Chương II Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mọi lý luận và học thuyết khoa học ra đời, phát triển đều dựa trên hai

căn cứ: Một mặt là kế thừa chọn lọc các tri thức khoa học hợp lý mà nhân

loại đã tích luỹ trong quá khứ; mặt khác, tổng kết những kinh nghiệm hoạt

động thực tiễn trong mỗi lĩnh vực tương ứng mà lý thuyết khoa học đó

quan tâm, phản ánh. Sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa

học cũng không nằm ngoài quy luật đó.

I. Khái niệm và phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa

1. Khái niệm tư tưởng xã hội chủ nghĩa

a) Định nghĩa tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng (tiếng Hy Lạp là Idéa - hình tượng) là một hình thái ý thức

của con người phản ánh thế giới hiện thực. Bất cứ tư tưởng nào cũng do

điều kiện sinh hoạt vật chất, do chế độ xã hội quy định và là sự phản ánh

những điều kiện sinh hoạt vật chất của chế độ xã hội nhất định.

Từ khi xuất hiện chế độ tư hữu và đi liền với nó là sự phân chia xã hội

thành các giai cấp: thống trị và bị thống trị, áp bức và bị áp bức..., trong ý

thức xã hội cũng bắt đầu xuất hiện và không ngừng phát triển các tư tưởng

biểu hiện cho sự đối lập về lợi ích, về sự đấu tranh giữa các giai cấp. Ngay

từ thời cổ đại, bên cạnh các tư tưởng phản ánh, bảo vệ lợi ích của các giai

cấp thống trị, đã xuất hiện tư tưởng phản ánh, bảo vệ cho lợi ích, khát vọng

của các giai cấp bị thống trị. Tư tưởng của giai cấp thống trị, duy trì củng

cố địa vị của giai cấp thống trị, bất công, áp bức xã hội... Còn tư tưởng của

các giai cấp bị thống trị phản ánh những nhu cầu về một chế độ xã hội

không có áp bức, bất công, mọi người cùng lao động, sống bình đẳng...

Không những thế, những nhu cầu, những quan niệm, ước mơ, khát vọng ấy

dần trở thành những con đường, cách thức, phương pháp... đấu tranh thực

tiễn của nhân dân lao động. Nếu không có những tư tưởng tiến bộ xã hội

chủ nghĩa có căn cứ khoa học thì không thể dẫn dắt được các phong trào

thực tiễn của nhân dân đấu tranh vì lợi ích của mình.

Vậy, tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống những quan niệm về

những nhu cầu hoạt động thực tiễn và những ước mơ của các giai cấp lao

động, bị thống trị; về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh

13

nhằm thực hiện một chế độ xã hội mà trong đó, tư liệu sản xuất là thuộc về

toàn xã hội, không có áp bức và bóc lột, bất công, mọi người được bình

đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh.

Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện giai cấp thống trị và bóc

lột được xem như tiền đề kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện các phong trào

và tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ phía nhân dân lao động.

b) Các biểu hiện cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là các quan niệm về một chế độ xã hội mà

mọi tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên, thuộc về toàn xã hội.

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là tư tưởng về một chế độ xã hội mà ở đó

ai cũng có việc làm và ai cũng lao động.

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng về một xã hội, trong đó

mọi người đều bình đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi

người đều có điều kiện để lao động, cống hiến, hưởng thụ và phát triển toàn

diện.

2. Phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa thường đưa ra

hai tiêu chí phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa: thứ nhất, căn cứ vào

quá trình lịch sử hình thành các tư tưởng xã hội chủ nghĩa gắn với các chế

độ xã hội; thứ hai, căn cứ vào tính chất, trình độ phát triển của các tư tưởng

ấy. Tuy nhiên, các nhà sử học mácxít, các nhà nghiên cứu tư tưởng xã hội

chủ nghĩa theo quan điểm duy vật lịch sử thường tiến hành phân loại dựa

trên sự kết hợp đúng mức hai tiêu chí nói trên.

a) Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo lịch đại

Theo tiến trình lịch sử phát triển, hay theo lịch đại, các nhà nghiên cứu

lịch sử tư tưởng thường chia tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành các giai đoạn

phát triển tương ứng với các giai đoạn phát triển xã hội loài người. Theo

cách này, người ta chia thành: tư tưởng xã hội chủ nghĩa cổ đại và trung

đại, tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ Phục hưng, tư tưởng xã hội chủ

nghĩa thời kỳ cận đại và tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ hiện đại.

b) Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo trình độ phát triển

Theo trình độ phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, người ta phân

thành: chủ nghĩa xã hội sơ khai, chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa

xã hội không tưởng - phê phán và chủ nghĩa xã hội khoa học.

14

c) Kết hợp tính lịch đại với trình độ phát triển để phân loại các tư

tưởng xã hội chủ nghĩa

Dù sử dụng tiêu chí theo lịch đại hay theo trình độ phát triển của tri

thức được tích luỹ trong phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa, các nhà

nghiên cứu đều cho rằng không nên tuyệt đối hoá các tiêu chí được sử

dụng để phân loại, mà chỉ nên coi đó là tiêu chí chủ yếu, cơ bản nhất mà

thôi.

Do đó, khi phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa để nghiên cứu, cần chú

ý đến các cấp độ phát triển nội tại (theo kiểu kế thừa, phủ định, phát triển)

của các tư tưởng ấy. Đây được coi là phương pháp phân loại đúng đắn nhất

và là cơ sở để tiến hành khảo sát các tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

II. Lược khảo tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác

1. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại

Chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, thay vào đó là chế độ chiếm hữu

nô lệ, với sự thống trị của giai cấp chủ nô. Kinh tế, xã hội đã có bước phát

triển đáng kể. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ xuất hiện, xã hội phân chia thành

kẻ giàu, người nghèo. Giai cấp chủ nô cùng với các tầng lớp chủ công

trường thủ công, quý tộc, tăng lữ, con buôn, cho vay nặng lãi... hợp thành

lực lượng thống trị, áp bức xã hội. Giai cấp nô lệ và các tầng lớp lao động

khác hợp thành lực lượng bị thống trị, bị áp bức. Cuộc đấu tranh chống áp

bức, bóc lột do các giai cấp và tầng lớp bị thống trị tiến hành là tất yếu,

phản ánh mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.

Trong quá trình đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp đó, những ước mơ,

khát vọng về một xã hội không có áp bức, không có bóc lột được ra đời và

phát triển.

Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại chủ yếu được thể hiện

mới chỉ là những ước mơ, niềm khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp

bức. Chúng được lan truyền, được phổ biến trong công chúng lúc đầu bằng

những câu chuyện kể chưa thành văn, về sau là cả những áng văn chương

cổ vũ cho các phong trào đấu tranh, những cuộc khởi nghĩa của những

người nô lệ. Những ước mơ, khát vọng ấy chỉ mới dừng ở lòng khao khát

được quay về với "thời đại hoàng kim", mà sau này được các thánh kinh

gọi là "giang sơn ngàn năm của Chúa", tức chế độ cộng sản nguyên thuỷ:

không tư hữu, không giai cấp áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng, tự

do, v.v..

15

2. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII

a) Hoàn cảnh lịch sử

Từ khoảng thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, nhân loại có những bước

tiến dài trong đời sống kinh tế - xã hội. Các công trường thủ công có tính

chất chuyên môn hoá dần hình thành, thay thế cho tính chất hợp tác sản

xuất theo kiểu phường hội. Sự phân hoá giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn và

kèm theo đó là những xung đột giai cấp cũng diễn ra quyết liệt hơn. Những

thành phần đầu tiên của giai cấp tư sản và vô sản được hình thành, phát

triển nhanh cùng với sự phát triển của nền công nghiệp lớn, sự mở mang

thuộc địa, thị trường tư bản chủ nghĩa. Nhiều cuộc cách mạng tư sản nổ ra

và thắng lợi. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình.

Chủ nghĩa tư bản dần thay thế chế độ phong kiến ở phần lớn châu Âu, Bắc

Mỹ. Sự tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ, xung đột giai cấp diễn

ra gay gắt... Những điều kiện và tiền đề ấy, đã làm tư tưởng xã hội chủ

nghĩa phát triển sang một thời kỳ mới, với một trình độ mới, qua công lao

và đóng góp của nhiều nhà tư tưởng vĩ đại.

b) Các đại biểu xuất sắc và các tư tưởng xã hội chủ nghĩa chủ yếu

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVI - XVII:

Chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XVI - XVII có nhiều đại biểu

xuất sắc: Tômát Morơ (1478-1535); Tômađô Campanenla (1568-1639);

Giêrắcdơ Uynxtenli (1609-1652). Trong đó đáng chú ý nhất là T. Morơ với

tác phẩm Không tưởng nổi tiếng.

• Tômát Morơ (1478 - 1535)

Tác phẩm chủ yếu của T. Morơ để người đời sau biết đến ông như một

nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa xuất sắc là cuốn Không tưởng (Utopie) viết

về cuộc sống của người dân trên đảo Utopie (chưa tồn tại ở đâu cả). Trong

tác phẩm này, T. Morơ đã đề cập nhiều nội dung của tư tưởng xã hội chủ

nghĩa dưới hình thức một tác phẩm văn học.

Tư tưởng cơ bản nổi bật và có tính chất chủ đạo của ông là tư tưởng

cho rằng, nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội, của áp bức và bất

công trong lòng xã hội tư bản là chế độ tư hữu. Trên cơ sở quan niệm xuất

phát điểm ấy, ông mô tả một cách tài tình tình trạng phân hoá giàu, nghèo,

những áp bức và bất công trong xã hội tư bản ngay khi mới hình thành;

phân tích một cách sâu sắc sự khốn cùng của người nông dân do quá trình

tích luỹ nguyên thuỷ tư bản mang lại... Điều quan trọng và rất căn bản

trong các quan niệm xã hội chủ nghĩa của ông là ở chỗ, ông chỉ ra rằng,

muốn xoá bỏ bất công, áp bức, xoá bỏ tình trạng phân hoá giàu nghèo, cần

16

xoá bỏ chế độ tư hữu. Với quan điểm có tính chất căn bản này, ông đã được

xếp vào một trong số các nhà tư tưởng cộng sản chủ nghĩa vĩ đại của thế kỷ

XVI.

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XVIII

Nhân loại trong thế kỷ XVIII được chứng kiến sự phát triển với tốc độ

nhanh hơn của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu và Bắc Mỹ. Các tiền đề kinh tế

- xã hội và chính trị - xã hội cho sự xác lập hoàn toàn địa vị thống trị của

giai cấp tư sản dần được chín muồi. Nền quân chủ chuyên chế đi vào thời

kỳ suy tàn, thay vào đó là chính thể cộng hoà tư sản được thiết lập ở Hà

Lan, Anh, Pháp, Hoa Kỳ... Tuy nhiên, cũng như cuộc Cách mạng tư sản

Anh, cuộc Cách mạng tư sản Pháp diễn ra gay go, dai dẳng giữa các tập

đoàn quý tộc, bảo thủ với bộ phận tư sản mới trong các lĩnh vực công

nghiệp, thương nghiệp. Sự áp bức, bóc lột trong kinh tế cộng thêm chiến

tranh, nội chiến triền miên đã làm gia tăng tính chất gay gắt của những mâu

thuẫn và đối kháng giai cấp. Các phong trào phản kháng của nhân dân lao

động chống lại giai cấp thống trị diễn ra mạnh mẽ. Để phản ánh cuộc đấu

tranh ấy, đã xuất hiện nhiều nhà lý luận xã hội chủ nghĩa. Trong số đó phải

kể đến các nhà tư tưởng Pháp: Giăng Mêliê, đặc biệt là Gabriendơ Mably,

Grắccơ Babớp...

• Grắccơ Babớp (1760 - 1797)

Trong bối cảnh không khí sục sôi của cuộc Cách mạng tư sản Pháp

(1789), trong xã hội đã diễn ra một sự phân bố lực lượng mạnh mẽ. Nhiều

nhà tư tưởng tiểu tư sản trước đây có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa nay

chuyển sang tham gia vào cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến. Giai

cấp vô sản đã xuất hiện thành một lực lượng và bắt đầu có nhu cầu tách

khỏi khối quần chúng nghèo khổ mà từ đó nó đã sinh ra. Đại biểu xuất sắc

và là một lãnh tụ của lực lượng chính trị mới này là Grắccơ Babớp. Với sự

ra đời của phái G. Babớp, lần đầu tiên trong lịch sử, vấn đề đấu tranh cho

chủ nghĩa xã hội được đặt ra với tính cách một phong trào thực tiễn, chứ

không chỉ là tư tưởng, lý luận, càng không chỉ là những khát vọng, mơ ước

về chế độ xã hội mới. G. Babớp đã nêu ra bản Tuyên ngôn của những

người bình dân. Đây được coi là một cương lĩnh hành động với những

nhiệm vụ, những biện pháp cụ thể được thực hiện ngay trong tiến trình cách

mạng.

Ngoài những tư tưởng xã hội chủ nghĩa của G. Mêliê, G. Babớp, khi

nghiên cứu thời kỳ này, cũng cần chú ý đến các quan niệm tiến bộ, mang

tính chất xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa của Môrely, của

Gabriendơ Mably.

17

Với Môrely, người mà cho đến nay giới sử học vẫn còn chưa biết rõ

về tiểu sử của ông, tác giả của Bộ luật của tự nhiên. Trong đó ông đã trình

bày một hệ thống những quan điểm có tính chất xã hội chủ nghĩa và cộng

sản chủ nghĩa không tưởng trên cơ sở cho rằng quyền bình đẳng là tự

nhiên, vốn có của con người, như đã từng diễn ra trong thời kỳ công xã

nguyên thuỷ và vẫn tồn tại trong một số bộ lạc thời kỳ đó, chế độ tư hữu ra

đời đã làm tiêu tan cái quyền bình đẳng tự nhiên ấy.

Tương tự với Môrely, lý thuyết về quyền bình đẳng tự nhiên của G.

Mably (1709-1785) được coi là cơ sở trong các luận điểm xã hội - chính trị

của ông.

3. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX

a) Hoàn cảnh lịch sử

Cuối thế kỷ XVIII được coi là thời kỳ bão táp của cách mạng tư sản.

Trên lĩnh vực kinh tế, sự ra đời của nền sản xuất công nghiệp đã diễn ra

nhanh chóng ở nước Anh, một phần châu Âu lục địa và Bắc Mỹ. Sản xuất

công nghiệp đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của thế

giới mà theo đánh giá của Các Mác và Phriđrích Ăngghen: chỉ sau hơn hai

thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất

nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại. Lực lượng sản xuất phát triển

nhanh chóng kéo theo sự biến đổi và ngày càng hoàn thiện quan hệ sản

xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Cùng với quá trình ấy, sự ra đời

và hình thành ngày càng rõ nét hai lực lượng xã hội đối lập nhau: giai cấp

tư sản và giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản đã củng cố từng bước vững

chắc địa vị thống trị của mình và cũng bắt đầu bộc lộ những bản chất cố

hữu của nó: bóc lột, áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi của giai cấp

mình. Trong khi đó, giai cấp công nhân xuất hiện, từng bước lớn mạnh, trở

thành một lực lượng xã hội quan trọng trong lĩnh vực sản xuất, trong nền

kinh tế. Trong lĩnh vực xã hội - chính trị, họ cũng như các giai cấp và tầng

lớp lao động khác, bị áp bức, bóc lột thậm tệ. Tình trạng bất công xã hội, bất

bình đẳng và nghèo khó đè nặng lên vai họ.

Trong điều kiện ấy, những phản kháng đầu tiên của giai cấp công

nhân cùng với nhân dân lao động ngày càng tăng lên. Nhận thức được sự

phản kháng ấy, một bộ phận trí thức tư sản và tiểu tư sản có tư tưởng cấp

tiến đã phản ánh những lợi ích, khát vọng của giai cấp công nhân và của

quần chúng lao động bị áp bức chống lại sự bất công xã hội. Một giai đoạn

mới trong tiến trình phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu với

tên tuổi của 3 nhà tư tưởng vĩ đại: Hăngri Đơ Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê

và Rôbớt Ôoen.

18

b) Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán tiêu biểu

- Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Ximông (1769 - 1825)

Ông là người viết nhiều tác phẩm đề cập nhiều nội dung có tính chất

xã hội chủ nghĩa.

Trước hết, ông có công lao đề cập, luận giải cho lý thuyết về giai cấp

và xung đột giai cấp. Mặc dù ông chưa thể phân định chính xác về nguồn

gốc cũng như bản chất kinh tế - xã hội của các giai cấp nhưng đây là một

đóng góp mới của ông đối với kho tàng tri thức nhân loại về xã hội nói

chung, về tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng.

Ông tự tuyên bố là người phát ngôn của giai cấp cần lao và giải phóng

giai cấp ấy là mục đích cuối cùng của những nỗ lực mà ông thực hiện trong

cuộc đời.

Ông cũng chỉ ra tính chất nửa vời, thiếu triệt để và không vì lợi ích

của nhân dân lao động, của cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789, nên theo

ông cần có một cuộc cách mạng mới, một cuộc "tổng cách mạng". Để thực

hiện cuộc cách mạng mới đó, ông chủ trương phải bằng "con đường bình

yên chung", mặc dù thời trẻ ông từng cống hiến sức lực của mình trong

cuộc kháng chiến chống xâm lược của những người anh em ở Bắc Mỹ.

Quan niệm của ông về chế độ sở hữu của xã hội tương lai chứa đựng

mâu thuẫn. Một mặt, ông cho rằng, trong xã hội ấy, chế độ sở hữu phải

được tổ chức sao cho có lợi nhất cho toàn xã hội. Nhưng mặt khác, ông lại

không chủ trương xoá bỏ chế độ tư hữu, mà chỉ cố gắng xoá bỏ sự phân

hoá giàu nghèo một cách quá đáng, thông qua và bằng cách thực hiện chế

độ tư hữu một cách phổ biến.

- Sáclơ Phuriê (1772 - 1837)

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thương gia không mấy suôn sẻ

trong việc buôn bán, S. Phuriê sớm được tiếp xúc với thương trường của xã

hội tư bản phát triển. Là một người không được học hành đến nơi đến chốn,

nhưng bù lại ông có một trí thông minh tuyệt vời. Tinh tế trong quan sát,

sắc sảo trong nhận xét đánh giá, ông nắm rất vững phép biện chứng trong

quan sát, phát hiện và phân tích vấn đề, sử dụng tài tình nguyên tắc

antinomi trong trình bày các quan niệm về xã hội... Đó là những đặc thù

trong nhân cách của S. Phuriê.

Ngay từ khi chủ nghĩa tư bản đang ở trong buổi bình minh của tự do

cạnh tranh, S.Phuriê đã phát hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công

nghiệp tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế ấy, người lao động làm ra sản

phẩm được hưởng thụ quá ít, trong khi kẻ ăn bám thì lại hưởng thụ quá

19

nhiều, "sự nghèo khổ được sinh ra từ chính sự thừa thãi". Cũng trên cái

nhìn biện chứng ấy, ông đưa ra 4 giai đoạn phát triển lịch sử mà nhân loại

đã trải qua: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh.

Đánh giá về chế độ văn minh tư bản, ông cho rằng nó chỉ có thể tạo ra

sự giàu có nói chung chứ không thể tạo ra sự giàu có cho toàn xã hội. Trên

cơ sở cái nhìn biện chứng đối với các tệ nạn của xã hội tư bản, ông dự

đoán, xã hội văn minh tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng chế độ xã hội

mới mà ông gọi là "chế độ xã hội được đảm bảo" hay "xã hội hài hoà".

Trong xã hội mới ấy, có sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập

thể, mỗi cá nhân sẽ tìm thấy lợi ích của mình trong lợi ích chung của toàn

xã hội. Tuy nhiên, cũng như H. Xanh Ximông, S. Phuriê không chủ trương

xoá bỏ chế độ tư hữu.

- Rôbớt Ôoen (1771 - 1858)

Trong những năm 30 của thế kỷ XIX, ở nước Anh diễn ra phong trào

đòi cải cách tuyển cử có sự tham gia của đông đảo công nhân và lao động

Anh. Trong bối cảnh ấy, xuất hiện một nhà cải cách có khuynh hướng cộng

sản chủ nghĩa. Ông là Rôbớt Ôoen.

Khác với H. Xanh Ximông và S. Phuriê, R. Ôoen không chỉ đề xướng

và kiến nghị những tư tưởng có tính chất xã hội chủ nghĩa, ông còn đề ra và

tổ chức thực nghiệm những tinh thần được nêu trong Luật lao động nhân

đạo trong công xưởng nơi ông làm giám đốc. Bằng kinh nghiệm hoạt động

thực tế ông đánh giá cao vai trò của công nghiệp, của tiến bộ kỹ thuật đối

với sản xuất và phát triển kinh tế. Những chủ trương có tính nhân đạo mà

ông thực hiện trong nhà máy của mình ít nhiều đã mang lại những kết quả

nhất định trong cải thiện đời sống cho công nhân của ông. Ông là người

chủ trương phải xoá bỏ tư hữu vốn là nguyên nhân của những bất công và

tệ nạn xã hội trong xã hội tư bản.

Bị thất bại và khánh kiệt gia sản do những thực nghiệm đơn độc của

mình ở Anh và ở Mỹ, ông dồn toàn bộ thời gian và sức lực còn lại của cuộc

đời vào hoạt động trong phong trào của giai cấp công nhân Anh.

4. Giá trị và những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không

tưởng

a) Giá trị lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng

+ Hầu hết các quan niệm, các luận điểm của các nhà tư tưởng xã hội

chủ nghĩa đều chứa đựng một tinh thần nhân đạo cao cả. Về cơ bản, những

tư tưởng nhân đạo ấy chưa vượt khỏi tinh thần nhân đạo tư sản. Tuy nhiên,

20

nhiều giá trị, luận điểm đã vượt được lên trên tinh thần nhân đạo tư sản,

nhất là trong tư tưởng của các tác giả đầu thế kỷ XIX.

Với các mức độ và trình độ có khác nhau, nhưng nhìn chung các tư

tưởng xã hội chủ nghĩa trong suốt các thời kỳ được xét đều thể hiện tinh

thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ

nghĩa. Chính vì thế, trong nhiều ấn phẩm, ta thường bắt gặp cụm từ "chủ

nghĩa xã hội không tưởng - phê phán" để chỉ các trào lưu tư tưởng xã hội

chủ nghĩa trước khi có chủ nghĩa xã hội khoa học.

Nhiều luận điểm, quan điểm, nhiều khái niệm... phản ánh ở mức độ

khác nhau các giá trị xã hội chủ nghĩa của những phong trào hiện thực, đã

thực sự làm phong phú thêm cho kho tàng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chuẩn

bị những tiền đề lý luận cho sự kế thừa phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa

lên một trình độ mới.

+ Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã nêu lên nhiều luận điểm

có giá trị về sự phát triển của xã hội tương lai mà sau này các nhà sáng lập

chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và chứng minh

chúng trên cơ sở khoa học. Đó là những luận điểm về tổ chức sản xuất và

phân phối sản phẩm xã hội; về vai trò của công nghiệp và khoa học - kỹ

thuật; về xoá bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc; về sự

nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước, v.v..

+ Không chỉ là những nhà tư tưởng đơn thuần, một số người đã xả

thân, lăn lộn hoạt động trong phong trào thực tiễn, thức tỉnh phong trào

công nhân và người lao động, để từ đó mà quan sát phát hiện những giá trị

tư tưởng mới. Nghĩa là, ngày càng dùng đầu óc để phát hiện trong thực tế

chứ không phải là nghĩ ra từ đầu óc, như cách nói của Ăngghen sau này,

khi ông chỉ ra nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội.

Với những giá trị nêu trên, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không

tưởng, đặc biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán trở thành một

trong ba nguồn gốc lý luận trực tiếp hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học.

b) Những hạn chế lịch sử của tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác

+ Không thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của chủ nghĩa

duy lý và chân lý vĩnh cửu của triết học thời kỳ cận đại, các nhà không

tưởng đầu thế kỷ XIX cũng đã không thể thoát khỏi quan niệm duy tâm về

lịch sử. Họ cho rằng, chân lý vĩnh cửu đã có, đã tồn tại ở đâu đó, chỉ cần có

con người tài ba xuất chúng là có thể phát hiện ra, có thể tìm thấy. Khi đã

tìm thấy, chỉ cần những người đó thuyết phục toàn xã hội là xây dựng được

xã hội mới.

21

+ Hầu hết các nhà không tưởng đều có khuynh hướng đi theo con

đường ôn hoà để cải tạo xã hội bằng pháp luật và thực nghiệm xã hội... Một

số ít khác thì chủ trương khởi nghĩa nhưng sự chuẩn bị đã không thể có

được. Dù chủ trương bằng con đường nào, các nhà tư tưởng xã hội chủ

nghĩa đều đã không thể chỉ ra được con đường cách mạng nhằm thủ tiêu

chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới. Bởi các ông đã

không thể giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê tư bản, không

thể phát hiện ra những quy luật nội tại chi phối con đường, cách thức cho

những chuyển biến tiếp theo của xã hội.

+ Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong các thời kỳ được xét, ngay

cả những đại biểu của đầu thế kỷ XIX đã không thể phát hiện ra lực lượng

xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ

nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lực lượng ấy đã

được sinh ra, lớn lên và phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ

nghĩa. Đó là giai cấp công nhân.

Những hạn chế trên đây là những hạn chế có tính lịch sử, không thể

tránh khỏi.

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế có tính chất lịch sử của chủ

nghĩa xã hội không tưởng bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế - xã hội lúc

bấy giờ, đáng chú ý nhất là:

- Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đầy đủ, chưa

bộc lộ hết những mâu thuẫn nội tại và những mặt trái cơ bản của nó.

- Giai cấp công nhân hiện đại chưa hình thành với tư cách là một giai

cấp đã trưởng thành với những đặc điểm ưu việt riêng có; cuộc đấu tranh

của giai cấp công nhân còn ở trình độ thấp.

Theo Ph. ăngghen, những lý luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp

với tình trạng chưa chín muồi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,

với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi.

Do những hạn chế ấy, mà các tư tưởng về chủ nghĩa xã hội trước

C.Mác được gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Nhưng những gì mà các

ông để lại thực sự là một đóng góp vô giá vào kho tàng tư tưởng xã hội chủ

nghĩa. Những đóng góp to lớn ấy đã thực sự làm cho chủ nghĩa xã hội của

các ông là một trong những tiền đề tư tưởng lý luận quan trọng cho sự ra

đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở một trình độ mới cao hơn: chủ nghĩa xã

hội khoa học.

22

III. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội

khoa học

1. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học

a) Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời của chủ

nghĩa xã hội khoa học

- Điều kiện kinh tế - xã hội

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa đã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự ra đời và lớn mạnh của nền

công nghiệp lớn. Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp công

nhân có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và sự chuyển đổi về cơ cấu.

Tỷ trọng công nhân công nghiệp đã tăng đáng kể và trở thành bộ phận hạt

nhân của giai cấp. Đây là lực lượng công nhân lao động trong khu vực sản

xuất then chốt có trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhất. Cuộc đấu

tranh của giai cấp công nhân chống lại sự thống trị áp bức của giai cấp tư

sản, biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực

lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa

trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Nhiều

cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức và trên

quy mô rộng khắp. Điều kiện kinh tế, xã hội ấy đòi hỏi phải có lý luận tiên

phong dẫn đường, điều mà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó một vài

thập kỷ đã không thể đảm đương; không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà

tư tưởng của giai cấp công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự sinh

thành ra lý luận mới, tiến bộ soi sáng sự vận động đi lên của lịch sử.

- Tiền đề văn hoá và tư tưởng

Đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực

khoa học, văn hoá và tư tưởng. Trong khoa học tự nhiên, những phát minh

vạch thời đại trong vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá

có tính cách mạng.

Trong triết học và khoa học xã hội, phải kể đến sự ra đời của triết học

cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Hêghen, Phoiơbắc;

của kinh tế chính trị học cổ điển Anh: A. Smít và Đ. Ricácđô; của chủ

nghĩa xã hội không tưởng - phê phán: H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R.

Ôoen. Những giá trị khoa học, cống hiến mà các ông để lại đã tạo ra tiền đề

cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa học thế hệ sau kế thừa. Vấn đề còn lại

là ở chỗ ai là người có đủ khả năng kế thừa phát triển những di sản ấy và kế

thừa, phát triển như thế nào?

23

b) Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với sự ra đời của chủ

nghĩa xã hội khoa học

C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895) trưởng thành ở một

quốc gia có nền triết học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa

duy vật của L. Phoiơbắc và phép biện chứng của V.Ph. Hêghen. Bằng trí

tuệ uyên bác, các ông đã tiếp thu với một tinh thần phê phán đối với các giá

trị của nền triết học cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận mà các thế hệ

trước để lại; sớm đắm mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công

nhân và nhân dân lao động... tất cả những điều đó đã cho phép các ông đến

với nhau, trở thành đôi bạn cùng chí hướng, giúp các ông nhận thức được

bản chất của những sự kiện kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội đang diễn ra

trong lòng chế độ tư bản. Kế thừa các giá trị khoa học trong kho tàng tư

tưởng nhân loại, quan sát, phân tích với một tinh thần khoa học những sự

kiện đang diễn ra... đã cho phép các ông từng bước phát triển học thuyết

của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý luận nói chung, tư tưởng xã hội chủ

nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về chất.

Nhờ hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về

giá trị thặng dư, các ông đã luận giải một cách khoa học sứ mệnh lịch sử

của giai cấp công nhân, (đây được coi là phát kiến lớn thứ ba của C. Mác

và Ph. Ăngghen), khắc phục một cách triệt để những hạn chế có tính lịch sử

của chủ nghĩa xã hội không tưởng.

2. Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội

khoa học

a) C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng và phát triển chủ nghĩa xã hội

khoa học (1844-1895)

Quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã

hội - khoa học có thể chia thành ba thời kỳ nhỏ.

- Thời kỳ thứ nhất (1844-1848):

Nét tiêu biểu trong thời kỳ này là C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển từ chủ

nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa duy tâm

sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự chuyển biến ấy được phản ánh

trong các tác phẩm tiêu biểu như: Lời nói đầu của Góp phần phê phán

triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Tình

cảnh giai cấp lao động ở Anh, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, Sự

khốn cùng của triết học...

Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vào đầu năm

1848 do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo đánh dấu sự hình thành về cơ bản

24

chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác

phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ

mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư

bản và là người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã

hội chủ nghĩa là điều kiện tất yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa

xã hội, để giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc lột trở thành giai cấp thống

trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng

sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh sự cần

thiết phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và

công nhân...

- Thời kỳ thứ hai (1848-1871):

Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của

các nước Tây Âu (1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi

bật trong thời kỳ này được đánh dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của

Mác (1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa vị kinh tế - xã hội và

vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.

Trong thời kỳ này, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển

phong phú thêm nhờ tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công

nhân. Mác đã rút ra kết luận hết sức quan trọng là, để giành lại quyền thống

trị về chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan liêu

tư sản, xây dựng một nhà nước mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các

nhà sáng lập chủ nghĩa khoa học đã xây dựng học thuyết về cách mạng

không ngừng, về liên minh giai cấp của giai cấp công nhân, về chiến lược,

sách lược đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các phương pháp và hình thức

đấu tranh trong các thời kỳ phát triển và suy thoái của cách mạng, v.v......

- Thời kỳ thứ ba (1871-1895):

C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ

sở tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari, được thể hiện trong các tác phẩm

chủ yếu Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh,

Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Nguồn

gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước......

Trong các tác phẩm này, các ông đã nêu nhiều luận điểm quan trọng

về phá huỷ bộ máy nhà nước tư sản, về một số nguyên lý xây dựng nhà

nước mới, thừa nhận Công xã Pari là một hình thái nhà nước của giai cấp

công nhân. ở thời kỳ này, nhất là trong hai tác phẩm Phê phán cương lĩnh

Gôta và Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã trình bày khá tập trung

dự kiến khoa học về chủ nghĩa xã hội với những nét khái quát: Hình thái

cộng sản chủ nghĩa chia thành hai giai đoạn thấp và cao; về mục đích, chủ

25

nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khác về cơ bản với tất cả các xã hội đã

từng tồn tại trong lịch sử. Đó là một xã hội tạo mọi điều kiện để phát huy

năng lực của con người và nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng

của con người. Để đạt mục đích trên, các ông chỉ ra một số phương hướng

cần phải làm...

Như mọi hệ thống khoa học khác, chủ nghĩa Mác nói chung, chủ

nghĩa xã hội khoa học nói riêng là một hệ thống chỉnh thể tri thức. Trong

hệ thống ấy, có các tri thức về các nguyên lý cơ bản phản ánh các quy luật

vận động biến đổi của xã hội là những tri thức phản ánh bản chất của khách

thể, chúng tồn tại mãi mãi với thời gian và không ngừng được bổ sung,

hoàn thiện. Các tri thức về cách thức, biện pháp và phương pháp vận dụng

các quy luật ấy có thể thay đổi và cần phải thay đổi theo những hoàn cảnh

lịch sử cụ thể. Điều này, với tư cách là những nhà khoa học chân chính,

sinh thời chính C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã căn dặn chúng ta. Điều

quan trọng là không thể và không bao giờ được cho rằng những hạn chế,

nhược điểm thậm chí cả sai lầm trong các cách thức, biện pháp tác động mà

các ông nêu ra là những sai lầm của cả các tri thức phản ánh quy luật đã

được nhận thức. Điều này cũng giống như, không thể vì những thất bại của

hàng nghìn thí nghiệm của Êđixơn nhằm sáng chế ra đèn điện mà lại nói

rằng nguyên lý về sự có thể chuyển điện năng thành nhiệt năng là sai lầm.

b) V.I. Lênin vận dụng và tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học

trong hoàn cảnh lịch sử mới (1870-1924)

V.I. Lênin (1870-1924) là người đã kế tục một cách xuất sắc sự ghiệp

cách mạng và khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen. Những đóng góp to lớn

của Người vào sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học có

thể được chia thành hai thời kỳ cơ bản: thời kỳ trước Cách mạng Tháng

Mười và thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Mười đến khi Người từ trần.

- Lênin vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học

thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười Nga

Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của hủ

nghĩa xã hội khoa học, phân tích và tổng kết một cách nghiêm túc các sự

kiện lịch sử diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội của hoàn cảnh lịch sử

mới, V. I. Lênin phát hiện và trình bày một cách có hệ thống những khái

niệm, phạm trù khoa học phản ánh những quy luật, những thuộc tính bản

chất chi phối sự vận động biến đổi của đời sống xã hội trong quá trình

chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

cộng sản. Đó là các tri thức về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, về

các nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, sách lược trong nội dung hoạt động của

Đảng; về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, cách mạng

26

dân chủ tư sản kiểu mới và các điều kiện tất yếu cho sự chuyển biến sang

cách mạng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề mang tính quy luật của cách

mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã

hội chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và cương lĩnh dân tộc, đoàn kết và liên minh

của giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác; những

vấn đề về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan hệ cách mạng

xã hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc.

Bên cạnh hoạt động lý luận, V.I. Lênin đã từng bước lãnh đạo Đảng

của giai cấp công nhân Nga tập hợp lực lượng đấu tranh chống chế độ

chuyên chế Nga hoàng, tiến tới giành chính quyền về tay giai cấp công

nhân và nhân dân lao động Nga.

- V.I. Lênin vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ

sau Cách mạng Tháng Mười

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, do yêu cầu của công cuộc

xây dựng chế độ mới, V. I. Lênin đã tiến hành phân tích làm rõ nội dung,

bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định cương lĩnh xây

dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế,

xác định chính sách kinh tế mới nhằm sử dụng và học tập các kinh nghiệm

tổ chức, quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu

nông lạc hậu của nước Nga Xôviết.

Cũng trong thời kỳ này, V. I. Lênin đã viết nhiều tác phẩm kinh điển

trong đó nêu ra và luận giải cho một loạt những vấn đề cơ bản của chủ

nghĩa xã hội khoa học, đấu tranh chống lại mọi trào lưu của chủ nghĩa cơ

hội - xét lại, chủ nghĩa giáo điều và bệnh "tả khuynh" trong phong trào

cộng sản và công nhân quốc tế.

Cùng với những cống hiến hết sức to lớn cả về lý luận và chỉ đạo thực

tiễn cách mạng, V. I. Lênin còn nêu một tấm gương sáng ngời về lòng trung

thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân, với lý tưởng cộng sản do C.

Mác, Ph. Ăngghen phát hiện và khởi xướng; đồng thời Người cũng luôn phê

phán bệnh giáo điều để phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học.

Những điều đó đã làm cho V. I. Lênin trở thành một thiên tài khoa học và

một lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế

giới.

c) Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi V. I.

Lênin từ trần (từ 1924 đến nay)

Hơn 80 mươi năm đã trôi qua kể từ khi Lênin từ trần, chủ nghĩa xã hội

khoa học, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới đã trải qua

27

nhiều thử thách to lớn, đã có được nhiều thắng lợi vĩ đại và cũng đã có

những tổn thất to lớn.

Có thể nêu một cách vắn tắt nhưng đầy đủ những nội dung cơ bản

phản ánh sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong khoảng

80 năm qua như sau:

- Mọi thắng lợi cơ bản, quan trọng của nhân dân lao động, của cách

mạng thế giới trong thế kỷ XX đều có phần đóng góp trực tiếp, cơ bản và

rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội, của sự vận dụng thành công những

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn phong trào

cộng sản và công nhân quốc tế ở mỗi nước cũng như của cả hệ thống xã hội

chủ nghĩa thế giới. Trong đó thắng lợi vĩ đại nhất là đã đưa nhân dân thế giới

thoát khỏi họa phátxít, là tiền đề quan trọng nhất dẫn đến sự tan rã của chủ

nghĩa thực dân cũ và mới, là sự hình thành và phát triển của hệ thống xã hội

chủ nghĩa... Điều này đã đẩy nhanh tiến trình vận động của quy luật lịch sử

nhân loại về phía trước. Cùng với những thành tựu trong đấu tranh, cách

mạng, trong hoà bình xây dựng, các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần quan

trọng vào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

- Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã tổng kết nêu ra và tiếp

tục phát triển bổ sung nhiều nội dung quan trọng cho chủ nghĩa xã hội khoa

học, cả về lý luận lẫn các vấn đề về phương hướng, giải pháp tác động, chủ

trương chính sách xây dựng chế độ xã hội mới ở mỗi nước, góp phần quan

trọng vào quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển bổ sung và hoàn thiện chủ

nghĩa xã hội khoa học. Điều này có thể minh chứng qua các hội nghị quốc

tế các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các diễn đàn và hội nghị khoa

học, lý luận chính trị, các cuộc viếng thăm trao đổi song phương và đa

phương, nhất là các kỳ đại hội của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế

ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, các nước đang tiến

hành lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa hiện nay.

- Sự thắng lợi, phát triển rực rỡ và sau đó là sụp đổ của chế độ xã hội

chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô có thể được coi là minh chứng cho sự

thành công và thất bại của vận dụng, áp dụng các nguyên lý, quy luật của

chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn. Chừng nào và ở đâu, đảng cộng

sản nhận thức đúng, sáng tạo hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà trong đó cách

mạng đang vận động, để đề ra các chủ trương chiến lược và sách lược đúng

đắn vì mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chừng đó và ở đó,

cách mạng phát triển và thu được những thắng lợi. Trong trường hợp ngược

lại, cách mạng sẽ lâm vào thoái trào và bị thất bại. Vấn đề đặt ra đối với

chủ nghĩa xã hội khoa học là từ trong những thành công và thất bại của chủ

nghĩa xã hội hiện thực trong thập kỷ cuối thế kỷ XX, cần nghiêm túc phân

28

tích, khái quát và rút ra các vấn đề lý luận, những bài học kinh nghiệm, từ

đó có những phương thức, biện pháp chủ trương chiến lược và sách lược

hợp lý trong hoàn cảnh mới, tiếp tục bổ sung và phát triển sáng tạo chủ

nghĩa xã hội khoa học, tiếp tục thực hiện thắng lợi trên thực tế chế độ xã

hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

d) Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng sáng tạo và phát triển

chủ nghĩa xã hội khoa học

Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo cho thấy, những

thắng lợi, những thành tựu của cách mạng luôn gắn liền với quá trình vận

dụng sáng tạo, phát triển và hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa

học trong những điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại, trên cơ sở thực tiễn

Việt Nam. Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, sự xuất hiện và những cống hiến vĩ

đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ

nghĩa Mác-Lênin, cả trong những vấn đề hết sức cơ bản của lý luận ấy lẫn

những tri thức về cách thức, biện pháp và chiến lược sách lược vận dụng

chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang thực sự là nền tảng tư tưởng,

kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng nước ta trước kia, trong quá

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện

nay. Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo

chủ nghĩa xã hội khoa học của Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể được tóm tắt

trên một số vấn đề cơ bản như sau:

- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tính quy luật

của cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời đại ngày nay;

- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,

lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời đổi mới từng bước về chính

3 - GTCNXH

trị, đảm bảo giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường

thuận lợi để đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội;

- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối

quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công

bằng xã hội. Đây được xem như một nội dung cơ bản, thể hiện sự ưu việt

của xã hội xã hội chủ nghĩa ngay từ những chặng đường đầu của thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;

- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức

mạnh của mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn

29

giáo, mọi công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội

rộng lớn và thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới;

- Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế

giới, khai thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và

phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại;

- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam - nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu

then chốt để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là phải coi

trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên,

nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra một số bài học lớn, góp

phần phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.

"Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh...

Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức

và cách làm phù hợp...

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát

huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy

bén với cái mới...

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực,

kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới...

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,

không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân..."1

Trên đây là những bài học kinh nghiệm được khái quát từ thực tiễn

đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân

Việt Nam, là kết tinh những thể hiện sinh động các nguyên lý, quy luật

được đúc kết của chủ nghĩa xã hội khoa học ở Việt Nam và trong hoàn

cảnh lịch sử Việt Nam, trong điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại ngày nay.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#duoc#quay