Chuyện bí ẩn thường ngày
CRY BABY
Phải rồi, phải rồi, đúng ra tôi không được làm chuyện đó.
Tôi quả là ngốc. Thầy Kempsy bực bội chỉ lên bảng hỏi:
- Em nào đã làm chuyện này, hả?
Có đứa nào đó đáp:
- Thưa thầy, Cry Baby ạ !
Thầy giáo quát:
- Gavin, đứng lên!
Đáng ra thầy không cần quát tôi phải đứng lên như vậy.
Suốt cả tuần, tôi chẳng bị ai quát lác, tôi vẫn phải đứng đấy thôi.
Tôi đứng trước lớp và qua cửa sổ tôi trông thấy sa mạc rộng mênh
mông vô tận trải dài tới tận chân trời. Ôi, giá như tôi đến được nơi
xa tít mù tắp kia!
Thầy Kempsy chì chiết:
- Có phải chính em đã vẽ cái này phải không?
Thầy thừa biết chính tôi vẽ mà. Vì thế thầy mới hỏi. Tôi gật
đầu.
Thầy nói:
- Vậy thì em hãy kể lại, em đã làm như thế nào đi!
Mọi người nhìn lên bức tranh treo trên bảng.
Tôi đặt tên nó là "tai voi" vì trông nó y như cái tai voi vậy.
Thầy Kempsy lại nói:
- Nào, nói đi, mọi người đang chờ cậu đấy.
Thầy thừa biết tôi đã làm như thế nào. Nếu không thì thầy
đã không hỏi. Tôi hít một hơi rõ dài rồi nói:
- Thưa thầy, tuần trước, khi tan trường em đã đi vào phòng
giáo viên ạ.
Thầy giáo hầm hừ:
- ừ.
- Sau đó em tụt quần và ngồi lên cái máy phôtôcôpy rồi ấn
nút.
Chắc các bạn chưa bao giờ nghe nói đến cái trò nghịch ngợm
tinh quái như thế. Các bạn tôi cười lăn cười bò, nước mắt nước mũi
chảy ra giàn giụa. Tôi đứng ngây ra trước cả lớp. Mặt tôi đỏ ửng
không kém gì cái mông đít bị bỏng của mình. Thầy Kempsy không
cười. Ông phạt tôi phải ở nhà một tuần. Mẹ tôi cũng không cười.
Mẹ mắng tôi một trận té tát. Mẹ nói mãi, nói mãi về cái chuyện đó.
Có ông bố bà mẹ nào lại không mắng con cái như thế kia chứ! Đây
là việc đáng ghét nhất khi người ta còn bé. Chẳng bao giờ có thể
biết trước lúc nào sẽ bị mắng, bị phạt. Chuyện đó có thể xảy ra bất
kỳ lúc nào. Mọi chuyện đang trôi chảy, êm đẹp là thế mà đùng một
cái có thể ăn đòn cho dù mình hoàn toàn không nghĩ rằng sẽ bị
quở mắng. Chuyện xảy ra với tôi trong mấy hôm bị đuổi học vì cái
"tai voi". Tôi sẽ kể cho các bạn nghe. Thế là tôi không được đến
trường mà phải ngồi nhà. Mẹ giận, không nói với tôi dù chỉ một lời,
suốt ngày tôi lại loanh quanh luẩn quẩn trong phòng, thật là khổ.
Đến khi mẹ ra khỏi nhà, mặc dù không ai bảo, tôi cũng làm một lô
công việc. Tôi muốn chuộc lại lỗi lầm của mình mà. Sau khi đã rửa
xong một chồng bát đĩa, tôi ngồi xem ti vi trong phòng.
Trên bàn uống nước có quyển sổ ghi chép của mẹ. Đối với các
bạn thì có lẽ cái đó chẳng có gì là quan trọng. Nhưng các bạn nên
biết rằng mẹ tôi đã căn dặn tôi không biết bao nhiêu lần về cuốn
sổ ghi chép đó.
- Gavin, cấm con không được đụng vào cuốn sổ này.
Đây là cuốn sổ của dì Nellie, sổ chỉ còn có vài trang nhưng đó
là những trang vô cùng quý giá. Dì Nellie bị chết đuối khi dì chèo
chiếc xuồng con và đâm phải chiếc tàu chở đầy ắp gỗ từ trong rừng
chạy ra. Xuồng của dì bị vỡ làm đôi và từ đó không ai nhìn thấy dì
nữa. Mẹ treo trong phòng ăn một bức ảnh của dì và thường hay
đứng lặng trước bức ảnh đó. Như tôi đã nói, lúc đó tôi đang xem
phim "ông già và biển cả" trên ti vi, cuốn sổ ghi chép nằm ở trên
bàn. Cuốn sổ đó có những trang giấy rất mỏng và ngoài bìa là ảnh
một rừng cây rậm rạp tuyệt đẹp. Tôi muốn xem kỹ hơn bức ảnh đó,
chứ không định viết lách cái gì vào cuốn sổ ấy cả và cũng không
định xé lấy một tờ giấy nào hết. Tôi chỉ định xem bức ảnh, vậy thì
hoàn toàn không có gì là sai cả, phải không các bạn? Thế là tôi lấy
cuốn sổ và ngồi xuống ghế.
Giờ thì tôi kể cho các bạn nghe vì sao mọi người gọi tôi là Cry
Baby. Suốt cả tuần tôi không biết đã quên bao nhiêu lần là mông
bị bỏng. Vì thế mỗi khi vô ý ngồi xuống tôi lại bị đau rát đến trào
nước mắt. Và chắc bây giờ các bạn cũng đoán được là tôi lại khóc,
nước mắt trào ra và rỏ xuống cuốn sổ tay quý báu của mẹ. Mặc dù
tôi đã đứng phắt dậy nhưng cuốn sổ đã bị ướt đẫm nước mắt. Tôi
vội xoa đi nhưng không ăn thua. Những hàng cây như khom hẳn
xuống, méo mó, nhăn nhúm, những cái lá trông như sắp lìa cành.
Giấy thì ẩm và nhòe. Tôi hoảng quá, tim đập thình thịch. Phen
này thì chết rồi. Toi là cái chắc. Đầu tiên là cái tai voi, giờ lại đến
cuốn sổ. Mẹ sẽ đánh tôi chết mất thôi. Tôi nghĩ đến chuyện chạy ra
phố mua một quyển sổ khác. Nhưng tôi tin chắc là không thể tìm
được một cuốn sổ đặc biệt như thế này. Tôi lo quá, mà mẹ thì sắp
về đến nơi rồi. Tôi đi ra ngoài nhìn xem có dấu hiệu gì là mẹ sắp về
chưa. Bác Grandpop đang sắp xếp đồ đạc vào chiếc xe gíp. Bác
đang chuẩn bị cho chuyến đi đến sa mạc. Tôi hỏi bác:
- Lần này bác tìm cái gì trong sa mạc ạ?
Bác giơ một bức ảnh rõ to, hai bàn tay run run và nói:
- Bác đi tìm cái vĩ đại nhất, bác phải tìm bằng được con ếch
tích nước. Bắt được một con ếch tích nước là ước mơ suốt đời của
bác.
Trên khuôn mặt già nua đầy nếp nhăn của bác hiện lên một
nụ cười rạng rỡ, hạnh phúc. Bác nháy mắt nhìn tôi. Đây là chuyến
đi thứ mười của bác vào sa mạc để tìm ếch tích nước. Tôi cảm thấy
lo, chỉ sợ bác bị chết mà vẫn không được nhìn thấy con vật kiếm
hoi đó. Bỗng nhiên nước mắt tôi muốn trào ra, tôi cảm thấy buồn
ghê gớm. Tôi muốn quên câu chuyện này đi và nghĩ sang chuyện
khác. Cũng chẳng có gì khó. Tôi chỉ cần nghĩ đến chuyện mẹ sẽ
làm gì khi về đến nhà là đủ! Bác Grandpop hỏi tôi:
- Bác đã kể cho cháu nghe về chuyện con ếch tích nước bao
giờ chưa nhỉ?
Mặc dù tôi gật đầu nhưng bác vẫn kể cho tôi nghe một lần
nữa câu chuyện của mình. Bác nói:
- Loại ếch này sống ở sa mạc. Mùa hè nó uống no nước và
chui sâu xuống cát để tránh cái nắng thiêu đốt. Nó có thể nằm
trong cát cả năm trời để đợi mưa. Khi cơn mưa rào đầu tiên đổ
xuống, nước ngấm vào đất đánh thức những chú ếch đang mơ
màng choàng dậy. Chúng bới cát ngoi lên và reo hát ầm ĩ.
- Thật tuyệt vời, thật sung sướng làm sao!
Lũ ếch khoái quá ngoe nguẩy những sợi râu dài. Bác
Grandpop đóng cửa xe và lấy chiếc chìa khoá ở trong túi quần. Bác
nói chậm rãi, mạch lạc giọng của người già:
- Nói với mẹ cháu là ngày mai bác về, - rồi lên xe và nổ máy.
Từ xa một đám bụi mù bốc lên, đám bụi mỗi lúc một gần. Đó
là chiếc Landrover của mẹ. Tôi thấy bồn chồn lo lắng, không biết
sẽ ăn nói với mẹ thế nào đây.
Phải rồi, phải rồi, đáng ra tôi không được làm điều đó. Tôi
quả là một thằng ngốc. Nhưng tôi đã chót làm việc đó mất rồi. Tôi
mở cửa sau chiếc xe, nhảy tọt lên và trùm chăn lên người. Tất
nhiên các bạn cũng biết là tôi phải gượng nhẹ với cái mông bị bỏng
của mình. Chiếc xe chứa đầy đồ đạc và thiết bị dùng cho các
chuyến đi khảo sát. Đằng sau ghế ngồi của bác Grandpop có rèm
chắn ngang, tôi yên tâm trốn sau những đống chăn, lều bạt và một
lô thùng, xô và chậu. Chiếc xe của mẹ tôi nổ máy rầm rầm chạy
vọt qua. Tôi phải nấp trong xe cho tới khi đến đích. Nếu bác
Grandpop phát hiện tôi sớm, thể nào bác cũng quay xe trở lui ngay
tắp lự. Chiếc xe lắc la lắc lư, thỉnh thoảng lại chồm lên. Trời nóng
nực, tôi thấy khát nước khô cả cổ. Bác Grandpop bắt đầu hát, lời
do bác tự đặt ra. Đó là bài hát buồn buồn về loài ếch con tích nước.
Bài hát kể về những cơn mưa rào đầu mùa đánh thức lũ ếch con
sau giấc ngủ dài triền miên. Bác nói:
- Ôi, giá như ta được nhìn thấy chúng thì tuyệt vời biết bao!
Bỗng nhiên tôi cảm thấy khao khát giúp được bác Grandpop
tìm thấy những chú ếch con này. Việc tôi có tên trong sổ đen của
mẹ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tôi hồi hộp đến độ quên cả khát.
Chiếc xe ô tô vẫn chạy vùn vụt. Tôi nằm sấp và ước ao sẽ là người
đầu tiên phát hiện được những chú ếch con của bác Grandpop chắc
chắn sẽ sung sướng lắm. Mẹ cũng sẽ vui sướng vì mẹ rất quý bác
ấy, may ra mẹ sẽ mắng tôi vì tội trốn đi và làm bẩn cuốn sổ của
mẹ. Nếu được như vậy thì quả là mọi người đều gặp may. Tôi nghe
thấy tiếng còi và nhìn qua cánh cửa sau thấy hai thanh niên lực
lưỡng đang phóng xe như bay. Họ đi chiếc xe Ford màu đỏ loại
bánh rộng. Lão lái xe bóp còi thúc bác Grandpop cho xe chạy
nhanh lên. Con đường vừa hẹp, vừa bụi, bác Grandpop không có
chỗ để né sang bên cạnh cho họ vượt được. Lão lái xe trông rất dữ
dằn, người hắn đầy vết chạm trổ. Tên ngồi bên cạnh ngoáy mũi vẻ
rất khó chịu, mắt gườm gườm nhìn xe chúng tôi. Tội nghiệp bác
Grandpop. Bác nói giọng run run:
- Được rồi, được rồi, ta đang phóng hết sức rồi đây.
Tôi nghe tiếng bác nói rất rõ. Giọng bác không biết tôi đang
chăm chú nhìn chiếc xe chạy đằng sau, nhưng hai tên ngồi trong
chiếc xe Ford thì chắc chắn là trông thấy tôi. Phải rồi, phải rồi,
đáng ra tôi không được làm chuyện đó. Tôi quả là ngốc. Nhưng tôi
không thể làm khác được. Tôi khum ngón tay trỏ và để ngay dưới
mũi. Tôi làm động tác như đang ngoáy mũi. Sau đó tôi ngoáy
ngoáy bàn tay, còn tay kia tôi chỉ về hướng lão đang ngoáy mũi.
Lão ta thôi ngay lập tức, mặt đỏ như gấc. Chiếc xe Ford to lớn
chạy vọt qua xe chúng tôi, tung bụi lên mù mịt. Lão lái xe bóp còi
và quặt xe ngay trước mũi xe chúng tôi. Chiếc xe tải loạng choạng
trượt sang bên cạnh đường. Tôi sợ quá tưởng xe đổ đến nơi. Nhưng
may là không có chuyện gì xảy ra. Cuối cùng thì bác Grandpop
cũng điều khiển cho xe chạy vào giữa đường. Bác hét tướng lên:
- Đồ đểu!
Lúc đó chiếc xe Ford đã chạy mất hút. Hy vọng chúng tôi sẽ
không gặp lại bọn người này.
Cổ họng tôi khô khốc. Xe có một thùng đựng nước nhưng vì
vướng mấy cái hòm gỗ nên tôi không lấy được nước để uống, nếu
sắp xếp, dọn dẹp lại thì sợ bị lộ. Sau khi chạy tiếp bốn tiếng đồng
hồ thì xe dừng ại. Tôi nghe tiếng bác Grandpop xuống xe. Tôi nhìn
qua cửa sổ thì thấy tại đây có một cây xăng nhỏ giữa sa mạc hoang
vu rộng mênh mông. Trên một cái biển có dòng chữ: Trạm xăng
cuối cùng trước khi tới Alice Spings. Phía sau cái bảng, tôi nhìn
thấy chiếc xe Ford màu đỏ đậu trong bóng râm. Bác Grandpop tiếp
xăng. Nhờ đó tôi có dịp uống nước. Nước ở trong một cái thùng
hình trụ, phía dưới có vòi nước. Tôi lấy cốc rồi mở vòi nước. Tôi
khát cháy cổ, uống ừng ực hết cốc này tới cốc khác. Đúng lúc tôi
rót cốc thứ tư thì nghe thấy tiếng hét. Tôi nhìn qua cửa xe thì thấy
cái lão to cao chạm trổ đầy người và bạn hắn đang xô đẩy bác
Grandpop. Chúng giật chiếc mũ của bác và tung chuyền cho nhau.
Chả có ai giúp đỡ bác Grandpop tội nghiệp. Tôi để cho nước chảy
vào cốc và nhảy vọt ra khỏi xe. Bác Grandpop nhảy nhót như một
đứa trẻ đuổi theo giật lại cái mũ. Bác đã già, thở hổn hà hổn hển,
mồ hôi chảy nhễ nhại, ướt đầm má, hay đó là nước mắt của bác
nhỉ? Không giấu gì các bạn, tôi chơi bóng rổ rất cừ. Tôi nhảy vọt
lên lưng lão có nhiều vết chạm trổ và giật lấy cái mũ từ tay lão ta.
Lão khuỵu xuống trong đám bụi mù mịt. Bác Grandpop rất ngạc
nhiên khi trông thấy tôi. Bác reo lên nửa vui mừng, nửa bực bội:
- Cháu Gavin!
Hai lão to cao lực lưỡng lừng lững đi tới chỗ chúng tôi. Bọn
chúng thì không nửa vui, nửa bực mà đang cáu tiết thực sự.
Chúng phăm phăm đi về phía chúng tôi còn hai bác cháu tôi thì lùi
dần từng bước. Nhưng đúng lúc đó thì ông chủ cây xăng xuất hiện.
Tôi chưa bao giờ trông thấy một người nào to lớn đồ sộ như ông ta.
Hai chân ông trông như hai cái thân cây còn hai nắm tay ông
trông như hai tảng đá, ông hỏi:
- Có chuyện gì ở đây thế này?
Lão ngoáy mũi đáp "Không có chuyện gì cả" và cả hai tên lùi
lũi đi tới chiếc xe của chúng. Khi chiếc xe của bọn họ đã chạy, tôi
lại khum ngón tay trỏ dưới mũi, bọn chúng thấy rõ ràng, nhưng
vẫn cho xe tiếp tục chạy. Tôi hoàn toàn yên tâm khi có một người
khổng lồ ở bên cạnh. Cũng may là sau đó chúng tôi không gặp lại
bọn người này nữa. Bác Grandpop mắng tôi nhưng tôi thấy rõ là
bác mừng thầm vì có tôi cùng đi. Bác đi vào chỗ cây xăng và gọi
điện thoại cho mẹ tôi. Tôi đứng chờ phía ngoài, lo không tưởng
tượng được. Một lúc sau bác đi ra và nói mẹ cho phép tôi được đi
cùng với bác. Tôi hỏi bác:
- Thế mẹ cháu có nói gì nữa không ạ?
Bác nháy mắt và nói:
- Mẹ cháu bảo đang viết thư ở một tập giấy mới.
Ôi, tôi thấy nhẹ cả người. Mẹ tôi không còn giận tôi nữa. Bây
giờ thì chúng tôi có thể cùng đi và tìm con ếch tích nước. Tôi cảm
thấy thật dễ chịu, nhẹ cả người khi không còn phải lo lắng gì nữa.
Thật sung sướng khi không còn phải băn khoăn lo lắng về những
sai sót mà mình đã phạm phải. Tôi lên xe và ngồi đàng sau bác
Grandpop. Chúng tôi lại lên đường, xe chạy vun vút vào sa mạc
nóng bỏng, có lẽ cũng gần nóng bằng cặp mông của tôi. Cả bác
Grandpop và tôi không nghĩ đến chuyện tôi quên không vặn vòi
nước.
Bác Grandpop rất vui vì tôi cùng đi. Bác nói:
- Cháu sẽ rất ngạc nhiên khi trông thấy con ếch tích nước.
Sau mùa nóng hạn khi nước mưa xuống đất mềm nhão ra lúc đó
ếch sẽ bới đất chui lên.
Bác tỏ ra tràn trề hạnh phúc, đến nỗi nước mắt muốn trào
ra. Song quả tình tôi không tin mấy vào chuyện đó. Tôi nhìn bãi sa
mạc khô cằn. Lúc này đang là mùa hè nóng bỏng. Tôi hỏi:
- Làm sao bác có thể tìm thấy những con ếch đó, trời khô
nóng thế này thì chúng chắc chắn phải ẩn sâu vào trong lòng đất.
Bác bảo:
- Đào, phải đào cháu ạ. Đất chắc chắn là rắn như đá nhưng
chúng ta đành phải đào thôi.
Xe chúng tôi rời con đường chính và chạy vào vùng đất đỏ au,
khô khốc, chỉ có vài loại xương rồng mới có thể sống nổi.
Thỉnh thoảng bác Grandpop lại dừng xe và lấy la bàn ra để
kiểm tra hướng đi. Cứ mỗi lần dừng chúng tôi lại dốc nước trong bi
đông ra uống. Đang khát cháy cổ mà được uống những ngụm nước
mát rượi giữa sa mạc nóng bỏng thì quả thật không gì dễ chịu
bằng. Sau bốn giờ xe chúng tôi tới vùng hồ nước. Tôi trông thấy hồ
nhưng vào mùa này thì nơi đây chỉ là một khu đất trũng, khô nứt
nẻ. Xe đứng khựng lại. Bác Grandpop thở phào:
- May quá, vừa tới nơi.
Khói trong két phun ra phì phì. Bác Grandpop nói:
- Khỏi lo, chúng ta mang theo rất nhiều nước.
Chúng tôi ra phía sau xe, mở cửa và dỡ đồ đạc xuống. Các
bạn còn nhớ tôi đã nói gì không? Người ta không ai có thể lường
trước, khi nào sẽ rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Khi bác Grandpop
thấy nước không còn lấy một giọt thì chúng tôi biết khó khăn chưa
từng có đã ập xuống đầu mình. Lại một lần nữa tôi làm hỏng hết
mọi chuyện. Bác không hề trách tôi về việc quên không khóa vòi
nước. Bác cũng không la lối, quát tháo. Trông bác thẫn thờ, đờ
đẫn, chứng tỏ bác vô cùng lo lắng. ở chừng mực nào đó, sự im lặng
của bác lại làm tôi sợ hãi hơn là bị la lối quát mắng. Tất cả chỉ tại
những lỗi lầm của tôi. Tôi hỏi:
- Bác ơi, bây giờ chúng ta phải làm gì ạ?
Bác nói:
- Chúng ta sẽ ở lại đây. Một nguyên tắc tối cao trên sa mạc là
không được rời xe. Sẽ có ai đó đi tìm chúng ta.
Tôi nói:
- Nhưng có ai biết chúng ta ở đâu mà tìm?
Bác bảo:
- Họ biết đại để chúng ta ở đâu. Vả lại chúng ta không có
cách nào khác. Cái xe chẳng thể giúp ích gì nữa vì không còn lấy
một giọt nước.
Để làm cho bác vui, tôi đề nghị:
- Trong khi chờ đợi chúng ta sẽ đi tìm ếch tích nước.
Bác lắc đầu và nói:
- Chúng ta phải tiết kiệm năng lượng của mình. Mọi việc
chúng ta cần làm là phải kiên trì chờ đợi được giúp đỡ và cần
tránh mọi sự vận động không cần thiết.
Tôi vô cùng ân hận. Giờ thì bác ấy chẳng bao giờ nhìn thấy
loài ếch tích nước nữa, mà tất cả chỉ vì lỗi của tôi! Chúng tôi lấy
một tấm vải bạt, một phía buộc vào mui xe, làm thành cái mái che
nắng. Bác Grandpop đưa cho tôi bi đông nước và nói:
- Cháu hãy uống hai ngụm.
Tôi ngửa cổ và uống đúng hai ngụm. Ví thử tôi có muốn thêm
cũng không còn đến ngụm thứ ba. Cái bi đông cạn khô. Bác
Grandpop đã nhường cho tôi những giọt nước cuối cùng. Bác là
người như vậy đấy.
Liệu chúng tôi có thể chịu đựng bao nhiêu lâu? Bác
Grandpop chắc sẽ chết trước. Vì tôi thì còn trẻ và khỏe mạnh còn
bác ấy thì già nua, yếu ớt. Điều gì sẽ xảy ra nếu bác ấy bị chết còn
tôi thì sống? Thời gian trôi đi chậm chạp. Màn đêm từ từ buông
xuống. Muỗi bay vo ve. Thỉnh thoảng lại có cái gì đó động cựa
trong đêm tối mịt mù. Trăng lên. Trời lạnh. Chúng tôi cuộn tròn
trong chăn. Sáng ra trời nóng lên rất nhanh. Miệng tôi khô khốc
và đầy cát bụi. Tôi hầu như không thể nuốt được. Bác Grandpop lờ
đờ chậm chạp, dường như bác đang chìm trong một cơn ác mộng.
Mặt trời mỗi lúc một cao. Bác Grandpop lảm nhảm:
- ếch ơi, con ếch tích nước bé bỏng của ta ơi!
Hai mắt bác lờ đờ, dại dại. Hình như bác không còn biết cái
gì đang diễn ra với mình. Cái nóng hành hạ bác. Bác quỳ gối, hai
tay thọc sâu trong cát, miệng không ngớt lảm nhảm:
- ếch ơi, con ếch bé nhỏ của ta đâu rồi!
Tôi nhẹ nhàng dắt bác vào bóng râm ngồi rồi nói:
- Để cháu đi tìm ếch cho bác!
Lúc đó suy nghĩ duy nhất của tôi là phải cố tìm bằng được
một con ếch. Tôi không cần biết liệu mình có thể sống hay phải
chết. Bác Grandpop là người kỳ cục nhưng ước mơ duy nhất của
tôi là phải kiếm được một con ếch và đưa tận tay cho bác con ếch
đó. Tất cả chỉ tại tôi. Tôi chỉ biết rằng không có nước thì bác
Grandpop sẽ không sống được bao lâu nữa. Tôi nhất định phải
thực hiện bằng được ước mơ suốt đời của bác. Tôi phải tìm bằng
được loại ếch đó.
Tôi cầm xẻng và đi tới chỗ đất trũng nhất. Tôi xỉa mạnh lưỡi
xẻng, peng! Chao, đất cứng như đá, những ngón tay tôi tê dại đi.
Cát nóng bỏng, long lanh. Ruồi bay vo ve trước mặt tôi, người tôi
bám đầy bụi cát. Nhưng tôi vẫn mải miết đào, bới. Mỗi lần xía
mạnh mũi xẻng và moi được một ít đất tôi lại thầm gọi:
- ếch ơi, mày ở đâu?
Nhưng không có tiếng trả lời. Lũ ếch tích nước ẩn sâu trong
lòng đất và chúng chỉ bừng tỉnh sau những cơn mưa rào xối xả đầu
mùa. Bàn tay tôi phồng rộp, rớm máu. Tôi đã đào được một cái hố
nông choèn to bằng cái bồn tắm nhưng chẳng thấy tăm hơi con ếch
nào cả. Lưỡi tôi khô cong không khác gì một mẩu da quăn queo, tôi
cảm thấy việc làm của mình là vô ích, tôi nghĩ mình sẽ không thể
tìm được một con ếch nào cả. Bác Grandpop nằm co ro trong bóng
râm. Tôi biết bác còn sống thoi thóp vì lồng ngực bác vẫn phập
phồng lên xuống. Nhưng tôi biết bác sẽ không sống được lâu nữa
nếu không có nước. Không, tôi nhất quyết phải tìm bằng được một
con ếch tích nước trước khi mọi việc trở nên quá muộn mằn. Tôi
không được phép bỏ cuộc. Bác Grandpop lầu bầu trong cơn mê
sảng:
- ếch con ơi, ếch tích nước ơi!
Tôi lấy khăn buộc bàn tay bị phồng rộp và tiếp tục đào. Đau
kinh khủng. Tôi gục đầu cào từng mẩu đất nhỏ. Đầu óc tôi quay
cuồng, choáng váng. Không ăn thua gì. Tôi hầu như không nhấc
nổi cái xẻng được nữa.
Tôi cố duỗi những ngón tay sưng tấy, nhưng không tài nào
móc nổi những tảng đất khô cứng như đá. Thật vô ích. Tôi không
thể tiếp tục làm được nữa. Tôi đăm đăm nhìn chân trời trong vắt
không một gợn mây và hiểu rằng bác Grandpop sẽ không bao giờ
trông thấy con ếch tích nước. Bác ấy sẽ chết và không bao giờ thực
hiện được giấc mơ trong cả cuộc đời mình. Mà tất cả chỉ vì lỗi của
tôi. Ôi, thật là buồn làm sao. Phải rồi, phải rồi, đúng ra tôi không
được làm chuyện đó. Tôi thật là ngốc. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng và
gục xuống. Trời ơi, hai cái mông bỏng rộp, đỏ dừ làm tôi đau kinh
khủng, đau đến mức không thể chịu đựng nổi. Nước mắt nước mũi
tôi trào ra và nhỏ thành giọt xuống mặt đất khô cứng làm cho đất
ở cạnh tôi ướt sũng. Bỗng tôi trông thấy một cái chân xanh xanh
ngọ nguậy và ngay sau đó là cái chân thứ hai. Trời ơi, những giọt
nước mắt của tôi đã đánh thức chú ếch con. Nó mở mắt nhìn tôi
chằm chằm. Tôi sung sướng reo lên:
- Bác ơi, cháu bắt được một con ếch, cháu bắt được rồi.
Tôi từ từ đi về phía bác Grandpop và nhẹ nhàng đặt con ếch
bé tí xíu lên lòng bàn tay bác. Tôi không thể ngờ rằng một con ếch
bé tí xíu lại có sức mạnh lạ lùng đến như vậy. Bác Grandpop bừng
tỉnh dậy và nở một nụ cười rạng rỡ mà tôi chưa hề được chứng kiến
bao giờ. Bác nhìn tôi đầy trìu mến. Bác tỏ ra rất yêu thương tôi và
cả con ếch tí hon. Cái nhìn của bác thật kỳ diệu đến nỗi cả hai
chúng tôi đều không nhận thấy một cơn giông đầy mây đen kìn kịt
đang ùn ùn kéo tới. Chúng tôi ngồi ngẩn người nhìn con ếch tí hon
cho tới khi những giọt mưa đầu tiên lộp bộp rơi. Nước từ từ dâng
lên, hồ nước mỗi lúc một đầy, trong không trung vang lên bài đồng
ca của hàng nghìn chú ếch con bé bỏng. Đúng là một cơn mưa rào
đầu mùa. Bầu trời như tuôn trào nước mắt. Tôi ngây người, tay
xoa mông, ngước nhìn bầu trời và hét lên rõ to:
- Cry Baby, cry Baby, cry!
cô gái bằng băng
Trước kia tôi luôn tránh xa những người có mái tóc đỏ hoe.
Mong các bạn đừng nghĩ rằng tôi là kẻ tôn thờ màu tóc nhé. Các
bạn nghe tôi kể câu chuyện sau đây rồi hãy phán xét. Mọi chuyện
bắt đầu từ ông Mantolini và những pho tượng của ông ấy.
Những pho tượng bằng nước đá của ông Mantolini quả thật
là tuyệt vời. Ông tạc những pho tượng bằng nước đá và bầy chúng
trong cửa hàng cá của mình ngay gần cảng. Mỗi tháng ông trưng
bầy một pho tượng mới. Lúc là pho tượng một con công rực rỡ xòe
đuôi. Khi là một con cá khổng lồ còn ngậm dây câu giãy giụa cho
đến chết. Một trong những pho tượng mà tôi ưa thích nhất là
tượng con chuột túi mang chú chuột con nằm trong túi với đôi mắt
nhìn ngơ ngác.
Nhưng câu chuyện này cũng hơi buồn. Vào ngày đầu tiên
mỗi tháng, ông Mantolini lại vác pho tượng cũ ra cổng sau và
quẳng ở ngõ hẹp, tượng sẽ tan biến thành nước và chỉ để lại một
vệt đất ẩm vì thấm nước. Bao giờ ông ta cũng thay thế bằng một
tác phẩm mới để bày trong cửa hàng. Pho tượng mới rực rỡ óng
ánh và trong vắt như được tạc từ một tảng băng vùng Bắc Cực.
Sáng sáng, trên đường tới trường, bao giờ tôi cũng đứng lại
ngắm nghía những pho tượng của ông Mantolini. Và vào ngày
mồng một hàng tháng khi tan trường trên đường về bao giờ tôi
cũng tạt qua cửa hàng để chiêm ngưỡng tác phẩm mới của ông. Tôi
không tài nào tránh không đi qua ngôi nhà mà mới ngày hôm qua
một tác phẩm nghệ thuật đã tan biến ngoài bãi rác. Một hôm tôi
hỏi ông:
- Tại sao bác lại vứt chúng đi? Bác Mantolini nhún vai nói:
- Người ta sống rồi người ta lại chết mà.
Ông Mantolini hít một hơi dài.
Giờ đến lượt ông sẽ hỏi tôi điều gì đây. Chắc vẫn cái câu hỏi
mà ông đã hỏi tôi mấy tuần nay rồi. "Cô em họ tôi ở Italia sắp
sang. Tháng sau đấy. Cậu đưa cô ấy tới trường nhé. Cậu là bạn.
Em họ tôi tóc màu hung đỏ. Cậu đồng ý chứ?
Tôi lại trả lời như mọi khi: "Rất tiếc, không được đâu". Tôi
không thể nói với ông là tôi không ưa mái tóc màu đỏ. Vả lại tôi
cũng không muốn xúc phạm đến tình cảm của ông. Ông đứng ngây
ra không nói nửa lời. Quả thật ông ấy bị bất ngờ vì chúng tôi coi
nhau như những người thân thiết. Ông biết tôi rất thích những
pho tượng của ông. Bao giờ ông cũng đi ra cửa và trò chuyện với
tôi.
- Cậu thật là người lạ lùng.
Ông lắc đầu và đi vào trong cửa hàng. Nước mắt ông
Mantolini như trào ra. Tôi cảm thấy mình lại làm một điều không
đúng. Thật là không phải, song tôi không thể kết bạn với một
người có mái tóc đỏ.
Cả ngày hôm đó tôi cảm thấy day dứt, khó chịu trong lòng.
Mãi đến khi tan học tôi mới cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút. Hôm
ấy là ngày tháng . Sẽ lại có một pho tượng mới được bầy trong
cửa hàng. Tháng nào cũng như tháng nào và mọi người đều thấy
thích thú. Tôi chạy thật nhanh tới cửa hàng cá và nhìn chằm chằm
vào cửa kính. Thật không thể tưởng tượng nổi. Bức tượng một cô
gái bằng nước đá làm tôi nhớ đến những bức tượng cổ Hy Lạp ở
trong viện bảo tàng. Cô ta có mái tóc dài rối tung, môi mỉm cười
tươi rói. Mắt cô long lanh như kim cương. Tôi nói để các bạn biết,
cô gái bằng băng này thật tuyệt vời, không thể tưởng tượng nổi.
Tôi nhủ thầm: "Ôi, nàng mới đẹp làm sao, tuyệt vời làm sao!" Dù
sao thì đấy chỉ là một pho tượng vô tri vô giác.
Bức tượng cô gái to bằng người thật để trong một tủ đá bằng
kính để giữ lạnh. Má cô phủ một lớp hạt nước đóng băng nhỏ li ti.
Tôi ngẩn người và ngắm nhìn pho tượng rất lâu. Tôi biết, làm như
thế thật là ngốc. Nếu như có ai biết được tôi vừa nghĩ gì thì có lẽ
tôi chết mất. Thật là ngượng. Tôi phải lòng tảng băng. Ngày nào
tôi cũng tới cửa hàng cá. Tôi đi học muộn chỉ vì cô gái băng. Hễ có
phút rảnh rỗi nào là tôi ra ngay cửa hàng. Tôi như bị thôi miên.
Dường như nụ cười của cô gái băng là để dành riêng cho tôi. Hai
tay cô như vẫy gọi. Tôi tự nhủ: "Hãy tỉnh táo lên. Mày làm sao thế,
đồ ngốc!" Tôi biết rõ mình là một kẻ rồ dại, nhưng pho tượng đó
như có ma lực cuốn hút tôi. Tôi lại chạy vội ra cửa hàng cá.
Còn ông Mantolini thì vẫn giận và lánh mặt tôi. Tôi tưởng
tượng cô gái băng là bạn gái của mình. Tôi sẽ kể cho cô ấy nghe về
những điều bí mật thầm kín của riêng tôi. Mặc dù cô chỉ là một
tảng băng nhưng tôi có cảm giác cô ấy hiểu những điều suy nghĩ
của mình. Ông Mantolini thấy rõ tôi bị cô gái băng hút mất hồn.
Nhưng ông không hề bước ra cửa.
Lần nào tôi tới mua cá cho mẹ, ông đều lánh ra cửa sau và
bảo người giúp việc tiếp tôi.
Ngày lại ngày trôi đi. Hết tuần này tới tuần khác. Cô gái
băng vẫn nhoẻn miệng cười. Cô hoàn toàn không thay đổi. Bọn con
trai cho tôi là kẻ dớ dẩn, làm sao lại có thể ngây người ngắm tảng
băng lạnh giá kia chứ. Nhưng pho tượng đó quả thật có sức mạnh
đối với tôi. Thật đấy mà. Dần dần đến lượt bọn trẻ con chế giễu tôi.
Một con bé tên là Simone bảo: "Cậu ta đang tương tư". Tôi phải
chịu bao lời chế giễu ở trường. Nhưng tôi bất chấp. Tôi vẫn đứng
ngắm pho tượng ở cửa hàng. Nỗi buồn man mác trong lòng tôi mỗi
ngày một lớn hơn. Tôi muốn mang cô gái băng về nhà, muốn giữ
mãi bên mình. Nhưng nếu mang pho tượng đó ra khỏi tủ đá, gặp
không khí ấm thì khuôn mặt với nụ cười tươi rói đó sẽ tan biến
thành nước. Tôi lo sợ đến ngày mồng tháng . Ngày hôm đó ông
Mantolini sẽ quẳng cô gái băng ra sau ngõ và cô ta sẽ tan biến
thành nước dưới ánh mặt trời. Đến ngày cuối cùng của tháng chín
tôi chờ cho tới khi ông Mantolini ra tiếp khách ở quầy hàng. Tôi
hét lên:
- Ông không được vứt cô ấy đi. Cô ấy thật là đẹp, trông y như
thật. Ông không được vứt. Xin ông đừng làm như thế!
Xuýt nữa thì tôi đã nói: "Tôi yêu cô ấy", song nếu nói như thế
thì thật là ngốc.
Ông Mantolini nhìn tôi và nhún vai. Ông nói:
- Người ta sống rồi người ta lại chết. Cô ấy là băng, cô ấy
lạnh, cô ấy là nước.
Tôi biết thế là hỏng. Ngày hôm sau tôi trốn học. Tôi nấp ở
sau ngõ và chờ đợi. Giờ phút trôi qua chậm chạp. Thời gian dài lê
thê. Song cuối cùng ông Mantolini và cô gái băng cũng xuất hiện.
Ông ta quẳng bức tượng bên cạnh thùng rác. Nơi an nghỉ cuối
cùng của cô lại nằm lẫn với những đầu cá thối trong một cái ngõ
hẹp vắng vẻ! Ông Mantolini đi vào cửa hàng. Tôi chạy vội tới cô
gái băng của mình. Những hạt băng bé nhỏ vẫn còn bám trên
người cô, làn da cô dinh dính và giá buốt. Kế hoạch của tôi là gửi
cô ở một cửa hàng thịt. Tôi sẵn sàng trả tiền cho chủ cửa hàng nếu
như ông ấy để cô gái vào trong tủ đá và hàng ngày tôi có thể đến
thăm. Song tôi chưa hỏi ý kiến ông ấy. Nhưng tôi nghĩ ông ta sẽ
không từ chối. Phải không các bạn?
Mặt trời lên cao. Tôi phải làm thật nhanh. Cho đến lúc này
cô gái băng vẫn còn nguyên dạng. Tay cô vẫn vươn ra phía trước.
Hình như cô biết thời gian của cô đã điểm. Tôi khẽ nói:
- Đừng sợ, ta sẽ cứu nàng.
Tôi không biết điều gì đã đến với mình. Tôi đang làm một
việc hết sức ngu xuẩn, điên rồ.
Tôi cẩn thận cúi xuống và nhẹ nhàng đặt lên môi cô gái băng
một cái hôn.
Tôi hôn rất lâu. Đó là một nụ hôn dài nhất chưa từng có
trong lịch sử. Môi tôi dính vào môi nàng. Thịt da tôi đông cứng và
dính chặt vào tảng băng. Tôi cảm thấy có những cái kim lạnh giá
làm tê cứng, đau buốt đôi môi của mình. Tôi tìm cách dằng môi
mình ra nhưng không được. Cái đau tê dại làm tôi trào nước mắt.
Những giọt nước mắt của tôi lăn trên má và rơi trên má cô gái
băng.
Chúng tôi lại tiếp tục hôn nhau. Hôn mãi, hôn mãi. Tôi muốn
dứt đôi môi của mình ra khỏi đôi môi của cô gái băng, nhưng vì tôi
lo lắng cho cô nên tôi không thể đơn giản dứt ra, bỏ lại trên môi cô
những mẩu da thấm máu, kỷ niệm đau xót về sự điên rồ của mình.
Tôi đứng đấy, hôn đôi môi băng giá và bất lực không tài nào cựa
quậy được. Tôi tìm cách kêu cứu nhưng không thể nói nên lời. Chỉ
có tiếng u a u ơ phát ra ở mũi nghe đến phát khiếp. Không ai tới
cứu tôi, tiếng kêu ú ớ của tôi như chìm trong ngõ vắng. Tôi ôm
chặt cô gái băng và bế thốc nàng lên. Pho tượng rất nặng và lại
dinh dính vì băng giá. Những ngón tay của tôi dính chặt vào bức
tượng. Pho tượng là người tù của tôi và tôi cũng bị cô gái băng cầm
tù. Mặt trời sưởi ấm phía lưng tôi. Những giọt nước mắt tuyệt
vọng trào ra. Nếu tôi đứng ở đây thì pho tượng sẽ tan ra thành
nước. Tôi sẽ được giải phóng nhưng sẽ mất đi cô gái băng của
mình. Cái mũi, cái cằm xinh xắn của nàng sẽ tan biến thành
những giọt nước lăn tăn. Nhưng cái lạnh toát ra từ người cô gái
băng thật kinh khủng. Đôi môi băng giá mỉm cười của cô đốt cháy
da thịt tôi. Mũi tôi đã bị đóng băng.
Tôi chạy khỏi cái ngõ hẹp ra ngoài đường. Nhiều người đang
đứng ở bến xe buýt. Tôi như muốn la lên "Cứu tôi với, hãy giải
thoát cho tôi nhưng xin đừng làm hỏng pho tượng". Nhưng chỉ có
những âm thanh u u, ơ ơ phát ra. Mọi người tưởng tôi là một tên
rồ. Có vài người cười, tưởng tôi làm trò hề. Chỉ có những tên điên
điên khùng mới ôm lấy một pho tượng để hôn. Tôi chạy vọt tới cửa
hàng của ông Mantolini. Tôi định dùng bàn chân để gõ cửa. Nếu
làm như vậy thì tôi chỉ đứng một chân, lại ôm pho tượng rất nặng
và đôi môi thì vẫn đang hôn đến lạnh cóng. Có tiếng rạn nứt lạo
xạo. Tôi ngã vật xuống. ôi thật đau đớn, khốn khổ làm sao? Ngón
tay, đầu gối và đôi môi của tôi nhức nhối, rã rời. Chẳng thấy bóng
ông Mantolini đâu cả. Có lẽ ông ở buồng trong, phía sau quầy
hàng.
Phải làm gì bây giờ? Tôi nhìn biển khơi xanh biếc. Nếu tôi lội
xuống biển thì tảng băng sẽ tan thành nước. Lúc đó những ngón
tay và đôi môi của tôi sẽ được giải thoát. Nhưng cô gái băng cũng
sẽ tan biến. Tôi nhủ thầm "Buông ta ra đi!" nhưng nàng không trả
lời. Hai bàn tay tôi tê cứng, những mũi kim nước đá lạnh giá làm
da thịt tôi đau buốt. Tôi chạy vội tới nơi neo thuyền và tôi lại thủ
thỉ không nói thành lời với cô gái băng của mình. "Anh rất lấy làm
đau đớn, rất lấy làm đau đón, đau đớn, đau đớn..." Tôi chạy mãi,
chạy mãi dọc bờ biển. Những bước chân của tôi như gõ nhịp cho
suy nghĩ của mình "đau đớn, đau đớn, đau đớn..." Tôi dừng chân
và nhìn trừng trừng những làn sóng dội vào bờ. Sau đó tôi lao
xuống nước, hai tay ghì chặt cô gái băng của tôi vào lòng. Tôi chìm
dần... chìm dần... Trong khoảnh khắc tôi như bị đông cứng lại và
bồng bềnh trôi trên sóng biển nhấp nhô. Tôi thở hổn hển và đau
đớn vì đành phải phó mặc số phận cô gái băng của mình.
Sóng vỗ dạt dào, dồi lên, dập xuống. Nước biển ấm áp tách
đôi môi chúng tôi, ngón tay tôi cũng tách ra khỏi thân thể nàng.
Tôi trồi lên như một cái chai rỗng và nhìn thấy cô gái băng của
mình đang bập bềnh trôi xa. Hai mắt cô không còn nữa, mái tóc
cũng chỉ còn là một tảng băng trong suốt như thủy tinh.
Nụ cười của cô gái băng đã biến mất. Thân thể cô chỉ còn là
một tảng băng đang tiếp tục tan biến trong sóng biển nhấp nhô.
- Không!
Tôi hét lên. Miệng tôi hớp đầy nước mặn và tôi chìm dần.
Người ta nói rằng khi sắp chết đuối, cuộc sống đã qua hiện lên rất
nhanh trong đầu như một cuộn phim. Quả đúng như thế. Tôi lại
trải qua những giây phút kinh hoàng. Tôi nhớ hồi còn bé, học ở
trường làng. Tôi là đứa dát nhất có mái tóc đỏ hoe. Tôi trông thấy
Johnson, tên hung thần ở trong lớp, không ngày nào nó không
hành hạ trêu chọc tôi. Buổi trưa tôi ngồi một mình đơn độc trong
lớp. Không bạn nào dám chơi đùa với tôi chỉ vì thằng Johnson
không ưa mái tóc đỏ hoe của tôi. Rồi tôi lại nghe thấy văng vẳng
bên tai tiếng nó gọi tôi là đồ "cà rốt", là "quỷ đỏ"... Đó là những
hình ảnh cuối cùng lướt qua óc tôi trước khi tôi bị chìm nghỉm
trong một thế giới tối mù và mặn chát.
Nhưng tôi không chết đuối. Nói cho đúng thì mái tóc là thần
hộ mệnh của tôi. Có lẽ mái tóc xoăn tít và đỏ hoe của tôi, trông
như một loài rong biển màu đỏ bị cuốn từ đáy biển lên, rất dễ
nhận ra trong sóng biển dập dềnh. Ông Mantolini và người em họ
của ông đã cứu tôi. Tôi lơ mơ nghe thấy tiếng ông nói với người em
họ: "Cậu ấy sống, cậu ấy chưa chết". Tôi đau nhói trong tim và
không buồn mở mắt, tôi nghĩ tới điều mà tôi đã làm với cô gái
băng. Tôi thì sống mà cô ấy đã chết, chết vĩnh viễn mất rồi.
Cuối cùng tôi cũng phải mở mắt và nhìn những người đã cứu
tôi, ông Mantolini và người em họ ông. Đó là một cô gái tóc màu đỏ
hung loăn xoăn. Cô mỉm cười. Hai mắt cô rực sáng như những viên
kim cương. Tôi xin nói với các bạn: Tony là một cô gái đẹp tuyệt
trần. Đẹp không thể tưởng tượng nổi. Tôi thầm thì:
- Ôi, em xinh quá, em đẹp quá.
Pho tượng đá của ông Mantolini quả là rất đẹp, nhưng không
thể đẹp bằng cô gái bằng da bằng thịt tuyệt vời này. Pho tượng
chẳng qua chỉ là bản sao của cô Tony - em họ ông - mà thôi. Tôi
cười với cô và cô mỉm cười đáp lại. Một nụ cười có thật trong đời.
Tôi bỗng hiểu ra rằng chẳng làm sao cả khi cô gái băng tan biến ra
thành nước và càng không sao khi một cô gái xinh đẹp lại có mái
tóc màu hung đỏ.
CHIếC KèN áCMÔNICA
Tôi đứng trước cây Magnolien mà chẳng thấy sung sướng
một chút nào. Tôi gẩy đàn ghi ta và liếc trộm chiếc mũ của mình
nằm trên mặt đất. Chẳng được bao nhiêu tiền. Quả thật không
được bao nhiêu.
Thị trấn này không quá dăm chục người và họ giàu có gì cho
cam. Chỉ khi có xe buýt may ra mới kiếm được một vài đôla. Khách
du lịch nhiều tiền mà. Họ sẵn sàng quẳng một vài xu cho đứa con
gái tội nghiệp này. Đến khi họ biết chuyện thì cái cây Magnolien
đã bị chết. Những ngón tay của tôi vẫn lướt trên phím đàn, tôi khe
khẽ hát rất cảm động "Bài ca về cô Hardtbristle".
Có người đến! Một chàng trai chạy vội qua đường. Anh ta đi
thẳng tới chỗ tôi. Anh ta buộc tóc như đuôi ngựa, vòng quanh trán
là một giải băng. Trông anh không có vẻ người giàu có, chắc không
có nổi xu trong túi. Nhưng dù sao tôi vẫn tiếp tục gảy đàn. Anh
cho tay vào túi. Biết đâu anh lấy đồng đôla cho tôi thì sao!
Chàng thanh niên lôi trong túi ra chiếc ác mô ni ca.
Tôi cảm thấy tim nhói đau. Không có tiền. Chẳng có nổi một
xu. Chỉ có chiếc kèn ác mô ni ca. Tôi dừng chơi, thở dài và ngồi
xuống gốc cây. Anh chàng tóc đuôi ngựa mỉm cười với tôi. Anh nói:
- Anh biết câu chuyện này, anh biết em đã làm gì.
Tại sao anh ấy lại biết chuyện này? Tôi không hề kể với ai
kia mà.
Tôi cúi gục đầu vì xấu hổ. Tôi nghĩ tới câu chuyện xảy ra
cách đây bảy năm.
Cô Hardbristle khịt khịt mũi ngửi. Cô bảo:
- Nhanh lên, chúng ta phải đi khỏi nơi này.
Hồi ấy tôi mới tuổi. Nhưng tôi không thể quên được những
gì đã xảy ra. Hôm đó tôi cùng đi với cô Hardbristle và nhóm các
bạn nữ trong đội Hướng đạo. Cô Hardbristle nhìn chúng tôi rồi nói
với chồng:
- Ông ơi, cháy rừng! Chúng ta phải đi ngay về thành phố.
Ông Hardbristle đi cùng để "quản lý" chúng tôi. Nhưng nói
thế khác gì nói đùa. Ông đi lom khom, hơi gù và yếu đuối, gần như
không theo kịp chúng tôi. Ông già hơn cô Hardbristle nhiều. Khi
làn gió nóng từ cánh rừng đang cháy thổi tới, một vài đứa con gái
khóc thút thít.
Mặc dù còn bé nhưng bọn tôi đã có thể hiểu rằng không lâu
nữa ngọn lửa tàn nhẫn, độc ác sẽ tràn qua nơi này. Chúng tôi vội
vã lên đường. Ông Hardbristle nói rất to:
- Cứ mặc tôi ở đây. Cô hãy đưa bọn trẻ tới nơi an toàn!
Ông đi sau chúng tôi, thở nặng nhọc như kéo bễ. Bà vợ ông
nói:
- Vớ vẩn! - Cô vắt tay ông qua vai và kéo đi xềnh xệch như
kéo một cái bao tải.
Cô Hardbristle là một phụ nữ kiên nghị và mạnh mẽ. Cành
cây gẫy dưới bàn chân chúng tôi. Mặt trời nóng bỏng chiếu vào
lưng chúng tôi. Một con chuột túi hốt hoảng chạy băng qua chỗ
chúng tôi tuyệt vọng tìm đường thoát thân. Chẳng mấy chốc cả
vùng đặc quánh khói. Chúng tôi ho sặc sụa và kêu khóc ầm ĩ. Cô
Hardbristle thở hổn hển, ra lệnh:
- Nhanh lên các em, chạy nhanh lên.
Sức cô cũng đuối dần. Việc cô phải kéo xềnh xệch ông chồng
già quả quá sức của cô. Cô lại nói:
- Các em, cố lên, chớ có dừng lại.
Chúng tôi vâng lời cô. Cuối cùng chúng tôi cũng lảo đảo vượt
qua rừng chạy được tới thị trấn. Tuy là thị trấn song ở đây không
có quá sáu cửa hàng, một quán giải khát và dăm bảy ngôi nhà. Tôi
hy vọng cha tôi sẽ mang ô tô tới đón tôi ở đây. Nhưng đường phố
đầy bụi bậm, không một bóng người, không một chiếc xe. Cô
Hardbristle từ từ đặt ông chồng ngồi xuống một chỗ râm mát. Cô
nói:
- Ngọn lửa sẽ nuốt gọn thị trấn này mất thôi. Nào, các em,
hãy đi đến vành đai xanh.
ở giữa đường có một bãi cỏ hẹp, trên bãi có dăm ba cái bàn
gỗ. Cô Hardbristle chạy bổ vào một cửa hàng, khi ra cô mang theo
một cái xẻng và một cái chăn khá to. Cô chẳng nói chẳng rằng vội
vàng đào một cái hố. Ông chồng tìm cách giúp vợ một tay, nhưng
ông yếu quá nên chẳng làm được gì. Khói đen cuộn lên ngùn ngụt.
Chúng tôi nghe thấy tiếng lửa réo, tiếng cành cây gẫy răng rắc
trong rừng bao xung quanh thị trấn. Khói đen che cả mặt trời, mặt
mày chúng tôi nhem nhuốc, nước mắt chảy thành dòng. Cô
Hardbristle vẫn mải mê đào, cô đào, đào mãi. Cái hố mỗi lúc một
sâu hơn, mồ hôi ướt đẫm trán cô. Quần áo cô bám khói đen và đầy
đất cát. Không khí nóng hừng hực phả vào mặt chúng tôi. Bỗng
lửa trùm lên chúng tôi. Cửa hàng nổ tung như một trái bom. Ngọn
lửa phừng phừng liếm những bức tường. Cô Hardbristle buông
xẻng, cô không đào nữa và ra lệnh:
- Các em, nhảy xuống hố!
Cô đỡ ông chồng già xuống hố. Cùng với các bạn khác tôi
cũng nhảy xuống. Ngay sau đó chúng tôi thấy cái chăn ướt phủ
trên đầu và tất cả trở nên tối om. Cô Hardbristle đã hắt nước lên
tấm chăn. Ông Hardbristle tội nghiệp lo sợ cho tính mạng của vợ.
Ông gào lên:
- Xuống đi, cô cũng phải xuống đi.
Ông còn nghe thấy tiếng của cô:
- Ông không cần phải lo cho tôi, tôi sẽ không việc gì đâu. Ông
hãy lo cho bọn trẻ.
Lửa cháy phần phật, cuốn ào ào qua chỗ chúng tôi. Khói làm
chúng tôi nghẹt thở, dường như chúng tôi chảy tan ra trong ngọn
lửa hừng hực ở trên đầu. Nhưng chúng tôi đã may mắn thoát chết.
Khi chúng tôi chui ra khỏi hầm thì thị trấn biến mất tăm. Không
còn một ngôi nhà nào. Khói đang tỏa ra từ những cây cột, nhà đã
cháy thành than. Đây đó vài ba thanh sắt cong queo nằm trên mặt
đất. Chúng tôi tìm thấy cô Hardbristle nằm sóng soài ngay cạnh
miệng hố. Cô không bị thiêu cháy nhưng chết vì ngạt thở. Cô đã
cứu tất cả chúng tôi và hy sinh bản thân mình. Ông Hardbristle
quỳ xuống bên cạnh thân thể bất động của người vợ, nước mắt ông
đầm đìa làm ướt cả chòm râu. Vai ông rung lên bần bật, ông không
thốt nên lời trước nỗi đau vò xé tâm can. Cô Hardbristle quả là
một người anh hùng. Cô đã hy sinh tính mạng của mình cứu
chúng tôi thoát khỏi ngọn lửa hung ác. Bố mẹ chúng tôi rất biết ơn
cô và nguyền suốt đời không quên công ơn cô.
Thị trấn được xây dựng lại. Để tưởng nhớ đến người phụ nữ
dũng cảm, cha mẹ chúng tôi đã trồng một cây Magnolien nhỏ bé ở
ngay cái hố mà chúng tôi đã ẩn náu. Ông Hardbristle đau khổ,
tuyệt vọng, ông luôn cho rằng ông có lỗi. Ông nói:
- Tôi thì nấp trong hố để cho vợ chết. Tôi là đồ vô tích sự.
Tất nhiên ông không phải là người vô tích sự. Ông đã già và
yếu. Vả lại có ai khẳng định người chồng phải can đảm hơn người
vợ đâu? Tại sao người vợ lại không làm được những chuyện như
thế kia chứ? Cho dù mọi người khuyên can đến đâu, ông cũng
không thể yên lòng.
Dân phố đã làm cho ông một căn nhà nhỏ và ông không bao
giờ rời ngôi nhà đó. Suốt ngày ông ngồi trên ghế xích đu đặt ngoài
hiên và nhìn chằm chằm cây Magnolien. Hồi ấy, tuy còn bé nhưng
tôi đã nói với ông cái điều mà tôi đã nghe mẹ tôi nói với bố tôi:
- Bác đừng buồn khổ như vậy nữa. Bác gái hẳn mong rằng
bác được sống hạnh phúc, sung sướng
Ông gật gù một lúc lâu rồi thủng thẳng nói:
- Chỉ khi nào cây Magnolien trổ hoa thì bác mới tin rằng bác
gái đã tha thứ cho bác, chỉ đến lúc đó bác mới có thể yên lòng và
sung sướng được.
Tôi chạy về nhà kể cho mẹ những điều bác Hardbristle đã
nói. Mẹ mỉm cười buồn bã. Mẹ bảo:
- Đến lúc cây Magnolien ra hoa, nhiều khi phải mất năm.
Chỉ sợ rằng ông ấy không sống được đến lúc đó.
Song mẹ tôi đã nhầm. Bảy năm trôi qua. Cây Magnolien
chưa trổ bông nhưng ông Hardbristle vẫn ngồi đợi chờ. Cái cây
phát triển rất nhanh, cành lá xum xê, tươi tốt. Thấm thoát tôi đã
tuổi và đã thuộc diện lớp lớn trong đội Hướng đạo. Hơn ai hết
tôi mong ước cây sớm trổ hoa. Tôi cầu mong làm sao để bác
Hardbristle không còn bị mặc cảm tội lỗi. Nếu cô Hardbristle biết
được rằng bác trai ân hận như vậy, thể nào cô cũng mỉm cười với
bác. Vì vậy, vào mùa khô nóng, tôi xách nước tưới cây. Cái xô bé
quá nên tôi chứa nước vào can nhựa. Can này trước kia đựng một
loại bột gì đó, hình như là phân hóa học. Tôi mang nước tới chỗ
cây. Bột hóa chất nổi lềnh bềnh ở trên. Tôi cẩn thận tưới nước vào
rễ cây. Ông Hardbristle vẫn ngồi gật gù trên ghế xích đu, ông lim
dim nhìn tôi làm mà không nói một lời. Sáng hôm sau, cây
Magnolien bị chết, lá héo ủ rũ. Bố tôi nói:
- Lạ thật, làm sao cái cây ấy có thể chết được?
Ông lấy tay quệt một tí bột trắng. Ông kêu lên
- Ai lại rắc hóa chất diệt cây trồng thế này không biết?
Tôi có cảm giác đất dưới chân sụp lở. Tôi cứ nghĩ hóa chất
trong thùng là phân bón. Tôi, chính tôi đã giết chết cây Magnolien.
Tôi nhìn sang chỗ bác Hardbristle vẫn thường ngồi hàng ngày
nhưng chỉ thấy cái ghế trống không. Bác ấy bị ốm, phải nằm trên
giường. Bác ấy sẽ không bao giờ còn thấy cây Magnolien nở hoa.
Giờ đây có hai người ăn năn, ân hận đó là bác Hardbristle và tôi.
Ngoài bác ấy ra không ai biết tôi đã làm gì. Còn tôi thì không
muốn thú nhận. Tôi thấy kinh khủng quá. Tôi mong cũng được ốm
liệt giường, tôi sẽ trùm kín chăn và không bao giờ đi ra ngoài, y
như bác Hardbristle vậy.
Không. Tôi phải sửa chữa sai lầm của mình. Tôi quyết kiếm
tiền để mua một cây Magnolien khác, một cây trưởng thành. Biết
đâu tôi có thể mua được cây đang trổ hoa cũng nên. Và lúc đó bác
Hardbristle sẽ vui sướng. Mẹ bảo tôi:
- Giá một cây Magnolien lớn trồng trong bồn là đôla,
song tất nhiên không phải là cây kia.
Tôi không thể tưởng tượng giá một cái cây lại lên tới
đôla. Tôi không có lấy một đồng, một xu cũng không. Thế là tôi
cầm cây đàn ghi ta, ngả mũ trên mặt đất và ngồi bên cây
Magnolien gảy đàn.
Anh chàng tóc đuôi ngựa mỉm cười với tôi rất lạ lùng. Anh
chìa cho tôi cái kèn ácmônica đã bị móp vài chỗ và nói:
- Em cầm lấy, may ra nó có thể giúp em.
Tôi đưa mắt nhìn cái kèn méo mó, nhún vai nói:
- Em không biết thổi kèn, chỉ biết chơi ghi ta. Cây đàn ghi ta
này bố tôi tặng, tôi sẽ không bao giờ rời bỏ nó.
Anh ngậm kèn và thổi. Tiếng nhạc mới du dương, sôi nổi làm
sao. Tiếng nhạc bỗng vút lên rồi từ từ lắng đọng. Nó réo rắt trong
tai tôi như một bầy chim hót líu lo. Tôi nghe thấy suối chảy róc
rách, gió thổi rì rào trong rừng cây bạch đàn. Tôi như cảm thấy vị
ngọt của mật ong trên những lát bánh mì mới ra lò. Nước mắt tôi
trào ra. Bỗng muôn ngàn tia sáng mặt trời chiếu qua đám mây tỏa
hào quang rực rỡ. Tôi nhận chiếc kèn từ tay anh. Anh dặn:
- Em hãy chơi theo làn điệu của mình chứ không phải của
người khác. Em có làn điệu của em, hãy chơi làn điệu đó.
Nụ cười của anh như thấm vào tâm hồn tôi. Anh nói:
- Trưa mai, giờ anh sẽ tới nhận lại.
Tôi vội nói:
- Mai em phải đi học. Anh cứ yên tâm, hãy đợi em ở cổng
trường.
Anh còn dặn thêm:
- Em chớ quên đấy nhé vì anh còn phải đi tiếp.
Tôi dựa ghi ta vào thân cây và dõi mắt nhìn theo bóng dáng
anh đang vội vã qua đường. Có lẽ anh sống trong lều trại ở ngoài
đó. Chiếc kèn ác mô ni ca bị bẹp và xước nhiều chỗ. Tôi cảm giác có
nhiều người từng chơi chiếc kèn này, họ đã bị lãng quên.
Đúng lúc tôi đưa kèn lên môi thì một chiếc xe buýt chở đầy
khách du lịch chạy tới. Kể từ ngày cây Magnolien được trồng tại
đây, nhiều đoàn khách du lịch đã dừng lại nghỉ chân ở đây trên
đường tới Sydney. Câu chuyện về ông Hardbristle ngồi trên ghế
xích đu chờ cây nở hoa được báo chí tường thuật. Nhiều đoàn
khách du lịch khi tới đây cũng mong được chứng kiến cây ra hoa.
Khách du lịch từ xe buýt nhảy vọt xuống, ai cũng đeo kính râm,
mặc quần soóc, cổ đeo lủng lẳng máy ảnh. Họ muốn chụp ảnh cái
cây, họ chạy tới, chạy lui, vội vội vàng vàng, bỗng nhiên họ ngây
ra. Người lái xe nhìn chằm chằm vào cái cây, buồn bã nói: - Nó
chết rồi! Mọi người giương mắt nhìn những cái lá ủ rũ. Họ trở lui
định nhảy lên xe. Thế này tôi làm sao kiếm được tiền. Tôi vội
ngậm cái kèn rồi tìm một làn điệu gì đó. Tự nhiên tôi nhớ đến bài
"Hang down our head, Tom Dooley, hang down our head and cry".
Đó là bài hát duy nhất mà lúc này tôi còn nhớ. Bản nhạc thật buồn
bã, ai oán. Khách du lịch bắt đầu xụt xịt. Một ông khách người
Hoa Kỳ đội cái mũ rộng vành to tướng vội lấy khăn xỉ mũi. Bà
khách người Nhật nước mắt đầm đìa. Bản nhạc mới buồn bã làm
sao. Cái kèn này có một sức mạnh thật đặc biệt. Chẳng mấy chốc
các vị khách du lịch đều khóc thút thít. Họ đứng đó, ôm nhau thổn
thức. Nhưng không có ai quẳng lấy một xu vào cái mũ của tôi. Có
chuyện gì đó không ổn. Kiểu này cái kèn sẽ không đem lại cho tôi
hiệu quả mong muốn. Tôi cố nhớ lại một điệu nhạc vui vẻ. Tôi sực
nhớ làn điệu bài Cancan. Đó là một vũ khúc vui nhộn, sống động.
Khách du lịch khoác tay nhau nhảy múa. Họ tung chân phải, đá
chân trái, họ nhảy múa thật say sưa không biết mệt. Nhưng họ
khoác tay nhau như thế kia thì làm sao lấy được tiền để quẳng vào
mũ cho tôi! Bản nhạc chấm dứt, tôi ngừng chơi.
Những người khách du lịch giương mắt nhìn nhau, họ không
hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra với mình. Họ chạy vội chạy vàng ra
xe và chẳng ủng hộ cho cây Magnolien được xu nào.
Tôi liếc mắt nhìn chiếc ghế bỏ trống của bác Hardbristle và
nghĩ phải làm ngay một việc gì đó. Tôi chọn một bản nhạc khác,
"Kookaburra sits on the old gum tree". Đây là một bản nhạc rất
vui nhộn, sảng khoái. Những người khách du lịch cũng vui nhộn,
sảng khoái khi họ leo lên những cây bạch đàn hai bên đường. Họ
ngồi trên các cành cây như một bầy chim. Tôi muốn ngừng chơi
nhưng không thể nào dừng được. Hình như với chiếc kèn này, khi
đã bắt đầu thổi một giai điệu nào đó thì phải chơi đến cùng. Bây
giờ tôi thổi đến đoạn "Laugh Kookabura, Laugh Kookabura". Thế
là họ, chứ không phải những con chim khổng lồ Kookabura, đua
nhau cười ầm ĩ. Họ ngồi trên những cành cây ngửa mặt nhìn lên
trời và cười nhăn nhở như những con lừa.
Cuối cùng tôi cũng dừng lại được. Khách du lịch la hét hoảng
loạn. Hình như có cái gì đó làm họ sợ sệt bủn rủn chân tay. Họ
nhảy vọt xuống và chạy tọt vào trong xe. Tôi vẫn không nhận được
một xu của họ. Tôi tuyệt vọng vội cố thử lại một lần nữa. Bài hát
mà tôi thổi lần này có tên "áou can leave áour hat on". Khách du
lịch dừng lại. Họ bắt đầu khiêu vũ với những động tác lả lướt và cử
động chân tay khá đặc biệt. Cái ông người Nhật Bản từ từ cởi cúc
áo và quẳng cái áo khoác trên mặt đất. Còn ông người Mỹ thì tháo
giày vứt đi. Ba người khác cởi áo len theo nhịp điệu bản nhạc. Một
bà béo ụt ịt co chân cởi tất. Thôi chết tôi rồi, tôi chọn phải bản
nhạc khỏa thân!
Tôi muốn ngừng lại, nhưng không được. Tôi phải thổi đến
hết bài. Cuối cùng ba chục khách du lịch đều chỉ mặc đồ lót ngẩn
tò te giương mắt nhìn nhau. Họ la lối om sòm và chạy bổ vào xe.
Thôi mặc xác họ, để họ biến đi. Tôi không thể làm gì với chiếc
kèn ác mô ni ca này. Xe buýt nổ máy chạy vút đi, để lại phía sau
một đám bụi mù mịt.
Không hiểu có chuyện gì xảy ra? Chiếc kèn không giúp tôi
giải quyết vấn đề của mình. Với cái đà này tôi sẽ không thể nào có
được một cái cây mới cho bác Hardbristle. Bỗng tôi nhớ lại lời dặn
của anh thanh niên tóc đuôi ngựa. Anh ấy đã bảo tôi: "Em hãy
chơi bản nhạc của bản thân mình chứ không chơi nhạc của người
khác, hãy chơi bản nhạc của em!". Song tôi chưa hề sáng tác nhạc.
Anh ấy nói như vậy nghĩa là gì nhỉ? Hay ta cứ thổi đại một làn
điệu mà ta đang có cảm hứng.
Tôi đi chậm rãi tới chỗ mấy cửa hàng, đặt mũ xuống đất và
bắt đầu thổi kèn. Một bản nhạc buồn bã nổi lên từ đáy lòng tôi, tôi
chưa bao giờ thấy có bản nhạc nào buồn hơn. Bản nhạc từ từ hiện
lên trong đầu khi tôi thổi kèn. Bài hát nói về nỗi đau đớn, buồn
khổ của bác Hardbristle và về cái cây bị tôi làm khô héo. Những
giọt nước mắt của tôi hiện lên trong bài hát này. Bài hát không kể
thành lời câu chuyện một cô bé do vô tình đã gây nên tai họa và về
lai lịch một cái cây bị chết khô. Bản nhạc thấm đọng, sâu lắng, nó
có thể làm cho những người yêu nhau suốt đời yêu nhau say đắm,
không thể chia lìa. Ông Windfall đi ra cửa ngơ ngơ như đi trong
mơ. Ông dừng lại, nhìn tôi với con mắt trong suốt như thủy tinh.
Đôi mắt đó đã nhìn thấy cái điều mà những người khác không
thấy.
Tôi dừng lại. Ông vội vàng tha thiết đề nghị tôi tiếp tục thổi.
Ông lấy trong ví đồng đôla đặt vào cái mũ của tôi. Tôi lặng lẽ
mỉm cười nhìn ông và thổi tiếp. Nhiều người khác kéo tới. Kia là
ông Ralph, thầy giáo chúng tôi. Một nụ cười dịu dàng như bông
hiện lên trên khuôn mặt đôn hậu của thầy. Sue Rickets và hai
thằng ngỗ ngược học lớp dừng chân trố mắt nhìn. Sue Rickets là
đứa vốn ghét cay ghét đắng tôi. Nhưng lúc này nó hoàn toàn khác.
Tiếng nhạc đã làm nó hiền như một chú cừu non.
Tôi nhìn hết người này tới người khác. Mọi người đang trong
một chuyến đi rất đặc biệt. Tiếng nhạc đã đưa họ đến những nơi
xa lạ mà trong điều kiện bình thường họ không bao giờ có thể tới
được.
Cuối cùng bản nhạc cũng kết thúc. Tôi không thở được nữa.
Cả nhóm đứng tần ngần, bất động. Rồi mọi người như bừng tỉnh
vội vàng thả tiền vào cái mũ của tôi. Sự hồi tưởng về quá khứ đã
chắp cánh cho họ. Tôi đếm số tiền trong mũ, tổng cộng được
đôla. Cứ cái đà này chẳng mấy chốc tôi sẽ kiếm được đôla để
mua một cây mới mà chẳng mất cái gì cả.
Tôi nhìn đồng hồ và vội vã ra về vì còn phải bổ một đống củi
to tướng trước bữa ăn tối. Thế là tôi ba chân bốn cẳng chạy về nhà.
Cơm tối đã xong. Bố mẹ ngồi bên cạnh lò sưởi. Bố mẹ rất thích
nghe tôi chơi ghi ta bên ngọn lửa bập bùng. Nhưng tôi không chơi
ghi ta mà thổi kèn ácmônica. Bản nhạc mà tôi đang chơi không có
tên và cũng không có lời. Đó chỉ là những giai điệu toát ra từ đáy
lòng tôi. Tôi thổi một bài hát về bà tôi, tôi thấy bà đang cù mình
như hồi xưa. Đó là một giai điệu vui tươi thoải mái. Trong lúc thổi
kèn tôi muốn cười vang. Mọi chuyện cứ như là thật, nỗi đau đớn vì
bà đã ra đi như không còn nữa. Chúng tôi ai nấy đều vui mừng vì
lại có bà ở bên cạnh.
Tôi nhìn mẹ đang mỉm cười trìu mến và trong thâm tâm tôi
thấy mẹ đang được bà ôm ấp như ngày xưa, khi mẹ còn bé tẹo tèo
teo. Cuối cùng cả bố, mẹ và tôi ngủ thiếp đi bên lò sưởi ấm áp lúc
nào không biết. Sáng hôm sau, tôi thấy mẹ chưa bao giờ vui vẻ
như hôm ấy. Chiếc ácmônica của tôi đã làm cho mẹ lâng lâng sung
sướng. Tôi cảm thấy không thể rời cái kèn này. Chẳng biết anh
chàng tóc đuôi ngựa có đồng ý đổi cái kèn lấy cây đàn ghi ta của
tôi không? Nhưng tôi cũng không thể xa cây đàn ghi ta này. Nếu
không thì bố sẽ chẳng khi nào tha thứ cho tôi. Bố đã tặng tôi cây
đàn này nhân dịp lễ Giáng sinh. Tôi nhặt nhạnh đôla và cho
vào bụng cây đàn ghi ta. Sau đó tôi đến trường. Chiếc kèn này có
thể giúp tôi kiếm được một nghìn đôla để mua một cái cây mới.
Nhưng liệu từ giờ đến mười hai giờ trưa có còn kịp được không?
Trường tôi chỉ có một thầy và hai mươi trò. Tất cả chúng tôi
cùng học chung trong một lớp. Học sinh lớn giúp học sinh nhỏ. Còn
thầy Ralph thì chỉ bảo tất cả chúng tôi. Thầy là người rất hiền.
Chẳng bao giờ tôi thấy thầy cáu kỉnh, gắt gỏng. Chúng tôi không
ai là không kính yêu thầy. Thầy nhìn tôi và nói:
- Em Nicole có tài thổi ácmônica mà kín tiếng quá.
Các bạn trong lớp đều đứng dậy.
Thầy giáo lại bảo:
- Em thổi một bài cho cả lớp cùng nghe đi!
Tôi lại ngậm kèn và thổi, những điều suy nghĩ của tôi được
thể hiện bằng tiếng nhạc. Các bạn gục đầu xuống bàn, mọi người
đều nhìn thấy những điều tôi nhìn, mơ màng giấc mơ như tôi.
Được như vậy là nhờ tiếng nhạc! Tôi đưa các bạn cùng đi thuyền
lướt trên biển bạc long lanh. Tôi cùng các bạn bay qua những tầng
mây tít tận trời cao, cùng các bạn chiêm ngưỡng đáy biển sâu
thăm thẳm và lên những đỉnh núi cao chót vót, không khí ở đây
lạnh buốt đến tận cuống phổi mỗi khi hít thở. Tôi để thác nước tỏa
muôn ngàn giọt nước li ti phủ lên thầy giáo và tất cả các bạn. Tôi
để các bạn được ôm ấp trong vòng tay những người thân yêu đã
chết từ lâu lắm rồi. Tôi làm được những điều đó chính nhờ có cái
kèn.
Thời gian trôi qua thật nhanh. Phút chốc đã giờ trưa.
Chuông báo giờ nghỉ trưa kêu leng keng. Nhưng tôi mới có vỏn vẹn
đôla. Mà tôi cần những . Cái cây Magnolien mới, phải có
đủ năm tuổi. Mà một cây như thế thì rất đắt. Tôi chỉ có thể thật
sự vui mừng khi nhìn thấy nụ cười hớn hở hiện lên trong ánh mắt
của bác Hardbristle. Tôi chạy nhanh khỏi sân trường và trốn trong
rừng thông gần đó. Anh chàng tóc đuôi ngựa tới cổng trường. Tôi
ngồi trên cành cây và trông thấy anh rất rõ. Tôi thấy anh nhìn
chằm chằm vào sân tìm tôi. Tôi nhìn thấy anh buồn bã thất vọng,
quay lưng đi về phía bờ sông.
Tôi ngồi yên trên cây cho tới khi có tiếng chuông reo. Tôi
chẳng thấy vui vẻ mấy vì vẫn còn giữ cái kèn, song tôi chỉ muốn
làm một việc tốt. Tôi muốn dùng cái kèn để mua một cây
Magnolien mới. Sau đó tôi sẽ trả lại. Chắc chắn là thế. Nhưng có
chuyện gì đó khang khác kể từ lúc tôi quyết định giữ lại cái kèn.
Trong giờ học không ai đoái hoài đến tôi nữa. Thầy Ralph
cũng không bảo tôi thổi để cả lớp cùng nghe nữa. Tôi quyết định cứ
thổi kèn mà chẳng cần chờ ai đó yêu cầu. Tôi lại ngậm cái kèn của
mình.
Của tôi ư? Đâu phải. Cái kèn này không phải của tôi. Tôi
nắm chặt cái kèn giá lạnh. Nó có vẻ hằn học, ghẻ lạnh. Tiếng nhạc
không phát ra nổi. Tôi cảm thấy ớn lạnh ở sống lưng. Với những
ngón tay run rẩy, tôi ấn cái kèn vào mồm, tôi ra sức thổi phù phù
và chỉ tạo ra một âm thanh rè rè ghê rợn. Mọi người thở dài. Tiếng
rè rè đó làm các bạn nhức tai. Tôi thử lại một lần nữa. Cái kèn
như muốn cưỡng lại những ngón tay đang bấu chặt lấy nó. Cái kèn
co rúm lại, giãy giụa cứ như nó là một sinh vật sống vậy. Nó muốn
đi khỏi nơi này, còn tôi thì cố ghì nó chặt hơn nữa.
Lúc đó một việc kinh khủng xảy ra. Tôi cũng không biết tại
sao? Như thế nào? Tự nhiên cái kèn chui tọt vào mồm tôi rồi nằm
ngang chành bành to tướng như quả chuối. Má tôi càng lúc càng
căng phồng làm tôi cảm thấy đau nhói, nước mắt trào ra. Từ một
nhạc cụ cái kèn trở thành dụng cụ tra tấn. Tôi lảo đảo đứng dậy.
Mỗi lần thở, cái kèn lại rít lên rất chói tai, khó chịu. Tôi rên rỉ, cái
kèn cũng rên rỉ nức nở. Nó phát ra những âm thanh ghê rợn. Mọi
người bịt chặt tai, không ai chịu nổi những tiếng chói tai, kinh
hoàng đó.
Không khí như rung lên trong tạp âm hỗn độn chát chúa.
Những cái nhìn đau đớn, kinh hoàng dồn về phía tôi khi tôi
lảo đảo chuệnh choạng lết ra cửa. Tôi điên lên. Xét cho cùng tôi
không có lỗi. Tôi chỉ muốn chuộc lỗi lầm về việc đã làm chết cái
cây. Tôi chỉ muốn kiếm tiền để mua một cây mới. Tại sao bây giờ
mọi người lại ghét bỏ, ruồng rẫy tôi? Tôi cũng căm ghét bọn họ.
Bản nhạc là một bài ca nói lên sự đau đớn, buồn tủi, nó làm cho
người ta có thể nhìn thấy chân tướng của mọi sự xấu xa đồi bại. Đó
là âm thanh của những trái tim tan vỡ, âm thanh của chiến tranh
và bệnh tật, giết người và trộm cướp, trả thù và bất hạnh. Tôi nhìn
thấy những cái đó trong ánh mắt thầy Ralph và các bạn. Mọi
người đến gần tôi, bao vây tôi và chĩa những ngón tay với móng
sắc nhọn như vuốt về phía tôi. Tôi vội xách cây đàn ghi ta nhào
qua đám đông cắm đầu cắm cổ chạy một mạch ra cửa.
Mặt trời đã lặn. Một ngọn gió lạnh phả vào khuôn mặt đầy
nước mắt của tôi. Mưa rơi buốt giá. Khi tôi thở hổn hển cũng là lúc
cái kèn rống lên. Cứ như thế tôi bước đi thất thểu trên sân trường.
Mặc dù tôi đã sợ hãi kêu rống lên, thầy giáo và các bạn trong lớp
vẫn đi theo tôi. Họ đang muốn những giọt máu của tôi. Tôi đã biến
họ thành những con vật hung ác dữ tợn. Tim tôi đập thình thịch
như muốn vỡ lồng ngực, phổi tôi gào thét, van xin được bình yên.
Cái kèn đang chơi bản nhạc về cuộc chạy trốn của tôi và mọi
người đều nghe thấy. Tôi lảo đảo chạy ra phố, cái kèn vẫn nằm
chềnh ềnh trong mồm tôi. Tôi không tài nào lấy nó ra được. Những
người bán hàng, những chủ trang trại hòa vào đám đông đuổi theo
tôi. Bài hát về sự đau khổ và nước mắt đã làm cho mọi người tức
tối. Họ muốn làm tất cả để tôi ngừng thổi.
Tôi chạy chuệch choạng và đâm bổ vào cây Magnolien rồi
ngã sóng soài trên mặt đất. Tôi đã kiệt sức. Mỗi lần tôi thở, lại
phát ra những tiếng rít chói tai. Đám đông vây chặt lấy tôi. Tôi
không thể chịu nổi họ. Tại sao họ lại đối xử tệ với tôi? Tại sao họ
không để tôi yên? Tôi nhìn cái cây bị chết và ước họ cũng như cái
cây này, sẽ biến thành gỗ, trái tim của họ cũng hóa gỗ. Với mỗi
nhịp thở cái kèn lại phát ra âm điệu của bài ca thù hận. Bất thình
lình bọn trẻ con, chủ cửa hàng, chủ trang trại và cả thầy Ralph
đều trở thành cứng đờ, bất động. Bọn họ đã thỏa mãn ước mơ của
tôi, tất cả đã hóa thành gỗ trước mắt tôi, mặt gỗ, quần áo gỗ và cả
tóc cũng là gỗ. Tự nhiên tôi trở thành một người đơn độc giữa thị
trấn toàn tượng là tượng. Giờ thì bọn họ không còn là lũ người
khát máu tôi nữa. Họ đứng trơ trơ giữa trời mưa như những bia
mộ. Họ đứng đó câm lặng, dữ dằn.
Trong khoảnh khắc, tôi như bị chết lịm đi. Tôi tìm cách lấy
cái kèn ra khỏi đôi môi run rẩy nhưng không tài nào làm được, nó
nằm trơ trơ không nhúc nhích, quyết không chịu ra khỏi miệng tôi.
Bỗng nhiên cửa bật mở. Bác sĩ Jenson xuất hiện. Ông sững người,
há hốc mồm trước những pho tượng bất động trên đường phố.
Ông đứng ngược hướng gió nên không nghe được bản nhạc
khủng bố của tôi. Ông là bác sĩ, chắc ông có thể lấy cái kèn khốn
khổ này ra khỏi miệng tôi. Ông rảo chân về phía tôi nhưng mới
được vài bước ông bỗng đứng sững lại. Khi nghe những nốt nhạc
đầu tiên ông cũng đã bị hóa thành gỗ. Mãi tới khi chìm đắm trong
không khí tĩnh lặng, yên ắng trong toàn thị trấn tôi mới thấu hiểu
điều gì đã xảy ra. Tôi không thể về nhà bây giờ nếu không bố mẹ
tôi cũng sẽ hóa gỗ. Tôi không nên lại gần những chỗ có người và
cũng không ai là người có thể giúp đỡ, cứu vớt tôi. Liệu có ai cứu
được tôi không?
Liệu người thanh niên ấy còn ở bờ sông không nhỉ? Anh ấy là
hy vọng cuối cùng của tôi. Cái kèn này là của anh ấy. Giá mà tôi có
thể trả lại nó cho anh! Tôi thất thểu ra khỏi thành phố, đi quanh
trường học, qua cái hiên trơ trọi nhà bác Hardbristle, qua những
bụi cây ra phía bờ sông. Tôi không thấy một chút dấu vết gì của
anh ấy. Những cơn gió lạnh vô tình lùa vào mặt tôi. Tôi đi dọc theo
bờ sông với niềm hy vọng tìm thấy anh ấy để có thể trả lại cái kèn.
Tôi đi, đi mãi và cuối cùng đứng trên một mỏm đá cao, từ đây tôi
có thể phóng tầm mắt nhìn rất xa và con sông chỉ còn là một sợi
dây ngoằn ngoèo dưới thung lũng.
Tôi phát hiện thấy anh ấy. Anh ấy kia rồi. Lưng anh quay về
phía tôi, chân anh đang bước nhanh về phía rừng. Tôi cố gọi thật
to nhưng không tài nào gọi được. Chỉ có những tiếng u a u ơ phát
ra theo nhịp thở của tôi. Tôi bỗng thấy sợ hãi. Điều gì sẽ xảy ra khi
bản nhạc của tôi biến anh thành gỗ? Ai sẽ là người có thể cứu tôi?
Tôi cố nín thở giơ cao cây đàn ghi ta vẫy anh, nhưng anh lại
quay lưng về phía tôi. Tôi tuyệt vọng vô cùng. Trời ơi, ai là người
có thể cứu giúp tôi đây! Tôi lại tìm cách vẫy anh một lần nữa,
nhưng hoàn toàn vô vọng. Tôi tìm một viên sỏi, một hòn đá, một
cành cây. Tôi phải tìm một cái gì đó để có thể ném vào anh ấy, ra
hiệu cho anh ấy nhưng tôi không tìm được một cái gì cả. Gió đã
thổi sạch băng mỏm núi này. Giữa các kẽ đá chỏng chơ vài ba cái
lY khô. Tôi tuyệt vọng, tung những cái lá nhưng gió đã cuốn phăng
chúng đi. Cái duy nhất mà tôi có là cây đàn ghi ta và tôi đã tung
nó đi rất xa. đôla trong cây đàn rơi lả tả xuống nước. Tiền mất.
Cây đàn như được ngọn gió đỡ, lướt bay bồng bềnh trong không
khí.
Tôi như thấy những ngón tay vô hình lướt trên phím đàn và
nghe thấy tiếng đàn trầm bổng. Cây đàn ghi ta lộn mấy vòng
trong không khí, bay vút lên cao rồi bỗng nhào xuống, đập vào một
mỏm đá ngay cạnh chân anh ấy và vỡ tan thành muôn nghìn
mảnh. Anh ngước mắt nhìn lên, nhận ra tôi và mỉm cười dừng lại
chờ tôi.
Tôi phải đi mất một giờ đồng hồ mới tới được chỗ anh. Một
giờ đồng hồ tôi bị hành hạ, bàn chân tôi rớm máu, tay tôi chai
phồng. Một giờ đồng hồ tôi bị đầy đọa bởi những âm thanh ghê rợn
phát ra từ đôi môi căng phồng, méo xệch của tôi. Cuối cùng tôi
cũng đến được chỗ anh. âm thanh khò khè phát ra từ nhịp thở của
tôi hoàn toàn không ảnh hưởng tới anh. Anh không bị biến thành
gỗ. Anh vuốt má tôi và nhẹ nhàng lấy cái kèn ácmônica ra khỏi
mồm tôi. Anh bảo:
- Cái kèn giúp những người làm những điều tốt lành và trở
thành tai vạ với những kẻ làm điều độc ác.
Nước mắt tôi trào ra lăn trên má, tôi nói với anh:
- Em chỉ muốn có tiền để mua một cái cây. Nhưng mọi việc
đều không thành.
Tôi bỗng nhớ đến những pho tượng rải rác trong thị trấn.
Anh đưa tôi cái kèn. Cả hai chúng tôi biết cần phải làm gì và lặng
lẽ đi vào phố. Mọi người còn đứng cả ở đấy, câm lặng, đờ đẫn. Tất
cả vẫn là những pho tượng gỗ. Tôi ngậm chiếc kèn ácmônica và
thổi những làn điệu mà tôi yêu thích nhất. Đó là bài hát về sự ra
đời của muôn loài, về sự hé nở của những bông hoa, bài hát kể về
những giọt nước mắt của người mẹ thấm trên má đứa con mới lọt
lòng, về những bước đi đầu tiên của chú ngựa non nớt, về cuộc đời
mới đầy hứa hẹn trước mắt chúng tôi.
Mong ước của tôi thành sự thật, những pho tượng bắt đầu
cựa quậy, những đôi môi bằng gỗ mỉm cười. Những con người đó
đã trở lại thành người, họ đã được giải phóng khỏi bản nhạc cầm
tù. Mọi người đều hớn hở vui tươi, không ai còn nhớ tới những bài
hát đầy căm hận, với tâm địa tàn ác xấu xa. Họ vui cười theo nhịp
bài hát mới của tôi và quên hết quá khứ buồn tủi. Tôi ngước mắt
nhìn lên cửa sổ nhà bác Hardbristle và thấy khuôn mặt bác sau
tấm kính. Bỗng bác biến mất. Sau đó bác đi ra cửa, mắt dõi nhìn
cây Magnolien. Những cái lá khô héo bỗng không còn khô héo mà
trở nên xanh tươi mơn mởn. Bản nhạc của tôi đã làm cây
Magnolien sống lại. Anh thanh niên nhìn tôi mỉm cười, anh nhắc:
- Em còn phải thổi một bài hát nữa.
Tôi nhắm nghiền hai mắt, để chiếc kèn vào miệng và chỉ thổi
những bài ca về tình yêu. Tôi không thổi bất kỳ một làn điệu nào
khác. Khi tôi mở mắt, tôi thấy bác Hardbristle đang mỉm cười. Mọi
người đều hớn hở, vui sướng và cây Magnolien nở đầy hoa.
MáY PHáT HIÊN NóI DốI
Lớp tôi có Sandra Morris và Ben Fox là hai đứa con nhà
giàu. Cả hai đều thích ra vẻ ta đây. So với những đứa khác ở lớp
thì chúng chẳng thiếu gì. Bố mẹ chúng có xe ô tô xịn, to đùng và
những ngôi biệt thự khang trang lộng lẫy. Chúng chỉ chơi với nhau
và hình như không muốn dính dáng tới lũ ngổ ngáo, ngang ngạnh
như tụi tôi.
Ben Fox bao giờ cũng đi giày thể thao mốt mới nhất. Nó cũng
biết nó thuộc diện bảnh trai với hai con mắt màu xanh lục và mái
tóc vàng ươm. Ben Fox trông chẳng khác gì diễn viên điện ảnh, tôi
nói thật đấy mà. Sandra Morris cũng y như thế và nó cũng biết rất
rõ điều đó. Nó cũng có cặp mắt xanh biếc và mái tóc vàng au, nước
da mịn màng như lụa. Tại sao lại có những người luôn được hưởng
những gì tốt đẹp nhất như thế nhỉ? Còn tôi thì mặt chi chít những
tàn hương. Tôi đã làm đủ thứ để trị chúng nhưng không ăn thua,
chúng vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở và liên tục phát triển. Tức nhất
là chúng luôn luôn có mặt đúng vào lúc người ta không muốn. Ông
Trời thật không công bằng một chút nào. Nhưng dù sao hôm nay
cũng là dịp để tôi tính sổ với bọn nó. Boffin mang theo phát minh
mới nhất của mình - máy phát hiện nói dối. Nạn nhân sẽ là
Sandra Morris. Nó đã đồng ý để làm thí nghiệm, bởi vì ai cũng biết
Sandra là đứa không hề nói dối bao giờ. Điều nó không ngờ tới là
Boffin và tôi sẽ bẫy nó bằng những câu hỏi thật hiểm hóc. Boffin có
cái đầu tuyệt vời. Những phát minh của nó bao giờ cũng hoàn hảo.
Có khi nó còn thông minh hơn cả các thầy cô giáo.
Điều đó thì không ai không biết. Hôm nó mang tới trường kết
quả nghiên cứu mới nhất của mình, chiếc máy phát hiện nói dối.
Nó vừa đấu hai đầu dây vào tay Sandra vừa nói:
- Đừng sợ, không đau đâu, nhưng bảo đảm là máy vô cùng
chính xác.
Boffin ấn nút, ngay lập tức kim bật ra chính giữa bảng số.
Nó bảo:
- Bây giờ thử máy đã nhé, cậu có phải là con gái không?
Sandra gật đầu. Boffin giảng giải:
- Cậu phải trả lời có hay không, rõ chưa?
Sandra trả lời "Có". Kim chỉ ngay về phía có chữ: nói thật.
Máy hoạt động có vẻ chính xác. Boffin bảo:
- Giờ cậu thử nói dối nhé! Cậu có phải con gái không?
Sandra chúm chím cười rất xinh và đáp: "Không!". Cả bọn
mỉm cười và hồi hộp nín thở nhìn chằm chằm vào cái kim chỉ chữ:
nói dối. Quả thật chiếc máy này là một phát minh siêu hạng!
- Được, tốt rồi. David, cậu có thể nêu câu hỏi, hỏi quá sẽ
không đủ pin đâu.
Nói xong Boffin ngồi phía sau cái máy và tí toáy nghịch cái
nút. Cái trò này hay đây. Tôi sẽ moi khối chuyện của Sandra
Morris và Ben Fox. Thật là tuyệt vời! Tôi nêu câu hỏi thứ nhất:
- Cậu có hôn Ben Fox bao giờ không?
Sandra thẹn đỏ mặt. Ben Fox cũng mặt đỏ tía tai. Thế là tôi
tóm trúng gáy cả hai đứa. Tôi biết chắc là chúng nó đã có chuyện
với nhau mà. Tôi chỉ muốn phanh phui chuyện này ra mà thôi.
Sandra đáp "Không". Cả bọn chúng tôi ngoái cổ nhìn vào cái máy.
Kim chỉ vào chữ: nói thật. Tôi hoàn toàn bị bất ngờ về câu trả lời
này. Tôi chỉ còn được hỏi sáu câu nữa. Tôi không thể để chúng nó
dễ dàng thoát khỏi tay mình như thế này được.
- Cậu có bao giờ cầm tay Ben Fox không?
Sandra lại trả lời "Không" và cái kim lại chỉ vào chữ nói thật.
Dần dần tôi cảm thấy mình có lỗi. Tại sao tôi lại bày trò này
kia chứ? Tôi bèn hỏi khác đi:
- Cậu đã yêu bao giờ chưa?
Mặt Sandra đỏ như gấc. Bây giờ tôi cảm thấy mình thật đê
tiện. Mặt thằng Fox cũng đỏ như mặt trời mọc. Sandra trả lời
"Có". Kim chỉ vào chữ: nói thật. Đúng ra tôi không nên để bị lôi
cuốn vào cái trò này. Tôi tìm cách giải thoát Sandra và Ben khỏi
trò đùa tinh quái, tôi sẽ không hỏi tên ai cả, tôi muốn tránh để
Sandra không phải tiết lộ tên một người nào hết. Tôi hỏi:
- Người đó có ở trong phòng này không?
Sandra nhìn về phía Ben Fox, mặt cậu ta đỏ rực.
- Có.
Kim chỉ vào chữ: nói thật. Tôi lại hỏi tiếp:
- Mắt cậu ấy màu xanh phải không?
- Không.
- Thế màu nâu à?
- Không.
Tôi không biết phải hỏi gì nữa. Tôi nhìn rất kỹ mọi đứa ở
trong lớp. Ben Fox có mắt màu xanh và tôi tin chắc Sandra yêu nó.
Tôi bảo Boffin:
- Cái máy này hỏng rồi, tớ thấy ở đây không có đứa nào mà
mắt không phải màu xanh hoặc màu nâu.
Boffin nói đốp luôn:
- Nhưng bọn này thấy.
Cả bọn nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi cảm thấy mặt tôi đang
từ từ đỏ ửng lên và chỉ muốn chui tọt xuống đất. Nhưng tôi vẫn
đặt câu hỏi cuối cùng:
- Hắn có phải là một tên ngốc không?
Sandra ngượng chín người, gật đầu "Có", sau đó nó nói thêm
một câu rất khẽ:
- Cậu ấy có đôi mắt màu xanh nước biển.
MắT XANH, MắT Đỏ
Họ ở xa tít tắp dưới chân tôi, trông nhỏ xíu như đầu những
cái đinh ghim. Tôi thấy sợ và thật đơn độc. Nếu buông thang tôi sẽ
bị ngã ngay lập tức. Tôi sẽ rơi, sẽ vật vã, nhào lộn trong không
trung. Không, tôi không được nghĩ tới chuyện đó. Gió thổi ù ù làm
tóc tôi xõa ra. Cái thang cần cẩu vươn lên tít tận trời cao. Tôi có
nên tiếp tục leo nữa hay không? Hay là xuống? Những ngón tay
của tôi lạnh giá và cứng đơ đơ. Ai có thể giúp tôi đây? Chỉ có cái
rôbốt nhỏ bé là có thể làm được chuyện này. Một tay tôi ôm chặt
cái thang, còn tay kia tôi cố với cái rôbốt nhỏ tý xíu của mình. Tôi
chỉ sợ ngã. Với những ngón tay run rẩy tôi tìm cách lấy cái rôbốt ở
trong túi. Nếu như tôi tuột tay để rơi nó thì tôi không còn biết sẽ
phải làm gì nữa. Tôi nói khẽ:
- Ôi rôbốt bé bỏng của ta, mi là cơ hội cuối cùng của ta đấy.
Tôi kéo mũi nó và hai con mắt của nó bắt đầu động đậy.
Bốn giờ đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc cái rôbốt bé bỏng của
tôi giúp tôi ra quyết định. Và kể từ lúc bố và mẹ làm trái tim tôi
tan nát quặn đau thì hai mươi bốn giờ đồng hồ đã trôi qua. Bố nói:
- Này, Hary, bố có tin không hay cho con. Bố và mẹ sẽ chia
tay nhau. Bố mẹ không còn yêu thương nhau nữa.
Bố còn nói rất nhiều, nhưng tôi chỉ còn nhớ được có thế. Tôi
chạy tới chỗ mẹ và ôm choàng lấy bà. Nước mắt tôi làm ướt đầm
mặt mẹ. Có phải vậy không, hay là ngược lại nhỉ? Sau đó tôi chạy
lại với bố và ôm cổ ông. Bố cũng khóc. Tôi kêu lên:
- Thế còn con, con thì sao?
Bố nhìn tôi buồn bã. Ông nói:
- Con phải chọn. Mẹ sẽ không ở đây nữa. Con có thể đi cùng
với mẹ hoặc ở lại đây. Bố mẹ không muốn ép buộc con. Tất cả là do
con tự quyết định. Con không phải vội, hãy suy nghĩ cho kỹ. Con
phải tự quyết định lấy.
Tôi làm sao có thể tự quyết định những chuyện như vậy? Tôi
cảm thấy mình như một cái kim giữa hai thỏi nam châm. Một thỏi
hút tôi về phía bên này, một thỏi kéo tôi về phía bên kia. Còn tôi
thì ngồi ở giữa. Tôi nhìn bố mẹ. Tôi yêu bố mẹ tôi. Tôi không biết
mình phải làm gì. Đêm hôm đó gió bão ầm ầm, tôi trùm chăn kín
mít và khóc thút thít. Sáng hôm sau tôi mặc quần áo. Còn có hai
đôi tất, một đôi màu xanh, một đôi màu đỏ. Tôi không biết phải
chọn đôi nào, tôi chìa tay định với đôi tất xanh nhưng lại ngần
ngại. Tôi có cảm giác mình đã có một quyết định sai lầm. Thế là tôi
cầm đôi tất đỏ, nhưng việc làm đó cũng không đúng.
Lúc đó cái rôbốt bé bỏng đã giúp tôi. Các bạn biết không, cậu
ta có hai cặp mắt khác nhau. Nếu kéo mũi cậu ta thì mắt cậu ấy sẽ
quay tít lên như bánh xe ở cỗ máy đánh bạc tự động. Có khi mắt
xanh hiện ra nhưng cũng có khi là mắt đỏ, không ai có thể đoán
trước được cả. Tôi lấy cái rôbốt ở trên giá và kéo mũi. Những con
mắt của nó quay tít lên đến mức tôi không nhận ra màu gì cả. Sau
đó dừng lại. Màu xanh. Tôi nói:
- Mắt xanh, tất xanh.
Tôi đi đôi tất màu xanh và mặc quần áo tươm tất. Sau đó tôi
vào phòng ăn. Bố đã đi làm, chỉ còn mẹ ở đó. Mẹ hỏi:
- Con ăn cornflakes hay musli?
Tôi nhìn hai cái hộp nhưng không biết nên quyết như thế
nào. Tôi lấy cái hộp cornflakes nhưng trong đầu lại nghĩ khác. Lấy
musli hơn. Nhưng cái đó cũng không đúng. Làm thế nào bây giờ?
Còn có một cách giải quyết khác. Tôi kéo mũi rôbốt của mình. Tôi
tự nhủ: "Màu xanh là cornflakes". Mấy con mắt lại xoay tít và
dừng lại ở màu đỏ. Tôi nhún vai tự bảo: "ừ thì lấy musli".
Tôi hôn mẹ, cầm rôbốt và đi tới trường. Tôi bước đi nặng nề
và cảm thấy thật mệt mỏi, buồn bã. Không còn lâu nữa tôi sẽ
quyết định đi với mẹ hoặc ở lại với bố. Mà tôi thì không thể làm
được điều đó. Cuộc sống đầy những quyết định oái oăm, hãi hùng.
Tôi chậm rãi bước đi, mắt như dính vào hai bàn chân.
Bỗng tôi dừng bước. Một con bướm đầy lông nằm lả trên mặt
đường. Nó còn sống nhưng nằm yên bất động. Nó rơi từ trên cành
cây xuống và không còn sức để bay lên. Có lẽ không lâu nữa nó sẽ
bị dẫm nát. Tôi chỉ cần cúi xuống, nhấc nó lên và đặt lên cây. Tôi
có cứu con bướm hay không? Tôi bèn hỏi ý kiến rôbốt. Tôi kéo mũi
nó, mắt nó quay tít và tôi tự nhủ thầm: "Xanh là nên, đỏ là đừng".
Những con mắt quay lia lịa, sau đó chậm dần và dừng lại - màu
xanh. Tôi nói với con bướm: - Hôm nay là ngày may mắn của mày
đó, bướm ơi. Tôi cẩn thận đặt nó lên một cái lá cây và ngay lập tức
con bướm bắt đầu ăn. Tôi cảm thấy phần nào dễ chịu hơn. Tôi đã
cứu được con bướm. Cái rôbốt của tôi quả có ích khi cần phải có
những quyết định. Tôi đi tới góc đường và trông thấy một cảnh
thật kinh sợ. Tim tôi như thắt lại. Hàng trăm con bướm đang giãy
giụa vô vọng ngay trên mặt đường. Có lẽ cơn bão đã thổi chúng
giạt tới đây. Tôi nghẹn ngào hỏi rôbốt:
- Ta có nên cứu những con bướm này không?
Những con mắt lại đảo lia lịa. Tôi tự nhủ: "Xanh là nên, đỏ là
không". Câu trả lời là nên. Tôi cúi xuống và nhấc những con bướm
lên. Tôi hết cúi xuống lại đứng lên không biết bao nhiêu lần.
Những con bướm dường như biết ơn, chúng vội bám chặt vào
những cái lá và ăn lấy ăn để. Thời gian trôi nhanh, phải mất hơn
nửa tiếng đồng hồ tôi mới đưa được một số bướm vào nơi an toàn.
Tôi biết mình sẽ đến lớp muộn mất. Thế là cái rôbốt đã gây khó dễ
cho tôi. Cuối cùng tôi mất trọn một giờ đồng hồ để cứu lũ bướm và
cho tất cả lên cây.
Tôi nhìn đồng hồ. Tôi muộn mất đúng một tiếng đồng hồ.
Ông Hanson sẽ nhìn chằm chằm vào cửa sổ văn phòng. Ông ta sẽ
lao như một con rắn khi thấy tôi bước vào sân trường. Thật là ê
chề. Tôi nhìn chằm chằm cái rôbốt của mình. Tôi bảo nó:
- Thế là mày thành công rồi đấy. Lần này là lần cuối cùng
tao hỏi ý kiến mày nên quyết định như thế nào.
Giờ thì tôi biết cái rôbốt chỉ mang lại những điều không may
cho mình. Bỗng nhiên tôi thấy tóc gáy mình dựng lên. Có ai đó
đang nhìn tôi! Tôi linh cảm thấy điều đó. Khi quay lại tôi nhận
ngay ra bà Weeck, bạn của mẹ. Bà quỳ hai đầu gối và đang nhổ cỏ
vườn. Bà cười với tôi và khum những ngón tay vẫy tôi tới chỗ bà.
Bà nói: - Cháu chờ bác một tí. Nói xong bà nặng nề đi vào trong
nhà để mặc tôi đứng đợi. Phải một lúc lâu sau bà mới quay ra và
đưa cho tôi một chiếc phong bì nhỏ. Bà nói: - Bác đã trông thấy
cháu cứu lũ bướm nhỏ tội nghiệp như thế nào. Cháu thật là một
cậu bé tốt bụng, không có đứa trẻ nào lại làm được như thế. Đây là
phần thưởng dành cho cháu - và bà dúi vào tay tôi cái phong bì.
Tôi có nên nhận hay không? Có hay không? Tôi không chắc chắn
lắm. Tôi kéo mũi cái rôbốt. Xanh. Hai con mắt xanh nhấp nháy với
tôi. Xanh là được. Bà Weeck đã quay vào nhà. Tôi nở nụ cười rạng
rỡ và reo lên:
- Cháu xin cám ơn bác!
Tôi rảo chân tới trường. Tôi chưa bao giờ lại đi học muộn như
thế này. Tôi xé cái phong bì và ngó vào. Một tờ đôla. Tôi thật
không ngờ một chút nào. Cái rôbốt bé bỏng mang lại cho tôi biết
bao điều may mắn. Lần nào cũng vậy, mỗi khi tôi hỏi, nó đều có
những câu trả lời đúng đắn. Máy hoạt động thật tuyệt. Nhưng còn
chuyện tới trường thì thế nào đây? Làm sao tôi có thể thoát được
con mắt xoi mói của ông Hanson? Hay là? Tôi tìm một câu hỏi. Một
câu thôi, để hỏi rôbốt. "Ta có thể bỏ học được không? Không tới
trường ấy mà?". Tôi kéo mũi nó. Khi mắt nó ngừng không xoay
nữa thì hiện lên màu xanh. Hai màu xanh liền, nó bảo tôi có thể
trốn học.
Thật là một quyết định tuyệt vời. Đây là một phương pháp
tốt nhất để người ta có thể quyết định làm hay không làm. Tất cả
những điều mà rôbốt khuyên tôi nên làm đều tỏ ra hữu ích. Tôi
bước chậm hơn, một nhóm các cụ đứng choán đường đi. Họ đứng
chờ trước cửa hàng bán đồ ăn, cửa hàng này chuyên bán món
hamburger gói để mang theo. Một bà quản lý các cụ trông khó
đăm đăm đang điều khiển mọi người.
- Nào, bà đừng đứng chắn ngang đường đi như thế này.
Bà ta hét to với một bà cụ vẻ nghễnh ngãng rồi ra lệnh:
- Bà đứng ở đây, để tôi vào lấy xa-lát cho.
Một ông già nói:
- Cô ơi, cho chúng tôi mua mỗi người một cái hamburger nào.
Khuôn mặt các cụ như rạng rỡ hẳn lên. Một cụ khác cũng
nói:
- Cho tôi một hamburger.
- Phải, một hamburger. Mọi người đồng thanh reo to
- Ham - bur - ger, ham - bur - ger, ham - bur - ger.
Mắt các cụ ngời sáng, nếp nhăn trên mặt nở ra như những
nụ cười. Bà quản lý lại quát to:
- Thôi đi nào, làm gì mà ầm ĩ lên thế, người ta đưa cho cái gì
thì ăn cái nấy.
Bà ta nói với các cụ mà như nói với một bầy trẻ con.
Nụ cười trên khuôn mặt các cụ bỗng biến mất y như những
con bướm bị gió thổi tung rơi lả tả từ trên cây xuống. Bà quản lý đi
vào trong cửa hàng. Một cụ ông nói với tôi:
- Này, cháu có cái gì thế?
Ông gật đầu ra hiệu cái rôbốt. Ông cụ có vẻ người hiền lành.
Cụ bảo tôi cụ tên là Fred. Cụ chăm chú lắng nghe khi tôi trả lời.
Các cụ khác cũng tập trung nghe tôi giảng giải. Các cụ vây tròn
xung quanh tôi vừa gật đầu vừa cười có vẻ rất thích thú khi tôi kể
với các cụ về chức năng của rôbốt. Cụ Fred lắc đầu bảo:
- Tôi không thích như thế. Làm như vậy khác nào chỉ trông
chờ vào may rủi.
Nhưng tất cả các cụ khác thì rất khoái chí. Một cụ nói rất to:
- Cháu cho nó hoạt động thử xem nào.
Một cụ khác đề nghị:
- Phải đấy, cháu làm cho chúng tôi xem đi!
Tôi nhìn những khuôn mặt vui vẻ của các cụ. Tại sao lại
không? Tôi rút đồng đôla và hỏi rõ to:
- Ta có nên khao mọi người không?
Sau đó tôi kéo mũi rôbốt. Con mắt nó xoay lia lịa. Tôi hét
lên:
- Xanh là đồng ý.
Một cụ già móm không còn cái răng nào bảo tôi:
- Hamburger, hãy hỏi nó xem hamburger có được không?
Tôi đáp:
- Okay, ta mua xuất hamburger nhé? Được hay không
nào?
Tôi kéo mũi của cái rôbốt bé bỏng.
Khi mấy con mắt đứng dừng lại hiện ra màu đỏ. Ông già
móm tiu nghỉu. Ông hét to:
- Hai mươi, cháu thử hỏi nó xem, hai mươi có được không?
Những người khác cùng reo lên:
- Phải đấy, hai mươi, hai mươi xuất hamburger.
Tôi hỏi rôbốt, lần này mắt hiện lên màu xanh. Mọi người reo
hò vui sướng. Tôi đi vào trong cửa hàng và gọi hai mươi xuất
hamburger. Không thấy bóng bà quản lý đâu cả. Có lẽ bà ấy đi vào
nhà vệ sinh. Các cụ nhai bỏm bẻm, có vẻ đói lắm. Vài ba cụ vỗ vai
tôi và tôi cảm thấy thật thoải mái vì đã đem lại niềm vui cho các
cụ. Riêng cụ Fred vui vẻ lắc đầu từ chối không ăn món hamburger.
Cụ nói:
- Tôi chờ món xalát.
Ông cụ móm nói:
- Thử một chuyện khác đi cháu. Hỏi nó về một việc khác xem
nào.
Cụ ấy có vẻ hồi hộp nóng lòng lắm. Cụ trông ra vệ đường và
thấy chiếc xe buýt đỗ ở đó. Cụ reo lên:
- Hay lắm, chiếc xe buýt! Này, cháu thử hỏi xem chúng ta lấy
cắp chiếc xe buýt này được không?
Mọi người cười đắc ý, mồm đầy hamburger và reo lên:
- Xe buýt, xe buýt, xe buýt!
Tôi băn khoăn không biết nên làm thế nào. Bà quản lý là
người có trách nhiệm với chiếc xe này. Nhưng, cóc cần! Tôi nói với
rôbốt:
- Chúng ta lấy xe buýt nhé?
Rồi kéo mũi nó. Mấy con mắt xoay tít. Xanh. Xanh là được.
Các cụ chạy vội chạy vàng, xô đẩy, chen lấn nhau lên xe. Các cụ
cười thích thú và nói oang oang:
- Bọn mình ăn cắp xe, ăn cắp xe.
Tôi vào hùa với các cụ. Ông cụ móm nhảy tót lên buồng lái và
khởi động xe. Cụ khoe:
- Lão ngày xưa đã từng lái ô tô đua ở Philip Island, năm lần
giành giải nhất, sáu lần giải hai, mười một giải cả thẩy.
Cụ nhả côn và chiếc xe lao đi. Tôi nhìn qua cửa xe ô tô và
thấy bà quản lý lắm điều hớt ha hớt hải từ trong cửa hàng
hamburger chạy ra. Bà ta giơ nắm đấm và la hét om xòm. Mọi
người hò reo vẫy bà ta, vài ba người chụm ngón tay làm những ký
hiệu không đứng đắn. Cụ Fred ngồi phía sau xe, mặt đầy vẻ lo âu
ái ngại. Chiếc xe buýt phóng với tốc độ cao, tới gần một ngã tư. Cụ
móm hỏi:
- Đi lối nào đây, phải hay trái?
Tôi đáp:
- Cháu không biết.
Cụ quát:
- Thì hỏi nó xem nào!
Tôi kéo mũi và hỏi:
- Rẽ trái được không?
Mấy con mắt xoay lia lịa, xe buýt vẫn chạy vùn vụt. Đến
giữa ngã tư bỗng phanh kít lại bất thình lình và xe bị văng đi. Một
bức tường gạch lao với tốc độ kinh khủng về phía chúng tôi. Mấy
con mắt dừng lại ở màu đỏ. Tôi hét lên:
- Phải, bác rẽ phải đi!
Cụ móm gò mình đánh tay lái cho xe rẽ phải, bánh xe miết
vào mặt đường kêu kin kít kéo theo một vệt khói xanh. Xe của
chúng tôi chỉ cách bức tường chừng mươi xăng ti mét. Những
người lái xe phía sau bóp còi inh ỏi. Họ có vẻ bực tức lắm. Nhưng
những hành khách ngồi trong xe buýt lại rất hứng thú, cười nói
vui vẻ để tận hưởng cuộc phiêu lưu đầy thú vị này. Cụ móm gào
lên:
- Thế nào đây, dấn ga nhé?
Câu trả lời là xanh.
Cụ móm y lệnh, nhấn ga và xe lao đi vun vút. Bỗng tôi nghe
thấy tiếng là lạ. Tiếng còi xe cảnh sát rú inh ỏi mỗi lúc một gần.
Chết rồi, chúng tôi bị cảnh sát rượt theo. Cụ móm hỏi:
- Dừng xe hay chạy trốn?
Có ai đó nói:
- Dừng xe.
Đó là giọng bác Fred.
Bác cúi mình ra phía trước và rút chiếc chìa khóa khởi động.
Bác nói:
- Liều lĩnh như thế là đủ rồi.
Chiếc xe buýt rùng mình và đột ngột đứng khựng lại. Các cụ
lục tục bước ra khỏi xe và vẫn cười khoái trá khi xe cảnh sát đã tới
gần. Tôi lẩn ra phía sau đám đông và thì thầm:
- Chạy, có hay là không?
Tôi kéo mũi máy rôbốt. Mắt nó xoay lia lịa và dừng lại ở màu
xanh.
Tôi nhìn quanh quẩn tìm đường chạy trốn. Bỗng tôi trông
thấy cái cần cẩu và cái thang dài ở phía bên cạnh. Tôi lại thì thầm:
- Cần cẩu, có được không?
Tôi hy vọng sẽ thấy con mắt màu đỏ. Nhưng mà không. Con
mắt xoay tít và dừng lại ở màu xanh. Bác Fred bảo tôi:
- Thôi đưa đây!
Bác giật cái rôbốt từ tay tôi và xoay nó ra đàng sau. Phía
lưng nó có một cái nắp. Bác lật cái nắp và vặn vẹo gì đó ở cái núm.
Không biết bác ấy làm gì! Tôi hét lên:
- Không, bác đừng làm như thế, trả lại cho cháu đi! - Và giật
lấy rôbốt từ tay bác Fred.
Một chú cảnh sát to cao, dữ tợn hét oang oang với đám đông:
- Ai là người chịu trách nhiệm về tất cả những chuyện ở đây?
Tất cả im phăng phắc. Sau đó lão móm quay về phía sau và
chỉ vào tôi:
- Nó đấy, chính thằng nhóc này đấy!
Tôi ù té chạy. Tôi rảo chân chạy rất nhanh về phía cái cần
cẩu. Cả đội cảnh sát rượt đuổi theo tôi. Rồi đám các cụ, cả bà quản
lý đều chạy theo và hét ầm lên:
- Đứng lại, đứng lại.
Cuối cùng bà ta trượt chân còn tôi thì chạy bán sống bán
chết về phía cái cần cẩu. Tôi ngước mắt nhìn lên, chân tay run lẩy
bẩy. Tôi cảm thấy đầu mình như một quả bóng buộc vào một đầu
dây. Tôi không muốn leo lên cái cần cẩu một tý nào, nhưng cái
rôbốt đã ra lệnh cho tôi. Tôi đặt chân lên dóng thang đầu tiên và
bắt đầu leo dần từng bước một. Tôi ngước mắt nhìn mây, nhìn trời
và tự nhủ lúc này chớ có nhìn xuống dưới!
Thế là tôi lơ lửng giữa trời. Tôi lên đến giữa cái thang thì
đứng chết dí ở đó. Tôi sợ thót tim nên không thể tiếp tục leo được
nữa. Mà tôi lại càng sợ hơn nếu phải leo xuống. Đám người đứng ở
dưới lố nhố như những cái đầu đinh ghim. Tôi đứng ở đây cũng đã
khá lâu, hai bàn tay tôi như bị liệt, chân cứng đơ đơ không còn một
chút cảm giác gì nữa. Tôi phải làm ngay một cái gì đó nếu không
nhất định tôi sẽ bị rơi xuống đất như những con bướm rơi, từ
những cái lY xuống. Chỉ có điều sẽ không có ai đỡ tôi dậy và đặt tôi
vào chỗ cũ. Bây giờ có ai đó đang leo bậc thang đi lên. Tôi không
nhận ra người đó là ai vì xa quá, nhưng tôi có cảm giác người đó là
bố tôi. ại, nếu như chẳng may bố bị ngã thì lỗi là do tôi. Tôi không
biết mình phải làm gì. Tôi sờ soạng tìm cái rôbốt và rút mũi nó.
Tôi giương mắt nhìn những con mắt rôbốt. Nhưng chúng đứng im
thin thít. Tôi kêu lên:
- Trời ơi, sao lại thế này!
Tôi từ từ leo xuống từng bậc một mặc dù biết rằng việc này
rất nguy hiểm. Cuối cùng tôi cũng xuống được tới mặt đất. Bố và
mẹ ôm chầm lấy tôi. Các cụ già reo hò sung sướng, bác Fred nhìn
tôi mỉm cười. Mấy người cảnh sát có vẻ bực bội lắm. Một người nói:
- Nó làm như vậy có khác nào tự tử hoặc làm người khác bị
thương!
Bố tôi nói:
- Hôm nay cháu nó không được bình thường. Chúng tôi có nói
với cháu chúng tôi sẽ ly hôn.
Mẹ tôi khóc thút thít. Khi về đến nhà, tất cả òa ra khóc.
Tôi hy vọng lúc này bố mẹ tôi sẽ nghĩ lại và không ly hôn
nữa. Nhưng mà không. Cuối cùng thì tôi vẫn phải quyết định về
chuyện giữa tôi với bố và mẹ. Tôi sẽ đi với mẹ hay là ở lại với bố?
Tôi ngồi trên chiếc giường nhỏ của mình và muốn thử cái rôbốt
một lần nữa. Tôi kéo mũi nó và bảo:
- Xanh là theo bố - mấy con mắt xoay tít rồi đứng lại, y như
lúc nãy ở trên cần cẩu! Tôi quẳng cái rôbốt ra ngoài cửa sổ rồi đi
vào phòng.
Bố và mẹ đang ngồi trong đó. Tôi nói rất to:
- Con nghĩ kỹ rồi. Bố mẹ bỏ nhau chứ đâu phải là con. Bố mẹ
tự quyết định lấy, đây là chuyện của bố mẹ, không phải chuyện
của con. Bố mẹ tôi nhìn nhau và tất nhiên cả hai người đều thấy
tôi nói có lý.
Cuối cùng thì mọi chuyện kết thúc không phải là quá tồi tệ.
Tuy rằng bố mẹ tôi vẫn bỏ nhau, nhưng mẹ không rời khỏi thành
phố này. Mẹ tôi thuê một căn hộ cũng ở gần đây. Có lúc tôi ở với
mẹ, có lúc tôi đến với bố. Tôi có quyền lựa chọn. Khi bố có chuyện
bực bội, tôi đến với mẹ ít hôm, sau đó tôi lại về với bố. Mọi chuyện
thực ra có thể tồi tệ hơn nhiều. Còn cái rôbốt? Nó đã bị mấy đứa
trẻ tìm thấy khi chúng đi qua đường. Tôi mỉm cười và nghĩ đến bác
Fred và đến những việc mà bác ấy đã làm. Một đứa trong bọn trẻ
nói:
- Này, trông cái rôbốt này mà xem, nó có hai mắt xanh và hai
mắt đỏ.
MộT TIA NƯớC NHỏ
Năm thằng nhóc đứng trong nhà vệ sinh vống chim đái lên
không. Bọn chúng đang thi xem mình có thể đái vọt lên đến đâu.
Trước khi các vận động viên vào vị trí bọn họ còn thi với nhau về
một chuyện khác. Cũng như mọi khi, anh Sam nhà tôi là người
thắng cuộc. Không ai có thể đái vống lên cao bằng anh ấy. Tôi
ngượng chín cả mặt khi thấy bọn họ chơi cái trò đó. Anh Sam gọi
tôi:
- Lại đây, Weesle, cùng chơi với bọn tao đi! Tôi không muốn.
Tôi thấy ngường ngượng thế nào ấy vả lại tôi không giỏi lắm
trong môn này. Anh ấy cố tình thách thức tôi vì muốn biến tôi
thành trò cười. Cả bọn reo lên:
- Nào Weesle, lại đây, đừng có hèn thế! Ôi, thật là kinh
khủng.
Cả bọn bu lấy tôi, có lẽ tôi đành phải tham gia mất thôi. Thế
là tôi kéo khóa quần và thử một quắn. Vì hồi hộp, luống cuống nên
chỉ vọt ra một tia tí ti. Cả bọn òa ra cười. Chúng hét lên:
- Xoàng lắm!
Kẻ kêu to nhất để chế giễu tôi lại là anh Sam. Anh ấy bảo:
- Thằng Weesle chỉ là một cái tia tí hin!
Bọn nhóc chấm dứt cuộc đua và cười ngả ngốn như một lũ
điên. Chúng tôi ra bãi tập. Tôi và anh Sam đều chuẩn bị chạy
mét. Tuần sau nhà trường tổ chức hội thao để thi xem ai là người
chạy nhanh nhất trường. Hôm nay mới là thi thử. Tôi ước ao mình
là người chiến thắng. Tôi sẵn sàng làm tất cả để hạ anh Sam.
Nhưng tôi như một người bị bại liệt. Anh ấy hơn tôi mọi thứ. Anh
ấy thông minh hơn. Đẹp trai hơn. Cao to khỏe mạnh hơn. Tóm lại
anh Sam hơn tôi mọi thứ trên đời. Chúng tôi cúi lom khom ở vạch
xuất phát. Sam giễu cợt:
- Này, thằng ngố, tao đợi mày ở đích đấy, tất nhiên với điều
kiện mày có chạy được đến đích không đã.
Bọn con trai nhìn chúng tôi. Trời ơi, tôi muốn thắng anh Sam
làm sao. Thắng lợi không phải là điều quan trọng lắm với tôi,
nhưng tôi muốn hơn Sam. Anh ấy lúc nào cũng vênh vang. Bao giờ
anh ấy cũng làm tôi trở thành một kẻ hậu đậu vô tích sự.
Thầy Hendrix cầm khẩu súng lệnh. Tôi hồi hộp quá, chân
run lẩy bẩy. Vậy mà hôm nay đã phải là cuộc thi chính thức đâu.
Đây mới là buổi thi thứ nhất. Đến hôm thi thật cả trường sẽ tới
xem.
Pằng. Bọn tôi chạy vút đi. Tôi đã xuất phát rất tốt, vượt lên
trước được vài mét. Bỗng nhiên mọi chuyện dường như rất tốt đẹp.
Hai chân tôi chạy như bay, tôi vút lên một cách dễ dàng. Tôi thở
đều đặn. Tôi quay lại phía sau, hình như anh Sam gặp khó khăn.
Tôi sẽ đến đích trước, còn anh ấy là người tới thứ hai. Tôi hầu như
đã tới đích. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi sẽ hơn được Sam. Tôi
mỉm cười khi vạch đích đã ở ngay trước mặt. Nhưng tôi đã mừng
hụt. Sam chạy vút qua, chạy nhanh đến mức tôi không thể tưởng
tượng nổi. Lại một lần nữa anh ấy thắng tôi. Tôi phải cố gắng lắm
mới kìm được những giọt nước mắt đang muốn trào ra. Sam huênh
hoang khua chân múa tay, anh ấy giơ tay lên đầu như một võ sĩ
quyền Anh và khoe:
- Tất nhiên tao đã cố tình chạy chậm lại, mày chắc mẩm đã
dành được phần thắng rồi, đúng không, thằng nhóc?
Trên đường về Sam luôn mồm chế giễu sự thất bại của tôi và
dương dương tự đắc khoe mình tài giỏi. Những đứa khác cũng vào
hùa chế giễu tôi. Tôi buồn bã lếch thếch đi sau bọn chúng và cố để
ngoài tai những điều chúng nói. Thứ ba tuần sau mới là cuộc đua
chính thức. Hôm đó chắc chắn tôi cũng sẽ không thắng nổi Sam.
Hôm ấy chắc tôi cũng sẽ rất hồi hộp. Quả thật tôi chưa phải là
người chạy giỏi. Sam cùng đi với mấy đứa khác vào rừng để khảo
sát trước mà không rủ tôi cùng đi. Sam còn bảo:
- Cho mày đi cùng để mày lạc đường à, chỉ tổ rách việc!
Về tới nhà nước mắt tôi vẫn trào ra. Tôi muốn lau, không để
cho mẹ biết nhưng ngay cả chuyện đó tôi cũng không làm kịp. Mẹ
hỏi:
- Kìa Weesle, con làm sao thế?
Tôi liền kể lể:
- Tất cả chỉ tại anh Sam. Anh ấy bao giờ cũng thắng con, con
lúc nào cũng thua. Ngay cả buộc dây giày anh ấy cũng nhanh hơn
con. Con chỉ muốn thắng anh ấy, dù chỉ một lần. Hôm nay thi
chạy mét. Sam lại thắng. Anh ấy bao giờ cũng thắng. Thứ ba
tuần sau là thi chính thức rồi mẹ ạ.
Mẹ cúi xuống và ôm tôi vào lòng. Mẹ bảo:
- Weesle này, có một cách để con bao giờ cũng là người thắng
cuộc. Hồi trước mẹ cũng là người được giải nhất về chạy đấy. Mẹ
biết phải làm gì để chiến thắng.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe mẹ từng là người đoạt giải nhất
về chạy. Tôi nhìn mẹ lòng đầy hy vọng và hồi hộp chờ mẹ tiết lộ bí
mật. Mẹ bảo:
- Con phải luyện tập, luyện tập từng ngày một. Sam chẳng
bao giờ chịu tập luyện cả, Sam là một đứa lười biếng. Nếu như
ngày nào con cũng luyện tập thì nhất định con sẽ thắng. Hiện nay
anh Sam thắng con chẳng qua chỉ vì anh ấy lớn hơn con.
Rất có thể mẹ nói đúng.
Tôi cố thử xem sao. Hàng ngày tôi dậy thật sớm để luyện tập.
Tôi tập cả lúc giải lao, cả vào buổi trưa. Khi học xong tôi lại tập
luyện. Trời nóng cũng như trời lạnh tôi đều tập hăng hái. Thành
tích của tôi mỗi ngày một khá hơn, nhất là vào ngày mát trời. Quả
thật đây là một công việc nặng nhọc, không đơn giản tí nào.
Nhưng tôi quyết tâm thắng anh Sam. Không ai dốc hết sức luyện
tập vất vả như tôi! Nếu mẹ biết tôi rèn luyện hăng hái như thế nào
chắc mẹ sẽ tự hào lắm. Nhưng tôi làm việc này rất bí mật. Tôi
muốn làm cho anh Sam phải ngạc nhiên. Không ai ngờ tôi là người
chiến thắng. Tôi không thể tưởng tượng nổi khuôn mặt Sam lúc đó
sẽ như thế nào. Cuối cùng thì ngày thứ ba cũng đã tới. Đây là lúc
tôi có cơ hội để thi thố tài năng. Công sức tập luyện của tôi bấy
nay hôm nay sẽ được đền bù. Hôm ấy lạnh trời, vì thế tôi khoác
thêm một chiếc áo len. Tôi đi thẳng tới nhà vệ sinh. Tại đây Sam
và mấy đứa khác đang đấu trận chung kết để xác định người vô
địch đái cao nhất trường. Tôi bảo:
- Cho em thi với!
Cả bọn cười rũ và gọi tôi là thằng tia tí hin. Nhưng tôi cóc
cần. Vì giờ phút này mà tôi đã cất công rèn luyện suốt mấy ngày
qua. Chà, đái thế mới là đái. Tôi đã đái vọt cao hơn tất cả những
đứa khác, cao hơn cả đầu mình. Cả bọn căng mắt ra nhìn và vô
cùng thán phục. Bọn chúng reo lên:
- Chà, giỏi thật, giỏi thật.
Riêng anh Sam hoàn toàn tỏ ra không phục một tí nào. Anh
ấy giận dữ như muốn nhảy vọt lên tới tận mái nhà. Y như tôi vậy.
Chỉ có điều với một lý do hoàn toàn khác.
BÊN TRONG, BÊN NGOàI
Mary, em gái tôi, liếc mắt nhìn băng viđeo tôi đang cầm trên
tay. Nó hỏi:
- Anh mang cái gì về thế?
Tôi thản nhiên trả lời:
- Tên giết người bằng cưa xích.
Nó tru tréo ngay lên:
- Anh tồi lắm. Anh đã hứa thuê một băng thật hay. Anh thừa
biết em không thèm ngó những phim tàn ác, kinh tởm như thế
đâu, phim gì mà lại giết người bằng cưa xích kia chứ. Hơn nữa
hôm nay đến phiên em. Em có quyền chọn phim. Anh đã hứa là sẽ
mượn phim tình yêu, nếu em để cho anh đi mượn kia mà.
Tôi nói:
- Đây chính là phim tình. Bộ phim kể về một tên đã cắt bạn
gái của mình bằng cưa...
Nó cắt lời tôi:
- Em ứ xem. Lại vẫn cái trò kinh dị, hãi hùng, khát máu.
Anh thừa biết là em không thể xem loại phim đó. Xem những
phim ấy là em mất ngủ cả tuần liền. Anh biết thế kia mà.
Em tôi càng nói giọng càng to hơn, những giọt nước mắt giả
vờ của nó lăn trên má. Nó hy vọng mẹ tôi sẽ nghe thấy và không
cho tôi xem cuốn băng này. Tôi bảo nó:
- Này, mày đừng gào ầm lên như thế. Bố mẹ đi chơi rồi.
Trước hai giờ sáng bố mẹ không về đâu. Các cụ đi xem phim rồi.
Nó xẵng giọng:
- Được rồi, hãy đợi đấy, anh sẽ biết tay tôi.
Nói xong nó đóng sầm cửa và đi ra ngoài. Mary là đứa to xác
nhưng tính khí y như một đứa trẻ mới lọt lòng, tôi chưa thấy ai
nhát như nó, trên màn hình có cảnh hơi ghê ghê một chút là nó
nhắm nghiền mắt, bịt chặt tai lại. Nó không thể chịu đựng nổi
những cảnh đó. Tôi thì hoàn toàn ngược lại. Chẳng có gì có thể làm
tôi sợ cả. Với tôi càng rùng rợn càng thích. Nếu gặp một con ma
thật sự tôi cũng chẳng sợ. Tôi chỉ cười khẩy về những cái trò như
thế.
Tôi cho băng vào đầu máy và dọn dẹp chỗ ngồi cho thoải mái.
Bộ phim còn khá hơn là tôi tưởng. Phim bắt đầu về việc người ta
quan sát qua cửa sổ một tên sát nhân đang chuẩn bị cho cưa xích
hoạt động. Bất thình lình máu phọt ra thấm đẫm cửa sổ đến nỗi
người ta không còn thấy cái gì cả. Bộ phim toàn những xác chết là
xác chết. Những bộ xương người đứng dậy từ những nấm mồ, lũ
ma không đầu đi đi lại lại và người bị cưa xích cắt thành nhiều
khúc nhỏ. Phim tuyệt hay. Có lẽ trong suốt cuộc đời của mình tôi
chưa bao giờ lại cười nhiều đến như vậy. Khoảng một tiếng đồng
hồ sau tôi cảm thấy đói. Tôi vào phòng ăn, làm vài cái bánh mỳ
quết đầy bơ lạc, cho thêm rau, chuối và thịt. Tôi còn định cho thêm
một ít tương hạt cải nhưng chả thấy đâu cả. Trong khi đang lục lọi
ở trong nhà ăn thì tôi nghe tiếng Mary đi vào phòng. Tôi hỏi nó và
không buồn đứng dậy:
- Thế nào, em nghĩ lại rồi hả? Sao, ở một mình trong buồng
em sợ phải không?
Bỗng nhiên tôi nghe thấy một tiếng động kinh khủng. Mary
đã ấn vào nút tắt máy viđeo và nhanh như chớp nó vồ cuộn băng
viđeo rồi chạy biến ra ngoài. Tất cả chỉ vỏn vẹn vài giây đồng hồ.
Mary làm còn nhanh hơn cả thằng khốn nạn trong bộ phim "Tên
cướp ở nghĩa địa" (một phim viđeo cực hay nói về một kẻ chuyên
ăn cắp xác chết). Tôi chạy vọt ra cầu thang đuổi theo nó. Nhưng
không kịp. Nó đã về đến buồng riêng, đóng sập cửa và khóa trái
lại. Tôi đập cửa thình thình:
- Giả tao cuộn băng đây, đồ rắn độc. Đúng đến đoạn hấp dẫn
nhất, lũ dòi chui nhung nhúc ra khỏi mộ.
Nó nói qua lỗ khóa:
- Đừng hòng. Em không đưa đâu. Em không thể chịu đựng
nổi những tiếng la hét, thở dài than vãn cũng như tiếng nhạc rùng
rợn mà em vừa nghe thấy. Em sợ lắm. Em chỉ đưa trả lại cuốn
băng này nếu anh đến đó mượn cuốn băng "Love story".
Tôi hỏi lại nó:
- Băng Love story ? Đừng hòng, tao không thể xem những
phim ủy mị như thế!
Mary lại than vãn:
- Anh Gordon, em sợ lắm, anh hãy trả cuốn băng này đi.
Thật thê thảm. Nó rên rỉ như người phụ nữ yếu đuối trong
bộ phim "Quan hệ vợ chồng với thủ lĩnh bộ lạc ăn thịt người", một
bộ phim nói về chuyện tàn sát phụ nữ với nhiều cảnh đầu rơi máu
chảy và về một lão luôn thèm khát thịt người. Mary sở dĩ sợ hãi
như vậy vì bố mẹ tôi không có nhà. Điều đó làm tôi nảy ra sáng
kiến. Tôi bảo nó:
- Hãy đưa trả lại anh cuộn băng, nếu không anh đi chơi và
em ở nhà một mình.
Không có tiếng trả lời. Con nhỏ thật bướng bỉnh. Tôi quay lại
và đi xuống cầu thang. Tôi cáu Mary thực sự vì tôi rất muốn xem
nốt cuốn phim này. Khi tôi ra gần đến cửa thì Mary đã đứng ở trên
cầu thang:
- Anh Gordon, anh quay lại đi, em sợ ở nhà một mình lắm.
Tôi vẫn cứ đi. Bây giờ thì muộn rồi. Tôi thấy cần phải dạy
cho nó một bài học.
Tôi cười một mình khi đi tới một quãng đường tối mù mù.
Mary quả là đồ vô tích sự, nó sợ ngay cả cái bóng của nó. Lúc này
chắc nó run bần bật vì ở nhà một mình. Tự nhiên tôi lại thấy buồn
cười. Nhưng rồi tôi cảm thấy băn khoăn tự hỏi, tại sao Mary lại
nhát như thế nhỉ? Tôi là người chẳng hề biết sợ là gì. Thậm chí tôi
đã xem cả bộ phim "Con mắt tử thần" mà không mảy may sợ hãi.
Thế tại sao Mary lại sợ, nó là em ruột tôi, cùng một dòng máu với
tôi mà lại có phản ứng trái ngược hẳn với tôi.
Tôi nghĩ tới tất cả những phim kinh dị mà tôi đã từng xem.
Chả có phim nào làm tôi sợ cả. Vả lại nếu có phim nào đó ghê sợ
thật thì tôi cũng không vì thế mà mất bình tĩnh. Tôi đã quá quen
với những phim kinh dị rồi cho nên ngay cả một con ma thật cũng
không thể làm tôi sợ hãi. Tôi không cần nghĩ ngợi gì nhiều và sẽ
nói toạc với nó, tốt nhất mày hãy cuốn xéo đi. Tôi đi qua "All Night
Video Shop" rồi rẽ vào một ngõ hẻm tối tăm. Tối hôm đó không có
trăng. Tôi gần như thầm mong có cái gì đó hãi hùng xảy ra.
Tôi cứ đi mãi, đi mãi trong đêm tối mịt mù tới một khu vực
mà tôi không quen biết. Nhà cửa càng đi càng thưa thớt hơn, cuối
cùng tôi đi tới một con đường mòn chạy ngoằn ngoèo giữa những
hàng cây. Đi được một lúc thì tôi gặp một cái mà tôi không ngờ sẽ
thấy ở trong rừng. Đó là một thùng thư. Cái thùng thư cũ kỹ, méo
mó đứng ngay bên vệ đường nhỏ hẹp dưới những hàng cây tối om
om. Tôi dò dẫm đi dọc con đường đó để xem đến đâu. Con đường ấy
dẫn tới một ngôi nhà cũ kỹ, đổ nát. Lúc đó trăng đã ló ra nên tôi có
thể nhìn rất rõ. Mái nhà lợp bằng tôn đã rỉ nhoèn, nhiều chỗ vênh
váo, xê hẳn xuống. Cây mâm xôi mọc lan tới sát hiên nhà. Tất cả
cửa kính đều bị vỡ. Cửa đóng. Tất nhiên không có gì có thể cản trở
tôi bước vào ngôi nhà này. Tôi dò dẫm từng bước ở buồng ngoài.
Một cái giường gỗ cũ kỹ không có đệm đứng ở góc phòng. Song dù
sao thì giường vẫn là giường. Lúc ấy tôi đã thấm mệt bèn leo lên
và lăn kềnh ra nằm nghỉ. Tôi chẳng thấy sợ gì cả. Hoàn toàn
không. Tôi dự định sẽ ở lại trong căn lều cũ nát này cho tới khi bố
mẹ tôi về nhà. Đây sẽ là một bài học nhớ đời cho con Mary.
Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng mình là người hùng trong
bộ phim "Ngôi nhà của thần chết." Tôi là kẻ săn đuổi bọn ma quỷ.
Một người chỉ biết có chiến thắng. Tôi hoàn toàn không biết sợ là
gì, ít ra vào thời điểm này tôi không thấy e ngại gì hết. Vì thế, khi
có một ngọn nến là là bay tới tôi cũng không hề chớp mắt.
Đúng, một ngọn nến cháy bập bùng. Nó lướt bay trong
phòng, cuối cùng, khi tới gần chỗ tôi nó đứng lơ lửng giữa phòng
rồi dừng lại. Tôi không hề đụng cựa chỉ giương mắt thờ ơ nhìn nó.
Cây nến nhích lại gần tôi hơn và cuối cùng nó tới sát mặt tôi, chỉ
cách vài cm. Tôi hít một hơi rõ dài và thổi phù làm tắt ngọn nến.
Tôi nghe thấy tiếng thở dài não ruột. Sau đó mọi cái biến mất. Tôi
trở mình nằm nghiêng làm bộ lim dim ngủ (một mánh khóe mà tôi
đã thấy ở trong bộ phim "Máu thấm trần nhà"). Một lát sau tôi
nghe thấy tiếng leng keng ở buồng bên cạnh. Tôi không hề có phản
ứng gì cả. Tiếng động to dần, nghe rào rào, ầm ầm. Nhưng tôi vẫn
mặc xác không thèm chú ý. Nhưng sau tiếng động to đến nỗi mặt
đất rung chuáển làm tôi nhói cả tai. Tôi quát: "Trật tự, thật không
thể nào nghỉ ngơi ở đây được một lúc!". Ngay lập tức tiếng động
kinh khủng tắt hẳn. Tôi có cảm giác sẽ còn lắm chuyện xảy ra.
Quả tôi có mặt ở đây thật đúng chỗ. Chẳng bao lâu, một làn sương
mù xanh biếc cuồn cuộn lách qua cửa sổ bay lướt vào nhà. Làn
mây mù đùng đục này mỗi lúc một lan tỏa rộng hơn, lả lướt bay đi
bay lại. Tôi nói:
- Này, đây không phải chỗ hút thuốc lá, tắt đi! Vớ vẩn là
cháy nhà đấy.
Làn sương cuộn xoáy lại trông như một cái lò ạo to tướng
chui ra ngoài. Trời, thật là tuyệt, thật là siêu, y như trong phim
"Con ma trên rẻo đất cuối cùng". Sau đó xảy ra một chuyện kể
cũng hơi ly kỳ. Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng tôi vẫn hoàn toàn
làm chủ. Không biết có chuyện gì nhưng rõ ràng có ai đó hoặc vật
gì đó muốn làm tôi sợ hết hồn đến nỗi phải la hét thất thanh chạy
ra khỏi ngôi nhà. Nhưng tôi quyết không tỏ ra sợ hãi. Một đôi môi
dày thâm xịt to tướng hiện ra, hết mở lại bụm miệng lại khoe
những cái răng bàn cuốc vàng ệch ghê tởm. Sau đó xuất hiện
những giọt máu ngay bên trên đôi môi. Một cái lưỡi to đùng chĩa
làm đôi thò ra khỏi mồm, nước dãi nhểu thành giọt. Cái lưỡi dài
thè lè liếm môi rồi ngoáy ngoáy, chĩa thẳng và nhích lại gần tới
chỗ tôi. Tôi quát:
- Đồ thối mồm.
Có lẽ nó không hiểu thối mồm là gì vì nó cứ dí sát vào mặt tôi
như cái đầu rắn ở thế tấn công. Tôi bèn giảng giải cho nó hiểu:
- Hơi thở mày hôi hám, kinh lắm. Không khác gì con lợn
khổng lồ trong phim "Cá voi giết người".
Tôi cảm thấy có tiếng nức nở trước khi cái lưỡi đó biến đi.
Phải chăng tôi đã xúc phạm nó. Tiếp sau đó là sự xuất hiện một
cái đầu lâu với hai hố mắt sâu hoắm. Tôi bảo:
- Ông bạn ơi, vẫn cái trò vặt vãnh, không có cái gì ghê rợn
hơn à?
Từ hai hố mắt tuôn ra những giọt máu đỏ. Tôi lại nói:
- Chưa ăn nhằm gì, cái trò này ta đã thấy trong phim "Cái
đầu lâu đi nghỉ hè".
Những khúc xương cuối cùng xuất hiện và cả cái thây ma bắt
đầu nhảy nhót, quay tít mù, hỗn loạn. Lời bình của tôi về cái chiêu
này là: "Không có gì đặc biệt! Cách đây ít năm cái trò này còn là
mốt đấy, này cậu không có đĩa nhạc Rap nào hay sao? Cho vào
máy đi!" Có lẽ đó là điều xúc phạm quá lớn làm nó không thể chịu
nổi. Bộ xương ngồi xuống một cái ghế long chân lắc la lắc lư. Nó
biến thành một con ma nhỏ. Nó có hình thù một Punkrocker.
Người nó trong suốt và khoác chiếc áo da đóng rất nhiều đinh.
Ngoài ra nó mặc quần bò, một cái kim băng xuyên qua mắt. Đầu
nó cạo trọc lốc ở chính giữa chừa lại một mảng tóc đỏ chót.
Nó nhìn tôi rồi gục đầu xuống, nước mắt rơi lã chã. Nó rên rỉ:
- Không ăn thua gì cả. Ngay đến một cậu học trò cũng không hề sợ
những trò kinh dị của tôi. Vì tôi là một kẻ bất tài, một đồ vô tích
sự.
Tôi quát:
- Này, mày biến đi và ngậm miệng lại, Một giờ tao sẽ đi khỏi
đây, tao không cần gì hơn ngoài một chút yên tĩnh!
Nó lắc đầu quầy quậy và nói:
- Không, anh không thể đi được. Em cần anh cho cuộc thi.
Nếu em đỗ thì anh có thể đi đâu thì đi - nếu như anh còn đi được -
nhưng nếu em trượt thì anh sẽ bị đóng thành băng và phải chờ tới
kỳ thi tới.
Tôi hỏi nó:
- Kỳ thi tới là bao giờ?
- Sang năm, cũng vào thời điểm này. Tôi bảo nó:
- Không được. Tao phải về lo cho bản thân tao và em gái tao.
Nó đang ở nhà một mình và sợ chết khiếp. Có lẽ tốt nhất là tao đi
về ngay bây giờ.
Tôi tìm cách ngồi dậy nhưng không tài nào nhích người lên
được, dường như có những bàn tay vô hình ra sức ấn tôi xuống. Nó
nói:
- Anh hãy nghe đây. Em không cho anh đi đâu hết. Anh phải
ở đây với em. Nếu em thi đỗ anh mới được đi, nếu không thì anh sẽ
bị làm đông lạnh bỏ vào kho chờ tới sang năm.
Trong khi nó nói, cái kim băng trên mũi nó luôn nhấp nha
nhấp nhô. Mồm tôi còn có thể mấp máy nhưng toàn thân tôi như
bị tê dại không thể cựa quậy được. Tôi bảo nó:
- Tao phải đi. Tao không thể nằm chết dí ở đây một năm. Tao
đã đặt thuê băng "Jack the Ripper" cho tối mai rồi.
Nó nói:
- Nếu thế thì anh hãy giúp cho em thi đỗ.
- Thế cậu phải làm những gì?
- Ông chủ của em sẽ tới. Em phải làm cho nạn nhân của
mình, tức là anh, sợ hãi. Nếu đủ rùng rợn thì em sẽ đỗ. Nếu không
lão sẽ đánh trượt. Nhưng triển vọng thật xấu. Anh chẳng biết sợ là
gì lại còn chế giễu xách mé nữa. Em xin nói toạc ra với anh tình
hình này xấu với cả hai chúng ta. Nếu em không làm anh sợ hãi
tím tái mặt mày thì em sẽ bị trượt và nếu em trượt thì cả hai
chúng ta phải ở lại đây cho tới giờ này sang năm.
Tôi nói:
- Thế thì có khó gì. Ta sẽ đóng kịch, làm ra vẻ sợ hãi. Mày sẽ
thi đỗ còn tao thì có thể ra về. Nó buồn bã lắc đầu:
- Không được đâu. Ông chủ là người rất lõi đời, khôn ngoan.
Có thế mới làm ông chủ được chứ. Ông ấy có thể nhận thấy những
dao động nhỏ nhất trong con người anh. Ông ta sẽ biết ngay nếu
anh không sợ thật sự.
Tôi khẩn khoản nói:
- Thôi, để tao đi, tao sẽ giúp mày xem có cách gì không. Mày
có thể bắt chước cuốn phim "Khủng bố lúc nửa đêm".
Nó hỏi tôi với ánh mắt nghi ngờ:
- Anh không trốn đi chứ?
- Ta hứa với chú mày đấy.
Những bàn tay vô hình buông tôi ra.
Tôi được tự do đi lại trong phòng. Tôi nghĩ tới Mary, chắc
chắn lúc này nó đang run sợ hốt hoảng. Nhưng cái con ma Punk
này thì hoàn toàn không thể làm cho tôi biết sợ là gì. Tôi hỏi nó:
- Này, cậu đã xem "Những bóng người trong đêm" chưa?
Cũng có một số pha được đấy.
Nó nói:
- Không, em chưa xem phim đó. - Nó luống cuống. - Chết rồi,
ông chủ tới, anh ngồi lên giường đi, cuộc thi sẽ bắt đầu ngay đấy.
Tôi ngồi đúng vị trí theo yêu cầu. Ông chủ trôi bồng bềnh
xuyên qua tường. Ông ta mặc một bộ complê kẻ sọc, áo sơ mi màu
trắng và đeo cra-vát đen. Tay trái lão cầm một chiếc cặp da màu
đen, mắt đeo kính gọng vàng. Tôi có thể nhìn thấu qua lão ta. Lão
không hề mảy may quan tâm đến tôi và chỉ hơi chú ý đến thằng
Punk-con ma. Lão ngồi xuống ghế, mở cặp, lấy bút bi và cuốn sổ
ghi chép. Sau đó lão nhìn đồng hồ rồi nói với Punk-con ma:
- Mày có phút. Bắt đầu đi!
Tôi có thể tưởng tượng là thằng Punk-con ma rất hồi hộp. Nó
muốn nhất định phải thi đỗ. Và để được như thế nó nhất thiết
phải làm tôi sợ hãi thực sự. Nhưng tôi là người không biết sợ.
Không sợ một chút nào cả. Vì tôi đã xem phim kinh dị từ hàng
chục năm nay cho nên tôi khinh những trò chơi trẻ con này.
Nhưng tôi lo sợ sẽ bị ướp lạnh để chờ tới sang năm. Tôi cố làm ra
vẻ sợ hãi nhưng không làm được. Punk-con ma huơ huơ tay trong
không khí và vớ một quả bóng quần vợt rồi để lên bàn. Sau đó nó
tung một ít bột hồng lên quả bóng rồi nói: "Trong, ngoài". Quả
bóng bắt đầu lăn trên bàn và một đường nứt từ từ hiện ra sau đó
quả bóng bị lộn trái, phía trong lộn ra ngoài. Rất có ấn tượng, song
chẳng có gì ma quái cả. Mạch đập của tôi không hề mạnh lên một
chút nào. Tôi đã cảm thấy thế nào cũng bị làm đông lạnh và phải
chờ một năm cho đến khi thằng ma Punk này phải thi lại một lần
nữa. Ông bạn Punk của tôi phải nghĩ ra một cái trò gì đó khá hơn
thì mới ăn thua. Tôi phải cố gắng giấu một cái ngáp dài.
Cái anh chàng ma Punk này thật thiếu trí tưởng tượng. Bước
tiếp theo nó làm một khúc dồi nhỏ. Sau đó hắn lại rắc bột màu
hồng lên và lại đọc thần chú: "Trong, ngoài". Khúc dồi nứt toác ra
như bị nướng vậy. Sau đó mọi thứ bị lộn ngược, phần thịt lộn ra
ngoài, phần vỏ bọc chui vào trong. Lão chủ viết một cái gì đó vào
sổ tay. Những trò này có tính ảo thuật nhiều hơn là kinh dị, quái
đản. Tôi hoàn toàn chẳng thấy sợ một chút nào. Tôi lo lắm. Con
ma Punk lại quờ một quả dưa hấu trong không khí. Nó lại rắc một
ít bột màu hồng và lại đọc thần chú: "Trong, ngoài". Quả dưa hấu
lộn ngược, trong ra ngoài, thịt quả và hạt dính tất cả bên ngoài.
Lão chủ lại viết cái gì đó vào cuốn sổ tay. Con ma Punk nhìn tôi
rồi chẳng nói chẳng rằng nó rắc một ít bột hồng lên người tôi và
đọc thần chú: "Trong, ngoài". Lão chủ hét toáng lên:
- Dừng lại.
Sau đó lão bị ngất lịm. Lão bị ngã lăn quay trước khi tôi bị
ngã vài tích tắc. Là ma cho nên lão không bị thương. Còn tôi hình
như bị đập đầu vào thành lan can và tôi đã bị ngất quãng nửa
tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy tôi nhìn quanh chỉ thấy căn nhà trống
trơ, không có một chút dấu vết gì về hai con ma, trên lớp bụi mỏng
bám trên giường hiện lên dòng chữ: "Tôi được cộng".
Tôi cũng chả biết mình đã đi về như thế nào. Tôi hoảng sợ
đến độ đầu gối run lẩy bẩy. Chỉ một tiếng động nhỏ cũng đủ làm
tôi co rúm người lại. Khi về đến nhà tôi vội vàng đi ngủ vì Mary
đang xem một phim kinh dị chính cống: "Die grose Muppet Show".
TắC XI CHở RáC
Chị Helen nhìn ra sân trường rồi chỉ vào tai tôi:
- Em thật là điên, ai đời lại đeo hoa tai tới trường bao giờ.
Có tiếng ai đó gọi tôi:
- Smacka Johns, lại đây ngay lập tức!
Đó là tiếng cô hiệu phó Cranch.
Cô chìa tay về phía tôi, ra lệnh:
- Đưa ngay cái hoa tai đây cho tôi!
Trong khi tháo hoa tai để đưa cho cô, tôi nói:
- Thưa cô đây chỉ là một vật không có giá trị.
Cô nói đốp luôn:
- Mặc, đã có quá định cấm không được mang đồ trang sức tới
trường kia mà.
Tôi chưa kịp nói tiếp thì cô đã quay ngoắt đi về phía văn
phòng cùng với cái hoa tai của tôi. Chị Helen bảo:
- Chị nói có sai đâu kia chứ!
Tôi lầu bầu:
- Bà Cranch là người độc địa nhất, em chưa thấy người nào
lại tai quái như thế bao giờ. Không biết bà ta làm gì với những cái
hoa tai này kia chứ? Bà ấy phải có cả triệu cái chứ ít à!
Chị Helen nói:
- Bà ta sẽ đeo những cái hoa tai đó. Chính chị đã trông thấy
bà ấy đeo hoa tai của chị mà!
Tôi nói hết sức khinh bỉ:
- Làm gì có chuyện người lớn, cho dù là bà Cranch, lại đi lấy
của trẻ con kia chứ!
Suốt cả ngày hôm đó tôi cứ bận tâm về cái hoa tai của mình.
Tôi càng nghĩ càng tức. Cuối giờ học tôi quyết định mua một cái
hoa tai khác và cứ đeo đến trường để tỏ thái độ phản đối. Thầy, cô
giáo không có quyền lấy của học sinh như vậy! Tôi đi rất nhanh về
nhà và nói với bố:
- Bố ơi, bố cho con đi cùng ra phố nhé? Con muốn mua một
chiếc hoa tai mới.
Bố cười:
- Được thôi, bố cũng đang định đi đây.
Bố tôi hoàn toàn không nghĩ tới chuyện có được đeo hoa tai
tới trường hay không. Ngày xưa ông cũng đã từng đeo hoa tai mà.
Bố tôi không giống các ông bố khác. Ông luôn luôn làm một
chuyện gì đó kỳ cục khác người. Quả thật cũng có khi tôi cảm thấy
ngượng vì những việc bố tôi làm. Chúng tôi đi ra xe. Bố ước ao có
một chiếc ô tô thể thao nhưng không thể mua nổi. Thế là bố cưa
phéng mui xe Holden-Limousine và chúng tôi chỉ có thể dùng xe
vào những ngày nắng ráo. Trên đường ra thành phố, tôi luôn mồm
dè bỉu, chê bai cái xe. Bố nói:
- Bố không hiểu con muốn gì. Cái xe này thật tuyệt vời. Cả
thành phố không ai có xe như của nhà mình. Có ai lại muốn mình
y như người khác kia chứ?
Tôi cười. Bố nói cũng có lý. Tôi cũng không muốn mình giống
hệt như những người khác. Vào thời điểm đó tôi hoàn toàn không
biết rằng ước muốn của tôi chẳng bao lâu nữa sẽ thành hiện thực
%.
Cuối cùng chúng tôi cũng ra đến thành phố. Bố cho xe đỗ sau
một chiếc xe bồn bẩn thỉu. Bố chỉ vào một cửa hàng:
- Kia kìa, con vào đấy mà mua hoa tai.
Cửa hàng đó trông thật luộm thuộm, mạng nhện giăng chi
chít trông thật ma quái. Tôi bỗng cảm thấy chờn chợn và nói với
bố:
- Con đã thay đổi ý kiến và chẳng muốn vào cửa hàng này
đâu.
Bố bảo:
- Mày chỉ nói vớ vẩn, vào đi. Bố cũng còn phải đi mua một lô
đồ đạc nữa kia.
Nói xong ông đẩy tôi vào cái cửa hàng đó. Tôi đụng phải một
ông béo kinh khủng. Ông ta mặc quần soóc, áo lót màu xanh, tay
cầm bông hoa tai. Người ông ta bốc ra một thứ mùi hết sức khó
chịu. Ông cáu kỉnh:
- Này, đi cẩn thận một chút, - rồi đi ra cửa.
Tôi nói lí nhí:
- Xin lỗi bác.
Đứng đàng sau quầy hàng là một ông già mặt đầy nếp nhăn.
Tôi nói:
- Cháu muốn mua một cái hoa tai.
Ông chủ cười với tôi và nói:
- Thông thường bác chỉ bán từng đôi một, nhưng cái ông vừa
rồi đã nài bác bán cho ông ta một cái vì thế nếu cháu muốn bác có
thể để cho cháu cái hoa tai còn lại. Đây là hoa tai bác mua lại của
một ông thầy bói.
Đúng là cái mà tôi đang tìm, vì thế tôi giúi vào tay ông già
đồng đôla rồi đút bông hoa tai vào túi. Bố và tôi cùng đi ra đường
rồi lên xe. Từ chiếc xe bồn tỏa ra một mùi hôi thối nồng nặc rất
khó chịu. Bất thình lình tôi chợt nhớ ra cái mùi đó là mùi gì. Rõ
ràng là mùi bùn ở hồ Newman. Cả xã đã ra quyết định phải nạo
vét bùn ở cái hồ tù đọng đó và bây giờ người ta chở bùn tới bãi
chứa chất phế thải. Phải nói rằng cái hồ này là nơi bẩn thỉu, hôi
thối nhất thế giới. Đây là nơi chứa nước thải từ một nhà máy làm
phân bón, một cơ sở chế biến cá và một nhà máy lọc dầu. Vùng hồ
này không còn sự sống. Mặt hồ phủ một lớp váng nhầy nhầy màu
xanh với những cục lổn nhổn trôi lơ lửng. Người công nhân vệ sinh
phải đeo mặt nạ phòng độc khi chiếc xe hút bùn hút ùng ục lớp
bùn đặc quánh, nhơ bẩn, hôi thối ở trong hồ. Chiếc xe bồn chứa
đầy lớp bùn nhơ nhuốc này quả là một cơn ác mộng. Cơn ác mộng
đó sau này đã đổ ập xuống đầu chúng tôi. Lão béo mặc chiếc áo lót
màu xanh lái chiếc xe bồn chạy trên đường. Chúng tôi ngồi trong
chiếc "Cabrio" chạy phía sau. Tôi thèm khát được hít thở không
khí trong lành nhưng hoàn toàn vô vọng. Bùn từ chiếc xe bồn văng
ra bám vào kính phía trước xe chúng tôi. Bố ấn nút cần gạt nước,
nhưng tình hình lại càng tồi tệ hơn. Một màng mỏng màu xám xịt
phủ kín tấm kính, cản trở tầm nhìn của người ngồi trong xe. Cơn
mưa bùn mỗi lúc một lớn hơn, cuối cùng một lớp bùn nhão nhoẹt
hôi thối đã phủ kín cả hai bố con chúng tôi. Bố tôi hét lên:
- Thật là đồ vô liêm sỉ, hắn đã biến xe ô tô của chúng ta
thành cái gì thế này không biết.
Tôi thì chẳng lo gì về cái xe mà chỉ lo cho bản thân mình.
Người tôi ướt sũng vì lớp bùn hôi hám. Cứ nghĩ lớp bùn này từ đâu
ra là tôi lại thấy rùng mình. Phía sau xe có một cái van lớn nối với
một ống cao su to tướng. Tôi có thể tưởng tượng được cái gì đã bị
hút tuồn tuột vào cái cổ họng kia. Bố ấn còi. Ông hét toáng lên:
- Đi dẹp sang một bên. Đồ ngu, mày làm cả thành phố bị ô uế
thế này ư!
Riêng tôi lại nghĩ rằng, dù sao cũng không nên rủa lão lái xe
là đồ ngu, càng không nên dây vào loại người này. Khốn nỗi bố tôi
không bao giờ nghĩ tới hậu quả việc ông làm. Bố cho xe tạt sang
một bên, phóng vọt lên ngang với chiếc xe bồn và dứ dứ quả đấm
về phía lão lái xe mặc chiếc áo may ô xanh. Ông hét tướng lên:
- Đi sang một bên, đồ ngu! - Môi ông thâm xịt vì lớp bùn nhơ.
Chiếc xe bồn dạt sang vệ đường và dừng lại.
Lão lái xuống xe. Bố xuống xe. Tôi không xuống.
- Ông để bùn bẩn thỉu như thế này à? Sao không vặn chặt cái
van kia lại? - Bố chỉ tay vào cái vô lăng ở chiếc van hút.
Lão lái xe to cao cất giọng:
- Mày bảo tao là thằng ngu hả?
Bố tôi lúng túng, ông cố tìm cách để cười:
- Hừ, hừ, ông hãy trông xem ông đã làm gì thế này.
Cả hai giương mắt nhìn cái xe của chúng tôi bị bùn nhơ phủ
kín. Tôi tỉnh bơ làm như mình không hề có mặt ở đó.
- Ngu hả? - Lão lái xe hùng hổ. - Tao là đồ ngu hả? Có lẽ tao
ngu đến mức không biết vặn nổi cái van chứ gì? - Lão chạy vọt ra
sau xe và vặn nút. Lão nói to khoái chá:
- Thôi chết rồi, hình như ta vặn ngược van thì phải.
Tôi hét thất thanh:
- Khôôông...
Nhưng muộn mất rồi. Một tia bùn đặc quánh, xám xịt phọt
lên đầu tôi, phủ kín cả người tôi, chẳng mấy chốc bùn trào lên tới
mép trên cánh cửa ô tô và ùa ra đường. Tôi như bị chết sặc trong
cái hố bùn nhơ nhuốc hôi hám. Những tảng bùn bầy nhầy bóng
nhẫy trôi tuồn tuột từ đầu tới chân. Một cái đầu cá xoáy tròn trong
vũng bùn. Chỗ xe của chúng tôi đã biến thành một vùng "ô nhiễm
sinh thái" đến mức báo động. Tôi quờ quạng tìm tay vặn của xe và
bị bùn cuốn ào ra khỏi xe. Tai tôi, mắt tôi và mũi tôi bị lớp bùn đặc
quánh phủ kín mít. Tôi vừa đi vừa ho sặc sụa và khạc nhổ liên hồi.
Những người đi trên đường hốt hoảng tháo lui. Ai cũng vội vàng
lấy khăn bịt mũi. Họ giương mắt nhìn tôi như một quái vật từ âm
phủ hiện lên. Tôi lắc mình chẳng khác gì một con chó sau khi vùng
vẫy trong hồ nước. Mọi người sợ hãi ngãng ra khi nước bẩn từ
người tôi văng ra tứ phía. Người tôi có mùi hôi thối kinh khủng.
Phân nhão nhoẹt bầy nhầy bám khắp người. Tôi như bị tắc thở.
Cái lão mặc may ô xanh khoái trá cười sằng sặc. Một lúc sau lão
vặn vô lăng, nhảy tót lên xe và phóng thẳng. Bố đứng ngẩn tò te,
lắc đầu, sau đó ông nổ máy chiếc xe bị ô uế của mình. Tôi nói
không ra hơi: - Cứu con với! - Khi tôi nói lỗ mũi tôi phì ra những
cái bọt bong bóng màu nâu. Tôi cảm thấy buồn nôn. Mùi hôi thối
nồng nặc làm tôi choáng váng, lảo đảo. Bỗng nhiên tôi thấy bầu
trời đang từ màu nâu trở nên xám xịt rồi tôi ngã khuỵu xuống.
Khi tôi tỉnh lại thì phần lớn lớp bùn bẩn không còn nữa. Ông
hàng thịt cho bố mượn một cái ống cao su và bố đã dùng nó tổng vệ
sinh cho tôi. Bố cười bảo:
- Con sẽ sạch bong, chuyện ấy dù sao cũng là một phần trong
cuộc sống muôn màu muôn vẻ của con.
Bố hít một hơi rõ dài, nín hơi, phồng má chĩa ống phun nước
rửa xe. Thỉnh thoảng ông lùi ra xa hít lấy hít để bầu không khí
trong lành. Nhưng tôi thì không thấy không khí trong lành một
chút nào. Người tôi hôi thối kinh khủng. Tôi loạng choạng đi về
phía bồn trồng hoa ở trước một cửa hàng. Tôi thề là tôi không nói
phét, là mấy cây ở đó héo rũ xuống! Người đi đường lảng tránh
người đàn ông điên rồ đang cắm cúi rửa xe và thằng con trai kinh
tởm hôi hám của ông. Hôm đó trời nóng bức. Phần lớn những chất
bầy nhầy, nhão nhoét bám vào xe đã khô cứng và phải rất khó
khăn bố mới tống khứ được những thứ bẩn thỉu đó.
Ông hàng thịt tay bịt mũi bằng khăn mùi xoa đi về phía
chúng tôi. Ông nói với bố:
- Đề nghị ông đánh xe đi nơi khác. Tôi mất hết khách hàng vì
cái xe tội nợ của ông đấy!
Bố mở cửa xe và bảo tôi:
- Lên xe đi con!
Tôi thở dài:
- Bố có nói đùa không đấy? Máy làm sao có thể nổ được?
Bố nhắc lại:
- Lên xe đi!
Tôi vâng lời và leo lên chiếc ghế ướt sũng mùi thum thủm.
Bố ấn nút khởi động. Máy nổ. Tôi không thể tưởng tượng nổi. Bố
mỉm cười nói:
- Con thấy chưa, ngày nay những loại ô tô đời mới làm gì nồi
đồng cối đá như thế này?
Xe chúng tôi chạy vút đi, văng ra phía sau những tia nước
màu nâu ủng. Tôi thấy ngượng kinh khủng. Bây giờ đến lượt bố
con tôi gây ô uế cả một vùng. Những xe đi sau chúng tôi bóp còi
inh ỏi hoặc bật đèn phản đối, một số người nắm tay thành quả
đấm dứ dứ đe dọa khi những tia nước bẩn văng lên kính chắn gió
của ô tô họ. Tôi nhăn nhó nói với bố:
- Bố dấn ga phóng nhanh lên, con không thể chịu nổi cảnh
này đâu.
Tôi cảm thấy thời gian trôi đi thật chậm chạp, dường như
phải mất tới mười năm trời bố mới đưa được chiếc xe về tới nhà. Bố
bảo:
- Con vào tắm trước đi. Bố cho xe vào phố để tổng tẩy uế đã.
Tắm. Quả thật tôi đang ước ao được tắm một trận thỏa thích.
Có lẽ tôi đã đứng dưới vòi nước ít nhất một tiếng đồng hồ. Tôi ra
sức kỳ cọ thật kỹ lưỡng để tẩy đi mọi sự ô uế. Chắc chắn đây là
những chất bẩn ghê gớm nhất. Ai mà biết được có những loại hóa
chất độc hại gì đã thải ra cái hồ này? Cuối cùng tôi khóa vòi nước
và lau khô người cẩn thận rồi đeo cái hoa tai mới. Tôi đứng trước
gương nhìn ngắm kỹ khuôn mặt của mình. Có cái gì đó không ổn.
Có lẽ tại da thịt tôi bị ngấm cái nước nhơ nhớp bẩn thỉu đó. Tôi
nhíu mày đánh hơi khịt khịt khắp người y như một con cẩu vậy.
Tôi không thấy có mùi thối, song rõ ràng có cái gì đó khang khác.
Tôi thấy da mình buồn buồn. Kể cũng lạ. Song cũng chẳng có gì
đáng ngạc nhiên sau tất cả những gì đã xảy ra đối với tôi. Tôi đi từ
từ vào nhà bếp và từ lúc đó tôi thấy mọi chuyện đều đảo ngược đối
với tôi.
Có cái gì đó cử động ở trong góc nhà thu hút sự chú ý của tôi.
Hình như có ai đó vừa quăng một chiếc khăn lau bằng giấy dùng
rồi ở đấy. Hôm ấy tuyệt không có một ngọn gió, bỗng cái khăn chao
đảo lúng liếng, nó bay vút lên rồi lượn là là qua căn phòng và rơi
xuống trước mặt tôi. Tôi kêu lên se sẽ và vội vã giật chiếc khăn
tay. Nó như cố cưỡng lại ở trong bàn tay tôi, còn tôi thì vo viên cái
khăn và vứt tọt xuống đất. Cái khăn nhảy chồm lên mũi tôi và ở lì
luôn tại chỗ đó. Tôi nghe thấy có tiếng động nên vội kêu lên "bố
ơi!" nhưng không thấy bố đâu cả. Một cái vỏ hộp đựng cá lăn lông
lốc tới chỗ tôi rồi bám chặt vào chân phải tôi. Tôi giật nó ra và
quẳng mạnh vào góc nhà, nó nằm ở đó chừng nửa giây rồi lao như
bay tới chỗ cũ của nó ở chân tôi. Tôi giụi mắt. Thật là điên rồ, lúc
đầu chiếc khăn tay bằng giấy, giờ đến lượt vỏ hộp cá. Những thứ
của nợ đó bám chặt lấy tôi. Tại sao lại như thế này, tôi không tài
nào hiểu nổi. Tôi vò đầu bứt tai, giật giật quần áo của mình như
một người điên. Rõ ràng đang có chuyện gì đó xảy ra với tôi. Thật
là kinh khủng. Tôi vội vã soi gương, nhưng không trông thấy mặt
mũi mình đâu cả. Khoảng hai mươi chiếc khăn tay bằng giấy từ
sọt rác bay vụt lên và bám lấy mặt tôi. Những thứ lông lá, rác
rưởi đọng ở tấm chắn bên miệng cống thoát nước chui ra và bay
liệng trong không khí rồi bám vào chiếc áo len chui đầu của tôi.
Tôi cảm thấy hoa mắt, chóng mặt, phải chăng tôi sắp hóa điên hóa
rồ? Liệu có thể như thế được chăng? Đúng, việc đó đã xảy ra. Rác
rưởi. Tôi hút mọi thứ rác rưởi. Y như một thanh nam châm. Tôi
nhủ thầm "nước thải bẩn thỉu ở hồ Newman đã làm tôi có từ tính,
bẩn hút bẩn mà". Một cái bàn chải đánh răng cũ kỹ, xơ xác bay
vèo tới chỗ tôi, theo nó là mấy cái vỏ chai nhựa. Tôi hớt ha hớt hải
tìm chỗ ẩn nấp. Bên cạnh cửa ra vào nhà tôi có một buồng điện
thoại. Đây là một trong hàng loạt buồng điện thoại cổ lỗ quét sơn
đỏ, xưa kia người ta thường dựng ở các góc phố. Khi bố khuân cái
của nợ ấy về tôi đã cười giễu, nhưng giờ thì tôi không còn cười nữa.
Tôi chui tọt vào buồng điện thoại rồi đóng chặt cửa lại. Thật là kịp
thời, mấy cái vỏ chai bay vù tới, đập thình thịch vào tấm kính cửa
rồi bám chặt vào đó. Cái bàn chải đánh răng giật giật và tìm cách
chui qua khe cửa. Tôi cố bình tĩnh suy nghĩ và run bắn lên vì sợ
hãi. Tôi đã trở thành mục tiêu của mọi thứ rác rưởi. Tính mạng tôi
đang bị lâm nguy. Tôi có thể bị chìm ngập, chết ngạt trong rác
rưởi, mọi thứ lông lá rác bẩn, những que diêm cháy dở, đầu mẩu
thuốc lá, nút chai chui vào buồng và bám vào chân tôi. Tôi ra lệnh
cho mình: "Hãy suy nghĩ, hãy suy nghĩ, để tự cứu mình!". Tôi tin
rằng nước thải ở hồ Newman đã tác động thế nào đó vào da tôi.
Lão đàn ông mặc chiếc áo lót xanh nhất định là thủ phạm đã gây
nên nông nỗi này. Lão ta hàng ngày sống với những thứ dơ dáy đó
chắc phải có một loại xà phòng đặc biệt để chống lại. Tôi vội vàng
lấy cuốn danh bS điện thoại và lẩm bẩm: "Bãi rác khu vực South
Barwon. A đây rồi!". Tôi luống cuống quay số. Tôi nghe rõ tiếng
chuông reo ở đầu dây bên kia. Tôi nói vội vã:
- Cầm lấy, cầm lấy ống nghe đi!
Nhưng không ai cầm ống nghe cả. Có lẽ cái lão mặc áo lót
màu xanh đang xả nước thải ghê tởm ở ngoài sân. Buồng điện
thoại lúc này gần như đã đầy ứ rác rưởi. Rác bay vèo vèo trong
buồng rồi bám đầy trên những tấm cửa kính, y như chúng là
những vật sống vậy. Tôi nghĩ cần phải ra khỏi nơi này ngay tức
khắc. Tôi đang định xô cửa ra ngoài thì giật thót mình, tim tôi
xuýt ngừng đập. Cái thùng đựng rác nhà tôi lắc la lắc lư, kêu lẻng
xẻng. Hình như những thứ ở trong thùng đang muốn tìm mọi cách
để thoát ra ngoài.
Tôi lại vớ cuốn danh bạ điện thoại, run rẩy quay số công ty
xe tắc xi. Một giọng ai đó hỏi:
- Địa chỉ?
Tôi rên rỉ:
- Phố Henry, số .
- Đi đâu.
Tôi đáp:
- Tới South Barwon, bãi rác khu vực.
Từ đầu dây bên kia có tiếng đáp lại:
- Hãy chờ đấy!
Tôi kêu rất to:
- Đề nghị bác thật khẩn trương, cấp cứu đấy!
Vẫn tiếng người đó đáp lại:
- Mười phút nữa, sẽ có mặt! Từ buồng điện thoại tôi nhìn
thùng rác đã đầy ứ, nó có thể bật tung bất cứ lúc nào. Nếu tôi còn
ở đây lâu, tôi có thể bị chết dí trong cái buồng điện thoại này.
Rác rưởi bám vào mấy tấm cửa kính mỗi lúc một nhiều hơn.
Một tờ báo bay lượn trong buồng cùng với vô vàn những thứ linh
tinh khác. Cánh cửa buồng điện thoại bị đè trĩu xuống kêu kẽo
kẹt. Thời gian không còn bao nhiêu nữa. Tôi kêu to:
- Trời ơi, nhanh lên, nhanh lên!
Có tiếng còi ô tô ngoài đường.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi nghe rõ tiếng đổ vỡ. Kính vỡ
loảng xoảng và rác rưởi đổ ập vào buồng điện thoại, tôi chạy như
bay ra khỏi nhà. Khi tôi chạy qua chỗ để thùng rác nó cũng nhào
theo chân tôi.
Tôi vội vàng giật cửa xe tắc xi và ngồi tọt vào chiếc ghế sau.
Tôi nhanh chóng đóng cửa đánh sầm, nhờ vậy phần lớn rác rưởi
không kịp theo chân tôi vào trong xe. Người lái xe hỏi tôi:
- Đi đâu?
Ông ta người bé nhỏ, vẻ cắm cảu, bẳn tính. Mắt ông hầu như
lồi hẳn ra khi nhìn thấy rác rưởi bám đầy trên người tôi. Tôi đáp:
- Cho cháu tới South Barw...
Song chưa nói hết câu thì những thứ rác rưởi từ hộp gạt tàn
trong xe tắc xi như tro, đầu mẩu thuốc lá, que diêm cháy dở v.v...
bay thẳng vào mồm tôi. Tôi bậm môi lại và vội vàng nhổ phì phì,
song những thứ đó đã bám chặt vào mặt tôi. Ông lái tắc xi quát lạc
cả giọng:
- Thế này là thế nào? Bước ra khỏi xe...!
Ông ta và tôi hốt hoảng nhìn qua cửa sổ xe vì nghe thấy một
tiếng đập rõ to. Cái nắp thùng đựng rác nhà tôi bật ra, dường như
bị nổ mìn vậy, những thứ rác rưởi ào ra nhảy lon ton trên đường
lao phốc lên phía sau chiếc xe tắc xi rồi đổ ập xuống phía kính
chắn gió đàng trước. Những túi ni lông chứa đầy rác nhảy tưng
tưng đuổi theo chúng tôi. Tôi hét rất to:
- Bác cho xe chạy nhanh lên không chết hết cả bây giờ! Một
chiếc vỏ hộp đựng thức ăn cho mèo đập đánh thình vào cửa kính ô
tô chẳng khác gì lựu đạn. ông lái xe sợ quá hét lên và cho xe phóng
vút đi. Rác rưởi rào rào đuổi theo. Xe chúng tôi lao đi vèo vèo như
xé bầu không khí. Đủ các loại vỏ hộp, túi giấy và những thứ rác
rưởi khác phủ kín phía sau xe. Bỗng người lái phanh cháy xe vì
một con chó chạy thốc ra đường. Tôi nói to:
- Gì thì gì, bác chớ dừng xe, chúng ta sẽ bị rác phủ kín đến
chết ngạt đấy!
Một con chó ngậm khúc xương to tướng chạy về phía chúng
tôi, bỗng cái xương trong mõm nó cựa quậy, lắc la lắc lư như có ai
đó muốn giật nó ra khỏi mõm. Bất thình lình cái xương rơi xuống
và lao như bay về phía chúng tôi. Con chó sủa ăng ẳng và rảo cẳng
đuổi theo. Cái xương lao đánh thình vào mui xe rồi nằm lại đó
cùng với những thứ rác rưởi khác. Càng lúc rác càng bám nhiều
hơn làm cho chiếc xe của chúng tôi bị tối sầm lại. Bác lái xe cho xe
chạy ngoặt sang bên tránh con chó đồng thời đánh xe đi về phía
nhà máy cá hộp. Tôi hét to: "Không, không!" Nhưng muộn mất rồi,
hàng trăm con cá ươn thối khắm chết tự bao giờ bỗng nhiên bật ra
khỏi thùng rác và bay vèo vèo, dòi bọ rơi lộp bộp xuống đống rác
bám đầy trên xe. Hàng nghìn con cá chết bám hai bên thành xe,
đuôi bay phất phơ. Bác lái xe than vãn:
- Trời đất ơi, cái xe ô tô của tôi còn mới tinh!
Tôi hét lên:
- Bác phóng nhanh nữa lên, nhanh lên!
Bác lái xe nhấn ga. Xe chúng tôi rời đường cấp phối và chạy
lên xa lộ. Xe lao khá nhanh và luồn lách vượt các xe khác. Tôi
những tưởng rác rưởi sẽ bị hất tung xuống đường, nhưng tôi đã
lầm, chúng vẫn bám chặt thành xe vì bị hút vào bên trong. Khi xe
chạy qua những bãi rác, rác rưởi bay tung lên, nhưng vì xe chạy
với tốc độ cao nên chúng không thể bay theo kịp, và đành dừng lại
y như những người đi săn bỏ buột mất con mồi. Giữa tiếng rào rào,
ầm ầm do rác đập vào thành xe, tôi nói rất to:
- Chừng nào bác còn cho xe chạy thì chúng ta còn có cơ may
thoát nạn.
Ông ta bèn hỏi:
- Thế khi hết xăng thì sao?
Tôi đáp:
- Người đàn ông mặc áo lót màu xanh làm việc tại khu bãi
rác khu vực biết phải làm gì. Tất cả chuyện này đều do lỗi của ông
ta. Bác có thể tìm thấy ông ta được không?
Người lái xe làu bàu:
- Người đàn ông mặc áo lót xanh hả?
Đến chỗ đường vòng, ông phanh cho xe chạy chậm lại, bỗng
hai cái bắp cải thối từ quầy hàng rau gần đó lao tới đầu xe chúng
tôi. Tôi không muốn kể tiếp với các bạn về chặng đường còn lại làm
gì. Tôi chỉ muốn nói rằng chuyến đi đó quả là một cơn ác mộng có
một không hai. Khi xe chạy vào đường làng tôi nghĩ có lẽ tình hình
sẽ đỡ tồi tệ hơn. Nhưng tôi đã nhầm. Khi xe chạy chậm gần đồng
cỏ thì có không biết bao nhiêu là phân bò bay rào rào tới và bám
đầy xe làm cho xe chúng tôi có một lớp vỏ bọc màu nâu ở bên
ngoài. Kính chắn gió phía trước chỉ còn hở một ít, chiếc cần gạt
nước oằn xuống vì phải làm việc quá tải. Vì tôi là người tạo ra sức
hút những thứ rác rưởi này nên tôi cố tình ngồi phía sau xe để hạn
chế rác bám phía mũi xe. Cuối cùng chúng tôi đi tới một khu vực
có hàng rào bao bọc, ngay cổng có cái bảng bẩn thỉu với hàng chữ
"Bãi rác khu vực South Barwon". Thật là may cho chúng tôi. Chiếc
xe đã bị rác phủ kín mít. Nó phải to gấp mười lần chiếc xe thông
thường. Trông cái xe lúc này không khác gì một núi rác di động.
Xe dừng. Bác lái xe làu bàu:
- Tôi chẳng thấy cái gì cả, thật tối như hũ nút! Chúng ta đến
chết mất thôi.
Trông bác ấy hoảng hốt thật tội nghiệp. Tôi bèn nói:
- Bác yên tâm. Cháu là người hút đống rác rưởi này. Khi
cháu ra khỏi xe chúng sẽ nhào theo cháu, bác sẽ không việc gì đâu!
- Thế còn chiếc xe của tôi thì sao, rác đầy như núi thế này
này!
- Bác yên tâm đi. Mọi thứ rác rưởi sẽ bong ra và nhào hết vào
cháu!
Ông ta nhìn đồng hồ đếm cây số, chìa tay ra phía tôi và nói:
- , đôla, nhẽ ra thì mới phải.
Tôi bỗng cảm thấy ớn lạnh. Tôi vỗ bồm bộp rồi lộn ngược các
túi. Tôi thở dài:
- Chết rồi, cháu không mang ví tiền theo!
Tôi nhắm nghiền mắt trong cơn tuyệt vọng khi mở mắt ra tôi
không nhận ra bác lái xe tắc xi. Mặt ông đỏ bừng, phồng mồm trợn
mắt như sắp nổ tung. Ông gào lên:
- Sao, sau một chuyến đi khốn khổ như đi trong địa ngục, giờ
mày bảo mày không có tiền?
Ông ta nhoài người và túm chiếc áo của tôi, mép sòi bọt:
- Nói đi, mày có gì để trả tao không?
Tôi tháo chiếc đồng hồ đeo tay và nói:
- Đây bác cầm lấy, cái đồng hồ này có giá lắm. Ông ta nhìn
chiếc đồng hồ của tôi với con mắt khinh bỉ. Trong khi đeo chiếc
đồng hồ vào cổ tay, ông ta chỉ chiếc hoa tai và nói:
- Cả cái kia nữa, đưa nốt đây cho tao!
Tôi ở trong tình thế không thể mặc cả, đành tháo chiếc hoa
tai mới tinh đưa cho ông. Người lái xe nhìn vào gương và xỏ chiếc
hoa tai vào lỗ tai mình. Sau đó ông ta nhìn tôi cười như muốn trêu
tức tôi. Tôi không còn cái gì để có thể đưa cho ông ta nữa. Tôi cần
nhanh chóng chui ra khỏi chiếc xe này. Tôi nằm áp mình xuống
đất và bò ra ngoài không khác gì những người lính lăn lê bò toài
lúc tránh đạn. Sau đó tôi lấy hai tay ôm đầu và chờ rác đổ ập
xuống.
Không có gì xảy ra cả, hoàn toàn không. ít ra thì trong
những giây phút đó tịnh không có chuyện gì xảy ra. Tôi nhìn quần
áo của mình thì thấy vẫn sạch sẽ tinh tươm. Bỗng nhiên tôi nghe
tiếng thét thất thanh của bác lái xe. Rác đương bay rào rào vào
trong xe:
- Cứu tôi với, cứu tôi với!
Ông ta bị ngập trong đống rác. Những thứ rác rưởi đang tuôn
ào ào vào trong xe không khác gì lũ chuột đói nhao vào thùng
đựng thức ăn. Tôi đưa mắt tìm một cái gì đó khả dĩ có thể cứu
người lái xe. Nhưng lạ thay cái bãi rộng lớn này lại sạch như li
như lau, không có một cái gì nằm ở ngoài sân có thể dùng được.
Tôi tìm cách mở cửa nhà kho ngay gần góc sân, nhưng không mở
được. Những vật dụng bằng kim loại đã hoen rỉ chất cao tít mái
nhà kho. Từ trong đó văng vẳng tiếng kêu:
- Cứu tôi với, cứu tôi với.
Rõ ràng tôi đã nghe thấy tiếng người này ở đâu rồi. Tôi sực
nhớ tới lão lái chiếc xe bồn mặc áo lót màu xanh. Đầu óc tôi quay
cuồng. Người lái xe tắc xi bị ngập trong rác rưởi và cả gã lái xe bồn
cũng vậy. Riêng tôi không bị rác đuổi theo nữa. Tại sao lại như
vậy? Bỗng nhiên tôi chợt hiểu. Cái hoa tai! Đúng rồi, cả hai chiếc
hoa tai đều mua tại một cửa hàng. Chúng vốn là một đôi hoa tai
mà. Chính hai chiếc hoa tai này hút rác chứ không phải thứ nước
bẩn ở hồ Newman. Tôi chạy lại chỗ chiếc xe tắc xi và hét rất to:
- Hoa tai, tháo chiếc hoa tai ra.
Tôi nghe thấy tiếng ú ớ ở bên trong và sau đó bỗng nhiên ụ
rác như ụp xuống không khác gì một cái tháp được xếp bằng vỏ
hộp ở siêu thị đổ ập xuống. Người lái xe mặt mày tái xanh tái xám
và run như cầy sấy chui ra khỏi đống rác cao như núi. Giờ tôi phải
giúp lão lái chiếc xe bồn. Tôi lại gần nhà kho và nói rất to:
- Ông hãy quẳng chiếc hoa tai đi, chính nó hút rác đấy!
Tôi nghe thấy tiếng ú ớ làu bàu khi người lái xe bồn tháo hoa
tai và quẳng đi. Bỗng cả đống rác đổ ụp xuống và người lái xe bồn
hiện ra không khác gì ông Bụt hiện lên trong chuyện cổ tích.
Ông ta nói:
- Thật là một vật nguy hiểm, từ nay ta sẽ không dây vào
những thứ như vậy nữa. Người lái tắc xi cũng nói:
- Tôi cũng cạch đến già.
Họ định nhặt hai chiếc hoa tai để quẳng đi rõ xa nhưng tôi
kêu tướng lên:
- Chết, các bác đừng có vứt.
Tôi bèn lấy một cái cốc không có gì chĩa về phía họ.
Ngày hôm sau, tôi đi chậm rãi trên sân trường. Tôi nói với
chị Helen:
- Em sẽ đưa các thầy giáo vật lý xem cái này. Chúng ta có
thể sẽ giàu to và trở thành người nổi tiếng!
Helen đưa mắt nhìn cái cốc và nói:
- Em điên rồi, tại sao lại mang hoa tai tới trường!
Đúng lúc đó có tiếng quát ở phía sau tôi:
- Smacka Johns! Lại đây!
Đó là tiếng cô hiệu phó Cranch. Cô chìa tay về phía tôi và
nói:
- Đưa đôi hoa tai đây!
Trong khi đưa cho cô cái cốc thủy tinh tôi nói:
- Thưa cô nhưng em có đeo đâu ạ?
Cô Cranch dằn giọng:
- Em có biết là không được mang đồ trang sức tới trường
không?
Tôi chưa kịp nói gì thì cô đã cầm đôi hoa tai và đi vào phòng
làm việc của mình. Chị Helen nói:
- Chị nói có sai đâu kia chứ!
Tôi cay cú lắm và cơn bực tức kéo dài chừng năm phút.
Nhưng bỗng nhiên tôi như bừng tỉnh, những thùng đựng rác
đặt trên sân trường lắc la lắc lư, những cái nắp đậy như muốn bật
tung ra. Tôi phì cười khi thấy những thứ đựng trong các thùng rác
bay vèo vèo trên sân trường tới phòng làm việc của cô hiệu phó
Cranch.
Kẻ CHIếN THắNG
Li Foo lội bì bõm và khom lưng đẩy cái bè nhỏ. Cậu gạt nước
mắt, buồn bã buộc cái chai lên cột buồm. Sau đó cậu đẩy mạnh cái
bè ra biển rồi quay trở lại trèo lên bờ biển đầy những mỏm đá lởm
chởm. Bè trôi chầm chậm ra biển ấn Độ Dương mênh mông xa tít
mù khơi. Li Foo biết rằng cậu sẽ không bao giờ gặp lại cái bè đó
nữa.
Sean hồi hộp vỗ đôi cánh của nó. Tới bờ biển còn phải đi một
đoạn dài. Mọi chuyện đã được chuẩn bị đâu vào đấy. Những cái
lông chim được dán rất cẩn thận. Bộ khung gỗ vững vàng, chắc
chắn. Nhưng liệu nó có bay được không nhỉ? Spider bảo bạn:
- Thôi làm đi. Chúng ta đều biết, chỉ có một khả năng duy
nhất thôi mà. Con chó Deefa có vẻ vô cùng thích thú, nó cất tiếng
sủa vang. Nó luẩn quẩn chạy theo chân hai cậu bé. Sean bảo:
- Nói thì dễ, vì cậu có thi đâu. Bất chợt cậu ta chạy tới đụn
cát và nhảy xuống. Cậu ngã lăn kềnh ra, tay chân khua lảo đảo.
Cậu hét tướng lên: "Không!" và rơi phịch xuống đụn cát, nằm bất
động. Spider chạy vội tới, hỏi rất to:
- Cậu không việc gì chứ ? Sean nghển cổ, mặt dính đầy cát,
gật đầu. Nó tháo đôi cánh, vứt trên bãi cát. Spider nói với bạn:
- Không được rồi. Kiểu này thì cậu không thể giật giải cuộc
thi bay này. Cậu làm sao có thể bay lượn với cái của nợ này kia
chứ! Sean nói:
- Kệ, chiều nay mình sẽ đi lấy cái tàu lượn của bác Jeremá
vậy. Cái tàu lượn ấy tuyệt lắm. Rồi cậu sẽ thấy tớ lướt trên sóng
như thế nào. Năm nay thì thằng Buggins đừng hòng được giải! Hai
đứa đi thất thểu ven bờ biển. Lúc này cả hai chưa trông thấy cái
bè. Bỗng Sean lộn luôn sáu vòng liền trên bãi cát. Nó bảo bạn:
- Hãy làm thử đi xem nào!
Spider đáp:
- Thế chưa là cái gì cả. Trông đây này! Cậu ta tìm cách đứng
bằng hai tay, nhưng lại khụy ngay xuống, mặt đập xuống đất. Cậu
ta loàng quàng đứng dậy, nhổ cát ở trong mồm ra, cười ngượng và
nói:
- Cái đó không tính. Xong cậu ta lại thử một lần nữa nhưng
kết quả vẫn như lần đầu. Mặt cậu ta đầy cát. Tuy thử hàng chục
lần, cuối cùng cậu ta cũng chẳng lộn được lấy một vòng. Có tiếng
nói rất to:
- Kém lắm! Hai đứa ngẩng mặt lên và nhìn thấy Buggins.
Thằng Buggins to cao ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa có tên là
Devil. Nó để con ngựa đi qua chỗ Sean và Spider đang đứng. Sau
đó nó điều khiển ngựa đi lùi, chen vào giữa hai đứa. Con ngựa
trượt chân và móng hất tung cát. Sean và Spider ngã ngửa người
trên sóng biển. Buggins cười nham hiểm và liếc mắt nhìn hai đứa
ở dưới nước. Sau đó nó gật đầu nhìn về phía cái tàu lượn của Sean
trên bãi cát. Nó dài mồm:
- Với cái của nợ này thì mày sẽ không bao giờ thắng được
đâu. Ngày mai mày hãy nhìn tao, tao sẽ lại thắng cho mà xem.
Đấy là điều chắc chắn!
Nó đạp vào hông con ngựa và đi ra phía bãi biển. Sean hét
rất to:
- Ôi, mày là một thằng đểu! Buggins cho ngựa phi thẳng lên
chỗ có cái tàu lượn của Sean. Móng con Devil đạp lên tàu lượn làm
cho những cái lông và các bộ phận làm bằng ngựa gẫy tan tành.
Sean và Spider hằn học nhìn nó, tức đến nghẹn cả họng. Cái tàu
lượn hỏng hoàn toàn. Con Devil lại còn bĩnh ra một bãi tướng, hơi
bốc lên nồng nặc Con chó Deefa rất thích món phân ngựa, nó sủa
hoắng, rít lên vài cái rồi dí mõm vào cái của bẩn thỉu đó hít khìn
khịt. Nó lại còn chùi tai rất cẩn thận. Đúng là một bữa thịnh soạn
của loài chó. Đi được một đoạn thì thằng Buggins dừng lại, nó thấy
yên tâm khi ngồi trên mình ngựa. Sean thét lên:
- Mày hãy giờ hồn, chúng tao sẽ cho mày biết tay.
Tất nhiên nó cũng thừa biết đấy chỉ là những lời dọa suông.
Nhưng vì cáu quá nên không biết phải làm gì hơn. Buggins cười
rất đểu rồi phóng ngựa như bay trên bãi biển. Sean buồn bã nhìn
bóng nó xa dần. Spider bảo bạn:
- Yên tâm đi, cậu còn cái tàu lượn của ông bác nữa kia mà.
Dù sao thì đôi cánh này cũng không thể hoạt động được đâu.
Bỗng Sean trông thấy một vật gì đó, nó reo lên:
- Trông kìa!
- Cậu ta chỉ tay về chỗ một đoạn của cái bè nhỏ trồi lên trên
doi cát.
Spider vội vàng bới cát. Sean cũng nhào tới giúp bạn.
- Chà, không biết ở đâu ra thế này.
- Thủy triều đã đẩy nó đến đây đấy. Sau một hồi đào bới và
lay đi lay lại hai đứa cũng lôi được cái bè ra khỏi đụn cát. Chúng
nhìn đi nhìn lại cái chai trông rất lạ buộc ngay cạnh cây cột.
Spider nói:
- Chắc trong chai có cái gì đó. Sean, cậu mở ra xem nào! Sean
lau sạch cái vỏ chai, những dòng chữ lạ hiện lên, cạnh đó là cái
đầu lâu với hai khúc xương bắt chéo. Hai đứa ngơ ngác nhìn nhau.
Cuối cùng Sean vặn nút chai. Cái nút bật ra. Một làn khói xám
thoát ra ngoài. Spider thận trọng lùi lại. Sean lắc đầu nhìn thằng
bạn thân. Spider quả là một đứa bạn tốt nhưng đôi khi lại rất nhát
gan. Sean cẩn thận tháo cái dây buộc và dốc cái chai xuống. Một
con vật rơi tuột ra. Nó cứng đờ, giống như là một con mèo. Hai đứa
nhìn chằm chằm vào con vật không động cựa. Hai mắt nó nhắm
nghiền, lông xơ xác. Chân nó duỗi ra trông như những cánh tay
giang rộng. Sean huýt sáo rõ dài:
- Chà, tớ chưa thấy như thế này bao giờ. Cậu ta lật cái đầu
lên, phía trong rỗng không. Spider nói:
- Đây là một cái mũ. Một cái mũ mèo. Để tớ đội thử xem nhé.
Nó giật lấy cái mũ từ tay Sean. Sean nhắc bạn:
- Cẩn thận, kẻo cậu làm hỏng cái mũ đấy. Có thể nó là một
vật có giá trị cũng nên.
Spider trùm mũ lên đầu. Chân con vật đưa đi đưa lại chỗ
cằm cậu trông như con mèo muốn ôm chặt lấy khuôn mặt cậu ta.
Cái mũ ở trên đầu Spider trông thật buồn cười. Sean bảo bạn:
- Đưa tớ đội thử một cái xem nào!
Spider lúc lắc đầu, cậu có vẻ rất thích cái mũ mèo. Sean cười
khoái trí:
- Đây, cậu lấy đi.
Cậu ta bước từng bước tới chỗ để tàu lượn, làm ra vẻ không
để ý tới cái mũ. Sau đó cậu ta nhào lộn luôn năm vòng liền tới sát
chỗ Spider. Đôi mắt mèo mở ra. Thấy cậu con trai lộn vòng trên
bãi cát. Đôi mắt nhắm lại. Spider vẫn đội cái mũ ở trên đầu, nhìn
Sean với con mắt ngơ ngác, lạ lùng. Sau đó Spider lộn luôn năm
vòng. Cả năm vòng đều tung lên rất đẹp. Sean reo lên:
- Spider, giỏi lắm, tuyệt, tuyệt!
Sean phục lắm. Tự nhiên Spider có thể nhào liền mấy vòng
một cách thành thạo. Mới lúc nãy cậu ta còn không đứng nổi bằng
hai tay kia mà! Bản thân Spider cũng rất lấy làm ngạc nhiên. Cậu
ta lắc đầu ra vẻ rất thạo đời:
- Sean này, cậu có thể học ở tớ khối chuyện đấy!
Sau đó nó lấy tay xoa cái mũ mèo đội trên đầu. Sean nói:
- Có thể cái mũ đã đem lại sự may mắn chăng?
Spider reo lên:
- Đúng thế, như chân thỏ ấy mà.
Hai đứa đi ngược đường mòn về nhà. Một người đàn ông to
béo đứng bên chân núi đang mải mê nhìn ra biển. Bỗng ông ta há
mồm ợ một cái rõ to. Đôi mắt mèo mở ra. Thấy người đàn ông há
mồm ợ. Đôi mắt nhắm lại. Bỗng nhiên Spider thấy nôn nao trong
người. Cậu có cảm giác đã ngốn lát bánh mỳ phết đầy pa-tê.
Cậu muốn nuốt ực xuống mà không được. Cậu tìm mọi cách để
kìm lại nhưng không nổi. Spider há to mồm và ợ một cái rõ to.
Sean reo tướng lên tỏ vẻ vô cùng thán phục:
- Ôi, cậu ợ thật đấy.
Spider lấy làm mãn nguyện. Thông thường không khi nào
cậu lại ợ to đến như vậy.
Buổi chiều hôm đó Spider và Sean đi ra nhà ga để lấy cái tàu
lượn của bác Jeremá. Spider vẫn đội hùm hụp cái mũ mèo ở trên
đầu. Lão nhân viên nhà ga làm như Spider và Sean không hề có
trên đời - đây là điều không hiếm với các nhân viên đường sắt.
Sean nói:
- Xin lỗi bác, chúng cháu đến để nhận cái tàu lượn.
Lão ta làm bộ như không nghe thấy gì cả, vẫn chúi mũi đọc
báo. Sean lấy cái mũ đập vào thành cửa sổ. Lão nhân viên nhà ga
trừng mắt nhìn cậu. Lão nói giọng rất trầm:
- Mày không thấy tao đang bận à. Hãy xếp hàng chờ đến lượt
đã.
Sean và Spider đảo mắt nhìn quanh. Ngoài hai đứa, chúng
không thấy có ôi cả. Phải rất lâu sau đó, lão nhân viên nhà ga mới
mở cửa kho, lão hỏi:
- Giấy báo hàng của các cậu đâu?
Sean nói:
- Cháu đánh mất rồi. Nhưng tên người nhận đề trên cái tàu
lượn là Sean Tuttle.
Và Sean đã nhận được một cái tin kinh khủng: Cái tàu lượn
đó không còn ở đây, trưa hôm nay cậu Sean Tuttle đã đến nhận
rồi. Cậu ta cùng đi với hai người bạn trai. Sean hét lên:
- Sao lại có thể như thế được, hai người bạn trai nào?
- Làm sao tôi biết được. Chỉ biết đó là con trai.
Sean nói to:
- Đúng là thằng Buggins rồi. Spider bổ sung:
- Thằng Thistle với thằng Wolf, chúng nó đã ăn cắp cái tàu
lượn rồi.
Sean nói với nhân viên nhà ga:
- Ông phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nhà ga phải trả lại
cho tôi cái tàu lượn ấy. Thằng Buggins làm gì có giấy báo hàng kia
chứ?
Nhân viên nhà ga nhìn xoáy vào mặt cậu:
- Thế chúng mày có giấy báo không? Thôi biến đi và đừng có
lên giọng dạy tao phải làm gì.
Lão có vẻ cáu lắm. Đôi mắt mèo mở ra. Thấy nhân viên nhà
ga đang nói. Đôi mắt nhắm lại. Bỗng Spider nói với giọng đàn ông
rất trầm. Giọng nó y như giọng lão nhân viên nhà ga. Một giọng
nói trầm trầm, nặng nề, nạt nộ phát ra từ miệng một cậu bé. Nó
nói:
- Thôi biến đi và đừng có lên giọng dạy tao phải làm gì.
Lão nhân viên nhà ga gầm lên:
- Tao nói đấy!
Lão ta lao ra, phải đến km/giờ, thoắt cái đã ra đến cửa.
Hai đứa ù té chạy. Khi đã chạy được một đoạn dài, Sean bảo
Spider:
- Lẽ ra cậu không nên nói như vậy.
Spider thanh minh:
- Tại cái mũ. Nó bắt tớ phải nói. Hai con mắt mèo lúc nhắm
lúc mở. Tớ tin chắc như vậy đấy. Lúc nãy, khi ợ tớ thấy rõ mắt nó
mở rồi nhắm. - Cậu ta lấy cái mũ trên đầu quẳng cho bạn.
- Đây, cậu cầm lấy.
Bố Sean trông có vẻ lúng túng, ngượng ngập khi bà vợ về
nhà. Sean hỏi bố:
- Mẹ đã nói chuyện với bố chưa?
Bố cậu lắc đầu. Sean mỉm cười. Tội nghiệp bố. Ông bị kẹt.
Chuyện là thế này, bố đã đồng ý cho Sean tham dự cuộc thi bay
mà không hỏi ý kiến mẹ. Giờ thì mẹ giận bố. Mẹ cho rằng cuộc thi
rất nguy hiểm. Bố tìm cách xoa dịu, kể chuyện hài hước nhưng mẹ
vẫn khó đăm đăm. Sean nói với bố:
- Thằng Buggins đã lấy cắp cái tàu lượn rồi bố ạ.
Ông Tuttle không chú ý nghe, ông đăm chiêu nhìn ra cửa sổ.
Bà vợ ông đã về gần đến cửa. Ông để tay lên môi ra hiệu yên lặng.
Ông nói:
- Xuỵt. Con không được nói về những chuyện đó trước mặt
mẹ.
Bỗng ông trông thấy cái mũ. Ông hỏi:
- Cái của nợ gì thế này?
Sean giảng giải:
- Cái mũ mèo, nó mang lại may mắn cho người đội nó đấy bố
ạ.
Ông Tuttle trùm cái mũ đội lên đầu. Ông vừa nói, vừa cười:
- Hôm nay thì ta cũng mong có chút ít may mắn đây, biết
đâu nó sẽ làm cho mẹ con vui vẻ hơn.
Sau đó, một loạt sự việc đã xảy ra cùng một lúc. Cửa mở, mẹ
bước vào nhà. Mẹ hỏi đúng cái câu mà lúc nãy bố đã hỏi:
- Cái của nợ gì thế này? Ông Tuttle đội một con mèo chết ở
trên đầu quả cũng buồn cười thật.
Không phải chỉ có mẹ Sean bước vào nhà, lon ton sau bà là
chú cún Deefa. Nó có vẻ đói dữ. Nó sủa hai tiếng rồi chạy thẳng tới
chậu thức ăn của nó ở trên sàn. Chậu đầy ắp món đồ hộp làm thức
ăn cho chó trông rất kinh nhưng bọn cẩu lại rất khoái. Đó là loại
thức ăn đặc quánh, màu nâu trông như thạch. Con Deefa chạy tót
đến chậu thức ăn tớp lấy tớp để. Đôi mắt mèo mở ra. Thấy con chó
đớp thức ăn trong chậu. Đôi mắt nhắm lại. Mắt ông Tuttle trông
thật khác thường. Ông quỳ đầu gối, hai tay chống xuống đất.
"Gâu, gâu" ông sủa ầm ĩ. Ông chạy tọt ra chậu thức ăn và cùng con
Deefa tớp lấy tớp để. Con Deefa gầm gừ, ông cũng nhe nanh sủa
lại, cả hai tranh nhau chậu thức ăn chó! Bỗng ông Tuttle đứng
dậy, nhìn quanh vẻ rất ngượng ngập. Ông không hiểu nổi chuyện
vừa diễn ra. Mặt ông dính đầy thức ăn chó. Ông nói thật thiểu
não:
- Mẹ nó ạ, tôi thật tình không muốn làm như vậy. Tôi chỉ
muốn...
Ông nín bặt không nói nên lời. Ông cũng không biết nên nói
gì bây giờ. Sau đó ông phì cười. Bà Tuttle cố ra vẻ lạnh lùng
nghiêm nghị. Nhưng rồi bà không thể kìm lại được nữa. Bà phì
cười và hỏi:
- Thế nào, bây giờ ông ăn tráng miệng nữa chứ?
Thế là cuộc cãi lộn giữa hai người chấm dứt. Hai ông bà
không còn giận nhau nữa. Họ đã làm lành với nhau. Song dù sao
Sean cũng thấy không nên nói tới chuyện cái tàu lượn bị mất cắp
với mẹ. Đấy là chuyện mà cậu và Spider phải tự giải quyết lấy.
Sean liếc nhìn cái mũ, tự nhiên nảy ra một ý nghĩ nhưng rồi cậu cố
xua tan cái ý nghĩ đó. Cái tàu lượn của cậu bị Buggins và mấy đứa
bạn của nó lấy cắp. Cuộc đời đôi khi thật không công bằng chút
nào.
Sean nói với Spider:
- Cũng như những người khác, chúng ta phải dùng cái tàu
lượn của mình.
Hai đứa lững thững đi dọc triền núi mắt dõi về hướng thằng
Buggins. Spider hỏi bạn:
- Cái mũ mèo đâu rồi? Mình phát hiện thấy cái mũ biết bắt
chước.
Nó mở mắt và làm theo những điều mà nó trông thấy. Sean
có vẻ trầm ngâm suy nghĩ: "Kể ra thì cũng nguy hiểm. Ai mà biết
được nó nhìn thấy cái gì. Mình đã thấy điều gì xảy ra với bố rồi
đấy."
Spider chậm rãi:
- Chúng mình có thể lên một kế hoạch. Hay là cậu đội cái
mũ, nó sẽ mở mắt và có thể nhìn thấy cái gì đó... Có tiếng ầm ầm
như tiếng sấm rền. Cả hai ngước mắt nhìn lên trời thì thấy một
máy bay phản lực lướt trên không trung. Chưa kịp suy nghĩ kỹ về
kế hoạch thì Sean trông thấy những kẻ mà cậu đang có ý tìm đó là
Buggins và tụi bạn của nó. Buggins chạy lấy đà trên đụn cát và
tung người bay lên. Nó bám chặt vào cái tàu lượn rất đẹp màu đỏ chuyên
xanh. Đó là cái tàu lượn của Sean. Buggins lướt được khoảng
mét trên đụn cát rồi lảo đảo rơi xuống. Wolf và Thistle chạy như
bay đến chỗ nó, chúng la hét ầm ĩ:
- Tuyệt quá, nhất định chúng ta sẽ thắng.
Sean nói chắc nịch:
- Tao sẽ thắng, chúng mày đã ăn cắp cái tàu lượn của tao!
Buggins trừng mắt mai mỉa:
- Vậy à, tao đã dành dụm tiết kiệm cả tháng trời, nếu mày
muốn thì cứ đi mà hỏi bố tao ấy.
Buggins nắm chặt tay, nghiến răng dằn giọng.
- Mày cứ đến mà lấy!
Nó lững thững đi tới chỗ Sean, hai thằng bạn đi kèm bên
cạnh. Spider quát:
- Bọn tao không sợ chúng mày đâu. Sean, quại cho nó một
trận.
Buggins tiến thêm vài bước. Lúc này thì chỉ còn đúng một
cách, và Sean đã chọn cách đó, tức là đánh bài chuồn. Cậu ta quay
ngoắt đầu và ba chân bốn cẳng chạy. Spider cũng vọt theo nó.
Thật là nhục nhã! Khi chạy Sean còn nghe rõ thằng Buggins, Wolf
và Thistle nhạo báng nó. Ngày hôm đó Sean mê mải sửa lại cái tàu
lượn. Nó chọn những loại vật tư hoàn toàn mới, chủ yếu là chất
dẻo, gỗ, dây thép và lông chim. Sau mấy tiếng đồng hồ nó gạt tất
cả sang một bên, nó không tin là sẽ làm kịp. Chỉ còn độc một ngày
nữa, mà lại còn phải tới trường. Spider nói:
- Nó không thể bay nổi đâu. Cái của làm lấy thế nào cũng
hỏng. Chúng ta cần một cái khác. Cần phải có sự hỗ trợ.
Nó chìa cái mũ lên và nháy mắt.
Sean đáp:
- Không thể được. Gì thì gì cũng phải thử trước mới được.
Spider liếc mắt nhìn những cái cánh bị gẫy. Cậu nói:
- Bị hỏng rồi còn gì.
Sean gật đầu:
- Vậy thì chúng ta phải dùng cái mũ mèo để thử với một cái
gì khác.
Ngày hôm sau, cậu ta mang cái mũ tới trường. Cậu dự tính
sẽ mang nó tới đường chạy ở sân vận động nhà trường. Hiện tại có
nhiều bạn đang chuẩn bị tập cho cuộc thi điền kinh nhân ngày hội
thao của trường. Innes học lớp vô địch về môn nhảy cao. Sean
dự tính sẽ đội cái mũ và đứng quanh quẩn gần Innes. Con mèo sẽ
trông thấy Innes và ngay lập tức Sean có thể biểu diễn cho các bạn
xem một cú nhảy thật ngoạn mục. Tất nhiên Sean không biết đích
xác liệu mắt mèo có mở ra hay không. Đấy là điểm yếu duy nhất
trong kế hoạch của nó. Tình cờ mắt mèo mở ra thật. Đúng lúc đó,
một toán con gái mặc quần áo thể thao chạy qua. Vào thời điểm đó
Innes cũng bắt đầu lấy đà chạy. Sean choàng vội cái mũ mèo lên
đầu. Cú nhảy sẽ diễn ra trong chớp nhoáng. Sean rất khoái khi
tưởng tượng về cú nhảy cao tuyệt đẹp ngay trước mắt bọn con gái.
Nhưng bọn chúng đâu có đoái hoài đến nó. Chúng chạy vội chạy
vàng tới buồng thay quần áo dành cho nữ sinh. Đôi mắt mèo mở
ra. Thấy bọn con gái chạy vào buồng thay quần áo. Đôi mắt nhắm
lại. Sean cố gắng kìm chân lại, nó ôm chặt lấy cột hàng rào. Nhưng
vô ích. Có một cái gì đó trong người thôi thúc nó, nó không thể
dừng được và chạy theo bọn con gái tới phòng thay quần áo. Dường
như nó làm việc này trong trông thái nửa tỉnh nửa mê. Nó theo
bọn con gái tới tận phòng thay đồ. Nó bỗng thấy rất rõ điều xảy ra
với nó: Bọn con gái vây quanh nó - ở trong phòng thay quần áo - nó
há hốc mồm, muốn gào to vì sợ hãi nhưng nó như bị nghẹn không
thể kêu lên được. Bọn con gái rít lên róng riết. Chúng ném giày
vào người nó. Một đứa tên là Esmeralda đai mồm: "Đồ không biết
xấu hổ, đồ trơ trẽn!" Nó nổi nóng thực sự. Spider lắc đầu nhe răng
cười khi thấy bọn con gái đuổi Sean ra khỏi trường. Thằng
Buggins, Wold và Thistle cũng quan sát từ đầu tới đuôi sự việc
này và chúng nó coi đây là một trò đùa hay không thể chê vào đâu
được. Đối với Sean thì đây là một sự kiện tồi tệ nhất mà nó trải
qua từ trước tới nay. Cậu ta len lén đi về nhà, trong lòng buồn khổ
vô cùng. Thật là xấu hổ, thật xấu hổ. Chẳng mấy chốc cả trường sẽ
biết hết về chuyện này. Cái mũ thật không thể tin cậy được.
Cuối cùng Sean cũng không còn cách gì hơn là phải sửa bộ
cánh của mình để tham gia cuộc thi. Nó cặm cụi làm gần như suốt
đêm. Nó hết cắt lại dán rồi đóng đinh. Khi công việc xong xuôi, nó
không còn thì giờ để bay thử. Cuộc đua sẽ diễn ra ngay vào buổi
sáng. Nó phải đứng trên bờ cảng và lao xuống. Thôi thì hy vọng
mọi chuyện sẽ êm đẹp. Trong lúc đi ra bến cảng, Spider nói với
bạn:
- Không bao giờ cậu có thể hạ được thằng Buggins đâu. Nó có
cái tàu lượn đâu ra đấy.
Sean đáp:
- Cái tàu lượn đó là của tớ!
Spider lại nói:
- Cậu hãy cầm theo cái mũ. Chúng ta chờ cho tới khi có máy
bay bay qua, mũ sẽ mở mắt và bọn mình sẽ biến lên trời cao.
- Cậu định nói gì, "bọn mình biến thẳng lên trời cao"? Thằng
bị biến là tớ, không phải là cậu. Không, không bao giờ. Không thể
trông cậy gì vào cái mũ được đâu. Hãy để nó ở trong túi cho nó
không báo hại được mình.
Cuối cùng thì Sean và những đứa khác đã đến khu vực ở cuối
bến cảng với đôi cánh của mình. Tại đấy toàn là trẻ con, có lẽ phải
tới vài trăm đứa là người xem và những đứa tham gia cuộc thi.
Những cái tàu lượn trông thật tuyệt vời. Có loại hai thân, ba thân.
Có cái trông như tên lửa, có cái trông rất cổ lỗ sĩ, rệu rã buộc tạm
bợ trên xe nôi. Phần lớn tàu lượn được làm bằng chất dẻo, gỗ và
bìa cứng. Có vài cái trông như cái dù, lại có cái trông như máy bay
trực thăng. Không một thiết bị nào được gắn động cơ. Phi công
buộc hoặc phải lượn với con tàu hoặc phải dùng sức của bản thân
để guồng cho tàu bay lượn, có thể đạp bằng chân hoặc chèo bằng
tay, cũng có thể nhảy. Ngoài ra dứt khoát không được dùng bất kỳ
loại động cơ đẩy nào khác. Người bay xa nhất sẽ là người chiến
thắng. Thằng Wolf hét rất to vào micrô:
- Đề nghị những người hâm mộ chú ý! Người mở đầu cuộc thi
năm nay là mỗ.
Cả bọn hò reo ầm ĩ. Thiết bị bay của Wolf trông như cái vỏ
hộp bia khổng lồ. Hai chân nó thòi ra ở đáy hộp. Tay hắn thòi ra
hai bên trông như những cái cánh yếu ớt. Đầu nó thòi lên trông
chẳng khác gì con Murmel. Tất cả mọi người, kể cả thằng Wolf đều
biết điều gì sẽ xảy ra khi thằng Wolf nhảy từ bờ cảng xuống nước.
Nó lại hét toáng lên:
- Thưa quý vị, thiết bị này bay được là nhờ ý chí và nghị lực
kiên cường của mỗ. Nó được thiết kế để giảm nhiều nhất sức cản
không khí.
Wolf lạch bạch đi tới sát bờ rồi nhảy xuống. Bờ cảng rất cao
cho nên Wolf chẳng có gì khó khăn khi bay trong không khí. Nó rơi
thẳng đứng chẳng khác gì một cục gạch. Nó đập đánh "oạch" một
cái rất to khi tiếp cận mặt nước. Cái "vỏ bia" vỡ toang còn Wolf thì
vội vã bơi một mạch tới cầu thang. Trên bờ, mọi người cười khoái
trá, vỗ tay ầm ĩ, có vài ba đứa vỗ vai khen ngợi nó. Phải thừa nhận
là Wolf đóng kịch rất khéo. Đứa thứ hai tên là Egan. Cậu ta đã
dựng một cầu trượt ở trên bờ. Egan leo lên và chui vào trong cái
tàu lượn hình con dơi. Wolf đề nghị tất cả trật tự. Khán giả biết
Egan là người có khả năng giành chiến thắng. Egan là một đối thủ
đáng gờm. Wolf leo lên bục, cất tiếng hỏi:
- Đặc điểm con tàu này là gì?
Egan mặc bộ quần áo lặn màu đen, ngồi trong buồng lái và
đeo kính lặn cũng màu đen trông rất hợp với con tàu. Egan giải
thích:
- Sải cánh mét. Khung bằng gỗ căng vải buồm, tàu có thể
đạt tốc độ hải lý, đủ để đưa tôi ra xa bờ khoảng mét.
Khán giả vỗ tay reo hò, mọi người trầm trồ khâm phục. Mấy
đứa giúp Egan đẩy con tàu. Phi công "dơi" lấy đà, tăng tốc và lao
thẳng vào không khí. Một, hai giây sau, tàu văng ra xa và rơi
xuống nước. Phi công "dơi" buồn bã bơi vào bờ với tiếng vỗ tay của
khán giả ít nhiều bị thất vọng.
Wolf lại cao giọng:
- Đấu thủ tiếp theo là Thistle!
Có tiếng vỗ tay xen lẫn tiếng la ó phản đối. Thistle có chiếc
tàu lượn ba tầng bằng chất dẻo. Sải cánh dài tới mức khán giả
phải đứng lui lại. Cánh vượt ra tới ngoài bờ một đoạn. Chân
Thistle thò ra dưới chân con tàu. Nó giơ tay chào khán giả với
phong cách như một võ sĩ quyền anh chiến thắng. Sau đó nó chạy
nhanh về phía bờ và lao vào không trung. Lúc đang ở giữa trời hai
chiếc cánh bị gẫy làm Thistle rơi tõm xuống nước theo sau nó là
những mảnh cánh rơi lả tả. Cuộc thi cứ thế tiếp tục một thời gian
dài. Hết tàu lượn này đến tàu lượn khác lao ra biển nhưng tất cả
không bay ra xa được bao nhiêu. Cho đến giờ phút này phi công
"dơi" là người có kết quả cao nhất. Sean rất sốt ruột. Nó nghĩ, nếu
lần này mình thắng thì bọn con gái may ra sẽ quên cái chuyện
trong phòng thay đồ. Nhưng rồi nó lại thấy buồn nản, tuyệt vọng
vì thừa biết phần thắng sẽ không bao giờ thuộc về mình. Sean cảm
thấy rất nản chí, con chó Deefa sủa đôi ba tiếng và luẩn quẩn dưới
chân nó. Cuộc thi sắp kết thúc, lúc này chỉ còn hai đấu thủ. Wolf
hồ hởi tuyên bố:
- Bây giờ đến lượt chàng trai can đảm và nhanh nhẹn Jack
Buggins.
Buggins hãnh diện cúi chào, sau đó nó nhìn về phía bọn con
gái và mỉm cười. Sean như bị hụt hẫng khi trông thấy nhiều đứa
con gái cười tán thưởng Buggins. Buggins lách qua đám đông tay
giơ cao trên đầu chiếc tàu lượn của nó, hay đúng hơn là chiếc tàu
lượn của Sean. Nhiều tiếng trầm trồ thán phục từ đám người xem.
Thật là một chiếc tàu lượn tuyệt vời. Lúc này không còn ai nghi
ngờ về việc người nào sẽ giành được thắng lợi. Buggins chạy lấy đà
tới sát bờ rồi lao ra phía trước. Một làn gió nhẹ thổi cánh tàu lượn
bay cao rồi là là dần trên mặt nước. Thậm chí nó còn buông tay
vẫy chào khán giả. Sau đó nó lái lượn thẳng ra biển xa khoảng
mét. Đám đông hồ hởi, náo nhiệt. Buggins đã giành được thắng lợi
rõ rệt. Nó bơi vào bờ cùng với cái tàu lượn. Buggins giơ thẳng tay
tỏ ra mình là kẻ chiến thắng và ném một cái nhìn khinh bỉ về phía
Sean.
Wolf lại nói rõ to:
- Thưa quý ông quý bà, còn một người dự thi nữa, vâng nếu
có thể gọi là người dự thi, đó là con yêu quái lắm lông Sean Tuttle.
Sean đã sẵn sàng.
Cậu cảm thấy như một tên hề với đôi cánh đầy lông ở hai
tay. Cậu nặng nề nhấc lên hạ xuống, mọi người cười ầm ĩ. Trông
Sean như một con gà bị vặt trụi lông. Xa xa dọc bờ biển một chiếc
máy bay trực thăng đang phun thuốc sâu. Spider khẽ nhắc Sean:
- Đội mũ lên nào!
Nó luồn tay vào túi và lôi chiếc mũ ra. Sean lắc đầu. Spider
hất hàm về phía chiếc máy bay ra hiệu. Nó nói khẽ:
- Cơ may duy nhất của cậu đấy.
Sean liếc mắt nhìn về phía bọn con gái đang bám xung
quanh Buggins và trầm trồ khen ngợi cái tàu lượn. Sean tự nhủ,
cũng chẳng có gì để mà mất, ta cứ thử xem sao. Nó trùm cái mũ
lên đầu và đi lắc la lắc lư ra sát bờ cảng. Wolf nói rất to cho mọi
người nghe:
- Sean Tuttle mặc một chiếc áo cứu nạn đặc biệt, khi bị chìm
nó có thể bơi vào bờ cùng với con mèo chết của cậu ta.
Mọi ngời cười ầm ĩ, trừ Sean và Spider. Chiếc máy bay phun
thuốc sâu bay gần tới khu vực cảng. Spider nói:
- Đội vào đi.
Nhưng lúc đó chiếc máy bay đã khuất sau một đám mây dày.
Đôi mắt mèo mở ra. Không thấy gì ngoài bầu trời trong veo. Đôi
mắt nhắm lại. Không có điều gì xảy ra. Sean đứng bên bờ cảng,
trống ngực đập thình thịch. Bộ cánh đính chi chít lông chim, đầu
đội cái mũ mèo trông thật lố bịch. Tiếng máy bay từ xa vọng lại.
Wolf hét to:
- Kìa, nhảy đi!
- Nó sợ, nó sợ rồi!
Buggins mỉa mai nói. Thistle đế thêm:
- Đúng là một thằng hèn!
Spider thầm thì:
- Lúc nãy nó có mở mắt nhưng chậm quá, máy bay đã vọt
qua mất rồi.
Sean trân trân nhìn mặt nước, chân cậu bủn rủn, cậu không
dám nhảy. Sean nghĩ thầm, mình thua mất rồi, thua rồi, thế là
hỏng bét. Wolf hét toáng lên. Còn mười giây nữa, nếu không nhảy
coi như bỏ cuộc
Sean hít một hơi thật dài và nhìn dọc theo bến cảng. Một chú
chim hải âu đậu trên một khúc gỗ. Đôi mắt mèo mở ra. Thấy chim
hải âu tung cánh trên bầu trời. Đôi mắt nhắm lại. Sean bắt đầu vỗ
cánh, đập liên hồi loang loáng. Sean cảm thấy đôi tay cậu muốn
rụng xuống. Cậu dướn mình bay vút lên trời cao, đúng là một phi
công tàu lượn tuyệt vời. Mặt nước xa tít xa tắp dưới chân nó, đám
khán giả trên bến cảng lúc này trông như một bầy kiến nhỏ li ti.
Xung quanh cậu có nhiều chú chim khác vỗ cánh bay lượn. "Ôi,
nhỡ bây giờ bị rơi xuống thì chết mất". Nhưng không hiểu vì lý do
gì mà nó cảm thấy rất yên tâm, nó thấy mình như một chú chim
sinh ra đã có đôi cánh khỏe khoắn vững chãi. Nó nhào một vòng,
sà xuống sát mặt nước rồi lướt là là trên đầu đám khán giả. Nó
bay ngang rồi quay ngoắt lại như một con yêu quái vỗ đôi cánh
đầy lông giữa bầu trời. Mọi người rất khâm phục, mắt tròn xoe,
không thốt nên lời. Sean bay vút lên rồi bổ nhào xuống đám khán
giả như máy bay lúc cắt bom. Bọn trẻ con hoảng hốt nằm rạp cả
xuống nhưng Sean lại bay vút lên không trung. "Ôi, mới tuyệt vời
làm sao!". Sean sướng đến phát điên lên. Nó không thể làm chủ
được mình và hành động y như những con chim hải âu đang tung
tăng bay lượn. Spider hét to:
- Thôi đi, Sean, thôi đi!
Cậu ta hồi hộp quá đến mức xuýt nữa thì rơi tõm xuống
nước. Cuối cùng thì Sean và con chim hạ cánh đỗ trên mặt sóng.
Sean mặc đôi cánh chìm trong nước, cậu bơi nhanh đến chỗ đám
đông.
Chà, giá các bạn nghe thấy tiếng hò reo, vỗ tay, gào thét.
Chưa ôi từng trông thấy hiện tượng này bao giờ. Một đứa trong
bọn con gái hôn Sean đánh chụt một cái. Buggins tức tối, nó phùng
mang trợn mắt như con rắn, nó xô lấn mọi người tiến ra phía trước
rồi nói to:
- Sean đã giở trò bịp. Cái con mèo này này, chính nó là động
cơ của tàu lượn.
Nó giật cái mũ trên đầu Sean và đội lên đầu mình. Nó nói
tiếp:
- Đây là một vật sống, nó có thể mở mắt. Chính tao trông
thấy mà. Với cái mũ mèo ở trên đầu, Buggins trông rất thảm hại.
Nó liếc mắt nhìn con ngựa Devil bị buộc ở khu vực bến cảng. Nó
trông thấy con chó của Sean chạy nhanh về phía con ngựa của
mình. Đôi mắt mèo mở ra. Thấy con chó chạy bổ về phía con ngựa.
Rồi vục mõm vào bãi phân ngựa. Đôi mắt nhắm lại. Buggins có
cảm giác đôi chân nhấc bổng nó lên và lướt chạy dọc bến cảng. Nó
hét lên thất thanh:
- Không, không, không...
Song không có gì... Có thể ngăn cản nó... Chạy như bay tới
đống phân ngựa...
LÀM GÌ CÓ CHUYÊN ĐÓ
Tội nghiệp ông tôi. Họ đã đến đưa ông tôi vào trại. Nhất định
ông tôi sẽ rất khổ sở. Ông thích sống tự do với cái vườn của mình, ở
đó ông có thể tẩn mẩn đánh luống trồng rau hoặc trò chuyện với
bà Jingli ở nhà bên cạnh. Tôi biết ông không thể chịu được cuộc
sống tách biệt với thế giới bên ngoài. Mẹ nói:
- Mẹ biết, làm như thế thật không phải. Nhưng chúng ta
không còn cách nào cả. Ông ngoại con bị bệnh. Đầu óc ông có vấn
đề. Ông bị ám ảnh bởi những chuyện không có thật. Đôi khi xảy ra
chuyện đó với những người đã quá già, như ông ngoại chẳng hạn.
Nước mắt tôi trào ra. Tôi hỏi:
- Nhưng chuyện gì mới được chứ? Con không tin ông bị bệnh
gì cả, ông là người hoàn toàn bình thường, con muốn đến thăm
ông!
Cả mẹ cũng nước mắt lưng tròng. Mẹ cũng đau khổ y như tôi.
Dù sao thì ông cũng là bố của mẹ. Mẹ nói:
- Thôi được, Chris s, thứ hai này con hãy đi thăm ông. Cô y
tá bảo rằng sau khi tan trường con có thể rẽ vào thăm ông mà.
Tôi tới nhà dưỡng lão thăm ông hôm thứ hai. Tôi phải ngồi
chờ rất lâu trên chiếc ghế gỗ trong một căn buồng bé tí xíu sặc mùi
nước sát trùng mà người ta thường rẩy trong nhà vệ sinh. Cô y tá
trực mặc áo blu trắng, ở ngực có đeo biển đề: Y tá Gribble. Cô có
hai con mắt rất gian, y như cái lỗ ở con lợn tiết kiệm, chỉ biết nuốt
vào tất cả và không chịu nhả ra cái gì bao giờ. Cô vấn tóc búi
ngược lên, giày bóng lộn có thể trông thấy rõ cái đầu gối gầy guộc.
Sau khi để tôi phải ngồi chờ chán chê, cô bảo:
- Nào, cậu cả vào đi.
Rồi cô dẫn tôi đi dọc theo hành lang rẽ vào một cái buồng
nhỏ. Cô bảo:
- Trước khi cậu vào tôi muốn nói một điều để cậu rõ, nếu lão
già nói về một cái gì đó mà cậu không trông thấy thì cậu phải nói:
"Làm gì có chuyện đó!". Cậu tuyệt đối không được tỏ ra tin vào
những điều lão nói.
Tôi chẳng hiểu cô ấy nói gì, tôi chỉ biết chắc một điều, cô ấy
không có quyền gọi ông là lão già. Ông tôi cũng có tên như mọi
người khác kia mà. Chúng tôi đi vào phòng
Ôi trông kìa, ông tôi nằm lọt thỏm trên một cái giường trải
ga trắng tinh. Ông nhìn chăm chăm con ruồi đậu trên trần. Trông
ông thật buồn bã và bất hạnh. Trước khi rời căn buồng cô y tá
Gribbel liếc nhìn ông ngoại rồi đe:
- Này, đừng nói chuyện nhảm nhí vớ vẩn, rõ không? Hãy nhớ
rằng: chuyện đó làm gì có.
Cô ấy ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa ở ngoài hành lang.
Khi trông thấy tôi, ông mừng rỡ ra mặt. Mắt ông dường như
bừng sáng. Ông nói:
- Ôi Chris, ông chờ cháu mãi. Cháu phải đưa ông đi khỏi cái
nơi kinh khủng này. Những cây cà chua của ông sẽ chết mất thôi.
Ông phải ra khỏi nơi này.
Ông liếc mắt nhìn ra cửa rồi khẽ khàng:
- Cô ta như một con diều hâu canh giữ ông suốt ngày. Cháu
là cơ hội duy nhất của ông.
Sau đó ông lôi một cái gì đó giấu ở trong chăn và giúi vào tay
tôi. Đó là một chiếc máy ảnh có cả đèn chớp. Ông bảo:
- Cháu hãy chụp một kiểu ảnh để họ thấy là đúng. Nếu cháu
mang được tấm ảnh đó tới đây thì nhất định họ phải thả ông ra.
Hai con mắt ông chớp lia lịa. Tôi chẳng hiểu ông nói gì cả.
Tôi hỏi ông:
- Cháu phải chụp ảnh gì hả ông?
- Con rồng. Cháu phải chụp con rồng trong hệ thống cống
thoát nước thải. Ông chưa bao giờ kể cho cháu biết về chuyện đó vì
ông không muốn làm cháu sợ. Nhưng bây giờ cháu là nguồn hy
vọng duy nhất của ông. Ngay cả mẹ cháu cũng tin là ông bị điên.
Vì thế mẹ cháu không chịu tin vào chuyện con rồng. Chả ai tin ông
cả, cháu ạ.
Từ ngoài hành lang vang lên một giọng chua loét:
- Rồng, làm gì có chuyện đó!
Đúng là giọng cô y tá Gribble, té ra cô ấy nghe lỏm ông cháu
tôi chuyện trò. Tôi chẳng biết phải trả lời ông như thế nào. Có lẽ
đúng là ông ngoại tội nghiệp của tôi bị bệnh mất trí thật. Ông tin
rằng có rồng thật. Tôi nghĩ, có lẽ tốt nhất là cứ coi như chuyện con
rồng là có thật. Tôi thầm thì hỏi ông:
- Ông ơi, thế con rồng ấy ở đâu?
Ông liếc mắt nhìn ra cửa rồi nói sẽ:
- Kênh tiêu nước thải, ở Donovan ấy. Ngay phía sau khu
vườn của ông. Đó là một con quái vật có răng xanh lè và hai con
mắt đỏ như than hồng. Nó có vẩy, cánh và đuôi màu đen. Với cái
đuôi đó nó có thể quật chết tất cả, hơi thở của nó hôi thối nồng nặc.
Tôi thầm thì hỏi ông:
- Thế ông trông thấy nó à?
- Thấy, thấy... Ông không những trông thấy nó mà còn đánh
nhau với nó. Ông và nó vật lộn với nhau ở cửa cống tiêu nước thải
vùng Donovan. Hôm đó nó rượt theo con Doo Dah. Nó rất thích ăn
chó và mèo. Nó nhai xương chúng rau ráu. Nhưng ông bảo nó:
"mày chỉ có thể vồ con Doo Dah qua xác của ta". Ông cũng gây cho
nó một vài vết thương.
Ông đứng vọt dậy, với cái chổi chỗ tủ đứng rồi hùng hổ đánh
nhau với con rồng tưởng tượng. Ông thọc chiếc cán chổi rồi nhảy
lùi lại. Ông nhảy vọt lên giường, tư thế sẵn sàng chiến đấu như
một con sư tử:
- Rồng, lại đây, mày bắt con chó của tao xem nào! Mày định
ăn thịt nó hả? Đồ quái vật hôi hám...
Ông lao theo con vật vô hình và chọc chiếc cán chổi như chọc
cây mác. Trông ông hùng dũng như một tên cướp biển đang chống
trả kẻ thù khi con tàu đang chìm dần. Bỗng có tiếng nói hách dịch,
lạnh lùng vang lên ở trong phòng:
- Về giường.
Cô y tá ra lệnh. Hai con mắt cô ta giận dữ nheo lại như muốn
phóng ra những tia chớp. Cô quát lên với ông.
- Này, hãy thôi nói những chuyện nhảm nhí đó đi. Không có
rồng riếc gì cả. Chỉ có rồng trong cái đầu ông mà thôi. Đúng là một
lão già điên khùng!
Tôi nói:
- Không phải thế. Ông không điên. Ông là ông ngoại của tôi,
đây không phải là chỗ của ông, ông muốn ra khỏi nơi này.
Cô ta nheo mắt cho tới khi mắt cô chỉ còn là một cái vệt
ngang rồi nói:
- Mày lại càng làm cho ông mày quẫn trí. Nội trong năm
phút nữa mày phải đi khỏi nơi này.
Nói xong cô nhìn ngang nhìn ngửa một lúc rồi đi ra ngoài.
Trong khi đi từ từ về giường của mình ông nói:
- Ông phải ra khỏi nơi này. Ông muốn lại được nhìn thấy mặt
trời và trăng sao, ông muốn tận hưởng những luồng gió thổi mát
rượi, muốn được sờ nó vào những thân cây cổ thụ và hít thở bầu
không khí pha vị mặn của biển cả. Những cây cà chua của ông sẽ
tàn lụi nếu không có bàn tay chăm sóc của ông. Căn phòng này với
ông không khác gì một nhà tù. Ông thà chết còn hơn phải sống ở
đây - Môi ông run bật bật. - Chris ơi, cháu hãy chụp cho ông một
bức ảnh. Chụp ảnh con rồng. Lúc đó thì họ sẽ thấy đây là chuyện
thật và họ sẽ phải cho ông ra. Ông không điên đâu. ở đó có một
con rồng thật mà. - Ông cầm tay tôi và nhìn tôi đăm đăm. - Chris
ơi, cháu hãy chụp ảnh cho ông nhé!
Tôi nói với ông:
- Vâng. Cháu sẽ mang đến cho ông bức ảnh con rồng cho dù
cháu có phải đi tới cùng trời cuối đất.
Hai con mắt của ông rực sáng. Ông dặn:
- Cháu đừng có đi vào trong hệ thống thoát nước. Chớ có đi
vào hang ổ của con quái vật. Nó sẽ ăn sống nuốt tươi cháu. Cháu
hãy nấp ở cửa cống, khi nó thò đầu ra thì cháu chụp và chạy đi
ngay tức khắc, phải chạy trốn thật nhanh.
- Thế lúc nào thì con rồng sẽ rời hang?
- Vào lúc nửa đêm. Bao giờ cũng vào ban đêm, chính vì thế
phải có đèn chớp.
Tôi hỏi ông:
- Thế ông nhìn thấy con rồng đó lần cuối cùng từ bao giờ?
Ông bảo:
- Cách đây hai năm.
Tôi thất vọng kêu lên:
- Cách đây hai năm kia ư? Thế thì từ đó đến nay nó chết rồi
cũng nên.
Ông bảo:
- Nếu nó chết thì ông cũng coi như là chết mất rồi.
Ông đảo mắt buồn bã nhìn căn buồng lạnh lẽo. Tôi nghe rõ
tiếng thở dài thườn thượt ở ngoài hành lang. Rồi tiếng cô Gribble
lạnh lùng vang lên:
- Hết giờ thăm bệnh nhân!
Tôi hôn lên má lởm chởm râu của ông và nói rất khẽ vào tai
ông:
- Cháu không sợ. Nếu ở đó có rồng, cháu sẽ chụp ảnh nó.
Cô y tá dỏng tai nghe nhưng vì tôi nói rất khẽ nên cô ta
không hiểu tôi nói gì. Khi dẫn tôi đi ra ngoài cô nói với tôi giọng
chua như dấm:
- Cậu cả, hãy nhớ rằng không có rồng riếc gì cả. Không có
rồng. Nếu như cậu cố tình để lão già tin vào chuyện đó thì từ nay
tôi cấm cửa, không cho phép cậu tới đây nữa.
Tôi đi về nhà, vừa đi vừa lắc đầu. Tội nghiệp ông tôi. Ông
đoán chắc là ở cửa hệ thống kênh thoát nước có rồng thật. Tôi
không tin vào chuyện rồng. Nhưng tôi đã hứa với ông. Nói lời phải
giữ lời. í ra thì tôi cũng phải đi đến đó một lần. Đi tới vùng cửa
cống thoát nước thải Donovan vào lúc nửa đêm. Tôi suy nghĩ, cân
nhắc về các khả năng để đưa ông ra khỏi ngôi nhà điều dưỡng
kinh khủng đó. Nhưng tôi không nghĩ ra được cách nào cả.
Vì thế cho nên đúng vào lúc nửa đêm tôi đã có mặt ở chỗ cửa
ống thoát nước thải. Đúng ra thì không phải là ống mà là một cái
cống to tướng. Cống sâu thăm thẳm, tối mù mù, từ trong đó bốc ra
mùi hôi thối nồng nặc và những tiếng động đủ loại. Tôi chờ đợi.
Rét run lập cập nhưng không thấy động tĩnh gì cả. Không có rồng.
Được một lúc tôi đứng dậy và đi một đoạn vào trong cống xem có
thấy gì không. Tôi nghe thấy tiếng nước tí tách và tiếng ùng ục lạ
lùng. Trong đó tối om om như trong một cái hang chuột vậy. Cuối
cùng, tôi đã đến đó năm đêm liền. Trong năm ngày đó tôi cũng
không vào thăm ông, vì cô y tá chỉ cho tôi đến đó một tuần một
lần. Đêm nào tôi cũng ngồi rình ngay ở cửa cống mà hoàn toàn
không thấy một chút dấu hiệu gì về con rồng cả. Tôi có nhiều thời
gian để suy nghĩ và cuối cùng tôi tự hỏi, biết đâu câu chuyện ông
kể có thật thì sao? Có thể là lúc này đây con rồng đó không đến. Có
thể nó đang ngủ đông? Hay là loài rồng ngủ triền miên cả năm
trời? Cũng có thể nó biến đi đâu đó mười năm liền thì sao? Cuối
cùng tôi đã hiểu ra rằng, chỉ có một khả năng, đó là tìm ra bằng
được câu trả lời. Tôi nhất định phải đi vào trong đó.
Đêm hôm sau, khi mẹ đã ngủ yên, tôi lẻn ra cửa sau. Tôi
mang theo đèn pin và máy ảnh của ông, tôi mặc hai áo len và
khoác bên ngoài chiếc áo gió. Đêm ấy trời rét. Tôi cẩn thận dò dẫm
từng bước một ở trong cống. Mỗi chân tôi để một bên thành cống, ở
giữa là luồng nước hôi thối đặc quánh chảy từ từ. Cống rất to nên
tôi có thể đứng thẳng mà đi. Giờ thì tôi nói thật, lúc đó tôi thấy sợ.
Trước mắt tôi tối như bưng, sau lưng tôi chỉ có một vệt sáng lờ mờ
mỗi lúc một yếu dần. Nỗi lo sợ cứ trào lên nhưng tôi buộc mình
phải tiếp tục đi sâu hơn nữa vào cái chỗ tối om bịt bùng đó. Cuối
cùng tôi không còn nhận thấy lối vào. Giữa lúc đêm hôm khuya
khoắt tôi một thân một mình lặn lội trong lòng đất. Tôi bỗng nhớ
tới lời ông dặn: "Chớ có đi vào trong hang rồng. Nguy hiểm lắm.
Nó sẽ ăn sống nuốt tươi cháu". Tôi nghĩ tới lời nói của cô Gribble:
"Làm gì có rồng!" Tôi suýt nữa thì cầu mong, cô ấy nói đúng. ánh
sáng chói chang của chiếc đèn pin là điều ôn ủi duy nhất đối với
tôi. Tôi chiếu đèn vào mọi ngóc ngách, mọi vết nứt, kẽ hở. Bỗng
nhiên tôi thấy câu chuyện về con rồng chẳng có gì là điên rồ cả.
Trong trí tưởng tượng của mình tôi trông thấy rõ con quái
vật đó với hai con mắt đỏ như than hồng, với cái mõm há hoác
đang ngồi chồm chỗm rình mồi và chỉ chực vồ lấy tôi với những cái
vuốt nhọn hoắt. Tôi cũng không biết làm sao tôi có thể tiếp tục đi
sâu hàng tiếng đồng hồ vào trong hệ thống thoát nước. Tôi cần
phải cố gắng, phải tìm cho ra sự thực câu chuyện mà ông đã kể.
Tôi phải làm việc đó vì ông. Cống to dần và cuối cùng thành một
cái hang rộng. Bốn cái cống bằng bê tông, cái thứ năm trông như
một cái hang do một con thỏ khổng lồ đào bới mà thành. Bờ của cái
hang đất này phủ rêu xanh nhầy nhầy và có rất nhiều vết đào bới.
Tôi cẩn thận đi vào trong cái cống đó. Tôi những muốn quay trở lại
và bỏ chạy. Tôi muốn la hét rõ to, tôi những muốn có con rồng thật
và nó sẽ vồ lấy tôi, xé xác tôi thành trăm mảnh. Miễn là mọi
chuyện nhanh chóng qua đi. Gì thì gì cũng còn hơn là cái sợ kinh
hồn đang làm cho tôi run lên bần bật. Vì lối đi trong cái cống này
rất trơn và cũng phủ một lớp bầy nhầy như trên tường nên tôi luôn
bị trượt chân và vấp ngã. Cái cống này ngày càng đi xuống sâu
hơn và xoắn trôn ốc. Càng đi vào sâu mùi xú khí càng nồng nặc
hơn đến nỗi tôi phải lấy khăn buộc kín mồm và mũi.
Tôi đã mấy lần chực bỏ cuộc. Bỗng có cái gì lạo xạo ở dưới
chân. Xương. Tôi chĩa đèn pin xuống đất thì thấy xương nằm ngổn
ngang cái to, cái nhỏ và đây đó là những cái sọ nho nhỏ nằm rải
rác quanh chân tôi. Tôi nhận ra một cái dây da và một mẩu kim
loại, trên đó khắc dòng chữ: "Timmas". Không nghi ngờ gì nữa,
đây là một cái dây buộc cổ chó. Càng đi vào sâu xương càng nhiều
và cuối cùng thì tôi bước trên những đống xương chất thành đống
đến tận đầu gối. Tôi sợ bủn rủn cả người nhưng dù sao tôi vẫn dấn
tới. Nhất định tôi phải chụp được một kiểu ảnh. Đó là khả năng
duy nhất để tôi có thể đưa ông thoát ra khỏi nhà ôn dưỡng và để
chứng minh rằng ông hoàn toàn không bị điên. Cuối cùng cửa cống
này chạy tới một cái hang rộng thênh thang. Hang cao đến nỗi đèn
pin không rọi nổi tới trần hang. Trần cong lên thành hình một cái
vòm. Chính giữa nhô hẳn lên như một cái gò và con rồng nằm trên
cái gò đó.
Quai hàm nó há hốc, trắng nhởn, hai con mắt trống rỗng
trông như hai cái hố sâu thăm thẳm, tối tăm. Nó nằm bất động.
Tôi cũng đứng như trời trồng. Hai chân run lập cập không khác gì
hai cái búa máy. Con quái vật khủng khiếp không hề chồm dậy và
cũng không ăn sống nuốt tươi tôi. Nó không thể làm gì cả. Nó đã
chết rồi. Con quái vật giờ đây chỉ còn là một đống xương. Với
những cố gắng cuối cùng nó đã cố dang đôi cánh để che chở đống
của cải của mình. Nó to lừng lững nhưng rất xấu xí. Bộ xương
cánh của nó đã héo khô và giang ra vĩnh viễn trong lòng đất. Cái
sọ của nó trễ ra, chảy dãi và gườm gườm nhìn tôi một cách độc ác.
Dường như nó muốn vồ thân hình bé nhỏ của tôi và xé ra thành
trăm mảnh. Còn đống của cải mà nó đang giang cánh ra để bảo vệ
một cách vô vọng? Tất cả toàn là những thứ tạp nham vô bổ. Nào
là những máy truyền hình đã tháo rời, hư hỏng, rađiô bán dẫn,
nắp thùng rác, lốp ô tô, chai lọ, xe nôi hỏng, những cái gương bị vỡ
và các khung ảnh bị gẫy méo mó. Tịnh không hề có kim cương,
không có những thanh gươm dát vàng.
Con rồng này là vua của một đống rác rưởi bẩn thỉu. Tất cả
những cái gì bị nước cống lùa vào đây đều bị nó vớt vát lại làm của
cải của mình. Bây giờ thì tôi phải làm cái công việc mà vì nó tôi
phải lò mò lặn lội vào tận đây. Chụp ảnh. Tôi đứng trên một hòn
đá trơn truồi truội và chuẩn bị máy ảnh. Giờ thì tôi sẽ có chứng cớ,
may ra có thể giải thoát cho ông ngoại. Tôi chụp khoảng mười kiểu
ảnh. Bỗng tôi bị trượt chân, đèn pin, máy ảnh văng ra xa. Tôi nghe
thấy tiếng loảng xoảng khi chúng va chạm vào đống rác. Lúc đó
ánh đèn pin lóe sáng một lần cuối cùng rồi tắt ngấm. Tôi đứng trơ
trọi giữa đêm đen như mực bên cạnh xác một con rồng. Tôi dò dẫm
lần tìm cái máy ảnh. Cái tảng đá mà tôi đứng trên đó thực ra
không phải là đá mà là một cái hòm trơn truồi truội không có góc
cạnh. Tôi lấy tay thận trọng sờ soạng mò tìm, tôi phải tìm bằng
được cái máy ảnh và chiếc đèn pin nhưng ở nơi sâu thẳm trong
lòng tôi biết chắc rằng tôi sẽ không tài nào mò tìm thấy chúng.
Chúng nằm đâu đó giữa đống xương của con rồng hoặc lẫn lộn với
những cái xương đã mục nát thối rữa khác. Trong điều kiện tối om
om như thế này tôi sẽ không tìm thấy đèn pin lẫn máy ảnh. Trong
khi lần mò rờ rẫm ở đống rác tôi đụng phải một cái thùng phi đựng
dầu cũ.
Cái thùng lăn truồi đi va vào những thứ rác rưởi phát ra
tiếng động loảng xoảng rợn người. Bỗng nhiên tôi cảm thấy đất ở
dưới chân chuyển động. Tiếng động làm cho trần hang bị sụt lở.
Đất đá rơi rào rào. Cả cái hang đổ sập xuống. Mặt đất rung
chuyển khi những tảng đá khổng lồ từ mái vòm hang rơi xuống.
Tôi phải nhanh chóng chạy ra khỏi nơi này nếu không muốn bị
chôn vùi ở nơi đây. Tôi băng qua đống rác, lội qua những đống
xương đầy ngập chân chạy ra phía cửa hang. Tôi cụng đầu vào đá
và trượt ngã không biết bao nhiêu lần. Tôi nghe thấy tiếng đổ vỡ
ầm ầm và tiếng nước ào ào chảy. Bỗng có tiếng nổ như sấm trong
không khí, tôi bị một luồng gió ép vào lối xoắn ốc trong hang và
đúng lúc đó toàn bộ trần hang đổ ập xuống. Tôi ngồi thụp xuống
và trượt trong cái ống trơn tuồn tuột. Đường ống chỗ lồi, chỗ lõm
và được một lúc thì đũng quần của tôi bị rách bươm. Cuối cùng tôi
ngã lộn tùng phèo trên mặt đất. Tôi thấy khắp người đau ê ẩm tôi
hoàn toàn không trông thấy gì cả. Chắc rằng người tôi chỗ nào
cũng xây sát và máu chảy đầm đìa.
Có một tiếng động rất to vang lên ở bên trên và một cái gì đó
đang lao tới ở đằng sau tôi. Tôi chưa kịp tránh thì đã có một vật
cứng như cao su đập vào đầu tôi làm tôi ngã vật xuống. Đó chính
là cái như cái hòm mà lúc nãy tôi đã đứng trên nó. Tôi ngồi bệt ở
trong dòng nước và không cầm được nước mắt. Thế là mọi chuyện
đều công cốc. Tôi đã trông thấy cái xác con rồng, đã chụp ảnh.
Nhưng máy ảnh, con rồng và đống của cải của nó đều đã bị đất đá
chôn vùi trong lòng đất. Thế là con rồng đã vĩnh viễn biến mất,
cùng với nó là hy vọng giải thoát cho ông ngoại khỏi khu điều
dưỡng. Như vậy là không có một chút bằng chứng nào về việc con
rồng đã từng sống ở đây.
Tôi cảm thấy rất rõ là cái hòm này đang cựa quậy ở trong
cống. Nó đang trôi đi. Tôi quyết định phải đi theo nó, biết đâu đây
chẳng là vật cứu cánh của tôi. Vì tôi đi theo cái hòm đang trôi nên
vẫn đi ra ngoài được mà không cần phải có đèn pin. Khi ra đến cửa
cống thì trời đã chông vông, người tôi ướt sũng, môi tím tái vì rét
và tôi cảm thấy buồn bã ê chề. Toàn bộ công việc mạo hiểm của tôi
trở thành công cốc. Mọi người sẽ tiếp tục coi ông ngoại là một
người mất trí và chỉ có tôi là người duy nhất biết rằng điều đó
không đúng. Chỉ có cái khối bằng cao su này là bằng chứng cho sự
nỗ lực của tôi. Nhưng tôi không có gì làm bằng chứng về việc có
con rồng đã từng sống ở trong hệ thống cống thoát nước. Tôi nhìn
kỹ cái hòm. Trông nó như con xúc xắc mà người ta vẫn chơi cá
ngựa, có điều nó không có các chấm. Cái hòm này màu hồng và
khá nặng. Tôi không thấy nó có nắp. Rõ ràng nó đặc chứ không
rỗng. Tôi tự nhủ phải mang nó về và đưa cho ông xem. Thế là tôi
vác nó về nhà và trước hết tôi phải đi tắm. Lúc đó mẹ đã đi làm.
Tôi mặc quần áo sạch rồi lên đường tới nhà ôn dưỡng. Cô y tá với
cặp mắt gườm gườm ngồi trong phòng thường trực bằng kính ở
cuối hành lang. Cô ta mỉa mai:
- Thế nào, ảnh chụp con rồng của cậu đâu?
Tôi buồn bã đáp:
- Không có. Nhưng tôi có một cái khác.
- Và chỉ cho cô ta xem cái khối vuông.
Cô y tá vội hỏi:
- Cái gì vậy?
Tôi ấp úng nói:
- Cháu lấy nó ở trong hang rồng về. Cô đáp:
- Mày thật là một đứa trẻ con đốn mạt, nói dối như Cuội,
đừng có hòng đưa lão già đó ra khỏi đây bằng những trò dối trá
của mày. Tý nữa lúc về nhớ mang cái đồ thối tha này ra khỏi đây!
Tôi đi vào buồng của ông. Khi trông thấy tôi mặt ông sáng
bừng lên. Nhưng ông lại buồn thiu khi nghe tôi kể xong mọi
chuyện. Ông nói:
- Cháu ơi, thế là ông bị thất bại rồi. Ông sẽ không bao giờ có
thể chứng minh chuyện ấy là có thật nữa. Ông sẽ bị nhốt suốt đời
ở đây mất thôi. Chúng tôi ngồi thừ người và ngắm nhìn cái khối
vuông nằm ở giữa buồng.
Bỗng ông đứng phắt dậy và nói:
- Ông đã có lần đọc về cái này. - Ông cười rồi nói tiếp - ông
nghĩ rằng, ông biết nó là cái gì rồi.
Trong khi ông tôi nói thì tôi thấy một bên của cái khối đó có
vết nứt. Bỗng có tiếng nổ và cái khối đó toác ra làm đôi. Và một
con rồng nhỏ nhảy vọt ra. Ông tôi reo lên:
- Trứng rồng!
Trứng rồng trông như một cái khối vuông. Con quái vật chạy
lại chỗ tôi và lấy răng càm càm vào chân tôi. Nó đói. Tôi nhảy vọt
sang giường ông ngoại và cả hai cùng hể hả cười sung sướng. Răng
của chú rồng con này rất chi là sắc. Con rồng màu tím, răng màu
xanh. Từ tai nó bốc lên những luồng khói xám. Ông bảo:
- Thế là ông sẽ được ra khỏi nơi này, không ai có thể giữ ông
ở đây được nữa. Chúng ta có thể chứng minh là ông đã trông thấy
một con rồng ở hệ thống thoát nước. Con vật này không thể từ trên
trời rơi xuống. Ông được tự do rồi!
Tôi lấy hết sức reo lên rõ to:
- Hoan hô, đúng nó là rồng rồi!
Lập tức tôi nghe thấy tiếng giày loẹt quẹt của cô Gribble.
Con rồng nhỏ bỗng đứng yên và khụt khịt mũi đánh hơi. Nó trừng
mắt nhìn ra cửa. Nó ngửi thấy mùi thức ăn. Cô y tá Gribble bước
vào buồng và cao giọng: "Không có..." Bỗng cô hét vang nhà khi
con rồng con mới nở bổ nhào về phía cô và ngoạm chân cô. Cô hét
lên thất thanh:
- Cứu tôi với, cứu tôi với. Nó cắn tôi, ôi con rồng con kinh
tởm. Bắt nó ra cho tôi!
Cô tất tả chạy quanh phòng, con rồng con vẫn ngoạm chặt
chân cô quyết không buông. Ông tôi vớ chiếc va ly và chạy thẳng
ra cửa. Cô Gribble rít lên:
- Đừng đi, đừng đi, đừng bỏ tôi ở lại đây một mình với con
rồng.
Ông nhìn cô chằm chằm, và nói:
- Cô làm gì buồn cười thế? Cô vẫn chẳng nói làm gì có rồng đó
sao!
CUộC CHIếN BạCH ĐàN
Bác bảo vệ Rừng quốc gia nhìn qua cửa sổ tàu hỏa. Bác nói:
- Mùa hè năm nay sẽ khô nóng, thể nào cũng xảy ra cháy
rừng.
Mọi người ngồi trong toa không ai trả lời. Bọn họ đang quá
bận về việc nhìn chằm chằm cái mũi của tôi. Không, họ không
nhìn thẳng vào mặt tôi. Họ đảo con ngươi liếc xéo mắt nhìn qua
hàng lông mi về phía tôi. Tôi cũng không thèm chú ý tới họ. Nếu
họ muốn nhìn cho lồi mắt ra thì đấy là việc của họ, tôi không thể
ngăn được. Tôi cũng đã quá quen với việc thiên hạ cứ nhìn chòng
chọc vào mình nhưng dù sao tôi vẫn cảm thấy ngượng. Tôi không
cần có cái mũi dài nhất trần đời.
Tất cả chỉ vì một vụ tai nạn, hoàn toàn không phải do tôi gây
ra. Cái mũi tôi ở trông thái như thế này mới được ba tháng. Nhưng
ba tháng là một thời gian dài vô tận với người mà chỉ trong ngần
ấy thời gian mũi vống lên đến cm. Không ngày nào tôi không
cảm thấy bị dằn vặt, hành hạ vì mọi người nhìn tôi với con mắt
chế giễu. Chuyện này xảy ra vào cái đêm tôi đi xuống bếp định lấy
chút gì để ăn ở trong nhà kho. Bố mẹ tôi đã ngủ, tôi đi thật sẽ
xuống cầu thang. Cửa kho đựng thức ăn có loại cửa hai cánh, khép
ở chính giữa. Tôi mở hé, thò đầu vào nhìn xem có gì ngon không.
Bất chợt có ai đó đẩy tôi ở phía sau. Tôi đập đầu vào cánh cửa và
cửa đóng sập lại, mũi tôi bị kẹp giữa hai cánh cửa. Tôi thấy đau
điếng cả người, máu bắn vọt ra. Tôi hét toáng lên, bố mẹ tôi bổ
nhào vào nhà bếp. Bố vội đem tôi ra ô tô và phóng như bay tới
bệnh viện. Mẹ tôi ở nhà. Bà mắng té tát thằng em tôi, chính nó đã
đẩy vào lưng tôi làm cả nhà rối tinh rối mù. Mũi tôi bị biến dạng
một cách kinh khủng, từ cm nó vống lên tới cm và nằm chồm
chỗm trên mặt tôi không khác gì cái nắp chụp trên mũi ô tô. Tôi có
thể nhìn thấy rõ cái mũi của mình mà chẳng cần phải soi gương
cũng như phải liếc mắt. Điều làm tôi lo lắng nhất là các bác sĩ nói
trong ba năm tới, khi tôi đang tuổi ăn tuổi nhớn thì không thể làm
gì được cả. Họ không đồng ý mổ cho tôi. Tôi phải mang cái "cột cờ"
này suốt ba năm liền. Cứ nghĩ đến chuyện đó tôi đã thấy rùng
mình. Tôi không thể chịu được quá một ngày khi tới trường. Phần
lớn các bạn học tỏ ra rất tử tế, các bạn cố gắng không giương mắt
nhìn tôi mà chỉ kín đáo liếc nhìn mũi tôi khi tin rằng tôi không
biết gì cả. Nhưng đã nói chuyện với ai đó thì người ta nhất định
phải nhìn thẳng vào mặt nhau và tất nhiên tôi biết nhiều người đã
cố gắng bậm mồm để không bật cười. Nhưng cũng có những đứa
rất đểu. Một con nhóc kể một câu chuyện rất buồn cười về một cậu
bé duy nhất trên thế giới khi xỉ mũi phải dùng chiếc khăn tay to
bằng khăn trải giường. Khi về tới nhà tôi nói ngay với mẹ: "Từ nay
con sẽ không đi học nữa. Ba năm tới con sẽ thôi học, con không
muốn làm thằng hề ở trường". Bố mẹ tôi tìm mọi cách động viên
tôi đi học. Các cụ còn đút lót tiền cho tôi, nhưng tôi không nhận.
Bố tống tôi lên ô tô, đưa tôi tới tận cổng trường, nhưng tôi lại chạy
bộ về nhà. Các cụ lại đưa tôi tới một nhà tâm lý học. Ông ta là
người tử tế, nói chuyện với tôi cả giờ đồng hồ, nhưng cũng không
ăn thua gì.
Cuối cùng bố mẹ tôi quyết định cho tôi về nghỉ hè ở nhà ông
nội McFuddy. Ông tôi sống một mình trong một ngôi nhà ở vùng
núi. Bố mẹ tôi cho rằng trong những ngày sống ở thôn quê, tôi sẽ
suy nghĩ lại. Vì thế tôi ngồi tàu hỏa để đi tới nhà ông nội và mọi
người trong toa đều giương mắt nhìn tôi. Ngoài bác bảo vệ rừng
trong toa còn có một cha cố khoác chiếc khăn quàng cổ màu trắng,
một bà khoảng tuổi và một con bé trạc tuổi tôi. Con nhỏ mím
môi để không bật ra tiếng cười. Người hành khách cùng đi duy
nhất không hề chú ý đến cái mũi tôi là bác bảo vệ rừng. Ông chỉ
lầu bầu vì trời khô nóng và phàn nàn về nguy cơ cháy rừng trong
năm nay.
Ông nội McFuddy đánh xe ngựa ra ga đón tôi. Với xe ngựa
nhé. Đấy là một điều bất ngờ đầu tiên mà ông dành cho tôi. Tôi
đâu có nghĩ thời nay mà còn có người đi xe ngựa kia chứ. Nhưng
chuyện này chẳng thấm vào đâu so với những việc khác xảy ra sau
này. Thật tình mà nói thì ông nội tôi thuộc loại người kỳ cục nhất
mà tôi chưa hề gặp bao giờ. Ông mặc một cái quần nhăn nhúm
bẩn thỉu với cái dây đeo tã nát. Ngoài ra ông còn mặc chiếc áo lót
màu xanh, ông đội tùm hụp một cái mũ cũ kỹ, nhăn nhúm che lấp
cả khuôn mặt râu ria xồm xoàm. Những chiếc răng giả của ông
nhọn hoắt, ám khói thuốc lá. Ông khạc và nhổ toẹt xuống đất. Ông
bảo tôi:
- Lên xe đi, ta phải về tới nhà trước khi trời tối.
Tôi cũng chẳng biết làm sao mà ông nhận ra tôi vì cho tới
nay tôi chưa hề gặp ông lần nào. Có lẽ trong thư viết cho ông, mẹ
đã kể về cái mũi của tôi. Xe chạy lóc cóc trên con đường ngoằn
ngoèo xuyên qua rừng bạch đàn, bụi bốc lên mù mịt. Tôi nói với
ông:
- Cháu cám ơn ông đã cho phép cháu về nghỉ hè với ông.
Ông lầu bầu:
- Cứ gọi ông là McFuddy.
Ông là người rất ít nói. Tôi kể cho ông nghe tất cả những
chuyện liên quan tới cái mũi của mình cũng như những chuyện
xảy ra ở trường. Nhưng ông chẳng nói chẳng rằng. Thỉnh thoảng
ông húng hắng ho, lại khạc và nhổ toẹt xuống đất. Ông là người có
thể khạc nhổ rất xa, có lẽ phải tới hơn mét. Vài lần ông dừng
ngựa để cuốn thuốc lá. Đi được một lúc thì cây cối thưa dần và bắt
đầu lên dốc. Trên cả một đoạn đường dài ấy, xe chúng tôi chỉ chạy
qua mỗi một cái nhà, vâng, nếu ta có thể coi đó là nhà. Đúng ra thì
đó là một túp lều, các tấm lợp đã hoen rỉ và mái hiên đã đến lúc
phải sửa chữa. Trước khi đến cái lều đó ông dừng xe và bảo tôi:
- Cháu hãy bịt tai lại.
Tôi hỏi:
- Ông bảo gì ạ?
Ông hét rất to:
- Hãy bịt tai lại khi đi qua nhà lão già Foxy.
Tôi lại hỏi ông:
- Tại sao ạ?
- Tại ông bảo thế.
Ông cho tay vào túi lấy ra một túm bông bẩn thỉu, vê thành
hai cục nhỏ và đút nút lỗ tai. Sau đó xe chúng tôi chạy chậm chạp
qua ngôi nhà cũ kỹ đó. Tôi lấy hai tay bịt tai. Chỉ có con ngựa là
vật duy nhất có thể nghe được. Một lão già chạy ra và giơ nắm
đấm dọa ông cháu tôi. Ông cụ nổi giận về một cái gì đó, nhưng tôi
không biết ông giận dữ về chuyện gì. Kể cũng buồn cười, ông già
này cũng thút nút lỗ tai bằng bông. Tôi nhủ thầm, chắc chắn là kỳ
nghỉ hè này sẽ rất đặc biệt. Ông tôi dướn người lên ở trong xe,
cũng dứ dứ nắm đấm về phía cụ già kia. Sau đó ông ngồi xuống,
cho xe chạy tiếp và không ngớt làu bàu, chửi rủa. Tôi ngoái cổ nhìn
lại túp lều để xem ông già cáu kỉnh kia làm gì. Nhưng ngoài cái
đầu hói của ông tôi không trông thấy gì cả. Ông ta đứng lom khom
nhìn qua ống nhòm. Xe xuống dốc và trước mặt chúng tôi là một
cái lều cũ nát thứ hai. Ông tôi nói:
- Lão ta quan sát nhà ông đấy. Kia kìa, ở trên kia là ngôi nhà
của ông đấy.
Tôi giật thót mình. Cho dù ngôi nhà của ông tôi còn cách xa
khoảng km nhưng tôi đã nhận ra đây là một ngôi nhà dột nát
xiêu vẹo có thể đổ bất cứ lúc nào. Xung quanh nhà chất một loạt xe
ô tô hỏng, rỉ nhoèn, một lô một lốc tủ lạnh cũ và không biết bao
nhiêu là rác rưởi. Những thanh gỗ hàng rào cái gẫy, cái xệ, bạc
phơ bạc phếch. Chúng tôi bước vào nhà. Ông chỉ cho tôi căn buồng
của mình. Trước kia đây là buồng rửa mặt. Trong buồng còn có
một cái chậu rửa đã hỏng và một cái máng rỗng. Trên sàn là một
cái đệm sọc đầy bụi bặm và một chiếc chăn len cũ màu xám. Mông
nhện dăng chằng chịt trong buồng. Trong nhà bếp, cạnh cửa sổ, tôi
phát hiện thấy cái ống nhòm. Một phần cửa kính được lau chùi
sạch sẽ để có thể chĩa ống nhòm xuống núi theo dõi nhà ông Foxy.
Ông tôi nói:
- Ta còn phải đi đóng mấy cái cọc ở bãi trên, nếu cháu thích,
cháu có thể đi dạo quanh đây, nhưng đừng có tới gần nhà lão Foxy.
Cẩn thận kẻo lạc đường đấy.
Nói xong ông đóng sầm cửa và ra khỏi nhà. Về chiều trời vẫn
còn nắng nóng. Tôi đi dạo một lúc quanh trang trại của ông nội
sau đó đi vào khu rừng nhỏ phía trên. Tôi thấy một con rắn màu
nâu và vài con thằn lằn, ngoài ra không thấy gì hơn. Tôi nghe
văng vẳng tiếng ông nội đóng cọc trên đồng cỏ. Sau đó tôi nghe
thấy những âm thanh kỳ lạ, rõ ràng là tiếng nhạc. Có ôi đó đang
chơi một bản nhạc nhưng tôi không tài nào đoán được đây là loại
nhạc cụ gì. Mãi sau tôi mới nhận ra đó là lá cây bạch đàn. ôi đó
đang chơi bản nhạc "Click go the Shers" bằng lá bạch đàn. Tôi ngồi
trên một thân cây lắng nghe tiếng nhạc trầm bổng. Thật tuyệt vời
khi được nghe một nhạc sĩ giỏi như thế biểu diễn. Tiếng nhạc trầm
trầm như tiếng ong bay ù ù giữa rừng cây lặng lẽ. Tôi đảo mắt tìm
kiếm nhưng không phát hiện ra một ai. Sau đó tôi cảm thấy đau
nhói ở cánh tay trái. Tôi nhìn kỹ thấy tay bị rách một đoạn. Máu
ra khá nhiều. Tôi cũng không biết tại sao mình bị thương. Có lẽ tôi
bị vướng cành cây. Tôi cố gắng chạy thật nhanh về nhà và quên
khuấy tiếng nhạc trầm bổng. Ông tôi ngồi uống trà trong bếp. Ông
nổi nóng khi trông thấy vết thương trên tay tôi. Ông quát:
- Mày làm thế nào mà đến nông nỗi này.
Tôi thưa:
- Cháu cũng không biết nữa. Cháu ngồi trên một thân cây và
bỗng nhiên thấy thế này.
Ông hỏi ngay:
- Có nhạc không? Cháu có nghe tiếng nhạc không?
- Có ạ, ôi đó thổi một điệu nhạc bằng lá bạch đàn. Người đó
thổi rất hay ông ạ.
Mặt ông đỏ rực lên. Ông hỏi:
- Hắn chơi bản nhạc "Click go the Shers" phải không?
Tôi gật đầu. Ông đứng phắt dậy với khẩu súng bắn đạn
ghém treo trên tường. Ông chạy vọt ra cửa và chĩa khẩu hai nòng
về phía ngôi nhà lão Foxy bắn liền hai phát. Tiếng nổ rất to làm
mấy miếng kính cửa sổ rung lên bần bật. Tôi chạy vọt ra ngoài và
nhìn xuống dưới núi, xa xa là ngôi nhà của lão Foxy. Một bóng
người bé tí xíu đang đứng ở hiên chỉ trỏ về phía chúng tôi. Một tia
chớp sáng chói, sau đó lại một phát súng nổ rền vang từ khẩu
súng bắn đạn ghém. Ông tôi nói:
- Xong, cho qua, xa hàng dặm rồi.
Ông đi vào, vừa đi vừa cười thầm một mình. Kể cũng không
có gì lạ khi lão Foxy bắn trượt. Cũng không có gì lạ khi hai người
chỉ bắn sát sàn sạt. Vì không thể dùng súng bắn đạn ghém để bắn
xa. Tôi hỏi:
- Thưa ông có chuyện gì vậy? Vết xước đó không thể do ông
ấy gây nên. Xung quanh chỗ cháu ngồi không có lấy một bóng
người. Cháu nghĩ, rất có thể đây chỉ là một tai nạn nho nhỏ.
Ông tôi trầm ngâm không đáp. Ông ăn một lát bánh mỳ quệt
đầy mứt quả. Sau đó ông dùng lưỡi đẩy đi đẩy lại hàm răng giả để
gạt những hạt nhỏ trộn lẫn trong mứt quả. Ông nói:
- Cháu đừng bận tâm về những việc không liên quan tới
cháu. Foxy là một lão già nham hiểm hơn cả rắn độc. Chính lão ta
đã xẻo thịt cháu đấy.
Tôi nói:
- Nhưng mà...
- Không nhưng gì cả. Từ nay ông không cho phép cháu đi
lung tung mà không có lệnh của ông.
Câu chuyện đến đó là hết, ông không muốn nói gì nữa. Ban
đêm tôi ngủ trên tấm đệm cũ. Tôi cựa quậy trằn trọc một lúc rồi
thiếp đi.
Sáng ngày ra ông tôi bị cảm lạnh nặng. Ông ho khù khụ,
khạc nhổ liên hồi. Mũi ông đỏ ửng như quả cà chua. Ông thấy khó
chịu bực bội trong người. Ông nói rất to:
- Lão Foxy đã tới đây, lão đã truyền bệnh cúm cho ta, lúc ta
nằm trong buồng, ta nghe thấy nhưng ra không kịp. Chính hắn đã
đến. Thế cháu không nghe thấy gì hết sao? Cháu không nghe thấy
tiếng khèn bạch đàn à?
Tôi đáp:
- Thưa ông không. Và cháu cũng không tin ông Foxy có thể
truyền bệnh cúm sang ông. Nhà mình cửa đóng kín mít, ông ấy
làm sao truyền bệnh cúm được?
Để tránh những cơn ho sặc sụa của ông tôi đi ra ngoài và tôi
đã nhặt được một lá thư. Một chiếc phong bì nhàu nát nằm ngay
trên hiên nhà với dòng chữ: Gửi cậu bé có cái mũi dài.
Tôi vội vàng bóc ngay lá thư. Trong đó có một thông tin gửi
cho tôi: Cháu ơi, ta lấy làm tiếc về vết xước đó. Ta nhầm cháu với
lão già McFeddy.
Ông tôi giật lấy mẩu giấy:
- Ta biết mà, ta nói có sai đâu, đêm hôm qua cái lão khốn
kiếp bẩn thỉu đó đã lên đây, hắn đã gieo rắc bệnh cúm kinh khủng
tại nhà ta.
Ông chạy nhào vào nhà trong và cầm khẩu súng bắn đạn
ghém nã hai phát đạn xuống nhà ông Foxy. Ngay lập tức vang
vọng lại hai phát nổ trầm trầm từ phía nhà ông Foxy ở dưới thung
lũng. Tôi lựa lời hỏi ông về những gì đang diễn ra ở đây, nhưng
ông tôi đang cơn bẳn gắt khó chịu nên không muốn đả động đến
chuyện này. Ông bảo:
- Hôm nay ta làm hàng rào, cháu hãy giúp ông một tay.
Cháu xếp tất cả những cọc này vào một chỗ và vác ra đồng cỏ.
Hai ông cháu tôi loạng choạng khuân bó cọc nặng đến oằn
người đi dọc triền đồi. Tôi không ngờ ông tôi lại lực sĩ đến như vậy.
Ông không hề dừng lại lấy một lần để nghỉ chân mặc dù ông ho sù
sụ và khạc nhổ liên hồi. Khi tới gần đích thì ông dẫm phải một bãi
phân bò tươi, nhão nhoét và ông bị trượt chân:
- Ôi! - ông la to. - Ta bị trẹo chân rồi.
Tôi vội vàng chạy tới chỗ ông, chân ông đã bị tím tái và sưng
vù lên. Tôi nói với ông:
- Để cháu dìu ông về nhà. Chân ông sưng to và đau lắm.
Mặt ông méo xệch đi vì đau nhưng bỗng nhiên ông thay đổi
hẳn, ông cười gằn và nói:
- Ông đau lắm. Phải, hay lắm, ông đang cần đau mà.
Sau đó ông lầu bầu nói liên chi hồ điệp không khác gì con gà
mái cục ta cục tác khi nhảy ổ. Ông bảo tôi:
- Cháu đi lấy cho ông cái gậy. Được thế này là hay, ông đang
cần đau cháu ạ.
Tôi tìm thấy một cái gậy. Ông chống gậy đi cà nhắc, cà nhắc
sang bên kia đường. Ông nhăn nhó, dường như ông đau đớn lắm.
Tôi hỏi ông:
- Ông đi đâu đấy? Chân ông sưng tấy như thế này, ông không
được đi đâu cả.
Ông ngoái cổ bảo:
- Ta phải đi tới chỗ cây bạch đàn cổ thụ, sau đó ta còn chút
việc phải giải quyết. Cháu về đi. Cấm không được đi theo ta.
Ông lò dò từng bước ra đường rồi biến mất ở quãng đường rẽ.
Mọi chuyện thật là lạ lùng. Hai ông già bắn nhau rồi chửi bới
trách móc nhau về những chuyện mà họ không thể gây nên được.
Đang nửa đêm thì cụ nào lại đi lang thang thổi khèn bạch đàn kia
chứ. Tôi nhất định phải tìm cho ra việc này. Vì thế tôi bám theo
chân ông tôi, luồn lách sau những bụi cây để ông không phát hiện
được.
Vì ông bị trẹo mắt cá chân, chỉ nhích từng bước một nên tôi
không khó khăn gì để theo kịp ông. Sau khoảng một giờ đồng hồ
ông tới chỗ mấy cây bạch đàn cổ thụ mọc đan xen với nhau thành
một cụm. Hôm qua ông đã chỉ cho tôi chỗ này. Điều làm tôi chú ý
là những cành ở dưới dường như đã bị bò ăn không còn một cái lá
nào. Ông tôi dùng gậy đập vào cành bạch đàn làm một chiếc lá
rụng xuống. Ông đặt chiếc lá lên môi và thổi. Âm thanh trong
sáng của điệu nhạc lan tỏa ra hướng đường cái. Ông tôi nhét cái lá
vào túi và cười gằn. Sau đó ông quay ra đường. Tôi biết ông định đi
đâu. Đúng như tôi dự đoán. Sau một giờ lò dò từng bước ông mới
tới nhà ông Foxy. Lúc đó ông Foxy đang chĩa ống nhòm quan sát
nhà ông tôi. Ông tôi nằm rạp xuống bò cả hai chân hai tay sau
những hàng cây. Khi tới gần nhà ông Foxy, song vẫn còn ở ngoài
tầm nhìn, ông tôi lấy cái lá bạch đàn và chơi bài "Click go the
Shers". Ông tôi thổi khèn lá thật tuyệt diệu. Tôi hoàn toàn không
biết là ông mình lại có khiếu âm nhạc đến như vậy. Tiếng nhạc
của ông vẫn rất mạnh mẽ, lắng đọng. Đúng lúc những nốt nhạc
đầu tiên vang lên, ông Foxy giật thót mình như bị gai đâm. Sau đó
ông bịt chặt tai chạy vội vào trong nhà la hét ầm ĩ như bị đâm.
Ông tôi quay ngoắt và vọt đi. Ông chạy thoăn thoắt như thỏ ra
đường. Chưa bao giờ tôi thấy ông đi nhanh nhẹn đến như vậy.
Phải mấy giây sau, khi đã định thần trở lại, tôi mới thấy ông
không còn đi cà nhắc nữa. Ông đã khỏi bong gân, chỗ sưng xẹp
hẳn xuống. Ông đi lại hoàn toàn bình thường. Ông Foxy xách súng
bắn đạn ghém chạy ra ngoài hiên, bắn vọt trên đầu ông tôi. Sau đó
ông ta chì chiết:
- Tao bắn mày chết. Xác mày tao sẽ nấu làm xà phòng.
Ông ta tìm cách đuổi theo ông tôi nhưng không tài nào chạy
nổi. Ông bị bong gân.
Đầu óc tôi rối bời. Tôi chẳng hiểu gì về cái chuyện lạ lùng
nhất trần đời này. Phải chăng hai ông già này có khả năng truyền
bệnh cho nhau, và cũng bằng cách đó để tự chữa bệnh cho mình?
Mọi chuyện đều phải thực hiện thông qua thổi khèn bạch đàn và
phải thổi ở chỗ mà đối phương nghe thấy. Tôi muốn biết mọi
chuyện sẽ diễn biến tiếp tục như thế nào vì vậy tôi vẫn lặng lẽ lén
đi theo ông trên con đường đầy bụi bậm. Tôi đuổi kịp ông lúc ông
ngồi nghỉ dưới gốc cây bạch đàn cổ thụ. Ông cười rất hể hả và tự
nói gì đó. Rõ ràng ông coi việc này như một thắng lợi to lớn của
mình. Ông nói:
- Lão ta sẽ bị mệt mỏi, đau đớn, cái chân đau sẽ cản trở hắn
một thời gian.
Hình như việc tôi đi theo ông không làm ông bận tâm, bực
bội. Thậm chí ông còn tỏ ra vui vẻ, hớn hở vì có người để khoe
khoang về thành tích của mình. Tôi hỏi ông:
- Chỗ bong gân của ông thế nào rồi? Tại sao ông Foxy bây giờ
lại bị bong gân, lúc nãy ông ấy có bị đâu?
Ông nhìn tôi một lát rồi nói:
- Được, ta sẽ nói cho cháu biết. Dù sao cháu cũng là người
ruột thịt. Vấn đề là ở cái cây bạch đàn cổ thụ mọc xoắn lại với
nhau này này. Khi cháu lấy lá của nó và thổi bài "Click go the
Shers" thì mọi bệnh tật đau đớn ở người cháu sẽ chạy sang kẻ đã
nghe bản nhạc. Nhưng mọi chuyện chỉ hiệu nghiệm khi dùng đúng
lá bạch đàn ở cây này và phải chơi đúng khúc nhạc này. Mọi
chuyện dường như có vẻ hoang đường, không thể tin được. Nhưng
rõ ràng là tôi đã chứng kiến tận mắt mà. Tôi lại hỏi ông:
- Thế tại sao cứ phải đúng lá cây bạch đàn cổ thụ mọc xoắn
lại với nhau này?
Ông nói:
- Ta cũng không biết nữa. Ta cũng đã làm thử với hàng trăm
cây bạch đàn khác nhưng không hiệu nghiệm. Ta chỉ thấy có kết
quả khi dùng đúng lá của cây bạch đàn đó.
Ông hắt hơi rất to, khạc một bãi tướng ra đường. Mũi ông
vẫn đỏ và nước mắt ông vẫn trào ra. Tôi lại hỏi:
- Thế tại sao ông vẫn bị cảm cúm? Tại sao ông Foxy không bị
nhiễm lại bệnh này khi ông truyền cho ông ấy bệnh bong gân?
Ông tôi giảng giải:
- Không thể trả lại căn bệnh mà người ta đã gây cho mình.
Chỉ có thể truyền căn bệnh một lần sang người khác. Đã bị rồi
đành phải gánh chịu. Giờ ông đành phải chờ cho bệnh cảm cúm
này qua đi và lão Foxy cũng không thể trả lại ông bệnh bong gân.
Lão cũng phải kiên trì gánh chịu cho đến lúc khỏi đau chân.
Ông móc cái lá bạch đàn để trong túi và quẳng đi. Tôi nhặt
cái lá lên và tìm cách bắt nó thổi nhạc, nhưng tôi không tài nào
làm được. Cái lá không hề phát ra một âm thanh nhỏ nhoi nào.
Ông bảo:
- Cháu đừng cố thổi làm gì. Không được đâu. Mỗi cái lá chỉ
dùng được đúng một lần.
Tôi nói với ông:
- Cháu chưa bao giờ chứng kiến một việc làm đê tiện như thế
này. Tại sao người ta có thể thích thú khi cố tình truyền bệnh cho
người khác? Việc này đã diễn ra bao nhiêu lần rồi hả ông?
Ông tôi nói:
- Hơn sáu mươi năm rồi cháu ạ. Nhưng lỗi không phải do
ông. Lão Foxy là người đầu tiên truyền bệnh sởi sang ông hồi còn
đi học. Nhưng chẳng bao lâu sau ông phát hiện được việc này thế
là ông truyền bệnh đau răng sang cho lão. Mọi chuyện bắt đầu
như thế và kéo dài cho tới tận hôm nay...
Ông tôi bỗng ngưng bặt. Ông hít khìn khịt làn gió nóng thổi
từ hướng bắc tới. Ông hét lên:
- Có mùi khét, ông ngửi thấy mùi khói.
Ông nhảy vọt ra đường và gọi tôi:
- Nhanh lên cháu, nhanh chân lên. Cháy rừng đấy, phải chạy
thật nhanh về nhà thôi.
Chúng tôi chạy kịp về tới nhà. Ngọn lửa tàn ác đã tràn qua
đỉnh núi lan sang đám cỏ khô và loang ra rất nhanh. Lửa đã tới
sát ngôi nhà chúng tôi. Khói đen dầy đặc bốc lên cuồn cuộn. Ông
tôi hét lên:
- Leo lên mái nhanh lên, nút ống nước lại, đổ đầy nước mưa
vào máng đi. Ông sẽ đóng kín tất cả các cửa nhà mình lại.
Ông nhanh nhẹn đóng cửa sổ và cửa ra vào. Sau đó ông khởi
động máy phát điện xách tay và dùng ống hút nước trong bể phun
đẫm toàn bộ khu nhà. Ngôi nhà chúng tôi chẳng mấy chốc bị lửa
bao vây bốn bề, khói và tàn lửa bốc lên lan ra khắp nơi. Phía trước
và sau ngôi nhà đã có một loạt đám cháy nhỏ. Cửa sau bắt lửa. Tôi
vội lấy ngay một bao tải ướt sũng nước và đập lấy đập để nhưng
tôi bị tuột mất cái bao. Ông tôi không giúp gì được cho tôi vì ông
cũng đang phải chống chọi với ngọn lửa ở hiên đàng trước. Tôi cảm
thấy không còn hy vọng gì nữa. Tôi không tài nào ngăn được ngọn
lửa đang lan nhanh ở cửa sau và chỉ trong chốc lát cả ngôi nhà sẽ
thành một biển lửa. Bỗng nhiên một chiếc ô tô cổ lỗ sĩ lao qua cổng
rồi phanh kít lại, bụi cuốn lên mù mịt. Ông Foxy. Ông vọt ra khỏi
chiếc ô tô, đeo trên lưng chiếc bình chống cháy và chạy vội ra phía
cửa sau. Ngọn lửa bị dập tắt trong khoảnh khắc. Ông lại chạy
nhanh ra phía trước và giúp ông tôi dập tắt ngọn lửa đang bùng
lên ở hiên nhà. Cả ba chúng tôi sát cánh bên nhau chống chọi với
ngọn lửa hung dữ suốt hai tiếng đồng hồ liền cho đến lúc lửa bị
dập tắt hoàn toàn. Chúng tôi nhìn ngôi nhà thoát cháy trụi nhờ sự
giúp đỡ của ông Foxy. Xung quanh chỗ chúng tôi đứng đầy tro
than và những bụi cây bị cháy nham nhở, đen thui. Ngôi nhà
không bị cháy đứng sừng sững giữa một bãi rộng bị cháy trụi đen
ngòm còn âm ỉ khói.
Ông tôi nhìn kẻ cựu thù đi cà nhắc. Ông chìa tay và nói:
- Cám ơn ông bạn. Tôi cám ơn ông rất nhiều.
Ông Foxy lưỡng lự giây lát rồi lắc mạnh bàn tay ông nội tôi.
- Không có gì bác McFuddy ạ. Tôi cũng sẽ làm như thế ngay
cả với những con chuột túi.
Ông tôi cười:
- Nào mời bác vào nhà, bác xứng đáng thưởng thức một chầu
bia. Hai ông bước vào bếp. Ông tôi mở hai chai bia và một chai
nước quả cho tôi. Hai ông vui vẻ kể chuyện tiếu lâm, về những việc
đã làm vào những giây phút cứu ngôi nhà khỏi bị bốc cháy. Một
lúc lâu tôi nói:
- Cháu rất mừng là hai ông cuối cùng đã trở thành bạn bè
của nhau. Giờ thì cả hai ông không còn phải tới cây bạch đàn cổ
thụ nữa.
Cả hai ông vọt dậy như dẫm phải gai. Hai cụ cùng đồng
thanh:
- Thôi chết rồi, cây bạch đàn cổ thụ!
Cả hai chạy vội ra ô tô, tôi cũng nhảy vọt lên thùng xe, sau
đó xe chạy ngoằn ngoèo xuống dốc. Tôi nắm chặt thành xe buồn bã
nhìn những rặng cây trơ trụi hai bên đường, nhiều cây đã bị cháy
thành than. Xe phanh kít. Chúng tôi nhảy vội xuống. Quả thật tôi
rất mừng thấy cây bạch đàn cổ thụ đã bị cháy trụi thùi lụi trông
như một bộ xương. Lá cây đã bị cháy hết, ở tít trên cao chỉ còn lại
một cái lá tươi xanh duy nhất giữa trời. Chúng tôi đứng chết lặng.
Ông Foxy vội ra xe và phóng xuống dưới dốc. Ông tôi nói rất to:
- Lão ta đi lấy thang đấy. Nào, cháu lại đây, hãy giúp ông
một tay, chúng ta phải hái cái lá duy nhất này trước khi lão tới.
Nào, hãy giúp ông đi lấy thang.
Tôi nói với ông nội:
- Không, cháu không làm đâu. Cháu ước sao tất cả lá đều bị
cháy trụi. Cố tình truyền bệnh cho người khác là một điều ghê
tởm, cháu không làm đâu. Ông muốn thì làm một mình.
Ông tôi gầm lên:
- Mày là đồ phản bội!
Và vội vàng chạy đi. Tôi ngồi một mình giữa một rừng cây bị
cháy nham nhở đen thui và liếc mắt nhìn cái lá. Nó ở tít trên cao,
tôi không thể leo lên được vì thân cây như cục than hồng nóng
bỏng. Tôi đành ngồi im chờ đợi. Một lúc lâu sau bỗng nhiên xảy ra
một việc. Cái lá đơn độc tít trên tầng cao bị rụng liệng đi liệng lại
rồi rơi xuống đất ngay dưới chân tôi. Tôi nhặt chiếc lá lên và đút
vào túi.
May là vừa kịp đúng lúc cả ông Foxy và ông tôi tất tả mỗi
người vác một cái thang hộc tốc đi tới. Xe ô tô của ông Foxy có lẽ vì
nóng máy nên không nổ, hai cụ đành è cổ vác thang bước đi loạng
choạng. Hai ông há hốc mồm, vứt thang xuống đất và tranh nhau
bới tro than tìm chiếc lá. Ông Foxy rên rỉ:
- Trời ơi, chiếc lá cuối cùng, cuối cùng...
Ông nội tôi mếu máo:
- Mất rồi, thế là mất rồi.
Hai ông lại cào bới một lần nữa nhưng vô ích. Chỉ một lát
sau các cụ bị đen nhẻm đen nhèm trông như hai con ma thường
tung hoành trong khu Rừng Đen. Sau đó các cụ tìm kiếm uể oải
hơn. Ông tôi đảo mắt nhìn về phía tôi và bỗng nhiên reo lên:
- Phải rồi, thằng nhóc, chính mày đã lấy cái lá, đưa đây cho
ta!
Cả hai đều chìa tay và đi chậm chạp về phía tôi. Trên khuôn
mặt đen đúa của hai cụ hiện lên những ánh mắt dữ dằn hung tợn.
Tôi cảm thấy mình như một chú thỏ non bị hai con Đingô đói khát
dồn tới ngõ cụt. Họ sẽ nhào vào tôi, xé xác tôi để dành nhau cái lá.
Tôi nhét sâu cái lá vào túi và lùi dần. Tôi phải tìm cách tống cái lá
đi, tôi không muốn để một trong hai người lại có cơ hội làm hại
nhau. Song tôi không biết cần phải làm gì. Tôi bị bao vây tứ phía.
Một người đi từ phía trên núi xuống người kia đi từ bãi cỏ còn
nóng hổi lên.
Lúc đó tôi bỗng nhớ tới điều ông tôi nói là mỗi lá chỉ nổi nhạc
được một lần và sau đó thì câm bặt. Tôi quyết định phải nhanh
chóng phá sức mạnh của nó. Tôi lấy lá ra và thổi, nhưng chẳng
nghe thấy gì cả. Ngay cả đến một tiếng bíp nhỏ cũng không. Tôi
thử lại một lần nữa và lần này nghe những tiếng "lụp bụp" chẳng
ra đâu vào đâu nhưng dù sao vẫn nhận ra âm điệu bản nhạc
"Click go the Shers". Cả ông Foxy và ông tôi vội vàng nằm lăn ra
đất, hai tay bịt tai, lăn lộn la hét rất giận dữ. Sau đó hai ông thò
tay sờ mũi. Tôi cũng làm như thế. Mũi tôi đã trở lại bình thường,
teo lại chỉ còn cm. Nhưng hai ông Foxy và McFuddy đều có mũi
rất dài. Cả hai đều mang cái mũi dài ngoẵng, dị dạng, méo mó của
tôi còn mũi tôi thì trở lại bình thường. Ông tôi phì cười nhìn mũi
ông Foxy rồi cười lăn cười lộn, nước mắt nước mũi ông trào ra làm
thành những vệt nhỏ trên khuôn mặt đen đúa đầy tro bụi. Sau đó
đến lượt ông Foxy cười lăn lộn vì cái mũi của ông tôi. Sau đó cả ba
chúng tôi cùng cười như nắc nẻ, ôm bụng mà cười, lăn kềnh cả ra
bãi cỏ xạm đen đầy tro bụi.
Hình như cả ông tôi lẫn ông Foxy không chú ý lắm tới những
cái mũi dài ngoẵng của họ. Hai người đều biết cái lá cuối cùng đã
bị mất và họ lại trở thành bạn bè của nhau. Tôi nói hai ông có thể
đi giải phẫu cho mũi ngắn lại nhưng họ thấy không cần. Câu duy
nhất mà ông tôi nói với tôi là:
- ở tuổi ông, ông không cần làm hài lòng bọn con gái.
Ngày hôm sau tôi đi tàu hỏa về nhà. Giờ tôi lại muốn đến
trường. Tôi đã có một cái mũi bình thường. Quả chuyến đi nghỉ hè
của tôi có ngắn ngủi thật nhưng lại là một chuyến đi chữa bệnh
rất thành công. Trong toa tàu tôi lại cùng ngồi với những người đã
cùng đi với tôi hôm nọ. Họ lại liếc mắt nhìn tôi và suy nghĩ không
biết tôi có phải là anh chàng buồn cười hôm nọ không. Ông bảo vệ
Rừng quốc gia là người không mảy may quan tâm đến tôi. Ông
nhìn đăm đăm những cánh rừng bị cháy đen qua cửa kính toa tàu.
Ngoài tôi ra không ôi nghe thấy điều ông nói. Song tôi chẳng yên
tâm chút nào khi nghe thấy ông làu bàu như để nói với riêng
mình:
- Cũng không đến nỗi nào. Sang năm vào dịp này cánh rừng
sẽ lại xanh tươi. Bạch đàn thường vẫn đâm chồi sau các vụ cháy
rừng như thế này.
CáI NƠ HồNG
Tôi lại ngồi trước phòng làm việc của thầy hiệu trưởng. Thế
mà tôi mới đến học ở trường này được đúng hai ngày! Hai ngày,
hai chuyện rắc rối! Hôm qua vô cớ tôi bị ăn đòn. Tôi nói thật đấy,
hoàn toàn vô cớ. Hôm qua, tôi trông thấy lão đeo chiếc nơ đi ngược
đường về phía mình. Cái nơ trông như một con bướm hồng to
tướng đang bổ nhào vào cổ lão. Tôi chưa bao giờ trông thấy một cái
nơ xấu xí đến thế. Lão ta có vẻ bực dọc hỏi:
- Này, mày làm gì mà giương mắt nhìn trừng trừng người ta
như thế?
Tôi đáp:
- Cái nơ của ông trông buồn cười lắm. Y như là loài dơi màu
hồng vậy. Trông nó buồn cười lắm, thật đấy.
Nào có ai nói cho tôi biết cái lão dị hợm đó lại chính là thầy
hiệu trưởng Old splodge đâu kia chứ. Ông ta không hề thấy
chuyện đó có gì đáng cười cả và giáng cho tôi một bợp tai. Cuộc đời
đôi khi không công bằng một chút nào cả. Bây giờ tôi lại gặp
chuyện lôi thôi nữa: Tôi ngồi chờ trước văn phòng thầy hiệu
trưởng. ít ra thì ở đây cũng có một cái gì đó xinh đẹp để ngắm
nghía. Cô thư ký của thầy hiệu trưởng Old splodge ngồi ở phòng
ngoài và đang đánh máy mấy bức thư. Cô tên là Newham và phải
nói cô là một người đẹp cực kỳ. Bọn con trai ở trường đứa nào cũng
mê cô. Tôi ước ao cô ấy là bạn gái của mình, nhưng cô thư ký đã
tuổi còn tôi mới , vì thế không thể hy vọng gì nhiều. Song dù sao
thì Newham cũng chưa có bạn trai và người ta vẫn có thể hy vọng.
Newham nhìn tôi và mỉm cười. Tôi cảm thấy mặt mình đỏ bừng
lên. Cô hỏi tôi giọng ngọt lịm:
- Tại sao cậu lại nhuộm tóc màu vàng óng như vậy? Cậu
không biết nội quy nhà trường không cho phép con trai nhuộm tóc
hay sao?
Đúng lúc tôi đang vắt óc suy nghĩ tìm một câu trả lời thật
gây ấn tượng và chưa mở được mồm thì đã thấy thầy hiệu trưởng
thò đầu ra và nói:
- Nào, cậu cả, vào đi!
Tôi bước vào phòng và ngồi xuống. Thầy Old splodge cất
tiếng:
- Tại sao cậu lại nhuộm tóc? Muốn gây sự chú ý đối với mọi
người hả?
Thầy là người đã có tuổi và cắm cảu khó tính. Sang năm
thầy đến tuổi về hưu nhưng nghe đâu thầy chưa muốn về. Tôi
thấy thầy vẫn đeo cái nơ màu hồng. Thầy bao giờ cũng đeo cái nơ
đó, có lẽ không có nó thì thầy không thể sống được. Tôi cố gắng để
không nhìn cái nơ trong khi trả lời thầy:
- Thưa thầy em có nhuộm tóc đâu ạ.
Thầy hiệu trưởng dõng dạc:
- Hôm qua khi em hân hạnh được chứng kiến nét chữ tuyệt
đẹp ở tay tôi, tôi thấy em có mái tóc đen kia mà. Chẳng lẽ tôi
nhầm?
Tôi đáp:
- Thưa thầy, không ạ.
Thầy nói:
- Vậy thì cậu hãy kể đi, tại sao tóc của cậu hôm nay lại có
màu sáng?
Tôi trông thấy những mạch máu đỏ li ti gợn lên trên cái đầu
hói nhẵn thín của thầy và trộm nghĩ đây là một dấu hiệu xấu. Tôi
nói:
- Thưa thầy, đấy là một câu chuyện dài.
Thầy bảo:
- Kể cho tôi nghe cái câu chuyện dài đó, mà hãy liệu hồn,
đừng có kể chuyện ẩm ương!
Tôi nhìn thẳng vào hai con mắt của thầy và kể.
Tôi là người rụt rè, hay sợ sệt. Tôi rất nhậy cảm. Tôi dễ giật
mình, sợ bóng tối, sợ nghe chuyện ma quái. Thậm chí tôi sợ cả
những con ma nhỏ bé trên con đường rừng. Hôm qua, sau khi bị
bợp tai, tôi đi tàu về nhà, trong toa của tôi có một lô những nhân
vật đáng ngờ. Kia là một bà già phải chống gậy, tóc bạc trắng và
bà đeo một cái kính gọng vàng. Bà luôn nhoài mình về phía trước
và hầu như không đi lại được. Ngồi cạnh tôi là một tay gầy, xương
xương và trông có vẻ rất khinh bạc, phớt đời. Hắn làm ra vẻ mình
là người chỉ cần vài ba xu cũng sẵn sàng cứa cổ người khác. Cạnh
hắn ta là một cậu bé trạc tuổi tôi, cậu ta phì phèo điếu thuốc. Khi
chưa đầy tuổi thì không được hút thuốc. Chính vì thế nên tôi
mới chưa hút thuốc. Tàu chạy chừng năm phút thì người soát vé
thò đầu qua cánh cửa. Ông ta trông thấy ngay cậu bé hút thuốc.
Ông ta quát:
- Tắt ngay thuốc đi, cậu còn quá bé, chưa đến tuổi hút đâu.
Cậu ta không tắt thuốc, lấy tay với cái hộp trông như cái đài
bán dẫn và vặn nút. Bỗng tôi thấy cậu ta lớn dần lên. Hắn thay
đổi từ từ cho đến lúc trông hắn như người tuổi. Hắn nói với
người soát vé:
- Thế nào, ông hài lòng chưa? Giờ thì tôi đủ tuổi hút thuốc rồi
chứ?
Người soát vé sợ quá hét toáng lên và ù té chạy. Còn tất cả
chúng tôi ngồi yên trong toa há hốc mồm nhìn cậu bé mà lúc này
đã biến thành một người đàn ông chững chạc. Bà già ngồi bên
cạnh run rẩy hỏi vẻ hết sức ngạc nhiên:
- Này, cháu làm thế nào mà được như vậy?
Người đàn ông - trẻ con trả lời:
- Rất đơn giản.
Đúng lúc đó tàu dừng bánh, ônh ta đứng lên và nói:
- Đây, nếu bà muốn thì tôi cho bà.
Nói xong ông ta quẳng chiếc đài bán dẫn lên lòng bà ta và
xuống tàu. Bọn chúng tôi nhìn chằm chằm chiếc hộp đó. Nó có một
cái nút có thể chuyển động trong một cái rãnh, phía bên phải có
chữ già đi, phía bên trái có chữ trẻ lại. Bên trên cái hộp có dòng
chữ: Máy điều chỉnh tuổi già. Lão láu cá ngồi cạnh tôi vội chồm về
phía cái máy nhưng bà già kế đó còn nhanh tay hơn. Bà ta hét
tướng lên: "Không, không" rồi đẩy mạnh hắn ra và nhanh như cắt
bà ta đẩy cái nút vài xăng ti mét về phía trẻ ra. Ngay tức khắc bà
lão trẻ hẳn ra và sau khoảng một phút bà hóa thành một cô gái chỉ
độ tuổi. Đúng, bà cụ chỉ khoảng tuổi, có thể nói bà khá xinh
xắn, chỉ có điều cặp kính lão và bộ quần áo cổ lỗ thật không hợp
chút nào. Bà có dáng dấp của một cô gái Hippie. Bà cụ hét lên
sung sướng: "Được rồi" và hất cái khăn trùm đầu xuống đất, quẳng
trả cái hộp và nhảy vọt ra khỏi toa tàu đúng vào lúc tàu chuẩn bị
rời nhà ga. Khi con tàu chạy qua chỗ bà già tôi còn nghe thấy bà
ấy nói rất rõ:
- John Mcénoe, hãy cẩn thận đấy!
- Đưa cái hộp đây!
Cái lão có bộ mặt láu cá dọa tôi và như tôi đã nói, tôi là một
kẻ nhát gan, tôi sợ ngay cả cái bóng của mình. Tôi không chịu nổi
những cảnh bạo lực hoặc rùng rợn. Vì thế tôi đã đưa cái máy điều
chỉnh tuổi già cho hắn ta. Hắn chộp cái máy và ấn vội nút tới nấc
cuối cùng về phía có chữ trẻ ra. Ngay lập tức hắn trẻ hẳn, nhưng
hắn không chỉ ở lứa tuổi mà ngồi cạnh tôi là một đứa trẻ sơ
sinh. Cạnh nó là một đống quần áo của người lớn. Hắn chỉ khoảng
một tuổi. Hắn ngước mắt nhìn tôi và cười một cách độc địa. Trông
hắn rõ ra là một đứa trẻ sơ sinh láu lỉnh. Hắn nói:
- Dad, Dad ác lắm!
Tôi bảo nó:
- Tao không phải là Dad Dad của mày. Đứa cái hộp cho tao,
nó làm mày đau đấy.
Thằng bé lắc đầu và giấu cái hộp ra đàng sau lưng. Tôi nhận
thấy hắn không chịu đưa cái hộp vì tưởng đó là đồ chơi của mình.
Tôi chưa kịp làm gì cả thì thằng bé ấn cái nút về phía bên kia và
tôi thấy một hình ảnh kinh khủng diễn ra trước mắt mình: thằng
bé mỗi lúc già đi một cách nhanh chóng. Lúc đầu nó như ở tuổi
mười sáu, rồi ba mươi, sáu mươi, tám mươi và một trăm - cuối
cùng nó bị chết. Nhưng sự thay đổi vẫn tiếp tục diễn ra. Người nó
tan rữa và cuối cùng chỉ còn lại bộ xương. Tôi sợ quá hét inh lên và
chạy ra cửa toa tàu. Nhưng tôi không mở được cửa vì bị vướng. Tôi
đạp cửa, hét lên ầm ĩ, tôi mở cửa sổ nhưng tàu chạy nhanh quá tôi
không thể vọt qua cửa sổ để nhảy ra ngoài được. Và tóc tôi trở nên
bạc trắng. Tôi phải ngồi tới phút bên cạnh một bộ xương người
ở trong toa tàu. Tim tôi đập thình thịch vì sợ hãi. Tôi chưa từng sợ
đến thế bao giờ. Vì sợ hãi, tóc tôi từ bạc trắng, sau chừng phút
lại chuyển sang màu vàng rơm. Khi tàu dừng tôi nhảy qua cửa sổ
chạy vội về nhà. Tôi nói với thầy hiệu trưởng:
- Thưa thầy, em đã kể với thầy sự thật về câu chuyện đó.
Thầy hiệu trưởng mân mê cái nơ màu hồng. Mặt ông dần
dần chuyển sang màu của cái nơ. Tôi cảm thấy ông sắp sửa nổi
trận lôi đình. Ông hét rất to:
- Thật là nhảm nhí. Mày định biến tao thành một thằng ngu
phải không? Mày tưởng rằng tao thực sự tin vào câu chuyện nhảm
nhí đó hả?
Tôi vội vàng lôi cái máy điều chỉnh tuổi già ra khỏi cặp, để nó
lên bàn và nói:
- Em có thể chứng minh đây là chuyện thật hoàn toàn.
Thầy hiệu trưởng cầm cái hộp, nhìn nó chằm chằm. Rồi thầy
nói với tôi giọng lạc hẳn đi:
- Cậu có thể về được rồi. Tôi sẽ gửi cho bố mẹ cậu một bức
thư và thông báo cậu bị đuổi học vì chuyên kể những chuyện bịa
đặt.
Tôi buồn bã đi về lớp. Bố mẹ tôi sẽ giết tôi nếu như tôi bị đuổi
học. Hai tuần sau đó tôi vẫn lo ngay ngáy. Nhưng không có chuyện
gì xảy ra cả. Sướng quá, thế là tôi thoát nạn rồi! Không, thực ra
cũng không đúng hoàn toàn. Không phải không có chuyện gì xảy
ra cả. Có hai chuyện đã xảy ra, một chuyện hơi tốt và một chuyện
hơi xấu. Cái tốt là bỗng nhiên ông hiệu trưởng splodge biến mất,
không ai trông thấy ông ở đâu cả. Còn cái hơi xấu là cô Newham
đã có bạn trai. anh ta khoảng tuổi, trông khá bảnh trai. Nhưng
mà lạ thật. Tại sao cô ấy lại chơi với anh chàng có cái nơ màu hồng
nhỉ ?
BÊ Xí BọC NHUNG
Ông Simpkin quyết định sẽ đi khỏi ngôi nhà này. Nhưng
phải giờ đồng hồ nữa kia. Phải chờ cho đến lúc trời tối đã, ông
sẽ nhón chân xuống cầu thang, nhất định lão Gobble sẽ không biết
gì cả. Vào giờ ấy thì hắn đã ngủ từ lâu rồi và lại ngáy ầm ầm như
mọi khi. ấm đun nước sôi réo lên. Ông Simpkin vội vã vào bếp pha
cà phê cho Gobble theo kiểu mà hắn vẫn thích. Cho bốn thìa
đường, kem sữa, không cho sữa và khuấy năm lần rưỡi. Phải đúng
y như thế, không hơn, không kém. Bỗng lát bánh mỳ nướng bật ra
khỏi lò. Ông Simpkin vội vã quết bơ lên lát bánh, ông vội lắm vì sợ
bánh bị nguội. Gobble rất ghét ăn bánh nguội. Hắn là người rất
khó tính trong chuyện ăn uống. Trứng cũng đã luộc xong. Chín
quả cả thảy. Mỗi quả đều được trùm một cái mũ len tí xíu để giữ
ấm. Tiếng quát của lão Gobble ở trong phòng vọng ra:
- Nhanh lên, thằng ngốc kia. Lão rất ghét phải chờ đợi bữa
điểm tâm.
Ông Simpkin hai tay run bần bật, hấp tấp đi vào buồng ngủ
của người anh:
- Xong rồi, tất cả đều đúng như mong muốn.
Gobble tìm cách đứng dậy. Lão là người to béo phục phịch,
cái giường của lão oằn xuống, kêu răng rắc:
- Đồ ngốc, còn đứng ngây ra nữa, giúp tao một tay!
Ông Simpkin đặt vội cái khay lên sàn, sau đó tìm cách đỡ lão
béo dậy, song ông không làm nổi, tay ông gầy guộc khẳng khiu, cơ
bắp thì nhão nhoẹt. Mặt ông đỏ bừng khi khom hẳn người xuống
để vực lão ônh béo phì dậy nhưng không được. Lão Gobble gắt
gỏng, bực tức xô em lão ra:
- Mày là đồ vô tích sự, hoàn toàn vô tích sự. - rồi lão trầy
trật, vất vả đứng dậy.
Lão Simpkin run rẩy đặt khay thức ăn lên giường và nói:
- Đây là lát bánh mỳ phết mứt mận và bốn lát phết mứt
cam, những món mà anh thích nhất đấy.
Ông mỉm cười nhìn ông anh, nhưng nụ cười bỗng tắt ngấm.
Lão Gobble lồng lên:
- Đồ ngu, tao bảo mày làm lát phết mứt cam và bốn lát
mứt mận kia mà!
Lão cầm một lát bánh quẳng toẹt vào tường. Lát bánh bám
vào tường một lúc rồi trượt dần, trượt dần làm thành một vệt mứt
dài. Lão lại hét tướng lên:
- Dọn đi, rồi mang báo lên đây cho tao. Không bao giờ mày
chịu nhớ cái gì cả.
Ông Simpkin vội vã ra khỏi phòng để lấy giẻ và nói lí nhí:
- Vâng, vâng, anh Ôrnold, tôi sẽ làm ngay.
Lão Gobble không phải tên là Gobble mà là Ôrnold, nhưng
trong thâm tâm, Simpkin bao giờ cũng gọi ông anh là Gobble - con
cừu tham lam. Song ông ta là người nhút nhát nên không bao giờ
dám nói to cái tên ấy. Nhưng nghĩ trong đầu như thế cũng đủ làm
ông thấy dễ chịu. Ông cười thầm, giá lão ta biết, lão ta sẽ phát
điên lên mất.
Ông Simpkin mở cửa buồng và đi xuống tầng dưới lấy báo.
Cầu thang có cả thảy bậc. Ông phải đi thật nhanh. Vì ông còn
phải chuẩn bị bữa ăn sáng cho mình rồi còn phải đi làm. Ông
không muốn đi làm muộn. Trong khi lão Gobble nằm dài trên
giường đọc báo, ông Simpkin tất bật chuẩn bị bữa sáng cho mình.
Ông không được ăn trứng, hay bánh mỳ hoặc cháo kiều mạch. Ông
lấy hộp mắt cừu trong tủ lạnh và mở ra. Tuần trước ông đã mua
nhầm hộp mắt cừu mà ông cứ tưởng là hộp sò huyết. Lão anh tức
điên lên ra lệnh:
- Mày đã mua thì mày phải hốc cho hết cái của ấy!
Ông Simpkin mở hộp, đổ ộc những con mắt nhờ nhờ, ươn ướt
dính vào nhau ra đĩa. Dường như những con mắt đó trừng trừng
nhìn ông và bốc ra một thứ mùi khó chịu. Ông Simpkin đói bụng
nhưng không đói đến mức không thể chịu đựng nổi. Ông không thể
nuốt trôi cái của này vì thế ông lại cất cái hộp vào tủ lạnh. Ông gọi
với vào buồng:
- Anh Gobble... à quên, tôi muốn nói là ônh Ôrnold, tạm biệt,
tôi đi làm đây!
Lão béo nói vọng ra:
- Hôm nay là ngày lương đấy. Hết giờ thì về ngay. Đừng có
mở phong bì, tao không muốn mày phung phí khoản tiền lương
của chúng ta cho những thứ vớ vẩn đâu.
Ông Simpkin nói lí nhí:
- Được rồi, anh Ôrnold, tôi nhớ rồi. Ông đi làm. Lão Gobble
chưa hề đi làm một ngày nào. Lão chỉ nằm ườn trên giường, ăn
sôcôla luôn mồm và xem truyền hình. Trong khi đó thì chú em tội
nghiệp phải làm việc suốt ngày ở nhà máy phân bón. Cứ cuối tuần
ông Simpkin lại đưa cho ông anh phong bì đựng số tiền lương. Gặp
lúc vui vẻ thỉnh thoảng lão cũng rút vài ba đôla cho người em. Ông
Simpkin phải cố gắng lắm mới làm xong phần việc của mình. Suốt
ngày ông phải đóng phân vào bao, một công việc thật nặng nhọc.
Ông thấy đói cồn cào, bụng sôi òng ọc. Buổi trưa ông hoàn toàn
không ăn một chút gì. Nếu chưa ăn hết cái món mắt cừu luộc thì
lão anh không cho ông tiền để mua thức ăn khác. Ông Simpkin là
người rất nhút nhát, ông không dám đổ cái thứ kinh tởm đó vì sợ
lão anh bắt được. Ông quản đốc Tom Richards hỏi:
- Cậu không ăn gì à?
- Tôi không đói! - ông Simpkin trả lời, mắt cụp xuống, liếm
môi, liếc trộm ông quản đốc ăn ngon lành xuất bánh của mình.
Hết ngày ông Simpkin nhận tiền lương và lững thững đi về nhà.
Lão Gobble sẽ cất khoản tiền này vào túi và tối nay lão sẽ buộc
Simpkin phải ăn hết món mắt cừu, trong khi đó ông phải chứng
kiến lão anh béo ị ngốn sạch sành sanh những chiếc bánh ga tô và
bánh kem ngon lành. Trời mưa lâm thâm. Ông Simpkin bước đi
chậm chạp và suy nghĩ kế hoạch trốn đi đêm nay. Nhưng tại sao
lại phải chờ tới tận đêm? Tại sao không trốn ngay từ bây giờ cùng
với khoản tiền? Dù sao đây cũng là tiền của mình kia mà. Mình có
thể bắt đầu một cuộc đời mới, tìm chỗ làm việc mới và lão Gobble
tham lam sẽ không thể nào tìm thấy. Mình có thể ngủ trong một
quán trọ. Lão Gobble để toàn bộ khoản tiền mà ông Simpkin kiếm
được, có lẽ tới hàng nghìn đôla, trong một cái hộp và giấu dưới đệm
giường. Ông Simpkin ước ao giá có một phần khoản tiền đó, song
ông cũng thừa biết chẳng bao giờ lão anh tham lam chia cho mình.
Những người đi làm vội vã rảo bước về nhà. Đường phố đông
đúc, náo nhiệt. Trời rất lạnh nhưng ông Simpkin lại cười thầm
phấn khởi. Ông xé túi lương và nhìn những đồng đôla nằm gọn
ghẽ ngay ngắn trong túi. Toàn bộ khoản tiền này là của ông. Ông
cảm thấy lâng lâng sung sướng khi tự tay mở phong bì đựng tiền
lương của bản thân mình. Nhất định mình phải trốn. Mình sẽ tới
một quán trọ và thuê buồng tại đấy. Mình sẽ gọi một bữa ăn thịnh
soạn. Còn khoản mắt cừu để dành cho lão Gobble, nếu lão muốn.
Ông Simpkin cố giấu nụ cười khoái trá. Một quán trọ. Phải, mình
sẽ ở trọ, nhưng trước hết mình phải tìm một nhà vệ sinh. Do hồi
hộp, lo lắng ông Simpkin cảm thấy buồn buồn trong bụng, ông
phải kiếm nhà vệ sinh. Gần đây có công viên. Ông chạy vội trên
bãi cỏ ướt át tới một chỗ cây cối khá rậm rạp. Trời đã nhá nhem
tối. Nhà vệ sinh ở chỗ nào nhỉ? Rõ ràng gần đây có nhà vệ sinh cơ
mà! ô, kia rồi, sau rặng cây là một ngôi nhà xây bằng đá tảng,
trông chẳng khác gì nhà tù. Ông Simpkin nhìn đồng hồ, còn hai
phút nữa là giờ. Ông nhìn thấy tấm biển với dòng chữ: "Nam" và
chạy vội vào. Trên tường đầy những dòng chữ nguệch ngoạc.
Thông thường đó là những dòng chữ với nội dung tục tĩu, thô
thiển. Ông Simpkin tìm cách không để mắt tới những dòng chữ dơ
bẩn đó. Nhưng ông không làm nổi, ngay trên đầu ông có dòng chữ:
. Ngôi nhà này sẽ đóng cửa lúc năm giờ. Lúc đó có tiếng loảng
xoảng khá to, sau đó là tiếng bấm khóa. Mới đầu ông Simpkin
cũng chưa có phản ứng gì. Sau đó ông mới giật mình, ai đó đã khóa
cổng. Ông chạy vội chạy vàng ra chỗ cổng sắt. Một dây xích cuộn
mấy vòng với một cái khóa to tướng. Cổng đã bị khóa. Ông kêu lên
khe khẽ:
- Còn tôi ở trong này mà!
Ông Simpkin thấy ngượng không dám gọi to. Ông nghe rõ
tiếng bước chân mỗi lúc một xa, ông hớt hải rụt rè nói:
- Xin lỗi các vị, còn tôi ở trong này mà!
Tiếng chân xa dần rồi tắt hẳn. Không có tiếng trả lời. Ông
Simpkin bị nhốt một mình trơ trọi trong nhà vệ sinh công cộng vào
một đêm lạnh giá và ướt át. Ông lại lấy hết sức can đảm hét to:
- Cứu tôi với, cứu tôi với!
Khu công viên chìm trong bóng tối tĩnh mịch. Nhà vệ sinh im
phăng phắc. Ông nhìn lên trần chỉ thấy một ngọn đèn nhỏ le lói.
Không có lối thoát. Ông đã bị nhốt trong nhà xí.
Càng về đêm càng lạnh. Ông run rẩy khoác chặt chiếc măng
tô rồi lại gọi to một lần nữa:
- Cứu tôi với, cứu tôi với.
Mưa rơi nhè nhẹ. Không có tiếng trả lời. Ông biết, từ giờ tới
sáng ngày mai sẽ chẳng còn có ôi tới đây. Ông đảo mắt tìm một chỗ
ngồi. Nền nhà ướt át, lạnh lẽo. Bụng đói cồn cào. Ông Simpkin bắt
đầu chú ý hơn tới những dòng chữ nguệch ngoạc, bỗng ông trông
thấy một dòng chữ có đánh số. . Vị trí tốt nhất trong nhà. Một
mũi tên chĩa về phía ca bin. Một nụ cười thoáng hiện lên trên mặt
ông. Ai đó đã đùa tếu. Ông đi theo mũi tên tới ca bin. Ông bị bất
ngờ đến mức không thở được nữa. Bệ xí bọc nhung! Cái chậu óng
ánh như dát vàng, nút bấm nước bằng kim cương, nơi này giống
ngai vàng nhiều hơn là bệ xí. Điên thật! Tại sao người ta lại bố trí
một chỗ ngồi tuyệt vời như thế này ở đây? Bọn trộm cắp, lưu manh
có thể phá tan hoang tất cả trong khoảnh khắc. Ông lại nhìn kỹ
cái ca bin và phát hiện dòng chữ: . Không đứng. Bỗng ông
Simpkin thấy chân mỏi nhừ và muốn ngồi nghỉ. Hai chân buộc ông
phải cất bước. Ông đi về phía bệ xí bọc nhung và ngồi xuống. Ông
muốn đứng, nhưng không tài nào đứng được. ít ra ông cũng có cảm
giác muốn đứng nhưng hai chân ông như muốn khuỵu xuống. Có
lẽ ông đã quá mệt mỏi. Phải, có lẽ là như vậy. Trong góc có tiếng
động sột soạt. Một cái bóng cựa quậy, chạy vút qua rồi lại quay vù
trở lại. Ông Simpkin sợ rúm người, tim ông muốn ngừng đập người
nổi gai ốc. Chuột. Ông rất sợ chuột. Ông co chân lên và mồm "xuỵt,
xuỵt" liên hồi. Ông nói sẽ:
- Cút đi, chúng mày cút đi. Lũ chuột chui tọt vào hang.
Giây phút nặng nề trôi qua. Ông Simpkin vẫn co ro ngồi,
mắt nhìn chằm chằm vào chỗ lũ chuột sục sạo lúc nãy. Mãi sau
ông mới nhận thấy còn một loạt dòng chữ có đánh số. Trên vỏ hộp
đựng giấy vệ sinh nguệch ngoạc dòng chữ: . Rock'n'roll. Lại trò
đùa gì nữa không biết. Ông dán mắt vào cái hộp đựng giấy vệ sinh.
Nó bắt đầu cựa quậy. Ông Simpkin tin rằng cái hộp đó đang ngọ
nguậy. Nó lắc la lắc lư. Trống ngực ông đập thình thình, ông sợ
lắm. Quả ở đây đang diễn ra những cái thật lạ lùng. Ông muốn
được ra khỏi nhà vệ sinh này thật nhanh. Có ôi đó đang làm trò
đùa ở đây nhưng ông không thấy có gì đáng cười cả.
Lúc này chiếc hộp đựng giấy vệ sinh bắt đầu giật giật, hết
tiến lại lùi, nhổm lên rồi sà xuống y như người nhạc công đánh
nhịp bằng chân vậy. Rõ ràng nó đang nhảy múa theo một điệu
nhạc không có âm thanh. Ông Simpkin có cảm giác như đã nghe ở
đâu đó bản nhạc này. Ông tin rằng đó là bản nhạc Rock'n'Roll đã
có từ lâu rồi. Bất thình lình cái hộp ngừng chuyển động. Mặc dù
trời lạnh nhưng ông Simpkin toát mồ hôi. Ông đang bị nhốt,
không khác gì con chuột, trong cái nhà xí điên rồ này. Ông tìm
cách khớp nối tất cả những điều đang diễn ra. Rõ ràng những điều
viết lung tung trên tường đều có một ý nghĩa nhất định. Dòng chữ
đánh số đầu tiên thông báo: "Ngôi nhà này sẽ đóng cửa lúc năm
giờ" Và quả thật nó đóng cửa chính xác tới từng phút. Song đấy
chưa phải là điều đặc biệt nhất. Điều thứ hai: "Chỗ đẹp nhất trong
nhà". Quả đúng là chỗ đẹp nhất thật, đồng thời cũng là điều lạ
lùng nhất. Sau đó là dòng chữ "Không được đứng". Lúc đó ông cảm
thấy như bị thôi thúc phải ngồi xuống. Còn cái giá treo cuộn giấy
vệ sinh "Rock'n'Roll" thì ngó ngoáy nhún nhảy theo đúng nhịp
điệu Rock'n'Roll. Thật đấy, dù bạn muốn tin hay không thì tùy.
Hay đó chỉ là những ngọn gió thoảng qua, hay là ống nước làm nó
rung lên như vậy? Ông Simpkin có cảm giác như sắp bị mất trí.
Nhưng người bị mất trí là người duy nhất không biết mình mất
trí. Còn ông, ông lại tự kiểm tra xem mình có còn là người bình
thường hay không.
Điều đó chứng tỏ ông không phải là người mất trí. Có đúng
thế không các bạn? ông nói se sẽ với mình: "Hãy bình tĩnh lại nào",
và nghe rõ tiếng vang giọng nói của chính mình trong buồng vệ
sinh lạnh lẽo. Chỉ có một cách giải thích. Ông tìm cách xua đuổi ý
nghĩ đó ra khỏi đầu và không nghĩ đến chuyện ấy nữa. Song suy
nghĩ đó cứ ám ảnh và luồn lách trong đầu ông. Những dòng chữ
ghi ở đây đều trở thành sự thật. Những điều ghi trên tường sẽ trở
thành hiện thực. Hai bàn tay ông run bần bật. Ông chạy ra cổng
túm lấy mấy song sắt lắc lấy lắc để và hét rất to:
- Cứu tôi với, cứu tôi với, cho tôi ra khỏi nơi này.
Mưa vẫn rơi, gió thổi ào ào nhưng tịnh không có tiếng trả lời.
Ông gọi to, la hét rồi giật lấy giật để cánh cửa sắt nặng nề. Nhưng
không có lấy một tiếng đáp lại trong đêm tối vắng vẻ. Simpkin
thất thểu đi về chỗ có cái bệ bọc nhung và ngồi xuống. Ông nhắm
nghiền mắt, không muốn đọc những dòng chữ trên tường. Ông
cảm thấy sợ hãi khi nghĩ tới chuyện đó. Một tiếng động phá vỡ sự
tĩnh mịch trong đêm tối. Có tiếng kẹt cửa. Ông Simpkin mở
choàng mắt. Cánh cửa buồng từ từ mở ra phía ngoài.
Bên dưới cửa có một khoảng trống tương đối rộng. Ngay phía
trên khoảng trống đó có dòng chữ nguệch ngoạc: . Cẩn thận,
người nhảy điệu Limbo. Lại một trò đùa tếu nữa. Nhưng ông
Simpkin không cười. Môi ông như cứng lại. Miệng ông khô khốc và
hai con mắt lồi hẳn lên. Tiếng nhạc từ từ nổi lên. Dường như có cả
một băng nhạc hòa tấu trong nhà xí. Một dàn nhạc vô hình. Ông
Simpkin biết rõ bản nhạc "The Limbo Rock". Đa đa đa đa. Đa đa
đa đa. Tiếng nhạc lôi cuốn, dồn dập và vô cùng sôi nổi. Bỗng nhiên
trong ngôi nhà lạnh lẽo hiện lên những bóng người đang lả lướt
khiêu vũ. Họ hiện lên từ cõi hư vô, đội những cái mũ trông hết sức
ngộ nghĩnh, họ thổi kèn, vỗ tay và tung cao chân nhảy nhót. Dòng
người nghiêng ngả, lả lướt nhích dần về phía cánh cửa. Từng
người, từng người trong đám khách đang khiêu vũ, khi ra tới cửa
đều ngả người ra phía sau chạm sát tới mặt đất và đi ra ngoài. Họ
không hề đoái hoài tới ông. Ông như một con ma không được mời
nhưng vẫn có mặt trong buổi tiệc. Ông sợ sệt ngồi co rúm, bất động
trên cái bệ bọc nhung, khi đoàn người khiêu vũ lại xuất hiện trở
lại. Một luồng gió mạnh làm cánh cửa đóng sầm lại. Ông Simpkin
sợ hãi nhắm nghiền mắt. Khi mở mắt thì những người vừa múa
nhảy lúc nãy không còn ôi. Trong phòng chỉ còn một mình ông,
không khí hoàn toàn yên ắng. Có chuyện gì ở đây thế này không
biết? Chuyện gì? Chuyện gì? Phải chăng đây là một cơn ác mộng?
Tất cả những dòng chữ có đánh dấu đều trở thành sự thật. Liệu
còn bao nhiêu dòng chữ nữa? Người ta viết không biết bao chuyện
kinh khủng ở trong cái nhà xí này. Ông ngửng mặt thì thấy dòng
chữ: . Chết đuối trong nhà xí lúc bình minh. Ông Simpkin kêu
thét lên và nhảy vọt từ bệ xí bọc nhung xuống rồi nhìn trừng trừng
vào hố nước, rên rỉ:
- Không, không thể như thế được!
Ông chạy tọt vào góc nhà tìm một chỗ càng xa hố xí càng tốt.
Ông quỳ, cúi khom người, nhắm nghiền mắt để không thấy thêm
bất kỳ một dòng chữ nào nữa. Ông cố chợp mắt để khi tỉnh dậy
quên hết những cơn ác mộng này. Nhưng ông không tài nào ngủ
được. Ông lại ngồi thu lu không động đậy. Thời gian trôi qua chậm
chạp. Bụng ông sôi òng ọc, hai chân tê cứng. Ông có cảm giác nỗi lo
sợ dường như không bao giờ hết. Nhưng cuối cùng thì những tia
nắng đầu tiên cũng rọi qua chấn song cổng ra vào. Bình minh.
Ông Simpkin run như cầy sấy, ông đưa mắt nhìn quanh tìm cái gì
đó làm vũ khí. Nhưng ông không tìm thấy cái gì cả.
Ông ngước mắt nhìn lên tường và thấy một cái bóng. Đó là
con chuột. Nó đang bò từ từ ra phía trước. Ông Simpkin càng co
rúm người hơn nữa. Điều gì sẽ xảy ra khi con chuột với những cái
răng nhọn hoắt này nhảy bổ vào ông? Tốt nhất là không nên chần
chừ. Ông đứng lên huơ huơ hai tay và luôn mồm xùy xùy đuổi. Con
chuột giật mình, nó đứng bằng hai chân sau và rơi tõm xuống lỗ hố
xí có bệ bọc nhung. Ông Simpkin lao nhanh như tên bắn về phía
hố xí và ấn vội cái nút kim cương. Nước ào xuống và cuốn phăng
con chuột đi. Ông Simpkin thở phào nhẹ nhõm. Dòng chữ thật là
linh nghiệm. Con chuột đã bị chết đuối đúng vào lúc bình minh.
Ông tự hỏi, không hiểu còn có những dòng chữ gì nữa. Ông nghĩ
không cần phải sợ nữa. Ông lướt mắt tìm những dòng chữ có đánh
số và thấy câu: . Không đâu bằng ở nhà. Bỗng có tiếng chìa khóa
mở cổng lách cách. Ông Simpkin đảo mắt nhìn quanh căn buồng
giam mình một lần nữa và biến thẳng. Ông không thấy bóng người
bảo vệ đâu cả. Ông không hề biết ôi là người mở cửa. Thây kệ. Ông
đã được tự do. Ông chạy thật nhanh qua công viên. Ông nghĩ
thầm, quả thật "không ở đâu bằng ở nhà". Nếu ông đi thật nhanh
thì có khi về tới nhà mà lão Gobble vẫn chưa dậy. Ông sẽ làm cho
hắn một bữa điểm tâm thật ngon lành và đưa cho hắn phong bì
tiền lương. May ra hắn sẽ bỏ qua cho ông tội đêm qua say sưa nên
không về nhà. Còn nếu không thì ông đành chịu hình phạt nào đó
do lão anh nghĩ ra. Dù chuyện gì đi nữa thì vẫn cứ hơn là một đêm
kinh hoàng ở trong nhà xí. Bỏ nhà trốn đi thật là một sai lầm lớn.
Ông Simpkin thấy bụng đói cồn cào. Khi chuẩn bị bữa ăn sáng cho
Gobble ông sẽ ăn một bữa no nê món... mắt cừu. Ông Simpkin
không rảo bước được nữa. Ông lê bước nặng nề, chậm chạp. Đôi vai
ông trĩu hẳn xuống, dường như ông phải vác một vật gì rất nặng.
Bỗng ông dừng chân, chạy rất nhanh qua công viên. Cổng nhà vệ
sinh vẫn mở. Ông chạy vội vào trong và nhìn đồng hồ. Kém hai
phút đầy bảy giờ. Ông lục túi và tìm thấy cái mà ông đang cần, đó
là cái bút chì. Ông lôi cây bút ra và nắn nót viết lên tường dòng
chữ: . Đúng giờ thằng Gobble phải biến đi vĩnh viễn. Ông chạy
như bay về nhà và vọt vào buồng. Ông gọi:
- Gobble, Gobble, anh có nhà không đấy?
Không có tiếng trả lời. Không biết lão ta biến đi đằng nào?
NGƯờI HáT RONG
Tôi hỏi bố:
- Bố ơi, bố cho con vay đôla được không?
- Không, - bố trả lời mà không buồn ngẩng đầu lên.
Tôi nài nỉ:
- Khổ quá, bố cho con vay đi, hôm nào lĩnh tiền tiêu vặt con
trả ngay mà.
Bố vẫn không buồn nhìn tôi mà chỉ chăm chú phết bơ vào
bánh. Ông làm như tôi không hề có mặt ở dó. Ông ăn hết cả ổ bánh
mà không nói một lời. Tôi điên lắm nhưng phải cố giữ bình tĩnh.
Nếu tôi làm ông cáu thì đừng hòng nói đến chuyện tiền nong nữa.
Tôi lại cố nài nỉ:
- Con sẽ làm việc, con sẽ cắt hết cỏ ở ngoài bãi. Như thế
không đáng đôla sao?
Lúc này bố mới ngẩng đầu lên và nói:
- Chắc mày điên nên mới cho rằng tao sẽ để mày cắt cỏ một
lần nữa. Mày đã thiến của tao cây mới trồng, mất toi đôla và
giờ lao động. Mày cắt hết cả rễ, lại còn đòi chi đôla.
Tôi thấy ngay là đã phạm sai lầm khi nói đến chuyện cắt cỏ.
Cần phải đổi đề tài. Tôi năn nỉ:
- Chuyện này quan trọng lắm bố ạ. Con cần tiền để chủ nhật
này rủ Tania đi xem chiếu bóng.
- Quan trọng à? Rủ Tania đi xem chiếu bóng là quan trọng
hử?
Tôi đáp:
- Vâng, với con đó là điều quan trọng. Tania là đứa con gái
tuyệt nhất trường. Thế mà thứ bảy này cô ấy lại đồng ý đi chơi với
con, nếu... - lại một sai lầm nữa. Không, tôi không thể nói với bố
điều đó.
Bố làu bàu:
- Nếu, nếu cái gì?
- Nếu con đến đón cô ấy bằng tắc xi. Nếu con không lo được
tắc xi thì Tania sẽ di chơi với Brad Bellamas. Thằng ấy thì tiền
nhiều như rác. Mỗi tuần bố nó cho những đôla.
- Trời đất. Mày mới có tuổi mà đã muốn đón bạn gái đi
chơi bằng tắc xi. Không biết rồi sẽ đi tới đâu? Hồi tao bằng tuổi
mày...
Tôi vội nói:
- Thôi được rồi. Bố hãy quên chuyện đó đi.
Tôi bỏ đi trước khi bố bắt đầu câu chuyện của mình, nào là
hồi nhỏ mỗi sáng ông phải cuốc bộ năm dặm tới trường. Cả mùa
đông cũng vậy. Rồi lại cuốc bộ về nhà và sau đó bổ một tấn củi
bằng một cái rìu cùn. Mỗi lần kể, chuyện của ông lại càng tồi tệ
hơn. Lần đầu ông mới đi bộ hai dặm. Sau tăng lên năm. Nếu cứ cái
đà này chẳng mấy chốc ông phải đi bộ năm mươi dặm và bổ tới
mười tấn củi bằng con dao cạo râu. Tôi buồn bực đi ra ngoài, ban
đêm không khí thật dễ chịu. Bố không thông cảm với tôi. Đây đâu
phải là một cuộc hẹn hò bình thường mà là một cuộc hẹn với
Tania. Cô ấy là một cô gái xinh đẹp tuyệt vời. Tôi chưa thấy cô gái
nào xinh đẹp như Tania. Mái tóc vàng óng, hàm răng trắng như
ngọc trai và thân hình thì không chê vào đâu được. Tania là một
cô gái kiêu kỳ, rất kiêu kỳ. Làm gì có chuyện Tania đồng ý đi bộ
hoặc đi xe buýt tới rạp chiếu bóng. Cô ấy đã nói toạc ra với tôi:
- Hoặc là xe tắc xi, hoặc không gì cả.
Chậm nhất sáng mai tôi phải trả lời. Nếu không Tania sẽ
hẹn với thằng Bellamá. Thằng ấy thì có thể gọi một lúc cả chục xe
tắc xi vì bố nó giàu ghê lắm. Tôi ngoái cổ nói với bố:
- Con đi ra bãi biển một lúc.
Không có tiếng đáp. Tôi nghĩ, với ông, tôi là đứa chết rồi. Tôi
dầm chân trong nước biển vừa đi vừa nghĩ cách kiếm tiền. Phải
mua một vé xổ số. Biết đâu đấy. Thể nào cũng có người trúng mà
tại sao người đó lại không phải là tôi? Hay là tôi đi tìm chiếc
thuyền bằng gỗ dái ngựa. Nó nằm đâu đó trên bãi biển này, vùi
sâu dưới cát và hàng trăm năm nay không một ôi tìm thấy. Biết
đâu đêm nay nước biển dạt vào cuốn trôi cát, làm lộ ra con thuyền
và tôi sẽ phát hiện ra nó, tôi có quyền đòi tiền thưởng. ít ra cũng
được một nghìn đôla. Chà chà, lúc đó tất cả chúng nó sẽ bám lấy
mình. Mình sẽ thuê một xe tắc xi mạ vàng đưa Tania rong chơi
đây đó. Bãi biển vắng tanh. Trăng sáng vằng vặc. Tôi tiếp tục đi,
đi mãi. Phố xa nhà cửa lùi dần về phía sau. Tôi không hề cảm thấy
sợ mặc dù đêm đã khuya và tôi hoàn toàn đơn độc. Tôi chỉ tập
trung vào việc tìm kiếm con thuyền và cân nhắc xem nên đầu tư
khoản tiền thưởng như thế nào. Đôi lúc tôi thấy một vật gì đó nhô
lên từ bãi cát và tôi hộc tốc chạy tới chỗ đó. Nhưng chỉ là những
thùng phi, những mảnh ván bị sóng biển đánh dạt vào bờ. Quả
thật tôi không nghĩ nghiêm túc là sẽ phát hiện ra cái thuyền đó.
Trong thực tế làm gì có những chuyện như thế, nhưng dù sao tôi
vẫn kiên trì với ý nghĩ, biết đâu vận may sẽ đến với mình và tôi sẽ
tìm thấy con thuyền cổ ấy. Một lúc sau tôi quyết định đi lên đỉnh
doi cát, từ đây có thể nhìn xa hàng dặm. Tôi cố gắng leo lên đụn
cát đó và đi tới một cái cây nằm nghiêng nghiêng vì quanh năm
phải chống chọi với gió cát. Đúng lúc đó một đám mây che lấp ánh
trăng và trời trở nên tối đen. Một giọng nói trầm trầm vang lên
trong đêm tối tĩnh mịch:
- Cháu tìm cái gì đấy?
Tôi giật bắn mình, sợ bủn rủn cả người. Tôi hoàn toàn đơn
độc, không ôi có thể cứu giúp tôi, bãi biển vắng tanh vắng ngắt, lại
đêm hôm khuya khoắt như thế này. Tôi định bỏ chạy nhưng hai
chân như bị chôn chặt trong cát.
- Cháu tìm cái gì đấy? - Giọng nói lại vang lên.
Tôi nhìn đăm đăm vào cái cây giữa trời đêm và trông thấy
một cái bóng mờ ảo ngồi trên cát. Tôi không nhận rõ mặt người,
nhưng theo giọng nói thì đó là tiếng nói của người đã cao tuổi lắm
rồi. Cuối cùng tôi cũng bớt sợ và nói:
- Cháu đi tìm cái thuyền gỗ dái ngựa. Thế cụ là ai?
Ông già không trả lời tôi mà lại hỏi tiếp:
- Này, thế cháu tìm cái thuyền đó để làm gì?
Tôi ấp úng:
- Tiền thưởng. Khoản tiền thưởng là một nghìn đôla.
- Cháu sẽ làm gì với khoản tiền đó, nếu như cháu tìm thấy
cái thuyền ấy?
Tôi cũng không hiểu tại sao tôi không quay đầu và chạy biến
đi. Đúng là tôi vẫn còn thấy sợ nhưng dù sao tôi cũng đã lấy lại
được bình tĩnh và nhất định tôi sẽ chạy nhanh hơn ông già này. Vả
lại ở ông ta có cái gì đó gây tò mò với tôi. Ông có giọng nói buồn
buồn nhưng đồng thời cũng tỏ ra rất từng trải, thông thái. Tôi nói:
- Thưa cụ, một cô gái... cô ấy tên là Tania. Cháu cần tiền để
đi chơi với cô ấy. Không phải một nghìn mà chỉ mười đô la thôi.
Nhưng nếu có được một nghìn đôla thì thật tuyệt vời.
Ông già lặng đi một lúc lâu không nói gì. Tôi không thấy rõ
khuôn mặt ông nhưng tôi nghe rõ tiếng thở của ông. Cuối cùng ông
già nói:
- Cháu nói rằng tiền có thể làm cho cô bạn đó yêu thích cháu
ư? Cháu nghĩ rằng một nghìn đôla sẽ làm cho cháu được mọi người
yêu mến à?
Cách nói của ông già làm tôi thấy là lạ. Tôi không biết phải
trả lời như thế nào. Ông ra lệnh:
- Ngồi xuống, hãy ngồi xuống và nghe lão nói đây.
Suýt nữa thì tôi ù té chạy. Mọi chuyện có vẻ ma quái, rùng
rợn nhưng tôi lại làm theo lời ông già. Tôi có cảm giác ông tin rằng
mọi người vâng lời ông. Vì thế tôi ngồi bệt trên bãi cát nhìn đăm
đăm vào đêm tối mênh mông và cố tìm hiểu xem cụ già này là
người như thế nào.
- Ta sẽ kể cháu nghe một câu chuyện. Cháu phải ngồi yên
mà nghe. Khi ta kể xong cháu mới được phép đứng dậy và đi.
Nhưng cháu không được bỏ đi khi lão chưa kể xong. Rõ chưa?
Tôi nhìn cái bóng mờ mờ của ông già, gật đầu và ngồi yên
không động đậy. Ông đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây.
Cách đây lâu lắm rồi có một người hát rong ở Melbourne.
Ông ta đứng gần nhà ga và chơi nhạc cho những người qua đường
nghe. Trên khắp thân thể người nhạc công đó chỗ nào cũng cắm
những lá cờ nhỏ. Quần dài, áo sơ mi và áo khoác cũng may từ
nhiều lá cờ. Trên chiếc mũ hình quả dưa cũng cuốn một lá cờ. Khi
ông ta ấn vào một cái nút thì ở mũ của ông hiện ra một cái lỗ nhỏ
và nhiều lá cờ bật ra. Người nhạc công chơi nhiều nhạc cụ khác
nhau cùng một lúc. Ông nhấn chân lên bàn đạp và cả ba cái trống
gõ liên hồi. Một cái dây buộc chiếc kèn ôcmônica qua mặt ông còn
hai tay thì chơi đàn ghi ta. Tiếng nhạc của người nhạc công thật
kinh khủng, những người qua đường đứng lại chẳng qua chỉ để
nhìn con chó của ông ta. Đó là con Tiny, nó ngậm một cái mũ đi
vòng quanh và mọi người ném tiền vào mũ. Con Tiny cũng khoác
một cái áo có màu cờ nước úc. Hễ trong mũ không còn tiền là nó
đứng thẳng người, đi bằng hai chân sau y như người để xin tiền.
Lúc đó mọi người đều cười thích thú và ném tiền vào mũ. Người
hát rong - không ai biết tên thật của ông ta - ghen tức với con chó.
Ông ta cảm thấy mọi người cho tiền chẳng qua vì con chó chứ
không phải vì tiếng nhạc của mình. Nhưng ông không thể làm gì
hơn vì ông cần tiền. Ngày tháng trôi qua, người hát rong ngày
càng sầu não. Ông ta muốn mọi người yêu thích mình chứ không
phải là con chó. Từ đó ông đối xử tệ bạc với Tyni khi không có
người nào ở gần. Tiền được ít là ông đổ tội cho con chó. Nhiều ngày
quên không cho ăn, con chó tội nghiệp gầy rộc đi và yếu đến mức
không tha nổi cái mũ để xin tiền. Nó vất vả dùng răng kéo lê cái
mũ trên mặt đất. Cuối cùng có một người ở hội Bảo vệ loài vật tới
gặp người hát rong ngay trong lúc ông ta đang biểu diễn ở gần ga.
Người ấy nói:
- Con chó của ông trông thảm hại quá. Ông không chịu chăm
sóc nó. Nó bị đói ăn đến nỗi gầy giơ xương. Từ nay trở đi, chừng
nào sức nó chưa hồi phục, ông không được phép bắt nó làm việc.
Tôi cho ông ba tuần để bồi dưỡng cho nó. Nếu đến lúc đó nó vẫn
gầy yếu chúng tôi không cho ông nuôi nữa và ông sẽ chịu tiền
phạt.
Lúc đó nhiều người đứng xung quanh và nghe toàn bộ câu
chuyện. Một người đàn ông nói to:
- Hãy trông con chó khốn khổ kìa, thật là nhục nhã.
Nhiều người la ó chê trách người hát rong làm cho ông ta xấu
hổ đỏ chín cả mặt. Ông ta vội vàng thu xếp nhạc cụ, cho tất cả lên
ô tô và cùng con Tiny biến thẳng. Người hát rong sống ở ngoại ô
thành phố. Ông ta phải đi một quãng đường dài và trên đường đi
đầu óc ông ta quay cuồng về câu chuyện vừa xảy ra. Ông ta lầu
bầu với mình: "Tất cả chỉ vì con chó đáng nguyền rủa này. Không
có nó thì đâu đến cơ sự này". Càng đi cơn giận trong người ông ta
càng sôi lên. Khi về tới nhà ông ta tóm gáy con Tiny và đi ra phía
sân sau. Giữa sân là một cái giếng cạn nhưng rất sâu, sâu đến nỗi
đứng ở trên không nhìn thấy đáy. Người hát rong lầu bầu:
- Tao sẽ quẳng mày xuống dưới đó. Mày không phải làm việc
ba tuần. Được, tao cho mày nghỉ phép sung sướng nhé.
Ông ta lấy một cái xô và buộc dây vào. Sau đó đặt con Tiny
vào xô và thả xuống giếng. Con chó tội nghiệp vẫy đuôi và sủa
vang, nhưng chỉ một lát sau người ta không còn nghe thấy tiếng
sủa của nó nữa. Khi cái xô xuống tới đáy nó nhảy vọt ra và xục xạo
đánh hơi khụt khịt. Đáy giếng ẩm ướt, từ thành giếng thỉnh
thoảng có giọt nước rơi tí tách, song ở đây không có gì có thể ăn
được. Người hát rong kéo chiếc xô lên và đi vào nhà. Con Tiny
ngẩng đầu nhìn lên và nó chỉ thấy một quầng ánh sáng xa vời. Nó
chạy lòng vòng ở đáy giếng và ngước mắt nhìn vệt ánh sáng xa
xăm. Ngày hôm sau người hát rong đi làm không có con Tiny.
Thiếu con chó ngoạm mũ xin tiền nên ông ta quẳng cái mũ trên
mặt đất với hy vọng mọi người sẽ vứt tiền vào đó. Nhưng gần như
chẳng ai cho tiền. Người hát rong cố gắng hết sức, chơi tất cả các
bản nhạc mà ông ta biết, và kể cả chuyện tiếu lâm. Vất vả tất bật
suốt ngày vậy mà chỉ được dăm hào chỉ. Giờ thì ông già biết chắc
rằng mọi người ưa thích con Tiny chứ không ưa gì ông. Ông ta
phóng xe về nhà và quẳng xuống giếng một miếng thịt. Khi nghe
tiếng sủa ăng ẳng yếu ớt xa vời của Tiny ông già nói:
- Mày đừng có cầu xin, không ăn thua gì đâu, chưa hết ba
tuần, tao không cho mày lên. Tao phải cho mày một bài học.
Ngày nào ông già cũng đi làm, và kết quả hôm nào cũng như
hôm nào. Ông ta lại chơi nhạc, nhưng hầu như chẳng có ai quẳng
tiền vào mũ. Người hát rong nhủ thầm: "Không có con Tiny thì
không ai ưa thích mình cũng như những bản nhạc của mình". Ông
ta tức điên lên, ông ta muốn mọi người yêu thích mình. Ông ta
không coi tiền là quan trọng nhất. Chiều chiều, mỗi khi về nhà
ông ta lại quẳng xuống giếng một miếng thịt cho con chó tội
nghiệp. Ông ta hậm hực:
- Mày hốc nhanh lên cho chóng béo. Nếu không đừng hòng ra
khỏi đây.
Con Tiny chạy vòng quanh đáy giếng. Ngày cũng như đêm
nó luôn ngước đầu nhìn lên và hy vọng người ta sẽ đưa nó ra khỏi
giếng. Nhưng không ôi đến với nó ngoài người hát rong mỗi ngày
quẳng cho nó một miếng thịt. Ba tuần trôi qua một cách chậm
chạp. Ngày nào ông già cũng ra sức chơi nhạc nhưng mọi người chỉ
thờ ơ đi qua, chẳng buồn để ý. Với con chó thì ba tuần đó mới dài
làm sao, nó nằm bệt dưới đáy giếng, ngước mắt nhìn trời hy vọng
có người đến cứu nhưng chẳng thấy một ai. Cuối cùng thì ba tuần
cũng trôi qua. Người hát rong kéo con Tiny lên. Ông ta dòng cái xô
xuống giếng nhưng con Tiny không biết phải làm gì. Nó đi vòng
quanh cái xô nhưng không nhảy vào trong xô. Người hát rong
không tính tới tình huống này. Ông ta gào lên:
- Nhảy vào đi, đồ ngu xuẩn. Nhưng giếng sâu quá, con Tiny
đâu có nghe thấy gì. Cuối cùng ông ta phải làm một chiếc thang
dây, tốn không biết bao nhiêu tiền. Lại phải mất mấy ngày bện
thang. Con Tiny còn phải chờ thêm mấy ngày nữa.
Bỗng có một chuyện xảy ra làm đảo lộn tất cả. Người hát
rong trúng xổ số. Ông ta nhận được một bức thư trong đó ghi rõ
ông ta được thưởng hơn một triệu đôla. Ông ta sướng phát điên
lên. Việc đầu tiên ông ta làm là vơ tất cả cờ quạt mũ mãng, nhạc
cụ quẳng hết vào đống rác. Sau đó, mua một chiếc ô tô và một bộ
dàn stereo mới tinh. Ngày nào ông ta cũng ra cửa hàng để mua
những thứ mà mình thích thú. Chẳng bao lâu ngôi nhà của ông ta
chất đầy những đồ dùng xa xỉ đắt tiền. Suốt thời gian đó con Tiny
vẫn nằm ở dưới đáy giếng, cất tiếng sủa khản đặc và cố ngước mắt
nhìn bầu trời cao vòi vọi. Tối nào người hát rong cũng quẳng
xuống giếng một miếng thịt và tự nhủ sáng mai sẽ cho nó lên.
Nhưng sáng ra ông ta lại quên phứt chuyện đó và lại mê mải với
các công việc khác. Sự thật là ông ta vẫn còn rất buồn khổ. Ông ta
không có thêm một người bạn nào. Khi ở cửa hàng thì những người
bán hàng hết sức niềm nở vui vẻ với ông ta. Bọn họ vỗ vai khen
ông ta sáng suốt, thông minh mỗi khi ông ta mua một cái gì đó.
Nhưng hễ bán xong người ta không còn quan tâm và chẳng buồn
tiếp chuyện ông ta. Cuối cùng người hát rong cũng nhận ra rằng
mình chỉ có mỗi một người bạn, đó là con Tiny. Nó là con vật duy
nhất yêu ông, vậy mà ông đã quẳng nó xuống giếng. Ông ân hận
về những việc đã làm với con chó nhỏ tội nghiệp. Ông vội vàng leo
xuống giếng để cứu nó. Ông sợ lắm vì giếng sâu quá. Nhưng không
còn cách nào khác. Càng xuống sâu mùi hôi thối càng bốc lên nồng
nặc. Khi xuống tới đáy ông ta bọc con Tiny vào chiếc khăn len và
bám thang dây đưa nó lên. Trong lúc ông leo, con Tiny rối rít liếm
mặt chủ, mặc dù chính ông chủ đã đầy đọa, ném nó xuống giếng.
Khi lên đến mặt đất ông ta để con chó xuống, trào nước mắt nhìn
con chó tội nghiệp. Đầu nó cứ ngửa lên, hai con mắt ngước nhìn
chằm chằm bầu trời cao. Nó không thể cúi đầu xuống. Cái gáy của
nó đã trở nên cứng đơ vì suốt thời gian qua nó luôn ngửa đầu nhìn
lên trời và đi vòng vèo ở đáy giếng. Người hát rong nghẹn ngào,
nức nở:
- Ôi, sao tao làm tình làm tội mày đến như thế này? Tiny,
hãy tha thứ cho tao, tha thứ cho tao.
Con Tiny lại rối rít liếm mặt ông già. Từ đó con chó lúc nào
cũng ngửa mặt và ngước mắt nhìn trời. Không một bác sĩ thú y
nào, không một tiến sĩ nào chữa được cái tật này của nó. Tiny ở
dưới giếng lâu quá và trong suốt quãng đời còn lại con Tiny luôn
phải sống trong tư thế co rụt cổ ngửa mặt nhìn trời. Người hát
rong hết sức săn sóc con chó tội nghiệp, mua cho nó những thức ăn
ngon nhất và đi đâu cũng mang nó theo. Con Tiny quấn quít dưới
chân chủ vui mừng vẫy đuôi cho dù cổ nó vẫn bị co lại và hai con
mắt vẫn nghếch lên trời. Con Tiny dành cho người hát rong tất cả
tình thương yêu của nó mặc dù ông ta đã hành hạ nó rất tàn nhẫn.
Người hát rong thèm có được sự thương yêu của con người. Ông nói
với con Tiny:
- Tao thật vô tích sự nên chỉ có mỗi mày là bạn.
Cho tới một hôm bỗng ông ta nảy ra một sáng kiến tuyệt vời.
ít ra thì ông ta tự cho đó là một sáng kiến tuyệt hay. Ông ta đăng
quảng cáo trên báo: Tôi tặng mỗi người đến với tôi một đôla Phố
Hoa Hồng, số nhà Hàng ngày từ giờ. Ông già nói với con chó:
- Tiny, từ nay bọn chúng sẽ yêu thích ta. Giờ thì ta sẽ cho họ
tiền chứ không phải họ cho ta nữa. Ta sẽ cho một nửa những thứ
ta có. Ta cần gì những một triệu đôla. Chỉ nửa triệu cũng đủ. Ai
cần tiền có thể đến ta bất cứ lúc nào để lấy một đôla. Ngày hôm
sau người hát rong dựng một cái lều trên mảnh vườn trước cửa
nhà ông ta để bàn ghế và một cái xô chứa đầy đô la bằng kim loại.
Trước lều, treo một tấm biển với dòng chữ: Phát chẩn tiền. Mỗi
người một đôla. Đúng giờ có hai thằng nhóc ăn mặc nhếch nhác
tới. Một đứa hỏi:
- Bố già, cho tiền ở chỗ nào đấy?
Đây là điều bất ngờ đối với người hát rong vì ông ta không
tính đến chuyện bọn trẻ con sẽ kéo tới xin tiền, lại càng không tính
đến những đứa bé hỗn xược. Nhưng dù sao thì ông già cũng muốn
giữ lời hứa. Ông ta lấy một đồng đôla để trong xô dưới gầm bàn
đưa cho thằng bé. Nó nhìn đồng đôla chằm chằm rất lâu rồi nói với
đứa bạn:
- Tiền thật mày ạ!
Nói xong nó quay người chạy biến. Thằng thứ hai cũng chìa
tay, cầm vội đồng tiền cho vào mũ rồi cũng lủi rất nhanh trước khi
người hát rong có thể thay đổi ý kiến. Càng ngày bọn trẻ kéo tới
càng đông và tụ tập trước lều vải. Tin tức lan truyền rất nhanh và
bọn trẻ trong vùng ùn ùn đổ về ngày càng đông. Người hát rong
bảo chúng đứng thành hàng và đừng chen lấn xô đẩy nhau. Tuy
vậy chúng vẫn chen lấn, một số đứa tìm cách nhoi lên trên. Người
hát rong bực mình vì thấy bọn trẻ khó bảo. Ba thằng nhóc đầu tiên
vớ được tiền liền ù té chạy. Đứa thứ tư là một con bé có cặp mắt
nâu to tướng. Nó rụt rè nói:
- Bác, cháu xin cám ơn bác rất nhiều.
Nói xong nó quay đi và bước ra khỏi lều nhưng người hát
rong gọi con bé trở lại đưa cho nó thêm một đồng đôla nữa và nói:
- Cháu hãy cầm lấy, cháu là một đứa bé ngoan và là đứa duy
nhất đã biết nói lời cám ơn.
Đứa bé kế tiếp cũng là một con nhỏ. Nó đã nghe thấy tất cả
những điều mà người hát rong vừa nói. Sau khi ông ta đưa cho nó
một đồng đôla nó liền nói:
- Thưa ngài, xin cám ơn ngài rất nhiều! - nói xong nó đứng
ngây ra chờ.
Người hát rong hỏi:
- Cháu không đi còn chờ gì nữa?
Con bé trả lời:
- Cháu chờ đồng đôla thứ hai, thưa ông. Cháu cũng nói cám
ơn, vậy thì cháu phải được thêm một đồng nữa chứ?
Người hát rong thở dài và giúi cho nó thêm một đôla. Từ đó
bọn trẻ đều biết chuyện và đứa nào cũng không quên nói: "Cám
ơn". Thế là người hát rong phải cho mỗi đứa hai đôla. Ông ta cười
một mình. ít ra thì bọn trẻ cũng tỏ ra biết ơn. Dòng người xếp
hàng mỗi lúc một dài, chẳng bao lâu nó đã dài tới tận cuối phố.
Sau khi khoảng đứa trẻ nhận được mỗi đứa hai đô la thì đến
lượt bà lão đứng đầu dòng người xếp hàng. Người hát rong đưa cho
bà ta đồng một đôla. Bà cụ lật đi lật lại đồng tiền trong lòng bàn
tay rồi nói:
- Ông thật là một người tốt bụng. Quý hóa quá.
Người hát rong mỉm cười và đưa thêm cho bà cụ đồng năm
đôla. Ông ta vui mừng vì thấy bà lão quý mến mình. Sáng hôm đó
càng lúc càng có đông người lớn xếp hàng. Ai đặc biệt lịch sự đều
được cho thêm tiền. Người hát rong đã cho một người phụ nữ trẻ
năm mươi đô la khi người đó nói với ông ta:
- Ôi, ông thật là một người nhân từ, độ lượng và giàu lòng
trắc ẩn.
Ông ta phấn chấn vui vẻ ra mặt và nghĩ rằng bây giờ thì mọi
người đã thấy mình là một người nhân hậu. Ông xoa đầu con Tiny
và đôi lúc hơi bực mình với nó khi thấy có người ở trong hàng nhìn
nó. Nhưng giờ đây ông đã có những người ngưỡng mộ mình nên
không còn ấm ức ghen tức với con Tiny nữa. Đến gần trưa thì xô
tiền cạn nhẵn. Người hát rong treo một cái bảng mới: Đóng cửa. Đi
ngân hàng lĩnh tiền ông ta lĩnh hai xô tiền ở ngân hàng và nói với
người thủ quỹ:
- Tốt nhất cho tôi thêm một ít tiền giấy. Khi về đến nhà ông
ta thấy người xếp hàng dài cả dặm. Dòng người đó kéo dài tới cuối
phố và còn vòng quanh một khu nhà nữa. Khi ông ta đi qua, mọi
người vẫy tay hò reo vui vẻ. Một vài người hân hoan nói thật to:
- Xin chào bác hát rong tốt bụng!
Ôi chao, chưa bao giờ có người nào gọi ông ta là người hát
rong tốt bụng cả. Ông cảm thấy lâng lâng sung sướng. Ông ta về
lại cái lều của mình và tiếp tục phát tiền cho mọi người. Số đông
nhận mỗi người hai đôla, những người tỏ ra lễ phép, lịch sự thì
nhận được nhiều hơn. Một lão già bước tới, quỳ mọp xuống và hôn
chân người hát rong. Lão run rẩy nói:
- Ôi con người từ tâm vĩ đại, cháu xin cảm ơn người ngàn lần!
Người hát rong rất cảm động. Ông nói:
- Chết, xin cụ đừng làm như vậy.
Và ông ta đưa cho lão già hai mươi đôla. Chẳng mấy chốc
chuyện này lan ra nhanh chóng trong dòng người xếp hàng. Người
ta rỉ tai nhau, càng nói tốt về người hát rong thì càng nhận được
nhiều tiền. Nhiều người rời khỏi hàng vì họ không muốn hạ mình
cầu xin. Nhưng lại có nhiều người thế ngay vào chỗ của họ và
chẳng bao lâu mỗi người mỗi người nhận được hai mươi đôla. Đến
năm giờ chiều người hát rong treo tấm bảng với dòng chữ: "Đã đến
giờ đóng cửa, ngày mai phát tiếp". Ông ta đi vào trong nhà, người
mệt mỏi rã rời, ngồi xuống ghế và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Đến nửa đêm ông ta nghe thấy có tiếng động ở ngoài đường liền đi
ra phía cửa sổ và giật mình khi thấy mọi người vẫn xếp hàng kín
cả phố. Nhiều người mang theo chăn và lăn quay ra ngủ, có người
thậm chí dựng lều. Một người đàn ông kéo đến một cái xe bầy bán
bánh mỳ batê và dồi rán. Không ai muốn bị mất chỗ, mọi người
đều chờ đợi cho hết đêm ngay trên đường phố, như người ta xếp
hàng mua vé biểu diễn của các ngôi sao nhạc pop vậy. Người hát
rong mỉm cười. Ông ta thấy mình như một ngôi sao điện ảnh. Tất
cả họ tới đây chỉ vì mình! Một nhóm phóng viên truyền hình tới
rất sớm, họ phỏng vấn người hát rong. Và ông ta xuất hiện trên
màn hình vào chương trình bản tin chiều. Người từ bốn phương đổ
về xem sự kiện này. Cảnh sát được điều đến điều khiển giao thông
và giữ gìn trật tự. Dòng người mỗi lúc một dài hơn và người hát
rong chi mỗi lúc một nhiều tiền hơn. Ông ta buộc phải chi thì đúng
hơn. Mọi người trông chờ ông phải cho họ khi họ tử tế với ông. Họ
rất cố gắng để lấy lòng người hát rong, có những người còn giương
những tấm biển đề tên ông, có người lại còn vẽ cả chân dung ông
nữa. Một nhóm lập thành ban nhạc và hát vang bài hát ca ngợi sự
nhân từ, hào hiệp của người hát rong. Hai sinh viên làm thơ ca
ngợi ông và ông đã thưởng cho họ mỗi người hai trăm đôla.
Đến ngày thứ ba dòng người đã dài tới bốn dặm. Mọi người
phải chầu chực ba ngày mới đến lượt và người hát rong đã chi hết
nửa triệu đôla. Sáng nào nhà ngân hàng cũng cho một chiếc xe bọc
thép chở tiền đến. Con Tiny nghênh nghênh cái đầu chạy đi chạy
lại và liếm láp hết tay người này đến tay người khác. Gần cuối
tuần xe bọc thép chở một thùng tiền lớn tới. Người hát rong nói:
- Tôi cần một trăm nghìn đôla để phân phát vào những ngày
cuối tuần.
Ông giám đốc ngân hàng đáp:
- Tôi rất lấy làm tiếc, ông chỉ còn có chín mươi nghìn. Nếu tôi
là ông thì tôi sẽ không phân phát nữa, giữ lại ít tiền cho bản thân
mình.
Quả đó là một lời khuyên tốt nhưng người hát rong không
thể làm theo lời khuyên đó. Đám đông chờ tiền, có những người đã
chầu chực ba ngày ba đêm. Người hát rong tìm cách phân phát số
tiền ít hơn nhưng không được vì mọi người đã biết cái giá của
những lời tán tụng, ngợi ca. Hai trăm đôla cho một bài hát hay ca
ngợi người hát rong, năm mươi đô la cho một bức chân dung ông
ta. Người hát rong cố chia ít tiền hơn nhưng mọi người la hét phản
đối, họ cho như vậy là không công bằng. Họ nói rằng họ bị đánh
lừa. Người hát rong cảm thấy bực dọc vì chuyện đó. Ông thấy bọn
người này không thực bụng quý mến mình. Ông không còn nghe
nổi những lời khen của họ đối với ông. Nhưng ông buộc phải tiếp
tục làm cái công việc mà ông đang làm. Cuối cùng thì cái giây phút
kinh khủng đó đã đến. Ông không còn tiền. Không còn một chinh.
Ông viết lên tấm bảng: Hết tiền! Ông treo cái bảng trước cửa lều
và cùng với con Tiny chạy tọt vào trong nhà. Tin tức lan nhanh
như ánh chớp. Mọi người la hét:
- Hết tiền rồi!
Dòng người tản ra. Họ kéo tới trước cổng nhà người hát rong.
Ông ta vô cùng lo sợ. ôi đó ném một hòn đá vào cửa sổ, kính vỡ
toang rơi loảng xoảng. Có người hét tướng lên:
- Quân vô lại, đồ lừa đảo!
- Đồ gian manh!
- Trời ơi, tôi phải chầu chực suốt hai ngày nay!
- Tóm lấy nó, cho nó một bài học!
Lại một hòn đá nữa làm vỡ toang thêm một cửa kính. Người
ta đạp cửa thình thình. Cánh cửa rung lên bần bật. Người hát
rong biết rằng chỉ ít phút nữa cánh cửa sẽ bị bật tung... Ông vội
vàng chạy ra cửa sau, con Tiny bám gót chủ. Sân sau trơ trọi,
không có chỗ nào có thể che chở cho ông già. Ông nghe rõ tiếng la
hét, đập phá. Ông hớt hải chạy vội chạy vàng. Bỗng ông trông thấy
cái thang dây vẫn treo lủng lẳng trong giếng cạn. Người hát rong
chạy ào tới và vội vàng tụt xuống giếng để con Tiny ở trên bờ.
Vừa lúc đó lũ người hung dữ la hét om sòm tràn tới sân sau.
Khi thấy người hát rong đã trốn thoát đám đông như bừng tỉnh và
nhào vào đập phá tan tành những thứ mà ông ta mới mua sắm
được, sau đó họ đập phá ngôi nhà. Một nhóm người hung hãn phá
hàng rào phía sau nhà và cả cái thành giếng. Họ không thể ngờ
rằng người hát rong khốn khổ đang ẩn náu dưới đáy giếng sâu
thẳm. Phải một lúc lâu sau cảnh sát mới lập lại được trật tự và
giải tán đám người đó. Nhưng đã quá muộn, ngôi nhà đã bị đập
phá tan tành. Người hát rong ngước mắt nhìn lên miệng giếng và
chỉ thấy ánh trăng mờ nhạt. Ông nghĩ lúc này chắc có thể kêu cứu
được rồi. Ông hét rất to nhưng không có tiếng trả lời. Vì giếng quá
sâu nên không ôi nghe thấy tiếng cầu cứu của ông ta. Không một
ai biết ông ở dưới đáy giếng trừ con Tiny.
Ngày lại ngày trôi qua. Không có ai tới cứu. Đáy giếng vừa
lạnh vừa tối và hôi thối nồng nặc. Nếu không có Tiny thì chắc
người hát rong đã bị chết đói. Con chó bé bỏng đó chạy hết chỗ này
tới chỗ khác tìm thức ăn. Công việc này vô cùng vất vả đối với nó
vì cổ nó bị vẹo nên ngoạm thức ăn rất khó khăn. Nó phải nằm
nghiêng, dùng răng càm chặt thức ăn rồi mới đứng lên để đi. Cứ
như thế nó tha lúc thì mẩu bánh mỳ, lúc thì một khúc xương và
hất xuống giếng. Ngày lại ngày trôi qua, tuần lễ đã hết mà vẫn
không một ai tới cứu. Người hát rong sở dĩ sống được vì ông ăn tất
cả những gì mà Tiny vứt xuống giếng. Có khi là miếng thịt thối ở
trong thùng rác, khi thì là một mẩu vụn thừa bám vào đoạn xương
mà một con chó nào đó bỏ dở. Có lần Tiny hất xuống một con mèo
chết. Nhưng dù bất kể cái gì, người hát rong đều nhắm mắt mà
nuốt vì nếu không sẽ chết đói. Con Tiny mang mọi thứ mà nó kiếm
được hất xuống giếng cho chủ còn bản thân nó gần như không ăn
gì. Sau một tháng người nó chỉ còn da bọc xương. Nó phải vất vả
lắm mới lết nổi tới miệng giếng... Ngày nào người hát rong cũng
kêu la cầu cứu nhưng nào có ôi nghe thấy. Ông ta ngước mắt cầu
khẩn trời đất và những áng mây bay tít tận trời cao nhưng không
có tiếng trả lời. Một nỗi kinh hoàng đã xảy ra.
Người hát rong bỗng nhiên không thấy thức ăn thừa, xương
xẩu, thịt thiu rơi xuống giếng nữa. Ngày hôm sau, hôm sau nữa,
rồi hôm sau nữa tình hình không có gì thay đổi. Ông ta liếm
những giọt nước bám ở thành giếng, bụng đói cồn cào vì không có
gì ăn. Ông biết ông không còn chịu đựng lâu được nữa. Ông mệt lả
và lo lắng không biết có chuyện gì đã xảy ra đối với Tiny. Hết tuần
thứ năm người hát rong lấy hết tàn lực gào thật to ở dưới giếng.
Thực ra đó chỉ là tiếng rên rỉ yếu ớt. Ông ngước mắt nhìn ánh
sáng lờ mờ nơi miệng giếng. Phải chăng có bóng ai đó đang nhìn
xuống? Phải chăng có tiếng gọi. Ông cố dỏng tai nghe.
- Chờ đấy, bọn ta sẽ cứu ngươi!
Một lúc sau sợi cáp được dòng xuống có cả một mảnh gỗ để
ngồi. Người hát rong ngồi lên tấm gỗ đó rồi thều thào:
- Kéo tôi lên, kéo tôi lên đi!
Khi lên đến miệng giếng, ông ta nhắm nghiền hai con mắt
lại. Tuy nhiên ông ta vẫn nhận ra bóng năm người đàn ông với
chiếc ô tô có tời quay. Họ nhìn người đàn ông gầy dơ xương, râu tóc
rậm rì, hôi thối bẩm thỉu.
- Chúng ta phải đưa ngay ông ta tới bệnh viện!
- Ông thật là may, nếu không có con chó thì chúng tôi làm
sao biết ông ở dưới này! Tôi lại gần xem nó còn sống không thì
nghe thấy tiếng rên của ông.
Người hát rong lê chân tới chỗ con chó. Nó đã chết. Nó chết
đói vì nó đã dành toàn bộ thức ăn tìm được cho chủ. Người hát
rong cúi xuống ôm con Tiny vào lòng, nước mắt ông ta trào ra. Ông
nói với những người đàn ông:
- Các bác cứ để tôi ở đây, tôi có thể tự lo cho tôi được rồi.
Ông đào một cái hố nhỏ và chôn con Tiny ngay sau nhà, ông
lấy một mảnh gỗ và đề lên đó dòng chữ: Người bạn Tiny của tôi
hãy ôn giấc ngàn thu! Sau đó người hát rong bỏ đi, từ đấy không có
ai trông thấy ông ta nữa.
Ông già nói:
- Câu chuyện đến đây là hết.
Tôi quên khuấy không biết mình đang ngồi ở đâu. Đêm đã
khuya lắm và tôi thấy mình ngồi trên doi cát ven biển. Câu
chuyện đã cuốn hút tôi hoàn toàn và tôi đang ở nơi nào đó xa vời
vợi. Tôi nhìn về phía ông già nhưng không trông thấy rõ khuôn
mặt của ông cụ. Tôi muốn hỏi có đúng câu chuyện đã xảy ra như
vậy không? Tôi muốn biết số phận người hát rong sau đó như thế
nào? Nhưng tôi chưa kịp hỏi thì ông già đã bảo:
- Đi đi cháu, chuyện đến đây là hết rồi. Hãy để ta ngồi đây
một mình, ta mệt rồi!
Tôi không muốn đi, nhưng ông già nói như ra lệnh. Vì thế tôi
đứng lên và từ từ rời doi cát. Tôi mới đi được vài bước thì bỗng
thấy ánh trăng tỏa sáng mênh mang. Tôi quay lại nhìn chỗ cái
cây, nơi ông già vừa ngồi kể chuyện. Lúc này tôi nhìn thấy ông rất
rõ. Râu trắng như cước. Ông đứng dậy và bước đi trong ánh trăng
sáng ngời. Ông ngước mắt nhìn trăng sao trên bầu trời. Tôi giật
mình thấy cổ ông bị vẹo. Ông không cử động được cái cổ của mình.
Vào những ngày cuối đời ông đã bị trừng phạt, luôn luôn phải
ngước mắt nhìn lên như cách đây nhiều năm ông từng ngồi dưới
giếng ngước mắt nhìn lên trời cao. Câu chuyện này là có thật. Ông
già tóc bạc đó chính là người hát rong. Tôi dõi mắt nhìn ông đang
lững thững bước đi. Lúc đó trời bỗng tối xầm lại và ông già hoàn
toàn biến mất. Tôi chạy rất nhanh về nhà và nhảy lên giường.
Nhưng tôi không tài nào ngủ được. Tôi trằn trọc suy nghĩ mãi về
câu chuyện lạ lùng này, về con chó Tiny và người hát rong, người
đã muốn dùng tiền để mua tình yêu của con người. Sáng hôm sau
tôi gặp bố ở cầu thang. Ông giúi vào tay tôi mười đôla và bảo:
- Nếu Tania chỉ đồng ý đi chơi với con khi con đón nó bằng xe
tắc xi thì chắc con cần phải có tiền.
Tôi nói:
- Con cám ơn bố. Tôi nhét đồng mười đôla vào túi, sau đó tới
gặp Tania và bảo tôi không cần cô ta nữa.
SNOOKLE
Snookle được đưa đến vào một buổi sáng cùng với mấy chai
sữa. Bốn chai nửa lít để trước cửa, ba chai có sữa còn trong chai
thứ tư là snookle. Nó nhìn tôi xuyên qua nhà tù bằng thủy tinh với
đôi mắt buồn rười rượi. Tôi có thể nhận biết nó đang sống, mặc dù
nó hoàn toàn không thể hiện ra điều ấy và nó cũng không động
đậy gì cả. Nó làm tôi chợt nhớ tới một con chó bị xích có thể làm
cho gia chủ phải động lòng trắc ẩn bằng đôi mắt buồn bã của
mình. Snookle muốn ra khỏi chai sữa nhưng nó không tính đến
chuyện tự tìm cách thoát thân... Nó không nói lấy một câu, chỉ
nhìn tôi chằm chằm với con mắt câm lặng. Tôi cất ba chai sữa vào
tủ lạnh và để snookle với chỗ ở chật chội của nó lên bàn. Sau đó tôi
ngồi trước cái chai và chăm chú ngắm nhìn nó. Tôi không thấy cái
gì hơn là những con mắt to tướng với cái nhìn tối tăm. Nó cũng
phải có thân thể chứ nhỉ, nhưng sao không thấy đâu cả. Hai con
mắt bay lơ lửng trong không khí cách đáy chai khoảng cm. Bố
mẹ tôi đi làm. Tôi không thể trông chờ gì vào sự giúp đỡ của bố mẹ
được. Tôi lắc cái chai, bỗng hai con mắt nhảy tớn lên như những
quả bóng cao su. Vẻ buồn bã lúc nãy bỗng trở nên vội vã, hai con
mắt nhấp nháy mấy lần rồi lại trở về vị trí cũ. Tôi nói với nó:
- Xin lỗi, mình không muốn làm cậu đau.
Không có tiếng trả lời, chỉ có cái nhìn đầy trách móc. Tôi lại
hỏi:
- Cậu là loài sinh vật gì? Từ đâu tới? Cậu làm thế nào để đến
đây? Tên cậu là gì?
Tôi không nhận được câu trả lời. Sự thực là những con mắt
đó từ từ nhắm lại rồi ngủ thiếp đi. Tôi chợt có một ý nghĩ ghê rợn.
Điều gì sẽ xảy ra nếu nó bị chết? Không khí trong chai sữa nào có
nhiều nhặn gì. Nếu nó là một loài sinh vật biết hô hấp thì nó sẽ
chết ngạt. Tôi lại nghĩ hay là mở nút chai cho nó ra. Nhưng nếu
làm thế tôi có thể gặp nhiều chuyện phiền toái. Biết đâu nó sẽ
không chịu chui vào trong chai nữa và nhỡ nó là một loài vật nguy
hiểm thì sao. Nó có thể cắn tôi, có thể truyền cho tôi một căn bệnh
cực kỳ nguy hiểm và căn bệnh đó có thể tiêu diệt tất cả loài người.
Nó có thể trốn đi và gieo tai họa chết chóc khắp mọi nơi.
Tôi đi ra phía cửa sổ và nhìn ra ngoài. May ra có ôi đó trên
đường tới trường đi qua đây. Dù sao thì có hai cái đầu cùng suy
nghĩ vẫn hơn là một, nhất là phòng khi cái của ấy thoát ra khỏi
chai và tấn công tôi... Bỗng tôi nhớ ra hôm nay là ngày hội đồng
nhà trường họp tổng kết và chẳng ôi đi học cả. Người duy nhất
đang đi ngoài đường là bà cụ McKee tội nghiệp. Bà đang lò dò từng
bước trên bậc thang trước của nhà để đi lấy sữa. Chả thể nhờ cậy
gì ở cụ McKee được cả. Cụ bị tê thấp, cụ chỉ có thể cầm một chai
sữa và dò dẫm từng bước từ cổng tới cửa nhà, thế mà cụ đi cũng
phải tới nửa tiếng đồng hồ. Thường vào những ngày cuối tuần tôi
sang giúp cụ vì tay cụ yếu lắm, chẳng làm được cái gì cả. Vườn nhà
cụ ngợp cỏ dại, còn cửa sổ thì đầy bụi bậm. Tường nhà cụ bị lở
từng mảng. Một lần tôi nghe mẹ nói, cụ McKee sắp phải chuyển
tới nhà nuôi dưỡng người già vì tay cụ yếu lắm, không vận động
được nữa. Không, dứt khoát cụ McKee không thể làm gì giúp tôi
nếu như hai con mắt thoát ra khỏi cái chai và trở nên nguy hiểm.
Tôi nhìn lại người khách của mình một lần nữa. Mi mắt hắn
nhắm nghiền. Hắn có thể chết bất cứ lúc nào. Tôi muốn thử liều
một phen và mở mạnh cái nút kim loại. ánh mắt hắn thay đổi,
dường như nó sung sướng lắm. Sau đó hai con mắt từ từ nhích lên
phía miệng chai. Tôi không nhìn thấy thân thể nó nhưng tôi tin
rằng sinh vật bé bỏng này đang tìm cách nhoài người lên miệng
chai. Hai con mắt vươn lên miệng chai rồi trườn ra ngoài. Nó ngồi
ngay ngắn trên miệng chai và nhìn tôi rất khoái chí. Tôi không
nhìn thấy miệng nó và cũng không thấy khuôn mặt nó nhưng tôi
đoán chắc rằng nó đang cười. Tôi hỏi nó:
- Này cậu tên là gì?
Kể cũng lẩm cẩm, ôi lại chuyện trò với một sinh vật mà mình
chưa biết bao giờ, cứ làm như nó biết trả lời không bằng. Nhưng
quả thật tôi cảm thấy nó hiểu tôi. Thế mà tôi vẫn giật bắn mình
khi sinh vật bé bỏng đó bỗng nhiên trả lời tôi. Nó không dùng từ,
cũng không nói. Nhưng tôi nghe rõ câu trả lời của nó trong đầu
mình. Từ snookle bỗng hiện ra trong óc tôi. Tôi hỏi:
- Này, cậu snookle, cậu là ai, cậu muốn gì?
Nó lại trả lời tôi mà không nói lấy một tiếng. Câu trả lời của
nó ngấm vào suy nghĩ của tôi:
- Tôi là kẻ tôi tớ của ông chủ. Mọi mong muốn của ông chủ là
mệnh lệnh đối với tôi.
Thực ra thì nó không nói đúng từng từ như vậy, bởi vì nó có
dùng từ để nói đâu. Nhưng ít nhiều thì tôi cũng có thể hiểu nó
muốn gì. Nhất là khi nó nói những mong muốn của tôi là mệnh
lệnh đối với nó. Sau đó tôi phát hiện ra một điều là nó có thể đọc
được những suy nghĩ của tôi. Nó biết tôi muốn gì mà không cần tôi
phải nói lấy một lời.
Bỗng bụng tôi sôi ùng ục. Tôi thấy đói cồn cào. Hai con mắt
liếc chéo qua chiếc bàn hướng về phía kho thực phẩm. Snookle biết
bay. Sau đó tôi trông thấy một gói bỏng bim bim và một cái bát
bay ra, sát theo sau là đôi mắt. Cửa tủ lạnh bật mở và chai sữa
cũng lướt ra ngoài như cách trên. Bỏng bim bim và sữa được đổ
vào bát rồi trộn thêm đường. Liều lượng và cách pha đúng như ý
muốn của tôi. Tuyệt thật. Nó biết tôi muốn ăn sáng và nó tự động
lấy những thứ mà tôi thích, chẳng cần tôi phải nói lấy một lời. Tôi
chờ một lúc để cho món bỏng ngấm sữa và mềm ra. Tôi muốn thử
khả năng của snookle. Tôi muốn lấy mấy tờ báo ở thùng thư.
Snookle lướt ra cửa, nó mở cửa, rồi đứng sững giữa lưng chừng
giời. Tôi bảo nó:
- Tiếp tục đi, ra ngoài!
Hai con mắt đảo đi đảo lại, hết quay sang bên này lại ngoảnh
sang bên kia. Nó lắc đầu. Tôi nhìn ra cửa và thấy một người đàn
ông đi xe đạp tới. Khi người đó phóng xe qua, snookle lao như bay
tới thùng thư và lấy báo. Tôi hiểu ra rằng nó không muốn ai nhìn
thấy, trừ ông chủ của mình. Tôi là ông chủ của nó vì tôi đã giải
phóng nó ra khỏi cái chai. Nó chỉ xuất hiện trước mặt tôi. Snookle
đi theo tôi vào buồng. Tầm bay lý tưởng của nó là ở độ cao hai mét.
Hôm nay không phải đi học nên tôi quyết định mặc áo bò. Đúng
lúc tôi đang nghĩ như vạy thì snookle bay tới tủ quần áo. Bằng
đường không, tôi nhận được bộ quần áo bò, áo ba lỗ và đồ lót. Mọi
thứ được để ngăn nắp ở trên giường. Chuyện sau đây quả có làm
cho tôi ngạc nhiên. Snookle cởi bộ quần áo ngủ mà tôi đang mặc và
bắt đầu mặc quần áo cho tôi. Tôi cảm thấy ngường ngượng, nó làm
như mình còn bé lắm và phải để mẹ mặc quần áo cho. Tôi cảm
thấy những ngón tay thon dài, lành lạnh lướt trên thân thể mình.
Tôi bảo nó:
- Thôi đi, snookle, cậu không phải mặc quần áo cho tôi đâu.
Nhưng nó không chịu nghe. Thế là tôi hiểu snookle làm mọi
việc, bất chấp người ta muốn hay không. Tôi cảm thấy buồn buồn
trong mũi và sắp sửa hắt xì hơi, nhanh như chớp snookle lấy khăn
lau trong túi quần tôi và để ngay trước mũi. Tôi hắt xì hơi vào
chiếc khăn và nói:
- Cám ơn cậu, để tôi tự làm cũng được mà!
Sau đó tôi đi vào bếp và ăn sáng. Snookle vớ vội cái thìa. Tôi
tìm cách giật lại nhưng nó đã vục thìa vào cốc sữa có bỏng bim bim
và đẩy thìa vào mồm tôi. Tôi ngậm chặt miệng lại vì không muốn
nó làm những trò vớ vẩn đó. Nhưng với bàn tay lạnh giá, vô hình
nó bóp chặt vào má và đẩy cái thìa đầy ú thức ăn vào mồm tôi. Cứ
thế nó bón cho tôi hết cả bát sữa, làm như tôi là trẻ sơ sinh vậy.
Bây giờ thì tôi hy vọng các bạn có thể thông cảm với tôi về chuyện
sau đây. Thực ra thì tôi không thuộc loại người hay ngoáy mũi.
Nhưng thỉnh thoảng khi thấy buồn buồn, ngưa ngứa thì tôi cũng
phải ngoáy mũi. Mà tôi cũng chỉ ngoáy một chút, không lâu hơn
các bạn đâu. Nhưng tôi chưa kịp làm gì thì những ngón tay dài
thon lạnh giá đã ngoáy mũi tôi. Snookle ngoáy trong mũi tôi. Xuýt
nữa thì tôi nổi đóa. Tôi hét tướng lên và tìm cách đẩy nó ra ngoài
nhưng nó rất khỏe. Càng về sau, mọi chuyện càng phức tạp, khó
chịu hơn. Snookle không chịu để cho tôi làm bất cứ việc gì, tôi
không tài nào cựa quậy được chân tay.
Tôi lại đi vào trong bếp và ngồi xuống. Không thể cứ tiếp tục
mãi như thế này được. Tôi nghĩ tới tương lai cùng với snookle, nó
sẽ làm mọi thứ cho tôi. Làm tất tần tật. Không được. Phải tống nó
đi, càng nhanh càng tốt. Tôi thả mấy hạt bỏng vào vỏ chai sữa và
nghĩ cách lấy những hạt bỏng đó ra. Snookle lao ngay tới và chui
tọt vào trong chai để lấy bỏng ra cho tôi. Nhanh như cắt tôi ấn
chặt cái nút chai trước khi snookle có thể hiểu chuyện gì đã xảy ra
với nó. Nó bị nhốt nhưng không tìm cách để thoát ra ngoài. Nó
buồn bã, đau khổ nhìn tôi. Giờ thì tôi không biết phải làm gì nữa.
Tôi không muốn nhốt snookle trong cái chai này suốt cả cuộc đời
còn lại của nó, nhưng tôi cũng không muốn nó như một cái dây leo
suốt đời bám lấy tôi, thậm chí còn ngoáy mũi cho tôi. Tôi nhìn ra
ngoài cửa sổ. Tôi thấy bà cụ già McKee tốt bụng đã chuyển hết két
sữa từ cổng vào trong nhà. Nhất định cụ sẽ lại quay trở ra để lại
chậm rãi, nặng nề đi ra phía thùng thư. Tôi mang theo snookle và
đi sang bên kia đường. Sau đó tôi để cái chai trước cửa nhà cụ
McKee. Một tay tôi cầm cái chai đầy sữa, tay kia tôi vẫy chào
snookle. Nó nín lặng buồn bã giương mắt nhìn tôi trừng trừng.
Đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy snookle. Những ngày sau đó
bên nhà cụ bà McKee diễn ra những thay đổi lạ thường. Bãi cỏ
được cắt thẳng băng, mấy luống hoa sạch không còn một cây cỏ.
Cửa sổ được lau chùi sạch bong và có ai đó đang quét sơn bức
tường nhà cụ. Những người đi đường ai cũng lấy làm lạ vì họ
không thấy có người làm việc ở đấy gì cả. Khoảng một tuần sau,
tôi sang thăm cụ McKee. Cụ tỏ ra rất sung sướng. Thật vậy, cụ rất
sung sướng.
THUốC ĐáNH RĂNG MộT LầN
Sáng Bin nói:
- Ta sợ phải hàn lại cái răng này. Chà chỗ này có cái lỗ to
quá!
Chân Antonio run lẩy bẩy khi nó nhìn vào tay ông Bin. Nó
biết ông bác sĩ chữa răng giấu ống tiêm ở sau lưng. Nó vội nói:
- Xin bác đừng tiêm!
Nhưng đã muộn mất rồi. Nó chưa nói dứt câu thì bác sĩ đã
tiêm cho nó một mũi thuốc tê. Antonio cảm thấy nước mắt trào ra.
Nó buồn bã nhìn qua cửa sổ và thấy một cái răng khổng lồ trắng
nhởn treo lủng lẳng bị gió thổi đung đưa. ở đó có hàng chữ:
M.T.Bin Bác sĩ chữa răng. Dường như một năm đã trôi qua từ lúc
mũi kim cắm phập vào lợi nó. Bác sĩ Bin một tay bóp chặt mồm
Antonio, tay kia ấn từ từ vào ống tiêm. Ông nói:
- Cháu ngồi yên nào! Chà, sao mà run như cầy sấy thế? Cuối
cùng rồi cũng xong.
Ông rút mũi kim tiêm đáng sợ ra và nói:
- Súc miệng đi! Antonio vội cầm cốc nước, nó ngậm một ngụm
to tướng nhưng không thể súc miệng được vì mồm bị tê cứng, nước
trong miệng trào ra xuýt làm ướt hết chiếc áo phông. Antonio cố
cầm nước mắt khi trông thấy ông bác sĩ mang cái máy khoan
nhích lại gần nó. Không được khóc. ôi đời con trai mười ba tuổi còn
khóc nhè ở chỗ chữa răng bao giờ. Nó lại nhìn chằm chằm về phía
cửa sổ và lại thấy chiếc răng khổng lồ treo lủng lẳng làm biển hiệu
và ngoan ngoãn há mồm. Ông Bin hỏi:
- Khi học xong cháu muốn làm nghề gì?
Antonio đáp:
- Cháu muốn làm nghề đổ rác, đã từ lâu cháu thích làm nghề
này.
Bác sĩ Bin tỏ ra vô cùng ngạc nhiên và ông ấn nhẹ chiếc mũi
khoan:
- Làm nghề đổ rác à? Thật buồn cười, hồi nhỏ bác cũng thích
làm cái nghề đó.
Antonio hỏi:
- Thế tại sao bây giờ bác lại trở thành người chữa răng?
Ông bác sĩ đảo mắt nhìn căn phòng, sau đó ông đóng cửa
buồng lại rồi hạ giọng nói:
- Nếu cháu hứa là sẽ không kể với ai thì bác sẽ kể chuyện
này cho cháu nghe bởi vì cháu cũng muốn làm nghề đổ rác. Nhưng
cháu phải hứa danh dự là không được tiết lộ cho bất cứ ai về câu
chuyện này, cháu có hứa không nào?
Antonio gật đầu. Nó không thể nói được vì lúc này ông Bin
đã bắt đầu cho máy khoan chạy ro ro. Antonio nhắm nghiền mắt
và nghe tiếng máy chạy. Bác sĩ Bin kể. Hồi nhỏ bác rất thích lục
lọi các thùng rác, bác không thể đi qua một thùng rác nào mà
không lục tìm cái này cái khác. Bác thấy rằng trong đống rác rưởi
người ta đổ đi còn có khối thứ tuyệt vời. Một hôm bác tìm thấy
trong thùng rác nhà hàng xóm có một chiếc thủ lợn. Bác vội khuân
nó về và để trên tổ kiến. Lũ kiến ăn trơ trụi không còn một tý thịt
nào cho đến lúc cái thủ lợn chỉ còn trơ xương sạch bóng. Sau đó bác
dùng khoan khoan một cái lỗ vào giữa chiếc đầu lâu và tặng mẹ
bác một lọ đựng đường. Bà rất thích cái lọ đó và không bao giờ đưa
ra dùng, bà để nó vào một chỗ rất kín và cuối cùng bà quên mất
không biết là để nó ở đâu. Tất cả các thùng rác ở dọc phố nhà bác
đều có những thứ hấp dẫn nhưng điều gây nhiều ấn tượng nhất
với bác là thùng rác nhà lão Monty. Cứ thứ tư và thứ sáu bác lại
nhìn vào thùng rác nhà lão và lần nào cũng thấy thùng chứa một
loại rác như nhau: những vỏ hộp thuốc đánh răng. Có lẽ có tới
hàng trăm hộp và hộp nào cũng có dòng chữ: Thuốc đánh răng một
lần. Bác không thể hiểu nổi một ông già sống độc thân mà lại dùng
hết nhiều thuốc đánh răng đến như vậy. Chẳng lẽ suốt đời ông ta
chỉ mải miết đánh hàm răng của mình? Không, phải nói đúng ra
là đánh cái răng của mình, bởi vì lão ta chỉ còn một cái răng sún
duy nhất xanh ởn, mà bác thì tin rằng lão chưa hề bao giờ đánh
cái răng đó kể từ khi nó mới mọc. Bác luôn bị ám ảnh bởi lão
Monty và cái đống vỏ tuýp thuốc đánh răng của lão. Bác quyết
phải tìm bằng được nguyên nhân của chuyện này. Có nói chuyện
với lão cũng vô ích bởi vì bác biết rõ rằng lão không ưa trẻ con (Nói
đúng hơn là lão chẳng ưa một ôi). Nếu có ai nói: "Chào ông" thì
quá lắm lão sẽ gầm gừ: "Mày cút đi!". Cuối cùng bác quyết định
phải leo lên cửa sổ nhà lão vào ban đêm để xem lão làm gì.
Một đêm, sau khi bố mẹ bác đã lên giường, bác leo sang nhà
lão Monty. Ngôi nhà của lão rất tàn tạ, cũ kỹ, mái bằng tôn, rỉ
nhoèn và cửa sổ chi chít mông nhện. Hôm đó trời tối đen như mực,
gió thổi lạnh buốt. Người bác nổi da gà, nhưng không phải vì lạnh
mà vì bác cảm thấy sợ hãi. Bác đi men theo tường cho đến lúc nhìn
thấy một cái cửa sổ. Giữa hai cái rèm cửa có một chỗ trống nho
nhỏ. Bác nhón chân dán mắt nhìn vào nhưng bên trong tối thui
nên không nhìn thấy gì cả. Sau hai, ba phút đồng hồ bác trông
thấy những thứ thật kinh khủng, gớm ghiếc mà bác chưa hề nhìn
thấy bao giờ. Răng, toàn răng là răng! Trong bóng tối nhợt nhạt có
khoảng hai chục hàm răng trắng nhơn nhởn. Những hàm răng đó
treo lủng lẳng cái cao cái thấp trông như những cái diều lúc thì
chúng ngậm lại, lúc há hoác ra, lắc la lắc lư như nằm trong một
khuôn mặt vô hình. Thật đấy. Những hàm răng đó thuộc về một
cái đầu, có thân thể, nhưng ta không trông thấy được vì trong
phòng tối om om. Nhưng những hàm răng đó lại sáng, phải rồi, có
lẽ chúng tự phát sáng. Bác trông thấy những cái răng to tướng,
nhọn hoắt, nhưng cũng có những cái răng bé tí xíu và rất sắc.
Có thể nói ở đây có nhiều bộ răng khác nhau, chỉ thiếu không
có hàm răng con người. Nhất định những hàm răng này không thể
là răng người, bác tin chắc như vậy. Đúng lúc đó có người châm
nến và trước mắt bác hiện lên một cảnh không thể tưởng tượng
nổi. Bác nhìn thấy không biết bao nhiêu các loại thú ở trong căn
buồng bé nhỏ này. Nào là thỏ, chó, chuột túi lớn, chuột túi bé và cả
mèo nữa. Mỗi con vật bị nhốt trong một cái lồng nhỏ và răng con
nào cũng trắng bong. Bác chưa bao giờ thấy những cái răng trắng
đến như thế. Nhưng những con vật trông mới tội nghiệp khốn khổ
làm sao. Ta có thể tưởng tượng chúng hoàn toàn không muốn bị
nhốt trong những cái lồng chật hẹp như thế này. Chúng có vẻ rất
sợ hãi trước một điều gì đó sắp xảy ra. Lão Monty cười thâm hiểm
cầm nến đi vào phòng và nói: "Nào, bọn trẻ, đến giờ đánh răng
rồi!" Bác cảm thấy lũ thú sợ co rúm lại khi nghe lão Monty nói
điều đó. Lão để cây nến lên bàn và mở một cái tủ to tướng. Trong
tủ có hàng ngàn tuýp thuốc đánh răng. Lão lấy ra một trong
những tuýp thuốc và lẩm bẩm: "Số A, nào để xem mình có gặp
may với hỗn hợp này không?" Sau đó lão đi tới cái lồng nhốt một
con thỏ nhỏ và ấn vào một cái nút. Đèn đỏ trong lồng bật sáng, con
thỏ chui đầu qua một cái lỗ. Nó nhăn mũi và nhe răng. Lão Monty
ấn cho thuốc đầy bàn chải và đánh răng cho con thỏ. Chắc thuốc
đánh răng này có mùi vị kinh khủng lắm. Sau khi làm xong lão
quẳng một củ cà rốt bẩn thỉu về phía con thỏ nhưng nó không hề
ngó ngàng tới vì vẫn bàng hoàng ghê sợ vì tuýp thuốc đánh răng
của lão. Thật là kinh khủng. Thật là dã man. Lão già độc địa này
dùng thuốc đánh răng có mùi vị ghê tởm để làm thí nghiệm với
những con vật khốn khổ này. Bác không nghĩ tới một cái gì khác
ngoài những con vật tội nghiệp này. Bác chạy quanh ngôi nhà và
đập thình thình vào cánh cửa. Bác hét:
- Mở cửa ra, mở cửa ra! Hãy thả tất cả những con vật kia ra!
Cánh cửa mở toang. Lão Monty cười nhăn nhở khoe cái răng
sún. Lão ta có vẻ vui mừng vì sự có mặt của bác. Lão nói:
- Tốt lắm, đúng cái ta đang cần là một thằng nhóc. Vào đi
cháu, vào đi!
Bác nhảy bổ vào trong nhà, chạy vội tới căn phòng đó và hét
lên:
- Ông làm gì thế này? Tại sao ông lại đánh răng cho bầy thú?
Lão già cười nhăn nhở:
- Ta đang nghiên cứu để sản xuất loại thuốc đánh răng một
lần. Ta sắp thành công rồi.
Bác hỏi lão ta:
- Thuốc đánh răng một lần là thế nào?
- Đó là loại thuốc đánh răng mà người ta chỉ dùng một lần
duy nhất. Chỉ cần đánh răng một lần thế là cả đời không phải
đánh răng nữa. Mọi người sẽ đổ xô đến mua thuốc đánh răng của
ta khi kết quả nghiên cứu thành công. Bọn trẻ con lười đánh răng.
Thế nào bố mẹ chúng cũng sẽ mua thuốc đánh răng này và ta sẽ
rất giàu. Ta phải pha trộn nhiều công thức khác nhau và mỗi lần
ta lại dùng những con vật này để thí nghiệm. Chính vì thế ta có lũ
súc vật này ở đây.
Bác bảo lão ta:
- Ông hãy thả tất cả những con vật này ra, nhốt chúng như
thế này là dã man. Ông hãy dùng các loại thuốc đánh răng kinh
khủng này để thử nghiệm cho chính mình ấy.
Lão Monty nói:
- Không được. Thuốc đánh răng này đắng lắm. Nhưng bây
giờ thì ta không cần lũ súc vật này nữa, giờ đây ta đã có chú mày.
Lão cười nham hiểm và liếc mắt nhìn một cái lồng còn bỏ
không. Bác chưa kịp phản ứng thì lão ta đã nhảy bổ tới và dùng
bàn tay gầy guộc tóm chặt lấy bác. Lão ta gầy gò thật đấy nhưng
rất khỏe. Hai người vật nhau lăn lông lốc và va vào cái tủ làm
văng ra hàng trăm tuýp thuốc đánh răng. Lão ta và bác vẫn tiếp
tục vật lộn, nhiều tuýp văng cả nắp và thuốc đánh răng phọt ra
ngoằn ngoèo như những con giun đũa. Chẳng bao lâu cả hai người
đều dính bê bết thuốc đánh răng với nhiều màu sắc khác nhau.
Các loại thuốc đánh răng bị pha trộn lung tung và toát ra mùi hôi
thối thật khó chịu. Lão Monty dùng chiếc bàn chải thọc vào đống
thuốc đánh răng hỗn hợp đó và rít lên:
- Nào, thằng nhóc, xem mày có thích không nhé.
Lão tìm mọi cách để chọc cái bàn chải vào mồm bác. Tất
nhiên bác tìm mọi cách để không cho lão quệt loại thuốc đánh răng
táp nham đó vào răng của mình. Bác lấy hết sức ẩy lão bật ra tới
tận chân tường. Lão co rúm người lại, nhăn nhó, nằm trên nền
nhà thở hồng hộc. Bác bảo lão ta:
- Giờ thì ông hãy dùng một ít loại thuốc của ông.
Nói xong bác thọc bàn chải đánh răng và cọ thẳng cánh cái
răng sún xanh xám duy nhất của lão.
Lão tức lắm, lão không thể cam chịu vừa lăn lộn vừa la hét
ầm ĩ. Lão lấy hai tay ôm lấy cổ. Có lẽ vị thuốc đánh răng quá kinh
khủng đối với lão. Sau đó xảy ra một chuyện mà bác không bao giờ
có thể quên được. Cái răng của lão Monty cứ lớn dần lên, cái răng
càng lớn bao nhiêu thì người lão lại co rúm lại bấy nhiêu. Dường
như cái răng đó hút hết thân xác của lão. Lão cứ nhỏ dần, nhỏ dần
như quả bóng bị xì hơi còn cái răng thì cứ phình lên mỗi lúc một to
hơn cả bản thân lão ta. Lúc này không thể nói về một lão Monty
với cái răng mà phải nói cái răng với lão Monty. Cái răng cứ lớn
mãi, lớn mãi cuối cùng nó to bằng một người lớn còn lão Monty thì
teo lại chỉ bằng một hạt đậu. Thế rồi lão biến mất, trên nền nhà
chỉ còn lại chiếc răng to kềnh càng nằm trơ trọi. Bác mê mẩn cả
người và không biết phải làm gì. Bác loạng choạng đi về phía mấy
cái cũi và thả tất cả những con vật bị nhốt ở đó ra. Các con vật hốt
hoảng nhào qua cửa lồng. Cuối cùng là một con chuột túi to tướng.
Nó lo sợ hốt hoảng đến mức làm đổ nhào cả chiếc bàn với cây nến
cắm trên bàn. Ngay lập tức lửa bắt vào mấy tấm rèm cửa và loang
loáng lan ra khắp phòng. Những con vật đã chạy trốn kịp ra khỏi
căn phòng còn bác thì vội vàng lôi cái răng khổng lồ chạy ra ngoài.
Khi lính cứu hỏa tới nơi thì ngôi nhà đã cháy trụi chẳng còn gì.
Ông bác sĩ sẽ sàng nói với Antonio:
- Câu chuyện đến đây là hết. Bác cũng đã hàn xong cái răng
của cháu. Không đau lắm, phải không nào?
Antonio vội vã nói:
- Không, cháu chẳng thấy đau một tý nào cả. Nhưng còn cái
răng khổng lồ cuối cùng thì sao hở bác?
Ông Bin nhìn cái răng to tướng đung đưa trước gió ngay bên
cửa sổ bên dưới có dòng chữ: M.T.Bin - Bác sĩ chữa răng. Sau đó
ông nói:
- Đây là một chuyện bí mật đáng ra bác cũng không được tiết
lộ cho cháu biết.
Antonio đi về nhà, cậu nhìn cái răng bảng hiệu to tướng quét
sơn màu trắng nhưng ở một góc sơn đã tróc ra từng mảng và cậu
thấy rõ màu xanh xám bẩn thỉu. Antonio quay mặt vội vàng đi về
nhà, cậu vừa đi vừa lắc đầu. Bác sĩ Bin lại tiếp tục công việc của
mình. Một cô bé bệnh nhân khóc mếu máo:
- Bác ơi, bác đừng tiêm, cháu sợ lắm!
Bác sĩ Bin nhẹ nhàng hỏi:
- Sau này lớn lên cháu muốn làm gì? Cô bé trả lời:
- Cháu muốn làm vũ nữ múa ba lê. Ông tròn mắt ngạc nhiên
và để cái ống tiêm sang một bên:
- Sao, vũ nữ ba lê à? Cháu bảo cháu muốn trở thành vũ nữ
ba lê hả? Thế thì buồn cười thật, hồi còn nhỏ bác cũng muốn trở
thành diễn viên múa ba lê đấy!
Cô bé rụt rè hỏi:
- Thế tại sao bác lại trở thành bác sĩ chữa răng?
Ông Bin đưa mắt nhìn khắp căn buồng, sau đó ông đóng cửa
lại rồi hạ giọng nói:
- Nếu cháu hứa là không kể với ai thì bác sẽ kể cho cháu
nghe câu chuyện sau đây.
- Và ông nhẹ nhàng với cái ống tiêm.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro