Chương 4: Kết thúc chuyến bay - Four: End of a flight

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Con mèo mun to đùng, mập ú đang sưởi nắng ở ban công, rên gừ gừ, yên ổn tận hưởng cảm giác sung sướng được nằm ườn ra đấy, phơi bụng, khoan khoái trong ánh mặt trời ấm áp, bốn bàn chân nó thu lại và cái đuôi duỗi dài.

The big fat black cat was taking the sun on his balcony /ˈbæl.kə.ni/, purring /pɝː/ and meditating /ˈmed.ə.teɪt/ on how good he felt lying there, belly up, luxuriating /lʌɡˈʒʊr.i.eɪt/ in the warm rays of the sun, his four paws folded and his tail straight out.

Đúng vào khoảnh khắc nó đang lật người lại để phơi lưng ra dưới nắng, nó chợt nghe thấy tiếng vù vù từ một vật thể bay mà nó không thể xác định được, một cái gì đó đang lao tới với tốc độ kinh khiếp. Báo động! Nó nhảy dựng lên, bốn chân lấy đà, sẵn sàng nhảy sang một bên để né cô chim hải âu đang rơi thẳng xuống ban công. Đó là một nàng chim hết sức dơ bẩn. Toàn thân cô bám đầy thứ chất đen sì, hôi rình.

At the precise /prəˈsaɪs/ moment that he lazily rolled over so the sun could warm his back, he heard the hum /hʌm/ of a flying object he couldn't identify, something approaching at great speed. Alert /əˈlɝːt/, he leapt /liːp/ (past simple and past participle of ) up, crouching /kraʊtʃ/ on all four feet and ready to jump aside to avoid being hit by the seagull that dropped onto the balcony /ˈbæl.kə.ni/. It was a very dirty bird. Its whole body was coated /ˈkoʊ.t̬ɪd/ with some dark, stinking substance.

Zorba nhích tới khi cô hải âu lẩy bẩy cố đứng lên, kéo lê theo đôi cánh: "Đáp cánh cũng không được duyên dáng lắm nhỉ," nó bảo.

Zorba walked towards the gull as she tried to stand up, dragging /dræɡ/ her wings. "That was not a very elegant landing," he said.

"Tôi xin lỗi. Tôi không làm sao khác được," cô chim áy náy nói. "Mièo ơi! Cô em trong kinh quá! Cái thứ gớm ghiếc gì bám đầy người cô em thế kia! Mà cô em bốc mùi ghê quá đi thôi!" con mèo hít hít.

"I'm very sorry. I couldn't help it," the gull admitted. "Eeyow! You look awful. What is that all over you? And you stink something awful!" the cat hissed /hɪs/.

"Tôi bị đắm trong váng dầu. Tử thần nơi biển cả. Tôi sắp chết rồi!" cô hải âu rên lên ai oán.

"I was caught in an oil slick. The curse /kɝːs/ of the seas. I'm going to die," the gull croaked /kroʊk/ plaintively /ˈpleɪn.t̬ɪv.li/.

"Chết? Nói tầm bậy tầm bạ! Cô em mệt và bẩn một tí. Thế thôi. Sao cô em không bay sang chỗ vườn thú ấy? Cũng chẳng xa đây lắm đâu, ở đó các bác sĩ thú ý có thể chăm sóc cho cô em," Zorba nói.

"Die? Don't say that. You're tired and dirty. That's all. Why don't you fly over to the zoo? It isn't too far from here, and there are veterinarians /ˌvet.ər.ɪˈner.i.ən/ there who can help you," Zorba said.

"Tôi không thể. Đây là chuyến bay cuối cùng rồi," cô chim thì thào gần như không thành tiếng, rồi nhắm mắt lại.

"I can't. That was my last flight," the gull croaked /kroʊk/ in an almost inaudible /ɪˈnɑː.də.bəl/ voice, and closed her eyes.

"Đừng có chết ở đây. Nghỉ ngơi một tí đi, cô sẽ thấy khá lên thôi. Cô đói không? Tôi sẽ mang cho cô chút thức ăn của tôi, làm ơn đừng chết," Zorba van xin, bò sát lại cô hải âu đã lịm đi.

"Don't die on me. Rest a little and you'll see, you'll feel better. Are you hungry? I'll bring you a little of my

food – just don't die," Zorba begged /beɡ/, approaching the swooning /swuːn/ gull.

Vượt qua cảm giác ghê tởm, con mèo liếm lên đầu cô hải âu. Thứ chất màu đen bám lên cô có vị khủng khiếp y như mùi. Khi đầu lưỡi nó lướt trên cổ cô chim, con mèo có thể nhận thấy hơi thở cô chim đang càng lúc càng yếu ớt.

Overcoming his disgust /dɪsˈɡʌst/, the cat licked the gull's head. The black stuff that covered her tasted as bad as it smelled. As he passed his tongue along her throat /θroʊt/, the cat noticed that the bird's breathing was growing weaker and weaker.

Nghe này, cô bạn nhỏ. Tôi muốn giúp cô, nhưng tôi chẳng biết làm thế nào cả. Cố nghỉ ngơi đi, trong lúc tôi chạy đi tìm cách nào cứu một con hải âu ốm," Zorba nói vọng lại, lấy đà nhảy lên trên nóc nhà.

"Look, my little friend. I want to help you, but I don't know how. Try to rest while I go find out what you do with a sick gull," Zorba called back, ready to jump to the roof.

Khi nó đang chuyển hướng nhảy sang phía cây dẻ, nó nghe thấy tiếng cô chim gọi nó quay lại. "Cô muốn tôi cho cô một chúc thức ăn à?" nó hỏi hơi vững dạ.

As he started off in the direction of the chestnut tree, he heard the gull calling him back. "Do you want me to leave you a little of my food?" Zorba asked, slightly relieved/rɪˈliːv/.

"Tôi sắp sinh một quả trứng. Với tất cả sức lực còn lại, tôi sẽ sinh một quả trứng. Bạn mèo tốt của tôi, ai cũng có thể thấy anh là một con vật rất tử tế có tấm lòng nhân ái cao quý. Bởi vậy, tôi muốn anh hứa với tôi ba điều. Anh hứa với tôi được không?" Kengah nói, cố gắng chậm chạp đứng lên, nhưng vô ích.

"I am going to lay an egg. With the last strength in my body, I am going to lay an egg. My good cat, anyone can see that you are a fine animal, one with noble /ˈnoʊ.bəl/ sentiments /ˈsen.t̬ə.mənt/. And for that reason, I am going to ask you to make me three promises. Will you do that for me?" Kengah croaked /kroʊk/, slowly paddling /pæd/ her feet in a futile /ˈfjuː.t̬əl/ attempt to stand.

Zorba nghĩ cô chim khốn khổ này đang bị mê sảng rồi, và vì cô đang rơi vào tình trạng đáng thương tới mức ấy, nó không còn lựa chọn nào khác ngoài cách tỏ ra rộng lượng. "Tôi hứa là tôi sẽ làm những gì cô muốn. Nhưng bây giờ, cô cứ nghỉ ngơi cái đã," nó nói đầy thương cảm.

Zorba thought the poor gull was delirious /dɪˈlɪr.i.əs/, and because she was in such a sorry state, he had no choice but to be generous. "I promise I will do what you ask. But for now, just rest," he mewed with compassion /kəmˈpæʃ.ən/.

"Tôi không còn thời gian nữa rồi. Hãy hứa với tôi anh sẽ không ăn quả trứng!" Kengah mở mắt, thều thào.

"I don't have time to rest. Promise me you won't eat the egg," Kengah croaked/kroʊk/, opening her eyes.

"Tôi xin hứa rằng tôi sẽ không ăn quả trứng!" Zorba lặp lại câu nói.

"I promise I will not eat the egg," Zorba repeated.

"Hứa với tôi anh sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời," cô nói, rướn cổ cao lên một chút.

"Promise me that you will look after it until the chick is born," she squawked, holding her neck a little higher.

"Tôi xin hứa rằng tôi sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời."

"I promise I will look after the egg until the chick is born."

"Và hãy hứa với tôi anh sẽ dạy nó bay," Kengah hổn hển nói, nhìn thẳng vào mắt con mèo.

"And promise me that you will teach it to fly," Kengah gasped /ɡæsp/, staring directly into the cat's eyes.

Đến lúc này thì Zorba biết cô chim tội nghiệp không chỉ mê sảng, cô ta khùng hoàn toàn rồi.

Then Zorba knew that the poor gull was not just delirious/dɪˈlɪr.i.əs/: she was totally mad.

"Tôi hứa là sẽ dạy nó bay. Và giờ thì cô nghỉ ngơi đi, tôi đi kiếm người giúp," Zorba bảo cô, nhảy phốc một cái lên mái nhà lợp ngói.

"I promise to teach it to fly. And now you rest, I'm going to look for help," Zorba told her, with one leap reaching the tile /taɪl/ roof.

Kengah nhìn lên bầu trời, tạ ơn những làn gió tốt lành đã nâng cánh cô trong suốt cuộc đời, và cô trút hơi thở cuối cùng, một quả trứng lốm đốm xanh lăn ra từ cơ thể đẫm dầu của cô.

Kengah looked towards the sky, thanking all the good winds that had carried her through life, and as she breathed her last sigh, a little blue-speckled /ˈspek.əld/ white egg rolled free of her oil-soaked /soʊkt/ body. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro