chuong3 QLHCC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tiết 12-17: Chương 3.

Quản lớ hành chớnh cụng về tài chớnh tiền tệ

(Lớ thuyết: 4 tiết, thảo luận: 2 tiết, tự nghiờn cứu: 12 tiết)

Tiết 12:

3.1. Khái quát quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ

3.1.1. Khái niệm quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ

Quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ là quá trình tổ chức và điều chỉnh các quan hệ tài chính tiền tệ của các chủ thể trong xã hội, được thực hiện thông qua các cơ quan hành chính nhà nước bằng quyền lực công nhằm đạt được các mục tiêu về tài chính tiền tệ của của Nhà nước trong từng thời kì.

3.1.2. Chủ thể và đối tượng quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ

3.1.2.1.  Chủ thể  quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ

         Chủ thể quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ là các cơ quan hành chính nhà nước có chức năng tổ chức và điều chỉnh các quan hệ tài chính tiền tệ gồm: Chính phủ, UBND các cấp, cơ quan tài chính ở Trung ương và địa phương, Ngân hàng Nhà nước...

3.1.2.2. Đối tượng quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ

         Đối tượng quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ là các quan hệ tài chính tiền tệ của các chủ thể trong xã hội như: các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình, các tầng lớp dân cư...

3.1.3. Mục tiêu quản lí hành chính công về tài chính tiền tệ (7)

- Tạo ra môi trường pháp lí lành mạnh cho các hoạt động tài chính tiền tệ và bảo đảm các quan hệ tài chính tiền tệ của các chủ thể trong xã hội phải được thực thi theo đúng pháp luật của Nhà nước.

- Huy động tối đa các nguồn lực tài chính của mọi thành phần kinh tế để đẩy mạnh các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

- Nâng cao tiềm lực tài chính nhà nước, đảm bảo phân phối và sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài chính.

- Ổn định sức mua và giá trị đồng tiền, nâng cao uy tín và khả năng của đồng tiền Việt Nam; đổi mới cơ bản cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tín dụng.

- Đổi mới hoạt động tài chính doanh nghiệp, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

- Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường tài chính tiền tệ, tác động và điều chỉnh các hoạt động, các quan hệ tài chính tiền tệ, đảm bảo cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân

- Chủ động hội nhập quốc tế và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; tạo điều kiện và mở rộng quyền chủ động cho các chủ thể trong xã hội tham gia vào quá trình trao đổi và phân công lao động quốc tế.

Thảo luận

         Cõu 1. Sự khỏc biệt cơ bản giữa QLHCC về TCTT với QLHCC về kinh tế?

         Cõu 2. Sinh viờn đang học tại cỏc trường đại học cú được coi là đối tượng QLHCC về tài chớnh tiền tệ? Tại sao?

         Cõu 3. Ngoài cỏc mục tiờu đó nờu, cần thiết phải bổ sung mục tiờu nào khỏc trong QLHCC về TCTT?

Tiết 13:

3.2. Quản lí hành chính công đối với ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là khâu quan trọng, giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia.

Theo Luật ngân sách nhà nước được thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XI (16/12/2002): “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Nội dung cơ bản gồm: phân cấp quản lí ngân sách nhà nước, quản lí thu ngân sách nhà nước, quản lí chi ngân sách nhà nước và quản lí cân đối ngân sách nhà nước.

3.2.1. Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước

3.2.1.1. Sự cần thiết phải phân cấp quản lí ngân sách nhà nước

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cơ sở để tổ chức, quản lí và điều hành các hoạt động ngân sách nhà nước theo các mục tiêu đã đề ra.

Ngân sách trung ương là ngân sách của nhà nước trung ương, giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ các địa phương.

Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bao gồm:

         - Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh), bao gồm ngân sách cấp tỉnh và ngân sách của các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

         - Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện), bao gồm ngân sách cấp huyện và ngân sách các xã, phường, thị trấn;

         - Ngân sách các xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).

Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước nhằm gắn các hoạt động ngân sách nhà nước với các hoạt động kinh tế - xã hội cụ thể, từ đó để kiểm soát, tập trung đầy đủ, kịp thời, đúng chính sách chế độ các nguồn tài chính quốc gia vào ngân sách nhà nước và phân phối, sử dụng chúng công bằng, hợp lí, tiết kiệm, hiệu quả cao, phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kì.

Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước cho phép quản lí và kế hoạch hoá ngân sách được tốt hơn, điều chỉnh kịp thời các quan hệ tài chính tiền tệ; đảm bảo để phát huy vai trò điều chỉnh vĩ mô toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội của ngân sách nhà nước; đồng thời thúc đẩy phân cấp quản lí kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.

3.2.1.2. Các nguyên tắc phân cấp quản lí ngân sách nhà nước

Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước phải phù hợp với phân cấp quản lí kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của Nhà nước và năng lực quản lí của mỗi cấp trên địa bàn.

Phải phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi thật rõ ràng và cụ thể giữa giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:

- Ngân sách trung ương phải giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia như: đảm bảo thực hiện các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng có qui mô lớn, có tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc của nhiều địa phương; thực hiện các chương trình, dự án quốc gia, các chính sách xã hội quan trọng; điều phối các hoạt động kinh tế vĩ mô của đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách.

- Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lí.

         Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân cấp tỉnh quyết định; thời gian thực hiện phân cấp này phải phù hợp với thời kì ổn định ngân sách ở địa phương; cấp xã được tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lí tài chính - ngân sách để quản lí tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn được phân cấp;

Kết thúc mỗi kì ổn định ngân sách, căn cứ vào khả năng nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp, theo thẩm quyền qui định, Quốc hội, Hội đồng nhân dân điều chỉnh mức bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc điều chỉnh tỉ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp.

3.2.1.3. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách

Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước ở nước ta được thể hiện ở những nội dung phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách:

         1)  Phân cấp nguồn thu

Nguồn thu của ngân sách trung ương bao gồm: các khoản thu ngân sách trung ương được hưởng 100%, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.

Nguồn thu của ngân sách địa phương bao gồm: các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100%; các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên. HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nguồn thu cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương phải bảo đảm các yêu cầu:

- Gắn với nhiệm vụ và khả năng quản lí của từng cấp.

- Hạn chế việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.

- Khuyến khích các cấp tăng cường quản lí thu, chống thất thu.

- Hạn chế phân chia các nguồn thu có qui mô nhỏ cho nhiều cấp.

         Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với các khoản thu: Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế nhà, đất; Thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; Thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; Lệ phí trước bạ nhà, đất.

         Ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà, đất.

2) Phân cấp nhiệm vụ chi:

Nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương gồm: chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay, chi viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài, bổ sung Quĩ dự trữ tài chính của Trung ương, bổ sung cho ngân sách địa phương.

Nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương gồm: chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới. Đối với ngân sách cấp tỉnh còn bao gồm chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính của cấp tỉnh và chi trả gốc, lãi tiền huy động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm theo qui định.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương phải bảo đảm các yêu cầu sau:

- Phù hợp với phân cấp quản lí kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lí, dân cư từng vùng và trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hiệu quả.

- Phải phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập các cấp, kết cấu hạ tầng kĩ thuật và các công trình phúc lợi công cộng khác cho thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

3.2.2. Quản lí thu ngân sách nhà nước

3.2.2.1. Yêu cầu quản lí thu ngân sách nhà nước

Quản lí thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước sử dụng quyền lực công để tổ chức và điều chỉnh quá trình thu ngân sách nhà nước, nhằm tập trung đầy đủ, kịp thời các khoản thu vào quĩ ngân sách nhà nước theo đúng chế độ, chính sách của Nhà nước, đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kì.

Quản lí thu ngân sách nhà nước thực chất là quản lí quá trình thu và quản lí các khoản thu của ngân sách nhà nước; bao gồm: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo qui định của pháp luật. Quản lí thu ngân sách nhà nước phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

- Xác lập một hệ thống chính sách thu đồng bộ, phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và bảo đảm thực thi nghiêm chỉnh chính sách, chế độ thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Hệ thống chính sách thu đó không chỉ quan tâm đến lợi ích tạo ra nguồn thu trước mắt cho Nhà nước mà phải có tác động đến quá trình phát triển kinh tế theo hướng có lợi nhất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, kiềm chế lạm phát, thực hiện chủ trương mở cửa, từng bước cân đối cán cân thanh toán quốc tế.

- Xây dựng kế hoạch thu thực hiện đúng đắn chính sách, chế độ thu NSNN và sát với diễn biến của thực trạng kinh tế xã hội trong từng kì kế hoạch.

- Xác lập qui trình và biện pháp tổ chức thực hiện thu ngân sách nhà nước phù hợp với từng khoản thu cụ thể của ngân sách nhà nước, phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội trong từng thời kì.

- Tổ chức bộ máy thu gọn nhẹ, hợp lí và không ngừng xây dựng đội ngũ cán bộ thu có đầy đủ năng lực và phẩm chất đạo đức, đảm bảo tiết kiệm các chi phí và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy hành thu.

3.2.2.2. Quản lí thu thuế

Thuế là một hình thức động viên bắt buộc của Nhà nước theo luật định, nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân sách nhà nước, để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu phục vụ thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kì.

Nội dung cơ bản của quản lí thu thuế bao gồm:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phù hợp với nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đảm bảo mục tiêu vừa tập trung đầy đủ nguồn tài chính vào ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích các hoạt động  sản xuất kinh doanh phát triển, vừa góp phần thực hiện công bằng xã hội; phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập với các nước trong khu vực.

Chính phủ thống nhất chỉ đạo thực hiện các luật thuế. Bộ Tài chính chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các luật thuế theo thẩm quyền để chỉ đạo và tổ chức thực hiện các luật thuế. UBND các cấp ở địa phương có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng chỉ đạo và tổ chức công tác quản lí thu nộp thuế ở địa phương. Cơ quan thuế ở Trung ương thực hiện chỉ đạo thống nhất nghiệp vụ quản lí thu nộp thuế trong cả nước.

Xây dựng qui trình hành thu thuế bảo đảm khoa học, đơn giản, thuận tiện, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, yêu cầu quản lí từng sắc thuế và từng đối tượng nộp thuế. Từng bước mở rộng thực hiện cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai và tự nộp thuế vào kho bạc nhà nước; cơ quan thuế thực hiện thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế.

Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về thuế theo qui định.

Tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành pháp luật thuế đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế, tổ chức cá nhân quản lí thu thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.

Thực hiện các biện pháp chống gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế nhằm bảo đảm cho các văn bản pháp luật về thuế được thực thi một cách nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế xã hội.

Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của các cơ quan chức năng quản lí thu thuế: cơ quan thuế, cơ quan hải quan... Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan trong thực hiện công tác quản lí thu nộp thuế.

3.2.2.3. Quản lí thu phí và lệ phí

Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ theo qui định của pháp luật; phí thuộc ngân sách nhà nước là phí thu từ các dịch vụ do nhà nước đầu tư.

Lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lí nhà nước theo qui định của pháp luật (lệ phí là khoản thu của ngân sách nhà nước) .

Quản lí thu phí và lệ phí bao gồm các nội dung cơ bản sau:

         Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về phí và lệ phí, qui định chi tiết danh mục phí và lệ phí do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Bộ Tài chính giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lí nhà nước về phí và lệ phí; soạn thảo các văn bản qui phạm pháp luật về phí và lệ phí để trình Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền; tổ chức thực hiện pháp lệnh phí và lệ phí; theo dõi, kiểm tra hoạt động thu, quản lí, sử dụng phí, lệ phí; xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phí và lệ phí.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Pháp lệnh phí và lệ phí và kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc thu, nộp, quản lí, sử dụng phí, lệ phí thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; báo cáo tình hình thực hiện việc thu, nộp, quản lí, sử dụng phí, lệ phí thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách theo qui định của pháp luật; đề xuất với Chính phủ về những hoạt động cần thu phí, lệ phí; kiến nghị với Chính phủ hoặc Bộ Tài chính về mức thu đối với từng loại phí, lệ phí.

Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về phí và lệ phí ở địa phương; tổ chức thực hiện và báo cáo tình hình thực hiện thu phí, lệ phí ở địa phương với cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền và HĐND cùng cấp; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các qui định pháp luật về phí và lệ phí trong phạm vi địa phương; xử lí hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí các vi phạm pháp luật về phí, lệ phí.

Phân cấp thẩm quyền qui định về phí và lệ phí. Thẩm quyền qui định về phí và lệ phí là thẩm quyền qui định mức thu, chế độ thu nộp, quản lí và sử dụng tiền phí và lệ phí:

Chính phủ qui định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến nhiều chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương qui định đối với một số loại phí gắn với quản lí đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thuộc chức năng quản lí hành chính nhà nước của chính quyền địa phương. Bộ Tài chính qui định đối với các loại phí còn lại áp dụng thống nhất trong cả nước.

Chính phủ qui định đối với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có ý nghĩa pháp lí quốc tế. Bộ Tài chính qui định đối với những lệ phí còn lại.

Đăng kí thu phí, lệ phí của các tổ chức (không phải là cơ quan thuế, cơ quan hải quan) và cá nhân thu phí, lệ phí:

Tổ chức thu phí, lệ phí trực thuộc Trung ương, tỉnh hoặc cấp tương đương quản lí đăng kí với cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tổ chức thu phí, lệ phí trực thuộc quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, phường hoặc cấp tương đương quản lí và cá nhân thu phí, lệ phí đăng kí với chi cục thuế quận, huyện.

Trường hợp thay đổi, kết thúc hoặc đình chỉ thu phí, lệ phí thì phải thông báo với cơ quan thuế trước khi thay đổi, kết thúc hoặc đình chỉ thu phí, lệ phí.

Quản lí và sử dụng tiền phí, lệ phí:

Tiền phí, lệ phí do cơ quan thuế trực tiếp tổ chức thu và trường hợp tổ chức khác thu phí, lệ phí đã được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu phí, lệ phí theo dự toán hàng năm thì tổ chức thu phải nộp toàn bộ số tiền phí, lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước.

Trường hợp tổ chức thu chưa được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu phí, lệ phí hoặc tổ chức thu được uỷ quyền thu phí, lệ phí thì tổ chức thu được để lại một phần trong số tiền phí, lệ phí thu được để trang trải chi phí cho việc thu phí, lệ phí theo qui định của cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền.

Đối với phí thuộc ngân sách nhà nước mà tiền phí thu được được Nhà nước đầu tư trở lại cho tổ chức thu (như học phí, viện phí...) thì việc quản lí, sử dụng phải bảo đảm đúng mục đích đầu tư trở lại và cơ chế quản lí tài chính hiện hành.

Tiền phí, lệ phí nộp vào ngân sách nhà nước được phân chia cho các cấp ngân sách và được quản lí, sử dụng theo qui định của Luật Ngân sách nhà nước  và các văn bản hướng dẫn thi hành.

3.2.3. Quản lí chi ngân sách nhà nước

3.2.3.1. Khái niệm và yêu cầu quản lí chi ngân sách nhà nước

* Khái niệm:

Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng vốn tiền tệ từ Quĩ ngân sách nhà nước để phục vụ việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chi ngân sách nhà nước gồm rất nhiều các khoản chi khác nhau, song nếu xét theo nội dung kinh tế thì chi ngân sách nhà nước bao gồm: chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác của ngân sách nhà nước.

Quản lí chi ngân sách nhà nước là việc Nhà nước sử dụng quyền lực công để tổ chức và điều chỉnh quá trình chi ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm các khoản chi ngân sách nhà nước được thực hiện theo đúng chế độ chính sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định, phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kì.

Quản lí chi ngân sách nhà nước thực chất là quản lí toàn bộ quá trình sử dụng quĩ ngân sách nhà nước phục vụ cho các mục đích kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và các khoản chi khác của Nhà nước, gắn với việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.

* Yêu cầu cơ bản của quản lí chi ngân sách nhà nước:

         Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các cơ quan công quyền thực hiện các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước, vì vậy yêu cầu này được đặt ra là tất yếu đối với quản lí chi ngân sách nhà nước. Trong thực tế, việc đảm bảo yêu cầu này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là trong điều kiện khả năng tập trung nguồn lực tài chính của Nhà nước còn hạn chế, yêu cầu thực hiện, nhiệm vụ của các cơ quan công quyền lại cấp bách và rộng lớn. Vì vậy, bảo đảm yêu cầu này đòi hỏi quản lí chi ngân sách nhà nước phải xác lập được thứ tự ưu tiên chi hợp lí, đồng thời Nhà nước cần có sự cân nhắc khi giao nhiệm vụ cho các cơ quan công quyền.

         Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách nhà nước. Tiết kiệm và hiệu quả là yêu cầu cơ bản đối với mọi hoạt động kinh tế xã hội. Mặt khác, chi tiêu ngân sách nhà nước rất đa dạng gồm nhiều khoản chi khác nhau; do vậy thường có mâu thuẫn giữa nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nước và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của ngân sách nhà nước. Vì vậy quản lí chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm yêu cầu chi tiêu tiết kiệm và có hiệu quả. Thực hiện yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách nhà nước, quản lí chặt chẽ tất cả các khâu của chu trình chi ngân sách nhà nước; từ xây dựng tiêu chuẩn định mức, lập kế hoạch dự toán, chấp hành kế hoạch dự toán đến quyết toán các khoản chi. Thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các khoản chi của ngân sách nhà nước để kịp thời hoàn thiện và đổi mới tiêu chuẩn định mức chi, biện pháp kiểm soát và cấp phát thanh toán các khoản chi, cơ cấu chi phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

         Gắn chi tiêu ngân sách nhà nước với các mục tiêu kinh tế vĩ mô: tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, ổn định cán cân thanh toán, kiềm chế lạm phát... Các mục tiêu đó là cơ sở đặt ra yêu cầu cho việc thực hiện các khoản chi của ngân sách nhà nước. Quản lí chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo có tác động tích cực, phải trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô để bố trí các khoản chi cho thích hợp.

3.2.3.2. Nội dung quản lí chi ngân sách nhà nước

Xây dựng và hoàn thiện chính sách, chế độ chi ngân sách nhà nước, phù hợp với thực trạng và xu hướng phát triển của nền kinh tế; phù hợp với đặc điểm của từng khoản chi (chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi khác; chi cho con người, chi hàng hoá dịch vụ...), từng lĩnh vực kinh tế xã hội, từng loại hình đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.

Phân cấp hợp lí và rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của các cấp, ngành trong quản lí chi ngân sách nhà nước; đảm bảo Chính phủ thống nhất quản lí, tổ chức và điều hành, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lí ngành và địa phương, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sử dụng ngân sách trong quản lí chi ngân sách nhà nước.

Xây dựng cơ cấu chi ngân sách nhà nước phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảm bảo sự hợp lí về cơ cấu chi cho nhu cầu của các lĩnh vực: chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi khác; cơ cấu chi theo ngành, lĩnh vực kinh tế xã hội...

Xây dựng hệ thống định mức chi ngân sách nhà nước khoa học và phù hợp với thực tiễn, bảo đảm định mức chi ngân sách nhà nước là căn cứ pháp lí để quản lí, tổ chức, điều hành và kiểm soát quá trình chi ngân sách nhà nước. Định mức chi ngân sách nhà nước bao gồm định mức phân bổ ngân sách và định mức sử dụng ngân sách. Thẩm quyền quyết định định mức phân bổ và chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách:

- Đối với định mức phân bổ ngân sách:

         Thủ tướng Chính phủ quyết định định mức phân bổ ngân sách làm căn cứ xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ và cho các địa phương; trước khi ban hành, Thủ tướng Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản.

         HĐND cấp tỉnh căn cứ vào định mức phân bổ ngân sách do Thủ tướng Chính phủ ban hành, khả năng tài chính - ngân sách và đặc điểm tình hình ở địa phương quyết định định mức phân bổ ngân sách làm căn cứ xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách ở địa phương.

- Đối với chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách:

         Chính phủ căn cứ vào các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Quốc hội, quyết định những chế độ chi ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của cả nước; trước khi ban hành, Chính phủ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản.

         Thủ tướng Chính phủ quyết định các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thực hiện thống nhất trong cả nước. Đối với một số chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu để phù hợp đặc điểm của địa phương, Thủ tướng Chính phủ qui định khung và giao HĐND cấp tỉnh quyết định cụ thể.

         Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách đối với các ngành, lĩnh vực sau khi thống nhất với các bộ quản lí ngành, lĩnh vực; trường hợp không thống nhất, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến trước khi quyết định.

Xác lập thứ tự ưu tiên chi phù hợp với yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước gắn với thực trạng kinh tế xã hội trong từng thời kì và tính chất từng khoản chi.

Tổ chức và hướng dẫn xây dựng kế hoạch, dự toán chi ngân sách nhà nước tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ qui định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sát với thực trạng kinh tế - xã hội trong từng kì kế hoạch.

Xây dựng và tổ chức thực hiện qui trình kiểm soát, cấp phát thanh toán các khoản chi một cách hợp lí; bảo đảm các khoản chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện chi theo đúng qui định:

- Có trong dự toán ngân sách nhà nước được giao, trừ các trường hợp dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền;

- Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền qui định;

- Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.

- Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo qui định của pháp luật.

Hướng dẫn tổ chức công tác hạch toán kế toán, quyết toán chi ngân sách nhà nước; thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lí các vi phạm trong quá trình chi ngân sách nhà nước; phát hiện những bất hợp lí để kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ chi ngân sách nhà nước.

3.2.4. Quản lí cân đối ngân sách nhà nước

3.2.4.1. Các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước

Cân đối ngân sách nhà nước là sự phản ánh quan hệ giữa thu và chi ngân sách nhà nước, cơ cấu thu và chi ngân sách nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.

Cân đối ngân sách nhà nước là một mặt cân đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Nó vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các quan hệ cân đối khác trong nền kinh tế quốc dân. Quản lí cân đối ngân sách nhà nước cần phải được xem xét trong mối quan hệ với các quan hệ cân đối khác của nền kinh tế quốc dân, như cân đối tiền hàng, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, cân đối giữa các ngành và lĩnh vực...

Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, cân đối ngân sách nhà nước ở nước ta được thực hiện theo nguyên tắc:

Tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không được sử dụng cho tiêu dùng; vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.

         Ngân sách địa phương phải được cân đối, đảm bảo tổng số chi không được vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng trong phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, nếu vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, UBND các cấp, các tổ chức và đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện dự toán ngân sách trong phạm vi được giao; nghiêm cấm các trường hợp vay, cho vay và sử dụng ngân sách nhà nước trái với qui định của pháp luật.

3.2.4.2. Nội dung quản lí cân đối ngân sách nhà nước

Quản lí cân đối ngân sách nhà nước thực chất là quản lí việc thực hiện các biện pháp cân đối ngân sách nhà nước theo đúng qui định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nội dung cơ bản quản lí cân đối ngân sách nhà nước bao gồm:

Quản lí thực hiện các biện pháp cân đối ngân sách nhà nước trong khâu lập ngân sách. Theo qui định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, các biện pháp thực hiện cân đối ngân sách nhà nước trong khâu lập ngân sách bao gồm:

- Dự toán ngân sách nhà nước phải bảo đảm tổng số thu thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và các khoản chi trả nợ; bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Dự toán ngân sách cấp tỉnh phải cân bằng giữa thu và chi trên cơ sở số thu của ngân sách cấp tỉnh gồm các khoản thu ngân sách cấp tỉnh được hưởng 100%, các khoản thu phân chia cho ngân sách cấp tỉnh theo tỉ lệ phần trăm đã được qui định và số bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương (nếu có); số dự kiến huy động vốn trong nước để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng qui định. Dự toán ngân sách cấp huyện, và cấp xã phải cân bằng thu, chi.

- Lập quĩ dự phòng ngân sách, quĩ dự trữ tài chính để chủ động cân đối ngân sách theo qui định. Dự toán chi ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được bố trí khoản dự phòng từ 2% đến 5% tổng số chi; Chính phủ, UBND cấp tỉnh được lập quĩ dự trữ tài chính từ các nguồn tăng thu, kết dư ngân sách, bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm và các nguồn tài chính khác theo qui định của pháp luật, mức khống chế tối đa của quỹ là 25% dự toán chi ngân sách hàng năm của cấp ngân sách.

- Lập dự toán vay bù đắp thiếu hụt ngân sách trung ương phải căn cứ vào cân đối ngân sách, khả năng nguồn vay, khả năng trả nợ và mức khống chế bội chi ngân sách theo Nghị quyết Quốc hội.

Quản lí các biện pháp thực hiện cân đối ngân sách trong khâu chấp hành ngân sách. Theo qui định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, các biện pháp thực hiện cân đối ngân sách nhà nước trong khâu chấp hành ngân sách bao gồm:

- Các cơ quan nhà nước (ở cả Trung ương và địa phương) thực hiện phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc phải bảo đảm phù hợp với dự toán do Thủ tướng Chính phủ, UBND, cơ quan cấp trên có thẩm quyền giao. Tổng số phân bổ và giao dự toán chi ngân sách cho các đơn vị trực thuộc không vượt quá dự toán được cấp có thẩm quyền giao cả về tổng mức và chi tiết theo lĩnh vực. Tổng số phân bổ và giao dự toán thu ngân sách cho các đơn vị trực thuộc tối thiểu phải bằng dự toán được cấp có thẩm quyền giao.

- Các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ thu chi ngân sách phải tổ chức thực hiện dự toán thu chi ngân sách theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước. Trong quá trình chấp hành ngân sách, phải chú trọng tới các biện pháp tăng thu và tiết kiệm chi, để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung vào quĩ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách; số thu không đạt dự toán phải điều chỉnh giảm một số khoản chi tương ứng.

- Trong trường hợp đặc biệt, khi có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán, quĩ dự phòng ngân sách không đủ đáp ứng, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND phải sắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất đó theo quy định. Khi số thu, chi có biến động lớn so với dự toán đã được quyết định, cần phải điều chỉnh tổng thể thì Chính phủ trình Quốc hội, UBND trình HĐND cùng cấp quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách theo qui định; quĩ ngân sách nhà nước thiếu hụt tạm thời thì được tạm ứng từ quĩ dự trữ tài chính và các nguồn tài chính hợp pháp khác để xử lí, tạm ứng của Ngân hàng Nhà nước (đối với ngân sách trung ương) theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Sử dụng nguồn tài chính dự phòng để cân đối ngân sách. Dự phòng ngân sách được sử dụng cho các nhiệm vụ thực hiện các giải pháp khẩn cấp nhằm phòng chống thiên tai, hoả hoạn, tai nạn trên diện rộng; khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn đối với thiệt hại tài sản  nhà nước; hỗ trợ khắc phục hậu quả đối với thiệt hại của các tổ chức và dân cư; thực hiện các nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và các nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán đã giao đầu năm cho các đơn vị trực thuộc; hỗ trợ ngân sách cấp dưới để xử lí các nhiệm vụ nói trên sau khi cấp dưới đã sử dụng dự phòng một phần dự trữ tài chính của cấp mình mà vẫn chưa đáp ứng được.

- Sử dụng dự trữ tài chính để xử lí cân đối ngân sách. Quĩ dự trữ tài chính được sử dụng để tạm ứng cho các nhu cầu chi khi nguồn thu chưa tập trung kịp và phải hoàn trả trong năm ngân sách. Ngân sách cấp tỉnh được tạm ứng từ quĩ dự trữ tài chính của Trung ương nếu đã sử dụng hết quĩ dự trữ của tỉnh. Ngân sách cấp huyện và cấp xã được tạm ứng từ quĩ dự trữ tài chính của tỉnh. Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định tạm ứng từ quĩ dự trữ tài chính của Trung ương. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định tạm ứng từ quĩ dự trữ tài chính của tỉnh. Thủ tướng Chính phủ, UBND cấp tỉnh quyết định sử dụng quĩ dự trữ tài chính cấp mình để xử lí cân đối ngân sách trong các trường hợp:

         - Thu ngân sách hoặc vay để bù đắp bội chi không đạt mức dự toán đã được Quốc hội, HĐND quyết định, sau khi đã sắp xếp lại ngân sách và sử dụng hết dự phòng mà chưa đủ nguồn để đáp ứng nhiệm vụ chi;

         - Thực hiện các nhiệm vụ phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, tai nạn trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán mà sau khi đã sắp xếp lại ngân sách và sử dụng hết dự phòng ngân sách mà chưa đủ nguồn để đáp ứng nhiệm vụ chi;

- Tổng mức chi từ quĩ dự trữ tài chính (không kể tạm ứng) cả năm không vượt quá 30% số dư của quĩ tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.

Quản lí các biện pháp thực hiện cân đối ngân sách trong khâu quyết toán ngân sách. Các biện pháp thực hiện cân đối NSNN trong khâu quyết toán ngân sách (theo quy định của Luật NSNN) bao gồm:

- Những khoản thu không đúng qui định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp; những khoản phải thu nhưng chưa thu phải được truy thu đầy đủ cho ngân sách nhà nước;

- Những khoản chi không đúng với qui định của pháp luật phải được thu hồi đủ cho ngân sách nhà nước.

Thảo luận

         Cõu 1. Tại sao núi: Ngõn sỏch trung ương đúng vai trũ chủ đạo?

         Cõu 2. Cấp tổ dõn phố cú là cấp ngõn sỏch khụng? Tại sao?

         Cõu 3. Tại sao tổng số thu từ thuế, phớ và lệ phớ phải lớn hơn tổng số chi thường xuyờn? Tại sao số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phỏt triển? 

Tiết 14:

3.3. Quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

3.3.1. Khái niệm quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia và là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ.

Xét về bản chất, tài chính doanh nghiệp là tổng thể các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị gắn liền với việc tạo lập hoặc sử dụng các quĩ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Các quan hệ kinh tế gắn liền với việc phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quĩ tiền tệ của doanh nghiệp hợp thành các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Các hoạt động gắn liền với việc phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quĩ tiền tệ của doanh nghiệp thuộc hoạt động tài chính doanh nghiệp.

Quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp là việc Nhà nước sử dụng quyền lực công để tác động và điều chỉnh các hoạt động, các quan hệ tài chính của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu đã định của Nhà nước trong từng thời kì.

3.3.2. Mục tiêu và yêu cầu quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

3.3.2.1. Mục tiêu quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

Thiết lập môi trường pháp lí lành mạnh khuyến khích sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; định hướng và điều chỉnh các hoạt động, các quan hệ tài chính của các doanh nghiệp theo đúng mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kì.

Bảo vệ các hoạt động tài chính hợp pháp của doanh nghiệp; bảo đảm các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh theo đúng qui định của pháp luật, chống tiêu cực về tài chính ở các doanh nghiệp.

Bảo đảm công bằng và bình đẳng về chính sách tài chính đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên cơ sở giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.

Nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp khai thác và sử dụng các nguồn tài chính để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất gắn với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

3.3.2.2. Yêu cầu cơ bản quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

Bảo đảm Nhà nước thống nhất quản lí về tài chính doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả nước, quản lí vốn và tài sản thuộc sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn thành lập hoặc góp vốn.

Phân biệt rõ quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp để vừa bảo đảm nhà nước kiểm tra, giám sát, tạo điều kiện các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách, chế độ tài chính của Nhà nước qui định, vừa bảo đảm quyền tự chủ tài chính, tự chủ trong quản trị tài chính của doanh nghiệp:

         - Quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp là công việc của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tài chính doanh nghiệp.

         - Quản trị tài chính doanh nghiệp là công việc của lãnh đạo và bộ máy quản lí tài chính trong doanh nghiệp, thực hiện chức năng quản lí nghiệp vụ về tài chính doanh nghiệp.

3.3.3. Nội dung quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về quản lí tài chính doanh nghiệp như các chính sách, chế độ quản lí tài chính doanh nghiệp, cơ chế giám sát về tài chính đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật về tài chính doanh nghiệp thống nhất trong cả nước.

Quản lí tài nguyên, tài sản công giao cho các doanh nghiệp khai thác sử dụng trên cơ sở các doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước theo đúng qui định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Kiểm tra các điều kiện về tài chính thành lập doanh nghiệp, phù hợp với ngành nghề kinh doanh trong từng thời kì như: vốn điều lệ, vốn pháp định...

Xây dựng, ban hành và hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính như: cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng của Nhà nước, hỗ trợ tài chính xuất khẩu, ưu đãi về thuế... đối với doanh nghiệp đầu tư kinh doanh thuộc các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn được nhà nước khuyến khích hoặc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ...

Ban hành và hướng dẫn thực hiện phương thức quản lí và chính sách trợ cấp, trợ giá đối với các sản phẩm, dịch vụ công ích trong từng thời kì nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích theo qui định của Nhà nước.

Xây dựng, ban hành và hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, báo cáo tài chính đối với các loại hình doanh nghiệp.

Hướng dẫn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện đăng kí thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo qui định của pháp luật.

Xây dựng, ban hành và hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chính sách, chế độ tài chính khi tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp.

Tổ chức thông tin, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong phạm vi cả nước; tổ chức nghiên cứu, đề xuất chiến lược và các vấn đề liên quan đến tài chính doanh nghiệp.

Kiểm tra, thanh tra hoạt động tài chính của doanh nghiệp; giám sát hoạt động tài chính doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kì. Thanh tra đối với tài chính doanh nghiệp được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp; thời hạn thanh tra tối đa không quá 30 ngày, trường hợp đặc biệt cấp có thẩm quyền được gia hạn thanh tra, nhưng không quá 30 ngày; thanh tra bất thường chỉ được thực hiện khi có căn cứ về vi phạm pháp luật của doanh nghiệp.

Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp bao gồm bảng cân đối kế toán và bảng quyết toán tài chính. Trong thời hạn qui định, báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải được gửi đến cơ quan thuế và cơ quan đăng kí kinh doanh có thẩm quyền.

3.3.4.  Phân cấp quản lí hành chính công đối với tài chính doanh nghiệp

Bộ Tài chính (Cục Tài chính Doanh nghiệp) chịu trách nhiệm trước Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước; quản lí vốn và tài sản thuộc sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập hoặc góp vốn; hướng dẫn các sở tài chính thống nhất quản lí nhà nước về tài chính đối với các doanh nghiệp trên địa bàn, quản lí vốn nhà nước tại các doanh nghiệp do tỉnh, thành phố lập hoặc góp vốn.

Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lí nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp trong ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách.

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lí nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp tại địa phương.

Thảo luận

         Cõu 1. Thiết lập mụi trường phỏp lớ lành mạnh cần được hiểu là như thế nào?

         Cõu 2. Bảo vệ cỏc hoạt động tài chớnh hợp phỏp của doanh nghiệp được hiểu là như thế nào? Hóy cho vớ dụ cụ thể?

         Cõu 3. Phõn biệt QLHCC đối với TCDN và quản trị TCDN?

Tiết 15:

3.4. Quản lí hành chính công đối với lưu thông tiền tệ và tín dụng

3.4.1. Các mục tiêu quản lí hành chính công đối với lưu thông tiền tệ và tín dụng

Tiền tệ và tín dụng là phạm trù kinh tế - lịch sử, tồn tại và phát triển tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Quản lí hành chính công đối với lưu thông tiền tệ và tín dụng là việc Nhà nước sử dụng quyền lực công để tác động và điều chỉnh các hoạt động, quan hệ lưu thông tiền tệ và tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong từng thời kì.

Quản lí hành chính công đối với lưu thông tiền tệ và tín dụng nhằm mục tiêu chủ yếu sau:

Xây dựng môi trường tiền tệ lành mạnh và an toàn; ổn định sức mua đối nội và đối ngoại, nâng cao uy tín và khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia; tăng nhanh vòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế.

Đổi mới cơ bản cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, thương mại hoá các nguồn vốn tín dụng, lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trong nền kinh tế.

         Mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế trong hoạt động lưu thông tiền tệ và tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Ngăn ngừa, chống các hiện tiện tiêu cực trong lưu thông tiền tệ và hoạt động tín dụng. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trong hoạt động lưu thông tiền tệ và tín dụng.

3.4.2. Nội dung quản lí hành chính công đối với lưu thông tiền tệ và tín dụng

3.4.2.1. Quản lí hành chính công đối với lưu thông tiền tệ

Quản lí phát hành tiền, huỷ tiền và điều tiết khối lượng tiền cung ứng; ngăn chặn và chống các hành vi làm tiền giả, tàng trữ và lưu hành tiền giả, phá hoại chính sách tiền tệ quốc gia...

Thực hiện chính sách tiền tệ tích cực, đảm bảo vừa ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia, vừa bảo đảm khối lượng tiền cung ứng, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.

Kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế quốc dân; quản lí cung ứng các phương tiện thanh toán, khuyến khích mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.

Thống nhất quản lí ngoại tệ, quản lí vàng; kiểm soát và điều chỉnh tỉ giá hối đoái thích ứng với biến động của thị trường trong từng thời kì.

Quản lí xuất nhập khẩu vàng, lập quĩ dự trữ vàng; cấp và thu hồi giấy phép cho các tổ chức kinh doanh vàng.

3.4.2.2. Quản lý hành chính công đối với hoạt động tín dụng

Nhà nước thống nhất quản lí tất cả các hoạt động tín dụng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân; quyết định thành lập hay giải thể các ngân hàng thương mại quốc doanh; cấp giấy phép, thu hồi giấy phép kinh doanh tín dụng của tất cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Qui định và hướng dẫn việc chấp hành mức vốn pháp định, mức dự trữ bắt buộc, các nguyên tắc tín dụng, nguyên tắc chống rủi ro trong hoạt động tín dụng.

Quản lí tín dụng nhà nước về phát hành các loại trái phiếu Chính phủ, vay và trả nợ nước ngoài, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, cho vay ưu đãi theo qui định của cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền.

Hướng dẫn và định hướng cho hoạt động tín dụng của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu chiến lược phát triển ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.

Xây dựng và hướng dẫn thực hiện những qui định về thế chấp, tín chấp, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay, bảo hiểm tiền gửi để điều tiết và làm lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế.

Xác định và công bố lãi suất cơ bản, kiểm soát và điều chỉnh lãi suất thị trường phục vụ cho việc thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước.

Thanh tra, kiểm tra hoạt động tín dụng nhằm bảo đảm hoạt động tín dụng trong nền kinh tế quốc dân được thực thi phù hợp với qui luật kinh tế thị trường và chính sách, pháp luật của nhà nước.

Thảo luận

         Cõu 1. Thực hiện chớnh sỏch tiền tệ tớch cực trong QLHCC đối với lưu thụng tiền tệ và tớn dụng là như thế nào? Hóy cho vớ dụ cụ thể?

Cõu 2. Tại sao Nhà nước lại phải thống nhất quản lớ tất cả cỏc hoạt động tớn dụng của cỏc thành phần kinh tế? Thực tế điều này đó đảm bảo đạt được chưa? Tại sao?

Tiết 16:

3.5. Quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính và hoạt động bảo hiểm

3.5.1. Quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính

3.5.1.1. Khái quát về thị trường tài chính

Thị trường tài chính là thị trường trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định.

Thị trường tài chính là một bộ phận hết sức quan trọng trong nền tài chính quốc gia; nó là kênh huy động vốn quan trọng và có hiệu quả của nền kinh tế quốc dân; thị trường tài chính được hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

Đối tượng mua bán trên thị trường tài chính là quyền sử dụng các nguồn tài chính và được thực hiện bằng việc sử dụng các công cụ tài chính nhất định.   Giá mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính chính là số lợi tức mà người mua quyền sử dụng nguồn tài chính trả cho người bán quyền sử dụng nguồn tài chính và được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào công cụ tài chính được sử dụng, như: lợi tức tiền vay, lợi tức trái phiếu, lợi tức cổ phần...

Các công cụ của thị trường tài chính bao gồm: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư, công trái, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, kì phiếu ngân hàng, cổ phiếu...

Chủ thể tham thị trường tài chính là những người có nhu cầu mua, bán quyền sử dụng các nguồn tài chính như: Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình, các tầng lớp dân cư...

Thị trường tài chính rất đa dạng, tuỳ theo những tiêu thức phân định khác nhau mà thị trường tài chính có thể bao gồm: thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần, thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, thị trường chính thức, thị trường không chính thức, thị trường tiền tệ, thị trường vốn... Với giác độ quản lí nhà nước, thị trường tài chính thường được phân định thành: thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối:

- Thị trường tiền tệ là thị trường diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính ngắn hạn. Các công cụ của thị trường tiền tệ bao gồm: tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

- Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán. Chứng khoán là chứng từ dưới dạng giấy tờ hoặc ghi trên hệ thống điện tử xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu nó đối với người phát hành.

- Thị trường ngoại hối là thị trường diễn ra các hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ và các giấy tờ có giá trị ngoại tệ.

3.5.1.2. Khái niệm quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính

Thị trường tài chính hoạt động sẽ làm nảy sinh hàng loạt các quan hệ và lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào thị trường, tác động đến các vấn đề kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, với chức năng quản lí toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội của Nhà nước, quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính được đặt ra là tất yếu khách quan.

Quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính là việc Nhà nước sử dụng quyền lực công để tác động và điều chỉnh vào các yếu tố hình thành, các hoạt động, các quan hệ của thị trường tài chính, nhằm bảo đảm sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính, đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Thực chất quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính là quản lí các thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối.

3.5.1.3. Nội dung cơ bản quản lí hành chính công đối với thị trường tài chính

* Đối với thị trường tiền tệ:

Xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, tạo môi trường pháp lí bảo đảm cho việc định hướng và điều chỉnh các hoạt động, các quan hệ của thị trường tiền tệ phù hợp với qui luật kinh tế thị trường và yêu cầu thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước.

Sử dụng các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở... để điều chỉnh hoạt động của thị trường tiền tệ nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

         Kiểm soát hàng hoá và các giao dịch mua bán hàng hoá trên thị trường tiền tệ như: tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu...

         Tổ chức điều hành thị trường tiền tệ liên ngân hàng, bao gồm hoạt động tín dụng giữa Ngân hàng Trung ương với các tổ chức tín dụng thông qua các phương thức tái cấp vốn, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá ngắn hạn, cho vay bù đắp thanh toán bù trừ... và hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tín dụng với nhau.

Thu thập, xử lí, cung cấp thông tin và dự báo tình hình hoạt động của thị trường tiền tệ.

Kiểm tra, kiểm soát các tác nhân tham gia hoạt động trên thị trường tiền tệ trong việc bảo đảm tuân thủ chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước về hoạt động của thị trường tiền tệ.

* Đối với thị trường chứng khoán:

Xây dựng, hoàn thiện và ban hành theo thẩm quyền các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán như qui chế pháp lí đối với các tác nhân tham gia thị trường, qui chế pháp lí về phát hành và mua bán các loại chứng khoán, qui chế pháp lí về tổ chức thị trường; xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán.

Cấp, thu hồi các loại giấy phép phát hành, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán đối với các tác nhân tham gia thị trường chứng khoán.

Tổ chức quản lí các giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị trường nhằm bảo đảm sự khách quan, công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.

Thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, điều chỉnh các tác nhân tham gia và hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm bảo đảm mọi hoạt động của thị trường tuân thủ nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của Nhà nước, ngăn chặn và chống các hiện tượng tiêu cực như gian lận, đầu cơ chứng khoán bất hợp pháp...

Kiện toàn bộ máy tổ chức, phân cấp chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lí hành chính công đối với thị trường chứng khoán phù hợp cho các cơ quan nhà nước. Hiện nay ở nước ta, Uỷ ban chứng khoán nhà nước thuộc Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về phát hành chứng khoán, hoạt động kinh doanh chứng khoán và các thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước tổ chức thành lập các thị trường chứng khoán, tổ chức giám sát và hướng dẫn các sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo đúng chính sách pháp luật của nhà nước.

* Đối với thị trường ngoại hối:

Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về quản lí ngoại hối.

Cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối.

Tổ chức điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước; xác định và công bố tỉ giá mua bán ngoại tệ để điều chỉnh thị trường ngoại tệ.

Kiểm soát các hoạt động ngoại hối của các tổ chức.

Quản lí dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Dự trữ ngoại hối của Nhà nước bao gồm: ngoại tệ (tiền mặt, trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài), hối phiếu,  phiếu nhận nợ nước ngoài bằng ngoại tệ, vàng và các loại ngoại hối khác của Nhà nước.

Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các qui định của pháp luật về quản lí ngoại hối; kiểm soát việc xuất nhập khẩu ngoại hối; ngăn ngừa và chống các hiện tượng tiêu cực trên thị trường ngoại hối.

3.5.2. Quản lí hành chính công đối với hoạt động bảo hiểm

3.5.2.1. Khái quát về bảo hiểm

Trong đời sống hàng ngày cũng như trong các hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên tiềm ẩn những rủi ro có thể xảy ra. Để có thể đề phòng, phân tán những rủi ro, tạo điều kiện cho việc đảm bảo ổn định đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, đòi hỏi phải có một một loại hình dịch vụ phù hợp, đó chính là hoạt động bảo hiểm.

         Bảo hiểm là hoạt động tạo lập, phân phối và sử dụng quĩ tiền tệ để đề phòng, chuyển giao, phân tán rủi ro phát sinh trong quá trình tái sản xuất xã hội và đời sống của con người nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống. Trên phương diện tài chính, bảo hiểm là một phạm trù tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với việc tạo lập và sử dụng quĩ bảo hiểm.

Hoạt động bảo hiểm được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:

- Lấy số đông bù số ít. Hoạt động bảo hiểm phải huy động sự tham gia của nhiều người, họ cùng đóng phí với mức có thể chấp nhận được để bù đắp cho những chi phí phòng ngừa rủi ro và thiệt hại của một số ít rủi ro xảy ra.

         - Sàng lọc rủi ro. Không phải bất cứ rủi ro nào cũng chấp nhận bảo hiểm, cần phải xác định những rủi ro nào có thể chấp nhận bảo hiểm và những rủi ro nào cần loại trừ không được bảo hiểm. Các rủi ro có thể chấp nhận bảo hiểm cần được phân nhóm để xác định hợp lí mức phí bảo hiểm và mức trả tiền bảo hiểm.

         - Thận trọng trong hoạt động bảo hiểm. Các tổ chức bảo hiểm là con nợ đối với người tham gia bảo hiểm, nên an toàn tài chính của tổ chức bảo hiểm bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu. Trong hoạt động bảo hiểm, nguyên tắc thận trọng phải được tuân thủ ngay từ việc đánh giá rủi ro, xác định phạm vi bảo hiểm, mức phí và mức chi trả bảo hiểm, các điều kiện chấp nhận bảo hiểm...

Căn cứ vào mục đích kinh doanh hoạt động bảo hiểm, bảo hiểm bao gồm bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội:

- Bảo hiểm kinh doanh là các hoạt động bảo hiểm vì mục tiêu lợi nhuận và do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện.

- Bảo hiểm xã hội là hoạt động bảo hiểm không vì mục đích lợi nhuận, mà nhằm phục vụ cho chính sách xã hội của Nhà nước và do cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện.

3.5.2.2. Nội dung quản lí hành chính công đối với bảo hiểm kinh doanh:

Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam;

Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;

Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực hiện qui tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm;

Áp dụng các biện pháp cần thiết để các doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm;

Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm;

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm;

Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động ở nước ngoài;

Quản lí hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam.

Tổ chức đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí và chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm.

Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.

Phân cấp quyền hạn và trách nhiệm quản lí hành chính công đối với kinh doanh bảo hiểm:

Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm;

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm;

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo qui định của pháp luật;

UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo qui định của pháp luật.

3.5.2.3. Nội dung quản lí hành chính công đối với bảo hiểm xã hội

Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội theo đúng quyền hạn và trách nhiệm được phân cấp.

Chỉ đạo và tổ chức thực hiện thu bảo hiểm xã hội theo qui định của Bộ Luật Lao động, điều lệ Bảo hiểm xã hội và các qui định về bảo hiểm xã hội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quản lí quĩ bảo hiểm xã hội và tổ chức việc chi trả bảo hiểm xã hội đầy đủ, đúng chính sách chế độ, kịp thời cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Từ chối chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá, làm giả hồ sơ, tài liệu để được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội; đồng thời, ra văn bản thông báo việc từ chối chi trả cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật. Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ bảo hiểm xã hội.

Xây dựng và trình Chính phủ ban hành định mức chi phí quản lí, định mức lệ phí thu, chi quĩ bảo hiểm xã hội và các qui định khác có liên quan đến hoạt động bảo hiểm xã hội; tổ chức thực hiện các qui định nói trên.

Lưu giữ hồ sơ, cấp và quản lí sổ bảo hiểm xã hội.

Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán; hướng dẫn nghiệp vụ thu, chi bảo hiểm xã hội và kiểm tra việc thực hiện; tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội.

Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi bảo hiểm xã hội.

Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội.

Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia bảo hiểm xã hội về thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội.

Thảo luận

         Cõu 1. Sự khỏc biệt cơ bản giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoỏn?

         Cõu 2. Sự khỏc biệt cơ bản giữa bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xó hội? Từ đú cú ảnh hưởng gỡ đến QLHCC đối với hai loại bảo hiểm này?

Tiết 17:

3.6. Quản lí hành chính công đối với  kế toán và kiểm toán

3.6.1. Quản lí hành chính công về kế toán

3.6.1.1. Khái quát về kế toán

Kế toán là việc thu thập, xử lí, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động. Kế toán là công cụ hết sức quan trọng của công tác quản lí, là công cụ để nhà nước quản lí các hoạt động kinh tế - xã hội.

Nhiệm vụ của công tác kế toán:

Thu thập, xử lí thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế toán, theo chuẩn mực và chế độ kế toán.

Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp, thanh toán nợ; kiểm tra việc quản lí, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán.

Phân tích thông tin, số liệu kế toán; tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.

Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo qui định của pháp luật.

Yêu cầu của công tác kế toán: 

Phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính.

Phản ánh kịp thời, đúng thời gian qui định thông tin, số liệu kế toán.

Phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác thông tin, số liệu kế toán.

Phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế, tài chính.

Thông tin, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi phát sinh đến khi kết thúc hoạt động kinh tế, tài chính, từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động của đơn vị kế toán; số liệu kế toán phản ánh kì này phải kế tiếp theo số liệu kế toán của kì trước.

Phân loại, sắp xếp thông tin, số liệu kế toán theo trình tự, có hệ thống và có thể so sánh được.

3.6.1.2. Nội dung quản lí hành chính công đối với kế toán

Quản lí hành chính công đối với kế toán là nhằm thống nhất quản lí kế toán, bảo đảm kế toán là công cụ quản lí, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả mọi hoạt động kinh tế, tài chính, cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lí điều hành của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Nội dung bao gồm:

Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kế toán; ban hành, phổ biến, chỉ đạo và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về kế toán: chế độ kế toán, hệ thống tài khoản, sổ kế toán, báo cáo kế toán, hoá đơn chứng từ...

Kiểm tra các hoạt động kế toán và các hoạt động dịch vụ kế toán.

Hướng dẫn hoạt động hành nghề kế toán; tổ chức thi tuyển, cấp và thu hồi chứng chỉ hành nghề kế toán.

Quy định về chế độ, tiêu chuẩn tuyển dụng kế toán trưởng.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật về kế toán.

         Phân cấp quyền hạn và trách nhiệm quản lí hành chính công đối với kế toán:

Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về kế toán;

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về kế toán;  các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lí nhà nước về kế toán trong ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách;

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lí nhà nước về kế toán tại địa phương.

3.6.2. Quản lí hành chính công đối với kiểm toán

3.6.2.1. Khái quát về kiểm toán

Kiểm toán là việc kiểm tra và xác nhận về tính trung thực của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các đơn vị được kiểm toán.

Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kĩ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng.

Theo chủ thể tổ chức thực hiện công việc kiểm toán, kiểm toán bao gồm kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập.

Kiểm toán nhà nước là kiểm toán do cơ quan kiểm toán của Nhà nước tổ chức thực hiện. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở nước ta được thành lập từ năm 1994 và được gọi là Kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.

Kiểm toán độc lập là kiểm toán do các tổ chức kiểm toán độc lập thực hiện. Tổ chức kiểm toán độc lập được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp. Hoạt động kiểm toán độc lập được thực hiện thông qua các hợp đồng kiểm toán giữa đơn vị có yêu cầu kiểm toán và tổ chức kiểm toán độc lập. Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lí của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các đơn vị được kiểm toán khi có yêu cầu của các đơn vị này.

Mục tiêu quản lí hành chính công đối với kiểm toán là nhằm thống nhất quản lí hoạt động kiểm toán; bảo đảm các tổ chức kiểm toán và đơn vị được kiểm toán thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình; bảo đảm cung cấp thông tin kinh tế, tài chính trung thực, hợp lí, công khai, đáp ứng yêu cầu quản lí của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân.

3.6.2.2. Nội dung quản lí hành chính công đối với kiểm toán

Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển hoạt động kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập.

Xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về hoạt động kiểm toán như kiểm toán viên, doanh nghiệp kiểm toán, cơ quan kiểm toán nhà nước, các trường hợp kiểm toán bắt buộc, quyền và trách nhiệm của tổ chức kiểm toán và đơn vị được kiểm toán, nguyên tắc kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán, nội dung và trình tự của công tác kiểm toán...

Tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và cấp giấy phép cho các tổ chức kiểm toán độc lập ra đời và hoạt động. Kiểm tra hoạt động của các tổ chức kiểm toán độc lập ra quyết định thu hồi giấy phép hoạt động khi không đảm bảo đủ điều kiện theo qui định. Quyết định phá sản, giải thể tổ chức kiểm toán độc lập theo qui định...

Tổ chức thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên; thống nhất quản lí danh sách kiểm toán viên.

Quản lí hoạt động hợp tác quốc tế về kiểm toán.

Thực hiện kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về kiểm toán của các tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên, đơn vị được kiểm toán...

Giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật về kiểm toán.

Phân cấp quyền hạn và trách nhiệm quản lí hành chính công đối với kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập:

Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Kiểm toán độc lập:

Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập;

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lí nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập và doanh nghiệp kiểm toán trong lĩnh vực được phân công phụ trách;

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm quản lí nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập và doanh nghiệp kiểm toán tại địa phương.

Thảo luận

         Cõu 1. Tại sao lại phải QLHCC đối với kế toỏn?

         Cõu 2. Cụng việc kiểm toỏn cú phải là sự thể hiện cụ thể của QLHCC đối với kế toỏn?  Tại sao lại cần thiết phải QLHCC đối với kiểm toỏn?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro