chuong5 QLHCC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ch­ương 5. Cải cách hành chính công

Tự học: 12 tiết

- Tập bài giảng “Quản lớ hành chớnh cụng” của Học viện Tài chớnh, Hà Nội – 2006: Chương 5, Trang 177- 203.

- “Giỏo trỡnh Hành chớnh cụng” của Học viện Hành chớnh Quốc gia, Hà Nội – 2007, Chương 5, 6, trang 187- 257.

 - “Những qui định mới của Chính phủ về cải cách hành chính”; NXB Lao động, Hà Nội - 2005 .

- “Chỉ thị 32/2006/CT-TTg của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng” về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỉ luật, kỉ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp.

- “Nghị quyết 26/2008/QH12 của Quốc hội” Thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường.

- “Cải cách hành chính và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng, Viện Nhà nước và Pháp luật.

Tiết 26

5.1. Khái quát về cải cách hành chính công

5.1.1. Quan niệm về cải cách hành chính công

5.1.1.1. Khái niệm về cải cách hành chính công

Cải cách là sự đổi mới một số mặt của sự vật, sự việc mà không làm thay đổi căn bản sự vật, sự việc đó.

Cải cách hành chính công là hoạt động sửa đổi, hoàn thiện các khâu trong lĩnh vực tổ chức quản lí và điều hành; tháo gỡ những ràng buộc bất hợp lí bởi những qui tắc do Nhà n­ước qui định, làm cho bộ máy và cơ chế điều hành hợp lí, phù hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn lịch sử.

5.1.1.2. Vị trí của cải cách hành chính công

Cải cách hành chính công là một bộ phận của cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà n­ước (bao gồm hệ thống của các cơ quan thực thi quyền lực nhà nư­ớc - lập pháp, hành pháp, t­ư pháp) nhằm làm cho Nhà nư­ớc quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn.

ở nư­ớc ta, gần đây trong giai đoạn đầu, cải cách hành chính công đã tập trung vào 3 nội dung:

Cải cách thể chế hành chính nhà n­ước.

Cải cách cơ cấu tổ chức hành chính nhà nư­ớc.

Cải cách nền công vụ (đội ngũ cán bộ, công chức thực thi).

Trong giai đoạn hiện nay (2001-2010), ngoài 3 nội dung nêu trên vẫn được tiếp tục tiến hành, còn cần phải coi trọng cải cách nguồn lực công, trong đó đặc biệt là cải cách tài chính công.

5.1.2. Sự cần thiết phải cải cách hành chính công

5.1.2.1. Các nguyên nhân khách quan: (6)

- Trong điều kiện hiện nay, sự thay đổi xảy ra nhanh chóng thì hoạt động quản lí cũng phải đổi mới cách thức, phương pháp quản lí để đạt được hiệu quả.

- Xu h­ướng chung của các n­ước là phải thu hẹp phạm vi hoạt động của bộ máy quản lí hành chính công.

- Trình độ dân trí ngày càng cao và mọi người đều có khả năng nhận thức khá cụ thể về hoạt động và hiệu quả của các cơ quan quản lí hành chính công è họ mong muốn có đư­ợc tiếng nói của mình trong quản lí hành chính công.

- Tính quốc tế hóa, khu vực hóa của các hoạt động kinh tế đòi hỏi hoạt động quản lí hành chính công phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Khu vực tư­ nhân ngày càng phát triển, tạo cơ hội để họ tham gia nhiều hơn trong các hoạt động vốn do trước đây nhà nư­ớc độc quyền (kinh tế, các dịch vụ về pháp luật, nghiên cứu khoa học, công nghệ, môi trường, y tế, giáo dục, đào tạo...).

- Nhờ có sự trợ giúp của các công cụ mới, Nhà nư­ớc có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn các hoạt động quản lí của mình.

5.1.2.2. Các nguyên nhân chủ quan:

         - Nền hành chính do tính kế thừa, liên tục nên có sức ỳ, trì trệ.

Hệ thống thể chế hành chính công là công cụ cơ bản thúc đẩy các hoạt động của nền kinh tế - xã hội, nhưng lại chậm đ­ược đổi mới.

Tổ chức bộ máy hành chính công cần phải đ­ược tổ chức lại cho phù hợp với điều kiện mới.

Ph­ương thức tác động của nền hành chính đến các đối t­ượng quản lí đang đ­ược thay đổi và do đó các hoạt động của các cán bộ, công chức  phải thay đổi theo. Đội ngũ công chức còn chưa theo kịp, nên chưa đáp ứng được các đòi hỏi mới, cần phải có sự thay đổi để hoàn thiện đội ngũ này.

Tóm lại, cải cách hành chính công không chỉ xuất phát từ sự đòi hỏi của bộ máy hành chính công đối với các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội, mà còn từ sự đòi hỏi của chính bản thân nền hành chính.

Cả yếu tố bên trong và bên ngoài của nền hành chính đều có sự vận động phát triển. Do đó, cải cách hành chính công mang tính tất yếu của mọi quốc gia ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Đó cũng là cách thức làm cho bộ máy quản lí hành chính công của nước ta hoạt động có hiệu quả hơn, nhằm đáp ứng đ­ược đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với mục tiêu "dân giàu, nư­ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".

Tho luận

1. Cải cách hành chính cần được thể hiện ở những lĩnh vực cơ bản nào? Tại sao?

2. Ngoài các nguyên nhân cơ bản nêu trên còn có nguyên nhân nào khác dẫn đến cần cải cách HCC ở nước ta? Vì sao?

Tiết 27

5.1.3. Mục tiêu và quan điểm của Đảng về cải cách hành chính công

5.1.3.1. Mục tiêu cải cách hành chính công

1) Mục tiêu chung

Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực theo nguyên tắc của Nhà nư­ớc pháp quyền XHCN d­ưới sự lãnh đạo của Đảng.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất n­ước.

Hệ thống hành chính về cơ bản phải được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lí nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

2) Mục tiêu cụ thể

Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n­ước, tr­ước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính:

- Đổi mới qui trình xây dựng và ban hành văn bản qui phạm pháp luật.

- Khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản.

- Đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế.

- Phát huy tính dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất l­ượng văn bản qui phạm pháp luật.

Xóa bỏ cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, r­ườm rà, gây phiền hà cho các doanh nghiệp và nhân dân. Hoàn thành các thủ tục hành chính mới theo h­ướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.

Phải xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng đối với các cơ quan trong hệ thống hành chính. Chuyển một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà n­ước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận.  

Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lí theo nguyên tắc: Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lí vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật và chính sách, hư­ớng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy của các bộ đ­ược điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt động của các bộ phận tham mư­u, thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công.

Xác định và thực hiện các qui định mới về phân cấp quản lí hành chính nhà n­ước giữa Trung ư­ơng và địa ph­ương, giữa các cấp chính quyền địa phương, định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn.

Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện đ­ược tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lí nhà nư­ớc theo nhiệm vụ thẩm quyền đ­ược xác định trong luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi). Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của chính quyền cấp xã.

Đến năm 2010, đội ngũ cán bộ, công chức có số l­ượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Cán bộ, công chức phải có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nư­ớc và phục vụ nhân dân.

Tiền l­ương của cán bộ, công chức phải đ­ược cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình của họ.

         Cơ chế tài chính phải đư­ợc đổi mới thích hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.

Nền hành chính nhà nước đ­ược hiện đại hoá một b­ước rõ rệt. Các cơ quan hành chính phải có trang bị hiện đại phục vụ yêu cầu quản lí nhà n­ước kịp thời và thông suốt. Hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ đ­ược đ­ưa vào hoạt động.

5.1.3.2. Quan điểm của Đảng về cải cách hành chính công 

Cải cách và hoàn thiện nền hành chính công gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đổi mới nội dung và phư­ơng thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà n­ước nói chung và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững và phát huy bản chất của giai cấp công nhân, xây dựng nhà n­ước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, d­ưới sự lãnh đạo của Đảng;

Nền hành chính phải đư­ợc tổ chức thành một hệ thống thống nhất và ổn định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chế độ trách nhiệm rành mạch, có kỉ c­ương nghiêm ngặt. Cơ quan hành chính và cán bộ, công chức nhà n­ước phải chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân, áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất dân chủ, tự do, tuỳ tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân.

Các chủ tr­ương, giải pháp cải cách hành chính phải gắn liền chặt chẽ với bước đi của đổi mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất n­ước trong quá trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế. Hình thành và hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị tr­ường định h­ướng XHCN, giữ vững trật tự, kỉ c­ương trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng tr­ưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

Cải cách hành chính công là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi có tầm nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cải cách hành chính với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách t­ư pháp.

Cải cách hành chính công phải đ­ược tiến hành từng b­ước vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể.

Thảo luận

1. Tại sao xu hướng chung các nước là phải thu hẹp phạm vi hoạt động của bộ máy HCC?

2. Cho đến nay, theo ý kiến cá nhân, chúng ta đã đạt được mục tiêu nào? Mục tiêu nào còn chưa đạt được? Vì sao?

 3. Các mục tiêu đã nêu có thể vẫn còn được đề ra từ sau năm 2010 hay không ? Vì sao ?

4. Tại sao cải cách HCC lại phải gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn Đảng?

Tiết 28

5.2. Nội dung cải cách hành chính công

5.2.1. Cải cách thể chế

Ch­ương trình tổng thể của Chính phủ đề ra yêu cầu là xây dựng và hoàn thiện đ­ược các thể chế hành chính nhà n­ước, tr­ước hết là thể chế kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị tr­ường định h­ướng XHCN và các thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nư­ớc. Cải cách thể chế bao gồm 4 nội dung cơ bản sau:

5.2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện các thể chế

Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, tr­ước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nư­ớc. Tập trung vào một số thể chế then chốt:

Thể chế về thẩm quyền quản lí nhà n­ước đối với doanh nghiệp: Phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu, quyền quản lí  hành chính nhà nư­ớc và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.

Thể chế về thị trư­ờng vốn và tiền tệ, thị tr­ường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị tr­ường khoa học và công nghệ, thị trư­ờng lao động, thị tr­ường dịch vụ.

Thể chế về tổ chức hoạt động của hệ thống hành chính công, tr­ước hết là tổ chức hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp.

Thể chế về quan hệ giữa Nhà nư­ớc và nhân dân nh­ư: Thu thập ý kiến của nhân dân tr­ước khi quyết định các chủ trư­ơng, chính sách quan trọng; trư­ng cầu dân ý; xử lí các hành vi trái pháp luật của cơ quan và cán bộ, công chức nhà n­ước trong khi thi hành công vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính và toà án trong việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân.

5.2.1.2. Đổi mới qui trình xây dựng và ban hành văn bản qui phạm pháp luật

Rà soát và hệ thống hoá các văn bản qui phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những qui định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp. Phát huy hiệu quả của cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản qui phạm pháp luật.

Tăng c­ường năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa ph­ương trong việc xây dựng và ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh chờ nghị định và thông t­ư hư­ớng dẫn thi hành.

Nâng cao chất lư­ợng và tránh tình trạng thiếu khách quan, cục bộ trong việc xây dựng văn bản qui phạm pháp luật. Nghiên cứu đổi mới ph­ương thức, qui trình xây dựng pháp luật từ khâu đầu đến khâu Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua để trình Quốc hội.

Ban hành các qui định bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào qúa trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, những ngư­ời là đối t­ượng điều chỉnh của văn bản pháp luật.

Các văn bản luật phải đư­ợc công báo hoặc yết thị, đ­ưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ngay sau khi kí ban hành để công dân và các tổ chức có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.

5.2.1.3. Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà n­ước và của cán bộ, công chức

Cung cấp cho cán bộ, công chức  đầy đủ thông tin về  chính sách pháp luật của Nhà nư­ớc để vận dụng, giải quyết công việc theo chức trách và thẩm quyền.

Thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, chế độ thông tin công khai cho dân về chủ tr­ương, chính sách của Nhà n­ước, của chính quyền địa ph­ương. Chế độ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt ở các ngành ở Trung ư­ơng và địa phư­ơng định kỳ trực tiếp gặp gỡ, đối thoại giải quyết các vấn đề đặt ra.

Phát huy hiệu lực các thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để đảm bảo hiệu lực quản lí nhà nư­ớc, giữ gìn kỉ c­ương xã hội. Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan thanh tra và toà án hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân đối với cơ quan và cán bộ, công chức.

Mở rộng dịch vụ tư­ vấn pháp luật cho nhân dân, cho ng­ười nghèo, người thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc ít ng­ười, vùng sâu, vùng xa.

5.2.1.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính

Thủ tục hành chính là trình tự cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức theo pháp luật. Hiện nay, thủ tục hành chính ở nước ta còn có những hạn chế và nhược điểm, cụ thể là:

- Thủ tục tiến hành còn đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho dân, nhất là những người ít hiểu biết các qui định về lề lối làm việc trong cơ quan nhà nước.

- Còn nhiều cửa, nhiều tầng nấc trung gian không cần thiết; còn rườm rà, không rõ ràng về trách nhiệm.

- Còn trì trệ và còn có thói quen kinh nghiệm chủ nghĩa không thích hợp và không đáp ứng với yêu cầu mới của thời kì mở cửa.

- Thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tuỳ tiện, và còn thiếu công khai.

Chính do những hạn chế, nhược điểm nêu trên đã dẫn đến thủ tục hành chính của chúng ta còn gây nhiều phiền hà, gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy tờ trong guồng máy hành chính và là miếng đất thuận lợi cho nạn tham nhũng phát triển, làm giảm lòng tin của nhân dân, của các tổ chức và các đối tác nước ngoài vào cơ quan nhà nước của ta. Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính đang là yêu cầu bức xúc của nhân dân, của các nhà đầu tư nước ngoài, và là khâu đột phá của tiến trình cải cách hành chính công.

Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là phải đồng thời tiến hành các nội dung cấp bách và thiết thực sau:   

- Đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong giải quyết các công việc hành chính. Loại bỏ các thủ tục r­ườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực, xoá bỏ kịp thời những qui định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm định, giám định.

Mẫu hoá thống nhất trong cả n­ước các loại giấy tờ mà công dân hoặc doanh nghiệp cần phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc về sản xuất, kinh doanh và đời sống. Các cơ quan hành chính các cấp giải quyết các công việc cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy đủ mọi thủ tục, trình tự, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc.

- Ban hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết các công việc của dân. Qui định cụ thể và rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ, đồng thời đi liền với việc đánh giá, khen thư­ởng, kỉ luật cán bộ, công chức. Xử lí nghiêm người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm; khen th­ưởng những ng­ười hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

- Mở rộng thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức ở cơ quan hành chính nhà nư­ớc các cấp.

Theo Quyết định 181/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ, việc thực hiện cơ chế “một cửa” được thể hiện là: tổ chức, công dân có nhu cầu giải quyết công việc, chỉ cần đến một địa điểm tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương sẽ được cung cấp các thông tin cần thiết, đầy đủ và chính xác nhất. Sau khi đã hoàn tất các thủ tục, hồ sơ, giấy tờ theo qui định, sẽ nhận được kết quả giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước cũng tại địa điểm đó. Nhờ vậy, giảm phiền hà và giảm tối đa thời gian giải quyết công việc của tổ chức, công dân; tạo ra một cơ chế giám sát của tổ chức, công dân đối với cán bộ, công chức của cơ quan hành chính nhà nước; góp phần đáng kể cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với công dân và tổ chức, cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh và đầu tư.

Nh­ư vậy, có thể nói cải cách thể chế là một nội dung quan trọng của cải cách hành chính, nó không chỉ là công việc có tính chất hành chính và trách nhiệm của Chính phủ, mà còn là công việc chung của toàn bộ các cơ quan nhà nước.

Thể chế nhà nư­ớc ở tầm vĩ mô đ­ược chứa đựng phần lớn trong Hiến pháp, các luật và pháp lệnh thuộc thẩm quyền quyết định và ban hành của Quốc hội và Uỷ ban Th­ường vụ Quốc hội. Chính phủ có phần trách nhiệm quan trọng trong việc chuẩn bị nội dung các luật và pháp lệnh, sau khi luật và pháp lệnh được ban hành thì ra nghị định hư­ớng dẫn thi hành. Cải cách thể chế đư­ợc đặt ra là: Xây dựng luật cụ thể hơn, giảm pháp lệnh, giảm nghị định và thông t­ư hướng dẫn thi hành luật. Có như­ vậy, mới xoá bỏ được tình trạng luật chờ nghị định, thông tư­, đó chính là mối quan hệ chặt chẽ giữa cải cách hành chính và đổi mới các hoạt động lập pháp.

5.2.2.  Cải cách tổ chức bộ máy hành chính

5.2.2.1. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan hành chính

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa ph­ương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lí nhà n­ước trong tình hình mới, khắc phục tình trạng chồng chéo:

Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước, quản lí vĩ mô, bao quát các thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước; thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Theo đó, các thành viên Chính phủ được phân công và chịu trách nhiệm bao quát các công việc của Chính phủ. Tiến tới Chính phủ chuyển hẳn sang thực hiện vai trò, chức năng của mình trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế, khu vực.

Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện ba loại chức năng, nhiệm vụ chủ yếu:

- Thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực xuyên suốt trong phạm vi cả nước theo sự phân công của Chính phủ.

- Thực hiện chức năng quản lí nhà nước các hoạt động dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực.

- Thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước (đối với một số bộ, cơ quan ngang bộ có các doanh nghiệp nhà nước).

Các cơ quan thuộc Chính phủ không được ban hành các văn bản qui phạm pháp luật. Theo đó, các cơ quan thuộc Chính phủ được phân làm hai loại:

- Một số cơ quan thuộc Chính phủ có một số chức năng, nhiệm vụ quản lí nhà nước đối với ngành, lĩnh vực được giao trong điều kiện nhất định.

- Các cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ không có chức năng, nhiệm vụ quản lí nhà nước, mà chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lí hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công.

Định rõ vai trò, chức năng và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp phù hợp với yêu cầu đổi mới sự phân cấp quản lí hành chính giữa Trung ­ương và địa ph­ương, gắn với các bư­ớc phát triển của cải cách kinh tế.

5.2.2.2. Điều chỉnh các công việc trong các cơ quan hành chính

Từng b­ước điều chỉnh các công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và chính quyền địa phư­ơng đảm nhiệm để khắc phục những chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà n­ước trực tiếp thực hiện.

5.2.2.3. Ban hành và áp dụng các qui định mới về phân cấp trong bộ máy hành chính 

Ban hành và áp dụng các qui định mới về phân cấp Trung ư­ơng, địa phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phư­ơng. Nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phư­ơng. Tăng cư­ờng mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trư­ớc nhân dân địa phư­ơng. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ.

         Định rõ những loại việc địa ph­ương toàn quyền quyết định, những việc địa ph­ương tr­ước khi quyết định phải có ý kiến của Trung ­ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ­ương.

5.2.2.4. Cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ

Xây dựng cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các bộ, cơ quan ngang bộ làm chức năng quản lí nhà n­ước. Trên cơ sở xác định, điều chỉnh chức năng của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ phù hợp với yêu cầu quản lí nhà n­ước về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng và ngoại giao, về mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực trong tình hình mới mà định lại số l­ượng và cơ cấu các bộ, các cơ quan ngang bộ làm cho bộ máy Chính phủ gọn nhẹ, chức trách rõ ràng, làm việc khoa học, làm việc có hiệu lực, hiệu quả. Điều chỉnh tổ chức các cơ quan chức năng quản lí nhà nư­ớc cho phù hợp với cơ cấu Chính phủ, đổi tên một số bộ, cơ quan ngang bộ cho phù hợp với nội dung và phạm vi trách nhiệm quản lí nhà nư­ớc.

Trong giai đoạn I (2001- 2005) vừa qua, đối với cải cách hành chính về tổ chức bộ máy, Chính phủ đã ban hành 39 Nghị định qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của từng bộ, ngành cho phù hợp với tình hình mới. Chẳng hạn, đã thành lập mới một số bộ, cơ quan ngang bộ: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Bưu chính viễn thông, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trên cơ sở có sự sắp xếp lại; đổi tên thành bộ và cơ quan ngang bộ mới: Bộ Khoa học và Công nghệ, Uỷ ban Dân tộc, Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính phủ.

Giảm mạnh các cơ quan thuộc Chính phủ và tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Chỉ duy trì một số ít cơ quan thuộc Chính phủ có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ cho việc quản lí vĩ mô của Chính phủ. Chẳng hạn như, Tổng cục Hải Quan, Ban Vật giá Chính phủ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là các cơ quan thuộc Chính phủ vừa qua đã được đưa về Bộ Tài chính... Nhờ vậy, cơ cấu tổ chức trong bộ máy Chính phủ Khoá XI (2002-2007) đã giảm từ 25 cơ quan trong cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá X xuống còn 13 cơ quan. Tuy nhiên, hiện Chính phủ vẫn còn tới 39 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trong đó có 26 bộ, cơ quan ngang bộ.

Định rõ tính chất, phư­ơng thức hoạt động của các tổ chức tư­ vấn do Thủ tư­ớng Chính phủ thành lập. Chỉ thành lập các tổ chức này khi Chính phủ có yêu cầu chỉ đạo tập trung những nhiệm vụ quan trọng liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Các tổ chức này không có bộ máy chuyên trách và biên chế riêng, bộ phận th­ường trực đặt tại bộ hoặc cơ quan ngang bộ có liên quan nhiều nhất.

Xác định đúng chức năng quản lí nhà nư­ớc và phạm vi quản lí của mỗi bộ, cơ quan ngang bộ. Tách chức năng quản lí nhà n­ước của bộ, cơ quan ngang bộ với toàn ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả n­ước với việc chỉ đạo điều hành các tổ chức sự nghiệp có tính chất dịch vụ công trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ.

5.2.2.5. Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

Các bộ, ngành xác định rõ và thực hiện 3 loại chức năng, nhiệm vụ chủ yếu:

- Quản lí nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.

- Quản lí nhà nước đối với hoạt động dịch vụ công.

- Đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Tách chức năng quản lí nhà n­ước của bộ, cơ quan ngang bộ đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả n­ước với chức năng điều hành các tổ chức sự nghiệp không trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ. Theo đó tách tổ chức hành chính với tổ chức sự nghiệp công để hoạt động theo cơ chế riêng, phù hợp có hiệu quả.

Cơ cấu lại tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, làm cho bộ máy đ­ược tinh gọn, hợp lý, t­ương xứng với chức năng, nhiệm vụ quản lí nhà nư­ớc của mỗi cơ quan. Định rõ tính chất và các loại hình tổ chức trực thuộc để tham mư­u và thực thi pháp luật.

5.2.2.6. Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phư­ơng

Qui định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính ở nước ta để đi đến ổn định; chấm dứt tình trạng chia, tách.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phư­ơng trên cơ sở phân cấp rõ ràng và hợp lí giữa Trung ­ương và địa phư­ơng. Phân biệt chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Tổ chức hợp lí HĐND và UBND ở từng cấp.

Sắp xếp tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo hướng trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính chuyên nghiệp. Giải quyết nhanh công việc hành chính cho cá nhân và tổ chức.

5.2.2.7. Cải tiến ph­ương thức quản lí, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp

Xác định rõ các nguyên tắc làm việc và qui chế phối hợp trong sự vận hành bộ máy hành chính. Định rõ phận sự, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và kết quả hoạt động của bộ máy do mình phụ trách.

Loại bỏ những việc làm hình thức, không có hiệu quả thiết thực; giảm hội họp, giấy tờ hành chính. Tăng c­ường trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành chính trong giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức.

5.2.2.8. Thực hiện từng b­ước hiện đại hoá nền hành chính

Đổi mới tổ chức quản lí văn bản trong giai đoạn mới. Cần có nhận thức đầy đủ về vai trò, nội dung công tác văn thư - lưu trữ; đặc biệt, phải có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo đối với công tác này, để đưa công tác văn thư - lưu trữ vào nề nếp theo hướng văn minh, hiện đại.

Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính nhà nước; áp dụng các công cụ, phư­ơng pháp quản lí tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà n­ước;

Tăng c­ường đầu t­ư cho các cơ quan hành chính các trang thiết bị hiện đại. Cơ quan hành chính cấp xã trong cả n­ước có trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lí; mạng tin học diện rộng của Chính phủ đ­ược thiết lập tới cấp xã.

Thảo luận

1. Tại sao ở nước ta còn có tình trạng luật, pháp lệnh chờ nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành?

2. Theo ý kiến cỏ nhõn, một văn bản luật ban hành đảm bảo cú hiệu lực, hiệu quả thỡ cần phải đảm  bảo những yờu cầu gỡ? Tại sao?

         3. Tại sao núi: Cải cỏch thủ tục hành chớnh là khõu đột phỏ trong cải cỏch thể chế ở nước ta hiện nay? Trong đú, nội dung cấp bỏch nhất là gỡ? Vỡ sao?

4. Tại sao cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh lại khụng thuộc cải cỏch thể chế?

5. Việc điều chỉnh tổ chức cỏc bộ, ngành, phõn định lại địa giới hành chớnh là do Chớnh phủ quyết định? Vỡ sao?

6. Tại sao cỏc cơ quan thuộc Chớnh phủ khụng được ban hành cỏc văn bản qui phạm phỏp luật?

7. Theo ý kiến cỏ nhõn, cỏc cụng việc chuyờn mụn (Qui hoạch, thiết kế, …) cú nờn nằm trong cơ quan nhà nước? Vỡ sao?

Tiết 29

5.2.3. Đổi mới, nâng cao chất l­ượng đội ngũ cán bộ, công chức

5.2.3.1. Đổi mới công tác quản lí cán bộ, công chức (7)

Tiến hành tổng điều tra, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức  nhằm xác định chính xác số l­ượng, chất l­ượng của toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở đó qui hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dư­ỡng,  quản lí đội ngũ cán bộ công chức. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cán bộ công chức để từng b­ước chuyển sang quản lí cán bộ, công chức bằng hệ thống tin học ở các cơ quan hành chính sự nghiệp ở Trung ương và địa ph­ương.

Sửa đổi, bổ sung hệ thống ngạch, bậc, các qui định hiện hành về tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh cán bộ, công chức. Hoàn thiện hệ thống chức danh phù hợp với thực tiễn Việt Nam, yêu cầu công tác chuyên môn của từng đối tượng, làm căn cứ cho việc đánh giá năng lực cán bộ, công chức.

Xác định cơ cấu tổ chức cán bộ, công chức hợp lí gắn với chức năng nhiệm vụ trong cơ quan hành chính, sự nghiệp ở Trung ương và địa ph­ương, làm cơ sở cho việc định biên và xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Cải tiến phư­ơng pháp định biên làm căn cứ cho việc quyết định về số lư­ợng, chất lựơng và cơ cấu cán bộ, công chức phù hợp với khối lư­ợng và chất l­ượng công việc từng cơ quan.

Hoàn thiện chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức, thực hiện qui chế mới về đánh giá, khen th­ưởng, kỉ luật đối với cán bộ, công chức. Cơ chế thi tuyển phải bảo đảm tính dân chủ, công khai; chọn đúng ng­ười đủ tiêu chuẩn vào bộ máy nhà n­ước; đảm bảo một tỉ lệ thích đáng cán bộ, công chức nữ trong các ngành, lĩnh vực khác nhau.

Xây dựng qui định thống nhất về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ở Trung ­ương và địa ph­ương. Thực hiện thường xuyên đ­ưa ra khỏi bộ máy những cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ, những ng­ười vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ. Tạo điều kiện đổi mới, trẻ hoá, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức.

Đổi mới, nâng cao năng lực của các cơ quan và cán bộ làm nhiệm vụ quản lí cán bộ, công chức, công vụ phù hợp với yêu cầu của thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sửa đổi việc phân cấp trách nhiệm quản lí cán bộ, công chức. Mở rộng quyền và trách nhiệm quản lí cán bộ, công chức của chính quyền địa phư­ơng. Phân cấp quản lí về nhân sự đi liền với phân cấp về tài chính.

5.2.3.2. Cải cách tiền l­ương và các chế độ, chính sách đãi ngộ

Quan điểm:

Coi tiền lư­ơng là hình thức đầu tư­ trực tiếp cho con ngư­ời, đầu t­ư cho phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao chất l­ượng cán bộ, công chức hoạt động công vụ.

Nội dung: (4)

Nâng mức sống tối thiểu cho cán bộ, công chức đủ sống bằng l­ương. Cải cách hệ thống thang l­ương, bảng l­ương trên cơ sở xem xét tính chất và đặc điểm lao động của các loại cán bộ, công chức, điều chỉnh bội số và hệ số tiền lương trong các thang bảng l­ương.

Thực hiện cải cách cơ bản chế độ tiền l­ương đối với cán bộ, công chức. Thực hiện tiền tệ hoá đầy đủ tiền l­ương. Điều chỉnh tiền l­ương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội.

Sửa đổi, bổ sung các qui định về chế độ phụ cấp ngoài tiền l­ương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm việc trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm, độc hại.

Ban hành và thực hiện chế độ tiền th­ưởng đối với cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và các chế độ đãi ngộ khác ngoài tiền l­ương đối với cán bộ, công chức.

5.2.3.3. Đào tạo, bồi d­ưỡng cán bộ, công chức (4)

Đánh giá lại công tác đào tạo, bồi d­ưỡng cán bộ, công chức. Xây dựng và triển khai kế hoạch về đào tạo, bồi d­ưỡng cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính sự nghiệp theo từng loại:

- Cán bộ, công chức làm tham m­ưu hoạch định chính sách.

- Cán bộ, công chức ngạch hành chính sự nghiệp và cán bộ chính quyền cơ sở.

Tiếp tục đổi mới nội dung chư­ơng trình và ph­ương thức đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng nâng cao kiến thức kĩ năng hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức theo chức trách, nhiệm vụ đang đảm nhận. Mỗi loại cán bộ, công chức có ch­ương trình, nội dung đào tạo và bồi d­ưỡng phù hợp.

Kết hợp đào tạo chính qui với các hình thức đào tạo không chính qui, đào tạo trong n­ước và gửi đi đào tạo ngoài nư­ớc. Khuyến khích cán bộ, công chức tự học có sự giúp đỡ của Nhà n­ước.

Tổ chức lại hệ thống đào tạo, bồi dư­ỡng cán bộ, công chức. Điều chỉnh sự phân công giữa các cơ sở đào tạo. Tạo điều kiện để Học viện Hành chính Quốc gia, các tr­ường đào tạo cán bộ của tỉnh, thành phố có thể chủ động đào tạo một bộ phận nhân lực phục vụ bộ máy hành chính nhà nư­ớc ở Trung ư­ơng và địa ph­ương.

5.2.3.4. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức (3)

Tăng c­ường các biện pháp giáo dục cán bộ, công chức về ý thức trách nhiệm tận tâm, tận tuỵ với công việc. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cán bộ, công chức. Tôn vinh nghề nghiệp, danh dự của ngư­ời cán bộ, công chức.

Ban hành và thực hiện nghiêm qui chế công vụ, gắn với thực hiện qui chế dân chủ trong các cơ quan hành chính nhà n­ước. Thực hiện triệt để nguyên tắc công khai hoá hoạt động công vụ, nhất là các công việc trong quan hệ trực tiếp với dân, trong lĩnh vực tài chính, ngân sách. Bảo đảm thực hiện kỉ c­ương của bộ máy, nâng cao ý thức tổ chức kỉ luật của cán bộ, công chức.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nư­ớc. Thực hiện chế độ kiểm toán và các chế độ bảo vệ công sản và ngân sách nhà nư­ớc.

Thảo luận

1. Trong đổi mới cụng tỏc quản lớ cỏn bộ, cụng chức hiện nay (Tuyển dụng, thi tuyển, đỏnh giỏ khen thưởng, kỉ luật), vấn đề nào cần quan tõm nhất? Vỡ sao?.

         2. Hiện nay, số cỏn bộ hưởng lương từ NSNN đều là cụng chức nhà nước? Để nõng cao mức sống của cụng chức, quan trọng nhất Nhà nước phải làm gỡ?      

3. Vấn đề cần quan tõm nhất trong đào tạo, bồi dưỡng cỏn bộ, cụng chức? (Đổi mới nội dung, chương trỡnh đào tạo, bồi dưỡng kiến thức…).

         4. Vấn đề cần quan tõm nhất trong việc nõng cao tinh thần trỏch nhiệm và đạo đức cỏn bộ, cụng chức? (Thực hiện nghiờm chế độ cụng vụ, cụng khai húa cỏc hoạt động cụng vụ, nõng cao ý thức tổ chức, kỉ luật; chống quan liờu, tham nhũng…).

Tiết 30

5.2.4. Cải cách tài chính công

5.2.4.1. Đổi mới cơ chế phân cấp quản lí tài chính và ngân sách

Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ư­ơng; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa ph­ương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.

5.2.4.2. Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa ph­ương của HĐND các cấp

HĐND các cấp bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa ph­ương. Tạo điều kiện cho chính quyền địa phư­ơng chủ động xử lí các công việc ở địa phương; quyền quyết định ở các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán đ­ược duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.

5.2.4.3. Phân biệt rõ cơ quan công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công trong quản lí tài chính

Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính. Xoá bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lư­ợng biên chế thay thế bằng chế độ tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả và chất l­ượng hoạt động; h­ướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính; đổi mới hệ thống định mức chi tiêu. Tăng cư­ờng quyền chủ động của cơ quan sử dụng ngân sách.

5.2.4.4. Đổi mới cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công

Xây dựng quan niệm đúng về dịch vụ công. Nhà n­ước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, như­ng không phải vì thế mà mọi công việc và dịch vụ công đều do cơ quan nhà n­ước trực tiếp đảm nhận. Trong từng lĩnh vực, cần định rõ những công việc Nhà nư­ớc phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những công việc cần phải chuyển cho tổ chức xã hội đảm nhiệm dư­ới sự hỗ trợ, h­ướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát của cơ quan sự nghiệp hành chính.

Xoá bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu "Xin - Cho", ban hành cơ chế chính sách thực hiện chế độ tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, như­: trư­ờng đại học, bệnh viện, viện nghiên cứu... Trên cơ sở xác định nhiệm vụ phải thực hiện, mức hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà n­ước và phần còn lại đơn vị tự trang trải. Điều này đã được thể hiện rõ qua Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ “Qui định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”.

5.2.4.5. Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới

Cho thuê đơn vị dịch vụ công, cho thuê đất để xây dựng nhà trường, bệnh viện... Xây dựng chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức chuyển từ các đơn vị công lập sang dân lập.

Cơ chế khuyến khích các nhà đầu t­ư trong n­ước, n­ước ngoài đầu t­ư phát triển cơ sở đào tạo dạy nghề, đại học, trên đại học; cơ sở chữa bệnh có chất lượng cao ở thành phố, khu công nghiệp; khuyến khích liên doanh và đầu tư­ trực tiếp của n­ước ngoài vào lĩnh vực này.

Thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công cộng, như: vệ sinh đô thị, cấp thoát n­ước, cây xanh, công viên, n­ước phục vụ nông nghiệp...

Thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công trong cơ quan hành chính.

5.2.4.6. Đổi mới công tác kiểm toán đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp

Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Xoá bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về mọi hoạt động tài chính công.

Thảo luận

1. Hiện nay, HĐND cỏc cấp của cỏc địa phương đó thực sự quyết định ngõn sỏch của địa phương? Tại sao?

         2. Tại sao lại phải phõn biệt rừ cơ quan cụng quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ cụng trong quản lớ tài chớnh?

         3. Đơn vị dịch vụ cụng và dịch vụ cụng cộng là gỡ? Áp dụng cơ chế tài chớnh mới đối với hai loại đơn vị này là như thế nào?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro