Dưới ánh trăng, sắc mặt của Doãn-chí-Bình tái mét, mắt trợn ngược, môi run run, hình như không kìm chế được nỗi bực tức.

Hắn cố dằn lòng hỏi tiếp:

- Ta phạm giới dâm chỗ nào?

Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi kiếm.

Triệu-chí-Kính liếc qua một cái và nói tiếp:

-Từ ngày gặp Tiểu-long-Nữ cô nương bên Hoạt-tử-Nhân Mộ-Đài, thì anh đã xiêu hồn thất phách, không lúc nào là không mơ tưởng đến hình bóng người đẹp. Đứng đâu cũng mơ tưởng được ôm ấp nàng vào lòng, nói với nàng những câu tình tứ nồng nàn. Như thế anh gọi là xứng đáng một kẻ chân tu, làm sao đủ tư cách điều khiển cả một hàng đại đệ tử được?

Đối với kẻ tu hành, hành động ấy không phải phạm giới dâm sao?

Dương-Qua lúc nào cũng tôn sùng sư phụ xem như một đấng thiêng liêng. Khi nghe Triệu-chí-Kính nói những lời ấy thì bực tức vô cùng. Tuy chưa hiểu rõ ý của các danh từ, nhưng suy nghiệm cũng đoán biết đó là những lời không chính đáng.

Vừa lúc đó nghe Doãn-chí-Bình dằn giọng hỏi lại:

- Thôi đừng ăn nói hồ đồ nữa? Anh có bằng chứng gì để nhận xét và quả quyết được như thế?

Triệu-chí-Kính cười nhạt nói:

- Tôi làm sao nhìn thấy lòng anh được. Sở dĩ tôi quả quyết như vậy là gì những bằng cớ. Khi mơ tưởng đến Tiểu-long-Nữ, anh đã viết tên nàng trên giấy, trong lúc ngủ mê anh đã gọi tên nàng. Đây có phải bút tích của anh không?

Nói xong hắn thò tay vào túi rút ra một mảnh giấy đưa trước mặt Doãn-chí-Bình vừa nói tiếp:

- Tôi sẽ trình giấy nầy lên Khưu-sư thúc, người phụ trách dạy dỗ anh và đồng thời cũng trình lên Mã-Ngọc sư bá để hai vị nhận xét việc làm của anh.

Không chị nổi nữa, Doãn-chí-Bình rút kiếm đâm vào người Triệu-chí-Kính.

Triệu-chí-Kính nghiêng người tránh khỏi đường kiếm, rồi cười ha hả:

- Anh tưởng anh giết tôi để phi tang, vì tôi không còn sống để phát giác tội lỗi của anh phải không? Đâu có dễ dàng như vậy.

Nói xong hắn bỏ mảnh giấy vào túi, lùi ra sau hai bước tránh luôn hai đường kiếm của Doãn-chí-Bình vừa phóng ra như gió.

Qua đường kiếm thứ tư, Triệu-chí-Kính cũng vung kiếm đấu lại. Dưới ánh trăng sáng như ban ngày, hai làn kiếm loang loáng, nhấp nháy như sao sa. Hai đạo hữu của Toàn-Chân phải kịch chiến cùng nhau trên sân hồng hoa miếu.

Vốn là hai cự phách của phái Toàn-Chân, thuộc hàng đệ tam đại đệ tử, một người đứng đầu nhóm đệ tử của Khưu-xứ-Cơ, một người đứng đầu nhóm đệ tử của Vương-xứ-Nhất, cho nên cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt.

Doãn-chí-Bình nghiến răng, mím môi đưa toàn lực đổ vào làn kiếm, liều chết chiến đấu. Triệu-chí-Kính bất đắc dĩ mới ra tay tự vệ, nhưng thỉnh thoảng thốt ra những lời khiêu khích chọc giận, làm Doãn-chí-Bình mất bình tĩnh, do đó đường kiếm bị giảm bớt phần hiệu lực.

Núp trong bụi hoa hồng, Dương-Qua chú mục theo dõi, hai tay cự phách của phái võ Toàn-Chân quyết đấu, từ bước tiến, thoái, đến các thế né, đỡ, đường kiếm biến hóa phi thường, ảo điệu vô cùng tận. Tuy không được thâm hậu, nhưng nó nhận thấy sự chỉ dạy của Tiểu-long-Nữ rất đúng phép.

Cả hai người quay cuồng xoắn với nhau giữa làn kiếm lấp lánh không ngừng. Doãn-chí-Bình càng tăng gia sức tấn công, còn Triệu-chí-Kính vẫn bình thản né đỡ và một chập sau cười nhạt nói rằng:

- Chúng ta đã hiểu nhau quá nhiều, các thế võ cùng giống nhau, đầu dánh nhau suốt đêm cũng không ích gì đâu. Anh nên bỏ ý định hạ sát tôi thì hơn.

Nói xong hắn cười ha hả. Doãn-chí-Bình càng bực tức gia tăng sức tấn công. Nhưng ngọn nào cũng bị hắn chặn được hoặc tránh né rất dễ dàng.

Hai người càng đấu càng xê dịch đến gần phía Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua thất kinh hét lớn:

- Coi chừng! Hai tên đạo sĩ kia, nếu bây đến gần làm kinh động đến cô nương ta, sẽ mất mạng ngay, nghe chưa!

Hồi 16 Ngọc-Nữ Tâm-kinh Nhưng bỗng thình lình Triệu-chí-Kính phản công xông đến đánh luôn ba ngón liên tiếp mạnh như vũ bão, buộc Doãn-chí-Bình phải thối lui trở về võ điện.

Nhờ vậy mà hai người xa dần chỗ ngồi của Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua đang mừng rỡ thì kế đó Doãn-chí-Bình thay đổi chiến thuật, chuyển kiếm sang tay trái, vận dụng chưởng lực ra tay phải, tung ra một luồng nhân điện hết sức mãnh liệt.

Triệu-chí-Kính vừa đánh vừa cười:

- Dẫu anh xử dụng ba tay cũng chẳng làm gì tôi được đâu.

Nói xong y cũng vận dụng chưởng lực ra tay trái nghênh chiến tức thì.

Cả hai vừa sử dụng kiếm pháp, vừa sử dụng nhân điện phổ thành nhân điện tấn công dồn dập, miếng đánh, miếng đỡ càng lúc càng thêm gay cấn.

Trong lúc ấy Tiểu-long-Nữ vẫn tập trung tư tưởng vào việc luyện công, chẳng hề để ý hay biết gì về ngoại cảnh.

Dương-Qua thì thấp thỏm theo dõi, lòng hồi hộp sợ hãi khi thấy hai người đến gần sư phụ, và vui mừng khi họ ra xa.

Sau một chập Doãn-chí-Bình quát to lên một tiếng vận dụng đủ mười hai thành công lực, tung ra một ngọn độc hiểm để kìm chế đối phương. Vì sự tấn công đột ngột và dũng mãnh, Triệu-chí-Kính cảm thấy lâm vào thế hạ phong, tay chân luống cuống không phối hợp được chưởng lực, bắt đầu e ngại và cảm thấy đối thủ quyết tâm hạ sát mình, vì lẽ mình hiểu thấu mối tình thầm lặng bất chính của y đối với người đẹp.

Trước kia hai người đã không ưa gì nhau. Nay do việc này đã gây thêm xa cách thù hận đến nỗi nảy sanh ý nghĩ sát hại lẫn nhau không nương tay.

Đấu thêm mấy hiệp nữa, Doãn-chí-Bình mím môi, tay trái phóng thẳng thanh kiếm, tay phải tung ra một chưởng đồng thời đá liên tiếp ba ngọn cước theo "Liên hoàn thế" một ngón tuyệt diệu bí truyền của phái Toàn-Chân vào hạ bộ đối thủ.

Triệu-chí-Kính vung kiếm một vòng che đỡ đồng thời nghiêng mình một bên để tránh chưởng lực và cước ác nghiệt. Nhưng vì ánh kiếm của Doãn-chí-Bình phóng quá mạnh toàn thân tung lên cao gần một trượng. Nếu người khác thì ngọn quyền này phối hợp với chưởng lực của hai tay Doãn-chí-Bình tận lực phóng ra, có thể gãy xương dập ngực ngay. Nhưng Triệu-chí-Kính nhờ khổ công đào luyện, nên mặc dầu bị đánh tung lên bất ngờ vẫn giữ được bình tĩnh và uốn mình nương theo đà bay lên, lộn luôn một vòng, hạ chân xuống đất một cách nhẹ nhàng.

Dương-Qua hồi hộp nhìn theo thấy chỗ hắn rơi đúng là nơi Tiểu-long-Nữ đang luyện công, nếu không trúng ngay đầu nàng thì cũng rơi ngay vào bụi hoa hồng bên cạnh. Lúc bấy giờ Tiểu-long-Nữ đang lõa thể, vì ánh trăng không chiếu vào chỗ ấy, nên người vô ý không nhìn thấy nàng.

Dương-Qua thất kinh vội vàng vận dụng chưởng lực vào hai tay theo thế "Sư-tử hí cầu" đẩy mạnh vào lưng Triệu-chí-Kính. Tiếp đến y phi thân nhảy đến, dùng sức xô người hắn bay bổng về phía trước vài trượng.

Tuy vậy, một nửa thân hình trắng như tuyết của Tiểu-long-Nữ đã hiện ra lồ lộ dưới ánh trăng.

Thân hình Triệu-chí-Kính rơi xuống rất mạnh, làm gẫy mấy nhánh cây răng rắc, khiến Tiểu-long-Nữ giật mình, toàn thân rung động mồ hôi toát như tắm. Tất cả khí lực đang vận dụng nửa chừng bỗng thối lui dồn hết xuống dưới bụng, khiến nàng tức thở chịu không nổi té xỉu ngất đi.

Doãn-chí-Bình vừa thấy Dương-Qua đột nhiên xuất hiện chưa hết ngỡ ngàng, bỗng nhìn rõ ràng thân hình người ngọc mà mình hằng mơ tưởng, lồ lộ dưới trăng trong đám hoa hồng, thật hết sức kinh ngạc, ngỡ là chiêm bao. Hắn chỉ biết trợn mắt, há miệng đứng nhìn, không nói năng gì hết.

Triệu-chí-Kính đã lăn mình một vòng đứng dậy được. Là người có bản lĩnh, sự té ngã như thế đâu có nghĩa lý gì và mặc dầu bị té hắn vẫn giữ đủ sức bình tĩnh nhận định tình hình xung quanh và nhìn thấy rõ ràng Tiểu-long-Nữ.

Hắn reo to lên:

- ồ, bọn này đã rủ nhau lén lút tới nơi này làm điều bất chính đây mà.

Dương-Qua nghe nói nộ khí xung thiên trợn mắt quát lớn:

- Hai tên đạo sĩ khốn kiếp này, khôn hồn nên mau mau rút lui khỏi nơi đây, trở về chỗ võ điện của bây.

Vừa thét, y vừa cởi áo đưa cho Tiểu-long-Nữ bảo nàng mặc vào. Nhưng chờ một chập không thấy sư phụ đáp lời hay cử động gì, y chột dạ quay đầu lại nhìn, nhận thấy nàng đã ngất xỉu nằm im trên mặt đất.

Dương-Qua bỗng nhớ đến lời Tiểu-long-Nữ dặn:

"Trong khi luyện nội công phải đề phòng xung quanh, dẫu một bóng thỏ chạy qua cũng có thể gây thành đại họa". Triệu-chí-Kính đã rơi mạnh bên cạnh nàng, thế nào cũng khiến nàng giựt mình và tai hại này quả thật không thể nhỏ.

Vừa nghĩ đến đó, hắn vội vã chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, cởi luôn chiếc áo lót của mình quàng cho nàng và đưa tay lên rờ trên trán thấy mồ hôi đầm đìa, lạnh ngắt. Hắn lật đật quơ luôn cái áo đắp kín người nàng, nắm vai nàng lay mạnh và hỏi:

- Cô nương ơi sao thế cô nương?

Tiểu-long-Nữ chỉ ú ớ nho nhỏ không nói nên lời.

Dương-Qua nói thêm:

- Bây giờ tôi cần đưa cô nương về tịnh dưỡng cho bình phục rồi trở lại đây đánh chết hai tên đạo sĩ khốn kiếp này mới được.

Tiểu-long-Nữ không trả lời, toàn thân mềm lả trong tay Dương-Qua. Dương-Qua vội ôm sư phụ vào lòng chạy vụt qua trước mặt hai đạo sĩ. Doãn-chí-Bình ngẩn ngơ đứng ngó không thốt nên lời, còn Triệu-chí-Kính cười ha hả nói lớn:

- Này sư đệ, ý trung nhân của sư đệ đã lõa thể ra chốn này cùng chàng thanh niên đẹp trai này, sao sư đệ không giết ngay tình địch có hơn là cố tâm đi giết hại ta.

Doãn-chí-Bình vẫn ngẩn ngơ không nói nên lời. Nhưng Dương-Qua nghe nói tức giận vô cùng, vội đặt Tiểu-long-Nữ dựa vào một gốc cây, lấy quần áo của nàng lót sau lưng cho êm, đưa tay bẻ một cành cây làm khí giới, rồi tung mình nhảy đến trước mặt Triệu-chí-Kính quát lớn:

- Tên đạo sĩ khốn nạn hãy câm mồm đừng nói hồ đồ bậy bạ.

Sau hai năm trời xa cách, Dương-Qua đã lớn nhiều, từ một đứa con nít, ngày nay nó đã trở thành một thanh niên tuấn tú, lúc đầu Triệu-chí-Kính nhìn không ra, nhưng sau khi nghe tiếng nói quen quen, y định thần xem lại, biết là Dương-Qua, học trò cũ của mình lúc trước. Bị xô té nhào lại bị chửi mắng, Triệu-chí-Kính quá tức quát lớn:

- Dương-Qua, mày là đứa súc sinh!

Dương-Qua nạt lại:

- Chính mi mới là đồ súc sinh chứ ai. Mi mắng ta bao nhiêu cũng được, sao cả gan dám nói xấu cô nương ta?

Triệu-chí-Kính cười gằn nói:

- Ta nghe truyền rằng phái Cổ Mộ đài chỉ kết nạp đồ đệ phụ nữ, đâu ngờ ngày nay lại xảy ra sự tình tệ như thế này. Một nàng mệnh danh là Ngọc-tuyết Bàng-thanh, trưởng môn phái lại đi phá lệ, kết nạp và truyền nghề cho một thanh niên tuấn tú, rồi những đêm trăng tỏ lại đưa nhau vào chốn thâm u vắng vẻ, chiếu đất màn trời, để làm điều tồi bại, thật đáng kính thầy. Các ngươi tưởng đấu nhẹm được mãi sao?

Dương-Qua nghe nói đang suy nghĩ định đối đáp, vì thật ra hắn chưa hiểu hết ý nghĩa lời nói của Triệu-chí-Kính. Khi ấy Tiểu-long-Nữ vừa chợt tỉnh nghe câu nói ấy tức giận tràn hông. Khí uất cuồn cuộn dâng lên nàng cố tâm đè nén xuống, giằn co một chập, không thể nào chịu đựng nổi nữa, vì đã bị nội thương nặng, không còn đủ hơi sức kìm hãm, nàng chỉ thốt lên được một câu:

- Mi ăn nói quá hồ đồ, chúng ta đâu có...

Rồi máu tươi hộc ra cuồn cuộn, nàng tắt lời không nói được nữa.

Doãn-chí-Bình thất sắc chẳng biết nói gì, bước dần đến và hỏi Dương-Qua.

- Vậy ngươi đến chốn nầy làm gì?

Đã có định kiến sẵn là Doãn-chí-Bình muốn đến gần để ám hại sư phụ, nên Dương-Qua không thèm trả lời, vung tay đánh ra một quyền ngay mặt Doãn-chí-Bình thật mạnh. Doãn-chí-Bình khom người tránh được và đáp ngay bằng một đường móc trái bằng tay phải. Dương-Qua đã học thuộc lại các thế võ của phái Toàn-Chân, thêm am thạo hết những phương pháp để khắc chế cho nên tránh đỡ quá dễ dàng. Vì vậy hắn vung hai tay lanh như chày máy, vừa đỡ vừa thoi liền mấy thế, tấn công tới tấp, khiến Doãn-chí-Bình phải né tránh và thối lui xa dần chỗ Tiểu-long-Nữ.

Kể về mức luyện tập và võ thuật thì Dương-Qua còn kém thua Doãn-chí-Bình. Nhưng nhờ các môn khắc chế do Lâm triều Anh đã tìm trước để đối phó với các môn võ Toàn-Chân phái, cho nên việc chống đỡ dễ dàng, và ngoài ra, Dương-Qua cũng nhờ đó, có đủ sức để ứng phó với bất cứ một đệ tử nào của bên Trùng-Dương cung.

Vốn trước kia Lâm triều Anh nghiên cứu, sáng chế ra những thế võ này, bà chỉ âm thầm truyền lại cho đệ tử, luôn mấy đời các đệ tử cũng chỉ luyện tập, trau dồi thêm chứ chưa hề ra thi thố hay tranh đấu cùng ai, cho nên tác dụng chưa rõ ra sao, và cũng chưa kẻ nào biết tới.

Ngày nay bất ngờ Dương-Qua đem ra áp dụng, khắc chế được tất cả các thế tấn công của Doãn-chí-Bình một cách rất lợi hại. Tuy chưa đến nỗi ngã gục hay thua chạy dài, nhưng Doãn-chí-Bình rất kinh ngạc thấy tài nghệ của Dương-Qua hết sức tính điệu và dần dần y lâm vào thế hạ phong, phải đi thụt lui đến cạnh chỗ Triệu-chí-Kính đang đứng.

Dương-Qua để ý đứng thở một chập, day qua Tiểu-long-Nữ nói:

- Thưa cô nương an tâm, cô nương cho phép tôi mang cô nương về lo chạy chữa xong sẽ trở lại đánh bọn này một trận để trả thù cho cô nương.

Nàng cố gắng nói qua hơi thở:

- Không, không cần, mi cứ đánh chúng nó một trận ngay bây giờ. Ta không chịu nổi để chúng nó... hỗn láo... nói xấu như thế được.

Dương-Qua đáp:

- Xin tuân lệnh cô nương.

Nói rồi, hắn đưa tay bẻ một cành cây gần đó rồi phóng thẳng một đường vào ngay ngực Triệu-chí-Kính. Triệu-chí-Kính vung kiếm ra gạt mạnh. Lưỡi kiếm chẻ trúng đầu nhánh cây làm tróc mấy miếng dăm văng mạnh vào bàn tay hắn, làm toạc hai ba đường rườm máu, khiến hẳn phải thối lui ôm tay xuýt xoa một chập.

Tức thời Dương-Qua vận dụng chưởng lực vào bàn tay, đánh mạnh vào phía má bên trái của Triệu-chí-Kính.

Nhờ sự luyện tập bền chí trên giường hàn thạch, mức nội công của Dương-Qua đã hết sức thâm hậu, nên chưởng lực tung ra quá mạnh, kìm chế đối phương không nhúc nhích nổi. Biết không thể nào tránh kịp, Triệu-chí-Kính đành nghiến răng, vận sức vào đầu chịu trận. Nếu cần phải đối phó với chưởng lực này, Triệu-chí-Kính không đủ gân sức để giữ lấy thanh trường kiếm nữa.

Nhờ già công tập luyện có đủ nghị lực để nhận định tình hình, nên Triệu-chí-Kính đành vứt bỏ thanh kiếm, cúi đầu xuống sát đất để tránh lằn chưởng của Dương-Qua, một tay đưa ra để dò xét chiều hướng của chưởng lực đối phương, rồi lăn vòng qua một cái lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm và tung mình đứng dậy chuẩn bị tấn công lại.

Trong khi nghiên cứu võ học của phái Toàn-Chân, Lâm-triều-Anh đã gia tâm phân tách từng thế võ, tiên đoán được mọi sự biến chuyển để định cách ứng phó, chế phục hết sức xảo điệu, cho nên bất kỳ thế võ nào của Toàn-Chân phải có cao siêu đến đâu cũng có sẵn một thế khác để đối phó.

Triệu-chí-Kính đâu có ngờ như vậy, cho nên trong bụng đinh ninh rằng thế độc đáo vừa rồi có thể chuyển bại thành thắng như chơi. Nhưng Dương-Qua đã nắm lòng từng thế đi nước bước của đối phương rồi, nên chỉ nhìn qua mỗi một động tác nhỏ đã đoán trước được thế võ đó và tấn công được ngay.

Sau khi dò biết chiều hướng xuất phát chưởng lực của Dương-Qua, Triệu-chí-Kính đột nhiên nắm lấy tay đối phương rút mạnh để chận đứng luồng nhân diệt xuất phát.

Nhưng Dương-Qua đã tiên đoán được, xông đến lẹ như chớp tay trái chặn lấy tay cầm kiếm của Triệu-chí-Kính, hắn hoảng sợ vội rút tay về, nhưng đã muộn. Dương-Qua đoạt lấy thanh kiếm, dí vào ngực và hét lớn:

- Mi đã tận số rồi!

Triệu-chí-Kính hoảng hốt nhảy lùi lại một bước, nhưng Dương-Qua đã lẹ làng tung chân trái đá quẹt ngang một ngọn. Bị ngọn cước ấy, Triệu-chí-Kính mất đà bật ngửa trên cỏ. Dương-Qua vung kiếm chỉ thẳng vào bụng hắn muốn đâm sâu một nhát cho rồi đời bỗng nhiên có một luồng gió mát thổi lộng tới, đồng thời có tiếng thét lớn:

- Mi cả gan hạ sát sư phụ à?

Dương-Qua vội thu kiếm, hoành thân chém một vòng ra phía sau, vừa kịp chận đứng ngọn kiếm giải vây của Doãn-chí-Bình. Trong bụng Dương-Qua thầm khen phục Doãn-chí-Bình đã tiếp cứu kịp thời.

Nhưng khi hai luồng kiếm vừa chạm nhau, Dương-Qua cảm thấy hổ khẩu tê rần như chạm phải một luồng nhân điện và toàn thân cũng bị rung động, không thể điều khiển cánh tay theo ý muốn nữa, vội vàng định thần vận nội công lấy lại thế quân bình. Tuy nhiên nội công của Doãn-chí-Bình có phần thâm hậu hơn một bực, cho nên sau mấy đường kiếm, Dương-Qua có vẻ lúng túng lối đánh rời rạc dần.

Doãn-chí-Bình càng phấn khởi tấn công tới tấp để hạ sát ngay đối thủ. Chẳng ngờ đấy chỉ là đụng ý nghi binh của Dương-Qua để gây tinh thần tự kiêu tự đại của Doãn-chí-Bình.

Sau vài hiệp thình lình Dương-Qua vứt kiếm, tung cả song chưởng đập mạnh vào ngực rồi lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm, phổ hết điện lực vào tấn công luôn. Bất ngờ bị tấn công cả hai thế Doãn-chí-Bình thất kinh, mồ hôi xuất đầm mình, vội vàng tập trung hết công lực để đối phó với thế võ cực kỳ hiểm hóc này. Nhưng vì hai luồng chưởng lực quá mạnh, Doãn-chí-Bình phải lật đật buông kiếm chốp hai chưởng trước mặt để đón đỡ chưởng lực đối phương.

Nhưng khi vừa chạm vào tay Dương-Qua, y cảm thấy một luồng điện nóng rần rật chuyển vào thân hình, khiến cánh tay tê tái và toàn thân rung động. Cũng may là sức đào luyện của Dương-Qua chưa đến mức thâm hậu, khiến y cũng phải bại người ngã quay ra liền lúc đó. Doãn-chí-Bình run lẩy bẩy và cảm thấy hình như có một mũi dùi xuyên vào ngực, chạy khắp nội tạng đau nhức chịu không nổi, muốn tắt thở, y vội vàng rút tay lại ấp lên ngực, hít mạnh vào một hơi vận dụng nội lực để chống lại cơn đau nhức.

Dương-Qua đưa tay chụp lấy luôn thanh kiếm của Doãn-chí-Bình rồi hai tay múa tít lên xông vào tấn công cả hai người. Hai đại đệ tử của phái Toàn-Chân bị một thiếu niên bất ngờ xung xích mãnh liệt không kịp xoay trở, tay chân cuống cuồng suýt nữa bỏ mạng. Mỉa mai hơn nữa thiếu niên nầy trước kia đây một thời gian ngắn, là đệ tử của họ! Cả hai mệt thở hổn hển, tay run, mồ hôi nhễ nhại, cử động hết muốn nổi. Bấy giờ mỗi người đều cuống cuồng không còn dám tự phụ khinh thường như lúc đầu nữa.

Hai người cùng hiệp sức bồi dưỡng cho nhau, phối hợp quyền lực thủ thế, không dám nghĩ đến tấn công nữa.

Dương-Qua tuy có binh khí trong tay, đang thẳng thế, nhưng hai người biết chéo phối hợp lối liên hoàn để ứng phó, nên hắn cũng chưa dễ gì hạ sát được.

Kiếm pháp của Cổ-Mộ đài tuy khắc chế được kiếm pháp của Toàn-Chân phái, nhưng nhờ hai người có công phu võ thuật già dặn, tập luyện nhiều năm hơn, sự phối hợp giao đấu được chặt chẽ cho nên tuy Dương-Qua thắng thế mà vẫn không thể nào hạ thủ được.

Nhờ sức nội công thâm hậu, Triệu-chí-Kính vươn lên dần dần chống cự hữu hiệu những đường kiếm của Dương-Qua. Riêng Doãn-Chí-Bình sau một hồi định tâm giữ được bình tĩnh chỉ chú ý đối phó.

Hai cao thủ đem hết tài nghệ được bí truyền để đánh một thiếu niên miệng còn hơi sữa, dầu may ra thắng được cũng chẳng được có giá trị gì, huống chi hiện tại phần thua đã nghiêng về mình quá rõ rệt. Phần nữa, Doãn-chí-Bình luôn luôn lo âu băn khoăn chẳng rõ Tiểu-long-Nữ ra sao nên gọi lớn:

- Bớ Dương-Qua, sao ngươi không lo săn sóc đến sức khỏe của cô nương lại cứ cố tình tranh đấu mãi với chúng ta hay sao?

Dương-Qua vẫn không ngừng tấn công và đáp lớn:

- Ta đã nhận lệnh cô nương phải hạ sát hết hai đứa bay, rồi sẽ hay.

Doãn-chí-Bình cười lớn:

- Mi tưởng dễ hạ thủ anh em ta đấy à! Mi lầm rồi. Thôi hãy thu xếp đưa cô nương về mà điều trị cho mạnh đã. Mi nên thưa với cô nương nên bỏ qua đi cho, vì bất ngờ để xảy ra câu chuyện hôm nay, ta hết sức ân hận và cũng không ngờ đến. Nếu cô nương cố chấp ta nguyện xin lấy sanh mạng mà tạ lỗi cùng nàng. Miễn cô nương, ban cho một lời nói, nếu cần, ta có thể tự vẫn không chút ngần ngại để nàng được vui lòng.

Mi không tin lòng ta ư. Đây nầy, một việc làm đầu tiên của ta sẽ giúp cho mi và nhất là cô nương hiểu rõ.

Nói xong, Doãn-chí-Bình tập trung ý chí, mắt sáng ngời, hai tay chắp lại, vận dụng nhân điện, như chớp xông vào cướp thanh kiếm rồi múa lên một vòng chặt đứt một lòng ngón tay trỏ và ngón tay vô danh của mình rơi xuống đất.

Hành động ấy diễn ra quá đột ngột ngoài sự dự đoán và óc tưởng tượng của Dương-Qua. Nó bàng hoàng suy nghĩ và nhận thấy những lời nói trước kia của Doãn-chí-Bình quá thành thật không có một ẩn ý gì khác.

Nhưng nó nghĩ thêm:

- Ta chưa đủ sức hạ thủ một lần cả hai đứa thì ngay bây giờ cứ tập trung mũi dùi vào tên đạo sĩ đáng ghét kia trước đã. Còn đầu óc của Doãn-chí-Bình có thật tình hay không, rồi hạ hồi phân giải.

Bỗng Doãn-chí-Bình nói tiếp với một giọng ân cần chí thiết:

- Ngay cả mạng sống của ta, nếu cô nương thấy cần, chỉ ban một lời, ta cũng không hề luyến tiếc.

Dương-Qua đáp lại nho nhỏ:

- Ta hiểu, thôi rồi hãy hay!

Nói xong, hắn múa tít thanh kiếm tiến về phía Triệu-chí-Kính.

Thình lình bị tấn công mãnh liệt, Triệu-chí-Kính đang ở tư thế phù trợ chiến đấu qua thế phải chịu đựng một mình tất cả sự tấn công của đối thủ, nên bất thần không phản ứng kịp. Hắn giật mình thì vừa lúc ấy mũi kiếm đã đâm thẳng vào bụng dưới. Thật không hổ thẹn đại đệ tử một danh môn chánh phái đã trên hai mươi năm khổ luyện. Khi mũi kiếm Dương-Qua chọc qua lằn áo rạch một đường dài, tự nhiên Triệu-chí-Kính nhanh như điẹn chớp, thóp bụng, cong mình lại như con tôm, bước lùi ra sau một tí, tung một ngọn cước đá mạnh vào cổ tay của Dương-Qua làm văng thanh kiếm lên cao như sao xẹt, chuyển bại thành thắng.

Bị rơi kiếm bất ngờ, Dương-Qua chuyển lực xòe bàn tay chặt mạnh vào đầu gối của địch, trúng nhằm huyệt đạo, Triệu-chí-Kính cảm thấy tê rần cả người, đầu gối run lẩy bẩy, rồi không gượng nổi té nhào xuống cỏ không cử động.

Dương-Qua nhặt thanh kiếm dí vào cổ Triệu-chí-Kính hét lớn:

- Trước kia ngươi xưng sư phụ ta để dày vò đầy đọa ta. Ngày nay ngươi không phải sư phụ ta nữa. Ta sẽ cho lưỡi kiếm này xuyên qua cổ để kết liễu đời người cho rồi.

Nói rồi Dương-Qua ấn mạnh một tý, làn thép cửa rách một lớp da cổ, máu đỏ chảy một đường dài.

Triệu-chí-Kính vừa đau đớn, vừa uất ức, nét mặt tái mét lại càng tái thêm. Mặc dầu đã kề bên cái chết, nhưng sự phẫn nộ làm y không biết sợ hãi, trừng mắt nhìn Dương-Qua nói lớn:

- Súc sinh, ngươi cứ giết ta đi! Đồ hèn hạ, đồ phản thầy!

Dương-Qua nổi nóng, mím môi định nhấn mạnh một cái để kết liễu tánh mạng hắn, nhưng Tiểu-long-Nữ đã gọi giật lại:

- Dương-Qua, không nên giết sư phụ. Ngươi buộc hắn thề giữ kín việc nầy thì tha mạng hắn cũng được.

Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm Dương-Qua chợt tỉnh nghĩ lại và tuyệt đối tuân theo. Hắn nhìn Triệu-chí-Kính nói:

- Cô nương ta đã dạy, mi nghe chưa. Nếu muốn sống phải thề đi.

Tuy bản chất khẳng khái, tiết tháo, lúc nóng giận càng ươn gàn hơn. Hơn nữa, trước một sự mất còn của sanh mạng mình, Triệu-chí-Kính không biết làm sao hơn, đành nói nhỏ:

- ừ ta thề như vậy đó!

Dương-Qua quát lớn:

- Đâu có nói suông như vậy được. Người cần có sự cam kết nghiêm chỉnh để giữ lấy lời thề mới được.

Triệu-chí-Kính ngoan ngoãn long trọng thề:

- Câu chuyện hôm nay đã xảy ra giữa bốn người được chứng kiến, tôi lấy danh dự thề không bao giờ thổ lộ cho người thứ năm nữa, nếu tôi không giữ được lời hứa thề danh dự tiêu tan không xứng đáng người của môn phái, người đời sẽ khinh miệt tôi, trong võ lâm sẽ xem tôi như cỏ rác, sau này sẽ chết đường chết chợ, chết một cách khổ sở không toàn thây.

Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ vốn người chất phác, nghe hắn thề độc như vậy là tin ngay. Dương-Qua thu kiếm, quay qua phía Tiểu-long-Nữ chăm sóc cho sư phụ. Đối với Doãn-chí-Bình thì những lời thề ấy có nhiều ẩn ý khác, huống chi bản chất của Triệu-chí-Kính như thế nào y cũng hiểu quá rồi. Doãn-chí-Bình đang bâng khuâng chưa biết nói những gì, kế thấy Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ phi thân phóng trước mặt, thẳng hướng về phía Cổ-Mộ đài, y càng thêm bàng hoàng, tâm thần bấn loạn như trải qua một cơn bão lòng mãnh liệt. Y âm thầm nhìn lại hai ngón tay bị chặt đứt, máu tươi còn rỉ rả chảy, sự đau đớn của thể chất và nỗi xót xa của tâm hồn chưa biết bên nào nặng hơn.

Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ chạy về đến Cổ-Mộ đài, đặt nàng trên giường hàn thạch.

Tiểu-long-Nữ ngó lên nhìn hắn và nói nho nhỏ:

- Ta yếu quá đâu đủ sức chống lại sức lạnh của giường này, Dương-Qua chợt nhớ lại, vội bồng nàng lên chạy qua đặt trên giường của Tôn bà.

Tiểu-long-Nữ nằm im, thở nhè nhẹ, thân hình mềm nhũn như không còn hơi sức, da mặt trắng bạch, mồ hôi rịn ướt trán, đôi mắt nhắm nghiền. Dương-Qua lau mồ hôi cho nàng. Bỗng Tiểu-long-Nữ mở mắt, kêu lên một tiếng và hộc luôn mấy búng máu tươi. Dương-Qua chưa kịp mặc áo và vì đang cúi xuống nhìn nàng, nên bị máu phun đầy cả ngực.

Nàng nhắm mắt, mím môi cố vận khí lực đè nén cơn tức, nhưng càng vận dụng bao nhiêu, máu càng trào thêm bấy nhiêu.

Dương-Qua cuống cuồng lấy tay bịt mồm nàng cho máu bớt chảy và cuối cùng không biết làm gì hơn nữa, chỉ ôm mặt khóc lớn.

Nghe tiếng khóc, Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và cười nhạt:

- Ta chỉ muốn máu trào cho hết mà không được.

Dương-Qua bệu bạo nói:

- Không nên đâu, cô nương đừng nghĩ và đừng làm như thế. Cô chưa thể chết được đâu.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Mi sợ chết không?

Dương-Qua hết biết đáp ra sao, chỉ ấp úng:

- Thưa... tôi... tôi đấy à... Thưa cô nương, tôi...

Nhưng Tiểu-long-Nữ đã cất lời:

- Trước khi ta chết, ta phải giết ngươi đã.

Trước đây hai năm, Tiểu-long-Nữ đã nói câu này một lần. Không ngờ bây giờ nàng nhắc lại. Dương-Qua không biết đáp thế nào chỉ nhìn nàng ngơ ngác.

Thấy dáng điệu của nó như vậy, Tiểu-long-Nữ nói thêm:

- Ta phải giết mi, nếu không ta về âm phủ gặp Tôn bà ta biết nói năng làm sao? Ta đã hứa cùng Tôn bà dạy dỗ, chăm nom, săn sóc mi, nếu ta chết đi, bỏ ngươi một mình bơ vơ, lấy ai là người giúp đỡ. Ta không nỡ để ngươi một thân một bóng quạnh hiu không người thương yêu chăm sóc. Chừng ấy cuộc đời mi sẽ ra sao? Ta chết cũng không yên tâm được.

Dương-Qua bối rối, chưa biết đối đáp làm sao, chỉ đứng lặng thinh sụt sùi.

Nói xong, nàng lại mửa thêm mấy búng máu tươi, lịm dần và nằm yên bất tỉnh.

Bỗng linh tính nhắc hắn một điều. Dương-Qua chạy đi lấy bình mật ong trắng, dùng thìa múc đổ vào miệng Tiểu-long-Nữ. Mật ong trắng có đủ sức bồi dưỡng sinh khí, chữa các chứng nội thương nhiễm độc rất hiệu quả. Sau một chập, nàng thở đều, có vẻ khỏe hơn trước và nằm yên như ngủ say. Máu cũng ngừng chảy.

Dương-Qua cảm thấy yên chí. Nhưng bây giờ hắn đã thấm mệt tay chân mỏi rã rời, đầu hoa mắt quáng, bèn ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào giường, ôm chân nàng ngủ thiếp lúc nào không biết.

Một chập sau, Dương-Qua cảm thấy một cái gì lành lạnh nơi cổ, vội mở mắt nhìn.

Tuy sống nhiều năm nơi Cô-Mộ đài, luyện tập công phu khá dày, nhưng Dương-Qua chưa đoạt được mức nhìn xuyên qua màn tối như sư phụ, cho nên mỗi đêm phải thắp nến các phòng.

Hôm nay vì có việc bận rộn bất ngờ, hắn quên thắp nến, tuy nhiên trong ánh đêm mờ mờ, hắn vẫn trông thấy Tiểu-long-Nữ điềm nhiên ngồi bên cạnh giường, tay cầm trường kiếm ví vào cổ mình.

Hắn hết sức ngạc nhiên và sợ hãi vội hỏi:

- Cô nương, cô nương làm gì vậy?

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:

- Ta tự thấy bịnh tình không thuyên giảm nổi. Thôi chúng ta cùng nhau đi gặp Tôn bà vậy nhé.

Hoảng quá, hắn chẳng biết nói sao, chỉ lẳng lặng trố mắt nhìn nàng.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sao mi sợ lắm phải không? Có gì mà sợ! Chỉ một nhát kiếm là xong, có gì đau đớn đâu mà ngại chứ.

Dương-Qua thoáng nhìn thấy ánh mắt nàng bỗng nhiên sáng ngời, và tay vẫn lăm lăm cầm thanh kiếm nên đoán chắc nàng đã quyết định hạ sát mình rồi.

Tâm linh tự vệ và bản chất ham sống tự nhiên đến, hắn bỗng nghĩ đến cách đối phó thoát khỏi luồng kiếm thép. Thình lình hắn tung mình phóng lùi ra sau một bước, rồi tung cước đá vào tay kiếm Tiểu-long-Nữ. Thanh trường kiếm rơi xuống đất.

Tuy bị thương khá nặng, nhưng nhờ bản lãnh cao siêu, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được bình tĩnh

chuyển thể kịp thời, phản ứng lẹ như chớp, vừa bị đá rơi kiếm, nàng tung mình vươn tay phải thu hồi lại được ngay và loang một vòng kề sát cổ Dương-Qua.

Dương-Qua vận dụng hết tâm trí chống đỡ. Nó xoay đủ thế để tránh né, nhưng hình như nàng đã tiên liệu tất cả các thế võ ấy nên thanh trường kiếm loang loáng bao quanh thân hình hắn.

Tránh né không được, Dương-Qua vận dụng những thế tấn công hạ bộ, nhưng ngón nào cũng bị Tiểu-long-Nữ đón trước, hóa giải quá dễ dàng. Thanh trường kiếm lấp loáng xoay chiều đổi hướng bao quanh mình Dương-Qua như hình với bóng, không khi nào cách xa quá ba tấc.

Dương-Qua tháo mồ hôi hột, vừa kinh hãi vừa lo âu thầm:

- Lần nầy chắc không thoát khỏi tử thần, thôi đành để cho sư phụ định đoạt tánh mạng, về âm ty gặp Tôn bà chứ sao. Nhưng phúc chí tâm linh làm nó chợt nhớ:

- Sư phụ đang bị nội thương nặng, chắc không đủ sức vận dụng thế lực, chi bằng ta dùng nhân điện để ứng phó có lẽ hơn.

Tiểu-long-Nữ cũng nhận thấy nhược điểm của mình trong lúc nầy, nên vừa nghiêng mình lách sang một bên để luồng chưởng lực của hắn phớt mạnh qua, nàng gọi nhỏ:

- Dương-Qua, đừng vận khí nữa.

Nói xong, nàng tung trường kiếm lên trời, lưỡi kiếm lộn mấy vòng rơi xuống, nàng đổi tay hứng lấy rồi theo một thế "phân hoa phất liễu", thoáng đấy đã kề vào cổ hắn ngay.

Tiểu-long-Nữ nghiêng mình thêm phía trước vài tấc, định xiên mũi kiếm qua cổ họng Dương-Qua, nhưng bỗng nhiên nàng cảm thấy mất cả sinh lực, toàn thân bủn rủn, tứ chi mệt rũ rượi, buông thanh kiếm rơi xuống đất nghe "xẻng" rất lớn.

Dương-Qua tưởng mình đã đến giờ về cõi chết, nhắm mắt đợi, bất ngờ hắn thấy Tiểu-long-Nữ ngưng lại, lảo đảo buông kiếm ngã xỉu ra đất. Như cái máy, hắn cúi xuống lượm tham trường kiếm, cắm đầu chạy thẳng ra cửa, tìm lối thoát thân.

Thoát khỏi nơi đen tối của tử thần, Dương-Qua tung mình phóng đại ra cửa, mắt bị chói lòa bởi ánh sáng của vừng thái dương tỏa qua cành cây khe lá. Gió thổi lộng mát dịu cả lòng, như được thấm nhuần một nguồn sanh khí mới. Ngàn cây đầy tiếng chim kêu ríu rít vọng đến bên tai, Dương-Qua có cảm giác như được nghe một điệu nhạc hồi sinh và bồi hồi xua đuổi ám ảnh của khung cảnh ảm đạm chết chóc trong Cổ-Mộ đài mà nó vừa thoát khỏi.

Một chập sau nó hoàn hồn định thần dừng chân lại nghỉ. Nhưng chợt nghĩ sợ Tiểu-long-Nữ dùng khinh công đuổi theo nữa, nên nó lại cuống cuồng băng mình cắm đầu chạy nữa. Tuy thời gian tập luyện chưa bao lâu nhưng sức phi hành của Dương-Qua cũng đủ lướt nhanh như gió và trên giang hồ chưa mấy tay đã theo kịp.

Băng không biết bao nhiêu dặm trường đường núi, lúc tạm dừng chân thì mặt trời đã đúng ngọ. ánh nắng gay gắt làm cho Dương-Qua cảm thấy cổ nóng như bỏng vì khát nước. Nhìn lại sau lưng không thấy bóng Tiểu-long-Nữ đuổi theo, lúc bấy giờ hắn mới yên tâm ngồi lại trên tảng đá để nghỉ.

Từ đêm đến giờ trong bụng không có một thức ăn nào, nên Dương-Qua thấy đói và xót xa như bị cào xé. Muốn đi tìm quá trong làng gần đấy mua thức gì ăn đỡ dạ, nhưng sực nhớ lại trong túi không có một đồng, nên Dương-Qua thở dài suy nghĩ. Tấm thân lưu lạc từ thuở bé, không mẹ không cha, bao lần trôi nổi cam go, chịu cực nhiều nỗi đắng cay ê chề, nên đã quen rồi, dù có phải nhịn đói vài hôm hay nằm rừng ngủ bụi, đối với Dương-Qua cũng là việc quá thông thường. Vốn bản chất lanh lẹ tháo vát, nên sau khi nghỉ xả hơi vài khắc, hắn tìm suối vốc nước uống, rồi phi thân lên một cây ý-dĩ gần nhất, cành sum sê cả trái. Bứt một mớ trái vừa sồn sồn chưa được chín mang xuống đem lại gành đá, bẻ củi khô, nhúm lửa nấu chín để ăn đỡ dạ.

Bỗng có tiếng động và từ đàng xa có bóng người lướt đến gần Dương-Qua chỉ liếc mắt nhìn lại, rồi giả bộ không trông thấy, y lẳng lặng vừa đun lửa vừa theo dõi, người này là một đạo cô, mặc áo vàng, nét mặt sáng rỡ, dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát thật mau và uyển chuyển, sau lưng gài một trường kiếm bao sơn màu máu trên nền áo vàng bay phât phới. Nàng lướt đi mau, tiếng gió lộng vào bao kiếm, bật thành tiếng vi vu như sáo diều. Dáng điệu nàng di chuyển quả là con người sành võ nghệ.

Dương-Qua nghĩ có lẽ người này thuộc phải Trùng-Dương, cũng đang đi giang hồ, nên chẳng muốn làm quen hay hỏi han làm gì cho bận trí. Vì vậy nên hắn vẫn lui cui chụm lửa như không trông thấy nàg.

Đạo cô tiên đến trước mặt Dương-Qua dừng lại hỏi:

- Ông bạn ơi, xin vui lòng, chỉ hộ đường lên núi phải theo ngõ nào cho đúng?

Dương-Qua ngạc nhiên tự hỏi:

- ủa, nếu nàng này là đệ tử của phái Toàn-Chân sao lại không biết đường vậy à? Chắc có gì bí ẩn đây chăng.

Tuy nghĩ thế, nhưng hắn cũng chẳng muốn hỏi lại, chỉ điềm nhiên đưa tay chỉ ra phía trước nói bâng quơ:

- Theo ngõ đó thì đúng.

Nhìn thấy thiếu niên này ăn mặc lam lũ, lui cui nấu ăn, Đạo cô đoán có lẽ là một nông dân hay tiều phu của vùng này. Nàng tự thấy mình ăn mặc sang trọng, mặt mày đẹp đẽ mỹ miều, từ trước đến nay hỏi đến ai cũng được người ta vui vẻ đón mời cực kỳ vồn vã, thế mà người này lại có vẻ thờ ơ lạnh nhạt, hay là hắn chưa nhìn thấy mình chăng?

Đứng lặng một chập, nàng thấy Dương-Qua vẫn giữ thái độ bình thản, khinh khỉnh hình như không hề đoái hoài tới mình, nên bực tức bước lại gần nói gắt:

- Này anh bạn kia ơi, hãy đứng dậy, ta có chuyện muốn hỏi đây.

Đã có thành kiến với các đạo sĩ phái Toàn-Chân, nên Dương-Qua cũng bực mình, giả ngờ làm thinh không đáp lại.

Nàng nổi nóng nói lớn:

- Ê, thằng oắt kia, không nghe cô nương nói đấy à?

Dương-Qua đáp:

- Có chứ, nhưng chẳng qua không muốn đứng dậy đó thôi.

Nàng nghe nói vậy, bụng nghĩ có lẽ nó chưa nhìn thấy mình, nên kiên nhẫn nói ngọt:

- Ông bạn hãy nhìn tôi một tí xem nào.

Giọng nói lần này êm dịu làm sao, nghe như rót vào tai, vừa ấm vừa thanh tao. Dương-Qua cảm thấy lòng xao xuyến vì suy nghĩ:

- Lạ thật, người con gái này là ai, mà giọng nói vừa ngọt vừa êm như vậy nhỉ?

Rồi hắn ngẩng đầu nhìn lên:

- Thấy nàng đạo cô quả đẹp đáo để. Nước da trắng và hồng hồng, cặp mắt đen láy sáng như sao, mũi dọc dừa, làn môi cắn chỉ đỏ mọng dễ thương làm sao!

Một thiếu nữ xinh tươi mỹ miều khả ái như thế này, chắc không có ác ý gì. Tuy nghĩ thế, Dương-Qua vẫn làm thinh, rồi cúi xuống nhóm lửa như cũ.

Đạo cô thấy người này đã nhìn mình rồi, mà lòng không mảy may xúc động, có lẽ y là con người nông dân sơn dã mộc mạc, suốt đời chỉ lam lũ, chưa biết mùi đời, chưa có cảm giác rạo rực trước gái đẹp chăng. Nếu quả vậy thì hắn thực thà, mình cũng nên tìm cách lôi kéo thu phục được hắn có lẽ hơn. Đoán như thế nàng bỗng thấy đắc ý rồi mỉm cười hỏi thêm:

- Ông bạn làm gì thế, có thích món này không, tôi xin tặng cho đây.

Vừa nói, nàng vừa thò tay vào túi lấy ra hai thoi bạc sáng loáng, ném ngay trước mặt Dương-Qua.

Dương-Qua vốn ranh mãnh lanh lẹ lạ thường. Tuy không cố tâm chọc giận nàng này làm gì, nhưng vì thấy trong lối ăn nói đối xử của nàng có vẻ kẻ cả hách dịch, cho nên nó càng giả bộ ngây ngô, nhìn sững hai thoi bạc e dè hỏi:

- Vật này là thứ gì mà sáng trắng lóng lánh, trông cũng khá đẹp đây nhỉ?

Đạo cô bỗng bật cười rồi nói:

- Bạc đấy! Dùng thứ này để mua gạo, mua thức ăn ngon, sắm được quần áo đẹp.

Dương-Qua giả bộ ngớ ngẩn hỏi thêm:

- Thế ra cô cho tôi đấy ư?

- Chứ sao nưa? Nếu không cho thì ta ném ra đây làm gì? à, mà ông bạn tên là gì nhỉ?

- Tôi họ Sồ, tên Ngốc-Tử. Cô không biết sao? Còn cô tên gì nhỉ?

Nàng mỉm cười đáp:

- Hỏi tên ta làm gì? Cứ gọi à tiên cô cũng được à, má của cậu làm gì nhỉ?

Dương-Qua nói:

- Má tôi đang kiếm củi ở trên núi kia kìa.

Nàng hỏi tiếp:

- Ta muốn lên núi này lắm, nhưng ăn mặc như thế này bất tiện. Vậy cậu làm ơn dẫn tôi đến gặp má, nhớ đổi hộ bộ quần áo khác có được không?

Dương-Qua giả bộ sửng sốt đáp:

- ý! Không được đâu. Cô ăn cắp áo quần mà tôi đánh chết. Nàng cười khì khì nói:

- Ta mua trả tiền chứ ăn cắp đâu mà ngại!

Nói xong, nàng lấy thêm một thoi bạc nữa vung đến cho Dương-Qua.

Hắn đưa tay ra bắt, nhưng giả bộ hụt để cho thoi bạc chạm vào vai rơi xuống đất, rồi dùng chân đạp lên, loay hoay trượt té, nhủi về phía trước, rồi rảo bước chạy về phía đạo cô vừa chạy vừa la:

- Tại sao cô lại đánh tôi? Xô tôi. Tôi sẽ mách má tôi đánh lại cho mà xem.

Nói rồi nó ù té chạy.

Thấy bộ điên điên khùng khùng của nó, đạo cô cũng phát tức cười, vội tung một mảnh lụa trắng đến phía trước, quấn vào chân nó kéo lại.

Thấy lối tung lụa này, Dương-Qua rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:

- ủa, đây là thế võ Cổ-Mộ đài, chứ đâu phải là người của Toàn-Chân phái. Vậy nàng này là ai? Mấy lúc nay chưa hề nghe cô nương nói đến.

Nghĩ thế nó giả bộ loạng choạng vấp ngã nhoài ra, rồi lồm cồm đứng dậy. Như một người hoàn toàn không biết gì là võ nghệ. Nó cố dẫy dụa. Nhưng chân vẫn lúng túng mắc vào giải lụa, để nàng khỏi dùng thế võ khác, lòng nó phân vân suy nghĩ mãi không hiểu nàng là ai, lên núi để làm gì? Hay để tìm cách ám hại cô nương mình chăng?

Nghĩ đến đây, Dương-Qua liên tường đến Tiểu-long-Nữ trong giờ phút này chẳng hiểu sức khỏe ra sao, hay là... đã?... bề gì rồi.

Rồi một mối lo ngại sâu sắc bỗng xâm chiếm tâm hồn nó. Quên tất cả mọi sự hiểm nghèo, Dương-Qua chỉ còn e ngại sợ Tiểu-long-Nữ đã bị nội thương mà chết rồi chăng?

Lo lắng quá, nó chỉ muốn trở lại gặp nàng, săn sóc cho nàng, mặc dầu nàng có bắt nó để giết đi, nó cũng cứ an tâm. Đang mãi hoang mang suy nghĩ, bỗng đạo cô bước đến gần, nhìn kỹ vào mặt nó. Tuy thấy mặt mày lem luốc, quần áo bẩn thỉu, nhưng vẫn có những nét rất khôi ngô tuấn tú, nàng nghĩ thầm:

- ồ, chú bé này đẹp quá, rất tiếc vì lam lũ đói khổ, nên thân hình tiều tụy thôi. Nếu được ăn no mặc đẹp, thanh niên thế gian chưa mấy ai qua khỏi hắn nổi.

Thấy Dương-Qua nhảy múa lung tung, la réo ầm ĩ, mặt mày mếu máo, nàng bỗng tức cười, đưa tay tuốt gươm đánh soẹt một cái chỉ vào mặt hắn hỏi lớn:

- Gã kia, nhà ngươi muốn chết hay sống?

Nhìn thấy nàng xuất thủ theo thế "Cầm bút điểm tự" đúng là một tử thế của phái võ Cổ-Mộ. Dương-Qua không còn nghi ngờ gì nữa, lòng đinh ninh nhất định nàng này phải là môn đồ của Lý-mạc-Thu sư bá, nhưng chưa rõ tên họ là gì, và không biết nàng lên núi làm gì, hay muốn tìm cô nương mình để sinh sự chi đây.

Thấy nàng xuất thủ gọn gàng lanh lẹ quá, Dương-Qua đoán bản lĩnh vượt cao hơn mình nhiều, nên tự nghĩ:

- Đối với hạng nầy, ta nên dùng mưu để đối phó, hơn là dùng lực.

Nghĩ thế, hắn bỗng thối lui mấy bước làm ra vẻ kinh sợ lắm, rối rít nói:

- Tôi sợ lắm, xin cô nương đừng giết, rồi khiến gì tôi cũng nghe.

Đạo cô cười gằn rồi nói:

- Nếu ngươi trái ý ta, thì một nhát kiếm cũng đủ đưa hồn mi chầu diêm chúa đấy nhé!

Dương-Qua càng làm ra vẻ ngớ ngẩn sợ sệt, lật đật đáp:

- Dạ! dạ, xin nghe, xin nghe. Đạo cô loang kiếm thành một đường tròn, quả là oai nghi uyển chuyển; rồi tra kiếm vào vỏ. Dương-Qua trố mắt nhìn, há hốc mồm một chập, rồi dạ, dạ luôn quả là một thằng khùng chính cống.

Đạo cô nghĩ thầm:

- Thằng này điên điên khùng khùng, nhưng có vẻ dễ thương. Mình muốn dạy nó học võ, chẳng biết nó có học được không? Bộ tịch nó thật điên hay giả ngộ, chờ một chập sẽ rõ ngay. Trông nó có vẻ cục mịch nặng nề như chàng nhà quê chúa!

Nàng chỉ vào mặt nó bảo:

- Hãy đi vào xóm tìm cho ta một cái rìu để cần dùng, mau lên.

Dương-Qua vội vàng vâng dạ, rồi hấp tấp chạy, tập tễnh như người chưa biết tí võ nghệ nào, thỉnh thoảng quay đầu ngó lại xem chừng.

Nàng quát thêm:

- Mau đi, phải cẩn thận đấy.

- Dạ! dạ, dạ.

Dương-Qua làm ra bộ ngờ nghệch chăm chú bước vào nhà một tiều phu ở bên đường. Qua khỏi cổng nó nhìn thấy tứ bề hiu quạnh không có bóng người, nên đoán chắc chủ nhà đã đi vào rừng đốn củi.

Lẻn ra sau bếp, Dương-Qua nhìn lên vách thấy có treo một cái rìu nhỏ, vội lấy xuống, vác lên vai rồi khập khễnh trở lại trao cho đạo cô.

Tuy giả bộ đóng kịch đánh lừa đạo cô, nhưng trong lòng Dương-Qua luôn luôn suy nghĩ, băn khoăn lo lắng đến bệnh tình Tiểu-long-Nữ, không biết hiện nay ra sao.

Quá lo đến sư phụ, nét mặt nó không che đậy được nỗi buồn man mác.

Đạo cô nhìn thấy nên ôn tồn hỏi:

- Ngươi có điều gì lo nghĩ mà có vẻ đăm chiêu buồn bực như người đưa đám ma vậy? Hãy cười lên một tí xem nào?

Dương-Qua bỗng cười lên khành khạch một tràng dài, không trả lời.

Đạo cô cau đôi mày liếc nhìn nó bảo:

- Bây giờ ngươi theo ta cùng lên núi nghe chưa.

Dương-Qua lắc đầu đây đẩy đáp:

- Không đâu, tôi phải về với má tôi để ăn cơm chứ, không về má tôi đánh đòn đau lắm cô ơi!

Đạo cô xách tai nó quát lớn:

- Mày trái lệnh, tao giết chết ngay tức khắc.

Nói xong, nàng tuốt kiếm hoa lên trước mặt nó mấy vòng.

Dương-Qua cuống cuồng thụt lùi ra sau kêu la ầm ĩ như heo ròng:

- Tha tôi đi, bỏ tôi ra, ối trời ơi!

Thấy thiếu niên quả ngu ngốc ngờ nghệch nhưng nếu dùng được thì hay lắm, nên đạo cô nắm vạt áo nó kéo đi và dịu dàng bảo:

- Hãy theo ta.

Nói xong, nàng phăng phăng bước đi lên núi.

Với một người võ nghệ cao siêu, dẫu bước đi thường cũng mau lẹ thoăn thoắt. Vì đã giả bộ như người thường không biết tí võ nghệ, cho nên Dương-Qua cố ý tập tễnh bước theo, vừa đi vừa chạy thỉnh thoảng ngã quay ra đất hoặc đứng lùi lại sau một quãng sau suýt soa.

Cứ đi một chập Dương-Qua lại ngồi xệt xuống nắn bóp ống chân, thở hổn hển, khiến đạo cô phải đứng lại chờ, hoặc lớn tiếng thúc giục.

Quạu quá nàng nắm lấy tay Dương-Qua kéo xển đi tới. Dương-Qua vội vã bước theo, chân nam đá chân siêu, thỉnh thoảng giả bộ vấp nhào tới ôm choàn lấy chân của đạo cô, làm cô ta giật mình trợn mắt mắng lớn:

- Thằng ranh, mi làm gì thế? Bộ muốn chết sao?

Dương-Qua chỉ thở hổn hển, mắt ngó láo liên hình như quá mỏi mệt:

Nhìn bóng tà đã xế qua, nếu trì hoãn sẽ tối mất, nên đạo cô không e dè đưa tay quàng ngang hông Dương-Qua dùng thuật phi hành vùn vụt đi lên núi. Nàng khinh thân quá mau, không mấy chốc đã vượt qua trên mười dặm đường.

Lần đầu tiên được người đàn bà ôm choàng ngang người, Dương-Qua cảm thấy lòng rung động một cảm giác là lạ, thích thú, dễ chịu làm sao. Da thịt của nàng vừa mềm, vừa êm, vừa ấm, nó mong cứ như thế này mãi, nên vui lòng nằm yên không cưỡng lại!

Phi thân đi được một đoạn đường dài. Đạo cô liếc mắt nhìn thấy vẻ mặt Dương-Qua ngơ ngác, đôi mắt mở rộng nhìn mình có vẻ khâm phục lắm, nên nàng thấy hài lòng lắm.

Chạy thêm một chặp nàng đặt nó trên cỏ và hỏi:

- Mi thấy ra sao! Có sướng không?

Dương-Qua bỗng sa sầm nhăn nhó rồi dưa tay nắm cổ chân kêu lớn:

- ối chao, đau quá! Cô nương ném tôi mạnh quá làm tôi suýt gãy xương chân đây rồi.

Nàng không giận mà trái lại thấy sung sướng nên lườm nó một cái và bảo:

- Mày lại lên cơn rồi, hèn chi gọi là thằng khũng cũng phải.

Dương-Qua liến thoắng hỏi ngay:

- ủa, người ta gọi tôi là thằng khùng ư? Còn tiên cô họ là gì nhỉ?

- Thì cứ gọi là tiên cô được rồi, cần gì hỏi đến họ nữa, có ích chi đâu.

Thật ra nàng họ Hồng, tên Lăng-Ba, vốn là đại đệ tử của Xích-Luyện Tiên tử Lý-mạc-Thu. Xưa kia, Hồng-lăng-Ba có thừa lệnh thày đến hạ sát toàn gia Lục-lập-Đỉnh, sau bị đuổi bắt phải tìm đường trồn tránh.

Dương-Qua thấy nàng tìm cách nói lảng, biết chưa thể tìm hiểu tông tích được, nên chờ cơ hội khác không dám hỏi nữa.

Đạo cô đến ngồi trên một phiến đá, lấy gương ra rồi dùng lược chải lại làn tóc mây cho thêm óng ả. Dương-Qua lén nhìn thấy nét mặt nàng khá đẹp, da trắng, tóc đen, đôi mày thanh, miệng tươi thắm. Tuy nhiên nếu so sánh với bác Hoàng-Dung, ở Đào-Hoa đảo vẫn có hơn. Nhưng so với Tiểu-long-Nữ, sư phụ mình thì còn thua xa.

Thật ra giữa Hoàng-Dung và Tiểu-long-Nữ, chưa chắc ai hơn ai, nhưng vì Tiểu-long-Nữ còn trẻ hơn, huống chi đối với Dương-Qua, nàng là người mà hắn cảm phục nhất cho nên đối với hắn, Tiểu-long-Nữ là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.

Hồng-lăng-Ba liếc nó một cái và hỏi:

- Mi làm gì mà nhìn ta kỹ thế?

Dương-Qua làm bộ ngớ ngẩn đáp:

- Tôi muốn nhìn là cứ nhìn, có phải tại sao đâu? Nếu cô nương không thích thì tôi khỏi nhìn nữa chứ sao!

Nàng nghe đáp ngồ ngộ, cười xòa và hỏi thêm:

- Mi thấy ta có đẹp không?

Vừa hỏi nàng lấy lược vuốt thêm làn tóc rủ trên trán.

Dương-Qua gật đầu lẩm bẩm:

- Đẹp, đẹp lắm.

Nàng thích chí hỏi thêm:

- Đẹp như thế nào mới được chứ.

Hắn bỗng lắc đầu, chiếp lưỡi nói:

- Tiếc không được trắng lắm.

Mấy lúc này Hồng-lăng-Ba tự hào mình có làn da mịn trắng nhất đời, nay bỗng bị chê, lòng vừa ngạc nhiên vừa bực tức, hỏi gắt hơi lớn tiếng:

- Mi muốn chết sao mà nói bậy. Mi dám bảo ta không được trắng à?

Dương-Qua lắc đầu, phùng má nói:

- Không được trắng lắm.

Nàng tức mình đứng dậy hỏi:

- Thế mày chỉ kẻ nào trắng hơn tao nào?

Dương-Qua điềm nhiên đáp:

- Tôi cũng không còn nhớ ai trắng hơn cô nữa.

Nàng không chịu được hỏi lớn:

- Ai nào? Cố nhớ lại xem thử? Có phải chị của mày không? Hay là bố của mày, hở thằng khùng.

Làm bộ suy nghĩ một chập rồi Dương-Qua ấm ớ nói:

- Không phải, không đúng. Cô không trắng bằng con dê bạch của tôi. Lông nó trắng như tuyết cơ.

Nghe nói, Hồng-lăng-Ba bỗng cười rũ rượi hết bực mình.

- Quả là đồ khùng, ai đời đem ví da người với lông dê. Nói xong nàng có vẻ hài lòng đến ôm choàng hắn băng lên núi lần nữa. Gần đến quãng đường rộng lên Trùng-Dương Cung, Hồng-lăng-Ba quẹo sang tay phải qua phía tây đi về phía Cổ-Mộ đài.

Dương-Qua theo dõi hành trình của nàng bỗng giật mình tự nghĩ:

- Cô này đến đây với dụng ý gì? Có muốn gây sự hay tìm cách hãm hại sư phụ ta chăng?

Đi thêm một khúc đường dài nữa, tới mấy chỗ rẽ, Hồng-lăng-Ba thò tay vào bọc rút ra một bản đồ, ngừng chana một chập để xem và quan sát lối đi.

Dương-Qua muốn tìm cách cản trở, và chỉ về phía rừng trước mặt vừa nói nho nhỏ ra vẻ sợ sệt:

- Thôi cô ơi, đừng vào khu rừng đó nữa, ma nhiều lắm, tôi chả dám theo đâu.

Nàng trợn mắt hỏi:

- Tại sao mi biết?

- Trong rừng này có một ngôi mộ bí mật to lớn, có đầy cả hồ ly ma quỉ. Tôi nghe người ta nói như thế và không ai dám đến chỗ này bao giờ.

Hồng-lăng-Ba nghe nói lòng mừng khấp khởi. Nếu như thế thì đúng là Hoạt-tử Mộ-đài đây rồi.

Nàng vốn là học trò số một của Lý-mạc-Thu, được sư phụ chân truyền võ nghệ đã vào bậc khá. Mấy lúc sau này theo Lý-mạc-Thu đi đánh bại được nhiều anh hùng trên giang hồ, nên nàng đã tự cao cho mình là người nhiều bản lãnh.

Thỉnh thoảng nàng được sư phụ kể cho biết nơi xuất phát nền võ thuật của môn phái và chính nơi Cổ-Mộ-đài là trung tâm đào luyện nên những bí quyết cao siêu của một môn võ kỳ diệu bậc nhất trên thiên hạ là "Ngọc-nữ tâm-kinh". Môn nầy chưa mấy ai học được và nếu học được, đủ sức đối phó tất cả cao thủ trên võ lâm.

Lý-mạc-Thu chưa được chân truyền môn võ thuật này, lòng vẫn ấm ức, nên sau khi được biết sư phụ tạ thế, cố đột nhập về Mộ đài một lần quyết đoạt cho kỳ được pho "Ngọc nữ tâm kinh" nhưng không thi hành được thủ đoạn phải bỏ chạy. Vì tự cao tự đại nàng nói thật cho học trò nghe mà chỉ cho biết lý do là hiện nay Mộ ấy đã giao lại cho một sư muội là Tiểu-long-Nữ. Nàng và Tiểu-long-Nữ có nhiều điểm không hợp ý nhau nên nàng không muốn quay về nơi ấy nữa.

Thấy sư phụ nói thế, nhiều khi Hồng-lăng-Ba khuyên Lý-mạc-Thu dùng võ lực chiếm Cổ-Mộ đài để đoạt pho sách quý. Lý-mạc-Thu đâu phải không có ý nghĩ đó, nhưng ngặt vì đường đi trong Cổ-Mộ đài muôn phần bí hiểm, thêm lắm cơ quan máy móc kỳ diệu chết người nên không đủ sức thực hiện được. Tuy nhiên nàng chỉ mỉm cười không nói ra sự thật.

Hồng-lăng-Ba thấy sư phụ hình như không còn nghĩ đến việc ấy nữa, nên nàng định thâm tìm dịp nhập Cổ-Mộ đài một chuyến.

Nhiều lúc nàng dò hỏi sư phụ lối ra vào nơi Cổ-Mộ đài, lấy bút ghi thành bản đồ để sau này sử dụng. Thừa dịp được sư phụ phái đi Trường-Tống diệt gia đình một địch thủ, sau khi làm xong công việc, nàng tự ý đi luôn đến núi Chung-Nam, tình cờ lại gặp Dương-Qua.

Chỉ được nghe Lý-mạc-Thu nói là ngôi mộ ở giữa khu rừng rậm âm u, cỏ cây bao phủ tứ bề, chứ nàng cũng chưa hình dung được thế nào cho rõ rệt. Ngoài ra Lý-mạc-Thu cho biết trong mộ khác hẳn bên ngoài và có những đường lối giao thông liên lạc hết sức bí hiểm.

Hồng-lăng-Ba sai Dương-Qua dùng sứ chặt cây phát bụi hai bên để nhìn thấy đường vào Cổ-Mộ đài.

Hồi 17 Khi đoạn long thạch đã rơi Dương-Qua đã biết rõ đường đi nước bước trong Cổ-Mộ, cần phải tránh những cạm bẫy nguy hiểm khắp nơi mới bảo toàn tánh mạng. Tuy nhiên hắn vẫn giả vờ không hề hay biết bảo sao làm vậy, dùng rìu chặt bậy lung tung theo lời của Hồng-lăng-Ba.

Còn độ hơn một dặm nữa đến Cổ-Mộ dài, bỗng Dương-Qua sực nhớ đến Tiểu-long-Nữ hiện giờ chẳng rõ ra sao. Lòng nó xót xa băn khoăn nóng nảy muốn tìm cách trở về gặp sư phụ ngay, dầu phải hiểm nguy đến sanh mạng cũng không cần.

Nghĩ thế, hắn làm bộ mệt lả, đi chậm lại, nhường Hồng-lăng-Ba đi trước, thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống không đi nữa, khiến nàng phải quay lại dắt đi vì ngại đêm tối hắn lạc mất.

- Mau lên thằng ngốc ơi. Bộ tướng vật trâu cũng ngã mà làm như người biết gân rồi. Sao mà tệ quá vậy? Hãy đi mau lên xem nào.

Dương-Qua chẳng thèm nói gì, ngồi bẹp xuống bên đường, một chập sau lắc đầu nói:

- Thôi, tôi chịu rồi! Không dám đi tới nữa đâu, sợ ma lắm.

Hồng-lăng-Ba đang nóng lòng tìm đường vào Cổ-Mộ, thấy chú khùng trở chứng nói bạt mạng e ngại nó bỏ đi thật, còn một mình bơ vơ biết đâu mà mò, cho nên nàng lật đật đến cạnh nó ôn tồn hỏi:

- Sao, mày sợ thứ gì? Ma à?

- Dạ tôi sợ ma lắm cô ơi.

- Ma ở đâu, mày đã gặp bao giờ chưa?

Dương-Qua mở mắt tròn xoe nhìn một chập đoán chừng đạo cô tức lời hắn, mới chậm rãi nói:

- Thưa cô, có một lần tôi lùa dê vào đây, đi lạc đường vào ngôi mộ...

Hồng-lăng-Ba mừng lắm vội hỏi:

- Thế bây giờ em còn nhớ đường đi vào không?

Dương-Qua giả bộ không nghe, nên tiếp tục kể:

- Tôi mệt quá nằm dựa bên mộ, ngủ thiếp một chập, khi chợt tỉnh thấy trời đã tối mò, tư bề vắng vẻ, bỗng có tiếng gà trong xóm xa vọng đến, chắc vào khoảng canh ba...

Đạo cô nóng ruột hỏi thêm, ngắt lời nói:

- Thế bây giờ em còn nhớ đường đi chứ?

Dương-Qua tin chắc nàng hết nghi ngờ về tánh sợ ma của mình nên hỏi thêm một câu:

- Thế tiên cô có sợ ma không?

Nàng cười đáp:

- Ta không bao giờ sợ ma. Ma lại phải sợ ta là khác nữa.

Hắn giả bộ ngớ ngẩn, ngạc nhiên và hỏi tiếp:

- Tại sao cô không sợ ma. Cô có phép sao?

Nàng vung thanh kiếm lên một vòng và nói:

- Ta đã có thanh kiếm này, ma cũng phải sợ. Gặp nó ta chỉ cho một nhát đứt hai.

Dương-Qua làm ra bộ tin tưởng, gật đầu nói:

- Thế thì được rồi. Nhưng tôi chỉ sợ cô nương nói dối.

Nàng trợn mắt, nạt:

- Đừng nói bậy, đã là đạo cô ta không hề nói dối bao giờ.

Dương-Qua cãi lại:

- Cô nương chẳng biết đó chứ. Trên đời hiếm gì đạo cô nói dối như cuội, ví dụ như...

Đang nóng lòng vào Cổ-Mộ, thấy nó cứ lè nhè kể lể, Hồng-lăng-Ba bực tức nạt lớn:

- Thằng khùng, đừng nói bá láp. Mày láo và hỗn xược lắm đấy. Ta nói dối mày để làm gì mới được chứ?

Dương-Qua vẫn cúi đầu nhìn xuống đất nói thêm:

- Xin cô cứ nghe tôi kể tiếp. Khi tôi chợt tỉnh giấc, bỗng thấy một con ma mặc toàn áo trắng bay lả lướt trên bụi cây, giống như đạo cô, chập chờn khi ẩn khi hiện khi xa khi gần, tôi sợ quá vội vùng lên chạy trốn thì...

Hồng-lăng-Ba mừng quá, nàng tin rằng chú bé này đã vô tình khám phá được ngôi cổ mộ, nơi trú ẩn của Tiểu-long-Nữ và bóng trắng lả lướt ấy nhất định là Tiểu-long-Nữ rồi.

Nàng giục nó đi mau. Dương-Qua vẫn tiếp tục nói:

- Để tôi kể tiếp cho xong đã, cô cần hiểu rõ oai lực của con ma này, rồi mới giết được nó chứ.

Nàng gật đầu bảo:

- ừ, thì cứ kể đi.

Nó vừa kể chậm chậm vừa suy nghĩ:

"Nàng nầy tuy lớn tuổi hơn mình, nhưng so bề sức vóc chưa chắc ta kém nàng. Mình cố tìm cách lung lạc nàng để sau còn tiện bề thao túng chứ".

Nghĩ xong, hắn tiếp tục kể:

- Trời ơi! Tôi khiếp sợ quá cắm đầu chạy bạt mạng, không kể trời đất, đến nỗi nhào vào một tảng đá bên đường, vỡ trán chảy máu ướt mặt, mãi đến ngày nay vẫn còn một cái sẹo lớn đây này, cô sờ xem thì biết.

Vừa nói xong, hắn nắm lấy tay của Hồng-lăng-Ba kéo về phía mình.

Từ lúc theo Lý-mạc-Thu học võ nghệ, Hồng-lăng-Ba đã từng đi phiêu bạt giang hồ, chạm trán biết bao nhiêu đối thủ hung ác, nhưng đến nay nàng vẫn còn là một thiếu nữ đang tân, tình xuân phơi phới, chưa nếm mùi đời, chưa bao giờ đụng chạm với nam nhi. Những khi phải đối phó với kẻ thù hay ác thú, từng đứng trước tử thần, nàng chưa hề thấy lòng xao xuyến hay sợ hãi. Hiện nay, vừa chạm bàn tay của một người con trai, Hồng-lăng-Ba cảm thấy bủn rủn cả người, một luồng nhiệt khí rần rật, đôi má đỏ bừng và mất cả sự bình tĩnh. Tim nàng đập từng hồi rối loạn, hơi thở dường như đứt quãng, muốn rụt tay lại, nhưng không tự chủ được, để phó cho Dương-Qua mặc ý lôi kéo.

Sử đụng chạm bất ngờ này đã làm mờ cả lý trí, tựa hồ như mới nhắp phải ly rượu nóng hay hút một điếu thuộc phiện.

Dương-Qua dùng hai tay ấp chặp bàn tay của Hồng-lăng-Ba đưa qua đưa lại trên trán mình và nói:

- Đấy, cô xem, cái sẹo to chưa?

Nàng khẽ bảo:

- Thôi, em đưa ta đi chứ.

Hắn vẫn không thả tay nàng, đứng dậy kéo nàng đi sát bên mình, dò dẫm trong đêm tối, và cứ xoa mãi để chỉ vết sẹo vô hình. Bất giác Hồng-lăng-Ba cười ngặt nghẽo, miệng reo lên:

- Thằng ranh con, thằng ranh con.

Một lúc sau chẳng rõ có sờ thấy cái sẹo hay không, nhưng dần dần chợt trở lại thực tế với một cảm giác mới đối với Dương-Qua, khẽ bảo nó:

- Thôi, em đưa ta đi nhé.

Dương-Qua không đáp lời, vẫn lặng thinh siết chặt bàn tay ấm áp của đạo cô, dìu nàng đi trong tối yên lặng đến rợn người.

Nó bỗng nhớ lại ngày nào trong Cổ-Mộ đài đã từng cùng sư phụ Tiểu-long-Nữ dắt tay cùng đi và trò chuyện, nhưng sự đụng chạm hai lần hoàn toàn khác nhau. Bàn tay của Tiểu-long-Nữ mát lạnh như băng, bàn tay của Hồng-lăng-Ba thấy ấm áp và nắm lấy như chạm phải luồng điện, người cảm thấy âm ỉ như lên cơn sốt.

Mặc dù lương tri phân tách được hai cảm xúc này, nhưng Dương-Qua vẫn không quên chủ đích của mình dự định. Vừa đi tới nó vừa lấy bàn tay ấm áp của đạo cô, vừa siết mạnh, vừa xoe nhè nhẹ như muốn gây lại cảm giác đặc biệt vừa có lúc ban đầu.

Giá là một thanh niên nào khác, kéo dài sự đụng chạm này thì Hồng-lăng-Ba đã nổi nóng, rút kiếm kết liễu ngay tính mạng, nhưng đối với Dương-Qua trong lúc hình như có một cảm xúc đặc biệt khác thường đã gây được sự rung cảm, thích thú, nên nàng chỉ để yên, mỉm cười, không rụt tay lại.

Nàng tự nghĩ:

- Có lẽ người thiếu niên này không phải khùng điên hay rồ dại như mình đã tưởng.

Rồi nàng cứ để yên trong tâm trạng ấy, lòng lâng lâng suy nghĩ như muốn kéo dài thời gian nhấp ly rượu men tình, chẳng để ý gì đến sự vật chung quanh, mặc cho Dương-Qua tự ý dìu đi trên con đường vào Cổ-Mộ. Dương-Qua muốn dùng ảnh hưởng xúc động sinh lý để khiến nàng không quan tâm đến những bí mật của Cô-Mộ đài.

Khi đến Cổ-Mộ rồi, Dương-Qua mới thả tay nàng ra, ngồi bẹp xuống đất thở hổn hển như quá nhọc mệt. Lúc bấy giờ Hồng-lăng-Ba mới trở lại trạng thái bình thường. Nàng tưởng nó quá khổ nhọc vì đoạn đường dài đã qua, nên ân cần hỏi:

- Em mệt lắm sao?

Dương-Qua đáp:

- Tôi không mệt bao nhiêu, nhưng...

- Nhưng... tôi sợ ma lắm.

Nói xong nó bỗng ôm choàng lấy thân hình đạo cô, làm cho nàng bủn rủn cả tay chân. Nhưng hắn lại buông ra ngay và nói:

- ồ, chưa vào đến mộ mà cô đã sợ phát run cả người rồi! Như thế làm sao chống cự được với ma. Thôi, tôi chả dám tin mà theo cô nữa đâu. Thôi để tôi về cho rồi. Theo cô, cô sẽ để ma hút hồn tôi.

Phần e thẹn vì bị Dương-Qua bắt gặp cảm giác run cảm của mình, phần bực tức vì gán tiếng sợ ma, nên Hồng-lăng-Ba nổi nóng rút thanh kiếm ra hét:

- Ranh con, đừng nói bậy, hãy xem đây này.

Nói xong, nàng múa kiếm một vòng tiếng xé gió vun vút, để trấn tĩnh tinh thần Dương-Qua và để che đậy nhược điểm của mình.

Thấy đã đánh lạc hướng được đạo cô. Dương-Qua đứng dậy nói:

- Vâng, xin cô cứ theo tôi.

Nói xong, nó nắm tay nàng trèo lên cổng đá, hí hoáy một chốc làm cửa đá mở toang, rồi kéo nàng chạy bừa vào phía trong. Lúc bấy giờ nó không đi nữa mà chạy bừa. Hồng-lăng-Ba không còn nhận định được phương hướng nào nữa, cứ bước càn theo Dương-Qua, quanh co, khúc khuỷu, khi qua trái, lúc quẹo mặt, hết biết đâu là đâu.

Nhớ lại trước kia có lần sư phụ Lý-mạc-Thu có kể cho biết đường Cổ-Mộ đài rất bí hiểm, sa cơ một tý mất mạng ngay. Thế mà kỳ này thằng ngốc kéo mình chạy bay vẫn không đụng chạm hề hấn gì hết. Rồi nàng tự nghĩ:

- Hay sư phụ ngại mình mò về đây để tìm pho "ngọc-nữ tâm-kinh" nên bịa ra như vậy gạt mình chăng?

Một chập sao cả hai đã đến trung tâm Mộ-đài, trước bức tường đá, ngăn che phòng Tiểu-long-Nữ.

Dương-Qua lại gần khẽ gõ cộp cộp mấy tiếng vào vách đá theo đúng mật hiệu giữa hai thầy trò. Chờ một khắc, không thấy trả lời, tứ bề vẫn yên lặng, tấm cửa không di chuyển, nó kinh hãi rụng rời, mồ hôi tuôn ướt áo, đinh ninh Tiểu-long-Nữ đã nguy đến tánh mạng rồi chăng?

Tuy vậy, nó vẫn còn giữ bề ngoài thản nhiên, lẩm bẩm nói:

- Lúc trước tôi thấy bóng ma từ nơi này đi ra. Có lẽ bây giờ nó sợ oai của cô nên biến mất không dám xuất lộ chăng?

Hồng-lăng-Ba an ủi:

- Không phải ma đâu, đó là người, và chính là sư thúc của ta đấy. Cứ tông cửa mà vào đi.

Dương-Qua làm bộ mừng rỡ nói:

- Nếu quả là người thì tôi không sợ nữa.

Rồi nó gọi lớn:

- Cô nương ơi, cô nương ơi!

Bỗng có tiếng nói nho nhỏ từ trong vọng ra:

- Cứ đẩy cửa mà vào.

Cánh cửa đá vừa nhích ra, Hồng-lăng-Ba đã lanh chân phóng vào trước, đánh lửa thắp nến.

ánh đèn vừa lòe lên, nhìn thấy thân hình một thiếu nữ toàn thân mặc đồ trắng, nằm im lìm trên phản đá, đôi mắt nhắm thiêm thiếp nửa tỉnh nửa mê.

Hồng-lăng-Ba đặt kiếm xuống đất, lớn tiếng thưa:

- Đệ tử Hồng-lăng-Ba xin yết kiến sư thúc.

Dương-Qua không ngờ sự việc xảy ra như vậy. Nó đinh ninh bước vào trước, tìm cách đem sư phụ đi nơi khác, rồi thừa đêm tối lẩn tránh, sau sẽ liệu định. Không dè Hồng-lăng-Ba bám sát bên mình và xông vào trước. Bây giờ đã lỡ, biết xử sự làm sao cho ổn. Nhìn sư phụ nằm mê man trên giường, không biết sống chết ra sao, nay lại bị tên đạo cô này khuấy rầy nữa, thật là nan giải. Rồi không biết tính sao, Dương-Qua chỉ bụm mặt khóc thảm thiết.

Hồng-lăng-Ba quay lại nhìn nó:

- Mày làm gì lạ thế? ranh con.

- Tôi sợ lắm.

Bỗng một giọng yếu ớt trả lời nó:

- Ta đã thành ma đâu mà mi sợ.

Hồng-lăng-Ba nhìn lại thấy quả là một trang tuyệt sắc giai nhân. Mấy lúc này nàng tự hào mình có nhan sắc kiều diễm, nhạn sa cá lặn, trên gầm trời chưa dễ có mấy ai, thế mà ngày nay nàng phải ngẩn người trước dung nhan tuyệt trần của Tiểu-long-Nữ. Chả biết nói gì hơn là lặng yên để chiêm ngưỡng, càng nhìn càng đẹp, càng ngắm càng đắm say. Quả thật danh bất hư truyền, hảo hán bốn phương đã tranh nhau tỉ thí để hi vọng chiếm nàng, tưởng không phải điều quá đáng.

Thấy đạo cô lặng người nhìn mình như ngây như dại, Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Ngươi là ai, muốn gì?

Hồng-lăng-Ba chấp tay thưa:

- Kính bẩm sư thúc, đệ tử Hồng-lăng-Ba xin bái kiến sư thúc.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Ngươi là đệ tử của Lý-mạc-Thu à! Sư phụ ngươi đâu rồi?

Hồng-lăng-Ba thưa:

- Sư phụ đệ tử sai đệ tử đến đây trước để vấn an sư thúc. Sư phụ đệ tử sẽ xin tới sau.

Tiểu-long-Nữ đưa bàn tay trắng bạch như giấy, khoát nhẹ mấy cái bảo:

- Thôi, ngươi hãy đi đi, ở đây là chỗ tôn nghiêm, hãy dang ra đừng đến nữa và bảo sư phụ ngươi cũng không nên bước chân vào nữa.

Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn kỹ, thấy sắc mặt Tiểu-long-Nữ nhợt nhạt như không có sinh khí, hơi thở hổn hển từng hồi, chắc nàng đang bị nội thương, không có sức lực bao nhiêu, nên trong lòng không ngại, nàng chẳng quan tâm đến câu nói của Tiểu-long-Nữ và hỏi tiếp:

- Còn Tôn bà đâu rồi?

- Đã chết hai năm nay rồi, thôi ngươi mau rời khỏi chốn này.

Hồng-lăng-Ba thầm nghĩ, đây là dịp may hiếm có, nếu không thừa lúc nầy chiếm Cổ-Mộ đài thì biết chừng nào mới có dịp tốt hơn.

Nhìn thấy trạng thái sức khỏe của Tiểu-long-Nữ, nàng e sư thúc chết gấp, biết hỏi ai tìm ra "Ngọc-nữ tâm-kinh", nên vội hỏi:

- Thưa sư thúc, đệ tử nhận lệnh sư phụ đến đây xin sư thúc cho mượn bộ "Ngọc-nữ tâm-kinh", nên vội hỏi:

- Thưa sư thúc, đệ tử nhận lệnh sư phụ đến đây xin sư thúc cho mượn bộ "ngọc-nữ tâm-kinh". Đệ tử sẽ nhận trách nhiệm chữa lành vết thương cho sư thúc.

Tiểu-long-Nữ được tu luyện từ tấm bé, gạt bỏ được cả thất tình lục đục, trong lòng khi nào cũng có những tư tưởng thanh cao thoát trần. Nay vừa nghe đạo cô, thốt những lời trái tai quá đáng bỗng nổi cơn tức, uất khí tràn lên đùng đùng không chế ngự nổi, trắng đôi mắt ngất lịm trên giường.

Hồng-lặng-Ba vội điểm vào nhân trung huyệt nàng mới tỉnh lại nhưng vẫn còn tức giận quát lớn:

- Thầy trò bay lúc nào cũng nuôi một ý tưởng xằng bậy. Mày hãy gọi sư phụ đến đây gặp ta, có chuyện cần nói.

Bỗng Hồng-lăng-Ba cười nhạt, không nói năng gì, suy nghĩ một chập, rút ra một dãy gấm, lấy hai mũi ngân châm giơ lên sáng lóng lánh rồi nói:

- Chắc sư thúc cũng thừa rõ sự lợi hại của độc trâm này? Nếu giờ phút này sư thúc còn tiếc rẻ bộ kinh, thì đừng trách đệ tử sao nhẫn tâm vô lễ.

Trước kia bản thân mình đã từng nếm mùi độc trâm này của Lý-mạc-Thu, ngày nay vừa nhìn thấy, Dương-Qua đã rùng mình lo sợ cho số phận của Tiểu-long-Nữ.

Cố nhiên Tiểu-long-Nữ cũng biết rõ trâm này quá sức độc, chỉ bị châm một tý vào da, sức độc cũng có thể khiến cho kẻ xấu số trở thành bán sanh bán tử, toàn thân sẽ bị xốn xang như muôn ngàn mũi kim chích trong huyết quản. Độc này có phần ác nghiệt ghê gớm hơn nọc ong trắng nữa. Nhưng Tiểu-long-Nữ chỉ điềm nhiên nhìn Hồng-lăng-Ba không nói một tiếng.

Hồng-lăng-Ba cầm trâm từ từ bước đến sát cạnh giường của Tiểu-long-Nữ.

Dương-Qua thấy tình thế quá cấp bách, vùng kêu thất thanh:

- Cô ơi có ma, có ma, tôi sợ quá!

Vừa la, nó vừa nhoài người ôm choàng lấy Hồng-lăng-Ba và lanh tay điểm luôn vào hai yếu huyệt "kiên trì" và "tiểu yêu" khiến nàng bủn rủn tay chân, ngã gục xuống đất như một cái xác không hồn.

Dương-Qua chưa chắc ý, còn sợ nàng tự giải được, nên tiến tới điểm luôn vào huyệt "cù cốt", xong đâu đấy hắn mới thở một hơi thoát nạn và chắp tay thưa cùng Tiểu-long-Nữ:

- Thưa cô nương, đạo cô này đã vô lễ làm điều phạm thượng xin cô nương cho phép tôi dùng độc trâm này để kết liễu tánh mạng nó cho rồi.

Vừa thưa xong, hắn cúi xuống nhặt mũi độc trâm lên.

Tuy bị điểm vào các yếu huyệt, toàn thân không cử động được, nhưng Hồng-lăng-Ba vẫn còn tỉnh táo, nghe và hiểu mọi việc. Nàng hoảng sợ muốn quỳ lạy van xin tha tội, nhưng khổ nỗi toàn thân bất động, môi nói chẳng nên lời, chỉ còn cặp mắt nhìn với vẻ van lơn muôn phần bi thiết. Mặt hoa trước kia kiêu hãnh bao nhiêu, bây giờ càng ủ dột bấy nhiêu.

Dương-Qua đắc ý cười lớn.

Tiểu-long-Nữ khễ bảo:

- Hãy ra đóng kín cửa ngõ lại đã, cần phải đề phòng sư tỷ ta đến cứu hắn đấy.

Dương-Qua vâng lời, vừa quay mặt ra nhìn thấy một bóng người đạo cô đứng sững tại cửa từ khi nào rồi. Nhìn qua ánh nến bập bùng, hắn nhận thấy chính con người năm xưa đã từng bị hắn xúi chim hồng mổ thủng mắt. Quả thật đạo cô là Xích-Luyện tiên tử Lý-mạc-Thu.

Nguyên trước đây Lý-mạc-Thu đã hiểu ý định của Hồng-lăng-Ba lúc nào cũng muốn tìm cách xâm nhập Cổ-Mộ đài để chiếm đoạt "Ngọc-nữ Tâm-kinh", nên luôn luôn để ý theo dõi. Tuy là phái học trò đi sát hại thù nhân tận Trường-an, nhưng Lý-mạc-Thu có dụng tâm để theo dõi xem hắn có dở ý định này ra không hòng đối phó, tránh hậu họa về sau. Vì lẽ ấy nên Lý-mạc-Thu luôn luôn bí mật bám sát Hồng-lăng-Ba như bóng với hình. Khi thấy Hồng-lăng-Ba hướng về Cổ-Mộ đài, thì nàng đã biết rõ sự việc, nhất là khi đã gặp Dương-Qua, rồi cùng hắn xuyên qua các nẻo đột nhập Cổ-Mộ đài, thì không còn nghi ngờ gì nữa.

Khi mới gặp, nàng không để ý đến Dương-Qua, nhưng sau khi nhìn kỹ mới thấy đây là đứa trẻ năm xưa, ngày nay đã trở thành một thiếu niên mặt mày đĩnh ngộ tuấn tú. Nhớ lại cái hận bị hư một mắt, Lý-mạc-Thu đùng đùng nổi giận, bao nhiêu căm hờn dồn lên nhỡn tuyền, và sắc diện nàng trở nên vô cùng hiểm ác.

Vừa trông thấy Lý-mạc-Thu, Tiểu-long-Nữ cố chống tay từ từ ngồi dậy nói:

- Xin chào sư tỷ...

Vừa chào dứt lời, máu tươi trào ra miệng, nàng ngã vật xuống.

Lý-mạc-Thu không đáp, hầm hầm chỉ tay vào Dương-Qua hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Thằng này là ai? Theo huấn luyện của tiên sư, nơi này không bao giờ chứa chấp đàn ông, cớ sao hắn vào được và cô đem hắn vào để làm gì?

Tiểu-long-Nữ không trả lời, chỉ ho một tràng dài và máu tiếp tục trào ra miệng.

Dương-Qua vội vàng chạy lại đỡ nàng ngồi dậy cho máu bớt ra và tiếp lời với Lý-mạc-Thu:

- Tôi là đồ đệ của cô nương chứ có gì mà hỏi?

Lý-mạc-Thu cười gằn nói:

- à, thế ra mi không phải ngốc tử họ Sồ sao? Thật khéo ngụy trang, khéo che đậy nhỉ?

Vừa dứt lời, Lý-mạc-Thu rút cây phất trần đánh luôn ba cái liên tiếp. Nói là ba cái, nhưng vì bản lãnh của nàng quá cao siêu, ba cái đánh tung ra liên tiếp, nhanh như chớp giật, không thể phân biệt là bao nhiêu. Với tài nghệ tuyệt luân trong việc sử dụng phất trần ba cái đánh này có thể hạ sát trong nháy mắt nhiều cao thủ trong võ lâm, và từ trước đến nay chưa mấy ai tránh nổi.

Nhưng Dương-Qua mặc dầu chưa học được đến mức siêu việt như Lý-mạc-Thu, nhưng hắn đã học và đoán biết trước được thế "Tâm yểu đầu lâm" này, nên tránh né được dễ dàng.

Lý-mạc-Thu quá ngạc nhiên, vội định thần nhìn lại xem có phải là thằng bé ngày xưa chăng. Nàng không thể tin được rằng trong một khoảng thời gian quá ngắn, mà nó đã luyện tập bản lãnh khá cao cường, và nhìn trong lối tránh né có quy củ, rõ ràng hắn đã trở thành một đệ tử tinh thông của phái Cổ-Mộ rồi.

Suy nghĩ, rồi nàng dừng tay nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sư muội nuôi thằng bé con này để làm gì thế?

Tiểu-long-Nữ không dám đáp lớn, e động ngực máu sẽ trào ra nữa, nàng chỉ nhìn Dương-Qua khẽ bảo:

- Qua nhi! ngươi hãy làm lễ ra mắt sư bá mi đi.

Dương-Qua trố mắt nhìn Lý-mạc-Thu và hỏi lại:

- Hắn là sư bá tôi đấy à?

Tiểu-long-Nữ bảo nho nhỏ:

- Mi lại gần ta bảo cái này.

Dương-Qua vâng lời đến bên cạnh giường, kề tai xuống gần miệng nàng.

Tiểu-long-Nữ nói nho nhỏ vừa đủ nó nghe:

- Phía bên trái chiếc giường đá có một phiến đá nhỏ đó là chốt để điều khiển máy móc. Mi lên giường làm lễ ra mắt sư bá, rồi thừa cơ xoay cái nút ấy, thì tự nhiên cả cái giường này sẽ tuột xuống hầm sau. Như thế chúng ta sẽ thoát nạn, rồi sau hay.

Lý-mạc-Thu đoán Tiểu-long-Nữ đang trối trăn điều gì, nhưng nàng ỷ y một người đang hấp hối không còn bao nhiêu khí lực, một người là con nít chưa có bản lĩnh, nên khinh thường không thèm đề phòng hay ngăn cản.

Dương-Qua nghe nói mừng quá, lật đật trèo lên giường, quỳ xuống, hai tay chắp lạy Lý-mạc-Thu, miệng nói:

- Đệ tử xin chào sư bá.

Vừa nói, hắn vừa lẹ tay đẩy mạnh vào nút đá.

Cả chiếc giường đá từ từ vụt xuống sâu, đồng thời một phiến đá thật to từ trên cao rơi ầm xuống, ngăn cách chỗ thầy trò Lý-mạc-Thu và Tiểu-long-Nữ.

Trong khi chiếc giường bị tuột xuống, Tiểu-long-Nữ bị ngột hơi máu ra lênh láng, Dương-Qua cũng vì vô ý để tay chạm phải phiến đá, rách một đường, máu tuôn rất nhiều.

Khi máy ngưng chuyển động, Dương-Qua có cảm giác như chiếc giường rơi vào một phòng kín, bày trí đàng hoàng. Hắn vội bước xuống giường lấy đá quẹt lửa thắp nến soi tìm gặp Tiểu-long-Nữ nằm yên bất động, máu trào ướt cả người và cánh tay của hắn cũng đầy máu đỏ.

Không nghĩ gì đến bản thân mình, Dương-Qua chỉ sợ cho sư phụ, lật đật chạy đến hỏi nho nhỏ:

- Thưa cô nương, cô nương thấy trong người ra sao?

Trên nét mặt trắng bạch như sáp, nở một nụ cười hy vọng, Tiểu-long-Nữ nói khẽ:

- Thế là ta thoát khỏi tay độc thủ của chúng nó rồi.

Tuy nàng nói được nhưng Dương-Qua nhìn thấy máu vẫn rướm chảy bên mép, nên lo lắng vội nói:

- Thưa cô nương, nên nằm định tâm dưỡng bệnh, không nên khinh động, để máu ra mãi e nguy đến tánh mạng.

Tiểu-long-Nữ cố gắng nói:

- Ta cảm thấy mệt quá rồi, không còn sức lực để vận nội công chữa bệnh nữa. Nhưng nếu cả chúng ta đều mạnh khỏe, cũng chưa chắc chống cự nổi với thầy trò Lý-mạc-Thu đâu.

Dương-Qua nghe nói vừa buồn rầu, vừa chán nản, lòng nghi vớ vẩn bâng khuâng.

Tiểu-long-Nữ hỏi thêm:

- Mi xem chừng bệnh ta ra sao?

Dương-Qua nói:

- Cô nương để tôi thử truyền máu cho, may ra cứu vãn được.

Nói xong, nó xăn tay áo lên, lấy vạt áo lau thật sạch. Đoạn dùng dao trích một vết vào cổ tay của Tiểu-long-Nữ và áp hai vết thương vào nhau. Nhưng máu của hắn vẫn chảy ra ngoài lênh láng.

Tiểu-long-Nữ thở dài nói:

- Tiếc mi chỉ đủ sức vận động máu chạy trong cơ thể mi, chứ làm sao cung cấp cho một cơ thể khác nữa được. Thôi đừng tiếp tục vô ích, chỉ làm mất nhiều máu, có hại cho sức khỏe của mi mà thôi.

Dương-Qua cúi đầu suy nghĩ một chập bỗng reo lớn:

- Tôi nhớ rồi, bây giờ tôi làm được rồi!

Nó bỗng nhớ lại bài học của nghĩa phụ Âu-dương-Phong đã dạy khi truyền cho nó lối tập đi ngược thân. Nghĩa phụ nó có giảng rằng:

- Người đời cho lối đi ngược người của ta không đúng quy tắc vũ lâm, nên ít ai dùng đến. Nhưng biết đâu đúng, biết đâu sai? Miễn đi được đến mục đích mong muốn, đâu có cần đến phương pháp hay hoặc dở, phàm khi ta chồng ngược người để đi thì khí huyết lưu hành mãnh liệt gấp năm mười lần lúc bình thường.

Nghĩ xong, Dương-Qua quả quyết làm ngay. Hắn đảo ngược thân hình, lấy đầu làm điểm tựa, chân đứng thẳng lên trời, một tay nắm lấy cổ tay Tiểu-long-Nữ áp chặt vào vết thương của mình. Hắn hô hấp mạnh, vận dụng công lực giúp máu chạy mạnh. Bốn mắt hồi hộp nhìn nhau, chờ đợi kết quả. Bỗng đôi bên cảm thấy huyết quản hòa hợp, đôi tim cùng theo một nhịp, má Tiểu-long-Nữ đượm sinh khí, ửng đỏ dần dần, nước da lúc đầu trắng như sáp, đã qua màu san hô, đôi môi bớt tái, mắt sáng dần. Dương-Qua quên cả mệt nhọc, lòng mừng hớn hở. Hắn sung sướng quá hỏi nho nhỏ:

- Sao, cô nương thấy có khỏe được tí nào không?

Tiểu-long-Nữ mỉm cười gật đầu không đáp.

Trên phiến đá, đĩa dầu đã cạn, ngọn đèn lụn dần rồi tắt ngấm, căn phòng đã lặng chìm trong âm u yên lặng. Cả hai nín thở nghe tim cùng đập. Tiểu-long-Nữ đã luyện từ tấm bé đến mức diệt được lục dục thất tình, có đủ sức chống trả với niềm mừng vui cảm động của giờ phút này chăng?

Phần Dương-Qua, hắn không mong gì hơn lo cứu mạng sư phụ. Khi nhìn thấy kết quả, hắn mừng quá, lặng thinh không dám nói thêm gì nữa.

Bỗng Tiểu-long-Nữ bảo lớn:

- Thôi, chúng ta qua phòng Tôn Bà, ta có chuyện cần bàn cùng mi.

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương không thấy mệt sao?

Nàng lắc đầu:

- Khá lắm rồi, không sao đâu.

Nói xong nàng đến cạnh tấm vách xoay một nút nhỏ, bỗng tấm vách từ từ nứt ra, chừa một cửa nhỏ, trước mắt có một đường dài thăm thẳm từ trước đến nay Dương-Qua không hề hay biết.

Tiểu-long-Nữ đưa tay dắt nó ra, cùng bước trên con đường ấy, không mấy chốc đã đến phòng Tôn Bà.

Vào phòng, Tiểu-long-Nữ đốt đèn, thu nhặt tất cả quần áo, của Dương-Qua bỏ vào một túi nhỏ; nhét thêm vào hai tấm lụa dệt vàng của nàng.

Dương-Qua chẳng hiểu thế nào, vội hỏi:

- Cô nương làm gì vậy?

Nàng vẫn lặng thinh không nói, đi lấy hai bình ngọc phong tương (chất tinh túy của mật ong trắng) bỏ luôn vào túi.

Dương-Qua kinh ngạc quá hỏi:

- Sao, cô nương muốn rời khỏi nơi này sao?

Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và đáp:

- Mi quả thật có lòng tốt đối với ta, ta rất hài lòng và có lời khen mi, vậy mi có thể rời ngôi mộ này để tìm nơi khác dung thân.

Dương-Qua giật mình, hỏi:

- ủa, còn cô nương ở lại sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta đã phát thệ chung thân vĩnh viễn nơi đây. Sống ở Cổ-Mộ thác ở Cổ-Mộ, không hề đi nơi khác.

Thấy Tiểu-long-Nữ nói với vẻ mặt trang trọng nghiêm chỉnh, Dương-Qua đoán nàng đã quyết định một điều quan hệ, nên chẳng dám nói suy nghĩ một chập, nó chậm rãi đáp:

- Nếu cô nương không rời Cổ-Mộ, thì tôi cũng nguyện ở lại bên cạnh cô nương, ngõ hầu giúp đỡ cô nương được phần nào.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Hiện nay thầy trò Lý-mạc-Thu muốn dùng võ lực bức sách ta chiếm đoạt "Ngọc-nữ tâm-kinh". So võ nghệ thì ta còn thua sút không thể dấu để bảo vệ kinh được. Chắc mi cũng nhận thấy chứ?

Dương-Qua đáp:

- Thưa vâng.

Tiểu-long-Nữ nói tiếp:

- Lương thực hiện nay chỉ còn chi dùng nhiều lắm là vài mươi hôm? Nếu kể cả mật ong trắng nữa cũng chỉ cầm thực thêm mười hôm nữa là cùng. Sau đó mình biết giải quyết làm sao?

Dương-Qua cúi đầu suy nghĩ rồi nói:

- Vậy chúng mình cứ xông ra đánh bừa để mở đường trốn đi. Tuy không thắng được họ, chứ cũng có thể thoát thân chứ.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu đáp:

- Không thể tính liều như thế được, Lý-mạc-Thu sư bá là tay võ nghệ cao cường, nhiều mưu lắm kế, khó lòng mà trốn thoát, nếu chạy ra khỏi nơi đây, y cũng có thể đuổi theo để bắt lại, chừng đó phải mất mạng cả hai không?

Dương-Qua lại hỏi thêm:

- Như thế một mình tôi làm sao chạy thoát được?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta sẽ đấu sức một với Lý-mạc-Thu, dẫn y đi sâu vào Mộ đài, để mi thừa cơ tẩu thoát.

Dương-Qua còn đang do dự, nàng nói tiếp:

- Khi ra khỏi cửa mộ, hãy nhìn bên tay trái, phía dưới chân cửa có một tảng đá lớn nằm án ngữ. Mi dùng nội lực đẩy mạnh tảng đá ấy qua một bên, tự nhiên sẽ làm mất thăng bằng, khiến một tảng đá nặng hàng vạn cân ở trên cửa sẽ lăn xuống cắt đứt đường ra vào Cổ-Mộ.

Những ai ở bên trong sẽ vĩnh viễn không lối thoát ra ngoài nữa.

Dương-Qua hỏi:

- Ngoài cửa này ra, cô nương có biết lối liên lạc nào bí mật khác chăng?

Nàng lắc đầu đáp:

- Không có lối thoát nào nữa. Ngày xưa khi xây dựng Cổ-Mộ đài, Vương-trùng-Dương đã tiên liệu kẻ thù không đội trời chung của mình là Kim-Chúa. Thế nào cũng tìm cách đến vây đánh. Nếu gặp quân địch quá đông, không kháng cự nổi, người sẽ dùng cơ quan bí mật này để bế tắc lối ra vào và tuẫn tiết trong Cổ-Mộ, đó là ý bất khuất của người.

Nhưng suốt mười năm liền, mặc dầu Kim-Chúa nhiều lần sai quân đến bắt, cả thảy đều bị Vương-trùng-Dương phá tan hoặc bắt nhốt trong các phòng đó.

Thời gian sau, Kim-Chúa chết, người kế vị không lưu ý đến việc này, nên không bao giờ phái quân đến nữa, thành thử tảng đá vạn cân vẫn còn mãi không được sử dụng tới.

Khi giao Hoạt-tử-Nhân Mộ-đài lại cho Lâm-triều-Anh tổ sư, Vương-trùng-Dương có kể chi tiết cho Bà nghe, do đó sư bà mới biết và truyền lại.

Dương-Qua liền thức nói qua dòng lệ:

- Thưa cô nương, dù sống hay chết, tôi muốn ở mãi bên cạnh cô nương mà thôi.

Tiểu-long-Nữ an ủi:

- Theo ta làm gì nữa, có ích lợi chi đâu. Mi đã từng kể cho ta nghe bên kia có lắm cái đẹp, thú, kỳ lạ, hãy ra mà tận hưởng lấy. Ta đã truyền cho ngươi "ngọc-nữ tâm-kinh" cứ theo đó mà đào luyện thêm, chắc chắn sẽ khuất phục hết các cao thủ của Toàn-Chân phái, như thế chẳng thích hơn sao? Đã oai phong, sung sướng, được ngươi nể sợ, hưởng hết thú vui trên đời không hơn ở lại chết trong chốn này?

Dương-Qua nước mắt ràn rụa, khóc tức tưởi, tiến tới níu lấy vai áo Tiểu-long-Nữ, vừa khóc, vừa van lơn:

- Cô nương, trên đời này chỉ có cô nương là người thương yêu tôi, đối xử rất tốt cùng tôi mà thôi. Nếu không còn cô nương thì vạn sự trên đời này có nghĩa lý gì nữa đâu.

Tiểu-long-Nữ được luyện tập từ bé, dẹp bỏ được mọi tình dục, cảm xúc, lòng như nguội lạnh, nhưng trước tấm lòng chí thiết, chí tình của người đệ tử trung thành, nàng cũng cảm thấy con tim xao xuyến, hai giòng lệ từ từ lăn trên má. Khi cảm thấy lành lạnh trên mặt, Tiểu-long-Nữ thất kinh nhớ lại lời dặn của sư phụ trước giờ lâm chung:

- Mức kết quả của công phu luyện tập tựu trung nhờ vào sự thành công trong việc đoạn tình, tuyệt dục, không để ngoại cảnh chi phối lòng mình. Nếu còn để bị mềm yếu vì cảm tình, thì chẳng những bao nhiêu công phu sẽ tiêu tan mà còn có hại đến mạng sống là khác. Con phải ráng khắc cốt ghi tâm lời này, nhớ cho kỹ, con nhé!

Nhớ đến đây, Tiểu-long-Nữ như người chợt tỉnh, vội vàng vận dụng nghị lực xua đuổi hết cảm giác vừa rồi và vung tay đánh mạnh một quyền vào người Dương-Qua, nghiêm nghị bảo:

- Mi phải tuyệt đối tuân theo lời ta bảo, nhất thiết không được sai. Tại sao mi dám cưỡng lại lệnh thầy trong lúc này hử?

Dương-Qua bỗng thấy sư phụ trở nên nghiêm khắc lạnh lùng quá, chẳng dám nói nữa, chỉ cúi đầu lặng yên, lòng nó xao xuyến bồi hồi khôn tả.

Tiểu-long-Nữ trao thêm đôi giải lụa trắng, cột chặt túi vào lưng nó như người ta thắt yên ngựa, tay phải tuốt kiếm, tay trái dắt nó đi lại dần dần một bức tường, nghiêm nghị bảo:

- Khi được lệnh xuất môn, mi phải tuyệt đối thi hành ngay, lúc ra đến cửa phải xô tảng đá để vận động cơ quan đóng kín Cổ-Mộ đài như đã dặn. Lý-mạc-Thu sư bá muôn phần hiểm ác, nếu mi chậm trễ làm hỏng kế hoạch của ta thì nguy hiểm lắm, nghe chưa?

Dương-Qua miễn cưỡng cúi đầu vâng dạ, ruột rối như tơ. Tiểu-long-Nữ dặn thêm:

- Nếu mi không làm theo lời ta bảo, mai sau ta chết cũng còn oán hận mi đời đời.

Nói xong nàng nắm tay Dương-Qua dắt ra khỏi mộ. Biết bao nhiêu lần thầy trò đã nắm tay nhau, nhưng trong những lần trước, mỗi lần nắm tay Tiểu-long-Nữ thấy lạnh như băng tuyết, trái lại lần này nó cảm thấy bàn tay Tiểu-long-Nữ siết chặt tay nó và hình như có một luồng nhiệt khí chuyển qua người, sưởi ấm cả cõi lòng và nó thấy toàn thân như rung chuyển. Bỗng chốc nó thấy nhiệt độ trong người thay đổi bất thường, lúc ấm, lúc lạnh, chẳng hiểu vì sao?

Hai người cùng bước đến trước một tảng đá rồi dừng lại. Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:

- Thầy trò Lý-mạc-Thu đang đứng phía sau kia, ta sẽ khiêu chiến cùng Lý-mạc-Thu và dụ nó đi xa dần, mi chắc phải đấu cùng Hồng-lăng-Ba, nên sử dụng Ngọc-phong-sa để chống cự với nó nhé.

Ngọc-phong-sa là một vũ khí hết sức đặc biệt, vô cùng lợi hại của phái Cổ-Mộ. Lâm-triều-Anh sở dĩ nổi tiếng là nhờ hai môn khí giới kỳ lạ: Băng-phách-ngân và Ngọc-phong-sa.

Ngọc-phong-sa là một loại kim tiêu hình lục giác đã được tôi luyện bằng nọc độc của giống ong trắng, nó tuy bé nhỏ nhưng nhờ nặng, nên có thể phóng đi rất xa và mạnh. Tầm tấn công của nó rất bao la. Tuy nhiên vì chất độc của nó rất lợi hại nên Lâm-triều-Anh chỉ sử dụng trong những trường hợp đặc biệt cần thiết mà thôi. Khi đã cao siêu, bản lĩnh đã đạt đến mức thượng thăng, bà không mấy khi sử dụng đến nữa vì xem nó như là loại ám khí.

Sở dĩ biết được bản chất, Lý-mạc-Thu ác độc, nên sư phụ Tiểu-long-Nữ chỉ dạy nàng Băng-phách-ngân châm, mà không truyền thụ Ngọc-phong-sa.

Trong lúc tâm thần rối loạn, ý chí bất định, Dương-Qua nghe lời dặn như gió thoảng qua, tự nhiên gật đầu vâng dạ, chưa nghĩ đến việc thi hành sẽ ra sao.

Dặn vừa dứt lời Tiểu-long-Nữ vận dụng thần khí, nạt lớn một tiếng, dơ chân đạp tảng đá văng đi nơi khác, rồi vung tay vung hai giải lụa trắng đột nhiên tấn công thầy trò Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu đang vận công khai giải yếu huyệt cho Hồng-lăng-Ba vừa xong, căn dặn cách thức đề phòng và đưa mắt quan sát địa thế dự định dùng lực phá cửa đi ra. Không ngờ Tiểu-long-Nữ xuyên qua ngõ kín tấn công bất thình lình, khiến nàng vội vã múa phất trần thống trả mãnh liệt. Giải lụa bạch và phất trần là những vũ khí mềm dịu nhu chuyển, múa tít lên, quyện chặt lẫn nhau trông rất đẹp mắt. Mới nhìn vào thì thấy nhẹ nhàng, uyển chuyển nhưng cả hai đối thủ đã phí vào đó biết bao nhiêu công phu nội lực.

Càng nhìn thấy sự mềm dịu thướt tha và lợi hại của giải lụa bao nhiêu, Lý-mạc-Thu càng nghĩ càng căm giận sư phụ đã bất công vì thành kiến đối với mình, không truyền thụ cho những thế võ độc đáo huyền ảo như vậy.

Riêng Hồng-lăng-Ba, từ xưa đến nay vẫn tự kiêu tự đại, trên đời, ngoài sư phụ chẳng biết nể vì ai, nay bị Dương-Qua dùng kế giả điên, giả dại, gạt gẫm, điểm huyệt, nên trong lòng hậm hực vô cùng.

Vừa thấy hắn nàng gầm lên một tiếng, vung kiếm chém liền, nàng vừa xông tới vừa nghiến răng bảo:

- à thằng oắt con ranh mãnh, phen nầy cho mi nếm tài ta.

Nàng vung kiếm, tận lực chém xả vào mình Dương-Qua không chút nhân nhượng. Dương-Qua cũng muốn diễu cợt thêm mấy câu chọc giận, nhưng nhận thấy Hồng-lăng-Ba quá hung hăng, cố tình hạ sát mình, hơn nữa vì cõi lòng đang đau xót sắp phải xa lìa sư phụ thân yêu, nên nó chẳng còn bụng dạ nào tấn công, chỉ tránh né cầm chừng mà thôi.

Thấy vậy Hồng-lăng-Ba, tưởng hắn không có tài nghệ bao nhiêu, thầm nghĩ vì mình sơ ý để bị điểm nhằm yếu huyệt đến nỗi bủn rủn cả người nên lòng càng bực tức và ân hận.

Phía Lý-mạc-Thu và Tiểu-long-Nữ làn lụa bạch và bóng phất trần xoắn lại nhau, phút chốc đã trên mười hiệp bắt phân thắng bại.

Đột nhiên Lý-mạc-Thu hét lớn:

- Sư muội hãy mở mắt xem bản lĩnh của ta này.

Nói rồi nàng chuyển thế bất ngờ đảo ngược cây phất trần chặt mạnh giải lụa bạch đứt làm đôi, kể ra dùng một cây phất trần mà cắt đứt được nhung lụa, quả khí lực thần công của nàng đã thuộc hạng siêu đẳng mới làm nổi.

Nhưng Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không chút bấn loạn và trả lời:

- Khá đấy sư tỳ cũng còn xứng đáng một đệ tử hữu hạn của phái Cổ-Mộ đài..

Nói xong, nàng dùng hai tay múa tít nhung lụa còn lại, một đầu cuốn chặt vào cán, một đầu bao quyện đầu phất trần, rồi chuyển lực xoay ngược một vòng, hai nhung lụa đã bứt gãy cây phất trần làm hai khúc.

Sự phản ứng quá mãnh liệt và bất ngờ, Lý-mạc-Thu không kịp giữ vũ khí, phải buông tay cho hai đoạn phất trần rơi xuống đất, rồi múa chưởng xông vào tấn công luôn.

Tất cả sự bực tức tập trung vào hai cánh tay chưởng lực tỏa ra hết sức mãnh liệt , chấn động cả không khi như một luông cuồng phong . Tiểu Long Nữ tự lưọng sức mình không thể thắng được nên múa giải lụa chóng đối cầm chừng và thối lui dần vào phía trong.

Lý mạc Thu thấy vậy bỏ bụng mừng thầm , nàng đâu có biết sự rút lui này đsã có dự định tính toán từ trước .

Dần dần Tiểu Long Nữ lùi sát vách tường , hai chân dậm vào một phiến đá để làm điềm tựa , đưa mắt nhìn đằng xa , thấy Dương Qua đang uể oải đánh cầm chừng với hồng Lăng Ba , nàng gọi lớn :

- Qua nhi , hãu đi cho mau .

Vừa quát , nàng tuing chân đạp mạnh vào phiến đá , tức thì vách đá tự nứt ra một đường vừa một người chui lọt .

Tiểu Long Nữ gia tăng nội lực quyết tâm cầm chân Lý mạc Thu để Dương Qua có đủ thời giờ chạy thoats nhưng thấy nó vẫn uể oải đấu cầm chừng với Hồng lăng Ba , nàng giận quá thét lên :

- Qua nhi , người không tuân lệnh ta sao .

tiếng thét vang lên như xé màn không khí âm u của Cổ Mộ đài , dư âm vong jalị trong mấy từng vách đá .

vì quá bịn rịn nên dương Qua không muón đi ngay , đưa mắt nhìn sư phụ lần chót , cõi lòng tan nát , tâm tư giao động , đường kiếm bấn loạn suýt chốc nữa đã bị Hồng Lăng Ba thích vào hông .

Hắn vộ vàng tập trung ý chí chống đỡ , nhìn thấy tiểu long nữ đang bậm môi đánh cầm chân Lý mạc Thui nên miễn cưỡng lui dần vào ngách đá .

Tiểu Long Nữ đưa mắt nhìn theo , cảm thấy thần trí nhẹ nhàng phơi phới , dường như chính nàng thoát nạn . Khi bóng Dương Qua vừa qua khỏi khe đá , nàng cảm động quá thở phảo một cái . Tâm tư xúc động , nội lực suy giảm bất ngờ , quyền thế rối loạn . Trông thấy , Lý mạc Thu rất ngạc nhiên tuy nhiên nàng không bỏ qua cơ hội gia tăng tấn công tới tấp và điểm trúng huyệt " hồi tông " khiến Tiểu long Nữ loạng choạng ngã lứn ra đất , miệng trào máu tươi . Nhìn thấy sư phụ lâm nguy , Dương Qua không còn kể gì nữa , vôtị thét lớn:

- Không được hại sư phụ ta , không được hại cô nương ta.

Hắn bất chấp hiểm nguy , tung mình phóngt hẳng vào giữa hai người , ôm choàng lấy Lý mạc Thu .

Đang thắng thế bỗng bị Dương Qua ôm chầm lấy mình , bất chấp luật lệ nguyên tài võ công , Lý mạc Thu cảm thấy nàng bàng hoàng , cả người toàn thân rung động bởi một cảm giác kỳ lạ.

Dương Qua ranh mãnh siết chặt vào nửa thân người và cọ xát vào vật sinh lý của Lý mạc Thu . nàng đỏ bừng đôi má , không biết cách nào đối phó cũng như trước kia cũng gặp trường hợp này , nàng đã để tâm trí xao xuyến đến nỗi bị chim hồng tấn công phá huỷ một mắt . Suốt bao nhiêu nắm lưu lạc giang hồ , Lý mạc Thu chưa có dịp nào bị kích thích đồng tình , lần này sự đụng chạm với Dương Qua cũng mnhư lần trước ở Giang Nam , nàng cảm thấy một cảm giác vừa mới lạ vừa thích thú , không còn tự chủ được nữa .

Sự thay đổi đột ngột này là một dịp hiếm có để tiểu Long Nữ giải nguy. Nàng tung người ngồi dậy , nhìn thấy Lý mạc Thu bị Dương Qua ôm choàng cả thân hình mà không phản ứng chống cự thì ngạc nhieen. Bỗng Hồng lăng Ba vung kiếm chém mạnh vào người Dương Qua và Lý mạc Thu khiến cả hai người lăn long lóc ra xa tránh khỏi luòng kiếm của Hồng Lăng Ba. Hồng lăng Ba chém hụt mất trớn té nhủi về phía bên kia.

Tiểu Long Nữ hét lớn:

- Dương Qua , chạy mau , chạy mau !

Dương-Qua vẫn không rời thân hình Lý-mạc-Thu, miệng đáp:

- Cô nương thoát đi. Tôi đã ôm chặt được sư bá rồi, cô nương thừa dịp thoát thân thì hơn.

Lý-mạc-Thu bỗng chợt tỉnh trí, nhận định tình hình quá nguy hiểm, thấy mình đang ở vào thế bị địch tấn công hai phía, cần phải vận công đối phó thoát khỏi đôi tay của Dương-Qua. Nhưng lạ quá, thân rạo rực, mềm nhũn, như mất cả sinh lực giữa hai cánh tay của chàng thanh niên này, không còn đủ sức điều khiển cử động của mình nữa.

Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên vì một người bản lĩnh cao cương như sư tỷ, tại sao lại bất lực trước Dương-Qua?

Nàng đang suy nghĩ bỗng thấy Hồng-lăng-Ba múa kiếm tấn công Dương-Qua theo một thế khác. Nàng nổi nóng tự nghĩ:

- Con ranh này quả vô lễ, phải cho hắn nếm thử một đòn mới được.

Nói xong, nàng tung quyền lanh như chớp đánh vào hai cổ tay của Hồng-lăng-Ba, khiến hai lưỡi kiếm chạm mạnh vào nhau rang rảng, lửa xẹt tứ tung. Hồng-lăng-Ba cảm thấy hai tay tê liệt, vội vàng thối lui năm bước.

Làn lửa xẹt rọi sáng trong chốc lát, Lý-mạc-Thu đang nằm gọn trong lòng Dương-Qua bỗng thấy đôi mắt Tiểu-long-Nữ quắc lên một cách dị thường nhìn mình.

Nàng cảm thấy e thẹn vì cái nhìn nghi ngờ xoi bới ấy, nên vội dùng cùi chỏ thúc mạnh vào hông Dương-Qua thét lớn:

- Thằng ranh con tiểu tử, muốn chết hay sao?

Nói xong, nàng phi thân tung mình đứng lên và tấn công ngay vào Tiểu-long-Nữ.

Tự thấy mình chưa hết bệnh, không đủ sức cự đương với người sư tỷ đang hằn học vì căm hờn. Tiểu-long-Nữ thét lớn vào mặt Dương-Qua:

- Qua nhin, mi nhất định không tuân lệnh ta phải không?

Dương-Qua khẩn khoản đáp:

- Thưa cô nương, lúc nào tôi cũng tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cô nương. Nhưng lần này xin cô nương cho phép tôi trái lệnh vì tôi tha thiết muốn cùng sống chết bên cạnh cô nương mà thôi.

Nghe qua những lời nói quá ư chí thiết, Tiểu-long-Nữ cảm thấy lòng rung động bồi hồi, rồi chẳng kể đến chưởng lực như vũ bão của Lý-mạc-Thu đang ào ạt tấn công mình, phóng tới như điện xẹt đưa tay ôm ngay mình Dương-Qua rồi phi thân chạy mất.

Lý-mạc-Thu tung mình đuổi theo, miệng gọi:

- Đừng chạy, hãy dừng lại ngay.

Tiểu-long-Nữ quay mình phóng lại một mũi Ngọc-phong-sa, Lý-mạc-Thu thấy một lằn xẹt đều có thoảng mùi mật ong thơm phức thì thất kinh. Tuy chưa biết loại vũ khí này, nhưng trước đây có nghe sư phụ thường nói Ngọc-phong-sa mỗi lúc bay đi có thoát ra mùi mật ong thoáng ngửi mùi này nàng đã đoán ra sư muội dùng loại vũ khí lợi hại đó để đối phó, cho nên nàng vội vàng nhảy xuống để tránh, rồi kéo luôn Hồng-lăng-Ba phóng mình về phía sau chạy trốn.

Tức thì xung quanh có tiếng chuyển động ầm ầm, rung động cả một vùng, Tiểu-long-Nữ đã vận chuyển máy móc trong Mộ-Đài, di chuyển những tảng đá cực kỳ to lớn để che chỗ ẩn nấp.

Hai người cùng theo một đường bí mật đó ra khỏi mộ đài. Dương-Qua sung sướng quá, chạy lăng xăng theo Tiểu-long-Nữ và thưa với Tiểu-long-Nữ:

- Xin cô nương cho phép tôi vận chuyển khối đá khổng lồ môn Cổ-Mộ để chôn sống thầy trò nữ đạo cô này cho rồi.

Vừa nói xong, hắn loay hoay tìm chốt, nhưng Tiểu-long-Nữ khoác tay bảo:

- Khoan, hãy chờ ta vào trong trước đã.

Dương-Qua kinh hãi trố mắt nhìn nàng, ấp úng hỏi:

- Cô nương bảo sao?

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên giải thích:

- Khi sư phụ truyền ngôi mộ này cho ta, người đã căn dặn sống chết phải vĩnh viễn ở đây không bao giờ được bỏ đi hay truyền lại cho người khác.

Dương-Qua nói:

- Nhưng ta đã lấp ngõ rồi. Họ ở trong ấy sẽ chết nay mai có gì đáng quan tâm đâu mà cô nương e ngại.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta phải trở vào, sống chết ở trong mộ theo lời của sư phụ, không phải như mi được.

Nói rồi nàng buồn rầu nhìn ngay mặt Dương-Qua.

Dương-Qua đau đớn nắm hai tay sư phụ chậm rãi tha thiết nói:

- Thưa cô nương, lời nói của cô nương quả chí lý.

Nói rồi nó buồn rầu nhìn nàng mãi. Tay trong tay, nàng cảm thấy sóng lòng dào dạt, cố nén sự rung cảm của con tim trong giây phút trước giờ biệt ly.

Nhưng nàng bỗng cố gắng nén ngăn tình cảm, rút vội tay ra, chạy vụt vào Cổ-Mộ và hét lớn:

- Mi hãy hạ đá lấp kín lối vào! Mau lên, hạ gấp đi, đừng do dự nữa.

Hồi 18 Bí mật của Thạch Thất một lối thoát thân Dương-Qua bàng hoàng đứng yên như tượng đá. Hắn hít một hơi dài, cố thu hết nghị lực để hành động. Mùi hoa rừng ngào ngạt thong qua mũi làm Dương-Qua ngây ngất. Hắn đưa mắt nhìn trời, thấy những vì sao nhấp nháy, lẩm bẩm:

- Lần chót mình nhìn sao tại nơi đây.

Rồi hắn quả quyết chạy qua phía trái, đến chân tấm bia đá trước cửa Mộ, đưa tay sờ soạng tìm chốt đá tròn. Tìm thấy rồi, hắn vận dụng nội lực đưa tay đẩy mạnh làm bật tung chốt ấy ra. Tức thì một luồng cát nhỏ từ lỗ ấy phục ra như vòi nước. Bên trên tảng đá vạn cân bắt đầu chuyển động.

Ngày xưa, lúc kiến thiết cửa Mộ Đài, Vương-trùng-Dương đã vận dụng nội lực, phi thường, đưa tảng đá nặng bằng sức hàng mấy trăm người lên bệ cao, ăn liền bên trong bằng một lỗ hổng có chứa đầy cát nhỏ, dùng chốt đá bịt lại, khi chốt đá bật ra, cát trong tảng đá sẽ mất thăng bằng rơi xuống án ngữ lối ra vào Cổ Mộ.

Vì sức ép của tảng đá quá nặng, đẩy cát trào ra mạnh quá, sức chuyển động ầm ầm.

Nghe từng đá chuyển, Tiểu-long-Nữ biết giờ phút chia ly đã đến, nàng đưa mắt đầy lệ nhìn theo bóng dáng đứa học trò thân yêu, con tim chan chứa tình cm thấm thía dạt dào.

Nhưng bỗng dưng nàng thét lên một tiếng vì ngạc nhiên và kinh khủng!

Khi tảng cự thạch rơi xuống gần đến mặt đất, thình lình Dương-Qua phi thân phóng qua khe hở như một bóng mờ. Chỉ chậm một tý là thân hình hắn bị sức đá đè ép nát như cám.

Vừa thoát khỏi tảng đá, Dưng-Qua vội thưa:

- Thưa cô nương, chắc bây giờ Cô nương không còn nỡ đuổi xua tôi đi nữa.

Tiểu-long-Nữ bồi hồi cảm động, đứng lặng yên một chập rồi nói:

- Thôi, định mệnh đã khiến thì càng hay. Chúng ta chung chết nơi đây vậy.

Nói xong, nàng nắm tay Dương-Qua đi vào phía trong.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba đang loay hoay tìm lối thoát trong nội thất nhưng chưa có. Bỗng nghe tiếng nói của Tiểu-long-Nữ, nàng mừng quá vội nhìn ra thì Tiểu-long-Nữ đã đến trước mặt điềm nhiên nói:

- Sư tỳ hãy theo tôi vào đây.

Lý-mạc-Thu nghe nói, nghĩ thầm:

- Không biết hắn đưa mình đi đâu đây. Tại nơi này đầy dãy các máy móc và cạm bẫy, vô ý mộ chút là mất mạng ngay. Nếu hắn cố hại mình làm sao tránh nổi.

Tiểu-long-Nữ không chờ Lý-mạc-Thu tr lời đã nói tiếp:

- Tôi sẽ đưa sư tỷ vào bái kiến linh cữu sư phụ. Dẫu sư tỷ không muốn cũng không thể được.

Lý-mạc-Thu nói:

- Thôi, người đừng hòng đem sư phụ ra để dọa nạt hay gạt gẫm ta nữa.

Tiểu-long-Nữ không đáp, chỉ mỉm cười rồi lẳng lặng đi trước dẫn đường.

Thấy thái độ của Tiểu-long-Nữ nghiêm trang, lời lẽ đứng đắn không thể không nghe, nên thầy trò Lý-mạc-Thu phi lặng lẽ bước theo nhưng trong lòng vẫn lo âu, luôn luôn chú ý đề phòng.

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên dắt Dương-Qua đi trước hình như không mảy may lo ngại có thể bị thày trò Lý-mạc-Thu tấn công thình lình vào sau lưng.

Một chập sau mọi người đã đến phòng đá, nơi quàng linh cửu các bậc tiền bối.

Lý-mạc-Thu vốn một lòng kính mến sư phu. Nhưng từ trước đến nay chưa bao giờ nàng được phép đặt chân đến căn nhà táng này, nay được Tiểu-long-Nữ đưa đến, bỗng nàng có ý nghĩ căm hờn oán trách sư phụ đã xem thường mình và trọng tin Tiểu-long-Nữ.

Nàng hằm hằm nói lớn:

- Tình thầy trò giữa ta và sư phụ đã cắt đứt từ lâu. Ngày nay ngươi còn muốn đưa ta đến đây để làm gì nữa?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Sư tỷ, tại đây còn hai chiếc quan tài do sư phụ dành lại cho tôi và sư tỷ. Vậy tùy ý sư tỷ lựa chọn một cái.

Rồi nàng đưa tay chỉ vào hai chiếc quan tài đặt vào cuối phòng.

Lý-mạc-Thu nổi nóng nạt lớn:

- Tiện tỳ quá lớn gan dám đùa cợt cùng ta lúc này?

Vừa nói, nàng tung ra một chưởng lực vào người Tiểu-long-Nữ nhưng vì trong phòng tối, mắt nàng lại chột, trong lúc nóng nảy bộp chộp, chưởng nàng đã đi trật mục tiêu. Tiểu-long-Nữ vẫn bình tĩnh nói:

- Sư tỳ đừng nóng nảy lúc này vô ích.

Lý-mạc-Thu trợn mắt hỏi:

- Vì sao?

Nàng mỉm cười đáp:

- Vì lối ra vào của Cổ Mộ đã bị đoạn Long-thạch án ngữ mất rồi, chúng ta vĩnh viễn bị nhốt nơi đây không còn lối thoát.

Lý-mạc-Thu điếng hồn, mặt mày tái mét, tất cả sự giẫn dự tiêu tan, nhường chỗ cho nỗi lo âu sợ sệt.

Tuy chưa hiểu rõ hết các cơ cấu trong Cổ Mộ đài, nhưng Lý-mạc-Thu cũng hiểu rõ được phần nào về đoạn Long-thạch.

Khi đã dùng đoạn Long-thạch thật đã gặp phi bước đường cùng. Nàng suy nghĩ không hiểu tại sao đã có Ngọc-phong-sa trong tay mà Tiểu-long-Nữ còn dùng đến biện pháp tuyệt vọng này di chuyển đoạn Long-thạch bế tắc Cổ Mộ đài mà chôn sống cả bốn mạng nơi đây?

Nàng ngước mặt hỏi gằn Tiểu-long-Nữ:

- Thế Sư muội còn biết có lối nào khác nữa không?

Tiểu-long-Nữ bình thản đáp:

- Hết rồi! Sư tỷ cũng thừa hiểu một khi đoạn Long-thạch đã rơi, Mộ Đài với thế giới bên ngoài đã vĩnh viễn biến thành hai vũ trụ riêng biệt.

Quá thất vọng, Lý-mạc-Thu túm lấy áo Tiểu-long-Nữ quát lớn:

- Ngưi đã nói láo để lừa dối ta!

Trước vẻ hốt hong của người sư tỷ đã cao niên vẫn còn thiết tha với câu tham sanh úy tử, Tiểu-long-Nữ vẫn điềm tĩnh làm thinh không trả lời.

Trông thấy thái độ của nàng như thế, Lý-mạc-Thu càng bấn loạn và tâm thần vì thấu hiểu Tiểu-long-Nữ đã nói thật.

Quá tuyệt vọng nàng mím môi nói:

- Như thế, thày trò ngươi phải chết trước.

Nói xong nàng vận dụng nội công vào bàn tay phóng một chưởng vào người Tiểu-long-Nữ mạnh như sấm sét.

Dưng-Qua lập tức phi thân xông vào, xô sư phụ lệch qua một bên thoát khỏi chưởng lực của Lý-mạc-Thu, miệng thét lớn:

- Không được hạ sát cô nương tôi, hãy giết tôi trước đã.

Nói xong, hắn đứng chắn giữa hai người, tay buông thẳng sau lưng, ngực ưỡn ra trước đầy vẻ kiêu hùng, mắt hiên ngang nhìn thẳng vào mặt Lý-mạc-Thu như chờ đợi cái chết không chút sợ sệt.

Lý-mạc-Thu ngừng tay cười nhạt:

- à, thằng oắt con, mày hết lòng bảo vệ cô nưng mày đến thế sao? Nếu mày thật tâm muôn chết thay cô nương mày thì hãy nói lớn lên cho ta nghe nào?

Nàng vừa nói vừa xòe bàn tay đã nổi danh Xích luyện thần chưởng, mắt mở lớn nhìn sững vào Dưng-Qua như thúc giục trả lời gấp.

Dưng-Qua vẫn bình tĩnh tĩnh đáp:

- Ta quyết thế, ngươi cứ giết đi.

Lý-mạc-Thu thấy chồn tay trước thái độ quá kiêu hùng của Dương-Qua liền dừng tay lại, rồi đưa mắt nhìn thấy thanh trường kiếm còn cài bên lưng, liền túm lấy hắn nạt lớn:

- Ta cho mi biết, ta chẳng cần giết cả hai, mà chỉ giết một đứa thôi. Vậy tùy ý mi muốn ta giết mi hay Tiểu-long-Nữ, cứ lựa chọn đi, và trả lời gấp.

Dưng-Qua chẳng thèm trả lời, đôi mắt đăm đắm nhìn về phía Tiểu-long-Nữ đầy vẻ luyến ái hình như bất chấp cả lời dọa nạt của con người đa sát Xích-luyện tiên-tử. Trước mối tình thâm nghĩa trọng, gắn bó như keo sơn, dù kiếm sắt hay thần chưởng cũng không nghĩa lý gì nữa.

Lý-mạc-Thu vứt kiếm xuống đất thở dài chép miệng nói:

- Sư muôi, đến nay sư muội đã được giải lời phát thệ ngày xưa trước sư phụ, giờ phút này sư muội có quyền tự ý thoát ly khỏi Mộ-Đài này.

Tiểu-long-Nữ và Dưng-Qua ng ngác nhìn nhau chẳng hiểu nàng muốn nói gì.

Nguyên trước kia Lâm-triều-Anh hãm mình trong ngôi Cổ-Mộ này là vì giữa nàng và Vương-trùng-Dương có một mối tình ngang trái. Nàng đã đem lòng yêu mến con người thanh niên tài ba kia với một mối tình tuyệt vọng mà không bao giờ gột rửa được. Vì vậy nên nàng đã định ra một quy tắc bất khả di dịch cho tất cả nữ đệ tử nào đã khoác áo sư môn trú ngụ tại Cổ-Mộ đài, phải chung thân không được rời khỏi Chung-Nam sơn, chỉ trừ một trường hợp nếu có một chàng trai nào tình nguyện chết thay cho mình, thì lời nguyện này mới giải được.

Sở dĩ Lâm-triều-Anh đặt thêm ngoại lệ này vì nàng nghĩ trong giới mày râu, nhất định không có một kẻ nào thật tình chung thủy đến nỗi tình nguyện thế mạng cho người mình yêu. Như thế dẫu có đặt lệ nhưng chắc không thể nào xảy ra được.

Chính bản thân của Lý-mạc-Thu không dám phát lệ vì nàng cũng không thể tin được bọn nam nhi, và trong đời tình ái của nàng vẫn còn một vết đen ghi sâu trong tâm khảm mà lúc nào nàng cũng muốn lấy máu để gột rửa cho xong.

Ngày nay chính tai Lý-mạc-Thu đã nghe Dương-Qua tự nguyện chết thay cho Tiểu-long-Nữ, nàng cũng hết sức ngạc nhiên, và bồi hồi cảm kích. Tuy nhiên những lời này không khỏi ghi vào lòng nàng một sự xót xa thấm thía lúc nghĩ đến số phận hẩm hiu giữa mình và Lục-triển-Nguyên.

Nàng chép miệng nói:

- Sư muội, quả em là con người tốt phước!

Nói xong, nàng như điên cuồng không còn suy nghĩ gì nữa thích mạnh mũi kiếm vào cổ Dương-Qua.

Tiểu-long-Nữ vội vung tay phóng ngay một ngọn Ngọc-phong-sa để cứu nguy cho đệ tử. Lưỡi gươm bị Ngọc-phong-sa chạm vào đánh xoảng một tiếng lớn, rơi ngay xuống đất.

Lý-mạc-Thu vội nằm xoài ra để tránh ám khí. Tiểu-long-Nữ đưa tay kéo Dương-Qua phi thân phóng về phía trước và ngoái đầu lại nói:

- Sư tỷ, lời thệ của tôi có thể giải được hay không giờ phút này không còn nghĩa lý gì nữa đâu. Đoạn Long-thạch đã bế kín Mộ-Đài, trước sau gì cả bốn người chúng ta đều phải chết cả. Để khỏi làm bận lòng nhau, chúng ta tìm mỗi người một nơi riêng chết cho yên thân tốt hơn.

Nói xong nàng đưa tay bấm vào một chiếc nút bí mật, một tảng đá trên cao rơi đánh sầm xuống, ngăn cách mỗi cặp một nơi.

Trải qua những giây phút quá mệt nhọc về thể xác và bấn loạn về tinh thần, Tiểu-long-Nữ cảm thấy tứ chi rũ rượi đi hết nổi. Dương-Qua phải dìu nàng đi chầm chậm đến phòng Tôn-Bà để dưỡng sức. Đặt nàng nằm trên giường, rồi Dương-Qua tìm hai cái ly rót đầy mật ong trắng, nâng đầu sư phụ để nàng uống một ly, còn một ly tự mình uống cạn.

Tiểu-long-Nữ cảm thấy thần trí mênh mang như trải qua cơn ác mộng, nàng nhìn Dương-Qua chậm rãi hỏi:

- Qua nhi, tại sao mi nhất tâm ở lại cùng chết theo ta?

Dương-Qua chắp tay lễ phép đáp:

- Thưa cô nương, trong đời tôi chỉ còn một mình cô nương là người chăm nom tôi, đối xử rất tốt với tôi, nên tôi không ngần ngại gì để chết thay cô nương.

Tiểu-long-Nữ gật đầu hỏi thêm:

- Mi nghĩ cũng phải. Tuy nhiên ở chốn đây rồi ai cũng phải chết, chỉ khác là kẻ trước người sau mà thôi. Thiết tưởng không cần phải tìm để giết nhau làm gì vô ích.

Dương-Qua hỏi:

- Tại sao chúng ta không thể tìm một lối nào để thoát ra ngoài Cổ Mộ được hay sao?

Tiểu-long-Nữ buồn rầu đáp:

- Cổ Mộ đài kiến trúc vô cùng kỳ diệu. Khi đoạn Long-thạch đã rơi, mối liên lạc với thế giới bên ngoài đã chấm dứt. Ta đã bảo như thế, mi đừng nghĩ đến việc thoát thân vô ích.

Dương-Qua lặng thinh thở dài.

Tiểu-long-Nữ hỏi ngay:

- Bây giờ mi nghĩ lại và hối hận việc đã làm phải không?

- Thưa cô nương, được ở bên cạnh cô nương tôi không còn thiết đến việc gì nữa. Với cô nương, chắc chắn trên thế gian này không còn một thứ gì còn có thể cám dỗ tôi được nữa.

Nghe Dương-Qua thốt ra lời chót, Tiểu-long-Nữ bỗng thấy cõi lòng thơ thới hân hoan như nhấp phải ly rượu nồng. Một luồng khí nóng từ từ bốc lên làm ửng hồng đôi má. Nàng nhìn nó và hỏi thêm:

- Nhưng tại sao mi thở dài?

Dương-Qua đáp:

- Thiết nghĩ giá cả hai chúng mình đều hạ sơn, với cô nương bên cạnh, tôi sẽ đưa đi khắp những nơi sơn thủy hữu tình, nếm những cái đẹp thiên nhiên của tạo hóa, chẳng thú vị lắm sao? Với bản lãnh của cô nương, trên đời này dễ mấy ai dám hà hiếp hay khinh rẻ mình được.

Từ bé đến lớn chỉ sống trong Cổ-Mộ đài, chưa hề hiểu biết mảy may bên ngoài, ngày nay nghe Dương-Qua kể, như thế, Tiểu-long-Nữ cũng suy nghĩ cảm thấy lòng hiếu kỳ rạo rực, muốn được dạo xem cho biết một phen.

Nghĩ đến đây, bất giác nàng cảm thấy trong huyết quản máu nóng chạy rần rật, tim đập mạnh, lòng nôn nao không hề kìm giữ được sự bình thản như ngày xưa. Nàng đoán đó là một hiện tượng suy yếu của tinh thần và cơ thể và nàng bỗng quên mất rằng trong cơ thể mình hiện nay đã chứa đựng một phần lớn nhiệt huyết của Dương-Qua. Hai chất máu, hai bản tính hàn nhiệt khác nhau, há dễ trong phút chốc có thể hòa hợp được dễ dàng không gây phản ứng cho cơ thể được!

Nàng vội lại nằm trên giường, tập trung ý chí, vận dụng nội công để điều hành sinh lực, nhưng vẫn không hiệu quả. Nhiệt độ trong người nàng bỗng tăng giảm bất thường, hơi thở không được tự nhiên nữa. Nàng bỏ giường đứng dậy đi qua lại nhiều bận trong phòng, nhưng vẫn chưa thấy lại sự yên tịnh.

Nhìn thấy sắc diện thay đổi của sư phụ, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương thấy trong người có gì khó chịu hay sao?

Tiểu-long-Nữ không đáp, nhìn hắn một chập và khẽ bảo:

- Mi hãy lại gần đây.

Dương-Qua đoán tưởng sư phụ muốn nhờ mình xem thử nhiệt độ nên vội đến bên cạnh giường. Tiểu-long-Nữ nắm chặt tay nó áp vào má mình.

Dương-Qua ngạc nhiên vội hỏi:

- Sao cô nương nóng như thế này? Cô nương bị sốt chăng?

Tiểu-long-Nữ cười đáp:

- Không hề chi đâu, mi đừng lo. Và nàng hỏi tiếp:

- Dương-Qua, hỏi thật nhé! Mi thật lòng thương ta không?

Dương-Qua nhìn nàng thành thật đáp:

- Cô nương xem, trên đời tôi, ngoài cô nương ra còn có ai là người thân yêu nữa, tôi không thương cô nương thì còn thương ai chứ.

Nàng hỏi tiếp:

- Nếu sau này có một người con gái khác cũng tỏ lòng thương mi, thì mi có thương người ta không?

Dương-Qua ngây thơ đáp:

- Ai đối xử thành thật tốt với mình, thì mình cũng phải tốt với họ chứ.

Tiểu-long-Nữ biến sắc, mặt lợt lạt, buông tay Dương-Qua, rồi mới run run nói xẵng:

- Nếu mi còn thương một người con gái khác thì đừng nói đến chuyện thương ta nữa, nghe chưa?

Dương-Qua ngạc nhiên, nhưng bỗng hắn bật cười nói:

- Cô nương không nhớ chỉ còn vài hôm nữa cả hai ta đều chết cả, như thế còn có gái nào có thể lọt vào chốn này nữa mà hòng suy nghĩ cho bận tâm?

Câu nói đó đã đưa Tiểu-long-Nữ trở về với thực tế. Nhìn thấy vẻ mặt thành thực ngây thơ của Dương-Qua, nàng cũng bật cười rồi vui vẻ nói:

- ừ nhỉ, ta chỉ mơ sảng, nghĩ bậy và ăn nói hồ đồ quá! Nhưng sở dĩ ta hỏi như thế là vì lòng ta muốn chính miệng mi thốt ra lời thề mà thôi.

Dương-Qua ngơ ngác hỏi:

- Thưa cô nương, thề như thế nào?

Tiểu-long-Nữ bình sanh chất phác, nghĩ sao nói vậy, không có tánh e thẹn như phụ nữ khác, dẫu là chuyện tình cảm của lòng mình. Nàng đáp:

- Ta muốn mi thề suốt đời chỉ thương một mình ta, ngoài ra không thương một người đàn bà nào khác nữa. Nếu làm trái lời thề sẽ mất mạng ngay.

Dương-Qua ngoan ngoãn quỳ xuống chắp tay trịnh trọng thề:

- Đệ tử Dương-Qua xin thề suốt đời một dạ mến yêu cô nương. Nếu sau này tôi thay đổi, chẳng những cô nương sẽ tự tay giết tôi mà khi nhìn thấy mặt cô nương tôi cũng phải tự kết liễu mạng mình không chút ân hận.

Nghe lời thề như cởi mở tấm lòng, Tiểu-long-Nữ thấy tâm hồn hân hoan thơ thới vui vẻ nói:

- Mi thật quả hết lòng cùng ta. Lời thề của mi đã khiến ta hết sức vui mừng được người tri kỷ.

Nói rồi nàng nắm chặt tay Dương-Qua. Lần này bàn tay nàng không giá lạnh như trước. Dương-Qua cảm thấy một nguồn nhiệt khí ấm áp từ người Tiểu-long-Nữ dồn vào mình. Nó chỉ đứng lặng yên, sung sướng.

Tiểu-long-Nữ bảo nhỏ nó:

- Ta thật không phải với mi, ta đã nghi ngờ và có những cử chỉ thiếu đứng đắn đối với mi. Thôi đừng buồn nhé.

Dương-Qua lật đật cãi lại:

- ồ, cô nương, sao lại nói thế? Cô nương đối với tôi hết sức tử tế. Trên đời này chỉ có cô nương là người mến thương tôi mà thôi, không bao giờ tôi có ý gì hờn giận cô nương đâu.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Trước đây ta có nhiều lần không tốt với mi. Chính ta đã phản đối không cho Tôn-Bà nuôi mi và ra lệnh đuổi mi ra khỏi Cổ-Mộ đài. Nếu ta tử tế với mi, không đến nỗi Tôn-Bà phải bỏ mạng.

Nói đến đây nàng cảm thấy tâm tư xúc động, sụt sùi nhỏ lệ. Niềm hối hận lẫn tình cảm dạt dào xâm chiếm lòng nàng, bất giác khiến Tiểu-long-Nữ ôm mặt khóc nức nở như một đứa trẻ ngây thơ, vừa khóc vừa cảm thấy mừng vui lẫn lộn. Đây là trường hợp chưa bao giờ xảy ra trong đời Tiểu-long-Nữ. Nàng đã được đào luyện từ tấm bé, khắc khổ chống lại với mọi tình cảm, buồn vui, đã trở nên hững hờ lạnh lùng trước mọi việc, không ngờ lúc này, nguồn rung cảm đã thắng, khiến nàng trở nên mềm yếu cũng như trăm ngàn nhi nữ khác.

Dương-Qua nhìn nàng khóc nức nở, bỗng ngạc nhiên vừa sợ sệt, vội gọi:

- ủa, cô nương, cô nương.

Vừa lúc ấy có tiếng đá rung động và cả tấm tường bên cạnh bị đổ nhào xuống, hai thày trò Lý-mạc-Thu hiện sừng sững trước mặt .

Nguyên sau khi bị tấm đá ngăn cách và giam hãm trong Cổ-Mộ đài, Lý-mạc-Thu cảm thấy đời mình sắp kết liễu vì đoạn Long-thạch đã rơi. Nhưng trước giờ chết, một ý chí ham sống bỗng vùng lên mãnh liệt nàng cố sức tìm lối thoát thân, mặc dầu nàng thừa rõ nơi đây tàng trữ đầy máy móc bí hiểm giết người như chơi.

Sau khi lồng lộng đi tìm khắp nơi không ra cơ cấu vận động máy móc, tìm chỗ ra, cả hai thầy trò cùng hợp lực thí triển nội ngoại thần công xô ngã được tấm đá án ngữ trước cửa.

Dương-Qua thất kinh nhúm mình phóng ra đứng chận ngay trước mặt Lý-mạc-Thu vì sợ nàng ám hại sư phụ. Nó thét lớn:

- Ngươi còn muốn gì nữa chứ?

Lý-mạc-Thu đáp:

- Ta có câu chuyện muốn nói cùng sư phụ mi.

Dương-Qua lắc đầu nói:

- Làm sao có thể tin nổi bụng dạ lật lường của ngươi được?

Lý-mạc-Thu nhìn nó, lắc đầu, chậm rãi nói:

- Thật ra ít có một nam tử như mi.

Nghe câu ấy, Tiểu-long-Nữ bước lại gần hỏi:

- Thế nào? Sư tỷ nói sao? Sư tỷ cho hắn tốt hay xấu?

Lý-mạc-Thu đáp:

Sư muội sinh trưởng nơi đây, từ bé đến lớn chưa hề rời khỏi nơi đây, nên chưa hiểu rõ bọn nam tử trên đời toàn là hạng dối trá lừa bịp, luôn luôn tìm cách phụ bạc mà thôi. Quả sư muội rất tốt số nên đã gặp một người như Dương-Qua, thật là tình thâm nghĩa trọng. Trên gầm trời dễ đâu tìm được người thứ hai như hắn.

Sở dĩ vì bị Lục-triển-Nguyễn phụ bạc, Lý-mạc-Thu đâm ra chán đời, ngờ vực tình yêu của mọi người rồi vì thành kiến ấy, nàng đã cho rằng tất cả đàn ông đều phụ bạc, mà nhận xét quá khắt khe, thật ra đàn ông có tình cảm như Dương-Qua đâu là khó kiếm.

Tiểu-long-Nữ nghe nói như uống được ly rượu nồng, cảm thấy hân hoan vô tả, nàng vui vẻ nói:

- Kể ra nếu có một người bạn trai hết dạ yêu thương mình thì cuộc đời đáng sống lắm chứ.

Lý-mạc-Thu bỗng nghiêm nghị hỏi:

- Này sư muội, ta hỏi thật, tuy hơi đường đột, nhưng sư muội đừng giấu nhé! Sư muội có dự định lấy hắn làm chồng không?

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên nói:

- Không đâu! Nó là đệ tử của tôi, nó hết dạ mến thương tôi, còn tôi đối với nó ra sao, chưa rõ lắm.

Lý-mạc-Thu cười gằn nói:

- Ta không tin được, lửa gần rơm thế nào lâu ngày không cháy được. Vừa nói nàng chợt đưa tay xé toạt chiếc xiêm của Tiểu-long-Nữ. Bất ngờ không né kịp, Tiểu-long-Nữ bị xé rách một mảnh lụa, lộ cánh tay trắng như tuyết, trên ấy có một dấu son đỏ hồng. Vết điểm thủ cung sa đã nói ra sự thật, chứng minh và bào chữa hùng hồn nhất cho Tiểu-long-Nữ. Bất kỳ trường hợp nào, khi người con gái bị thất trinh thì vết son này tan mất ngay.

Nhìn vết thủ cung sa đỏ ửng trên làn da trắng, Lý-mạc-Thu vừa ngạc nhiên vừa thán phục. Nàng không ngờ Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được lòng trinh trắng mặc dầu sống chung với một chàng thanh niên tuấn tú hết dạ yêu mình trong cảnh thâm u hiu quạnh của Cổ-Mộ đài.

Quả là một chuyện phi thường mà nàng không ngờ có thể được.

Lý-mạc-Thu chỉ biết thở dài và nín thinh.

Tiểu-long-Nữ đâu đoán được thâm ý của người sư tỷ, nàng ngây thơ hỏi:

- Sao, sư tỳ muốn nói điều gì với tôi.

Trước đây Lý-mạc-Thu dự định tìm bắt quả tang sự tư tình giữa Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ để vạch mặt chỉ tên, mắng chửi một trận là gái trắc nết dẫn trai vào Cổ-Mộ làm điều ô uế, loạn luân để rồi tìm lý lẽ trục xuất ra khốn này. Nhưng khi nhìn thấy chứng cớ lòng trinh trắng của người sư muội, Lý-mạc-Thu ngẩn người và lúng túng chẳng biết nói năng làm sao.

Khi nghe Tiểu-long-Nữ hỏi, nàng vội tìm lời nói quanh:

- Ta dự định hỏi sư muội để ta cùng theo sư muội.

Tiểu-long-Nữ đâu có lạ gì tánh tự kiêu tự đại của Lý-mạc-Thu nữa. Ngày nay tự nhiên thấy nàng hạ mình xin một chuyện như vậy làm sao tin được.

Nàng đáp:

- Giữa hai ta ai lo phận nấy. Sư tỷ cứ liệu lấy công việc của mình cho xong, phần tôi, tôi không cần thiết điều gì nữa.

Lý-mạc-Thu mỉm cười, mỉa mai:

- Ta thừa hiểu ý sư muội lắm! Phải, người đời nói thế mà đúng, tìm của thì dễ, tìm bạn mới khó. Ngày nay sư muội đã có chàng bên cạnh, còn thiếu thốn đòi hỏi gì nữa đâu?

Tiểu-long-Nữ vốn thật thà, chưa hiểu thâm ý mỉa mai của Lý-mạc-Thu, trả lời:

- Vâng, tôi hiểu rõ và chắc chắn điều đó. Hắn luôn luôn ở cạnh tôi và suốt đời không bao giờ xa tôi nữa.

Lý-mạc-Thu lại tiếp lời chua chát hơn:

- ồ, cả cặp cứ đưa nhau xuống núi, vui thú giang hồ, rầy đây mai đó, thì có gì hạnh phúc cho bằng.

Tiểu-long-Nữ tình thật trả lời:

- Vâng, nhưng ngay bây giờ chưa được.

Lý-mạc-Thu ngang nhiên hỏi:

- Vì sao vậy?

Tiểu-long-Nữ cười đáp:

- Sư tỷ há không nhớ đoạn Long-thạch đã rơi rồi sao? Một khi Cổ-Mộ đã bị cắt đứt lối ra vào, dù sư phụ tái sanh cũng đành khoanh tay, không tài nào ra ngoài được nữa.

Lý-mạc-Thu thất vọng đứng lặng yên. Thì ra thâm tâm của nàng cố đem những ảo ảnh hạnh phúc bên ngoài câu Tiểu-long-Nữ, may ra nàng ham thích có bộc lộ ra lối thoát thân tìm đường sinh lộ. Nhưng khi nghe Tiểu-long-Nữ thành thật trả lời, nàng cảm thấy như một gáo nước lạnh dội trên đầu, càng nghĩ càng căm hờn không thể dằn được.

Thình lình Lý-mạc-Thu vung đôi xích huyền thần chưởng đánh vãi vào đầu Tiểu-long-Nữ cho hả giận.

Dương-Qua từ nãy giờ vẫn chú tâm theo dõi sự đối đáp giữa hai người. Nhìn thấy cặp mắt Lý-mạc-Thu trợn trừng như tóc hào quang, mặt đầy sát khí, hắn đã đoán trước thế nào sư bá cũng hạ độc thủ nên hết sức đề phòng cho sư phụ.

Khi vừa thấy Lý-mạc-Thu chuyển động song chưởng, Dương-Qua vội vàng thu mình ngồi xổm xuống, tập trung gân lực theo đúng thế võ "Hàm mô công" của Âu-dương-Phong đã truyền thụ, miệng kêu "cum, cum, cum", tung chưởng lực dội ngay vào mình Lý-mạc-Thu đánh bật nàng dội lên cao và rơi xuống đất.

Vì thiếu đề phòng, bị phải thế võ bất ngờ độc ác, Lý-mạc-Thu cảm thấy toàn thân rung động, ngực tức, đầu óc hoang mang. Vừa lồm cồm đứng dậy, nàng tung thẳng xích luyện thần chưởng nhắm vào người Dương-Qua để kết liễu sang mạng thằng oắt con đáng ghét ấy.

Nếu đòn này trúng phải thì thân hình Dương-Qua phải dập nát không sống nổi. Nhưng đúng vừa lúc ấy, Lý-mạc-Thu cảm thấy một luồng kinh lực đột nhập vào nội tạng, toàn thân bủn rủn, đầu óc choáng váng, hai tai ù ù như nghe sấm động. Thì ra nàng đã bị Tiểu-long-Nữ lần đầu tiên vận dụng ngón kỳ diệu trong "Ngọc-nữ tâm-kinh" đột kích.

Tiểu-long-Nữ nhìn thấy sư tỷ xửng vửng, mặt mày ngơ ngác như kẻ mất hồn, bỗng cười lớn và nói:

- Bây giờ sư tỷ chắc đã hiểu rõ uy lực của "ngọc-nữ tâm-kinh" rồi chứ? ít ra võ thuật này cũng phải có điểm khác đời phải không sư tỷ?

Nghe nói đến Ngọc-nữ tâm-kinh, Lý-mạc-Thu bàng hoàng cả người, vội đưa tay rờ lên màng tai thấy không còn đau nhức nữa. Toàn thân mỏi mệt như thế nào và đánh trúng nơi đâu, suy nghĩ mãi chẳng biết tư thế của ngọc-nữ tâm-kinh xuất phát ra sao nữa.

Nàng ngẩn người, tái mặt, nhìn trân trân bất động, trong lúc đó Tiểu-long-Nữ ung dung cầm tay Dương-Qua dắt qua phòng bên.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu mới định thần, lau mồ hôi trán và lẩm bẩm:

- Cũng may con bé bị giao động tinh thần, nội lực phân tán bớt, chứ nếu nó sung sức như lúc bình thường thì ta dễ mất mạng như chơi.

Dương-Qua bước theo sư phụ, nghĩ đến ngón đòn Tiểu-long-Nữ vừa khắc phục Lý-mạc-Thu, hắn rất khoái chí, vừa cười vừa hỏi:

- Thưa cô nương, ngón đòn vừa rồi tài tình quá! Có lẽ chưa một võ thuật nào vượt nổi "Ngọc-nữ tâm-kinh" phải không cô nương?

Nhưng hắn vừa nói dứt câu bỗng thấy Tiểu-long-Nữ toàn thân run rẩy như bị trúng gió, đứng không vững, ngã xỉu xuống, hắn vội vàng đưa tay đỡ và dìu nàng để nằm trên tảng đá, miệng la khan:

- Cô nương, cô nương ơi, cô nương làm sao thế?

Hai hàm răng Tiểu-long-Nữ đập vào nhau bồm bộp, nàng cố gắng trả lời:

- Lạnh??? lạnh lắm.

Trước kia trong lúc Tiểu-long-Nữ đang luyện ngọc-nữ tâm-kinh tại miếu hoa hồng, Tiểu-long-Nữ bị 2 đạo sĩ thình lình phá rối, buổi học dang dở, khi lực chạy ngược suýt tý nữa mất mạng. Nàng tự cứu chữa chưa lành thì tiếp đến bao nhiêu chuyện bất ngờ đưa đến dồn dập, nội lực càng suy giảm, tinh thần giao động mãnh liệt vì những hiện tượng xúc động tâm tình. Vừa rồi vì phải giải nguy cho đệ tử, Tiểu-long-Nữ quên mình đang trương bệnh, vận dụng quá sức để xuất một tư thế trong Ngọc-nữ tâm-kinh tấn công Lý-mạc-Thu. Nên lúc bấy giờ cơ thể bị suy nhược, nhiệt khí tiêu tan, toàn thân như bị giá lạnh hoàn toàn.

Nhìn Tiểu-long-Nữ run rẩy nằm co quắp trên tảng đá, hai hàm răng đánh vào nhau lộp bộp mãi, Dương-Qua kinh hãi quá khóc rống lên và gọi lớn:

- Cô nương ơi, cô nương, biết làm sao bây giờ hở cô nương?

Nhìn thấy sư phụ mến yêu bị lạnh quá sức, hắn cảm thấy như thân mình cũng bị lạnh lây. Loay hoay một chập hắn bỗng nhớ đến chiếc áo lông của Tôn Bà tặng cho khi gần lâm chung, vội vàng cởi áo ngoài ra, lấy áo đắp choàng trên ngực Tiểu-long-Nữ.

Nhờ sức ấm của chiếc áo, mặt nàng có vẻ hồng hào được đôi tý. Nhưng chỉ trong giây phút, hắn chưa kịp mừng, bỗng cơn lạnh nổi trở lại, hai hàm răng càng rung nhiều hơn nữa.

Sợ quá, Dương-Qua vội ôm choàng lấy Tiểu-long-Nữ, dùng nhiệt độ của mình để sưởi cho nàng. Hắn cố vận dụng nội công mãnh liệt truyền nội lực vào người cô nương để chống với sức lạnh.

Phương pháp này cũng giúp cho Tiểu-long-Nữ thấy dễ chịu đôi chút, nhưng không phải là phương pháp cứu vãn được tình thế. Đối với một người đã bao năm khổ công vận dụng công lực chống với sức lạnh băng giá của giường hàn thạch, thì nhiệt độ của Dương-Qua chuyển vào có nghĩa lý gì đâu.

Tiểu-long-Nữ cố gắng nói qua giọng rên:

- Mi hãy buông ta ra.

Hắn càng cuống quít, cố siết chặt toàn thân nàng như để trút tất cả nhiệt khí trong người cứu vãn sức khỏe cho sư phụ thân yêu.

Hắn vừa ôm vừa thổn thức nói:

- Cô nương để mặc tôi, tôi ôm thật chặt để cô nương bớt lạnh, bây giờ cô nương thấy có đỡ được phần nào chưa?

Nàng vẫn lắc đầu, nghiến răng, mím môi, chống đối với sức lạnh ngày càng thêm.

Một chập sau hắn cảm thấy bất lực, thả nàng ra, nhìn nàng chẳng biết làm cách nào hơn.

Bỗng Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chiếc áo lông cừu của Tôn bà, hắn vội vàng cầm chiếc áo trong tay, xoay qua trở lại, chẳng biết phải làm sao. Bấy giờ hắn mới thấy bực tức vì Tôn Bà chết quá gấp không kịp trối trăn về công dụng của áo này.

Lúc bấy giờ đến khi cô nương hắn dự định chỉ bảo cho hắn, thì nàng lại bị cứng miệng nói chẳng ra lời. Làm sao mà hiểu đây. Hắn vừa giận vừa lo, loay hoay một chập định đốt chiếc áo để sưởi ấm hơn. Nhưng khi để kề gần ngọn đèn, bỗng nhìn thấy có lộ ra mấy hàng chữ, hắn vội vàng vạch ra nhìn kỹ thấy có 16 chữ:

"Trùng-Dương tiên sư

Công truyền hậu thế

Quan kỳ họa tương

Cứu kỳ thứ chỉ".

nghĩa là: (hãy nhìn kỹ trên chỉ tay của bức họa, sẽ tìm thấy công tích của Vương-trùng-Dương lưu lại hậu thế).

Vừa nhìn thấy mấy hàng chữ, Dương-Qua mừng rỡ như người chết trôi vừa vớ phải tấm ván, nó vội vàng xốc Tiểu-long-Nữ bồng đi về phía nhà mồ. Tiểu-long-Nữ ngơ ngác nhìn nó chả hiểu gì hết.

Hắn bảo nho nhỏ:

- Tôi đưa công nương đến xem lại di ảnh của Vương-trùng-Dương.

Tiểu-long-Nữ nghe xong, vẫn ngơ ngác như chẳng hiểu gì hơn. Chân bước dồn, đầu óc Dương-Qua vừa lo âu, vừa e ngại gặp phải Lý-mạc-Thu thì nguy hiểm lắm. Khi đến đại sảnh, hắn đưa chân đẩy cánh cửa nhìn vào thấy tối om. Dương-Qua mò mẫm ẵm nàng đi vào, đặt yên trên giường, rồi tìm đá đánh lửa mồi đèn.

Qua ánh sáng mập mờ trong đá âm u vắng lạnh, bỗng năm chiếc quan tài song song một hàng, khi ẩn khi hiện như ma trơi. Xung quanh không có bóng dáng một người nào, Dương-Qua chạy đến chân tường nhìn kỹ vào di ảnh Vương-trùng-Dương.

Nhớ lại ngày nào được Tiểu-long-Nữ đưa vào đây làm lễ nhập môn và bát sư, hắn có nhìn vào bức ảnh của bậc tiền bối quá cố một lần, nhưng bây giờ quan sát kỹ vẫn không có gì thay đổi hết.

Hắn ngạc nhiên khi trông thấy bàn tay vẽ úp trên bức họa, và các hàng chữ trên áo Tôn-Bà bảo phải nhìn kỹ trên chỉ tay.

Bàn tay úp thì làm sao thấy được chỉ. Hắn lẩm bẩm tự hỏi mãi không đáp được. Xoay lại phía sau, hắn thấy Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn hình như muốn biết kết quả.

Dương-Qua trở lại đỡ nàng đến gần bức di ảnh và bảo:

- Cô nương thử nhìn xem có nhìn được gì không? Tôi chẳng thấy gì cả.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu nói khẽ:

- Mắt ta hoa cả, không thấy gì hết.

Dương-Qua đặt nàng nằm xuống rồi đứng nhón chân hạ bức ảnh đến gần đầu nàng, bưng đèn kê sát soi sáng cho nàng nhìn rõ.

Nàng lắc đầu nói:

- Vô ích.

Dương-Qua giận quá đặt bức ảnh trên bàn đá và dằn mạnh thếp đèn lên trên. Vì đặt mạnh tay làm sáp vung tung tóe rơi trên mu bàn tay của Vương-trùng-Dương. Sáp thấm vào lụa làm hiện ra những nét vẽ khác thường. Dương-Qua ngạc nhiên quá vội tiến tới nhìn kỹ hơn. Hắn có cảm giác những nét vẽ tượng hình những chữ Hán có nhiều chữ nhỏ chi chít, mắt thường không nhận định rõ.

Nóng lòng vì tình trạng nguy ngập gần đất xa trời của sư phụ hắn cố định thần quan sát thêm, nhưng cuối cùng cũng chỉ đọc được vài ba chữ nhất nhì, tiểu đại mà thôi.

Bỗng hắn quên phứt rằng Cô nương mình đang thập tử nhất sinh, kêu lớn:

- Cô nương ơi, xem đây nè. Lạ quá! Lạ quá!

Tiểu-long-Nữ cũng quên mất tình trạng sức khỏe của mình, cố chồm dậy nhìn sát vào bức họa. Một nụ cười hy vọng thoáng nở trên làn môi tái mét vì lạnh.

Đôi mắt nàng mở to tràn trề hy vọng.

Dương-Qua nóng ruột hỏi:

- Họ ghi ché những gì thưa cô nương?

Tiểu-long-Nữ chầm chậm trả lời qua hơi thở yếu ớt:

- Ngày trước, khi nữ Sư phụ mệnh chung, Vương-trùng-Dương có trở lại đây một lần...

Dương-Qua vội cắt lời:

- Ông trở lại làm gì vậy Cô nương?

- Lần này ông ta trở lại để thân điếu người yêu. Khi tiên sư vào đến ngôi nhà này nhìn thấy bộ Ngọc-nữ tâm-kinh do nữ Sư phụ trang trọng đặt trên bàn thờ thì người có bảo:

- Ngọc-nữ tâm-kinh tuy kỳ diệu thật, nhưng nếu vũ thuật của Toàn-Chân phái được luyện tập đến mức thượng thừa thì có thể khắc chế được Ngọc-nữ tâm-kinh như không.

Dương-Qua ngạc nhiên hứ một tiếng lớn và hỏi thêm:

- Ông ta có giải thích thêm lý do vì sao không?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Người có truyền rằng, có một căn phòng đá khác đã ghi tạc tất cả bí quyết chống lại Ngọc-nữ tâm-kinh. Sau này kẻ nào có phần phước lắm mới tìm được và hấp thụ được tinh hoa của nền vũ thuật vô cùng kỳ diệu này.

Dương-Qua nóng ruột quá hỏi tiếp:

- Vậy đã có ai tìm ra chưa Cô nương? Chúng ta có thể đi tìm ngay bây giờ được chăng?

Tiểu-long-Nữ lắc đầu đáp:

- Ta ở đây từ lúc bé nhưng chưa bao giờ được biết hay trông thấy phòng này.

Nói xong nàng chăm chú nhìn lại bức họa một lần nữa và lẩm bẩm:

- Lạ quá, thật lạ!... Khó mà tin được.

Dương-Qua cũng tiếp lời ngay:

- Chính tôi cũng không thể tin có một võ công nào cao siêu hơn Ngọc-nữ tâm-kinh.

Tiểu-long-Nữ cãi lại ngay:

- Không phải ta cố ý nói thế đâu. Ta muốn chỉ sự lạ lùng và khó tin về căn phòng này mà thôi.

Dương-Qua làm thinh và Tiểu-long-Nữ cũng lặng yên suy nghĩ. Một lúc sau Dương-Qua có vẻ sốt ruột hỏi thúc:

- Vậy chúng ta thử tìm xe, có mất công là bao đâu?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Nếu không biết cách thì có tìm cũng vô ích.

Nói xong nàng kéo Dương-Qua lại bên cạnh mấy chiếc quan tài.

Và chỉ vào hai chiếc quan tài bỏ trống, nàng bảo:

- Trong thực tế hiện nay trong Cổ Mộ chỉ có hai chiếc quan tài mà chúng ta những bốn mạng. Như thế hai chiếc quan tài làm sao chứa hết bốn kẻ sắp lìa đời?

Dương-Qua buồn rầu đáp:

- Nếu Cô nương bằng lòng, chúng ta cùng chung một quan tài còn chiếc kia dành cho thầy trò Lý-mạc-Thu chứ sao?

Lời nói chân thành của Dương-Qua tuy không chứa đựng một hậu ý gì nhưng khiến cho Tiểu-long-Nữ cảm thấy lòng xao xuyến và nóng bừng cả mặt.

Lặng đi một lúc, nàng nói:

- Nếu chúng ta chết sau thì được lắm. Rủi bọn mình chết trước thì chắc gì chúng nó để yên cho thân xác mình được nằm đây, hay lại đem vứt nơi nào khác?

Dương-Qua cảm thấy máu nóng bừng dậy trong lòng hùng hổ nói:

- Vậy Cô nương cho phép tôi tìm thầy trò nó hạ sát đi cho rồi.

Tiểu-long-Nữ tức cười bảo:

- Sao mi lẩn thẩn thế? Ngay tài nghệ của ta còn chưa địch nổi sư tỷ thì bản lãnh mi làm sao chống nổi với họ được?

Tuy nhận thấy nàng nói đúng nhưng Dương-Qua vẫn nói gượng:

- Hay bây giờ chúng ta tìm cho ra pho vũ công thượng thừa của Vương-trùng-Dương, cố tâm trau dồi cho cao siêu thì sẽ đủ sức hạ chúng ngay chứ gì.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:

- Luyện tập vũ nghệ đâu phải một vài ngày là xong. ít nhất cũng phải một năm hay sáu tháng. Lương thực nơi đây không còn được mấy ngày, thử hỏi làm sao sống để tập luyện.

Nhưng nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác và tuyệt vọng của Dương-Qua nàng nói thêm:

- Tiên sư có đi ngôn rằng cửa phòng này dính liền với quan tài nữ sư phụ. Không biết có cách nào để vào đó được và đây có phải là sự thật hay là quỷ kế của người.

Dương-Qua trố mắt hỏi:

- Vì sao lại là quỷ kế?

- Ta chỉ dự đoán như vậy thôi. Cũng có thể đây là phòng riêng của nữ sư phụ. Ngày xưa nữ sư phụ tính ý bất thường, có lúc tức giận người bỏ về phòng đóng chặt cửa, gọi không nghe, vào không được. Một khi cửa đã đóng, đứng ngoài tìm không thấy cửa nữa.

Khi nữ sư phụ đã tịch rồi, Vương-trùng-Dương có lẻn vào Cổ Mộ đài, viện lẽ là để viếng thăm nhưng biết đâu với mục đích dò xét. Khi hỏi lại thì được biết cửa phòng đã liền với quan tài rồi. Biết đâu người đã đột nhập vào và đã ghi lại pho võ công kỳ diệu nơi đó chăng? Có lẽ cũng do đó mà tiên sư đã lưu lạii di ngôn này cho hậu thế. Thật là huyền bí khó tin quá. Lẽ nào Vương-trùng-Dương lại đi lừa gạt chúng ta, và người cũng không muốn lừa gạt kẻ khác làm gì.

Dương-Qua nói:

- Đó cũng chỉ là giả thuyết. Điều thực tế nhất là phải tìm cho ra phòng này rồi mới tới việc hạ sát thầy trò Lý-mạc-Thu.

Suy nghĩ thêm một chặp, Tiểu-long-Nữ lẩm bẩm:

- Hay chả có gì trong ấy chăng?

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương muốn nói trong phòng ấy sẽ không có gì chăng?

Nàng lắc đầu đáp:

- Ta không nói thế. Thôi thì mi cứ cạy nắp áo quan xem sao.

Dương-Qua mừng rỡ tiến đến sát chiếc quan tài của Lâm-triều-Anh. Chàng ta vận dụng nội công để lật chiếc nắp hòm đá, nhưng cẩn thận nín thở để tránh mùi hôi thối sẽ phát ra từ đáy hòm.

Thật lạ thay, nắp hòm vừa hở lên thì một mùi hương thơm ngát tỏa khắp gian phòng. Dương-Qua đang vận nội công, lại nín thở đề phòng nên chẳng hay biết gì. Bỗng nó la lên kinh ngạc:

- Cô nương! Không có gì trong hết!

Tiểu-long-Nữ tiến đến nhìn vào trong, chỉ có hai bình thủy có đựng một chất cao trong trong. Có lẽ mùi hương tỏa ra từ đây.

Tiểu-long-Nữ lẩm bẩm:

- Lạ quá! lẽ nào đây là di thể của Sư phụ? Vương-trùng-Dương lừa phỉnh ta chăng?

Dương-Qua nói:

- Phải đấy Cô nương. Ông ta dối mình làm gì? Chính đây là cửa vào phòng đá. Ta đi vào đi!

Nói xong nó chúi đầu vào hòm lấy tay mò ở đáy hòm rồi kêu lên:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Đây là ngách vào.

Tiểu-long-Nữ nghe nói biết ngay đó là lối vào.

Dương-Qua hì hục nạy ngách đá không nhúc nhích. Nó vận khí nội công, mồ hôi nhễ nhại nhưng, không hiệu quả. Tiểu-long-Nữ để nó hì hục một hồi rồi nói:

- Mi có tài thánh, sức thần cũng không mở được đâu.

Dương-Qua dừng tay hỏi:

- Thế thì cô nương giúp tôi một tay.

Tiểu-long-Nữ khẽ bảo:

- Trong Mộ đài nầy, cơ cấu vào ra đều được bố trí bằng máy móc. Mi đem sức lực vũ phu của mi thử thách với trí xảo của máy móc được thì ta cũng phục mi đấy. Mi muốn mở ngách vào thì chuyển nhẹ sang phía tả, rồi dở mạnh lên.

Dương-Qua y theo lời, tự nhiên ngách đá để lộ giữa hòm một lối vào đen ngòm.

Hắn mừng rỡ la lên:

- Đúng rồi cô nương! Thôi chúng ta chui vào đi.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Mi đừng hấp tấp, hãy chờ một chốc để cho xú khí thoát hết đã.

Dương-Qua vâng lời ngồi cạnh chiếc hòm chờ. Nhưng lòng không yên, chốc lát lại hỏi:

- Bây giờ ta vào được chưa Cô nương?

Tiểu-long-Nữ bảo:

- Ta lấy làm lạ, sao mi có tính hấp tấp như vậy lại có thể cùng sống với ta mấy năm nay!

Dứt lời, nàng thủng thẳng tay cầm chiếc đèn bước vào hòm soi vào lỗ ngách đá. Thấy Tiểu-long-Nữ cầm thẳng đèn đưa lên trước mặt. Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Cô nương làm phép gì lạ thế?

Tiểu-long-Nữ phì cười bảo:

- Mi tự hụ rành rẽ việc đời lắm thế mi không biết ở một nơi thiếu dưỡng khí thì lửa không đỏ được sao? Gian phòng đá nầy lâu ngày chứa đầy xú khí. Ta phải dùng ngọn đèn này đi tiên phong nếu nó tắt là báo hiệu thiếu dưỡng khí thì mình phải lui ngay không thì chết hết. Mi đã hiểu chưa?

Dương-Qua vừa nghe vừa lặng lẽ bước theo chân Tiểu-long-Nữ.

Hồi 19 Trùng-Dương Di Thiên: Cửu âm chơn kinhDương-Qua lòng vừa thư thái được một chút thì mệt mỏi từ đâu đã tràn về. Nó mơ mơ màng màng rồi cũng ngủ thiếp đi.

Một lúc sau, nó cảm thấy đau nhói ở sau lưng nơi huyệt "tiếu yêu" nó giật mình tỉnh dậy và có ý định vùng lên chống đỡ lại, nhưng đã có một bàn tay nắm chặt lấy cổ nó khiến không còn cựa quậy được.

Nó khe khẽ nghiêng đầu liếc mắt nhìn thì thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đang mỉm cười đứng bên cạnh.

Lúc đó Tiểu-long-Nữ cũng bị điểm huyệt mất rồi.

Nguyên do chỉ vì Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ cả hai đều chưa có kinh nghiệm giang hồ nghĩa hiệp, và khinh địch nên đã sơ ý không đóng kín căn phòng bằng đá.

Bởi vậy Lý-mạc-Thu mới biết được phòng ngầm này, và đột nhập vào, hành động theo ý muốn.

Lý-mạc-Thu cười nhạt bảo:

- Khá thiệt! Chỗ này là một căn phòng để nghỉ ngơi tốt nhỉ! Hai đứa nhỏ này đã lẻn vào đây để hưởng hạnh phúc với nhau đây. Sư muội! Bây giờ cô còn chối cãi vào đâu. Đã biết thân biết phận liệu bề mà nói đi, hay là vẫn cố giữ kín. Nếu có bề nào thì đừng trách ta.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Tôi biết hết cả rồi. Tôi nhứt định không bao giờ nói cho chị biết.

Lý-mạc-Thu biết Tiểu-long-Nữ vốn là một người cương nghị không mấy ai bì kịp, lúc sinh tiền sư phụ phải nhượng nàng ba lần rồi tiến tới cương quyết, đối phó gấp chín lần, cũng chẳng hề lay chuyển được. Nhưng nay, trước công việc quan trọng đến sinh mệnh của mình, chẳng lẽ lại không dùng hết mọi áp lực để bức sách nàng làm theo ý muốn. Nghĩ vậy, Lý-mạc-Thu rút ra hai cái ngân châm vứt xuống đất, tiếng kêu tinh tinh!

Nàng nói:

- Ta đếm từ một đến mười, nếu cô không nói thật, ta sẽ cho cô nếm mùi vị hai cây ngân châm này.

Tiểu-long-Nữ mắt nhắm nghiền lại, như chẳng thèm để ý gì đến lời Lý-mạc-Thu.

Lý-mạc-Thu đếm một... hai... ba... bốn

Dương-Qua nói lớn:

- Nếu cô nương tôi mà biết được lối ra thì việc tôi và cô nương tôi lại ở đây làm gì?

Lý-mạc-thu cười nhạt nói:

- Ta biết rằng thế nào căn phòng này cũng có ngả bí mật thoát ra ngoài được. Sở dĩ các người còn ở lại đây là để nghỉ ngơi lấy lại tinh thần sức lực, để rồi lại đi nữa chớ gì?

Nói xong nàng lại đếm năm... sáu... bảy... tám... chín...

- Sư muội! đếm chín rồi, cô có nói hay không?

Lúc bấy giờ, một luồng gió lạnh đột nhiên tạt vào ngọn nến trên tay Hồng-lăng-Ba, làm phụt tắt.

Tiểu-long-Nữ cười gằn một tiếng rồi nói:

- Tôi đã ngủ nghê được chút nào đâu, vừa mới vào đây được một lát.

Lý-mạc-Thu cố làm ra vẻ bình tĩnh nói:

- Thôi! Thế thì được!... Ta đã đếm đủ đến mười rồi, cô đừng có trách tôi nghe! Độc tính của ngân châm này là bí thuật của môn phái ta do sư phụ phu nhân truyền cho ta, vì cô ngoan cố nay ta phải tặng cô để cô được biết ý vị nó ra sao.

Nói đoạn, cô ta cúi xuống lấy đầu ngân châm chà lên huyệt "Tướng đài" của Dương-Qua.

Tiểu-long-Nữ bị chà lên huyệt "Huyền Cơ" nơi trước ngực.

Tiểu-long-Nữ vốn là người gan dạ và điềm tĩnh dị thường, cũng phải oằn oại vì chất độc của ngân châm, đã theo huyệt dạo xâm nhập vào toàn thân. Từ da thịt đến xương tủy và các cơ thể lúc bấy giờ như ngàn vạn con kiến rần rần cắn ở khắp nơi. Thực là chưa có một hình phạt nào trong thiên hạ có thể làm cho người đau đớn kỳ lạ đến thế được. Đó là một thứ độc dược độc đáo của bản môn, dĩ nhiên ngay trong bản môn đã phải có thứ thuốc giải độc, nhưng khốn nỗi cả hai người đều đã bị điểm huyệt, không còn cử động được nữa, nên vô phương cứu giải.

Lý-mạc-Thu vốn ác độc, tàn nhẫn, nên thản nhiên ngồi ở dưới đất, đợi coi những biến chuyển phát hiện từ hai người xem độc dược đã thấm vào nội tạng chưa. Cô ta vẫn phân vân chẳng biết Tiểu-long-Nữ có chịu tiết lộ những bí mật trong mộ đài không. Chỉ trong chốc lát là huyết mạch Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã chạy khẩn cấp, người đã phát nóng. Cô ta biết độc dược đã thấm vào nội tạng thì không còn nói đến việc cứu giải được nữa.

Dương-Qua khe khẽ nói:

- Thưa cô nương, hay là cô đem những bí mật của Mộ đài nói đi thôi. Hai người này chẳng ngần ngại gì mà không dùng đủ mọi ngón độc để hại ta đó.

Tiểu-long-Nữ cũng khe khẽ nói:

- Chính thế. Họ là tay ác độc nhất đời.

Thoáng nghĩ tới những đường bí mật ra khỏi mộ đài, nàng ngẩn đầu nhìn lên trên nóc nhà chỗ có ghi các hình đố.

Năm xưa, Vương-trùng-Dương đã thề không trở lại mộ đài. Ông tiên tri Lâm-triều-Anh thế nào rồi cũng qua đời trong Mộ đài.

Đối với người đã say mê đắm đuối vì yêu mình, ông không khỏi thấy bâng khuâng thương nhớ dù rằng bà thi ân với ông khá nhiều mà cũng kết oán với ông chẳng ít. Nghĩ và cảm như thế ông bỏ lời thề xưa, đã dấn bước theo mật đạo nhập Mộ đài, lén cho á Hoàn là đệ tử của bà hay đường lối xuất mộ và đồng thời nhìn lại di thể của người bạn thân thiết trước kia đã cùng mình rong ruổi cuộc đời giang hồ nghĩa hiệp.

Ông đau khổ vô cùng, nức nở khóc; khi đi một lượt khắp ngôi Mộ đài mà xưa kia ông đã mất bao nhiêu công trình, sau bao nhiêu năm tháng xây dựng nên. Thấy bà Lâm-triều-Anh đã vẽ hình mình ra trên mặt một bức tường, rồi lại thấy trên đỉnh hai căn phòng bà đã đi khắc võ thuật. "Ngọc-nữ tâm-kinh", thực là tinh vi ảo diệu, mỗi ngón đều để chế khắc mỗi ngón của Toàn-Chân võ thuật, mặt ông tự nhiên xậm lại và lập tức ông rút lui ra khỏi chốn Mộ đài.

Ông một thân lủi thủi vào chốn núi sâu, kết lập một thảo lư.

Ba năm liền không rời bước khỏi núi, để nghiên cứu cho tinh tường võ thuật "Ngọc-nữ tâm-kinh" tìm ra những ngọn để phá lại, tuy cũng đã thành hẳn một võ thuật có hệ thống uẩn súc, lòng ông bực bội đối với trí tuệ thông minh dị thường của bà Lâm triều Anh, đành phải chịu thua và bỏ không nghiên cứu thêm nữa.

Sau 10 năm, nhân cơ luận hội kiếm ở núi Hoa Sơn có đoạt được bộ "Cửu âm chân kinh" là một sách hiếm có, kỳ lạ về vô học, ông thề chẳng luyện tập theo kinh sách này. Nhưng để thỏa mãn tính háo kỳ, ông lại đọc qua ít lần.

Võ nghệ của Vương-trùng-Dương thời ấy đã là đệ nhứt trong thiên hạ. Vì thế, chỉ đọc qua những thiên trong Cửu âm chân kinh là ông đã quán thông được hết những tình tiết bí ảo trong đó sau 10 ngày suy ngẫm.

Bỗng nhiên quán thông, ông sung sướng ngẩng mặt lên trời cười hả hê một hồi, rồi trở lại Mộ đài, tìm đến căn phòng bằng đá bí ẩn nhứt, khắc lên nóc nhà những yếu chỉ của Cửu âm chân kinh mỗi ngón đều phá được võ thuật Ngọc-Nữ tâm kinh của bà Lâm-triều-Anh. Ông lại còn ghi mấy câu ở dưới ngón tay trong bức hình của ông với ngụ ý muốn cho hậu sinh, nếu ai có duyên lành sẽ biết được rằng võ thuật của Toàn-Chân phái không phải hoàn toàn bị võ thuật Ngọc nữ tâm kinh chế khắc được hết cả, và vị tổ sư sáng lập ra Toàn chân môn phái đã sáng tạo ra được võ pháp lại rồi. Lúc rời khỏi mộ đài ông có ghi lại trên một phiến đá trên núi Chung-Nam những lời ai điếu của ông với bà Lâm-triều-Anh, hiện còn để lại bút tích.

Lúc đó ông hồi tưởng lại những lời ông đã ghi chú ở bức họa hình ông tại cổ mộ đài, thấy rằng lời lẽ ẩn ý khó hiểu e rằng hậu nhân thuộc cổ mộ môn phái vị tất đã có người lãnh hội nổi. Nhưng nếu nói rõ ra thì chẳng hóa ra là làm tiết lộ cho đời biết môn đệ nhứt kỳ thư trong thiên hạ sao?

Trong lúc ông đương phân vân như thế, có một phu nhân nước mắt chảy ròng, nức nở khóc, đến trước ông, dáng điệu rất sầu thảm. Ông hỏi thì được biết người ấy là họ Tôn, xưa kia đã cùng với bà Lâm-triều-Anh là đôi bạn cùng phiêu bạt giang hồ đã từng cứu giúp nhau. Phu nhân họ Tôn được biết bà Lâm-triều-Anh đã qua đời nên thượng sơn đến cầu xin cho được làm lễ ai điếu tại Mộ đài để giữ trọn tình bằng hữu.

Vương-trùng-Dương thấy phu nhân kia nếu quá động, bèn chỉ cho đường đi nước bước khả dĩ vào được mộ đài.

- Ta có mười sáu chữ truyền cho, phải nhớ kỹ lấy và chẳng được tiết lộ cho ai hay. Đến giờ lâm chung chỉ được trao lại cho người chủ nhân mới của mộ đài thôi.

Phu nhân kia cúi đầu tạ lễ, rồi lẩm nhẩm đọc thật kỹ ghi khắc vào lòng. Bà theo đường đi nước bước vào mộ đài để làm lễ ai điếu. Rồi vì cảm nghĩa ả Hoàn bà ta mà ở lại luôn trong Mộ Phu nhân đó chính là Tôn bà vậy.

Tôn bà đem mười sáu chữ kia viết vào một miếng vải trắng khâu vào trong chiếc áo bông mà lúc lâm chung đã trao lại cho Dương-Qua, mười sáu chữ ấy là: mười sáu chữ mà Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ đã đọc được khi xét chiếc áo lông cừu.

Tôn bà không phải là người thông minh cho lắm nên không hiểu được dụng ý nói đến những điều bí ẩn chứa trong căn phòng bằng đá kia.

Vương-Trùng-Dương và Lâm-triều-Anh đều là hai bực kỳ tài vang danh một thời đã để lại cho đời những ngón tuyệt diệu. Đáng tiếc thay tình vừa chớm nở, thì vì truyện tranh luận võ nghệ mà đôi bạn trở nên nghịch với nhau. Nếu hai bên hợp tác được thì sự nghiệp để lại cho đời sau còn đẹp đẽ hơn nhiều.

Vì nghịch nhau như thế nên về sau người thì phải xuất gia mặc áo vàng làm một kẻ tu hành, người thì ôm uất hận cho đến lúc chết tại chốn Mộ đài.

Từ chỗ yêu thương đã trở thành thù nghịch.

Dẫu đã xa nhau nhưng còn vương vấn tơ lòng.

Ôi chữ tình càng gỡ càng vương. Thương nhau nhiều, ghét nhau lắm, càng oán nhau thì tơ lòng càng buộc chặt. Tâm trạng đôi tri kỷ cứ mãi mãi như thế cho đến ngày cùng đem thân chôn chặt xuống tuyền đài.

Lâm-triều-Anh thì sáng lập ra "Ngọc-nữ tâm-kinh" để chế khắc Toàn Chân võ thuật. Vương-trùng-Dương cũng chẳng chịu thua, lấy Cửu âm chân kinh chống lại. Vương-trùng-Dương tự thấy mình phải thua kém bà một bực, nên từ đó ông càng khiêm nhường, thường nhủ các đệ tử phải khắc kỷ hư tâm, sống âm thầm chẳng nên xuất đầu lộ diện.

Tiểu-long-Nữ mới nhìn qua đã biết được lối thoát bí mật của Mộ đài, khổ nỗi đã bị điểm huyệt nên có biết cũng chẳng làm gì được nữa. Nàng hối hận sao lại mải mê truyện trò với Dương-Qua, mà chẳng sớm tìm lối thoát bí mật kia ra khỏi Mộ đài. Toàn thân nàng nhiệt độ mỗi lúc một tăng. Liếc mắt nhìn lên đồ hình trên nóc nhà, nàng thở dài. Đưa mắt về phía bên mặt nàng đọc thấy mấy câu về "Cửu âm chân kinh" bỗng nhiên nhìn thấy 4 chữ "giải huyệt bí huyết", mắt nàng đột nhiên sáng ngời lên. Nàng lạnh lùng vừa đọc vừa suy ngẫm, bỗng nhiên nàng tỏ ra vui mừng vô hạn. Nếu người không tự kềm chế được thì có lẽ nàng đã thốt nên những tiếng reo mừng.

Đại khái thì bí quyết ấy nói về những nguyên lý khi luyện nội công làm cho hỏa khí tụ đan điền, các đường huyệt đạo đều ngưng lưu thông vì đã dồn vào tới đó. Còn đối với người đã từng tập luyện tới "Cửu âm chân kinh" các kinh lạc đều luân lưu điều hòa, thông hoạt từ trên xuống dưới từ dưới lên trên, nhứt định không thể bị ai điểm huyệt được.

Cứ lý ấy mà suy ra, huấn giáo này đã là bùa cứu mạng cho Tiểu-long-Nữ trong lúc khốn đốn này.

Nàng suy đi nghĩ lại, thấy dầu mình có khai thông được huyệt đạo cũng chẳng ích gì vì làm sao mà địch nổi sư tỷ Lý-mạc-Thu. Nàng lại đọc kỹ đoạn kinh văn ghi trên nóc nhà, có đoạn chỉ giáo cho phương thế, nếu biết và sử dụng được, thì hễ xuất thủ là có thể chế ngự được các ngón của Lý-mạc-Thu. Huấn giáo chỉ từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, cả thảy hai đoạn, công phu luyện tập thực là dễ dàng, nhưng cũng phải 10 ngày mới thành thuộc được.

Lòng nàng miên man suy nghĩ, ngoảnh nhìn về phía Dương-Qua thấy hắn đang rét run lên bần bật. Có lẽ giờ này chất độc của ngân châm đang thấm vào mãnh liệt.

Những lúc nguy cấp thường là những lúc phát sinh tâm trí sáng suốt. Chính giữa lúc khốn này nàng đã âm thầm học đến nhập tâm hai đoạn "giải huyệt bí quyết" và "bế khí bí quyết" của Cửu âm chân kinh.

Nàng ghé mồm vào tai Dương-Qua nói rất nhỏ cho nó biết.

Dương-Qua vốn dĩ là người thông minh, lanh lợi nên nói sơ là nó đã hiểu hết.

Tiểu-long-Nữ vẫn khe khẽ nhấn mạnh:

- Trước hết phải làm cho thông huyệt đạo.

Dương-Qua khẽ gật đầu.

Lúc bấy giờ căn phòng bằng đá tối đen như mực, hai thầy trò Lý-mạc-Thu ở lại đó để đợi hai người bị độc được hành hạ cơ thể rang chín người đi, rồi phải nói ra tất cả những điều bí ẩn chứa đựng trong Cổ mộ đài, nào có ngờ đâu họ đang âm thầm tìm cách giải nguy và đối phó lại.

Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua cứ theo y như lời chỉ dạy của Vương-trùng-Dương để giải huyệt bí quyết.

Hai người đã có sẵn cái vốn về nội công kha khá chỉ còn việc theo lời dạy về cách vận khí khác thường, là trong giây lát đã làm thông hoạt được huyệt đạo.

Nàng nhè nhẹ thò tay lấy ở bọc ra hai viên "giải độc linh đơn" khẽ chuyền một viên đưa vào mồm Dương-Qua còn một viên thì nuốt đi.

Nàng cử động rất là nhẹ nhàng khoan thai. Lý-mạc-Thu chẳng biết có pháp thuật gì mà tự nhiên nhận thấy, vừa hai người trở lại bình thường chạy xô lại vừa quát:

- Chúng bây làm trò gì thế!

Tiểu-long-Nữ xuất chưởng, nhè nhẹ vỗ vào đầu Lý-mạc-Thu. Đó là một ngón đã vận dụng điện lực của võ thuật Ngọc-nữ tâm-kinh, một ngón võ thượng thặng.

Lý-mạc-Thu hết sức kinh sợ vì việc xảy đến quá bất ngờ nên phải vội vàng nhảy lại phía sau để cho áp lực giảm sút phần nào.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chúng tôi muốn ra khỏi đây! Sư tỷ thế nào! Có ra hay ở?

Lý-mạc-Thu vẫn tự phụ là người võ nghệ cũng như tài sắc vô địch trong giang hồ, nay lại bị một người vô danh tiểu tốt, đàn em, dở chưởng lực ra đối địch lại, thì lấy làm uất giận lắm. Tuy thế cô ta chẳng dám giở giọng tự cao tự đại, sợ phật ý, nàng không dẫn ra khỏi căn phòng nầy thì sẽ bị đánh chết ngộp ở chốn này sao.

Cô ta nghĩ bụng: mình võ nghệ ăn hẳn sư muội, cứ làm thế nào cho nó dẫn mình ra khỏi, lúc đó hãy sửa trị cũng chẳng muộn gì. Nó cũng có ít ngọn hiểm độc lạ thường, nhưng những ngọn ấy cũng chẳng ăn thua gì. Nghĩ vậy cô ta cố nén giận, cười khẽ nói:

- Cô tiến bộ lắm rồi đó, ta phục cô gấp bội. Thôi, bây giờ dẫn chị đi ra, nghe cô!

Dương-Qua rất tinh khôn, muốn nhân dịp ấy làm lạc hai thầy trò Lý-mạc-Thu mỗi người đi mỗi ngả. Nó cũng tươi cười nói:

- Làm sao mà dẫn cả hai người cùng ra một lúc được. Cô nương tôi chỉ dẫn được từng người một, đem người này ra rồi lại trở vào đón người kia.

Lý-mạc-Thu cũng tinh ý mắng át:

- Thôi mày! Hẳn tạm im cái mồm đi!

Tiểu-long-Nữ chưa thông cảm được tinh ý của Dương-Qua.

Tuy vậy nàng vẫn chiều theo ý nó đáp lại Lý-mạc-Thu:

- Chỉ dẫn một người một thôi. Hai người, cùng đi một lúc thì không được.

Dương-Qua cười ra vẻ cởi mở thú vị lắm, nói:

- Thưa sư bá, sư bá cho sư tỉ tôi theo chúng tôi ra trước có được không ạ!

Lý-mạc-Thu nuốt giận chẳng thèm đáp nửa lời. Dương-Qua lại tiếp:

- Thôi sư bá đã bằng lòng rồi, chúng ta cùng đi cho sớm. Cô nương đi trước dẫn đường tiếp đến là tôi và sau đó ai muốn nối chân theo cũng được.

Bấy giờ Tiểu-long-Nữ đã lãnh hội được ý Dương-Qua, chỉ mỉm cười không nói gì cả, nắm tay Dương-Qua bước dần ra khỏi thạch thất. Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba tuy không nói gì với nhau nhưng cả hai đều ái ngại chỉ sợ bất thình lình thầy trò Dương-Qua vận chuyênr máy móc đổ sập một cửa đá ngăn cách chia ly mỗi người một nơi thì nguy to. Cho nên cả hai đều sát cánh nhau đứng song song tại cửa, lăm le chen chân bước đi trước.

Thấy thái độ của học trò như thế, Lý-mạc-Thu nổi nóng quát lớn:

- Nghiệt súc, mi toan chen lấn cùng ta chăng?

Nói xong, nàng đưa tay trái nắm chóp đầu Hồng-Lăng-Ba.

Hồng-Lăng-Ba vốn biết sư phụ mình hễ đã ra tay thì vô cùng hiểm độc cho nên vội lùi ra sau một bước, lòng vừa lo sợ vừa bực tức không dám nói một lời.

Lý-mạc-Thu nối gót liền theo sau Dương-Qua không rời gang tấc. Phía trước Tiểu-long-Nữ thoăn thoắt bước đi quanh qua quẹo lại và mỗi lúc lại đi vào con đường thấp hơn. Một chặp sau nàng cảm thấy dưới chân ẩm ướt, biết rằng đã ra khỏi Cổ-mộ Đài, thoạt trông phía trước có nhiều ngã ba đường. Bất thình lình đường đi tuột xuống thật sâu thăm thẳm. Cả bốn đều là những tay võ công thượng thặng dày công tập luyện nội công, quen với biến chuyển bất ngờ ứng phó vô cùng lanh lợi, chứ nếu là tay tầm thường thì có lẽ đã sa chân lăn xuống vực sâu rồi.

Vừa đi Lý-mạc-Thu vừa ngẫm nghĩ:

- Núi Chung-Nam Sơn nào có cao gì cho lắm mà ta cứ quanh mãi trong lòng núi như thế này, không biết bây giờ đang đứng đâu.

Một chặp sau lối đi bằng phẳng dần và ngập cả nước. Càng đi nước càng lên cao dần, không mấy chốc đã cao quá gối. Sau đó nước lên tới hông, tới bụng, quá ngực rồi dần dần lên cổ họng.

Tiểu-Long quay lại khẽ hỏi Dương-Qua:

- Mi đã nhớ kỹ bí quyết bế khí rồi chứ?

Dương-Qua không trả lời sợ họ nghe thấy, chỉ lặng lẽ gật đầu mấy cái ngụ ý đã thuộc kỹ rồi.

Tiểu-long-Nữ dặn nhỏ thêm Dương-Qua đừng trò chuyện dưới nước và chờ nàng lấy hơi một lúc rồi từ từ đi tới.

Dương-Qua vừa bước theo vừa khẽ đáp:

- Cô nương khỏi bận trí về tôi, cứ yên tâm mà đi.

Tiểu-long-Nữ gật đầu xăm xúi bước mau hơn. Nước đã lên quá cổ, mọi người phải ngậm miệng để khỏi sặc.

Lý-mạc-Thu run sợ khẽ hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Sư muội biết bơi đấy sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Từ bé đến lớn, tôi sống trong Cổ mộ đài chưa bước chân đi xa, làm sao mà biết bơi được?

Nghe nói thế Lý-mạc-Thu cũng hơi vững bụng, yên tâm bước theo. Thình lình gặp chỗ sâu bất ngờ, nàng giật mình sụt chân xuống, hoảng hốt hả miệng uống một ngụm nước và đi chậm một chút. Trong khi ấy Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua vẫn điềm nhiên bước tới, giữ đúng bí quyết kềm hơi định khí. Lý-mạc-Thu cảm thấy run sợ vô cùng nhưng vì đã trót lỡ nên cũng đành nhắm mắt đưa chân.

Bỗng hình như có người ghì lại phía sau. Nhìn lại thì Lý-mạc-Thu thấy Hồng-lăng-Ba đã ghì chặt áo mình. Nàng cố sức gỡ ra, nhưng cứ nhùng nhằng mà không thoát khỏi. Phàm người ta khi gặp sự nguy hiểm đe dọa, thì ý chí tự vệ nổi lên, ai cũng cố liều chết bám lấy cái sống. Giòng nước mỗi lúc càng chảy lạnh, sức mạnh ồ ạt, tiếng reo như thác lũ. Hồng-lăng-Ba và Lý-mạc-Thu bị nước cuốn đi trôi nổi bập bềnh.

Lúc thường bình tĩnh bao nhiêu thì bây giờ càng cuống cuồng lên bấy nhiêu. Lý-mạc-Thu giẫy dụa, quơ quàng bậy bạ, đụng gì chộp nấy, gặp cái gì cũng níu lại. Đột nhiên nàng nắm được một vật mềm mềm vội túm chặt lấy, nhìn lại là chớp vai của Dương-Qua.

Trong lúc đang nắm tay Tiểu-long-Nữ bình tĩnh nín hơi bước tới, Dương-Qua bị chộp bả vai bỗng giật mình cố gỡ ra nhưng Lý-mạc-Thu lại níu chặt thêm. Ngại cử động mạnh hô hấp không đều, nước có thể vào miệng mũi được nên Dương-Qua cố gắng đi, mặc kệ nàng bám bên vai.

Bốn người nối tay kéo nhau bước tới mặc tình cho nước cuốn sống nhồi.

Độ nửa giờ sau vì nín thở quá lâu cả hai thầy trò Lý-mạc-Thu cảm thấy ngộp hơi, không chịu nổi nữa. Nhưng may sao nước bỗng chảy chậm và cạn dần xuống tới cổ. Đi thêm một lúc nữa nhìn trước mặt thấy ánh sáng do một cửa động từ từ chiếu lại.

Cố gắn bước tới cửa động cả hai cảm thấy mệt lả, vội ngồi trên tảng đá vận khí trục bớt số nước uống lỡ vào bụng và ngồi thở hào hễn.

Tiểu-long-Nữ dùng ngón độc của Lý-mạc-Thu đã hại mình trước kia, lẳng lặng đưa tay điểm vào yếu huyệt của hai thầy trò khiến cả hai mềm nhũn rồi đem đặt trên một tấm đá tròn, để nằm ễnh bụng lên cho nước từ từ thoát bớt ra ngoài.

Một chặp sau thầy trò Lý-mạc-Thu từ từ tỉnh lại hé mắt nhìn thấy ánh sáng chiếu vào mặt đoán chắc đã ra khỏi Cổ mộ đài, chưa rõ Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã tỉnh trước chưa, e rằng họ có thể dùng vũ lực phục thù thì nguy hiểm lắm. Sau khi bị ngâm nước lâu, cả hai đều cảm thấy lạnh run, hai hàm răng đánh cồm cộp. Tuy nằm yên nhưng cả hai cảm thấy chân tay rũ liệt và bắp thịt hầu như muốn tan rã đi hết.

Lúc nãy Tiểu-long-Nữ đã vận nội công điểm huyệt, nếu không cao thủ biết rõ lối giải của Vương-trùng-Dương thì ít nhất cũng cần qua bốn mươi chín ngày mới tự giải quyết được.

Tiểu-long-Nữ hỏi Lý-mạc-Thu:

- Trước khi chia tay, sư tỷ có cần dùng gì thì cứ bảo.

Lý-mạc-Thu tuy bị điểm huyệt nhưng trí khôn vẫn còn sáng suốt, nghe hiểu được mọi việc, nhưng nàng chỉ nhìn Tiểu-long-Nữ với cặp mắt vừa vui mừng vừa bực tức.

Hỏi xong Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ xoay mặt kẻ trước người sau bước ra đi.

Đưa mắt nhìn chung quanh mình. Dương-Qua thấy tư bề cây cối tươi xanh, lá phủ mát rượi, ánh sáng chiếu lập lòe trong lòng cảm thấy nôn nao dâng lên một niềm thú vị. Dương-Qua vui vẻ hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Cảnh đẹp quá Cô nương nhỉ?

Tiểu-long-Nữ chỉ nhìn nó rồi mỉm cười không đáp.

Hồi tưởng lại cảnh tượng vừa trải qua cả hai cùng cảm thấy chùng mình ngao ngán, nhưng giờ đây đứng trước cảnh trời mây bao la thì lòng càng thêm hân hoan rào rạt.

Một lúc sau cả hai thấy mỏi mệt nằm dưới gốc cây, gió mát thổi hiu hiu, ngủ thiếp đi một giấc thật ngon lành.

Nơi đây là một cửa động ở tại chân núi Chung-Nam-Sơn, tứ bề hoang vu tịch mịch, cây cối um tùm ít người lai vãng. Qua một lúc hai người chợt tỉnh dậy, bấy giờ chất độc của ngân châm đã tiêu hết không còn lạnh buốt như trước nữa, trong người cũng hết nhức mỏi, chân tay được thu thới nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái.

Dương-Qua ngỏ ý muốn đi du ngoạn để nếm mùi siêu thoát của cảnh rừng nội mây ngàn bù lại những giờ phút gian nguy dưới vuốt tử thần. Nhưng Tiểu-long-Nữ từ tấm bé nào biết được cái thú đó cho nên lòng nàng không hề nghĩ đến. Nàng tỏ ý không bằng lòng và khuyên Dương-Qua để thì giờ tập luyện võ công, nhất là thuật "Ngọc nữ tâm kinh" trong thời gian bị bỏ dở.

Đối với Dương-Qua thì ý kiến nào của thầy cũng là chí lý nên hắn vui vẻ tán thành ngay. Hai người đưa nhau vào rừng sâu, tìm nơi cảnh đẹp vừa mát mẻ vừa hoang vắng, cùng nhau đắp nền, cắt tranh chặt cây dựng nên một túp lều để ban ngày nghỉ ngơi. Và đêm đêm cả hai đưa nhau vào rừng sâu tìm nơi thật hoang vắng, cây cối rậm rạp rồi mỗi người một bụi xung quanh che kín, trút cả y phục, lõa thể để rèn luyện nội công "ngọc nữ tâm kinh".

Ba tháng trời lặng lẽ và êm đềm trôi qua. Tiểu-long-Nữ rèn luyện đã tinh thục. Một thời gian sau nữa Dương-Qua cũng theo kịp. Lúc bấy giờ hai người cùng nhau luyện võ bằng cách đấu với nhau. Tất cả các môn đều được Tiểu-long-Nữ tận tình chỉ dạy, chẳng mấy lúc mà Dương-Qua tập luyện lão thông.

Trong những phút nhàn rỗi Dương-Qua đem những chuyện nhân thế ra bàn luận.

Từ tấm bé Tiểu-long-Nữ đã sống một cuộc đời hư tâm tòng đạo không mảy may vướng nghiệp hồng trần, lòng lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thoát. Nàng thấy Dương-Qua thường đưa những câu chuyện bên ngoài ra nói, biết nó khó sống mãi trong cảnh rừng núi hoang vu cô tịch như thế nầy, cho nên có lúc nàng tìm cách hỏi để dò ý:

- Dương-Qua, đến nay chúng ta luyện tập đã tiến bộ nhiều. Mi so sánh xem giữa ta và bác Quách-Tỉnh gái tài nghệ ai hơn ai kém.

- Cả hai đều giỏi cả, nhưng so với cô nương chắc cũng không hơn nổi đâu.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bác Quách-Tỉnh đem hết võ công truyền lại cho vợ ngoài ra còn truyền cho hai anh em họ Vũ nữa. Nếu ngày sau gặp nhau, chắc thế nào chúng ta cũng bị mang nhục vì thảm hại.

Nghe nói Dương-Qua như tức nghẹn lời. Một lát hắn trợn mắt đưa tay quả quyết nói:

- Thưa Cô nương, nếu họ làm nhục ta thì tôi nhất định không bao giờ để họ ở yên đâu.

Nàng lạnh lùng nói:

- Sức mi làm sao địch nổi họ. Thôi đừng suy nghĩ làm gì cho bận tâm.

Dương-Qua vẫn cãi:

- Nhưng họ làm thương tổn danh dự tôi thì không thể nào làm thinh được.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu nói tiếp:

- Sức ta nhắm không địch nổi bác Quách-Tỉnh gái đâu.

Dương-Qua lẩm bẩm:

- Phần tôi thì nhất định không thế nào so tài được với Bác Quách-Tỉnh trai rồi. Ngay như bộ hạ của bác cũng toàn là cao thủ cả!

Tiểu-long-Nữ lặng nhìn nó một chập và nghĩ thầm:

- Bao năm qua sống bên cạnh mình, Dương-Qua đã chịu ảnh hưởng, bản tính lạnh lùng của mình và cuộc sống thanh đạm trong Cổ mộ đài quá nhiều nên tánh nông nổi của nó ngày nay cũng giảm bớt nhiều lắm.

Thật ra bản chất nóng nảy của Dương-Qua vẫn chưa thay đổi chút nào. Sở dĩ bây giờ nó đã lớn tuổi, có chút ít kinh nghiệm và óc suy nghĩ, cho nên nó thốt ra câu ấy vì nhận thấy trước kia Quách-Tỉnh trai đã tận tình chăm sóc và thương yêu nó. Bản chất của nó lúc nào cũng muốn dĩ ân, trả ân, dĩ oán, trả oán, ân oán phân minh để giữ lẽ công bằng, trọn tình nghĩa mà thôi.

Tiểu-long-Nữ hỏi tiếp:

- Nhưng nếu sức họ không địch nổi mi thì mi tính sao?

Dương-Qua đáp:

- Thưa cô nương, giữa họ và chúng ta không thù không oán vì dầu tài nghệ tôi có trội hơn mà họ không khiêu khích thách đấu thì khi nào tôi tự nhiên xuất thủ được.

Tiểu-long-Nữ gật đầu từ từ nói:

- Phải, giữa mi và họ không oán không thù, mi cư xử như vậy thật là phải lắm. Nhưng giữa nhóm người trên Đào Hoa Đảo và ta, tuy không mảy may liên hệ, nhưng gặp nhau chưa chắc họ chịu để yên đâu.

Nghe nói Dương-Qua giật mình vội hỏi:

- Sao giữa gia đình đó và cô nương có kết thân thù oán hay sao. Họ có ý khinh miệt cô nương từ lúc nào. Xin cô nương nói rõ cho nghe.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:

- Giữa họ và ta không hề quen biết. Nhưng giữa Quách-Tỉnh và phái Toàn-Chân có cựu tình sâu sắc. Ta đã ra tay cùng các đạo sĩ Toàn-Chân, như thế lẽ nào Quách-Tỉnh không tìm cách rữa hận, không bao giờ để ta yên thân.

Dương-Qua giật mình nhưng bặm môi nói lớn:

- Cô nương đừng lo, mặc dầu họ tài giỏi đến đâu, nhưng nếu một khi họ dám động đến cô nương thì Dương-Qua này dầu phải đổi mạng cũng liều sống chết với họ một trận.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Nhưng tức thay bọn ta chưa đủ tài đủ sức để cự đương cùng họ!

Vốn có khiếu thông minh lanh lợi tuyệt vời, nên Dương-Qua thoáng nghe đã hiểu ngay ý muốn của sư phụ nên nó mỉm cười nói:

- Thưa Cô nương, hiện nay bọn ta còn yếu sức, nhưng nếu chịu khó luyện tập hết điều di huấn của Vương-trùng-Dương thì chắc chắn bọn Đào Hoa Đảo không đủ sức chống lại ta.

Tiểu-long-Nữ mừng rỡ, mắt nhìn nó cười tươi như hoa và nói lớn:

- ồ, nếu được vậy thì họ có ba đầu sáu tay cũng khó cự được với ta, phải không?

Thầy trò đắc ý cười vang, lòng hân hoan sung sướng đầy tự tin và hy vọng.

Chỉ mấy lời ấy mà Dương-Qua quyết tâm tiếp tục cuộc sống cùng Tiểu-long-Nữ tại chốn thâm sơn cùng cốc nầy đến hơn một năm sau nữa.

Trong khi bị điên đảo tại thạch thất trong Cổ mộ đài, Tiểu-long-Nữ đã chú ý xem và học thuộc lòng tất cả các dấu hiệu bí quyết của Cửu âm chân kinh. Nhờ lòng lúc nào cũng thanh thoáng sáng suốt không mảy may bận rộn vì ngoại cảnh, thêm óc thông minh tuyệt vời và lòng kiên nhẫn vô kể nên Tiểu-long-Nữ đã chú ý là thông hiểu ngay. Chẳng phải như mẫu thân của Hoàng-Dung trước kia, tuy thông minh nhưng chỉ đọc để mà nhớ, không suy nghiệm thấu đáo và không giữ được lòng yên tịnh cho nên dù học thuộc lòng vẫn không bổ ích và lúc chết đi chỉ mang theo một mớ lý thuyết, chưa rõ được kỳ diệu tinh xảo của Cửu-âm chân-kinh.

Một năm trôi qua, cả hai đã luyện được nội ngoại thần công tinh diệu, bản lãnh tiến thêm một mức khá dài.

Họ bẻ những cành cây non mềm mại song đấu với nhau. Họ luyện chuyển nội lực vào các cành cây mềm yếu với mục đích trau dồi nội công thành thục, dầu gươm cứng dao bén đâm vào cũng chẳng nghĩa lý gì.

Nhưng một hôm nọ, sau khi tập luyện xong, Tiểu-long-Nữ có vẻ âu sầu dã dượi khác thường. Sắc mặt nàng luôn luôn đăm chiêu suy nghĩ không nói chẳng cười. Dương-Qua lo lắng tìm cách khơi chuyện để nàng tiêu sầu giải muộn nhưng vẫn không kết quả. Nét mặt nàng lạnh lùng và ảm đạm làm sao.

Dương-Qua tự biết đến nay đã luyện tập chu đáo tất cả những bí quyết của pho Cửu âm chân kinh rồi, nhưng muốn đạt được mức tinh diệu của pho võ công nầy thì dầu tốn hao hàng trăm năm công phu chưa chắc đã tới chốn. Nhưng với căn bản sẵn có, nếu muốn tiếp tục trau dồi thì bản lĩnh sẽ tiến bộ đến chỗ siêu việt lên mãi.

Ngày nay đối với Tiểu-long-Nữ, nó tự thấy không còn lý do gì phải tiếp tục chung sống cùng nơi chốn nầy nữa. Như thế thì sau khi nó hạ sơn, còn một mình nàng thui thủi nơi chốn hoang vu nầy, làm sao nàng không buồn rầu đau đớn.

Nghĩ đến đó nó thấy tâm tư rung cảm, vội đến gần nàng thỏ thẻ hỏi:

- Thưa cô nương, nếu tôi không muốn hạ sơn và tình nguyện cùng cô nương sống mãi nơi đây cho đến mãn đời, chẳng hay cô nương có bằng lòng không?

Mặt đang buồn rầu, Tiểu-long-Nữ vụt sáng lên, hớn hở nói ngay:

- Nếu được vậy, còn gì sung sướng cho bằng!

Vừa nói xong nàng bỗng nín ngay và giữ yên lặng. Trong lúc quá vui mừng nàng không kiềm chế được lòng mình đã bộc lộ tâm tư, nghĩ lại thấy ngượng nên không nói thêm được gì nữa.

Riêng phần Dương-Qua, tuy thương thầy nói như thế nhưng lòng lại nghĩ khác. Bây giờ lỡ đã nói ra khó nổi thu lại. Nhưng nó đinh ninh sẽ tìm cách đính chánh hoặc sửa đổi chút ít. Vì vậy mà lúc nào nó cũng suy tư và chiều đó không ăn cơm, cũng chẳng nói năng gì thêm. Tối đến nó lủi thủi vào một góc lều tranh nằm khoanh rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Túp lều tranh được xây dưới gốc cây tùng lớn để nhờ bóng mát và núp gió. Từ trân các cành tùng, nhưng bó giây leo chằng chịt lòng thòng, thêm những giây hoa rừng đủ màu sắc rực rỡ bó lòng từng tua ngũ sắc bao phủ xung quanh trông như một chùm hoa. Ngoài ra Dương-Qua đi tìm các loại hoa cúc hoa hồng trồng xung quanh hè, nay đã cao lớn trổ bông rực rỡ vừa đẹp mắt vừa thơm ngào ngạt. Nhưng tất cả bông hoa tươi thắm đều dành trang trí cho phòng của Tiểu-long-Nữ, còn riêng phía bên mình thì để trống trơn.

Tuy nhiên ở bên trong, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ sạch sẽ và đơn giản vô cùng.

Thấy cô nương không được vui vẻ lắm nên Dương-Qua cảm thấy rầu rầu chậm bước đi qua đi lại trước cửa lều suy ngẫm mãi rồi nhìn trăng lên thật cao khỏi núi mới vào ngủ lại.

Ngủ luôn một hơi đến nửa đêm nó đang mơ màng bỗng nghe tiếng khiêu khích và bước chân vang động gần đâu đấy, hình như có người đang đấu với nhau.

Nó bỗng giật mình choàng dậy, lắng tai nghe, quả là có ạt hòa với những đòn quyền liên hồi không ngớt. Nó vội vã chạy qua phòng Tiểu-long-Nữ khẽ gọi:

- Cô nương, cô nương ơi, cô có nghe gì không?

Lúc bấy giờ không có tiếng đáp lại mà tiếng động và chưởng lực càng gia tăng thêm nhiều. Ngày thường Tiểu-long-Nữ vốn tỉnh ngủ, nếu gọi như thế là tỉnh dậy ngay nhưng chẳng hiểu vì sao lần này gọi mãi không thấy trả lời. Gọi thêm mấy tiếng nữa không được, Dương-Qua tống cửa bước vào chỉ thấy giường không mà nàng đi đâu mất.

Dương-Qua hối hả vội vàng phi thân phóng về phía có tiếng động. Chạy hơn mười trượng vẫn chưa thấy người, chỉ nghe tiếng gió của chưởng lực phát ra. Hắn nhận ra luồng chưởng yếu hơn là của Tiểu-long-Nữ, còn luồng chưởng của địch thủ thì có vẻ hùng hậu và mạnh mẽ hơn nhiều.

Nóng ruột quá, Dương-Qua tăng thêm tốc lực, tung người phi mau như gió cuốn.

Hồi 20 Một sự hiểu lầm ngàn trùng cách biệt So với mấy năm về trước, thuật khinh công của Dương-Qua đã tăng tiến phi thường. Chẳng bao lâu đã vượt qua hết một thung lũng, thoáng nhìn đàng xa, dưới bóng trăng rõ ràng bóng trắng dịu dàng uyển chuyển của Tiểu-long-Nữ đang lẹ làng đấu với một người lạ mặt chẳng rõ là ai, từ đâu đến. Nghệ thuật của nàng có vẻ kỳ ảo nhẹ nhàng như vờn hoa, nhưng nội lực thì còn kém sút nhiều người lạ mặt. Đối phương tung những đường chuyền cước hùng hậu, chắc nịch, chưởng lực cao cường như muốn áp đảo nàng.

Dương-Qua kinh hãi phi thân đến gần, miệng la lớn:

- Cô nương, đã có tôi đến đây.

Đến cạnh hai người nó định thần nhìn kỹ tướng mạo người kia, bên má đầy lông mọc lởm chởm, da nhăn, sắc diện kỳ quái, rõ ràng là Âu-dương-Phong, cha nuôi của nó từ thuở nào. Âu-dương-Phong đứng nghiêm một chỗ vững như bàn thạch, hùng dũng như trái núi, chưởng lực tung ra cực kỳ mãnh liệt. Tiểu-long-Nữ luôn luôn uốn mình né vòng quanh không dám công nhiên đối chiến.

Dương-Qua vội la lớn:

- Xin ngừng tay lại, cùng là người trong nhà cả đấy mà!

Tiểu-long-Nữ ngạc nhiên tự nghĩ:

- Lão già quái gở mặt đầy lông như thế nầy sao gọi là người nhà được nhỉ?

Tâm trí bất thường bị lũng đoạn, nàng phát chưởng lực không đều nữa. Âu-dương-Phong thừa dịp hạ tay trái xuống bụng tung ra một chưởng mạnh vô song. Một luồng gió tạt ngang qua mặt nàng. Dương-Qua phi thân lại gần, thoáng qua chưởng lực thấy rõ sức sư phụ còn kém thua nghĩa phụ xa lắm, nếu để trận đấu kéo dài Tiểu-long-Nữ thế nào cũng bị nội thương nặng.

Lập tức nó chuyển nội lực ra đầu 5 ngón tay, xuất chưởng quét nhẹ qua bụng dưới của Âu-dương-Phong, đúng theo ngón "Thủ huy ngủ huyền" vừa học được trong Cửu âm chân kinh. Mặc dầu nó luyện chưa thuần thục lắm nhưng vì sử dụng đúng quy tắc cho nên ảnh hưởng vô biên. Tác dụng của chưởng lực đã làm cho Âu-dương-Phong mệt nhoài như muốn rã rời tay chân.

Tiểu-long-Nữ thấy thế địch suy yếu, do thế công chớp nhoáng của Dương-Qua, liền tức thời khỏi thế công mạnh hơn. Chỉ nháy mắt Âu-dương-Phong xuất phát chưởng lực yếu ớt, toàn thân như không còn đủ sức đề phòng vệ chưởng lực của đối phương, như người bị trọng thương.

Dương-Qua lấy tay bắt lấy tay sư phụ ngăn không cho chưởng lực phát xuất nữa, nó đứng giữa hai người, cười và nói:

- Xin hai vị đình chiến, hai vị đều là thân thích với tôi cả.

Âu-dương-Phong chưa nhận ra nó, chỉ thấy võ nghệ của nó cao cường lạ lùng, không dám coi thường. Tuy vậy ông giận dữ nói:

- Mày là ai? Sao lại bảo là người thân thích?

Dương-Qua đã biết ông ta nhiều khi phát khùng, hoặc có thể ông ta quên chăng, nên nói lớn:

- Nghĩa phụ ơi! con đây! con của cha đây mà!

Mấy tiếng ấy có tác dụng khích động tình cảm làm Âu-dương-Phong ngơ ngác, lấy tay nắm tay nó dắt ra chỗ có ánh trăng để nhận diện. Ông đã nhận ra được đứa con nuôi mà từ bấy lâu nay ông đã mất công tìm kiếm khắp nơi chưa thấy. Bây giờ nó cao lớn hơn, võ nghệ giỏi giang hơn, vì thế mà lúc đầu ông không nhận ra được.

Âu-dương-Phong thấy tình cảm Dương-Qua đối với mình chẳng hề mảy may dời đổi liền ôm lấy nó nức nở nói:

- Con ơi! Ta khổ công biết bao mới tìm được con.

Rồi hai người ngồi ôm lấy nhau mà khóc.

Tiểu-long-Nữ từ tấm bé đến nay được đào luyện thành ra con người lạnh nhạt với hết mọi sự đời, thấy tính tình Dương-Qua, cho rằng trên đời này chỉ có nó là nhiệt tâm như lửa, nay lại thấy cả Âu-dương-Phong cũng thế nốt. Nàng rùng mình khi nghĩ đến truyện hạ sơn, lẳng lặng ngồi yên ở cạnh đó, sầu tư mặc tưởng.

Năm xưa, Âu-dương-Phong cùng với Dương-Qua chia tay tại Giang-Nam nơi đàn miếu Lăng-hồ-Chấn, để đi đến Đại Chung cho Kha-trấn-ác một bài học mà rồi chẳng nên trò trống gì. Ông tìm vận phép nội công thần diệu để sửa trị nội thương, 7 ngày 7 đêm thì vết thương bình phục. Nhưng toàn thân bị Kha-trấn-ác đánh nhừ tử nên khó mà lấy lại sức được y như cũ. Ông khai một hồi chuông rồi đến dưỡng bệnh tại một lữ điếm trong 20 ngày, được bình phục như cũ. Ông lại lên đường. Trước khi đi ông dặn Dương-Qua bất cứ sự thế có đổi theo thế nào cũng phải báo cho ông biết nơi cư trú của nó.

Một tháng sau, tấm thân nhỏ bé của nó giữa trời rộng đất dài, chẳng còn biết tung tích ở đâu để mà nhắn tin nữa. Sau Âu-dương-Phong, dò la thì được biết nó đã ở Đào-hoa-Đảo. Ông bẩm tính là người cương nghị, coi mọi việc khó khăn ở đời như không, bèn kiếm một con thuyền nhỏ, bơi ra Đào-hoa-Đảo, chọn lúc đêm tối mới dám ghé bến tại một nơi núi rừng ra đến biển. Ông cũng thừa hiểu, tại đảo Đào-Hoa Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung không có thù nghịch gì với ông, nhưng chỉ ngán một mình Hoàng-dược-Sư thôi (ông không hay tin Hoàng-dược-Sư đã rời Đào-Hoa-Đảo). Tuy đảm lược của ông càng lớn tuổi càng to, song một người địch sao nổi được cả ba tay cao thủ. Bởi vậy ban ngày ông ẩn nấp ở một chỗ hoang tịch trong đảo. Ban đêm ông mới lần mò đi khắp đó đây để tìm Dương-Qua.

Cứ như thế, đã hai năm trời, ban ngày ông không ra khỏi động một bước, thực là vạn phần thận trọng. Vì thế không ai biết rõ được tung tích ông. Một buổi tối kia, lén nghe thấy anh em Vũ tu Văn chuyện trò với nhau, ông biết được Quách-Tỉnh đã mang Dương-Qua đi gởi sang Toàn-chân môn phái học tập võ nghệ. Âu-Dương-Phong nghe tin mừng rỡ khôn xiết, lập tức chèo thuyền lớn rời đảo Đào Hoa, hướng về phía Trùng-Dương-Cung để dò la tin tức. Đến nơi, ông không hay biết gì về những chuyện náo loạn đã xảy ra giữa Dương-Qua và Toàn Chân phái. Việc đó đã làm cho môn phái này bị mang tiếng, nên trên giáo phái không ai hé môi nói lấy nửa lời. Lúc thì Dương-Qua tiến nhập Hoạt-tử-Nhân mộ đài. Âu-dương-Phong đã dùng thiên phương bách kế để dò la mà tuyệt vô âm tín.

Trong khoảng mấy năm trời, ông đã lê gót vòng quanh dãy núi Chung-nam-Sơn không biết mấy vòng, vượt qua hàng trăm dặm đường mà đành thở dài và bặt tăm chim cá. Nào có ngờ đâu lúc giờ chính là lúc Dương-Qua đang ở sâu dưới đất, nơi mộ đài để luyện tập võ nghệ. Buổi tối hôm ấy, may thay trời xui đất khiến Âu-dương-Phong đi ngang qua bên hông một hang núi, bỗng thấy xiêm y trắng của một thiếu nữ, ngồi bó gối dưới ánh trăng mà thở dài. Ông liền tiến lại, như điên như dại hỏi nàng rằng:

- Này! Con ta nó ở chốn nào? Cô có biết hay không?

Tiểu-long-Nữ đang lúc lòng rầu rĩ, thấy gã điên dại kia, chỉ liếc nhìn một cái rồi quay lưng đi như không thèm đếm xỉa đến cho thêm bận.

Âu-dương-Phong xông về phía trước nắm lấy vai nàng, quát rằng:

- Con ta đâu nào?

Tiểu-long-Nữ qua cái nắm vai, biết rằng lão này công lực mạnh mẽ phi thường, võ nghệ cao cường như chưa từng thấy, những tay cao thủ bên Toàn Chân phái còn thua xa. Nàng không khỏi không kinh sợ. Sau nàng lấy tay dùng miếng gỡ ra được. Âu-dương-Phong từ trước tới nay phàm đã xử dụng ngón nắm giữ này khó có đối thủ gỡ được, nay lại bị miếng gỡ thực là nhẹ nhàng êm ái của nàng nên chẳng cần biết nàng là ai vội nắm tay trái nàng. Thực chẳng có nguyên do gì to tát cho cam, hai người bỗng dưng chiến đấu với nhau.

Dương-Qua Âu-dương-Phong mấy năm chẳng gặp nhau nào ngờ đâu có ngày gặp gỡ này. Âu-dương-Phong thần trí nửa tỉnh nửa ngờ, như mở mắt còn ngờ chiêm bao. Những chuyện quá khứ dường như đã chìm đi trong lòng ông, không còn nhớ rõ nữa. Nghe lời Dương-Qua thuật lại truyện xa xưa, ông cũng chỉ mang máng là thế. Chỉ biết là mấy năm trời nay nó học võ nghệ Tiểu-long-Nữ. Ông đã cao niên, mà tâm tính chẳng khác nào đứa trẻ thơ. Ông nói:

- Cô ta võ nghệ sao bằng ta được, tại sao con lại theo học cô ta làm gì, thôi để rồi ta dạy cho con.

Tiểu-long-Nữ nghe rõ câu nói của ông, nàng vốn tính lãnh đạm đã quen nên, chỉ mỉm cười, đứng tránh ra một bên.

Dương-Qua cảm thấy dưỡng phụ mình chẳng có ý tứ chút nào, nói lái đi:

- Thưa cha! Sư phụ đối với con rất tốt.

Âu-dương-Phong bỗng nhiên đố kỵ, nói lớn:

- ừ! cô ta tốt, còn ta không tốt sao?

Dương-Qua cười mơn nói:

- Cha tốt lắm chớ! Trên đời nầy chỉ có cha và sư phụ là tốt thôi.

Âu-dương-Phong ăn nói nhiều khi lẩm cẩm, nhưng Dương-Qua thầm biết rằng, qua mấy năm đi tìm nó, ông đã trải qua thiên nan vạn khổ, thất vọng nên sinh lẩm cẩm vậy.

Ông nắm chặt lấy tay nó hu hu khóc như một người khùng. Khóc miết một hồi, ông nói:

- Võ nghệ con học được chẳng phải là tầm thường, rất tiếc là còn thiếu mất hai đại kỳ công trên thế gian này.

Dương-Qua ngẩn người ra hỏi lại:

- Thế là những cái gì đó, cha?

Âu-dương-Phong chau mày trợn mắt, nói lớn:

- Cái người dạy võ con mà không cho con biết hai đại kỳ công ấy thì dại gì bái họ là sư phụ, họ còn được đáng mặt gì?

Dương-Qua thấy ông chợt vui, chợt giận, trong lòng không hề phiền trách mà lại còn sinh ra lo buồn. Nó nghĩ thầm:

- Cha ta bệnh hoạn đã xâm nhập, chẳng còn biết đến bao giờ mới khỏi được.

Âu-dương-Phong lớn tiếng cười khà khà:

- Thôi, để cha dạy hai đại kỳ công ấy. Một là Hàm-mô-công, hai là Cửu-âm chân-kinh. Lúc con còn nhỏ, ta đã dạy con những ngón nhập môn, bây giờ con thử biểu diễn lại cha coi chơi xem sao.

Dương-Qua từ khi nhập mộ đài đến nay cũng đã lâu rồi, không hề luyện lại võ thuật kỳ quái kia. Nay nghe thấy Âu-dương-Phong nhắc tới, nó vui vẻ diễn lại. Hồi nó ở Đào-Hoa Đảo thì đã luyện thuần thục rồi. Ngày nay thêm vào với sức nội công mới luyện được thâm hậu hơn, chẳng khác nào hổ thêm vây cánh, giàn hoa có thêm viền gấm.

Âu-dương-Phong nhìn thấy thế, mừng rỡ lắm:

- Kỳ diệu! kỳ diệu đa! ta dốc hết những ngón điệu dụng của ta ra để truyền cho con, nghe!

Rồi ông lấy ngón tay vẻ xuống đất những hình đồ, nói thao thao bất tuyệt, như không bao giờ dứt, chẳng cần biết Dương-Qua có kịp nghe, kịp nhớ không?

Dương-Qua nghe ông nói được ít câu, lòng đã thấy kinh sợ, thấy mỗi câu mỗi tiếng nói của ông là bao hàm diệu nghĩa vô cùng. Nhưng làm sao mà nghe đến đâu nhớ hết ngay đến đó được. Tuy nhiên nhờ trí thông minh đặc biệt nó cũng ghi nhớ được ít nhiều.

Âu-dương-Phong nói được một hồi, bỗng nhiên vỗ tay nói:

- Chết chưa! A! Không được! Không thể nói để cho ả kia nghe trộm được.

Đoạn ông vòng qua gốc cây hoa, tiến đến gần phía Tiểu-long-Nữ, nói:

- Này, cô ả! Tôi đang truyền cho con tôi võ thuật cô đừng có nghe lén, nghe!

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Võ thuật của ông đã có gì là kỳ diệu, ai nghe lén làm chi cho tốn công.

Âu-dương-Phong nghiêng đầu tiếp:

- Thế thì cô nên tránh xa nữa, có hơn không.

Tiểu-long-Nữ tựa người vào gốc một cây cười nhạt nói:

- Ta nghe làm chi những cái lầm lỡ sơ sót của ông, ta muốn đi muốn ở, tùy ý ta...!

Âu-dương-Phong đùng đùng nổi giận, râu tóc lông mày dựng ngược cả lên trông gớm chiếc, đưa tay ra toan đánh thẳng về phía má Tiểu-long-Nữ. Nàng cứ như không trông thấy, để ý mà vẫn cứ như không để ý tới. Còn cách mặt Tiểu-long-Nữ chừng một gang tay, ông lại rút tay lại khi thoáng nghĩ tới nàng là sư phụ của con mình, đánh nàng bị thương ở mày ở mặt thì còn ra sao. Vả lại dường như từ nãy đến giờ nàng có điều gì không vừa ý thì phải. Ông nói:

- Thôi cũng được! Cha con ta đi xa, thử xem cô có nghe lén không đã.

Tiểu-long-Nữ nghĩ bụng:

- Người nầy võ nghệ tuy cao, nhưng thực là cực kỳ vô lại. Khi nghe thấy ông nói nàng quay mặt đi không đáp lời.

Bỗng nhiên nàng thấy hơi nhoi nhói ở phía sau lưng. Chính Âu-dương-Phong trong lúc chộp vai nàng đã lấy ngón tay điểm huyệt bối tâm phía sau lưng rất lanh lẹn, khiến nàng không ngờ được để liệu bề vận khí đề phòng. Đến khi mình biết rằng đã bị đòn điểm huyệt thì phía trên người chuyển động đã thấy ngượng. Âu-dương-Phong nhận thấy thế lại đến bồi thêm cho một ngón điểm vào giữa lưng nàng. Rồi cười khà khà ông nói:

Đừng buồn nghe! cô ả! ráng đợi ta truyền cho con ta ít ngón võ thuật, rồi ta sẽ lại ngay để giải huyệt cho.

Rồi ông lại cười khà khà mà đi.

Dương-Qua lẩm nhẩm cho nhớ những điều mà cha nuôi nó đã dạy về Ham mô công và Cửu âm chân kinh. Nó thấy không giống với Trùng Dương di thiên khắc trên nóc gian nhà đá trong cổ mộ đài, có nhiều chỗ lại còn khác hẳn, có khi phản lại nữa. Nó mãi nghĩ tới nghĩ lui, nên không hay, biết gì việc sư phụ nó bị điểm huyệt.

Âu-dương-Phong trở lại đến gần bên nó, dắt tay nó đi và bảo:

- Cha con ta đi tới đằng kia, đừng để cho sư phụ con nghe thấy.

Dương-Qua thừa biết tính Tiểu-long-Nữ vốn ưa cô tịch, chẳng bao giờ thèm nghe trộm làm chi. Giả thử có nói ngay trước mặt nàng, có khi nàng cũng chẳng thèm nghe tới.

Thấy cha nuôi nó tính tình thất thường, thôi thì nó cũng chiều cho xong chuyện, khỏi phải tranh biện làm chi cho mất công. Nghĩ vậy Dương-Qua theo cha đi đến chỗ khác.

Tiểu-long-Nữ nằm mềm rủ ra ở trên đất, vừa buồn, vừa vui nghĩ đến võ nghệ của mình luyện tập kể cũng đã tình thâm nhưng chỉ vì ít có kinh nghiệm chiến đấu với địch nhân, nên đã bị Lý-mạc-Thu điểm huyệt trộm, rồi còn bị lão râu xồm quái đản kia đánh lén. Nàng bèn vận dụng Cửu-âm thần công, tự giải lấy huyệt đạo. Nàng lấy hơi dồn xuống huyệt đạo để công phá mấy lần liên tiếp, nhưng không thấy huyệt đạo chuyển động chút nào, lại còn thấy mỗi lần dồn hơi xuống lại còn đau hơn lên. Lòng nàng không khỏi lo ngại.

ấy là bởi thủ pháp của Âu-dương-Phong nghịch hành với Cửu âm chân kinh, nàng lại dùng thường pháp để thông huyệt đạo, nên càng thông càng tắc thêm. Thử mấy lần, nàng thấy chỗ huyệt bị điểm đau hơn lên, không còn dám thử nữa.

Nàng nghĩ bụng: Thôi đành đợi lão kia truyền võ nghệ cho con xong xuôi, đương nhiên sẽ đến giải. Vứt bỏ mọi sự ngoài, lòng không còn bận đến việc gì nữa, nàng ngẩng đầu ngắm trăng sao trên trời, đem hòa hồn vào đấy, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Một lúc lâu, mắt nàng có một vật gì che không còn trông thấy gì nữa. Đối với nàng thì giữa đêm tối cũng trông thấy các vật chẳng khác gì ban ngày. Thì ra có người lấy vải buộc che kín mất mắt. Tiểu-long-Nữ, trong lúc đang lo ngại thì bỗng có người đến xốc rồi vác nàng trên hai vai. Lúc đầu người ấy phải xốc mạnh, nàng nằm trên vai họ một lát, người kia lại phải xốc nữa. Tiểu-long-Nữ chưa hết lo ngại, toan há mồm để la lên, nhưng lại thấy mồm mình gần mồm người kia, và trán nàng gần sát với mặt họ. Thoạt đầu nàng cứ tưởng đó chính là Âu-dương-Phong toan giở trò cường bạo, nhưng sau cảm thấy má người này có vẻ trơn tru, còn Âu-dương-Phong đầu mặt râu ria lông lá tất phải rậm rạp. Cảm thấy như thế, không những nàng khoan khoái, hết kinh sợ mà còn thấy tình dục từ đâu tràn tới, nàng nghĩ thầm phải chăng đấy là Dương-Qua muốn giỡn với nàng chăng? Nàng nghĩ bụng: Thực là oan trái! Nhưng vì thân thể bị điểm huyệt không còn cử động được, lòng nàng vừa sợ vừa xấu hổ.

Về phía Âu-dương-Phong vui mừng vô hạn khi thấy Dương-Qua thông minh kỳ lạ, những khẩu quyết truyền thụ cho nó, chỉ giảng qua loa, là nó đã lãnh hội được ngay. Bởi thế, càng nói ông càng thấy hào hứng, nói một hơi cho đến sáng rõ, nói cho đến hết hai đại kỳ công.

Dương-Qua đã thầm nhớ hết cả, bèn phát biểu ý kiến:

- Thưa cha! con đã học qua Cửa âm chân kinh rồi, đem so với lời cha dạy thấy khác nhau xa.

Âu-dương-Phong đáp:

- Nói láo! ngoài điều ta dạy, còn cái trò gì gọi là cửu âm chân kinh nữa.

Dương-Qua nói:

- Tỷ như thuật luyện gân luyện cốt, bảo rằng tam bộ là khí huyết nghịch hành, sung thiên tru huyệt. Sư phụ thì lại dạy rằng: ý thủ đơn điền, thông chương môn huyệt.

Âu-dương-Phong lắc đầu lia lịa:

- Không phải, không phải! Trông ta làm thư coi đây.

Nói xong Âu-dương-Phong vận dụng mấy đường về "Cửu âm chân kinh" làm cho Dương-Qua nhìn mà mắt hoa lên.

Dương-Qua lẩm bẩm: "Không biết thầy ta dạy phải, hay cha nuôi ta dạy đúng. Phép luyện "Cửu âm chân kinh" của Quách-Tỉnh ta cũng đã được coi mà không giống thế này.

Đương mãi mê ngắm nhìn dưỡng phụ vận dụng võ thuật, Dương-Qua thấy Âu-dương-Phong xửng lại, hai mắt đờ ra, trông thực gớm ghiếc.

- Cha ơi cha! cha ơi!

Dương-Qua gọi lên mấy tiếng mà không thấy Âu-dương-Phong nói năng hay nhúc nhích. Dương-Qua kêu lên:

- Bệnh phong ma của cha nuôi tôi lại tái phát rồi đây!

Đang kinh dị như vậy, Dương-Qua thoáng thấy có một bóng đen lướt qua dưới hàng cây trước mặt. Tinh mắt nhìn theo rõ là người đó mặc áo Hạnh hoàng chính là một đạo sĩ.

Dương-Qua nghĩ thầm: "ở nơi âm u rừng núi này làm gì có người đến, xem dáng điệu vội vàng lén lút của bóng đen chắc là quân bất lương định giở ngón gì bất hảo đây".

Nghi ngờ như vậy, Dương-Qua đuổi theo

Thuật phi hành của bóng đen cũng không được tuyệt diệu cho lắm, nên không mấy chốc Dương-Qua đuổi kịp nhìn đằng sau cũng nhận ra đó là một đạo sĩ vội hét:

- Ai kia, ai chạy kia đến đây làm gì mà lén lút như vậy. Đứng lại đấy đã.

Mặc cho Dương-Qua gọi giật giọng, đạo sĩ vẫn dùng khinh công chạy như tên bay.

Dương-Qua cũng dùng khinh công lao mình lẹ như chớp vượt lên chặn đầu.

Khi ngoảnh lại nhìn thì ra chẳng phải ai xa lạ. Đó là đạo sĩ Doãn-chí-Bình một tay đệ tử của Toàn-Chân giáo phái.

Doãn-chí-Bình bị chặn lối, lúng túng hốt hoảng, vừa thẹn thùng vừa sợ sệt nên nói không ra hơi.

Dương-Qua ôn tồn hỏi:

- Đạo sĩ có việc chi mà hoảng hốt như vậy! Trước đây tôi được đạo sĩ tha không đuổi ở Trùng-dương cung. Nay không có việc gì thì cứ thong thả mà về can chi lại trốn tránh như thế.

Dương-Qua không đuổi theo nữa, bỏ trở về chốn cũ.

Vừa về đến nơi thì một hiện tượng kỳ lạ đã xảy ra; dưới giàn hoa trong rừng rậm thấy hai chân Tiểu-long-Nữ thò ra, một chân co một chân duỗi, mà người thì hình như ngủ say mê mệt.

Dương-Qua chạy lại kêu:

- Cô nương, cô nương!

Không thấy Tiểu-long-Nữ trả lời.

Dương-Qua thầm nghĩ:

- Tên đạo sĩ nầy chẳng biết vì đâu lại có ý thầm lén sợ sệt. Hay nó đã hại ngầm cô nương ta chăng?

Gọi mãi mấy bận mà không một lời đáp lại .

Dương Qua lo quá , vội vẹt hoa banh lá ra tìm thử thấy Tiểu long Nữ nằm lồ lộ trên một tấm vải màu xanh . Mặt nàng cũng có một băng xanh bịp kín đôi mắt , toàn thân cứng đờ không cử động .

Dương Qua lật đật đến mở băng vải ra nhìn thấy Tiểu long Nữ mắt trông lờ đờ như không còn tinh thần , môi má lợt lạt , hình như mới trải qua một cơn giận dữ , như vừa phẫn nộ , vừa thẹn thùng xấu hổ quá mức .

Nhìn qua đôi mắt lim dim của nàng , Dương Qua khẽ hỏi :

- Ai đã bịt mắt cô nương như thế này ?

Tiểu long Nữ lặng thinh , mắt đăm đăm nhìn chàng , như oán hờn như giận dữ . Toàn thân nàng mềm lả như cành liễu rủ , không thể cử động được , có lẽ bị kẻ nào điểm huyệt rồi .

Dương Qua lanh trí đoán ra nguyên nhân nên vội vàng đem phương pháp giải huyệt của Âu Dương Phong đã dạy để giải huyệt đạo cho nàng . Tiểu long Nữ lần dần phục hồi sức lực , cử động được tay chân , từ từ ngượng dậy nhưng mệt quá dựa vào lưng Dương Qua . áp lưng vào ngực Dương Qua , nàng cảm thấy một luồng sinh khí ấm áp như sưởi toàn thân với nhiều cảm giác đê mê kỳ lạ .

Nàng thấy rùng mình khi được Dương Qua choàng tay ôm chặt lại dịu dàng hỏi :

- Có phải dưỡng phụ tôi đã điểm huyệt cô nương , bịt mắt lại để thi hành thủ đoạn đê hèn phải không ?

Tiểu long Nữ thấy cơn tức chận họng , toàn thân run rẩy , rùng mình mấy cái rồi đáp :

- Mi đã làm xằng còn kiếm cớ đổ cho người khác , thật không biết xấu hổ .

Thấy nàng có thái độ hoàn toàn khác biệt so với thường ngày , Dương Qua hết sức ngạc nhiên , vừa lo âu vừa đau đớn , chẳng biết đáp sao chỉ ấp úng :

- ủa , tôi ... tôi đã làm gì mà ... mà cô nương lại mắng ... như thế

Tiểu long Nữ càng tức giận hơn , quát lớn :

- Thôi , bây giờ mi cũng gọi ta bằng cô nương nữa sao ?

Dương Qua càng lạnh lùng thêm , vội nói :

- Nếu không gọi là cô nương thì xưng hô cách nào cho vừa ý ? Thôi gọi sư phụ được không ?

Tiểu long Nữ cười lạt rồi bĩu môi nói :

- Đã lỡ làm bậy thì có gan nhận , việc gì còn phải giả vờ gọi cô nương với sư phụ nữa , không ngượng sao ?

Dương Qua càng kinh dị quá sức , há hốc mồm phân trần thêm :

- Cô nương dạy điều chi , tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì hết .

Tiểu long Nữ giận quá tái mặt . Trong lúc quá bực tức , nàng đưa tay vén cả xiêm y , phơi bày trước mắt ngẩn ngơ của Dương Qua , như đoá hải đường vừa bị bướm ong vùi dập còn ướt dẫm sương mai , ẩn hiện giữa làn da nõn nà trắng như ngà , trong như ngọc .

Nàng lật cườn tay thấy chấm hồng điểm " thủ cung sa " đã bay mất , để chứng minh vừa trải qua một cơn dập liễu vùi hoa mà ai là thủ phạm ?

Nàng buồn buồn nhìn Dương Qua bào :

- Mi thấy chưa ? Còn chối cãi gì nữa không ? Đã lỡ lầm thì cứ nhận lỗi , che đậy quanh co nữa làm chi ?

Dương Qua bàng hoàng ngơ ngác trố mắt nhìn nàng ấp úng nói :

- Tôi hoàn toàn chẳng hiểu cô nương muốn dạy gì ?

Tiểu long Nữ giận quá , trợn mắt nhìn chàng , nghiêm giọng bảo :

- Từ nay mi đừng gọi ta là cô nương nữa . Nghe chưa !

Nàng đưa mắt nhìn theo sự thay đổi trên nét mặt ngơ ngẩn của Dương Qua , vừa e ngại , vừa sượng sùng nên chưa dám mạnh dạn lộ liễu thật lòng mình với những điều thầm kín còn ấp ủ , chỉ nói nho nhỏ với giọng run run :

- Theo tục lệ muôn đời của phái Cổ Mộ , chỉ xử nữ truyền lại cho xử nữ mà thôi . Nhưng vừa rồi , chính nơi đây chỉ còn có hai ta , nếu trừ mi ra thì không còn có kẻ nào khác đã mân mê từ vai xuống bụng và ... và ... đã xâm phạm đến cái thầm kín của đời ta ...

Dương Qua ngơ ngác hỏi :

- Nãy giờ , tôi đây có làm gì đụng chạm đến cô nương mà nói như vậy nhỉ ?

Tiểu-long-Nữ đỏ mặt nói:

- Sao cứ gọi cô nương mãi thế! Gọi cách khác xem nào!

Rồi nàng nói tiếp:

- Trước đây đã nguyện suốt đời ở trong Cổ-mộ, nhưng bây giờ ta đã đổi ý. Bất kỳ Dương-Qua đi đâu ta sẽ cùng theo như hình với bóng.

Dương-Qua hớn hở nói:

- ồ, nếu được như lời cô nương nói, thật quý hóa vô cùng.

Tiểu-long-Nữ tủi quá nói rằng:

- Dương-Qua, mi chẳng có chút chân tình nào cùng ta cả. Sao cứ gọi cô nương mãi như vậy được.

Dương-Qua ngẩn người làm thinh không biết nói gì cho ra lẽ.

Thấy chàng không trả lời, nàng đau đớn quá, ngập ngừng hỏi qua giọng nói run run vì cảm động:

- Dương-Qua mi thấy ta là người như thế nào?

Dương-Qua thật tình đáp ngay:

- Cô là sư phụ, đã thương yêu truyền dạy võ nghệ cho tôi, nên tôi nguyện suốt đời tôn thờ, kính mến, yếu quý cô hơn tất cả mọi người trên trần thế.

Tiểu-long-Nữ chịu không được nên hỏi thẳng:

- Thế chàng có thể xem ta như một người vợ được không?

Câu hỏi quá đột ngột mà xưa nay Dương-Qua chưa bao giờ dám nghĩ đến, đã khiến cho chàng cuống quít, phân vân chẳng biết nói sao, cứ ấp a ấp úng mãi rồi nói nhỏ:

- Tôi đâu dám. Cô là sư phụ đáng yêu, đáng quý của tôi. Lúc nào tôi vẫn xem cô là bậc trên trước.

Tiểu-long-Nữ bàng hoàng cả người, uất quá, toàn thân run lên bần bật, hé miệng, trợn mắt rồi hộc luôn mấy bún máu tươi.

Dương-Qua sợ quá, chân tay cuống cuồng chẳng biết làm sao hơn chỉ gọi lớn:

- Trời ơi, Cô nương! Sao vậy cô nương ơi!

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua vẫn xưng hô như vậy, lòng tràn trề oán khí, trợn trừng đôi mắt nhìn rồi đưa tay đập vào thiêu linh cái hắn rất mạnh.

Thấy Dương-Qua cứ ngó mình trân trối, nàng thấy nỗi buồn tiêu tan và nhường chỗ cho cả một niềm tủi hận tiếc thương rồi thở dài than thở:

- Thế là hết! Từ nay đừng nghĩ đến sự gặp nhau nữa nhé! Vĩnh biệt.

Dứt lời, nàng khoát áo vào mình phi thân xuống núi.

Dương-Qua vội gọi thật lớn:

- Cô nương bỏ tôi sao? Đi đâu xin cho tôi được theo cùng, cô nương ơi!

Tiểu-long-Nữ nhìn lại trầm giọng quát:

- Nếu mi còn tìm ta nữa sẽ mất mạng ngay.

Dương-Qua thấy nàng tỏ lời quá quyết liệt, lo sợ quá, nhưng chẳng dám nói lại lời nào. Nhìn tà áo phất phơ loang loáng như cánh bướm lìa rừng, nhỏ dần và khuất dạng sau mấy rặng cây xanh, Dương-Qua đau đớn quá, ngồi xệp xuống đất bụm mặt khóc ròng.

Khóc đã rồi, Dương-Qua ngồi suy nghiệm, tư vấn lương tâm thấy chưa làm một điều gì thất lễ hay không hài lòng sư phụ. Không hiểu vì sao bỗng dưng nàng lại có sự thay đổi tánh tình một cách đột ngột và vô lý. Từ chỗ thương yêu quyến luyến, lời lẽ êm dịu lại trở thành oán hờn như uất ức hằn học mình. Chàng nghĩ bụng:

- Vì sao nàng nhận là vợ mình? Vì sao lại không bằng lòng gọi cô nương? Thật quả khó hiểu, ly kỳ. Chắc cũng có một duyên cớ nào nhưng nàng chưa nói thật. Chỉ trong nửa ngày mà hình như xảy ra một cơn bão tố trong tâm hồn nàng và cả một sự xáo trộn phũ phàng cho sự sống chung của hai đứa. Biết đâu do dưỡng phụ mình gây nên việc này.

Dương-Qua quả quyết đi tới Âu-dương-Phong để hỏi cho ra sự việc. Chạy đến chỗ cũ thấy ông đang đứng trầm ngâm bất động, mắt trừng nhìn mãi chỗ hư vô không hề chớp. Chẳng cần quan điểm đến thái độ lạ kỳ ấy, nó hỏi lớn:

- Cha đã có làm gì động đến sư phụ con chăng?

Âu-dương-Phong nói:

- Cửu âm chân kinh, cửu âm chân kinh!

Thấy ông không đáp lại lời mình, hỏi nữa:

- Tại sao cha đi điểm huyệt sư phụ con, để người phát điên, rối loạn tinh thần lên như vậy hở cha?

Âu-dương-Phong vẫn nói bâng quơ:

- Nói tóm lại hễ "nghịch xung thiên trụ" thì tất nhiên phải thuận thông huyệt "khiên tĩnh" hay sao?

Thấy ông cứ vơ vơ vẩn vẩn như người mất trí, chẳng ăn nhập vào đâu hết, Dương-Qua càng hỏi gắt:

- Cha có nghe con hỏi không? Con muốn rõ cha đã làm gì đến sư phụ con, cha trả lời đi, tại sao cứ nói những chuyện gì đâu nghe lạ lùng như vậy?

Ông quắc mắt hỏi lại:

- ủa, sư phụ con là đứa nào? Ta là ai? Âu-dương-Phong là ai nhỉ?

Thấy ông đã trở lại cái tánh khùng khùng mất trí, nhưng chàng cũng không nản chí, tuy lo sợ nhưng kiên tâm hỏi thêm:

- Trời ơi, cha tôi lại mất trí loạn thần rồi! Thôi cha hãy tìm chỗ nghỉ ngơi hay vào miếu ca hát cho đỡ buồn đi cha!

Âu-dương-Phong ngơ ngác không đáp. Thình lình xoay mình cậm đầu xuống đất, chân ngược lên trời, chống hai tay đi vùn vụt về phía chân núi tận đằng xa, miệng thét:

- A ha, Âu-dương-Phong, mi trốn đâu rồi! Ta là ai đây?

Thế rồi toàn thân ông rung chuyển, thân hình cứ đảo ngược, di chuyển mãi không ngừng.

Dương-Qua vội chạy theo đón lại, nhưng bị ông cho một đá vào bụng đội ngược ra sau, loạng choạng đứng không vững phải té nằm dài. Nhưng chàng vội tung mình đứng dậy đuổi theo. Mới cách nhau có vài chục bước mà ông lao người đi mau quá không bao lâu đã mất dạng. Dương-Qua đứng lại, đưa mắt nhìn quanh. Tư bề núi rừng vắng lặng, thầm kín thâm u mà trong lòng chàng trống trải cô đơn cũng đang nổi cơn sóng gió.

Chợt nhớ lại, chàng gọi rối rít:

- Cô nương ơi, cha ơi! Trời ơi!

Nó nói vọng ra xa, dội thêm trong rừng thắm, chẳng có ai đáp lại. Chàng cứ gọi mãi, gọi một cách thiết tha, tuyệt vọng, như tiếng từ-qui gọi bạn.

Rừng vẫn thâm u, gió không ngừng thổi. Đâu đây vừa nổi lên mấy tiếng chim reo ríu rít.

Bao năm qua, chung sống cùng Tiểu-long-Nữ, chưa bao giờ xa nhau nửa phút, tình thân mật yêu thương nhau thật chí thiết. Ngày nay bất ngờ nàng dứt áo ra đi khiến Dương-Qua thấy cõi lòng như tan nát, gan ruột tơi bời.

Giữa cảnh rừng núi thâm u, hai người hủ hỉ sống cùng nhau, hôm nay đột nhiên chỉ còn một thân một bóng, rồi sống làm sao đây?

Có một nỗi buồn thấm thía, một niềm chua cay xâm chiếm tâm hồn, càng nghĩ càng xót xa.

Bình sinh vốn người nhiều tình cảm nay phải chịu đựng cảnh này: Dương-Qua đau đớn quá muốn đập đầu lên đá chết đi cho mát thân rảnh trí, nhưng một chập sau, chàng hy vọng muốn tiếp tục sống, sống cho đến khi gặp lại nàng.

Chàng suy nghĩ:

- Cô nương đột nhiên giận ta vứt áo ra đi không ngó lại. Nhưng biết đâu một ngày nào nàng sẽ quay về tìm mình. Tình thầy trò khăn khít bao năm rồi, há dễ vì một phút giận hờn không căn cứ mà nỡ lòng cắt đứt mãi sao?

Trong chuyện này chính dưỡng phụ mình đã làm điều bất nhã chứ mình đã có gì thất lễ đâu. Thế nào với thời gian, sự thật không thể nào nàng lánh xa mình vĩnh viễn được.

Một chiều ảm đạm, Dương-Qua chợt thức giấc tỉnh dậy. Tư bề vắng lặng quạnh hiu, ngoài tiếng gió rừng rào rạt, trùng dế tỉ tê như điệu nhạc buồn, chàng có cảm giác như Tiểu-long-Nữ đã về và lẩn quẩn đâu đây nên vùng gọi lớn.

- Cô ơi, cô nương ơi!

Tuy mình chạy ngang tìm dọc, nhưng bóng nàng đâu có thấy!

Có những đêm thao thức hoài không ngủ được, chàng chạy thẳng trên núi cao, phóng tầm mắt tìm bốn phương cố tìm hình ảnh của nàng đã mất. Nhưng trời cao đất rộng, rừng núi bao la, mây ngàn, sương lạnh che phủ khắp nơi, bóng hồng đâu thấy, ngẩn ngơ một chặp chỉ còn lại một bóng mình với cõi lòng giá lạnh.

Bao nhiêu ý nghĩ lại quay cuồng, niềm nhớ nhung tràn ngập không thể nào kềm hãm nổi. Chàng tự nghĩ:

- Nếu nàng chẳng về thì ta đi tìm nàng vậy. Dầu nơi góc bể chân trời ta cũng phải tìm cho được. Vì dầu gặp nhau, nàng chưa hết giận có ra tay đánh, giết cũng cam lòng. Sống mãi nơi đây rồi cũng chết mòn vì thương nhớ.

Đã nhất định, Dương-Qua thu xếp một ít quần áo và đồ dùng của Tiểu-long-Nữ còn lưu lại bỏ vào một túi nhỏ mang vào vai, bon bon chạy xuống núi.

Trên đường đi, bất kỳ gặp ai chàng cũng hỏi thăm có thấy một nữ lang mặt mày xinh đẹp, mặc quần áo trắng có qua lối này không? Nhưng ai ai cũng ngơ ngẩn, lắc đầu bảo không gặp. Hỏi hoài nhưng không người nào biết, chàng thấy sốt ruột và buồn không thể nào tả. Sau cùng hết còn giữ lễ độ và để cau có nóng tính.

Có kẻ thấy chàng là một thanh niên tuấn tú, đi tìm hỏi một nữ lang xinh đẹp như trên thì có bụng nghi ngờ đoán chắc giữa hai người cũng có điều gì liên hệ ám muội chi đây nên chất vấn lại.

Chàng nổi nóng đáp:

- Ta hỏi thì nói, thấy thì chỉ, không thấy thì thôi, tại sao tò mò hỏi lôi thôi, như vậy.

Người kia bị gắt đang muốn cãi lại. Vừa lúc ấy một ông lão vừa tới vội đưa tay nắm áo người nọ kéo đi không che cãi lẫy. Ông bảo Dương-Qua vừa đưa tay trỏ về hướng đông:

- Lão có thấy từ chiều qua, một nữ lang vô cùng xinh đẹp, hình dáng mảnh mai, so với chú em vô cùng xứng cặp. Nàng đi mau về hướng ấy.

Dương-Qua mừng lắm, chắp tay cúi đầu bái tạ lão trượng rồi thoăn thoắt đuổi theo về hướng đó.

Chàng vừa bước đi thì hai người bỗng nói xầm xì rồi phá lên cười sằng sặc. Thì ra họ thấy chàng vô lễ đã chỉ bậy chàng cho bõ ghét.

Nhưng chàng vô tình đâu có biết. Chân cứ bước đón, lòng hân hoan tràn trề hy vọng, cắm đầu cắm cổ đi hoài. Một chập sau đến một ngã ba, chàng phân vân chẳng biết nên chọn con đường nào cho đúng, dừng chân lại suy nghĩ:

- Cô nương ta tánh ưa cảnh thâm u tịch mịch, chắc tìm một nơi hoang vắng ít người. Vậy nên chọn con đường nhỏ có lẽ đúng.

Chàng trở qua con đường ghồ ghề, đi mãi. Nhưng qua một khúc quanh co con đường bỗng rộng ra dần rồi đến một đại lộ nữa, chàng chẳng do dự cứ lặng lẽ đi hoài.

Đi suốt một ngày rưỡi không có một hột cơm vào bụng chàng thấy đói quá.

Trời đã xế qua ruột cồn cào chịu không xuể, chàng đưa mắt nhìn đằng trước thấy có một thị trấn đông đảo, nhà cửa san sát nói lô nhô như bát úp, vội rảo bước đi tới, vào một quán cơm gọi một bữa cơm xoàng.

Người tiểu nhi dọn lên một bữa ăn thông thường. Cầm đũa vừa ăn vài miếng, Dương-Qua ngậm ngùi không nuốt nổi, nghẹn ngào suy nghĩ:

- Ta phải đi theo thật gấp mới mong gặp được cô nương. Dầu tối hay sáng cũng phải đi gấp, ăn uống rềnh rang như thế này làm sao theo kịp được. Nếu lỡ dịp này, biết đời nào gặp nàng nữa.

Nghĩ đến đây chàng bỏ đũa.

Tiểu nhi thấy vậy chạy lại dồn dã hỏi:

- Chắc cơm rang thanh đạm cậu ăn không ngon, nếu cậu cần để em dọn nhiều món khác cho vừa bụng nhé. Tiệm này món nào cũng có.

Dương-Qua khoát thay lắc đầu đáp:

- Ta đâu có thiết đến món ăn ngon dở. Ta cần hỏi nhà ngươi có thấy một nữ lang áo trắng thật đẹp đã đi ngang qua đây không?

Tiểu nhi suy nghĩ một lát hỏi lại:

- à, à, có một nữ lang đẹp, áo quần trắng! Có lẽ nàng để tang phải không?

Dương-Qua thấy hắn hỏi vẩn vơ hơi khó chịu, nhưng cũng kiên nhẫn hỏi thêm:

- Nếu có, nàng đi về hướng nào? Ngươi có thấy không?

Tiểu nhi đáp:

- Có ạ, tôi có thấy người con gái đẹp, nhưng chẳng nhớ mặc áo gì.

Dương-Qua mừng quá hỏi gấp:

- Nàng đi hướng nào, nói mau!

Tiểu nhi ấp úng nói:

- Dạ có, nàng đi đã nửa ngày rồi. Nhưng... nhưng, nàng chẳng đẹp đâu.

Rồi hắn hạ giọng nói nhỏ:

- Tôi... à quên. Cậu cứ đi theo ngay, may ra gặp.

Dương-Qua bực mình nhưng thấy hắn nói vậy cũng có chút hy vọng:

- Đi theo rồi, biết nàng nơi đâu mà tìm cho ra?

Thấy giọng chàng run run vì cảm động, tiểu nhị lại hỏi:

- à quên, cậu biết nàng ấy có thạo võ nghệ không?

Dương-Qua đáp:

- Cô ấy biết võ chứ.

Tiểu Nhị nói:

- Thế thì cậu đừng tìm cô ấy nữa, nguy hiểm lắm cậu ạ.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- ủa, tại sao lại nguy hiểm?

Tiểu Nhị lại hỏi nữa:

- Vậy giữa hai người liên hệ quen biết cùng nhau như thế nào?

Dương-Qua thấy hắn cứ hỏi lằng nhằng mãi đã bực mình, nhưng cũng cố kiên tâm đáp:

- Cô ấy là chị tôi. Tôi cần tìm gặp cô ấy gấp.

Thấy chàng đáp như vậy hắn bỗng đổi sắc mặt, lắc đầu, đáp:

- Không, không phải đâu. Tôi biết rồi mà.

Dương-Qua nổi nóng không dằn được nữa, đứng phắt dậy, thộp ngực hắn đưa lên hỏng đất quát lớn:

- Vì sao mày vớ vẩn quanh co mãi như vậy? Có nói thật không.

Tên Tiểu-Nhị sợ quá vội đáp rối rít:

- Dạ có, xin cậu đừng nóng.

Dương-Qua nắm áo hắn hỏi:

- Có như thế nào, phải nói rõ.

Tiểu-Nhị van nài:

- Xin cậu buông tôi ra. Tôi sợ quá nghẹn lời nói chẳng được.

Dương-Qua thấy nếu cứ dùng võ lực hắn hoảng hốt nói năng bậy bạ chẳng ích gì nên buông tay ra.

Tiểu Nhị đưa tay vuốt ngực, tằng hắng một tiếng, xoa tay nói:

- Sở dĩ tôi nói như vậy vì nàng có vẻ ít tuổi hơn mà gọi bằng chị không phải. Nhưng có một sự đáng để ý là nàng cũng nóng nảy như cậu. Mới bất hài một chút đã giở võ ra liền.

Dương-Qua mừng rỡ hỏi:

- Nàng giở võ với mi như thế nào?

Tiểu-nhị le lưỡi đáp:

- Nàng không giở võ với tôi nhưng với nhiều người khác. Xem bộ mảnh mai như vậy mà mới trổ nghề đã làm người ta bị thương liền. Cậu cứ nhìn đây thì rõ.

Rồi hắn đưa tay chỉ góc bàn bên cạnh thấy có vết dao kiếm chém phải.

Dương-Qua hỏi thêm:

- Rồi sao nữa.

Tên Tiểu-nhị có vẻ tự đắc nói:

- Thật đáng sợ! Cô ấy mà dữ như beo. Đã vậy mà còn xẻo luôn tai của người đạo nhân nữa chứ.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- ủa, đạo nhân nào người ra sao?

Tiểu-nhị ấp úng:

- Lão ấy...

Tiểu-nhị bỗng tái mặt, ngó quanh quất rồi quay mình chạy mất.

Dương-Qua bực mình ngồi suy nghĩ rồi cầm đũa ấn lại. Chàng ăn gấp, và đưa mắt nhìn phía bàn bên vừa thấy hai đạo sĩ trẻ trạc độ 26, 27 tuổi cùng nhau bước vào tiệm.

Dương-Qua nhìn họ ngồi bên cạnh, quần áo sạch sẽ, một người dáng điệu thanh tao, có đôi mày xếch, bén như lưỡi kiếm. Cả hai đòi rượu và rau.

Tiểu-nhị đon đả đến hầu tiếp. Tiểu-nhị nhìn Dương-Qua rồi ra dấu ngụ ý bảo không nên ngó vì hai người này không phải thuộc hạng tốt đâu.

Nhưng chàng vẫn lờ đi, chẳng thèm quan tâm đến, rồi cúi xuống ăn lại và lắng tai nghe chúng nói chuyện, may ra được tin tức của cô nương mình chăng.

Suốt mấy ngày đường chưa được tắm rửa, áo quần Dương-Qua đóng đầy cát bụi, mặt mày lem luốc bẩn thỉu cho nên bọn kia chẳng thèm để ý. Họ bô bô nói chuyện dường như nơi đây chẳng có người nào lạ nữa.

Chàng cố ăn thật chậm lâu hết để có dịp nghe ngóng thêm. Ăn cơm xong chàng lấy bát múc nước uống, cứ ngồi nhấm từng ngụm nhỏ, trệu đi trệu lại như ăn cơm.

Người đạo sĩ mày xếch lên tiếng trước:

- Này Bì đệ, em bảo Hàn Trại chủ và Trần lão đã nhất định đến trong buổi chiều này phải chăng?

Người kia hả miệng lập bập mãi một chập lâu mới nói được thành tiếng:

- Họ là đôi bạn tri-kỷ, đối với Triệu sư-thúc của mình thêm tình khắn khít, thề sống chết có nhau, cho nên đã hẹn tất nhiên phải giữ đúng chứ.

Nghe ba chữ "Triệu sư-thúc" Dương-Qua thấy chột dạ, không phải vụ này có đúng là Triệu-chí-Kính, sư phụ của mình xưa kia không. Nếu hai tên này là đệ tử ở Trùng-Dương cung tất nhiên sẽ nhận diện mình được ngay. Nhưng nhìn kỹ thì hai người này hoàn toàn xa lạ, chưa gặp bao giờ.

Đạo sĩ mắt xếch nói:

- Họ đuổi kịp bọn mình không.

Gã kia đáp:

- Cơ sư-huynh hay lo sợ viễn vông vô ích quá. Nàng là đàn bà, tài nữ đã bao nhiêu hơi mà sợ lắm vậy?

Đạo sĩ họ Cơ vội nói:

- Thôi, uống rượu đã, đừng bàn đến chuyện này nữa.

Uống xong họ gọi Tiểu-nhị bảo dọn một căn phòng trên lầu để nghĩ nữa.

Nghe qua câu chuyện của hai đạo sĩ, Dương-Qua đoán bọn họ đã từng nhúng tay vào cuộc đánh nhau với Tiểu-long-Nữ. Biết đâu nàng đã gặp Triệu-chí-Kính. Hắn nhờ hai người họ Trần và họ Hàn nào đó giúp sức chiến đấu đây chăng. Thế nào hai tên nầy cũng hùa theo Triệu-sư-thúc của chúng để đánh cô nương mình rồi. Vì vậy nên càng nhìn thấy chàng càng ghét cay đắng, muốn đứng lên gây chuyện cho chúng một mẻ nên thân nhưng suy nghĩ lại cố dằn tâm lặng tiếng.

Chờ hai đạo sĩ vào phòng, Dương-Qua bảo Tiểu-Nhị sắp đặt một phòng kế bên để ở và nghe ngóng.

Sắp đặt dầu đèn xong xuôi, Tiểu-Nhị rỉ tai chàng dặn nhỏ:

- Cậu đề phòng đấy nhé. Chị cậu đã xẻo tay một đứa rồi.

Thế nào bọn chúng cũng tìm cách báo thù không tha.

Dương-Qua ngạc nhiên nói:

- Chị ta hiền lành ít oi lắm, cớ sao lại cắt tai bọn họ, thật khó tin lắm?

Tiểu-Nhị đáp:

- Chị cậu có lẽ hiền với riêng cậu chớ đâu có hiền với người khác. Khi nàng vào quán ăn cơm, chỉ nhìn thấy tên đạo-sĩ trân trối nhìn mình, nàng đã nổi nóng tuốt kiếm ra gây sự.

Hắn nói mãi, từ chuyện này sang chuyện nọ, nhưng lúc ấy phòng bên tắt đèn tối om. Chàng khoát tay ra lệnh bảo hắn đừng nói nữa và nghĩ bụng:

- Có lẽ bọn này đã mê mệt sắc đẹp của nàng nên nhìn trân trối đến nỗi bị nàng trị cho một mẻ.

Chờ Tiểu-Nhị ra khỏi phòng, Dương-Qua tắt đèn, quyết thức suốt đêm nay để nhập định theo bí quyết của Âu-dương-Phong đã dạy và lắng nghe những điều bàn tán ở phòng bên cạnh.

Thời gian lặng lẽ qua, đêm vắng lặng càng khuya càng u tịch. Thình lình có tiếng chân người lao vút lên bờ tường rồi cửa sổ phòng bên vụt mở. Đạo-sĩ họ Cơ lên tiếng hỏi nhỏ:

- Trần, Hàn tiên-sinh đó phải không?

Có tiếng đáp lại:

- Vâng.

Cơ-đạo-nhân nói:

- Xin mời vào trong.

Đèn sáng lên, cửa phòng mở tung. Dương-Qua định thần chú ý theo dõi câu chuyện giữa bốn người lạ mặt.

Thoạt tiên cô đạo sĩ nói:

- Hai đệ tử là Cơ-Thanh-Hư và Bì-Thanh-Huyền, hân hạnh yết kiến Hàn trại chủ và Trần-Lão quyền sư nơi đây.

Dương-Qua suy nghĩ:

- Theo lời hai người này thì họ tuy không phải đệ tử Trùng-dương-Cung mà ta đã từng gặp, tuy nhiên nếu có lót chữ "Thanh thì cũng là người trong giáo phái Toàn-chân chứ không xa lạ.

Cô đạo sĩ giọng khàn khàn đáp:

- Hôm nay chúng ta đến tiếp viện cho Triệu Sư-thúc các anh đây. Chúng ta phải cấp tốc đi mau mới kịp tới vào giờ này. Bọn ấy hung tợn lắm sao?

Cơ-Thanh-Hư chậm rãi đáp:

- Nói ra thêm tủi nhục, tiện môn có hai đệ-tử cùng bị thương vì hắn cả.

Người có giọng khàn khàn nói:

- Con bé này có võ công quá sức lợi hại.

Cơ-Thanh-Hư tiếp lời:

- Theo Triệu Sư-thúc nói thì hắn là đệ tử của Cổ-Mộ phái, nên tuy tuổi trẻ nhưng bản lĩnh rất cao cường không nên xem thường mà nguy lắm đấy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro