Chuyện kể cho bé

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cáo thỏ gà trống

Ngày xửa ngày xưa, trong khu rừng nọ, có một con Cáo và một con Thỏ. Cáo có một ngôi nhà bằng băng, còn Thỏ có một ngôi nhà bằng gỗ. Mùa xuân đến, nhà Cáo tan ra thành nước, Cáo xin sang nhà Thỏ sưởi nhờ rồi đuổi luôn Thỏ ra ngoài.Thỏ vừa đi vừa khóc. Một lát sau Thỏ gặp bầy Chó.

Bầy Chó hỏi Thỏ:

_ Tại sao Thỏ khóc?

_ Làm sao mà tôi không khóc được. Tôi có một ngôi nhà bằng gỗ, còn Cáo, Cáo có một ngôi nhà bằng băng. Mùa xuân đến nhà Cáo tan ra thành nước, Cáo xin sang nhà tôi sưởi nhờ rồi đuổi luôn tôi ra khỏi nhà.

_ Thỏ ơi, đừng khóc nữa!

Bầy Chó an ủi Thỏ.

_ Chúng tôi sẽ đuổi được Cáo đi.

Bầy Chó cùng Thỏ đi về nhà Thỏ. Bầy Chó nói:

_ Gâu! Gâu! Gâu! Cáo cút mau!

Cáo ngồi trên bệ lò sưởi nói vọng ra:

_ Ta mà nhảy ra thì chúng mày tan xác!

Bầy Chó sợ quá chạy mất.

Thỏ lại ngồi dưới bụi cây và khóc. Một con Gấu đi qua, Gấu hỏi:

_ Tại sao Thỏ khóc?

_ Làm sao mà tôi không khóc được. Tôi có một ngôi nhà bằng gỗ, còn Cáo, Cáo có một ngôi nhà bằng băng. Mùa xuân đến nhà Cáo tan ra thành nước, Cáo xin sang nhà tôi sưởi nhờ rồi đuổi luôn tôi ra khỏi nhà.

_ Thỏ ơi! Thỏ đừng khóc nữa! Ta sẽ đuổi được Cáo đi!

_ Không, Bác Gấu ơi, Bác không đuổi được đâu. Chó đuổi mãi không được thì bác đuổi làm sao được!

_ Đuổi được chứ!

Gấu nói giọng cương quyết. Gấu và Thỏ về đến nhà Thỏ, Gấu gầm lên:

_ Cáo, cút ngay!

Cáo ngồi trên bệ lò sưởi nói vọng ra:

_ Ta mà nhảy ra thì chúng mày tan xác!

Gấu sợ quá chạy mất:

Thỏ trở lại ngồi dưới bụi cây và khóc. Một con gà Trống mào đỏ đi qua, vai vác một cái hái. Gà Trống thấy Thỏ khóc bèn hỏi:

_ Tại sao Thỏ khóc?

_ Làm sao tôi không khóc được. Tôi có một ngôi nhà bằng gỗ, còn Cáo có một ngôi nhà bằng băng. Mùa xuân đến nhà Cáo tan ra thành nước, Cáo xin sang nhà tôi sưởi nhờ rồi đuổi luôn tôi ra khỏi nhà.

_ Ta về nhà đi, tôi sẽ đuổi được Cáo thôi.

_ Không! Anh không đuổi được đâu. Chó đuổi mãi không được, Gấu đuổi mãi không xong thì anh đuổi làm sao được!

_ Thế mà tôi đuổi được đấy, nào đi!

Gà Trống và Thỏ cùng về nhà Thỏ. Gà Trống cất tiếng hát:

_ Cúc cù cu cu.

Ta vác hái trên vai

Đi tìm Cáo gian ác

Cáo ở đâu ra ngay!

Cáo sợ quá bảo:

_ Tôi đang mặc quần áo ạ!

Gà Trống lại hát:

_ Cúc cù cu cu.

Ta vác hái trên vai

Đi tìm Cáo gian ác

Cáo ở đâu ra ngay!

Cáo nói:

Cho tôi mặc áo bông đã!

Lần này thì gà quát lên:

_ Cúc cù cu cu.

Ta vác hái trên vai

Đi tìm Cáo gian ác

Cáo ở đâu ra ngay!

Cáo từ trong nhà gỗ nhảy vọt ra, chạy biến vào trong rừng. Từ đó, Thỏ lại được sống trong ngôi nhà của mình.

Bé ơi! Bé đã nghe chuyện "Cáo, Thỏ và Gà Trống" rồi! Bây giờ bé hãy giúp cô trả lời 3 câu hỏi của chuyện nhé!

Câu hỏi thứ nhất: Bé có nhớ hai ngôi nhà của Cáo và Thỏ được làm bằng gì không

Quả táo của ai

Vào cuối mùa thu nọ, trên cây táo ở đầu rừng chỉ còn sót lại một quả táo chín vàng. Trông quả táo thấy ngon lành làm sao.

Một hôm nhân cuộc dạo chơi, Thỏ đi ngang qua nhìn thấy rất muốn hái. Nhưng quả táo chín ở cành cao quá, Thỏ không sao với tới được. Gần đó cũng có một cây cao, Quạ Đen đang ngồi ung dung rỉa lông rỉa cánh, vui đùa với gió và những chiếc lá đang bay bay. Thỏ trông thấy Quạ Đen liền gọi:

_ Bạn Quạ Đen ơi! Hái giúp tôi quả táo chín với!

Nghe xong, Quạ Đen bay sang hái giúp ngay. Nhưng vì táo chín quá, khi Quạ Đen vừa động vào, quả táo rơi ngay đúng lưng Nhím đang đi qua. Bỗng dưng được một quả táo ngon, Nhím liền ôm quả áo chạy ngay, không cần biết của ai cả?

Thấy thế Thỏ vội kêu:

_ Bạn Nhím ơi! Quả táo đó là của tôi mà! Bạn cho tôi xin lại chứ!

Nhím nói:

_ Quả táo chín rụng, tôi bắt được cơ mà!

Thỏ đáp lại:

_ Tôi tìm thấy quả táo chứ! Quả táo này là của tôi!

Vừa lúc đó Quạ Đen bay tới và bảo:

_ Quả táo này là tôi hái đấy!

Thế là cả ba bạn cùng kêu lên:

_ Táo của tôi! Táo của tôi!

Mặc dù đứng khuất sau gốc cây to, nhưng bác Gấu đã nghe rõ đầu đuôi câu chuyện. Bác Gấu đi tới chỗ của ba bạn và nói:

_ Các cháu đừng tranh cãi nữa! Cả ba cháu cùng nói đúng. Song không nên tranh giành nhau như vậy. Hãy bổ quả táo ra làm ba phần, mỗi cháu nhận lấy một phần!

Ba bạn nghe ra thấy phải. Nhím nhanh nhẹn liền bổ quả táo ra làm bốn phần rồi đưa một phần mời bác Gấu và nói:

_ Chúng cháu mời bác! Chúng cháu cảm ơn bác vì bác đã dạy chúng cháu biết phân xử công bằng.

Ba phần còn lại Nhím chia cho hai bạn và mình.

Bốn bác cháu vừa ăn táo vừa nói chuyện vui vẻ. Sau đó các bạn cùng nhảy múa cho bác Gấu xem.

Bé ơi bé đã nghe sau câu chuyện "Quả táo của ai" rồi! Bây giờ bé hãy giúp cô trả lời 3 câu hỏi của chuyện nhé!

Câu hỏi thứ nhất này: Bạn nào nhìn thấy quả táo trước tiên nhỉ?

Mèo lại hoàn mèo

Xưa có một ông nuôi một con mèo, nghĩ rằng con mèo của mình khôn ngoan, tài giỏi không có ai hơn nữa, nên mới đặt tên nó là "Trời".

Một hôm có người bạn đến chơi. Thấy chủ nhà gọi con mèo là "Trời", người bạn ngạc nhiên hỏi:

_ Sao ông lại dám gọi nó là "con Trời"?

Chủ nhà đáp:

_ Con mèo của tôi quý hóa có một, gọi nó là mèo không được. Phải gọi nó là "Con Trời" mới xứng đáng, vì không ai hơn được trời.

Người bạn nói:

_ Thế chẳng phải mây cũng che được mặt trời là gì?

Chủ nhà bảo:

_ Thế thì tôi gọi nó là... con "Mây"!

Người bạn lại nói:

_ Thế nhưng gió lại đuổi được mây!

Chủ nhà lại bảo:

_ Thế thì tôi gọi nó là con "Gió"!

_ Thế nhưng gió lại bị bức tường cản!

_ Thế thì tôi gọi nó là con "Tường"!

_ Thế nhưng chuột lại khoét được tường!

_ Thế thì tôi lại gọi nó là con "Chuột"!

_ Thế nhưng mèo lại bắt được chuột!

Chủ nhà nghĩ một lát rồi bảo:

_ Thôi thì tôi lại gọi nó là con "Mèo" vậy.

Người bạn vỗ tay cười và nói:

_ Ôi! Thế thì "Mèo lại hoàn mèo" rồi!

Câu chuyện đã xong bây giờ bé hãy giúp cô trả lời 3 câu hỏi:

Câu hỏi thứ nhất: Con mèo trong chuyện này mới đầu được ông chủ nhà đặt tên là gì bé có nhớ không?

Bà Lão chăn ngỗng

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào rừng.

Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay

với, vác cả lên lưng về nhà. Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp ai cũng chào hỏi niềm nở:

- Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh nặng của mình trên lưng.

Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông khẽ bảo con:

- Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là một mụ phù thủy đấy.

Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại. Chàng nói:

- Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?

Bà già đáp:

- Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng."

Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:

- Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì đến ngay đấy mà.

Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:

- Quả tôi không phải là nông dân, mà là một vị bá tước giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia.

Bà già nói:

- Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé!

Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:

- Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!

Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:

- Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!

Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà nói mỉa:

- Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn thôi.

Bà nói tiếp:

- Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.

Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát

sống lưng. Chàng nói:

- Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí.

Bà già đáp:

- Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng.

Bá tước nói:

- Mụ già kia, mụ thật hỗn xược.

Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra được. Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách khoái trá. Bà nói:

- Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ thưởng cho xứng công.

Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói. Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng không chịu đi thì bà lấy roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta bảo bà lão:

- Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?

Bà lão đáp:

- Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ và luôn luôn đùa giỡn với nhau.

Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:

- Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất định là có thôi.

Chàng lười

Xưa ở vùng Nam Tây Nguyên có một bà cụ nghèo, góa bụa, có một người con trai siêng ăn biếng làm, dân làng quen gọi là chàng Lười.

Lười có thể nằm ngủ suốt ngày, chỉ cần mở mắt dậy ăn một bát cơm, xong lại nhắm mắt lại ngủ tiếp. Mẹ nói không được. Có hôm, mẹ bưng cơm canh đến tận buồng mà Lười vẫn không chịu thức dậy. Từ nhỏ đến lớn Lười chưa biết nắng thiêu, lửa đốt, khó nhọc là gì.

Một hôm Lười nghe người ta đồn ngoài sông Hinh có nhiều cá, quờ tay xuống là bắt được cá. Lười lấy chiếc cần câu cũ của người cha để lại, đem ra câu. Hắn nằm ngửa, buộc cần câu vào cổ chân, chờ cá động mới giật. Từng đàn cá thấy mồi, bơi lượn xung quanh, không có con nào đớp cả. Mãi tới chiều, Lười mới giật được một con cá nhỏ. Cá lên bờ rồi Lười cũng không thèm bắt, cứ để cho nó nhảy tanh tách dưới gốc sung. Vừa lúc ấy, một con quạ khoang bay qua, trông thấy cá liền sà xuống cắp mất. Lười đưa mắt nhìn theo một cách tiếc rẻ. Chàng ngáp dài, ngáp ngắn, thả cần câu cho trôi theo dòng nước rồi đi về. Lười lên cầu thang, bước vào sân ngồi phịch xuống, bốc cơm ăn một mạch. Ăn no lại ngủ ngay đến tối mịt.

Tin đồn gần xa, con gái xinh đẹp của Pơ-Tao giàu có nhất vùng không chồng mà đẻ con trai. Thằng bé lớn lên, nước da hơi đen, nhưng có khuôn mặt rất thông minh, kháu khỉnh. Pơ-Tao gạn hỏi mãi con gái nhưng nàng chỉ một mực nói: "Con chẳng đi lại với ai cả". Tức quá, Pơ-Tao cho tôi tớ cưỡi ngựa đi loan báo khắp vùng: "Con gái Pơ-Tao sinh được một con trai, ai là cha em bé đến nhà mà nhận con sẽ được thưởng một ngàn con voi và mấy căn nhà dài chứa đầy chóe ba, chóe túc (một loại chóe quý bằng đất nung)".

Thanh niên trong vùng nghe tin ấy, mặc những chiếc áo thêu đẹp nhất, những chiếc khố dài viền nẹp đỏ, lũ lượt kéo đến nhà Pơ-Tao. Cô con gái Pơ-Tao cõng con chỉ từng thanh niên bảo: "Đây là cha mày! Đây là cha mày". Nhưng em bé cứ khóc giãy nảy lên. Đám trai tráng này kéo về, đám trai tráng khác kéo đến, nhưng chẳng có người nào được làm cha cậu bé. Giữa lúc chàng Lười vẫn còn hết giấc này đến giấc khác. Pơ-Tao sai người đi từng làng xem còn sót ai không. Chỉ còn sót mỗi chàng Lười. Bọn tôi tớ Pơ-Tao xúm nhau lại đánh thức chàng dậy nhưng không được. Tức mình, họ nấu chì cho chảy ra, rồi đổ vào vành tai Lười. Nóng quá, Lười mới chịu dậy, ngồi vào bành voi cho họ chở tới nhà Pơ-Tao. Nghe tôi tớ kể lại, Pơ-Tao cười:

- Thằng nhác này, có bước đến nhà ai mà đi lại với con gái ta, nhưng cũng cứ cho hắn gặp thử.

Được tin, người con gái cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang. Vừa thấy chàng Lười, thốt nhiên thằng bé reo lên: "Cha! Cha!" làm mọi người hết sức kinh ngạc. Pơ-Tao thấy con gái mình xinh đẹp lại giàu có mà lại đi lại với thằng lười nhác xấu xí như vậy, nổi giận đuổi con gái lên núi cao. Lười cũng đi theo, họ thành vợ chồng. Hai vợ chồng cõng theo hai gùi gạo to. Nhưng chứng nào vẫn tật ấy, có vợ đẹp, con khôn rồi mà Lười vẫn chẳng thay đổi tâm tính. Chàng vẫn ăn rồi ngủ. Chị vợ không nói gì, một bữa, Lười đang cơn ngủ say, người vợ bỗng chạy vào, giọng hối hả, lo âu, lay mạnh người Lười dậy và bảo:

- Anh ơi, chúng ta sắp chết đói rồi, em có cục vàng làm ra cơm gạo, thấy con gà ăn thóc, em cầm xua gà, chẳng may sảy tay, vàng chạy đâu mất. Em tìm từ sáng đến giờ mà chẳng thấy đâu!

Nghe vợ nói mất cục vàng làm ra cơm gạo, hoảng quá, Lười vác rựa đi phát rừng tìm kiếm. Chàng ra tay phát miết. Mồ hôi tuôn chảy ra đầm đìa như tắm, cây ngã rạp dưới chân. Người vợ theo sau, lấy cây nhọn đào lỗ tra lúa.

Mặt trời lên, Lười phát cây phát bụi. Mặt trời lặn, Lười vẫn phát cây phát bụi. Lười cặm cụi phát mãi, khi ngoảnh cổ lại, chàng thấy cả hai quả đồi lúa mọc xanh rờn. Lười bảo vợ:

- Em ơi, anh vẫn không tìm thấy vàng em ạ!

Vợ lấy tay quệt mồ hôi chảy lấm tấm trên má, chỉ rẫy lúa xanh mơn mởn bảo chồng:

- Vàng đấy, lúa là vàng, chàng không biết à?

Chàng Lười bấy giờ mới hiểu ý vợ. Từ hôm ấy, hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và ngày một giàu có. Một hôm, hai vợ chồng nằm chung bên bếp lửa ấm, nhìn đứa con đang ngủ say, nàng nói nhỏ với chồng:

- Anh này, em không phải là con Pơ-Tao đâu. Em là con của Ben-En (tiên). Mẹ em thấy anh lười quá, chẳng chịu làm ăn gì cả nên mẹ em sai em xuống làm con gái Pơ-Tao. Em đã ăn con cá của anh câu, do con quạ trời tha tới, ăn xong con cá ấy em có mang sinh được thằng bé này, để rồi cùng anh kết duyên lành. Bây giờ anh đã biết làm ăn để nuôi con, nuôi mẹ rồi, em được lệnh phải về trời. Anh ở lại làm ăn cho giỏi, cứ bốn mùa, em lại xin phép xuống chăm con, thăm anh một lần.

Nói xong, nàng cúi đầu xuống hôn con, từ biệt chồng và bay về trời. Chàng Lười nhìn theo vợ cho đến khi khuất bóng. Từ đó, ngày ngày hai buổi, càng thương vợ, Lười càng ra sức phát nương, dọn rẫy. Chẳng bao lâu chàng trở nên giàu có nhất vùng.

Bà Tiên dưới đáy giếng

Ngày xưa có một bà góa có hai cô con gái tính tình trái ngược nhau. Trong khi cô chị suốt ngày rong chơi thì cô em phải làm mọi việc nặng nhọc trong nhà.

Một hôm, cô em ra giếng múc nước. Do trượt chân, cô ngã xuống giếng. Tới đáy giếng, cô em thấy một thế giới thần tiên. Dưới đó có đồng cỏ chan hòa ánh nắng và một lò bánh mì vàng rộm. Cô em nghe thấy lũ bánh mì trong lò đang giục ầm ĩ:

- Ðem chúng tôi ra khỏi lò đi! Chúng tôi chín rồi!

Không sợ bị bỏng, cô em thò tay đưa số bánh mì đó ra khỏi bếp lò. Sau đó cô đến một ngôi nhà, ở đó có một bà tiên già. Bà tiên bảo:

- Con ở đây với ta. Ta cần có người giúp ta làm việc nhà.

Cô em ở lại và phục vụ bà tiên rất chu đáo. Một ngày kia cô xin bà cho về, vì cô rất nhớ nhà. Bà tiên trả lời:

- Con đã hầu hạ ta rất tốt. Vậy con hãy đi đi. Con mở cửa ra là sẽ về tới nhà, và ta sẽ thưởng cho con vì con ngoan.

Lập tức cô em thấy mình đã đứng trên bờ giếng. Khắp người cô đeo đầy những trang sức bằng vàng.

Khi thấy cô em trở về, cô chị ghen tức và bèn chạy ra giếng rồi nhảy ngay xuống. Cô nghĩ: "Ta cũng vậy, rồi ta cũng sẽ đeo đầy vàng."

Khi đến thế giới thần tiên dưới đáy giếng, cô chị từ chối không lấy bánh ra khỏi lò vì sợ bị bẩn tay. Cô chỉ phục vụ bà tiên có một ngày đã đòi bỏ đi vì quá mệt. Bà tiên cho cô về, nhưng khi đến nhà, cô chị thấy trên mình không có vàng bạc mà chỉ trát đầy một thứ hồ dính đặc quánh không cách nào gột ra được.

Thỏ và Nhím.

Gia đình Nhím và gia đình Thỏ sống gần cạnh nhau bên cạnh một con suối nhỏ.

Nhím và Thỏ cùng lớn lên bên nhau, ngày ngày sống cạnh nhau nhưng mà lại hổng chơi với nhau.

Gia đình Nhím thì cho rằng: "Bọn thỏ là lũ ẻo lả, lông lá mướt mượt, tối ngày cứ gặm cà rốt! Nhìn mắc ghét!"

Gia đình Thỏ thì cho rằng: "Cái bọn Nhím thật thô kệch gì đâu, người toàn gai góc, gần gũi tụi nó là cứ mà sợ bị gai đâm vào người. Người gì mà nhìn hổng ưa nổi, hổng thấy có chút gì thân thiện là làm sao!".

Làm hàng xóm, ở cạnh nhau, vậy mà Thỏ và Nhím - hai gia đình hổng ưa nhau chút nào, cũng chẳng mấy khi qua lại trò chuyện như những xóm giềng bình thường khác. Tóm lại là mạnh nhà ai kẻ ấy ở, chả can hệ gì đến nhau. Mà nhiều khi cũng lạ, nhìn cái mặt nhau mà hổng ưa nổi thì dọn đi quách cho rồi chớ ở gần nhau làm gì cho bực mình kìa?

Hỏi ra mới biết, nhà Thỏ thì muốn nhà Nhím dọn đi, nhà Nhím thì muốn nhà Thỏ dọn đi. Cả hai nhà đều muốn ở lại và muốn hàng xóm của mình là kẻ ra đi (Đúng rồi, sao tự nhiên mình phải đi kìa, tụi nó đi mới đúng chớ!). Rốt cuộc, chẳng bên nào chịu bên nào, cứ thế mà cành nanh lẫn nhau. Nhà này hông ưa nhà kia, rồi đâm ra lũ Thỏ con, Nhím con cũng chẳng ưa gì nhau luôn.

Cùng học chung một lớp nhưng Thỏ lại tự tin hơn hẳn Nhím. Nhím cô đơn lắm vì ai cũng "ngại" chơi cùng Nhím, chơi chung nhỡ chẳng may bị Nhím làm bị đau thì sao. Còn Thỏ thì khác. Thỏ đáng yêu, dễ thương, lông lại mịn màng mềm mại. Lại có đôi mắt đẹp nữa chớ, ai nhìn mà hổng thích được. Ngày nào đi học, bọn trong lớp cũng so sánh Nhím và Thỏ. Cái gì của Thỏ chúng cũng bảo là đẹp là đáng yêu. Còn Nhím thì chúng chê quá chừng. Thỏ cũng nhân cơ hội ấy, xui bạn bè xa lánh Nhím con. Trong lớp Nhím chẳng có bạn bè gì ráo, mà Nhím cũng kì, chẳng thèm cải thiện quan hệ với bạn bè gì hết, cứ thế sống lầm lũi và cô độc (Thương cho Nhím quá đi!).

Bữa nọ, trong lớp tổ chức đi chơi dã ngoại ở khu rừng bên kia. Nhím cũng muốn đi lắm, nhưng quy định là phải cùng một bạn khác làm thành một nhóm mà Nhím thì không tìm được ai chịu chung nhóm với mình. Đang buồn thì anh Sư Tử bảo rủ: "Mày đi chung với tao ha". Lạ lắm nha, trước giờ Sư Tử cũng chẳng mấy khi nói chuyện cùng Nhím nữa là đi chung. Trên đường đi , Nhím mới vỡ lẽ ra là anh Sư Tử thích Thỏ, biết Nhím gần nhà Thỏ nên đi chung thăm dò. Buồn ghê! Tự nhiên đi với mình toàn hỏi chuyện người ta, hỏi ngay người mình ghét là Thỏ chứ!

Sư Tử hỏi:

- Nhím nè, mày gần nhà Thỏ, nói tao nghe coi nhà Thỏ có bao nhiêu người?

Nhím trả lời nhát gừng:

- Cũng đông lắm.

Sư Tử hỏi tiếp:

- Ai trong nhà cũng trắng trắng tròn tròn như Thỏ hết hả?

Nhím buông lửng:

- Ừ.

Thấy Nhím chẳng muốn trả lời, Sư Tử đâm bực gầm lên:

- Mày mà im im như thế tao nhai đầu mày bây giờ, tin không?

Nhím nhìn Sư Tử thờ ơ:

- Nhai đi, nhai xong vĩnh viễn chẳng còn nhai cái gì được luôn!

Sư Tử mới tằng hắng:

- Ờ há! Mày trông ghê chết, cho chả ai thèm, ta chỉ thèm cô nàng Thỏ bạn mày thôi!

Nghe nói tự dưng Nhím linh cảm có gì đó không ổn nhưng lại nghĩ chưa ra là không ổn việc gì. Đến buổi cắm trại, moị người tập hợp lại với nhau, Sư Tử tỏ vẻ mình vừa to con vừa đẹp trai, hăng hái giúp mấy bạn gái , được cô cho điểm cộng quá trời. Còn Nhím, cũng muốn phụ bạn bè lắm. Mới ngỏ ý giúp, bạn Gấu đã hăng haí bứt trên ngươì Nhím mấy gai lưng để làm đinh đóng lều dựng trại. Tuy đau lắm, nhưng lần đầu thấy bạn bè hớn hở với mình, Nhím ngây thơ nghĩ họ chắc sẽ không xa lánh mình nữa. Thế là bắt chước bạn Gấu, các bạn khác cũng xúm lại đến bứt gai lưng của Nhím. Lưng Nhím bây giờ Tím bầm và hoen máu, bạn Đà Điểu thấy thế còn bảo:

- Giúp tụi mình đi hen, ngày mai bạn không còn gai lưng, bạn sẽ đáng yêu hơn cho mà xem.

Nhân lúc các bạn đang loay hoay bên Nhím lấy gai làm đinh dựng trại, Sư Tử mon men đến gần Thỏ nói rằng:

- Thỏ ơi Thỏ à! Thỏ dễ thương quá à! Sư Tử thích... thích Thỏ lắm!

Thỏ ta nghe thấy Sư Tử đẹp trai phong độ khen, mắc cỡ đỏ mặt ấp úng:

- Sao tự nhiên khen vậy à! Ngại ghê à nghen!

Sư Tử dụ dỗ:

- Thỏ mệt chưa? Khát nước hông? Theo mình ra suối mình lấy nước cho uống nhen!

Thỏ lưỡng lự:

- Hay Sư Tử mang nước vào đây cũng được mà...

Sư Tử ngon ngọt :

- Trời ơi! Ra đó cảnh đẹp lắm, hai đứa mình sẵn chụp một tấm hình làm kỉ niệm nữa. Sư Tử muốn có tấm hình của Thỏ, để những khi không đi học , nhìn hình sẽ bớt nhớ Thỏ hơn.

Nghe khoái quá, nhưng mà cũng phải e lệ chút, Thỏ mới thẹn thùng nói:

- Thiệt hôn vậy? Ừm, mình đi ra đó chụp hình đi.

Vừa đến chổ bờ suối, đang mon men gần suối uống nước, Sư Tử nhìn Thỏ mà nuốt nước miếng cái "ực", giọng hạ xuống nho nhỏ như thầm thì:

- Thỏ ơi, Thỏ trắng nè, lông Thỏ mịn nè, mắt Thỏ to nè, Thỏ mập mạp dễ thương nè! Sư tử muốn ăn thịt Thỏ quá đi.

Hình như Thỏ có nghe, hình như thấy sợ, cũng đề phòng... nên nhờ vậy mà nhảy loi choi tránh được cú vờn của Sư Tử. Nhưng mà móng vuốt Sư Tử cũng cào mấy đường quanh bụng Thỏ, máu rỉ ra đau dễ sợ luôn. Thỏ khóc.

Phần Nhím, sau khi bị các bạn vặt gai lưng, đau và thấy kiệt sức quá, Nhím lê thân ra suối định nhìm xem lưng mình thế nào, và uống chút nước cho khoẻ. Vừa đến nghe Thỏ khóc, thấy máu Thỏ đỏ cả vùng lông bụng, Sư Tử thì nhìn Nhím vẻ giễu cợt:

- Sao ra đây chi? Ra nhìn ta ăn thịt người mà ngươi ghét nè! Thích không?

Nhím im lặng, Sư Tử tiếp:

- Hề hề, ta đang giúp ngươi đây này. Cái ả thỏ đỏng đảnh này, thịt cho rồi chớ điệu đà thấy ớn luôn à. Xấu mà chảnh dễ sợ!

Lúc này Nhím kiệt sức lắm rồi, nhưng Nhím không thể để cho Sư Tử "ăn" Thỏ được. Nói gì chớ, hông ưa nhau thôi nhưng cũng là bạn học mà. Nhím cố hết sức nói, giọng thều thào thấy thương luôn:

- Bạn Sư Tử nè, bạn đi mau đi! Thỏ nó dòm coi ngon lành vậy chớ thịt nó dở òm à. Chẳng chịu tập thể dục, người cứ bủng ra, ngon lành gì đâu. Mà, cô giáo và các bạn kia sắp ra suối rồi đó. Cô mà biết bạn như vầy, cô đuổi học và mách với ba mẹ bạn đấy! Bạn đi nhanh đi!

Nghe Nhím nói, Sư Tử giật mình, thấy Thỏ dòm ngon lành quá xá nên định "làm ẩu", quên ráo chọi mọi chuyện, giờ nghĩ lại đúng là hổng ổn thiệt rồi. Nhất là, nghĩ đến ba của mình, Sư Tử rùng mình rồi lảng mất vào rừng. Phần Thỏ nãy giờ sợ chết khiếp đi được, máu lại chảy quá chừng nên bóng Sư Tử vừa mất hút là gục xuống muốn xỉu luôn. Nhím ráng lê mình lại gần ý chừng để cõng thỏ lên lưng, Thỏ giãy nãy:

- Lưng bạn gai thế kia, muốn cho tôi lủng bụng luôn hả?

Nhím buồn bã nói:

- Bạn cứ leo lên đi, lưng tôi bây giờ hết gai rồi, vì các bạn trong lớp xin chúng mất rồi.

Thỏ bây giờ nhìn Nhím, đúng là trên lưng mất đi một nhúm gai, giờ nhìn Nhím xấu kinh dị và ghê ghê sao ấy. Thỏ miễn cưỡng leo lên lưng Nhím cho Nhím cõng về. Nhím cõng đến chổ lớp cắm trại thì chẳng thấy mọi người đâu, nhìn tờ giấy bên tảng đá, cô giáo cùng các bạn tưởng Nhím và Thỏ đi lạc nên đổ xô đi tìm hết rồi. Lo thật, bạn Thỏ đang bị thương, nếu không chăm sóc bạn ấy chết mất. Nhím sợ quá đành vác bạn Thỏ về nhà là chắc ăn nhất. Nằm trên lưng bạn Nhím, Thỏ thấy lưng Nhím đang sưng lên, nhưng Thỏ nghĩ nhờ vết sưng nên nằm lên thấy êm ái lắm. Thỏ vô tâm thật. Còn Nhím vêt sưng bị Thỏ đè lên, đau thốn đến tận tim. Nhím cắn răng ráng cõng Thỏ về đến nhà Thỏ. Thấy con mình máu me quá chừng, ba mẹ Thỏ nhìn Nhím mà hằn học, chẳng thèm hỏi han gì thêm đã mắng Nhím rằng lưng đầy gai nhọn thế kia cõng con họ thì làm sao mà không đâm lủng bụng Thỏ, làm sao mà máu không chảy. Tội nghiệp Nhím vừa đau, vừa có lòng tốt mà lại bị mắng oan... lòng buồn quá chừng. Nhím chẳng nói lời nào thêm nữa, chỉ cuối chào ba mẹ Thỏ rồi về nhà. Ráng bước vài bước về đến ngay trước cửa thì Nhím té xỉu. Nói gì thì nói chớ Nhím kiệt sức và đau đớn lắm rồi. Vậy mà chẳng hiểu sao, vẫn thấy Nhím cười mỉm mỉm trên môi thì phải... Hổng lẽ Nhím vui vì bữa nay được bạn bè đối xử tốt tốt, chơi với mình. Hay, Nhím vui vì giúp được Thỏ?

Sáng hôm sau Nhím không dậy được. Người Nhím nóng lạnh liên miên, sốt mất rồi. Mẹ và ba nhím nhìn thấy lưng con mình, nghe Nhím kể mà xót xa cho con quá thể. Họ nhìn sang nhà Thỏ thấy bạn bè đến thăm tấp nập, nhà Nhím kế bên mà chẳng ai thèm ghé. Sau khi Nhím hạ sốt, ba mẹ Nhím nói rằng Nhím đã làm việc tốt, ba mẹ sẽ vì Nhím mà chuyển đến nơi khác sống, cho Nhím được hạnh phúc hơn.

Gia đình Nhím chuyển nhà trong im lặng chẳng mấy ai biết, sáng ra ba Thỏ nhìn sang nhà Nhím thấy vắng hoe thì mới hay, nhưng hổng hiểu sao cả nhà Thỏ lại chẳng thấy vui vẻ mừng rỡ gì mấy, thấy còn buồn buồn chút nữa là.

Từ ngày Nhím chuyển nhà, không đi học, bạn bè ban đầu không ai để ý gì đến sự vắng mặt của Nhím (Thì bình thường có ai để ý gì đâu). Phần Sư Tử và Thỏ cũng không nhắc lại chuyện ở bờ suối hôm trước. Sư Tử không nói gì, nó chỉ lẳng lặng hằng ngày đến lớp và tự nhiên ngoan hẳn ra. Thỏ cũng chẳng dám nói với ai, mà có nói, chẳng lẽ lại bảo rằng bữa đó vì... mê trai đẹp nên bị dụ ra suối mà mém xíu là chết. Xấu hổ chết được đi. Bạn bè hỏi sao bị thương, Thỏ chỉ nói là sơ ý lao phải một cành cây nhọn. Dần dà mọi người cũng không để ý đến nữa.

Một hôm Sư Tử bỗng hỏi trong lớp có ai biết nhà Nhím không để đến thăm, cả lớp lúc đó mới ngạc nhiên, biết tin Nhím chẳng ở đây nữa. Sư Tử lắc đầu ngao ngán và nói:

- Tôi chẳng hiều các bạn, vặt hết gai lưng của Nhím thì nó sống làm sao nổi, nó cõng Thỏ về mà chẳng ai qua thăm nó bệnh. Các bạn quá đáng quá! Hôm đi cắm trại về, tôi kể cho ba tôi nghe về Nhím, ba đã mắng tôi nhiều lắm. Mấy ngày sau tôi theo ông đi vào rừng để ông chỉ cho tôi biết rằng, mỗi loài vật có một bản thể khác nhau, Không ai giống nhau. Khi mình thấy họ khác mình không có nghĩa là họ đáng ghét. Hình dáng bên ngoài không có tội tình gì, các bạn học chung với nhau mà lại xa lánh Nhím chỉ vì những gai lưng xấu xí ấy. Các bạn chẳng bao giờ thèm để ý xem Nhím nghĩ gì cả. Các bạn, và cả tôi nữa, vô tư quá đi. Vô tư đến là vô tâm.

Thỏ nhìn Sư Tử ngơ ngác như hiểu chuyện gì rồi bật khóc. Cả lớp cũng khóc theo.

Từ đấy về sau, không ai biết tin tức bạn Nhím. Thỏ và gia đình bạn ấy cũng chuyển nhà đi nơi khác, cũng chẳng ai biết Thỏ đã đi đâu... Nhưng có lẽ mọi người đều hiểu rằng, dù có đi đâu thì Thỏ vẫn mang trong lòng sự hối hận khó mà quên đi được.

BÓ ĐŨA

Ngày xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì được nuông chiều họ sinh ra lười biếng và ỷ lại. Khi đã trưởng thành, mỗi người đều có một cơ ngơi, nhưng luôn ganh tị lẫn nhau vì những của cải mà cha mẹ cho. Người cha cố gắng để khuyên can họ nhưng vô ích, vì vậy ông rất đau lòng.

Ít lâu sau, người cha bị bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, một hôm ông gọi năm người con đến và bảo gia nhân đem ra một bó đũa. Năm người con ngơ ngác không hiểu người cha có ý định gì, ông cầm lấy bó đũa và bảo từng người hãy bẻ đi, người con nào cũng gắng hết sức mình nhưng không sao bẻ nổi, lúc đó người cha lại bảo "các con hãy bẻ từng chiếc một xem sao", lập tức năm người con bẻ một cách dễ dàng. Lúc đó người cha mới nói:

- Các con ạ, bó đũa ví như năm anh em các con đó, nếu mỗi người các con đều chung tay gánh vác mỗi người một việc thì không kẻ thù nào làm các con gục ngã, còn nếu các con chỉ biết đến bản thân mình thì sẽ trở nên lẻ loi và bị thất bại trong cuộc đời. Nếu các con đoàn kết và thương yêu lẫn nhau thì cha mới có thể yên tâm mà nhắm mắt.

Nghe xong, năm anh em mới hiểu lời người cha dạy, họ rất hối hận :20:với những việc đã làm. Từ đó họ sống hoà thuận và đoàn kết, thương yêu lẫn nhau.

TRÍ KHÔN CỦA TA ĐÂY!

Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên. Đến trưa, mở cày, Cọp liền đi lại gần Trâu hỏi:

- Này, trông anh khỏe thế, sao anh lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy?

Trâu trả lời khẽ vào tai Cọp:

- Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ!

Cọp không hiểu, tò mò hỏi:

- Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào?

Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt:

- Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy!

Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân và hỏi:

- Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không?

Anh nông dân suy nghĩ một lát rồi nói:

- Trí khôn tôi để ở nhà. Để tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần, tôi sẽ cho anh một ít.

Cọp nghe nói, mừng lắm. Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì bèn nói:

- Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn mất trâu của tôi thì sao?

Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp:

- Hay là anh chịu khó để tôi buộc tạm vào gốc cây này cho tôi được yên tâm.

Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy dây thừng trói cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong anh lấy rơm chất chung quanh Cọp, châm lửa đốt và quát:

- Trí khôn của ta đây! Trí khôn của ta đây!

Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào. Mãi sau dây thừng cháy đứt, Cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoái nhìn lại.

Từ đó, cọp sinh ra con nào trên mình cũng có những vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả.

CHÚ BÉ TÍ HON

Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ: - Vợ chồng mình hiếm hoi thật là buồn. Nhà mình tẻ ngắt, còn các nhà láng giềng thì thật là vui vẻ nhộn nhịp.

Bác gái thở dài đáp:

- Giá như được một đứa con dù bé bằng ngón tay cái, tôi cũng thỏa lòng, chắc vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.

Được ít lâu, người vợ thụ thai và bảy tháng sau sinh được một thằng bé đầy đủ mặt mũi chân tay, nhưng chỉ vừa bằng ngón tay cái.

Hai vợ chồng nói:

- Thật đúng như lời ước nguyện. Vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.

Vì nó bé bằng ngón tay cái nên họ đặt tên nó là Tý hon. Tuy hai vợ chồng cho con ăn uống đầy đủ, con vẫn không nhỉnh lên một chút nào cả, cứ nguyên như lúc đẻ ra. Được cái mắt nó sáng, có vẻ thông minh. Chẳng bao lâu nó đã khôn ngoan khéo léo, làm gì cũng được.

Một hôm người bố sửa soạn vào rừng đẵn củi, miệng lẩm bẩm: "Giá ta có người đánh xe hộ có thích không". Tý hon bèn thưa rằng:

- Bố ạ, con đánh xe được, bố cứ tin ở con, thế nào xe cũng đến rừng đúng lúc.

Bố cười nói:

- Con đánh xe thế nào được! Con bé quá, không cầm nổi cương đâu.

- Không sao bố ạ. Nếu mẹ con thắng ngựa vào cho con, con sẽ ngồi vào tai nó. Con thét một tiếng là nhất định nó phải đi.

Bố nói:

- Được, để thử xem.

Mẹ thắng ngựa và đặt Tý hon vào tai ngựa. Nó thét "Tắc, tắc" cho ngựa chạy. Thế là ngựa chạy như có người đánh xe thật, và xe cứ lên đường chạy vào rừng. Khi xe rẽ ở một chỗ ngoặt, Tý hon thét: "Tắc, tắc" thì có hai người lạ mặt chạy đến.

Một người nói:

- Trời ơi, không thấy người đánh xe mà xe cứ đi, lại nghe thấy tiếng người đánh xe. Quái lạ nhỉ!

Người kia cũng nói:

- Ừ, cũng lạ thật, ta thử đi theo xem xe ở chỗ nào.

Xe chạy thẳng một mạch vào rừng rồi dừng lại đúng chỗ có củi đã đẵn. Tý hon thấy bố gọi:

- Bố ơi, bố thấy chưa, con đã đưa xe đến đây, bố cho con xuống đi.

Bố chạy đến, tay trái nắm cương ngựa, tay phải nhấc con ra khỏi tai ngựa, rồi đặt con xuống. Tý hon vui vẻ ngồi lên một cọng rơm. Trông thấy Tý hon hai người lạ mặt sửng sốt không nói lên lời. Một người kéo bạn ra một chỗ bảo:

- Này, nếu ta đem thằng nhóc này đi làm trò ở tỉnh to thì phát tài đấy. Ta mua nó đi.

Hai người bèn đến bảo bác nông dân:

- Ông bán cho chúng tôi thằng bé này, chúng tôi sẽ chăm sóc nó cẩn thận.

Người bố đáp:

- Không, nó là khúc ruột cắt đôi của tôi. Bạc vàng trên cả thế gian này đối với tôi cũng không bằng được.

Nghe thấy hai người hỏi mua, Tý hon níu lấy quần áo bố trèo lên vai nói thầm:

- Bố ơi, bố cứ bán con đi, thế nào rồi con cũng về được.

Ông bố liền bán con lấy một số tiền to.

Hai người kia hỏi Tý hon:

- Mày muốn ngồi đâu?

- Khó gì đâu, cứ để cháu lên vành mũ, cháu sẽ đi đi lại lại trên ấy xem phong cảnh, cháu không ngã đâu mà ngại.

Một người đặt nó lên vành mũ.

Sau khi Tý hon đã chào bố, họ đem nó đi, đi mãi. Đến xâm xẩm tối, Tý hon nói:

- Cho cháu xuống đất một lát, cháu cần lắm.

Người mang nó trên mũ nói:

- Cứ việc ở trên ấy, không có gì phiền bác đâu, chim thỉnh thoảng vẫn ỉa trên ấy mà!

Nó nói:

- Không mà, cháu cũng biết cư xử thế nào cho phải, ông cho cháu xuống mau mau đi.

Người ấy cất mũ, nhắc Tý hon xuống ruộng gần vệ đường. Nó lẩn ngay vào giữa những cục đất, rúc vào một cái hang chuột. Rồi nó lên tiếng chế hai người kia:

- Thôi chào hai ông, hai ông về với nhau nhé.

Hai người lấy gậy chọc vào hang chuột để bắt nó, nhưng mất công toi vì Tý hon bò vào sâu quá. Trời đã tối hẳn, hai người đành bỏ về tay không. Khi họ đi rồi, Tý hon chui ở hang ra. Nó nghĩ bụng: "Đêm tối mà cứ chuệnh choạng ngoài đồng thì nguy, vỡ đầu gãy cẳng như chơi". May sao nó vấp phải một cái vỏ sên. Nó chui vào nói:

- Lạy chúa, đêm nay con có chỗ ngủ yên rồi.

Vừa chợp mắt, thì nó nghe thấy tiếng hai người đi qua. Một người nói:

- Làm thế nào mà ăn trộm được vàng bạc của lão cha xứ giàu sụ nhỉ?

Tý hon nói xen vào:

- Để tôi bày mưu cho.

Một tên trộm hốt hoảng nói:

- Cái gì thế? Tao vừa nghe thấy tiếng người nói!

- Các bác cứ đi theo, tôi sẽ giúp cho.

- Nhưng mày ở chỗ nào cơ?

- Các ông cứ tìm tôi ở dưới đất, chỗ nào có tiếng nói ấy.

Bọn kẻ trộm tìm mãi mới thấy Tý hon. Chúng nhấc nó lên hỏi:

- Mày liệu giúp chúng tao được việc gì hở nhãi?

- Cháu sẽ luồn qua chấn song cửa sổ nhà cha xứ. Các bác muốn lấy gì cháu chuyền ra cho chứ gì.

- Được. Để xem tài mày ra sao.

Khi kẻ trộm đến nhà cha xứ, Tý hon chui vào buồng, rồi thản nhiên hỏi rõ to:

- Các bác có muốn khoắng sạch cái buồng này không?

Bọn kẻ trộm sợ hãi bảo nó:

- Nói khẽ chứ, người ta thức dậy bây giờ!

Nhưng Tý hon vẫn tảng lờ như không nghe tiếng lại hỏi to:

- Các bác muốn lấy gì, khoắng sạch nhé?

Bà cụ làm bếp ngủ ở buồng bên cạnh nghe thấy ngồi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Bọn kẻ trộm hốt hoảng toan lẩn ra nhưng lại trấn tĩnh, cho là Tý hon trêu mình thôi. Chúng trở lại khẽ bảo:

- Thôi nào đừng đùa nữa. Có gì thì chuyển ra đi nào!

Tý hon lại kêu thật to:

- Cháu chuyển tất cả nhé, giơ tay ra mà đón lấy.

Lần này bà già nghe thấy rõ mồn một, bước xuống giường lò mò ra cửa. Kẻ trộm vội chạy bán sống bán chết như có ma đuổi. Bà già không thấy gì, đi thắp nến. Khi bà trở lại, Tý hon đã trốn vào đống cỏ. Bà lục soát mọi chỗ không thấy gì, tưởng là mình mê ngủ, lại lên

giường nằm. Tý hon nằm co ro trong đám cỏ khô, định ngủ đến sáng mai rồi về nhà. Nhưng định thế này lại ra thế khác. Chà, ở đời thật lắm nỗi gian nan! Trời vừa tàng tảng sáng, bà già đã dậy cho súc vật ăn. Trước tiên bà vào kho, lấy một ôm cỏ, đúng ngay chỗ Tý hon ngủ. Tý hon ngủ say quá, nên mãi đến khi vào mồm bò rồi mới thức giấc. Nó kêu lên:

- Trời ơi tôi đã ở trong cối bác nện dạ rồi.

Nhưng sau đó biết ngay là mồm bò rồi. Nó cố tránh cho khỏi bị nghiến, thì bị nuốt trôi vào dạ dày. Nó nghĩ bụng: "Gian nhà này không có cửa sổ, chẳng thấy mắt trời, đèn đóm gì cả!". Ở đây nó thấy khó chịu lắm, khổ nhất là cỏ cứ tuôn vào, chỗ ở ngày càng thêm chật hẹp. Nó sợ quá kêu to:

- Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa! Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa!

Lúc đó, bà già đang vắt sữa bò, không trông thấy người mà lại nghe thấy tiếng nói y như tiếng đêm qua. Bà sợ quá, đang ngồi ghế, ngã lăn ra đổ hết sữa. Bà vội đi tìm cha xứ mách:

- Quái lạ, bò nhà biết nói cha ạ.

Cha xứ hỏi:

- Bà điên à?

Rồi cha xuống chuồng bò xem thực hư thế nào.

Cha mới bước vào, đã nghe thấy tiếng Tý hon kêu to:

- Đừng tuồn cỏ tươi vào nữa!

Cha xứ cũng đâm hoảng. Cho là bò bị quỷ ám. Cha sai giết bò. Người ta làm thịt bò xong quẳng ra đống phân cái dạ dày có chứa Tý hon. Nó loay hoay mãi mới thò được đầu ra, lại gặp ngay sự chẳng lành: một con chó sói đói bụng qua đấy, nuốt chửng cả dạ dày lẫn nó. Tý hon vẫn yên trí nghĩ bụng:

- "Có lẽ sói này bảo được".

Rồi từ trong bụng sói nó nói to:

- Cậu sói ơi, tôi muốn mách cậu một miếng ăn tuyệt ngon.

Sói hỏi:

- Ở đâu thế?

Tý hon bảo cho sói biết nhà bố mình ở đâu và nói:

- Cậu cứ chui qua cống vào bếp thì cậu sẽ tha hồ chén bánh ngọt, mỡ, xúc xích, đủ thứ.

Sói không đợi Tý hon phải nói hai lần. Đêm đến, sói vội chui qua cống vào bếp chén thả cửa. Sói ăn no phình bụng rồi, muốn ra không được, vì qua đường cũ không lọt nữa. Tý hon đã tính trước đến mức đó. Thế là ở trong bụng sói, Tý hon kêu la inh ỏi lên. Sói

nói:

- Mày có im đi không người ta thức dậy bây giờ.

Tý hon đáp:

- Úi chà, cậu đã chém thích rồi, tôi cũng phải tiêu khiển chứ.

Nói xong nó lại hét ầm lên.

Bố mẹ nó nghe tiếng, thức dậy chạy xuống bếp ngó qua keo vách thì thấy sói. Ông chạy đi lấy rìu, bà lấy hái. Lúc vào chồng bảo vợ:

- Bà đứng sau tôi, nếu tôi choảng một cái mà nó chưa chết ngay, thì bà đâm vào bụng nó nhé.

Tý hon nghe thấy tiếng bố, reo lên:

- Bố ơi, con ở trong bụng sói đấy.

Bố mừng quýnh nói:

- Lạy chúa! Đứa con vàng bạc của tôi đã về đây rồi.

Rồi bác bảo vợ vứt hái đi để con khỏi bị thương. Đoạn ông giơ rìu lên, giáng cho sói một nhát chết tươi. Sau bác lấy dao kéo mổ bụng sói, lôi Tý hon ra.

Bác nói:

- Ở nhà bố mẹ lo cho con quá con ạ.

- Thưa bố, con đã đi đây đi đó nhiều, may mà nay con lại được thở không khí trong lành.

- Thế con đã đi những đâu?

- Bố ạ, con đã ở trong hang chuột, trong dạ dày bò, trong bụng sói, bây giờ con muốn ở nhà với bố mẹ.

Bố mẹ ôm hôn con mà rằng:

- Từ nay dù được bao nhiêu tiền, bố mẹ chẳng bán con nữa đâu.

Rồi bố mẹ cho con ăn uống và may quần áo mới cho nó, vì quần áo cũ đi nhiều đã rách hết.

Các em đã bao giờ giúp bố mẹ làm việc chưa? Nếu chưa thì các em thua chú bé Tý hon rồi đấy. Chú chỉ bé bằng ngón tay cái nhưng chú giúp bố mẹ chú rất nhiều việc nhờ vào trí thông minh. Các em sẽ giúp được bố mẹ nhiều việc tùy vào khả năng của mình để không bao giờ phải thua chú bé Tý hon nhé!

SỰ TÍCH HOA MAI VÀNG

Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt cho mọi người ăn. Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên đầu ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt. ông Táo già nhất vụt hiện ra nói:

- Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất.

Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa. Nhưng ông Táo già thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc lát. Một hôm thương ông, cô em hỏi:

- Ông thích lửa thôi à? Ông còn thích gì nữa không?

-Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói:

- Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây!

Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời... Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo:

- Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết!

Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay:

- Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm.

Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ... Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người cha bảo:

- Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo.

Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già:

- Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi.

Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi:

- Cháu thấy con quái có sợ không?

- Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu.

Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi:

- Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không?

Cô gái nhỏ liền đáp:

- Con xin cha mẹ và chị để cho con đi!

Người cha nói:

- Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội.

- Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm.

- Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi.

Cô gái nhỏ liền thưa:

- Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay.

Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ:

- Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì?

Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp:

- Con rất thích màu vàng!

Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ và chị:

- Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa...

Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa:

- Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe.

Ông Táo liền hiện ra nói:

- Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về...

Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha:

- Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi. Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm.

Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu:

- Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra.

- Cha cứ yên tâm.

Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người. Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ. Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi:

- Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại...

Ông Táo đá núi liền hứa:

- Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu...

Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay:

- Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại.

Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con:

- Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày.

Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi:

- Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được?

- Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy.

- Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay!

- Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai!

- Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy!

Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi:

- Mẹ ơi! Chị ơi!

Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má.

Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng. Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi... Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi... Năm nào cũng thế. Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn. Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong. Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước.

Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng. Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà. Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm.

Nữ thần mặt trời và mặt trăng

Vua trên trời là Ngọc Hoàng có hai con gái đẹp. Ngọc Hoàng yêu quý hai nàng lắm nên cho các nàng hàng ngày luân phiên nhau đi xem xét mọi việc của hạ giới để báo lại cho nhà Trời. Cô gái đầu tên là Mặt Trời được ngồi kiệu hoa có bốn người khiêng.

Bốn người này chia làm hai tốp: một tốp già và một tốp trẻ. Tốp các cụ già khiêng kiệu luôn luôn lo làm tròn phận sự, chăm chỉ vào công việc nên cô Mặt Trời thường đi một vòng rất nhanh. Còn tốp trẻ bản tính la cà nên những lần được phân công khiêng kiệu thường về muộn. Vì thế, mỗi lần Mặt Trời đi với tốp trẻ thì ngày dài, và đi với tốp già thì ngày lại ngắn.

Mặt Trăng là cô em tính tình nóng nảy còn hơn cả cô chị. Sức nóng của cô đã làm hại cho người và muôn vật khá nhiều. Ấy thế mà cô vẫn cứ chỏng lỏn, đi đâu cũng sà vào khiến cho nhân dân vô cùng kinh hãi. Trần gian khổ sở vì cô Mặt Trăng, họ đã kêu ca rất nhiều, tiếng thấu lên Thượng giới khiến cho bà mẹ đã định lấy tro mà bôi lên mặt cô để giảm bớt sức nóng đi. Nhưng Ngọc Hoàng chiều con, nên không để cho vợ làm việc ấy.

Bấy giờ ở dưới trần có một chàng trai tên là Quải. Quải là con mồ côi nhưng lại có một thân thể cực kỳ to lớn và sức khỏe tuyệt vời. Trước những hành động tai ác của cô Mặt Trăng, Quải quyết tâm trị cho một mẻ. Anh ta đón đường cô Trăng trên một đỉnh núi cao và trữ sẵn một đống cát thật lớn. Hôm ấy, cô Mặt Trăng vẫn quen thói cũ vừa đi vừa sà xuống để nhìn muôn vật, Quải chờ cho cô ta đến gần rồi bất thình lình bốc cát ném túi bụi vào mắt, vào mặt mũi cô. Cô Trăng đang rong chơi, bị tấn công đột ngột, nhắm mắt lại nhưng đất đã dính đầy mặt và chui cả vào trong mắt. Cô ta hốt hoảng vội vụt bay lên cao, lảng ra xa chỗ Quải đứng.

Từ đó trở đi cô không dám sà xuống gần mặt đất nữa. Mặt mũi cô bị cát dính chặt nên không còn sáng được như xưa. Sau này tính tình của cô trở nên dịu dàng, hiền lành hơn, ở dưới trần ai cũng thích. Người ta nói mỗi lần cô ngoảnh mặt xuống nhân gian thì lúc đó là trăng rằm, cô quay lưng tức là ba mươi, mùng một, còn cô trở sang trái, sang phải tức là thời kỳ trăng hạ huyền hoặc thượng huyền. Còn những khi trăng quầng, ấy là lúc cát bụi trát mặt bị gió thổi bay tung ra.

Sự tích con cào cào

Cào cào xưa kia là một cô gái đẹp. Tính cô thích ăn diện nhưng vì nhà nghèo nên cô chưa được thỏa ý muốn.

Một hôm, nhà vua bị lạc cô công chúa. Vua sai quân lính đi tìm khắp đó đây. Lúc đó cô gái đẹp đang kiếm củi bên một gốc cây sấu lớn bên đường. Tốp lính thứ nhất đi qua, họ bèn hỏi:

- Cô có thấy ai đánh cắp công chúa đi ngang qua đây không?

Cô gái nhìn ra thấy toán người này có nhiều quần áo đẹp, cái nào cũng mỏng bay như lụa màu hồng. Cô thích quá liền bảo:

- Cho tôi một chiếc áo, tôi sẽ chỉ đường, tôi đang rét lắm.

Tốp lính bảo nhau cho cô gái một chiếc áo, rồi tiếp tục đi theo hướng cô đã chỉ.

Một lúc sau lại thấy tốp lính khác chạy qua. Tốp này mặc toàn màu xanh lá. Trông thấy cô gái, họ dừng lại hỏi:

- Cô ơi, cô có thấy ai cắp công chúa qua đây không?

Cô gái nghĩ: tốp trước đã cho ta áo hồng, tốp này có áo xanh, ta xin một cái mặc cho đẹp. Nghĩ vậy, cô liền bảo họ:

- Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi chỉ lối cho mà đi.

Tốp lính lại bảo nhau cho cô gái cái áo xanh đẹp nhất, rồi họ lại theo đường cô chỉ dẫn.

Được hai cái áo, cô gái thích quá. Cô mặc vào đứng ngắm mình không chán mắt. Cô chắc thầm hôm nay về nhà ai cũng phải khen ta là đẹp.

Trong khi cô đang ngắm vuốt thì lại thấy một tốp lính nữa đi qua. Tốp này mặc toàn quần áo trắng trong như nước suối. Họ thấy cô gái cũng hỏi:

- Cô ơi, cô có thấy ai cắp công chúa chạy đường này không?

Cô gái lại quen như hai lần trước, cô lại đòi một cái áo rồi mới chỉ đường cho tốp lính đi qua.

Thế là cô được ba cái áo: một hồng, một xanh, một trắng. Cái nào cũng mỏng bay đẹp lắm.

Cô mặc cả ba áo vào, ngắm nghía rồi nhảy nhót tung tăng. Bỗng trên trời có một tiếng sét nổ dữ dội, làm một cành cây sấu gãy rơi xuống đầu cô gái. Cô bị bẹp đầu rồi chết, hóa thành con cào cào, suốt ngày chỉ tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu.

7 con quạ

Ngày xưa, có một người sinh được bảy con trai, nhưng không có con gái, cầu cũng chẳng được. Mãi về sau, vợ có mang, bác ta chứa chan hy vọng, quả nhiên đứa con ra đời là gái.

Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng đứa con lại bé quá. Vì thấy con yếu ớt, bố mẹ định làm phép rửa tội gấp cho con. Bố vội sai một đứa con trai chạy ra suối lấy nước. Sáu đứa kia cũng đi theo. Bảy đứa tranh nhau múc nước, cái bình lăn xuống nước. Chúng không biết làm thế nào, không đứa nào dám về nhà. Thấy con mãi không về, bố sốt ruột, nói:

- Mấy thằng ranh lại mãi chơi quên múc nước rồi.

Bố sợ con gái nhỡ chết không được chịu phép rửa tội, phát cáu, rủa con:

- Ước gì cả bảy thằng hóa ra quạ tất!

Vừa nói buông lời thì nghe thấy tiếng vỗ cánh trên đầu và bảy con quạ đen như than bay liệng. Bố đã trót rủa rồi, hối lại không kịp nữa. Hai vợ chồng buồn vì mất bảy đứa con, nhưng được an ủi đôi phần vì thấy đứa con gái quý mỗi ngày một khỏe lên và đẹp ra. Bố mẹ giữ kín, giấu không cho cô biết chuyện. Mãi sau cô nghe thấy láng giềng xì xào rằng cô đẹp thật, nhưng vì cô mà bảy anh cô phải khổ, thì cô mới biết rằng mình có anh. Bố mẹ không thể giấu con được nữa, nói tránh ra rằng đó là lòng trời, và cô sinh ra chẳng có tội gì.

Nhưng cô em hằng ngày vẫn bị lương tâm cắn rứt và quyết tâm giải thoát các anh khỏi phù phép. Cô bứt rứt lắm, trốn nhà ra đi khắp nơi mong tìm ra tung tích các anh để giải thoát các anh bằng mọi cách. Cô chỉ mang theo một chiếc nhẫn nhỏ làm vật kỷ niệm của cha mẹ, một cái bánh mì để ăn, một bình nước nhỏ để uống và một cái ghế con để ngồi cho đỡ mỏi.

Cô đi mãi, đi mãi, đi đến tận cùng thế giới. Cô đi tới mặt trời, nhưng mặt trời nóng quá. Cô vội rời mặt trời và chạy tới mặt trăng, nhưng mặt trăng lạnh lẽo quá. Cô bé vội quay gót, đi tới các vì sao. Các vì sao tiếp cô niềm nở, vị nào cũng ngôì trên một cái ghế con. Sao Mai đứng dậy, cho cô một cái xương nhỏ và bảo cô:

- Không có cái xương nhỏ này thì con không thể nào mở được núi Thủy Tinh là chỗ ở của các anh con.

Cô bé cầm cái xương, lấy khăn bọc cẩn thận, rồi đi mãi đến núi Thủy Tinh. Cửa núi đóng. Cô cởi khăn tay ra để lấy cái xương, nhưng không thấy nữa. Thế là cô đã đánh mất món quà của vì sao tốt bụng. Làm thế nào bây giờ? Cô muốn cứu các anh mà chìa khóa núi đã mất rồi. Cô bèn rút dao ra, cắt một mẩu ngón tay đút vào ổ khóa, thì mở được khóa. Cô bước vào, thấy một người lùn ra hỏi:

- Con đến tìm gì ở đây?

- Con tìm các anh con là bảy con quạ.

- Bây giờ các ông quạ đi vắng, nhưng nếu con muốn chờ các ông về thì con vào đây.

Người lùn sắp món ăn tối cho bảy ông quạ vào bảy cái đĩa nhỏ và đặt bảy cái cốc nhỏ. Cô bé ăn ở mỗi đĩa một miếng và ở mỗi cốc một hớp. Cô thả cái nhẫn mang theo vào cốc cuối cùng. Chợt cô nghe thấy ở trên không có tiếng vỗ cánh.

Người lùn liền nói:

- Các ông quạ đã về đó!

Các ông quạ về thật. Mỗi ông đi tìm cốc đĩa của mình để ăn uống. Hết ông nọ đến ông kia hỏi:

- Ai đã ăn ở đĩa của tôi? Ai đã uống ở cốc của tôi? Nhất định có người đụng đến cốc đĩa này.

Khi con quạ thứ bảy uống hết cốc, thì nó thấy cái nhẫn. Nó nhìn nhẫn chằm chằm và nhận ra là cái nhẫn của mẹ, bèn nói:

- Cầu chúa cho em chúng ta ở đây thì chúng ta được giải thoát.

Qụa vừa nói xong, cô bé đang đứng sau cửa liền bước vào. Tức thì đàn quạ lại hóa ra người. Anh em ôm chặt lấy nhau hôn nhau mãi, rồi vui vẻ cùng nhau lên đường về nhà.

Truyền thuyết Ngọc lục bảo - Emerald

Từ rất lâu rồi, Emerald (Ngọc lục bảo) luôn được mọi người yêu mến vì nó là một trong những loại đá quí tạo nên sự quyến rũ cho nữ giới cũng như sự sang trọng cho những ai sở hữu nó.

Nhưng bản thân Ngọc lục bảo thì không như vậy, nó mặc cảm vì không có vẻ kiêu sa của hồng ngọc, hay vẻ thùy mị của ngọc trai. Bên cạnh đó, nó thấy rằng ít ai có thể đeo nó khi đến dự những buổi tiệc quan trọng vì màu sắc của nó rất kén chọn trang phục và dáng người. Chính vì thế mà ngày này qua ngày khác, sự tự ty càng lớn dần, cho đến một ngày nó bị người ta lãng quên thật sự khi người ta nhận thấy nó không còn tỏa sáng và cũng giống như những thứ đá có màu sắc khác. Một thứ đá rất đơn thuần và không có điểm gì nổi bật. Nó dần bị đào thải và bị ném xuống suối để sống cuộc sống của đá cuội: lặng lẽ và cô đơn.

Rồi một ngày nọ, có một người thanh niên rất phong độ ghé ngang con suối nhỏ - nơi mà Ngọc lục bảo đang sống. Bất chợt, người thanh niên dừng lại, chàng ngồi cạnh bờ suối và suy nghĩ xa xăm. Chàng bồng nhiên tâm sự một mình:

Câu chuyện rất lãng mạn về chàng và một nàng công chúa xinh đẹp, thông minh và có một trái tim rất lương thiện. Tiếng lành đồn xa, chàng - hoàng tử của nước láng giềng đã lặn lội đường xa tìm đến. Chàng yêu công chúa từ cái nhìn đầu tiên nhưng công chúa không muốn lấy hoàng tử vì nàng đang đợi người mang món quà sinh nhật đến cho nàng như lời tiên đoán của bà tiên đỡ đầu: "Người ấy sẽ là chồng của công chúa vì người ấy sẽ trao cho công chúa một món quà mang đến một vẻ đẹp huyền bí và sang trọng vào bậc nhất. Nó mang đến một chút bí ẩn và quyền lực cho những ai sở hữu nó. Đó chính là một hòn đá với màu sắc rất riêng mà chỉ có thể tồn tại trong truyền thuyết...một hòn đá mang đến hạnh phúc."

Sinh nhật lần thứ 18 sắp đến và công chúa đã chờ đợi người ấy quá lâu, nàng không thể từ bỏ sự mong đợi của mình vào phút cuối. Nhưng công chúa cũng rất yêu hoàng tử!...làm sao đây?...cuối cùng, công chúa lâm bệnh nặng mà không thuốc thang nào hiệu nghiệm. Nàng ốm liệt giường và bất tỉnh cả tuần lễ nay. Hoàng tử rất đau khổ vì ngày ngày phải nhìn thấy vẻ mặt công chúa ngày càng xanh xao. Cuối cùng, chàng quyết định ra đi tìm hòn đá ấy vì chỉ có hòn đá ấy mới mang lại hạnh phúc cho công chúa, mặc dù biết rằng sau khi tìm thấy hòn đá ấy thì công chúa sẽ lấy một người khác và hoàng tử sẽ thua cuộc. Nhưng không còn cách nào khác, thà hi sinh mình chứ chàng không muốn nhìn thấy công chúa chết. Vậy là chàng đã ra đi, chàng đi đã rất lâu mà vẫn không tìm thấy thứ đá ấy. Cuối cùng, chàng gần như kiệt sức và số phận đã đưa chàng đến con suối nhỏ này.

Nghe câu chuyện cảm động ấy tự nhiên hòn đá chảy nước mắt. Hòn đá cũng biết khóc vì nó có linh tính. Không biết nó khóc bao lâu nhưng nước mắt của nó đã cuốn trôi bao nhiêu rong rêu lâu nay bám trên người nó để lộ ra những đường nét sắc sảo trên cơ thể nó. Dưới làn nước trong xanh, mát lạnh, vẻ đẹp của nó tỏa sáng lấp lánh và tinh khiết hơn bao giờ hết. Bất chợt, hoàng tử nhìn thấy nó làm người rất đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy một hòn đá với màu sắc kì lạ như vậy, người bước xuống suối và đến gần nó, chàng nhặt nó lên, ngắm nghía và chàng nhận ra đó chính là hòn đá mà công chúa chờ đợi. Ngay lập tức, hoàng tử mang nó về kinh đô, chàng giao nó cho một người thợ kim hoàn giỏi nhất để gọt giũa lại. Mấy ngày chịu đựng đau đớn đã qua, cuối cùng, Ngọc lục bảo đã về lại với chính mình, về lại với vẻ đẹp gần như hoàn hảo khi xưa. Nó được hoàng tử đem đến tặng cho công chúa. Rất khẽ, công chúa mở mắt ra, nàng nhìn thấy hòn đá ngay ngày sinh nhật của mình, nàng mỉm cười vì tấm lòng của hoàng tử, nàng khỏi bệnh!

Một tuần lễ sau, hai người tổ chức một lễ cưới rất đẹp và trang trọng. Công chúa không hề đeo bất kì trang sức nào ngoài chiếc nhẫn có đính một viên ngọc lục bảo. Ngọc lục bảo rất tự hào vì nó chính là món trang sức quí giá nhất được công chúa trân trọng đến thế. Ngay phút giây trọng đại nhất, bà tiên đỡ đầu xuất hiện, bà chúc công chúa một lời chúc cho hạnh phúc của hai người. Đoạn, bà đặt tay lên viên ngọc lục bảo và nói: "Không phải thời gian làm người ta lãng quên ngươi, Ngọc lục bảo! Mà ngươi bị lãng quên vì ngươi không cố gắng tự làm mình tỏa sáng. Ngươi biết không, ngươi là một tạo vật của Thượng Đế. Không có một thứ gì Thượng Đế tạo ra lại vô dụng cả, ngươi quá tự ty và chính sự tự ty khiến ngươi không nhìn thấy cái đẹp trong chính ngươi. Có thể với người này ngươi không là gì cả nhưng với người khác ngươi lại có một ý nghĩa to lớn...và sự thật đã chứng minh điều đó".

Nói xong, bà tiên biến mất, nhưng ngọc lục bảo đã suy nghĩ rất nhiều. Từ đó, Ngọc lục bảo đã luôn tỏa sáng với một vẻ đẹp rất riêng, không lẫn lộn với bất kì thứ đá quí nào và nó đã được trân trọng cho đến ngày nay.

Rét nàng Bân

Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Hoàng Hậu thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình.

Chồng nàng Bân, cũng là một người trên thế giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo ngự hàn. Những nàng vụng về quá, khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được cái nọ thì thiếu cái kia, xe được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may trọn được đôi cổ tay. Nhiều người trên trời đã chế giễu nàng:

"Nàng Bân may áo cho chồng

May ba tháng ròng mới trọn cổ tay".

Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng Giêng rồi hết tháng Hai, cho tới khi áo may xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng Bân buồn lắm. Thấy con âu sầu, Ngọc Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy hôm để chồng nàng mặc thử áo.

Từ đó thành lệ, hàng năm vào khoảng tháng Ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới nhưng có lúc tự nhiên rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét đó là rét nàng Bân. Tục ngữ có câu: "Tháng Giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân" là vì thế.

CHUYỆN KỂ: CÁO

Có 1 chú Gà con đang lon ton trên bãi cỏ non để kiếm cái ăn, 1 con Cáo rón rén, rón rén đi đến định vồ bắt Gà con. Chợt trông thấy Cáo, Gà con hoảng hốt kêu lên: Chiếp! Chiếp! sợ khiếp! sợ khiếp!

Con Cáo liền xông đến đuổi bắt Gà con, Gà con vừa chạy vừa kêu to: Cứu tôi với! Cứu tôi với! Nghe tiếng Gà con kêu cứu, Gà mẹ chạy ra đuổi Cáo, Gà mẹ kêu toáng lên: Cục ta cục tác, Cáo ác, Cáo ác..

Nghe có Cáo ác, Chó cún chạy ra sủa vang: Gâu! Gâu! Cáo đâu? Cáo đâu?

Mèo hoa cũng chạy ra kêu: Meo... Meo...Đuổi theo...Đuổi theo...

Thế là nghe Gà con kêu cứu, Gà mẹ chạy ra đuổi Cáo, Chó cún chạy ra đuổi Cáo, cả Mèo hoa cũng chạy ra đuổi Cáo . Chao ôi, con Cáo sợ quá, ba chân bốn cẳng chạy biến vào rừng không dám ngoái đầu lại nữa.

Lọ nước thần

Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc.

Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: - "Đồ chim dữ! Hãy cút ngay!". Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật.

Một lát sau, con chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói - "Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có". Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng: - Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta dùng". Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ trên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.

Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau.

Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh.

Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe.

Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa.

Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: "Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!".

Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.

Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc.

Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.

Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to lên những câu:

Dọc bằng đòn gánh

Củ bằng bình vôi

Ai mua hành tôi

Thì thương tôi với!

Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ:

- Hãy gọi người hàng hành vào cho ta!

Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì lấylàm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Vua liền nẩy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng:

- Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!

Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rổi quảy gánh qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười nghặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng:

- Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi!

Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.

Sinh con rồi mới sinh cha

Ngày xưa, có hai người bạn ở hai làng cách nhau một con sông, đi lại với nhau thân thiết như anh em ruột. Gặp lúc nước có loạn, hai người cùng phải đi thú xa. Một người có tiền, một người không có. Người có thấy bạn túng thiếu, đưa cho bạn vay lần hồi lâu thành một số nợ mười lạng bạc. Giặc yên hai người cùng trở về làng.

Bẵng đi một dạo, hai người không gặp nhau. Một hôm người có tiền cho vay nhớ đến bạn, nghĩ bụng rằng: "Bạn ta không sang thăm ta được có lẽ vì nghèo túng. Ta nhờ trời có tiền của, đối với bạn ta có bổn phận qua thăm trước, để an ủi bạn". Rồi dắt theo túi năm lạng bạc để đi thăm bạn và giúp bạn. Đến nơi thấy cửa nhà lịch sự, nghĩ mừng cho bạn nay đã khá giả, hẳn không cần giúp nữa, anh ta mới lấy năm lạng bạc giấu vào nóc cổng rồi đi vào nhà. Hai vợ chồng người thiếu nợ thấy bạn, nghĩ là đến đòi nợ, bèn làm cơm thết đãi rất tử tế, rồi bàn tính giết đi, để khỏi trả nợ. Đợi cho bạn ngủ, hai vợ chồng bèn giết luôn, rồi đem xác ra vườn sau chôn dưới gốc cây khế.

Từ đó cây khế đâm ra tươi tốt hẳn, nhưng chỉ sinh có một trái lớn bằng ba trái thường. Trong khi ấy người vợ nhân có mang thèm chua, thấy trái khế ngon lành bèn hái xuống ăn. Đến ngày sinh ra được một đứa con trai khỏe mạnh khôi ngô, nhưng lên ba tuổi mà vẫn không nói.

Hai vợ chồng làm lễ cầu Trời khấn Phật cho con biết nói. Chẳng mấy lúc đứa con nói được, nhưng nó chỉ nói một câu: "Con muốn nói với quan huyện trước rồi mới nói với cha mẹ được". Gặng hỏi đứa bé cũng không nói thêm câu nào khác. Cha mẹ nó buồn rầu nhưng không biết làm thế nào, cũng đành phải theo lời con đến thưa đầu đuôi với quan huyện. Quan huyện lấy làm lạ, theo lời khẩn cầu hai vợ chồng, đi đến nhà. Thấy đứa bé, ông bèn hỏi: "Mày muốn gì? Sao cha mẹ mày đây mà mày lại không nói, mà cứ đòi phải nói với tao"? Đứa bé rành mạch thưa: "Con mời quan đến để soi xét một việc: nguyên con với người này ngày xưa kết nghĩa anh em. Gặp lúc đi thú anh ta không có tiền, con cho anh ta vay mười lạng bạc; anh ta không trả được con cũng không đòi. Đến khi về, con nghĩ thương anh ta nghèo túng, một hôm lại đem năm lạng bạc đến để giúp anh ta nữa. Nhưng đến nơi, thấy nhà anh ta sang trọng, nghĩ cũng chẳng cần đưa tiền thêm cho anh ta làm gì, con mới giấu năm lạng bạc đó ở trên nóc cổng rồi vào nhà thăm. Không ngờ vợ chồng anh ta lại sinh lòng bất nhân, làm cỗ cho con ăn, rồi thừa lúc con ngủ, giết con chết, đem xác con chôn ở dưới gốc cây khế. Hồn con chết oan ức quá, không tiêu tan được, bèn nhập vào cây khế đó. Cây khế sinh có một trái lớn, hồn con lại nhập vào trái khế. Thế rồi đến khi vợ anh ta có thai, ăn trái khế đó mà đẻ ra con".

Theo lời đứa bé, quan huyện cho đào gốc cây khế thì quả thật có xác người đã nát. Lại truyền lính đi lục soát ở nóc cổng, thì tìm thấy năm lạng bạc còn ở đó.

Chứng cớ rành rành, vợ chồng anh kia phải thú nhận hết cả tội lỗi và bị kết án vào tội giết người đền mạng.

Quan huyện trả lại thằng bé năm lạng bạc, nó cảm tạ quan rồi xin trở về nhà cũ. Tính ra lúc đi thì trẻ, vợ mới có mang, mà bây giờ thì vợ đã già rồi, hai vợ chồng không nhận ra nhau nữa. Kể lại hết cả đầu đuôi, hai vợ chồng già trẻ ôm lấy nhau mà khóc. Người vợ gọi con ra chào bố, thì con bấy giờ đã hơn hai mươi tuổi, và đã có vợ con rồi. Vì thế gia đình mới xảy ra một tình trạng tức cười: Con già hơn bố, cháu lớn hơn ông.

Sự tích Hồ Ba Bể

Ngày xưa, ở vùng Bắc Cạn, mỗi năm dân làng Năm Mẫu đều có tổ chức lễ cúng Phật lớn, gọi là lễ Vô Giá. Dân chúng khắp miền mạn ngược tề tựu lại rất đông. Một hôm, có một bà lão bệnh cùi đến làng dự lễ. Quần áo bà rách rưới, tả tơi. Người bà bốc mùi hôi hám, rất khó chịu, khiến mọi người phải lánh xa. Bà lão hủi này đến nhà nào xin ăn, đều bị xua đuổi, mắng nhiếc. Người ta sợ lây bệnh cùi hủi.

Tuy nhiên, có người biết động lòng thương hại. Đó là một người đàn bà goá, ở với con trai. Bà không kinh tởm, gọi bà lão hủi vào nhà cho ăn uống no đủ. Sau đó, bằng lòng cho bà lão ăn mày ngủ nhờ một đêm, ở góc vựa lúa, trong lều. Đến nửa đêm, hai mẹ con bỗng giật mình thức giấc, nghe có tiếng động ầm ầm dữ dội từ phiá vựa thóc. Mở cửa vựa thóc ra, không thấy bà lão cùi đâu, mà là một con rắn lớn uốn mình ầm ầm như tiếng sấm. Hai mẹ con kinh hãi trở ra, thao thức, lo sợ, không ngủ được nữa. Đến sáng, thấy bà lão đi ra từ vựa thóc, nói:

- Tôi thật sự không phải là người, chỉ giả dạng ăn mày để thử lòng từ thiện của tín hữu nam nữ đến làng Năm Mẫu lễ Phật. Tất cả mọi người đều xua đuổi tôi, ngoại trừ 2 mẹ con nhà này. Họ đều là khẩu Phật tâm xà, sẽ không tránh khỏi hình phạt của bề trên đã giao phó cho tôi thi hành. Hai mẹ con bà biết thương kẻ khốn cùng, cho nên tôi xin báo trước là sắp có tai họa lớn xảy ra. Hễ khi nào thấy có nước nguồn bắt đầu đổ về đây, thì hai mẹ con hãy mau mau chạy lên đỉnh núi mà tránh.

Nói xong, bà lão biến mất. Qua ngày hôm sau, trong lúc mọi người đang chen nhau đến dự lễ Phật giữa làng, bỗng nhiên, nước ở đâu cuồn cuộn đổ tới tứ phía, tràn vào thung lũng. Người ta trèo lên mái nhà, trèo lên cây. Nhưng nước cứ dâng tràn đầy lên mãi, ngập cả những nóc nhà và cây cao. Tất cả mọi người đều bị chết ngộp, trừ 2 mẹ con bà goá kia đã chạy vội thoát lên được trên đỉnh núi cao.

Trên núi, hai mẹ con dựng lên một gian nhà nhỏ sinh sống. Nơi này, về sau trở thành một ngôi làng đông đúc, và ngày nay vẫn có tên là làng Năm Mẫu. Cả thung lũng bị nước tràn ngập thì hoá thành 3 cái hồ rộng lớn, mênh mông như bể, nên người ta gọi là Hồ Ba Bể. Nước ở ba hồ lưu thông nhau, nhưng ghe thuyền không thể đi được từ hồ này sang hồ kia, vì có các đập đá lớn ngăn trở. Hồ Ba Bể rộng bát ngát, nước trong xanh như ngọc bích, nổi bật giữa núi rừng hùng vĩ của miền thượng du nước ta.

Hoa Thủy Tiên

Ngày xưa, có một ông phú hộ sinh được 4 người con trai. Khi biết mình sắp chết, ông gọi 4 người con đến, dặn dò các con phải chia gia tài của cha làm 4 phần đều nhau. Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại, tuy nhiên, vừa chôn cất cha xong thì 3 người con đầu dành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn.

Người em út rất buồn, vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mình trước mảnh đất khô cằn, thì người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao gần đó hiện lên bảo:

- Này con, thôi đừng khóc nữa. Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con không biết. Kho tàng này chứa nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến mùa Xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con. Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu thì con sẽ giầu có hơn các anh.

Quả thật, đến mùa Xuân ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên.

Những người thích hoa, chơi hoa, và những người nhà giầu đã thi nhau đến mua hoa Thuỷ Tiên hiếm quý, với giá rất đắt. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có, nhiều tiền bạc. Rồi cứ mỗi năm Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm. Người em trở nên giầu hơn 3 người anh tham lam kia.

Người ta tin rằng Hoa Thuỷ Tiên mang lại tài lộc và thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thuỷ tiên trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, Thuỷ Tiên được chăm sóc để hoa nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm mới.

Truyện cổ Andersen

Một bà mẹ đang ngồi bên đứa con thơ. Bà rất buồn vì đang lo đứa con bà chết mất. Đứa bé xanh rớt đã nhắm nghiền đôi mắt và đang thoi thóp. Đôi lúc đứa bé rền rĩ rất thiễu não, thế là người mẹ lại cúi sát xuống gần con, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa, một ông già nghèo khổ trùm kím trong tấm chăn thường khoác cho ngựa bước vào. Trời rét như cắt, kể ra không có áo nào ấm bằng thứ chăn ấy. Bên ngoài toàn là một màu băng tuyết. Gió vun vút như quất vào mặt.

Ông già rét run lập cập. Nhân lúc đứa bé ngủ thiếp đi, bà mẹ nhóm lò hâm một cốc bia. Ông già ngồi xuống ru đứa bé. Bà mẹ ngồi vào chiếc ghế gần ông già, nhìn đứa bé ôm yếu vẫn đang thoi thóp thở, và giơ một bàn tay lên. Bà hỏi :

- Liệu có việc gì không ? Thượng đế hẳn không bắt nó đi chứ ?

Ông già, chẳng phải ai, chính là Thần Chết, lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống ngực, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba ngày ba đêm nay, không hề được chợp mắt, bà thấy đầu nặng trĩu.

Bà ngủ thiếp đi, chỉ loáng một lát thôi, rồi chợt rùng mình vì rét, bà lại choàng dậy.

- Gì thế này ? - Bà kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và cả con bà nữa đã biến mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn cót két trong xó nhà.

Cộc ! Một quả lắc bằng chì rơi xuống đất. Thế là chiếc đồng hồ ngưng bặt.

Bà mẹ tội nghiệp vùng chạy ra ngoài, miệng gọi con.

Bên ngoài, có một bà cụ mặc áo dài đen, đang ngồi giữa đám tuyết, bảo bà mẹ :

- Tôi thấy Thần Chết đã vào nhà chị. Lão ta mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ mang trả lại những con người lão đã cướp đi.

Bà mẹ khẩn cầu:

- Xin cụ chỉ bảo cho tôi con đường lão đi. Cứ chỉ đường cho tôi, tôi sẽ đuổi kịp.

Bà cụ đáp:

- Biết rồi! Nhưng trước khi ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả các bài mà chị đã hát ru con chị. Từ trước đến nay, ta đã được nghe nhiều và ta rất thích nghe chị hát. Ta là thần Đêm Tối; ra đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị hát.

Bà mẹ van vỉ:

- Tôi xin hát hết, hát tất cả, sau đó xin cho tôi đuổi kịp thần Chết, đòi lại đứa con tôi.

Nhưng thần Đêm Tối cứ nín bặt. Thế là bà mẹ đành phải vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, cất tiếng hát. Tiếng nức nở át cả lời trong các bài hát.

Nghe hát xong thần Đêm Tối bảo:

- Rẽ sang phải rồi đi vào rừng tùng tối om kia. Ta đã thấy thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Tới giữa rừng, gặp chỗ ngã ba đường, bà mẹ phân vân không biết rẽ đường nào. Nơi đó có một bụi gai không hoa không lá; đang giữa mùa đông nên băng bám và rủ xuống khắp các cành.

- Có thấy thần Chết mang con tôi qua đây không?

Bụi gai trả lời:

- Có. Nhưng nếu muốn tôi chỉ đường thì bà phải ủ tôi vào lòng để sưởi ấm cho tôi. Tôi buốt cóng và sắp biến thành băng rồi đây.

Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào ngực để sưởi ấm cho nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu nhỏ từng giọt đậm, nhưng bụi gai thì đâm chồi nẩy lộc, xanh tươi và trổ hoa ngay giữa đêm đông giá rét vì được bà mẹ truyền cho sức nóng của bà. Sau đó, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, không có lấy một bóng thuyền bè. Mặt băng trên hồ quá mỏng, không thể giẫm lên được, mà nước hồ lại quá sâu không thể lội qua. Nhưng thế nào thì thế, bà cũng phải vượt qua hồ tìm con. Bà bèn sụp xuống để uống cạn nước hồ. Tuy biết rằng đó là một việc mà con người ta không thể làm được, nhưng bà mẹ đau khổ mong mỏi Thượng đế sẽ ban phép lạ.

Hồ bảo bà:

- Không, không làm thế được đâu ! Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai, mà đôi mắt bà là những hạt ngọc trai trong suốt, tôi chưa từng thấy bao giờ. Hãy khóc cho đến khi đôi mắt của bà rơi xuống; lúc ấy tôi sẽ đưa bà tới tận cái nhà kính ươm cây, nơi thần Chết ở và vun trồng các cây hoa. Mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở:

- Trời ! Tôi còn tiếc gì để tìm thấy con tôi !

Bà khóc, nước mắt tuôn tầm tã đến nỗi đôi mắt bà theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ và hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được hồ nâng bổng lên như ngồi trên đu, và thoắt một cái, bà đã sang đến một ngôi nhà kỳ diệu dài chừng một dặm.

Không hiểu đấy là một quả núi có rừng thẳm và hang sâu hay là một công trình thiết kế nào của con người. Mắt bà mẹ đã rơi theo dòng lệ nên bà chẳng nom thấy gì. Bà hỏi:

- Tìm đâu cho thấy thần Chết đã cướp con tôi đi?

Một bà già canh giữ vườn kính ươm cây của thần Chết bảo bà:

- Thần Chết chưa về. Bà làm thế nào mà đến được tận chốn này? Ai đã giúp bà?

- Thượng đế chứ ai! - Bà mẹ đáp - Người đã thương xót tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi đi đâu.

Bà già nói:

- Tôi không biết mặt nó, còn bà thì không trông thấy gì. Biết bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa đã héo tàn trong đêm qua. Thần Chết lát nữa sẽ đến trồng lại. Chắc bà biết rằng mỗi người có một gốc cây hay một bông hoa tượng trưng cho sinh mệnh của mình. Ở đây, những cây hoa ấy chẳng có gì khác thường nhưng chúng có một trái tim và trái tim ấy đập hẳn hoi. Tim trẻ con cũng đập. Đấy, bà cứ tìm đi ! Có lẽ bà sẽ nhận ra nhịp tim của con bà đấy. Nhưng nếu bà muốn tôi hướng dẫn thêm cho bà thì bà tạ ơn tôi bằng cái gì nào?

Bà mẹ tội nghiệp than thở:

- Tôi chẳng còn cái gì để cho nữa, nhưng nếu cần, tôi có thể theo người đến tận cùng thế giới.

- Tôi đến đấy làm gì kia chứ? Bà còn có thể cho tôi mớ tóc dài đen nháy của bà. Bà thừa biết bộ tóc ấy đẹp lắm. Tôi rất thích bộ tóc ấy và sẽ cho bà bộ tóc bạc của tôi. Thế là đổi hòa đấy.

Bà mẹ nói:

- Nếu bà chỉ đòi hỏi có thế thôi thì tôi rất vui lòng.

Rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của Thần Chết. Nơi đó có rất nhiều cây cỏ mọc lung tung. Có những cây dạ lan hương mảnh dẻ mọc trong lồng hình chuông bằng thủy tinh. Có những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây thì xanh tươi, cây thì khô cằn, hàng bầy rắn nước quấn mình quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền mộc; kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây, mỗi hoa đều mang một tên người, mỗi cây, mỗi hoa tượng trưng cho một kiếp người hiện đang sống bên Trung Quốc, ở Gơrôenlăng hoặc khắp nơi trên Trái Đất.

Lại có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ đang đe dọa phá vỡ chậu. Ngược lại, có những cây con cằn cỗi lại được trồng trong khoảng đấy xới xắn mịn màng, phủ rêư xanh mượt. Người mẹ đau khổ cúi rạp xuống từng gốc cây, tìm đến tận từng gốc nhỏ nhất, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn ngàn trái tim ấy bà đã nhận ra tiếng đập của trái tim đứa con mình.

- Con tôi đây rồi ! Bà reo lên, tay chìa trên một gốc kỵ phù nhỏ bé màu lam, dáng ốm yếu, thân nghẹo sang một bên.

Bà già ngăn lại:

- Chớ đụng vào hoa. Cứ đứng ở đây. Chắc chắn lát nữa Thần Chết sẽ về. Đừng cho Thần nhổ cây hoa này. Cứ dọa là bà sẽ nhổ hết cây cỏ ở quanh đây, Thần Chết sẽ sợ, vì Thần chịu trách nhiệm trước Thượng Đế về các cây cỏ ở đây; không có lệnh của Người thì không ai được nhổ một cây nào cả.

Ngay lúc đó, nổi lên một cơn gió lạnh buốt. Bà mẹ cảm thấy rằng thần Chết đã đến.

Thần hỏi:

- Sao ngươi lại có thể tìm được đuờng đến tận đây, mà lại đến trước cả ta ?

- Ta là mẹ!

Thần Chết vươn bàn tay dài ngoằng về phía cây hoa mảnh dẻ, nhưng bà mẹ vòng đôi bàn tay giữ lấy cây, hết sức che chở cho cây không bị nhàu nát một lá nào. Thần Chết hà hơi vào tay bà mẹ; bà cảm thấy lạnh buốt hơn gió bấc làm rụng rời cả đôi tay.

- Ngươi không chống lại được ta đâu - Thần Chết dọâ.

Bà mẹ trả lời:

- Nhưng còn có Thượng Đế.

Thần Chết nói:

- Ta cũng chỉ tuân theo lệnh của Thượng Đế mà thôi. Ta trông nom khu vườn của Người. Ta mang cây cỏ hoa lá ở đây đi cũng chỉ để đem trồng lại vào khu vườn trên Thiên Đàng, còn mọi việc xảy ra trên ấy, hoa cỏ mọc thế nào, ta không được nói với ngươi.

Bà mẹ nức nở van xin:

- Giả con cho tôi.

Đồng thời mỗi tay bà túm lấy một bông hoa gần đấy rồi thét lên :

- Nếu tuyệt vọng tôi sẽ nhổ hết hoa ở đây.

Thần Chết bảo:

- Chớ có đụng vào. Ngươi nói rằng ngươi đau khổ mà ngươi lại muốn làm cho một người mẹ khác đau khổ hay sao?

Người mẹ khác? Bà mẹ đau thương buông hai bông hoa ra.

Thần Chết nói thêm:

- Đây là đôi mắt của ngươi. Thấy chúng lóng lánh sáng ngời dưới đáy hồ ta đã vớt lên. Ta biết đó là đôi mắt của ngươi. Hãy lấy lại đi. Đôi mắt ấy trong sáng hơn trước rất nhiều. Hãy nhìn vào lòng giếng gần đây, ta sẽ cho ngươi biết tên hai bông hoa ngươi vừa định ngắt. Ngươi sẽ thấy rõ cả cuộc đời quá khứ và tương lai của chúng, thấy rất rõ tất cả những gì mà ngươi sắp hủy hoại.

Bà mẹ nhìn xuống lòng giếng. Bà thấy từ một trong hai bông hoa ánh lên một niềm vui đầy hạnh phúc, còn cuộc đời của bông hoa kia chỉ toàn những cảnh trầm luân, khổ ải, nghèo khó, khốn cùng.

Thần Chết nói:

- Kiếp hoa này cũng như kiếp hoa kia, đều do ý của Thượng Đế cả.

Người mẹ nói:

- Thế hoa nào là hoa bất hạnh, hoa nào là hoa diễm phúc?

Thần Chết đáp:

- Ta không thể tiết lộ được thiên cơ. Nhưng ngươi cần biết rằng một trong hai bông hoa đó chính là bông hoa của con ngươi, là hình ảnh tương lai của nó.

Bà mẹ thét lên:

- Hoa nào trong hai bông là hoa của con tôi ? Hãy bảo cho tôi biết. Nếu đời nó sau này sẽ đau khổ thì xin hãy mang nó đi, mang ngay nó về chốn Thiên Đàng ! Xin hãy quên những dòng nước mắt của tôi, quên những lời tôi đã cầu nguyện, quên cả những lời tôi đã nói và những việc tôi đã làm!

Rồi bà vặn vẹo đôi bàn tay, quỳ xuống và cầu khẩn:

- Cúi xin Thượng Đế đừng nghe lời tôi nếu tôi có cầu khẩn những lời trái với ý Người. Xin người đừng nghe tôi.

Rồi bà gục đầu xuống ngực.

Thế là Thần Chết mang đứa bé tới cái xứ sở xa lạ mà bà mẹ đã nói đến ban nãy.

Anh chàng chăn lợn

Ngày xưa, có một hoàng tử rất nghèo chỉ có một giang sơn nhỏ hẹp. Tuy nhiên, giang sơn ấy nhỏ thì nhỏ thật, nhưng cũng đủ để cho chàng kén được một người vợ và lúc này chính là lúc chàng đang muốn tìm người làm bạn trăm năm.

Chàng rất sẵn sàng hỏi công chúa con hoàng đế : "Nàng có bằng lòng kết duyên với ta không ?" Chàng rất có thể làm thế, vì danh tiếng của chàng vang lừng khắp vùng và có thể đến hàng trăm công chúa nghe chàng hỏi như thế sẽ trả lời : "Vâng"

Nhưng đây lại là con gái hoàng đế ! Các bạn hãy nghe đầu đuôi câu chuyện :

Trên mộ vua cha mọc một cây hồng. Trời ! Cây hồng mới đẹp làm sao ! Cứ năm năm nó mới ra hoa một lần, lại chỉ mọc có một đóa, nhưng đó là một đóa hồng thơm dịu đến nỗi chỉ ngửi hoa thôi cũng đủ quên hết ưu phiền. Hoàng tử lại còn có một con họa mi hót hay tuyệt vời. Từ cái cổ họng nhỏ xíu của nó phát ra những khúc điệu thánh thót. Con gái hoàng đế nghe họ đồn vậy muốn có cả hoa hồng và họa mi. Hoàng tử bèn đặt cả hai thứ vào hai tráp bạc gửi biếu nàng.

Hoàng đế cho đem những thứ ấy đến cho ngài xem trong đại điện, nơi công chúa đang chơi trò tiếp khách với các cung nữ. Vừa nhìn thấy những tráp bạc, nàng vỗ tay hoan hỉ reo lên :

- Ước gì được con mèo con thì thú quá !

Nhưng người ta lại lôi cây hồng ra trước.

Các cung nữ rú lên :

- Ố ! Đẹp quá !

Hoàng đế nói :

- Đẹp, chưa đủ, phải nói là tuyệt mỹ mới xứng.

Nhưng công chúa chạy ra ngửi hoa và phụng phịu nói :

- Ồ ! Tâu phụ vương, hoa thật chứ không phải hoa giả !

Bọn nịnh thần phụ hoạ :

- Ôi chao ! Hoa hồng thật !

Hoàng đế phán :

- Hãy xem cái tráp kia đựng gì đã, rồi hãy bực mình cũng chưa vội.

Người ta mở tráp cho con họa mi ra. Nó cất tiếng ca thánh thót, hay không còn chê vào đâu được.

Bọn cung nữ nói bằng một thứ tiếng Pháp rất dở như họ thường dùng :

- Charmant ! Merveilleux ! (Dễ thương quá ! Tuyệt quá !)

Một lão nịnh thần tán :

- Con chim này làm hạ thần nhớ lại đến cái hộp đựng thuốc bào có máy hát của cố hoàng hậu, giống như hệt, từ giọng cho đến điệu.

- Đúng lắm ! Đúng lắm ! Hoàng đế nói rồi òa lên khóc như một đứa trẻ con.

Công chúa nói :

- Không thể tin đây lại là một con họa mi thật.

Những người đem chim đến vội tâu :

- Thưa đúng là chim thật đấy ạ !

- Thế thì cho nó bay đi thôi !

Và nàng kiên quyết không cho hoàng tử vào cung.

Nhưng chàng không hề nản lòng. Chàng lấy phẩm nâu và phẩm đen bôi lên mặt, kéo mũ sụp xuống tận mắt, giả vờ đi khập khiễng, bước vào trình diện và nói :

- Thánh thượng vạn tuế ! Cúi xin thánh thượng cho kẻ bầy tôi vào hầu hạ trong hoàng cung.

- Có nhiều người xin việc quá rồi. Nhưng ta cần một người chăn lợn, nhà ngươi có làm được việc ấy không ?

Hoàng tủ nhận chăn lợn. Người ta cho chàng một căn buồng tồi tàn gần chuồng lợn. Chàng cặm cụi suốt ngày và ngay tối đầu tiên chàng đã làm xong một cái nồi xin xắn có gắn đầy nhạc. Mỗi khi đặt nồi lên bếp, nhạc rung lên một điệu khúc cổ xưa của nước Đức.

Ach ! du lieber Augustin !

Alles ist vack, vack, vack !

( Ô này ! Augustin thân mến ơi ! mọi việc đều như ý, như ý, như ý! )

Nhưng kỳ diệu nhất là mỗi khi thò ngón tay vào đám hơi bốc ở nồi ra thì lập tức ngửi ngay thấy mùi tất cả các món ăn đang xào nấu trên tất cả các bếp trong kinh thành.

Nhất định là cái nồi ấy khác xa một bông hồng !

Công chúa cùng tất cả các cung nữ đi chơi qua nghe thấy tiếng nhạc, dừng lại nghe và mê tít, vì nàng cũng biết chơi bản nhạc ấy.

Ach ! du lieber Augustin !

Nhưng phải nói thật: nàng chỉ biết chơi có mỗi một câu ấy, và chỉ biết đánh đàn kiểu mổ cò thôi. Công chúa thốt lên :

- Chính là cái điệu khúc ta đã thuộc. Tên chăn lợn chẳng phải là người ngu đần đâu. Hãy vào hỏi hắn ta xem cái đàn của hắn ta đáng giá bao nhiêu tiền.

Một cung nữ chui vào chuồng lợn, trước khi vào chuồng không quên đi guốc, rồi hỏi :

- Cái nồi này anh lấy bao nhiêu tiền ?

- Tôi lấy mười cái hôn của công chúa.

Cung nữ kêu lên :

- Trời ơi là trời !

- Không lấy kém đâu.

Côn chúa hỏi:

- Hắn ta bảo sao ?

Cung nữ đáp:

- Con chẳng dám nhắc lại đâu. Khiếp lắm !

- Nói thầm cho ta hay vậy.

Người cung nữ tuân lệnh.

- Quân thô tục.

Công chúa kêu lên và bỏ đi. Nàng đi chưa được mười bước, nhạc lại bắt đầu thánh thót ngân vang:

Ach ! du lieber Augustin !

Alles ist vack, vack, vack !

- Chạy lại hỏi hắn ta có bằng lòng nhận mười cái hôn của các cung nữ không ?

Chàng chăn lợn trả lời:

- Không, xin cảm ơn ! Mười cái hôn của công chúa kia, không thì xin cứ để nồi đấy cho tôi.

Công chúa nói:

- Bướng bỉnh thật ! Thôi đành, các người đứng vây lấy ta, đừng để ai trông thấy.

Các cung nữ quây tròn lại và căng váy ra. Chàng chăn lợn được mười cái hôn, còn công chúa thì được cái nồi.

Mọi người đều vui sướng. Người ta đem cái nồi ra chơi suốt buổi tối. Không còn một bếp nào trong kinh thành giữ bí mật được nữa. Từ quan thị vệ cho đến các thợ giày, ai ăn gì họ đều biết cả. Các cung nữ thích quá, vừa vỗ tay vừa nhảy cẫng lên.

- Chúng mình biết hết: ai sẽ là người ăn xúp với hạnh nhân hay trứng tráng, ai là người sẽ ăn thịt quay và món bột nấu với sữa. Tuyệt thật !

- Đúng thế. Quan giám thị trong cung phụ hoạ.

Công chúa dặn thêm :

- Cốt nhất là không được bép xép gì vì ta là con gái hoàng đế, nghe chưa ?

Tất cả các cung nữ đồng thanh:

- Trời sẽ giữ mồm giữ miệng cho chúng con !

Chàng chăn lợn, tức là hoàng tử mà mọi người tưởng là một anh chăn lợn chính cống, không để một ngày giờ trôi qua mà không sáng chế ra một thứ gì mới.

Chàng gọt được một cái Cơrêxen rất xinh. (Crécelle : một thứ nhạc cụ bằng gỗ hình tròn, có các thanh gỗ to nhỏ, khi quay có một cái cần đập vào các thanh gỗ phát ra tiếng)

Khi quay, cái Cơrêxen ấy phát ra nào là điệu valse, nào điệu phi ngựa, điệu ponka, tóm lại, đủ các điệu nhảy trên đời.

Công chúa đi qua, phải thốt ra :

- Hay quá đi mất ! Ta chưa từng được nghe thứ nhạc mê ly ấy bao giờ. Vào hỏi hắn ta xem cái vật ấy đáng giá bao nhiêu; nhưng lần này thế nào thì thế, ta cũng không hôn hắn đâu đấy.

Người cung nữ vào hỏi rồi trở ra trả lời :

- Lần này anh ta đòi một trăm cái hôn.

Công chúa nói :

- Điên ! - và nàng bỏ đi.

Nhưng đi chưa được mười bước công chúa đã dừng lại phán :

- Phải khuyến khích nghệ thuật. Ta là con gái Hoàng đế. Vào bảo hắn là ta sẽ ban cho hắn mười cái hôn như hôm qua, còn bao nhiêu thì cung nữ của ta sẽ hôn cho đủ số.

Cung nữ giẫy nẩy:

- Hôn cái anh chàng thô lỗ ấy à ?

Công chúa nói:

- Thì đã làm sao ? Đến ta đây cũng còn hôn được huống chi các ngươi là bề tôi do ta nuôi cho ăn và trả tiền !

Người cung nữ lại quay vào chuồng lợn. Chàng chăn lợn khăng khăng :

- Một trăm cái hôn của công chúa, không thì ai giữ lấy của người ấy.

Công chúa truyền:

- Đứng quây lấy ta.

Các cung nữ đứng lại thành vòng tròn và chàng chăn lợn bắt đầu hôn.

Hoàng đế đang đứng trên bao lơn trông ra, tự hỏi :

- Có chuyện gì gần chuồng lợn thế kia ?

Ngài dụi mắt và đeo kính vào.

- À! Bọn cung nữ đùa nghịch. Phải ra xem bọn chúng đùa nghịch gì mới được! Hoàng đế đi giày băng túp vào, xuống thang gác rõ nhanh.

Xuống đến sân, ngài rón rén lại gần. Thật ra làm thế cũng bằng thừa vì các cung nữ còn đang mải đếm từng cái hôn để gã chăn lợn khỏi hôn quá số được hưởng.

Họ không biết có hoàng đế đi tới. Ngài kiễng chân nhìn vào và kêu lên :

- Thế này là thế nào ?

Rồi ngài rút giày băng rúp quật bọn cung nữ túi bụi.

Chàng chăn lợn đang hôn đến cái thứ tám mươi sáu thì hoàng đế cáu tiết hét:

- Cút ngay !

Thế là chàng chăn lợn và công chúa bị đuổi ra khỏi vương quốc.

Trời mưa như trút nước. Công chúa òa lên khóc.

Nàng than vãn:

- Khổ thân cho tôi ! Sao tôi chẳng lấy chàng hoàng tử đáng yêu có hay hơn không ?

Chàng chăn lợn chạy nấp sau một gốc cây, lau sạch phẩm nâu và phẩm đen trên mặt, cởi bỏ bộ quần áo xấu xí ra, trở lại chỗ công chúa trong bộ quần áo hoàng tử của mình và nói :

- Ta đến đây cốt để nói cho công chúa biết là ta rất khinh công chúa. Công chúa không muốn yêu một hoàng tử thật thà phúc hậu, công chúa không hiểu giá trị của bông hồng lẫn họa mi, nhưng vì một vật nhỏ mọn mà công chúa hôn một tên chăn lợn ! Cho đáng kiếp !

Chàng lập tức quay về nước mình, vào nhà và khóa chặt cửa lại. Công chúa đến trước cửa nhà chàng hát mãi:

Ach ! du lieber Augustin !

Alles ist vack, vack, vack !

Nhưng chẳng có hiệu quả.

Hoàng tử chẳng mở cửa.

Sự Tích Núi Ngũ Hành

Ngày xưa, có một ông cụ già sống một thân một mình trong một túp lều con trên bãi biển vắng. Những người dân gần đó không biết ông cụ đến đấy làm gì và đến từ lúc nào.

Một hôm, tự nhiên ngoài biển khơi có một vùng sóng gió nổi lên dữ dội làm bầu trời tối mịt. Hồi lâu có một con giao long rất lớn ngoi vào bờ, trườn lên đất liền. Giao long quằn quại trên bãi cát làm vẹt đất thành từng đường ngoằn ngoèo. Gió thổi ào ào, bụi cát mù mịt. Gian lều của ông già gần đó xem chừng muốn đổ. Cuối cùng một tiếng gào rống lên, rồi một cái trứng lớn trong bụng giao long xuất hiện bên cạnh nhà của ông già. Đẻ xong, giao long lại trườn xuống biển đi mất.

Một lát sau lại đến lượt một con rùa vàng to lớn cũng từ ngoài khơi tiến vào. Rùa vàng đào đất chôn trứng vào bãi cát. Đoạn, rùa bò đến trước mặt ông lão bảo rằng:

- Ta là thần Kim Quy. Ta muốn ngươi phải hết sức bảo hộ giọt máu này của Long Quân!

Ông già trả lời:

- Sức cùng tài tận như tôi thì làm sao mà bảo hộ được.

Rùa liền trao cho ông già một cái móng và nói:

- Ngươi hãy cầm lấy cái này, bao giờ có việc gì khó khăn nguy cấp thì đặt nó vào tai, ta sẽ giúp ngay, không lo gì cả.

- Được, tôi sẽ xin hết sức.

Một hôm từ đằng xa tiến đến một chiếc xe trâu, trên có mấy tên lính hung dữ. Ông già hoảng hốt lo sợ vì chiếc xe cứ nhằm đúng hướng trứng mà lao tới. Ông đứng dậy khoát tay làm dấu cho xe chạy đi ngả khác mà không được. Ông vội đặt móng rùa vào tai. Tự nhiên có một tiếng nói nhỏ đủ lọt vào tai ông: "Nằm xuống! Nằm xuống!". Ông vừa phủ phục thì hóa ngay một con hổ lớn. Bọn lính trên xe hoảng hốt đánh xe quay trở lại.

Sau đó, ông cụ tháo gian nhà của mình đưa tới dựng lên che cho trứng thần. Nhưng ông không ngờ rằng trứng thần cứ mỗi ngày một lớn mãi. Thoạt tiên nó làm nổi cát lên. Rồi ngày một, ngày hai nó rẽ dần cát ra và nhô lên khỏi mặt đất. Mỗi lần như thế thì cụ già lại hì hục xúc cát lấp lại. Nhưng vô ích vì chỉ ngày mai ngày kia nó đã nhô cao hơn, đến nỗi đội cả gian nhà của ông cụ lên trời.

Trứng càng ngày càng lớn làm cho ông cụ thấy sức của mình bé lại. Tuy nhiên, ông vẫn hết lòng vì trứng thần. Ông đi chặt cây, chặt lá về che cho kín trứng.

Nhưng cây lá cũng không che nổi nữa vì trứng ngày một phình to ra. Không những nó nhô cao lên trời mà còn nở cả bề rộng. Mầu vỏ trứng xanh đỏ tím vàng lóng lánh như một hòn ngọc khổng lồ.

Một hôm, gian lều của ông cụ bị những tên vô lại đốt cháy. Ông cụ cầu cứu với móng rùa. Tự nhiên trong lòng trứng hiện ra một cái hang đá có đủ giường chiếu sẵn sàng. Ông già vừa đặt mình xuống là ngủ thiếp ngay.

Giữa lúc đó thì một cô gái bé từ trong lòng trứng ra đời bên cạnh giường của ông già. Sữa ở mạch đá trong hang chảy ra nuôi cô gái bé lớn lên như thổi. Nhưng tuy ông già ngủ mà cô gái cũng không cô quạnh. Hàng ngày có những con khỉ hái hoa quả đến cho cô ăn, có những con chim cu tha bông đến dệt cho cô mặc.

Ông già ngủ một giấc tỉnh dậy lấy làm kinh ngạc khi thấy một thiếu nữ xinh đẹp ngồi bên cạnh mình. Cô gái reo lên: - "Mười lăm năm nay con ngày ngày lắng nghe hơi thở đều đặn của cha. Nay cha đã dậy, con vui mừng biết mấy".

Ông già ngơ ngác nhìn trứng thần bấy giờ đã thành một hòn núi đá to lớn, cỏ cây đã rậm rạp, chim chóc thú vật đã đến sinh hoạt nhộn nhịp. Móng rùa vẫn còn ở đầu giường. Ông vội cầm lấy để vào tai. Móng rùa mách đường cho ông già và cô gái ra khỏi hang và cho biết phải làm những việc gì.

Từ đây ông già lại có thêm chức trách dạy dỗ săn sóc cô gái của Long Quân. Trong khi đó, chim chóc và thú rừng đến quấn quýt bên cạnh hai người. Bọn mục đồng cũng không quên lui tới làm quen với bọn họ.

Một hôm có một đội quân không hiểu từ đâu lại, mặt mũi hung ác, gươm tuốt sáng lòe, đến bổ vây chiếm lấy hòn núi mới. Bọn chúng xô tới định bắt cả trẻ lẫn già đi, nhưng móng rùa đã làm cho chúng chết không kịp ngáp. Cả một vòng lửa rất dày ùn ùn bốc lên vây lấy chúng và chẳng cho một tên nào chạy thoát.

Thấy núi và người bỗng dưng xuất hiện ở địa phương mình, nhân dân quanh vùng cho là một sự lạ chưa từng có. Tin là tiên xuống trần cứu dân, họ đến gặp cô gái và ông già để xin thuốc và cầu khẩn mọi việc. Thấy họ cần dùng thuốc, cô gái lấy những mảnh đá có mầu xanh, đỏ sáng, buộc lại với nhau rồi ném ra chung quanh chỗ ngồi. Trên mặt đất bỗng mọc lên một loài cây có hoa năm cánh dùng để chữa bệnh sốt rét rất hiệu nghiệm. Người ta đua nhau đi hái hoa đó về chữa bệnh. Họ gọi là hoa Tứ quý. Tiếng đồn thổi mỗi ngày một rộng. Ai ai cũng nhắc đến nàng tiên bé nhỏ với một tấm lòng trìu mến.

Sau đó chẳng bao lâu, nhà vua nghe tin có nàng tiên xinh đẹp, bèn sai quan quân mang lễ vật đến cầu hôn cho hoàng tử. Khi sứ giả đến thì trông thấy một già một trẻ đang đánh cờ "gánh" trên tảng đá lớn. Sứ giả bước vào đệ trình lễ vật và quốc thư. Giữa khi ông cụ già lúng túng chưa biết nên xử trí thế nào thì rùa vàng đã từ dưới biển hiện lên báo tin cho ông biết là Long Quân đã bằng lòng gả. Từ đây núi vắng người tiên. Cô gái từ biệt cha nuôi lên kiệu đi theo sứ giả, có mấy trăm quân sĩ theo hầu. Còn ông già trả móng lại cho rùa thần rồi cưỡi lên lưng rùa đi biệt.

Ngày nay hòn núi đá ấy vẫn hãy còn. Nó là hòn núi đẹp nhất nổi lên ở bờ biển Quảng Nam. Người ta gọi nó là núi Ngũ Hành. ở phía tây núi có sông Vĩnh Điện chảy ra cửa Hàn. Người ta bảo sông đó cũng như sông Cẩm Lệ, sông Hàn đều do bà vợ Long Quân vô tình làm ra trong khi quằn quại ở cữ.

Sự Tích Cá He

Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa được thành chính quả. Sư bụng bảo dạ: "Phải đến đất Phật một phen mới có hy vọng thành Phật". Nghĩ vậy, sư ta quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.

Đường đi từ nước nhà sang Tây Trúc thuở đó thật muôn phần vất vả. Việc giao thông hầu hết là đường bộ, mà đi bộ trên con đường mịt mùng thăm thẳm thì mỗi bước là một hiểm nguy. Nhưng nhà sư trẻ tuổi vẫn quả quyết nhằm hướng Tây khởi hành.

Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt, nhưng nhờ được giúp đỡ nên đều qua khỏi. Hễ dứt bệnh là chàng lại tiếp tục cuộc hành trình. Một hôm, đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư tỏ ngay ý định của mình là xin ngủ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít:

-Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng đâu. Sư đáp:

-Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước được nữa. Nếu không cho nghỉ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi. Bà cụ bảo:

-Chao ôi! Con ta vốn là ác Lai hay ăn thịt người. Cố đi nhanh lên, bây giờ nó sắp về rồi đó. Nhưng sư đã vứt tay nải, nằm vật xuống đất. Hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn. Sau khi đẩy vào, bà cụ bảo y phải giữ cho thật im lặng để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn, bà cụ chất củi phủ lá rất kín đáo. Trời tối hẳn thì ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn nói:

-Có mùi thịt mẹ ạ! Mẹ hắn đáp:

-Thì chả thịt mày mang về đấy là gì?

-Không phải. Thịt người. Con biết lắm. Có thịt người. Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về phòng mình. Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát:

-Mày đi đâu?

Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp:

-Tôi đi tìm Phật.

-Tìm để làm gì? Sư bấy giờ mới nói rõ mục đích của mình. Rồi luôn miệng, sư giảng giải đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian truân dọc đường, và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao được nhìn mặt đức Phật để Phật độ cho thành chính quả. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên "vô sinh vô diệt", sẽ sống một đời sống bội phần sung sướng trên Nát-bàn, nếu họ nhất quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác mới đó giờ đã dịu lại. Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho chàng. Họ lại tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, ác Lai hỏi:

-Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? Sư đáp:

-"Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm". Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ. Sư không ngờ ác Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ ruột gan đưa cho sư và nói:

-Nhờ hòa thượng đưa hộ dâng lên đức Phật. Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của ác Lai, gật đầu nhận lời rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy lên vai, cất bước ra đi. Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, biển lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư lại chẳng vui một tí nào. Món lễ vật của đức Phật đè nặng trên vai. Nếu chỉ có thế thì không có gì đáng ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối từ bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà mùi thối vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm: "Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình". Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vứt bộ lòng ác Lai xuống biển. Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: "Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả". Sư rất đỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên một tí. Trên cao vòi vọi, sư thấy đức Phật ngự giữa tòa sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ như hai mẹ con ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Đức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ trong một lúc, ngộ đạo mau lẹ và chân thành. Sư nằm phục vị hồi lâu, lòng thẹn thò vô kể.

* * *

Nhà sư ta sau đó lại trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thẳm, nhưng sư cũng cố lặn ngụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà ác Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con ác Lai và hy vọng tới gần tòa sen đức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he, cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó con nào con ấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm cái việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ. Những người đánh cá còn nói loài cá he rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện cũ của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm cho đắm thuyền rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng nó sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần cho mà xem.

Sự Tích Chim Quốc

Ngày ấy có đôi bạn chí thân là Quắc và Nhân. Họ đều là con nhà học trò nghèo, lại đều mồ côi cha mẹ, Quắc được học nhiều hơn bạn: anh chàng làm thầy đồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng có là bao nhưng Quắc vẫn thường giúp đỡ Nhân. Đối lại, có lần Quắc bị ốm nặng, giá không có bạn thuốc thang ngày đêm thì anh khó lòng sống nổi.

Sau đó cũng vì sinh kế, đôi bạn phải chia tay mỗi người một ngả. Trong khi Quắc sống cuộc đời dạy trẻ thì Nhân cũng đi lang thang đến các vùng xa lạ làm thuê làm mướn. Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh chàng vào làm công cho một phú thương. Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao lâu Nhân được phú thương gả con gái cho. Vợ Nhân có nhiều của riêng. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở nên một phú ông có cơ nghiệp kha khá ở trong vùng. Nhân giàu nhưng không quên tình bầu bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề "sống chết sướng khổ có nhau" với Quắc. Nhân cất công đi tìm và sung sướng thấy Quắc còn sống. Tuy Quắc đang dở năm dạy, nhưng Nhân cũng thương lượng được với cha mẹ học trò cho con em chuyển sang một cụ đồ khác rồi đưa Quắc về nhà mình.

Nhân dặn người nhà phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không được bê trễ. Nhưng tính vợ Nhân không được như chồng. Xưa nay đối với những kẻ rách rưới, chị ta thường tỏ vẻ coi thường. Vả, chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân nên có thấy đâu tình nghĩa giữa Nhân và Quắc như thế nào. Nhưng thấy chồng trọng đãi khách nên lúc đầu chị không dám nói gì. Nhân luôn luôn bảo vợ: "Đây là người thân nhất trong đời tôi. Nếu không có bạn thì tôi chưa chắc đã sống để gặp nàng". Vợ Nhân chỉ lẩm bẩm: "Khéo! Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại". Dần dần vợ Nhân bực mình ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở đâu đến chả giúp ích gì cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày hai bữa. Vợ Nhân trước còn nói mát sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người đàn bà ấy đay nghiến cả chồng lẫn khách:

-Chẳng phải bố già, không phải khách nợ, ở đâu lại rước về thờ phụng: ăn no lại nằm. Thôi liệu mà tống quách đi!

Thấy thái độ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ sợ mất lòng bạn. Một mặt Nhân thân hành chăm chút bạn chu đáo hơn cả lúc trước, mặt khác Nhân tỷ tê khuyên dỗ vợ. Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì chàng hiểu tất cả. Đã hai lần Quắc cáo bạn xin về nhưng Nhân cố giữ lại. Thấy bạn chí tình, Quắc lại nấn ná ít lâu. Nhưng hôm đó Quắc quả quyết ra đi vì chàng vừa nghe được những câu nói xúc phạm nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không đi sớm thì có ngày bị nhục với người đàn bà này. Mà nếu ra đi như mấy lần trước thì sẽ bị bạn chèo kéo lôi thôi. Một hôm, trời còn mờ sương, Quắc cất lẻn ra khỏi nhà. Để cho bạn khỏi mất công tìm kiếm, khi đi qua một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên đường.

Đoạn Quắc lần mò đến xứ khác trở lại cuộc đời dạy trẻ. Thấy mất hút bạn, Nhân bổ đi tìm. Khi nghe tin có người bắt được khăn áo ở mé rừng phía Nam, chàng lật đật đến xem. Nhận rõ ấy là khăn áo của bạn, Nhân rất thương cảm: "Ta nuôi bạn thành ra hại bạn! Chắc bạn ta bị cướp giết chết". Nhưng sau đó Nhân lại nghĩ khác: "Bạn ta ra đi trong túi không có một đồng một chữ thì dầu có gặp cướp cũng không việc gì. Đây một là hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc trong rừng sâu". Nhân bắt đầu vào rừng tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng. Băng hết chông gai, chui hết bụi rậm, Nhân luôn luôn cất tiếng gọi: "Anh Quắc ơi! Quắc! Quắc!". Nhân đi mãi, gọi mãi, quanh quẩn trong rừng mênh mông. Cho đến hơi thở cuối cùng con người chí tình ấy vẫn không quên gọi: "Quắc! Quắc!". Rồi đó Nhân chết hóa thành chim quốc, cũng gọi là đỗ quyên. Vợ Nhân đợi mãi không thấy chồng về, lấy làm hối hận. Một hôm chị ta bỏ nhà bỏ cửa đi tìm chồng. Cuối cùng cũng đến khu rừng phía Nam. Nghe tiếng "Quắc! Quắc!", chị ta mừng quá kêu to: "Có phải anh đấy không anh Nhân!" Không có tiếng trả lời ngoài những tiếng "Quắc! Quắc!". Vợ Nhân cứ thế theo tiếng gọi tiến dần vào rừng sâu. Sau cùng không tìm được lối ra, chết bên cạnh một gốc cây.

Sự Tích Chim Đa Đa

Ngày xưa có một em bé mồ côi cha từ hồi còn nhỏ. Người mẹ sau một thời gian tang chế cũng đi lấy chồng. Vì bà con thân thích nội ngoại không còn ai nên nó phải theo mẹ về ở với bố ghẻ. Bố ghẻ tính rất vũ phu, coi cả hai mẹ con như kẻ ăn đứa ở. Nhất là thằng bé chưa biết làm gì cả, nên hắn lại càng ghét dữ. Nhiều lúc có việc trái ý, hắn đánh thằng bé thâm tím cả mình mẩy.

Nhà hắn cũng không có gì. Hắn thường sinh nhai bằng cách lên rừng đốn củi. Người đàn bà vừa về với hắn được một ngày đã phải gánh củi của chồng đi bán ở chợ. Không may, năm đó trời làm mất mùa. Miếng ăn kiếm rất chật vật. Củi rẻ như bèo. Trước kia một gánh củi nuôi sống gia đình được mấy ngày thì bây giờ không đủ nuôi được một bữa. Thằng bé chưa làm được nghề ngỗng gì cả, trở nên một cái gai trước mắt bố ghẻ.

-Thằng bé này chỉ ăn hại đái nát. Chỉ làm cho ta khó khăn thêm. Hắn bảo vợ thế và khuyên vợ đem con đi bán cho kẻ khác nuôi. Nhưng người đàn bà nhất quyết không chịu. Thà là cả hai mẹ con cùng chết chứ bà không đời nào chịu lìa con. Người bố ghẻ bèn có ý định muốn giết chết con riêng của vợ. Mạng người lúc này nhỏ bằng cái tơ cái tóc. Huống chi đối với hắn, hắn chẳng coi ra gì. Nạn đói coi chừng đang kéo dài và ngày càng dữ dội. Một gánh củi lớn bây giờ không đổi nổi một bát gạo. Hôm đó, chờ lúc vợ đi chợ sớm, hắn đưa thằng bé lên rừng. Hắn rủ:

-Mày có muốn trèo ổi và bắt bướm không? Trên ấy thì tha hồ. Thằng bé nghe thế lấy làm thích, cố xin đi theo cho được. Cảnh rừng có nhiều cái lạ làm cho thằng bé lon ton chạy theo bố ghẻ không biết mệt. Người đàn ông đưa nó vào rừng sâu. Khi đến chỗ mấy cây ổi rừng, hắn bảo thằng bé:

-ổi đấy. Và có bát cơm đây. Chốc nữa tao lại tìm. Thế rồi hắn bỏ mặc thằng bé, lẳng lặng chui ra, đến một chỗ khác kiếm củi. Nhưng buổi chiều, khi bước chân vào nhà hắn lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé đã về trước hắn rồi. Số là thằng bé trong khi đang bơ vơ giữa rừng rậm thì may mắn gặp một bọn đi đào khoai mài về ngang. Thế là họ đưa nó về. Nhờ có bát cơm, nó vẫn đủ sức đi được đến nhà. Nghe đứa bé kể, hắn bực mình vô hạn. Hắn vờ mắng:

-Chỉ vì mày, làm tao tìm mãi không được! Một lần khác hắn lại dỗ được đứa bé đi theo lên rừng. Lần này hắn cố tâm đưa nó vào thật sâu, đến những nơi chưa ai dám tìm vào hái củi bao giờ. Khi trốn khỏi thằng bé, hắn nghĩ bụng: "Không chết vì thú dữ thì cũng chết vì lạc, không chết vì lạc thì cũng chết đói mà thôi". Mãi đến chiều tối vẫn không thấy bố ghẻ trở lại, thằng bé khóc lóc, kêu gào nhưng chỉ có tiếng vọng của núi rừng trả lời nó thôi. Nó cuống cuồng chạy tìm khắp mọi ngả nhưng không hề thấy một bóng người. Khi đã mệt lử và đói bụng, nó tìm đến chỗ bát cơm của bố ghẻ để lại thì không ngờ đấy là một bát cát trên có rắc một lớp cơm với một quả cà để đánh lừa. Thằng bé nhặt những hạt cơm phủi cát bỏ vào miệng. Cuối cùng đói quá, nó cầm lấy bát chạy khắp nơi và kêu lên: "Bố ghẻ ơi! Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!" Nhưng tiếng kêu gào của nó chỉ làm cho một vài con chim rừng giật mình mà thôi. Rồi thằng bé chết, hóa thành chim đa đa, luôn luôn kêu những tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!" Đợi mãi không thấy con về, người đàn bà khóc thương vô hạn. Đoán biết thằng chồng tàn bạo đã ám hại con mình, bà ta đứng lên xỉa xói vào mặt hắn. Cuối cùng bà ta bắt hắn phải đi kiếm con mình về ngay, nếu không sẽ lên quan tố cáo. Túng thế hắn phải vào rừng. Hắn tìm mãi. Đột nhiên trong khu rừng hẻo lánh nổi lên mấy tiếng "Bát cát quả cà". Hắn rụng rời. Đích thị là oan hồn thằng bé đã lên tiếng vạch tội ác của hắn. Nghe luôn mấy tiếng liên tiếp, hắn không còn hồn vía nào nữa, vội bỏ chạy. Nhưng mấy tiếng "Bát cát quả cà" đuổi theo hắn. Hắn chạy mãi, băng hết khu rừng nọ sang khu rừng kia. Tự nhiên hắn vấp phải đá ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Mấy ngày sau, những người tiều phu thấy thi thể hắn nằm vật ở mé rừng.

Sự Tích Con Khỉ

Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói.

Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ. Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. ạng cụ có vẻ đâu từ xa lại, dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vực nước lên cho ông già giải khát. ạng cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về. Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói:

-Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói. †n xong, ông cụ bảo nàng:

-Hồi nãy làm sao con khóc? Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.

-Ta là đức Phật,

-ông cụ nói tiếp,

-ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng. Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp. Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tí. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời tới tấp:

-Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với! Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước. Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn: "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!". Nhưng lại có những tiếng khác: "Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì". Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ đó, cô gái cùng với số người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những của cải do chúng để lại. Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng đành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về rừng. Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà. Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít ngồi xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa. Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.

Sự tích con dã tràng

Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.

Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn vào, thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy của nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn .

Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột, nằm im thiêm thiếp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy tức giận, muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái, nhưng trong cái thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng dăm bảy ngày sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói :

- Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi . Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe được mọi tiếng muông chim ở thế gian .

Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.

Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này : "Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với". Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy, đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy tất cả, chẳng chừa một tí gì.

Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy ông biết là người trong xóm đã làm hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi.

Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp mũi tên có tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông, thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông, hạ ngục.

Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông . Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét giải ông về kinh để vua phân xử.

Từ đề lao tỉnh, ông bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau :

- Nhanh lên ! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả.

Một con khác hỏi :

- Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế ?

Con nọ trả lời :

- Của Vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua, quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác cho nên chúng ta tha hồ chén.

Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc dục lên đường, Dã Tràng bảo họ :

- Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác.

Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng.

Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng Hiến Đế ở phương bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoan rằng nếu có sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngõ để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.

Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.

Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ :

- Bạn ta đến, lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường.

Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay.

Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái :

- Mình ơi ! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con :

- Con ơi ! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa.

Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được.

Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.

Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy đao. Ông nói :

- Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này.

Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.

Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói :

- Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển.

Ngỗng lại nói tiếp :

- Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn !

Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về.

Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Thì lạ thay, nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông . Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nào.

Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.

Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấu xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ.

Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa ! Vì thế, Long Vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long Vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong nể mặt.

Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông . Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ.

Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội vàng quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay.

Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ ông viết để lại gài ở chỗ treo áo. Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông, đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ. Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con Dã Tràng ngày ngày xe cát để lấp biển. Tục ngữ có câu :

Dã Tràng xe cát biển Đông .

Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.

Hay là :

Công Dã Tràng hàng ngày xe cát,

Sóng biển dồn tan tác còn chi.

Hay là :

Con còng còng dại lắm không khôn

Luống công xe cát sóng dồn lại tan

Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng./.

Gà Cánh Tiên

Trời đã sáng, bác Gà Trống đánh thức cả xóm gà "Hãy dậy đi thôi, hãy dậy đi thôi!". Chim rời tổ vừa bay vừa hót chào ông Mặt trời. Gà mẹ "Cục cục" gọi các con đi kiếm mồi. Các chú Gà con líu ríu chạy ra khỏi chuồng đi theo mẹ. Gà Út lại gần mẹ thỏ thẻ:

"Mẹ ơi, chị Cánh Tiên vẫn chưa dậy đâu mẹ ạ". Mẹ dẫn út về rủ Cánh Tiên. Út gọi chị rõ to, nhưng Cánh Tiên vẫn nằm im không nhúc nhích, ông Mặt trời đỏ chói đã lên khỏi ngọn cây, nhìn vào chỗ Cánh Tiên nằm. Ôi chao! Chói mắt quá, Cánh Tiên vương vai bò dậy. Bên ngoài, Trâu, Thỏ, Chó, Lợn cũng dậy từ bao giờ. Ngựa chạy trên đồng cỏ xanh, Cánh Tiên lững thững đi ra vườn. Chim trông thấy bay đến hỏi:

- Chị Cánh Tiên ơi, chị đi bắt sâu đấy à? Cánh Tiên xòe bộ lông cánh vênh mỏ trả lời:

- Mình còn phải rỉa cánh cho đẹp chứ. chẳng cần phải kiếm sâu, mẹ về sẽ có sâu.

Chim nghe nói bay đi ngay, không chơi với Cánh Tiên nữa. Cánh Tiên chơi một mình buồn quá, bụng đói. Cánh Tiên mếu máo: "Mẹ ơi! Hu hu hu". Mẹ ở đằng xa vội tha mồi về cho Cánh Tiên. Sáng nay mẹ ốm không dậy được, mẹ giục Cánh Tiên theo chị em đi kiếm ăn. Cánh Tiên đứng ì ra, không chịu đi. Đứng chán, Cánh Tiên lại ra vườn, ngắm vườn hoa, xuống rìa ao soi bóng, chờ mẹ mang mồi về như mọi hôm. chờ mãi không thấy gì, Cánh Tiên đành đi kiếm ăn vậy. Đất rắn như đá lại có bai nhiêu gai và mảnh sành. Cánh Tiên vừa bới được vài cái đã vội rụt chân lại "hu hu, gai đâm đau quá mẹ ơi". Rắn nằm trong hang nghe thấy liền bò ra dỗ ngọt : "Cánh Tiên ơi! Về nhà chị đi, chị cho ăn ngon mà chẳng phải làm gi cả". Cánh Tiên thích quá đi theo Rắn về hang. Về đến hang, Cánh Tiên hỏi Rắn: "chị Rắn ơi, mồi của Cánh Tiên đâu?" Rắn cười, lưỡi thè dài: "Mồi ấy à? Mồi chính là cô mình đấy, ta cũng đang đói đây". Cánh Tiên sợ quá đâm nhào ra ngoài, Rắn đuổi theo chỉ cách tẹo nữa là chộp được Cánh Tiên. Chim trông thấy liền về gọi các bạn đi cứu Cánh Tiên. Rắn trông thấy có Lợn, Ngựa, Trâu đến vội cút về hang. Cánh Tiên thoát nạn, về đến nhà rồi mà vẫn chưa hết sợ. Cánh Tiên sụt sịt nói với mẹ : "Từ giờ con sẽ vâng lời mẹ, con không lười biếng nữa."

Chuyện Quận Gió

Ngày xưa vào đời vua Lê Thánh Tông, ở kinh thành Thăng Long có một tay đại bợm. Hắn đã định tâm lấy của ai là thế nào cũng có kết quả. Hắn từng làm cho bọn quan lại và bọn trọc phú mất ăn mất ngủ. Đã nhiều lần các quan Phủ Doãn cho dò bắt nhưng hắn ẩn hiện như thần, không tài nào tóm được. Vì hành tích của hắn nhanh như gió, chỗ nào cũng vào lọt, nên người ta gọi là Quận Gió.

Một hôm vào dịp gần Tết, nhà vua ăn mặc giả làm một người học trò nghèo đi dạo phía ngoài kinh thành để xem xét dân sự. Tình cờ vua đến gõ cửa nhà Quận Gió. Vua làm bộ túng bấn nói:

- Tôi ngồi dạy học ở phường Đồng Xuân, năm hết Tết đến được ít tiền về quê, chẳng may bị kẻ trộm lấy mất đi hết cả, nay xin cho trú chân một đêm, mai lại đi.

Quận Gió thấy khách nói thế, bèn đáp:

- Tôi sẽ vì ông mà giúp đỡ ít nhiều để làm tiền ăn đường.

Vua thấy nhà y cột xiêu vách nát, hỏi:

- Chả giấu gì ông, tôi vốn là Quận Gió đây, nghe nói ông gặp vận đen, tôi thương tình, vậy để đêm nay tôi cố thu xếp cho ông một món. - Nói rồi đưa rượu mời khách uống và nói thêm: - Tôi chỉ lấy của nhà giàu giúp người nghèo thôi, mà phải là của bất nghĩa tôi mới lấy, còn như những người làm ăn lương thiện, tôi không bao giờ động đến. Bây giờ ông thử xét xem có nhà nào giàu mà gian ác bất lương, cứ cho tôi biết, tôi sẽ vì ông giúp đỡ. Lấy của chúng nó không có tội vạ gì hết.

Vua nghĩ một lát rồi nói:

- Có nhà ông Bá Vân ở phía đông thành đây, hắn có cửa hàng buôn bán to, giàu có cự vạn.

Quận Gió đáp:

- Nhà ấy cho vay một lớp vốn, năm bảy lớp lãi, lấy được. Nhưng ta cứ nuôi cho béo rồi sẽ lấy sau.

Vua lại nói:

- Tôi có thấy nhà ông gì gần đây, ruộng sâu, trâu nái, nhà ngói tường dắc, coi chừng thế nào?

- Không được! Nhà ấy trần lực làm ăn; trời chưa sáng đã dậy ra đồng, mặt trời lặn mới về thổi cơm, cần cù như thế, không nên lấy. Thôi! Có anh quan coi kho kia, hay ăn bớt của công, hôm nay nhân thể tôi đi lấy cho.

- Thực thế à?

- Tôi đã tra cứu kỹ. Hắn lấy của công mỗi ngày một ít, đưa về quê tậu vườn tậu ruộng, có đến hàng trăm mẫu.

Vua tò mò muốn xem tài nghề của Quận Gió, bèn đòi đi theo. Quận Gió trước ngần ngại nhưng sau cũng bằng lòng, và bảo:

- Trước khi lấy, tôi sẽ cho ông thấy đủ tang chứng là của phi nghĩa, nhưng ông phải giữ cho thật im lặng mới được.

Đoạn bảo thấy đồ giả nai nịt gọn ghẽ, cả hai cùng ra đi trong đêm khuya. Đến nhà viên quan coi kho, Quận Gió bảo vua đứng chờ ở bụi, rồi cắt giậu tìm cách mở cửa vào nhà. Sau đó, chàng dắt vua vào buồng, mở hòm lấy năm nén bạc đưa cho vua xem và nói:

- Đây là bạc hắn mới trộm của kho về để riêng chưa dùng đến. Thôi ông cầm lấy về quê ngay đi mà ăn Tết, đừng có la cà đâu để chúng bắt được. Tôi sẽ tìm cách làm cho hắn không biết là đêm nay có trộm.

Vua nhìn thấy trên mỗi nén bạc có mấy chữ "ngự khố bạch kim", tin lời Quận Gió là đúng và thầm khen hắn có tài. Vua đi luôn về cung, giấu bạc dưới chân thành. Sáng hôm sau là ngày nguyên đán, trăm quan vào chầu, chúc vua muôn tuổi. Vua cho gọi thủ kho đến hỏi:

- Nhà ngươi đêm qua mất trộm phải không?

Thấy hắn không đáp, vua lập tức sai viên Trung sứ đến dưới chân thành lấy năm nén bạc về. Vua đưa cho hắn xem, hắn cứng lưỡi không trả lời được đành cúi đầu nhận tội.

Quận Gió sau đó được vua vời vào cung ban hiệu là "Ăn trộm quân tử" và ban thưởng

Đại bàng và chim sẻ

Ở khu rừng nọ có một con đại bàng huênh hoang hợm hĩnh. Gặp bất cứ con chim nào, đại bàng cũng khoe khoang rằng nó là chúa tể của các loài chim, rằng nó khỏe nhất, kêu to nhất, bay cao nhất.

Một hôm, đại bàng tập hợp tất cả các loài chim lại và lên giọng thách thức:

- Hỡi các loài chim, trong các người có kẻ nào dám đọ sức kêu to, ăn nhiều, bay cao cùng ta không nào?

Cả bầy chim sợ hãi nhìn nhau chẳng dám ho he một tiếng. Thấy thế đại bàng càng được thế:

- Ta bất chấp tất cả các ngươi đấy.

Lúc ấy, một chú sẻ con bèn lên tiếng:

- Bác đại bàng ơi, thi ăn nhiều, kêu to với bác thì chúng em chẳng dám rồi, nhưng thi bay cao với bác thì em cũng thử một lần xem sao.

Cả đại bàng lẫn các loài chim khác đều sửng sốt ngoảnh lại nhìn chim sẻ nhưng nó không hề nao núng.

Cuộc thi bắt đầu. Ðại bàng vỗ cánh bay lên. Khi đã bay cao hơn cả những ngọn cây cao nhất, đại bàng liền gọi :

- Ê, sẻ con chết rấp ở đâu rồi?

Lúc ấy sẻ bay lên đầu đại bàng, đáp :

- Em đây, bác cứ yên tâm, em không bỏ cuộc đâu.

Ðại bàng cố sức bay cao lên nữa. Khi cao hơn cả những đỉnh núi mù sương, đại bàng lại cất tiếng gọi:

- Thế nào, sẻ con, vẫn theo ta được đấy chứ?

Chim sẻ lại bay lên trả lời:

- Vâng, em vẫn cố theo bác đây. Chừng bác mệt rồi sao mà bay chậm thế?

- Ðời nào!

Ðại bàng nói hổn hển rồi bay ngược lên cao cao mãi, lần này đại bàng đã ở trên cả những đám mây trắng xóa. Nó tin là sẻ con chẳng thể nào bay lên tầng cao này được. Ðôi cánh đã mỏi rã rời. Cổ và đầu nặng trĩu, đại bàng nói chẳng ra hơi.

- Sẻ con đã chịu thua ta rồi chứ ?

- Chưa đâu, em vẫn ở trên đầu bác đây này .

Giọng sẻ con vẫn lanh lảnh.

Ðại bàng quyết không chịu thua chim sẻ, nó lấy hết sức tàn rướn lên cao nhưng không được nữa. Ðại bàng tắt thở. Từ trên cao nó rơi thẳng xuống vực như một hòn đá vậy. Khi ấy, sẻ con chỉ việc xòe cánh ra từ từ hạ xuống giữa các loài chim đang nóng lòng chờ tin cuộc đọ sức. Chúng không hiểu sẻ con có mưu mẹo gì mà thắng được đại bàng vốn bay cao nhường ấy. Chỉ có mỗi một con sẻ con khác là trông thấy lúc cuộc thi bắt đầu, sẻ con đã đậu ngay trên lưng đại bàng. Thì ra đại bàng đã mất công chở chim sẻ trên lưng mà không biết. Mỗi lần đại bàng cất tiếng hỏi, sẻ con lại từ lưng đại bàng bay lên đáp lời, thành thử nó chẳng mất tí sức nào.

Bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, sẻ con đã thắng đại bàng kiêu ngạo và to lớn hơn nó gấp nghìn lần.

Củ cải trắng

Mùa đông đã đến rồi, trời lạnh buốt. Thỏ con không còn gì để ăn nữa, nó đành mặc áo ấm và đi ra khỏi nhà để tìm cái ăn. Thỏ tìm, tìm mãi, bỗng nhiên Thỏ con reo lên một cách sung sướng:

- Ôi! Ở đây có hai củ cải trắng, mình mới may mắn làm sao.

Thỏ con liền nhổ hai củ cải trắng lên khỏi mặt đất và vội vàng đi về nhà. Đi được một lúc, Thỏ con chợt nhớ tới Dê con.

- Trời lạnh thế này chắc Dê con chẳng có gì ăn. Ta phải mang cho Dê con một củ cải trắng mới được.

Thỏ con đến nhà Dê con, nhưng Dê con đi vắng. Thỏ để một củ cải trắng trên bàn của Dê con rồi ra về.

Dê con đi kiếm ăn, nó kiếm được một cái bắp cải, Dê con ăn một nửa còn một nửa để dành cho ngày hôm sau. vừa mở cửa vào nhà, Dê con nhìn thấy củ cải trắng trên bàn, nó ngạc nhiên kêu lên:

- Ôi! Củ cải ở đâu ngon thế này?

Dê con ngắm nghía củ cải rồi chợt nghĩ:

- Trời lạnh thế này, chắc Hươu con không có gì ăn. Ta phải đem cho Hươu con củ cải trắng mới được.

Dê con đến nhà Hươu con,nhưng Hươu con không có ở nhà, Dê con liền đặt củ cải trắng trên bàn Hươu con rồi ra về.

Hươu con từ rừng trở về, nó ngạc nhiên khi thấy có một củ cải trắng rất ngon ở trên bàn. Hươu con định ăn nhưng nó chợt nghĩ:

- Trời lạnh thế này, chắc Thỏ con không có gì ăn, ta phải đem củ cải trắng này đến cho Thỏ con mới được

Hươu con vội vã đến nhà Thỏ con. Thỏ con đang ngủ say. Hươu con không muốn đánh thức bạn dậy, lặng lẽ đặt củ cải trắng trên bàn Thỏ con rồi ra về.

Thỏ con ngủ mãi, ngủ mãi, đến khi tỉnh dậy ngạc nhiên vô cùng, trên bàn của Thỏ có một củ cải trắng. Thỏ kêu lên:

- Ôi! Sao củ cải trắng lại ở đây nhỉ?

Thỏ con suy nghĩ và hiểu rằng: những người bạn tốt đã đem củ cải trắng đến cho mình.

Ông lão và con lừa

Ông lão nhà quê và đứa cháu bàn nhau đem con lừa ra hội chợ bán. Để con lừa khỏi mệt mỏi hầu có thể bán được giá cao, họ buộc chân lừa lại và hai ông cháu khệ nệ gánh con lừa đi.

Đi được một đoạn, người đi đường thấy thế phá ra cười và bảo: "Có con lừa mà không chịu cỡi lại khiêng nó. Sao mà ngu thế!" Ông lão nhận thấy mình ngu thật, vội để con lừa xuống, cởi trói cho nó, và để đứa cháu cỡi lên lưng lừa, còn ông thì đi theo sau.

Một lúc sau, khách bộ hành trông thấy thế, mắng thằng cháu: "Mày là đồ bất hiếu bất mục! Sao lại để Ông mày già yếu thế mà đi bộ Chính mày phải đi bộ mới phải!" Một lần nữa, nghe theo ý khách bộ hành, Ông già leo lên lưng con lừa, đứa cháu bước theo sau.

Đến một đoạn đường khác, ba cô gái đi qua thấy vậy, một cô bảo: "Tội nghiệp thằng bé, phải đi khập khễnh theo sau, trong khi ông già tưởng mình khôn ngoan lại ngồi chễm chệ trên lưng lừa!" Ông già nhận thấy ý kiến đúng, bảo thằng cháu cùng lên ngồi trên lưng lừa.

Rồi một toán người khác đi ngang qua lại phê bình: "Sao lại bắt con lừa đáng thương ấy chở nặng như vậy? Họ không biết thương hại con vật già nua của họ tí nào cả. Ra đến hội chợ thì họ chỉ còn mảnh da lừa để bán!" Một lần nữa, hai ông cháu xuống đi bộ, để con lừa đi thong dong đằng trước.

Vẫn chưa hết, một khách qua đường thấy vậy than rằng: "Sao họ không để con lừa vào lồng kính mà thờ! Họ đi mòn giầy của họ để bảo vệ con lừa. Đúng là ba con lừa!"

Bấy giờ Ông lão mới trả lời: "Vâng, chính tôi là con lừa! Nhưng từ nay về sau, dù người ta khen hay chê tôi, dù người ta nói điều gì hay không nói điều gì, tôi chỉ làm theo đầu óc của tôi mà thôi!"

Lời bàn: Câu chuyện khuyên ta tuy phải lắng nghe ý kiến của người khác nhưng luôn luôn phải dùng sự suy nghĩ của chính mình để định đoạt mọi việc.

Nông phu và hũ vàng

Có một người nông phu hiền hoà, hàng ngày dắt trâu ra đồng cày bừa. Một hôm đang cày ruộng, chợt phát giác ra một cái hũ ai chôn ở ruộng của anh ta. Khi mở nắp ra, thì thấy toàn là ngọc ngà châu báu đầy ở trong hủ. Người nông phu không lộ vẻ gì vui mừng cả, đặt cái hũ bên bờ ruộng, rồi lại tiếp tục việc cày bừa.

Đến tối về, kể chuyện lại cho vợ nghe. Người vợ trách chồng khờ khạo, đào được châu báu mà không đem về, lại để ở bờ ruộng Người nông phu trả lời: "Có phải của mình đâu mà mang về. Nếu Trời đã cho mình, thì mình chẳng cần mang về mà tức khắc có người mang đến để ở trước cửa nhà mình"

Trong khi đó, có hai tên trộm nghe lén được; vội vàng ra ruộng xem thì quả nhiên thấy cái hũ còn để bên bờ ruộng. Hai tên trộm mừng lắm, vội mở nắp ra xem thì chỉ thấy toàn là rắn rết trong hụ Hai tên trộm giận lắm, một tên bàn rằng: "Hừ! Thế này mà hắn dám bảo là ngọc ngà châu báu! Đã thế ta đem để trước cửa nhà hắn cho bõ ghét!".

Nói xong hai tên bèn khênh cái hũ để ở trước cửa nhà người nông phu. Sáng hôm sau, như thường lệ, người nông phu lại ra động Khi mở cửa thì thấy cái hũ ở trước cửa, mở ra thì vẫn còn đầy ngọc ngà châu báu.

Lời Bàn: Câu chuyện muốn khuyên chúng ta phải sống hiền lành, và lương thiện thì sẽ được đền bù xứng đáng.

Hội nghị Chuột

Một con Mèo rất hung dữ, tiêu diệt gần hết lũ Chuột Lũ Chuột còn lại rất sợ, chỉ chui ở trong hang chịu cảnh đói khát mà không dám rời khỏi hang. Một hôm nhân dịp Mèo có việc phải đi xa, các con Chuột mới tụ tập lại, bàn cách để đối phó với tình thế.

Thôi thì đủ các loại chuột, nào là chuột Cống, chuột Bạch, chuột Chù, chuột Nhắt, chuột Động từ các nơi đổ về dự Hội Nghị.

Chuột Cống là niên trưởng, đưa ra ý kiến là tình thế rất nguy ngập, bây giờ chỉ còn cách buộc một cái chuông vào cổ tên kẻ thù hung dữ kia, để mỗi lần hắn cử động thì phát ra tiếng leng keng, các chuột đều biết trước và trốn tránh dưới đất. Các con chuột khác đều gật gù tán thưởng ý kiến quá hay của vị niên trưởng khả kính này.

Việc khó khăn nhất là ai sẽ lãnh công việc đeo chuông vào cổ Mèo. Chuột này nói:

- "Không, tôi không thể làm chuyện này! Tôi không dại đâu!"

Chuột khác nói:

- "Tôi cũng vậy!"

Bàn tán với nhau mãi, chẳng ai chịu làm việc nguy hiểm này, rốt cuộc lũ chuột đành giải tán Hội Nghị.

Gốc tích bộ lông quạ và bộ lông công

Xưa kia Quạ và Công là đôi bạn chí thân. Cũng vì mầu lông của chúng giống nhau: con nào con nấy đều xám xịt như vừa rúc ở bùn lên. Lúc ấy chúng làm gì đã có bộ cánh như bây giờ. Cả hai con đều tự biết mình xấu nên không dám chơi với ai cả. Riêng Công dưới mắt Quạ thì lại càng xấu tệ: cái đầu bé tí chẳng cân xứng với con người. Thêm vào đó, một cái cổ dài và ngẳng nghiu, thật khó coi hết sức. Một hôm Quạ bảo Công:

- Đằng kia có người thợ vẽ có thuốc đủ các mầu, chúng ta hãy ăn trộm về mà tô chuốt cho nhau, sửa lại bộ cánh cho đẹp.

Công gật gù nhận lời. Hôm ấy, người thợ đang vẽ dở cho người ta một bộ tứ bình, thuốc vẽ còn bỏ lăn lóc bốn bên người. Thừa dịp người thợ ngủ ngày, hai con vật lần lượt mò vào lấy trộm bút lông và thuốc vẽ đưa ra một gò con ở giữa hồ gần đấy. Lần thứ ba chúng định vào lấy một mẻ nữa nhưng người thợ vẽ đã ngủ dậy. Chúng đành trở ra kiểm lại thì thấy chỉ được có một thỏi mực tàu, một gói thuốc xanh và một gói kim nhũ. Quạ bảo:

- Thôi được, ta cứ bắt đầu vẽ cho nhau đi!

Nói đoạn, Quạ bắt Công nằm xuống cho mình tô điểm. Quạ vốn khéo tay, thoạt tiên nó dùng mầu xanh tô vào đầu vào cổ và mình Công. Tô đến đâu, rắc kim nhũ đến đấy. Đến cái đuôi, Quạ bắt Công phải cố xòe ra như cánh quạt cho mình vẽ được kỹ lưỡng. Ở mỗi lông đuôi Quạ vẽ những vòng tròn và tô bằng mực tàu và kim nhũ rất đẹp.

Tô xong đắc ý, Quạ bắt Công phơi cái đuôi cho thật khô.

Công vốn vụng về nên khi bắt tay vào tô điểm cho Quạ thì nó lúng túng. Hơn nữa lúc đó mầu xanh và kim nhũ đã cạn.

Giữa lúc Công chưa biết trang sức cho Quạ như thế nào thì bỗng có Quạ khoang ở đâu bay đến. Quạ khoang vốn có họ với nhà Quạ. Hồi ấy mầu lông của nó trắng toát như vôi. Chưa đỗ xuống, nó đã giục tíu tít:

- Anh Quạ! Anh làm gì đó? Mau đi về phương Đông!

- Để làm gì?

- Phía đó mới có một trận đánh nhau to, thây chết như rạ. Thật là một dịp may hiếm có.

Quạ nghe nói đến thịt người thì sự thèm muốn làm cho nó không tự chủ được nữa. Quạ bảo Quạ khoang:

- Thế à? Nhưng để nó tô điểm cho tao cái đã. Chịu khó chờ tý nhé!

- Không được. Phải đến trước ban đêm... Ngày mai mới đến thì người ta chôn hết còn gì nữa.

Quạ nóng nảy, giục Công:

- Thế thì phải làm gấp lên mới được!

Quạ khoang thấy Công đẹp nên cũng muốn có một bộ cánh tươm tất. Nó xen vào:

- Anh Quạ! Anh làm ơn cho tôi một tí với. Tôi cũng cần ăn mặc tử tế một chút.

Quạ vui lòng chia sẻ phần thuốc vẽ của mình cho người em họ. Công nhân lúc Quạ vội nên chả cần ngắm nghía gì lôi thôi, trút một nửa số mực tàu lên đầu Quạ. Mực chảy đến đâu, người Quạ đen đến đó. Công còn hữu ý bôi cả vào mỏ vào chân làm cho toàn bộ người Quạ đen nhánh như cột nhà cháy.

Đến lượt tô cho Quạ khoang, Công cũng đổ số mực còn lại lên người nó. Khi nước mực rót xuống đầu, Quạ khoang hơi ngại vội rụt cổ lại, thành thử cổ của nó có một cái ngấn không bị mực thấm đến.

Nhìn thấy Công tô điểm cho Quạ khoang, Quạ mới biết là mình dại, không dưng lại để cho một kẻ vụng về trang điểm. Nhưng việc đã lỡ còn biết làm gì được nữa. Tức mình quá hai anh em nhà Quạ chỉ còn biết mắng cho Công một trận rồi bỏ đi. Từ đó Quạ không chơi với Công nữa.

Cũng vì thế mà ngày nay dòng dõi loài Công có bộ cánh rất sặc sỡ. Đi đâu chúng nó cũng ưỡn ẹo và luôn miệng khoe khoang: "Cuông (1) tốt! Cuông tốt!". Trái lại, dòng dõi loài Quạ thì bộ cánh đen thui như mực, trong đó có Quạ khoang đặc biệt có một cái ngấn trắng ở quanh cổ. Vì phải bộ cánh xấu quá nên Quạ rất thẹn thò, đi đâu cũng than thở: "Quạ xấu hổ! Quạ xấu hổ!".

Sự Tích Con Cóc

Trong nhà nọ có hai chị em, mỗi người một tính nết. Người chị xinh đẹp, tham lam và lười nhác. Người em bị què tay, nhưng rất siêng năng làm lụng. Người chị cậy khỏe, cậy sinh, sáng trưa chiều tối chỉ luẩn quẩn nào gương nào lược. Vì chơi bời vô độ nên chẳng bao lâu thân thể người chị gầy khô như que củi, mặt mũi héo tóp như một xác chết. Người em mang tật : Tay phải co quắp từ thuở mới lọt lòng, mọi việc như cầm dao, cầm cày, vốc cơm ăn cũng nhờ ở bàn tay bên trái. Quanh năm chỉ có một váy áo rách rưới.

Môt năm nọ, trời làm lũ lụt lớn, nước ngập hết làng, cây cỏ, lúa, ngô hết đất cắm chân. Người em bèn ngồi ôm lấy chóp núi đá, kêu trời, gọi đất. Mệt quá, người em ngủ thiếp đi ba ngày bảy đêm liền, thấy em ngủ lặng, người chị ngỡ là em đã chết, bèn cưỡi bè chuối chèo đi, bỏ mặt em trên chóp núị Người em mở mắt choàng dậy thì nước vẫn chưa rút. đợi khi mặt trời đến người em liền kêu to :

- Ơ ông trời !

Ông trời dừng lại hỏi :

- Cháu muốn gì ?

Người em nói :

- Ông cứu lấy chị cháu, chị cháu bị nước lũ nhận chìm mất rồi. Ông cứu được thì ông sẽ được lấy chị ấy làm vợ.

Ông mặt trời cười bảo :

- Chị cháu đến nhà Tiên ông rồi. Cháu hãy gieo hạt này ở chóp đá của cháu thì cháu muốn cái gì cũng được cái ấy.

Nói xong, Ông Mặt Trời lại lặn đi. Cũng lúc ấy người chị chèo bè chuối đến gõ cửa nhà Tiên ông, bè chuối giạt lên sân nhà thì người chị hò hét :

- Cho tôi gặp chàng Tiên đẹp nhất.

Tiên ông nhìn ra thấy có người con gái lạ, lại đòi gặp Tiên, liền mời vào nhà. Người chị nói luôn :

- Tôi không lấy ông đâu, ông già mà xấu quá, cho tôi lấy được chàng Tiên đẹp nhất.

Tiên ông gật đầu bảo :

- Ừ.

Nói rồi, Tiên ông khoát tay một cái, lập tức từ trong nhà có một chàng trai đi ra, nắm tay người chị. Chàng trai là dòng họ của Cóc Tía, cho nên Tiên ông đặt tên chàng là chàng Cóc Tía. Từ đấy, vợ chồng người chị sống cuộc sống sung sướng trong cảnh Tiên.

Người em gieo cái hạt của ông Mặt Trời cho vào kẽ đá, nàng lấy bàn tay trái của mình vơ rêu lá, giật cả vạt áo mình phủ cho hạt được nguyên lành. Chẳng bao lâu từ kẽ đá vươn ra một dây bầu, quả to như cái sọt. Nàng lăn bầu sếp ra chia núi. Núi bầu cứ nối nhau, nối nhau mọc xa, vùng nước lũ cứ thu hẹp dần nhường chỗ cho bầu ở. Một ngày kia, người trên Tiên thấy có nhiều núi nhỏ lân chật cả gầm trời. Vợ chồng Cóc Tía nhìn xuống thì thấy người con gái cầm dao bằng tay trái cứ quất dần quật bổ bầu ra chia cho mọi người. Người chị nhận ra kẻ ngồi với núi bầu là đứa em của mình, lòng ghen ghét lại nổi lên. Mụ liền kéo tay chồng bảo :

- Cái con què ấy còn sống, nó có nhiều bầu kia kìa.

Chàng Cóc Tía chưa kịp hỏi thêm đầu đuôi ra sao thì mụ đã nắm tay chồng bảo nhảy xuống các chỏm núi bầu. Nhảy khỏi nhà trời, vợ chồng hắn hiện nguyên hình một đôi Cóc Tíá. Đôi vợ chồng Cóc Tía ngồi chồm chổm trên một quả bầu. Người em hỏi :

- Cóc muốn gì ?

Cóc nói :

- Ta muốn nhận mày là em gái.

Người em lắc đầu :

- Chị ta lên trời lâu rồi.

Cóc bảo :

- Tao là chị đây, còn đây là anh rể của màỵ

Người em ngồi nghe Cóc Tía vợ kể lại chuyện cũ gặp lũ to, chèo bè chuối lên trời ra sao ... Nghe mãi rồi tin lời Cóc là phải. Người em liền nhận anh chị và cho ở chung trên ngọn núi cùng chăm nom dây bầu với mình. Khi ấy, ông Mặt Trời đi qua, dừng lại nói với người em :

- Anh chị đã về với cháu đấỵ

Người em nói :

- Vâng.

Ông Mặt Trời bảo :

- Bây giờ ta cho cháu một người chồng, cháu hãy bổ quả bầu xấu nhất ra thì gặp chồng. Người em liền bổ quả bầu vặn vẹo xấu xí, vỏ bầu tách ra thì có một chàng trai khôi ngôi, tuấn tú hiện ra nhận là chồng của người em, hai vợ chồng người em lại lấy quả xếp bậc xuống thấp dần. Họ xếp quả bầu đến đâu thì mực nước lui xuống đến đó. đồng ruộng làng mạc lại hiện về như xưa. Bà con làng xóm trở về làm ăn sinh sống yên ấm.

Cũng từ đấy vợ chồng Cóc Tía được người em đưa xuống cùng ăn ở, làm lụng với dân bản. Người chị cảm phục lòng tốt của người em nên không còn ghen ghét, xấu tính với em gái như xưa nữa.

Cô gái thông minh

Ngày xưa có hai anh em, một người thì nghèo, một người thì giàu. Người em nghèo đến cả cái bát ăn cơm, cái vá múc canh, cái chén uống nước cũng chẳng có. Một lần, người anh giàu có đột nhiên đến nhà người em nghèo khổ, đưa cho em một con bò sữa và nói:

- Chú hãy làm việc cho tôi ít nhiều, con bò sữa này sẽ là của chú!

Vì thế, người em nghèo đến làm việc cho người anh. Một thời gian sau, người anh đòi lại con bò:

- Đưa con bò lại cho tôi!

Người em không đồng ý:

- Anh ơi, vì con bò này, em đã làm việc cho anh mà!

- Chú làm cho tôi những gì ? Thật không đáng kể ra ! Thế mà chú hãy xem, đây là con bò như thế nào? Hãy trả lại bò cho tôi ! Hãy trả lại cho tôi!

Người em nghĩ: Không thể mất toi công sức được. Nói gì mình cũng không bằng lòng giao trả con bò. Thế là họ đến gặp một cụ già nhờ phân xử. Nhưng cụ già thì sao ? Cụ cũng không biết phải phân xử ra sao, cuối cùng cụ bèn nói với hai anh em:

- Ai trả lời đúng câu đố của ta thì con bò sẽ thuộc về người đó.

- Xin cụ hãy đưa ra câu đố, thưa cụ !

- Hãy nghe nhé: trên thế giới cái gì béo nhất, cái gì nhanh nhất, và cái gì đáng yêu nhất ? Ngày mai hãy cho ta nghe câu trả lời.

Hai anh em đi về. Trên đường về nhà, người anh giàu có nghĩ: Thực là lời mê sảng hoang đường, đây, thử đoán xem ông cụ đố gì ? Có gì có thể béo hơn con lợn của ông cụ ? Có gì có thể nhanh hơn con chó săn của ông cụ ? Có gì có thể đáng yêu hơn tiền bạc ? Con bò là của ta rồi!

Người em nghèo trở về nhà, nghĩ mãi mà vẫn không đoán ra. Anh có một người con gái tên là Masa, thấy cha mình về nhà với dáng nghĩ ngợi, cô hỏi cha:

- Bố ơi, bố có gì buồn bã thế? Ông cụ đã nói những gì ạ?

- Ông cụ đưa ra những câu đố như thế thật là bảo người ta vắt óc ra suy nghĩ.

- Câu đố gì hả bố?

- Trên thế giới cái gì béo nhất ? Cái gì nhanh nhất ? cái gì đáng yêu nhất?

- Chà, bố ơi ! các câu này dễ thôi mà ! bố cứ yên tâm nói giống lời của con là được.

Ngày hôm sau hai anh em lại đến chỗ ông cụ. Ông cụ hỏi:

- Thế nào, các anh đã đoán ra chưa?

- Chúng tôi đã đoán ra rồi, thưa cụ.

Người anh chạy đến trước, bật ra câu trả lời.

- Thưa cụ, béo nhất là con lợn nhà cụ, nhanh nhất là con chó săn của cụ, đáng yêu nhất là tiền bạc.

- Ấy, ấy, ấy ! nói bậy nào ! Nói bậy nào ! - cụ già kêu lên. - Ôi, đáp án của anh không đúng!

Lúc này người em mới lên tiếng:

- Cụ ơi, là như thế này, không có gì có thể béo hơn mẹ Đất, Người nuôi dưỡng vạn vật trên thế gian, lại đem vạn vật làm thức ăn cho con người.

- Đúng, đúng ! - ông cụ nói. - Thế cái gì nhanh nhất nào?

- Nhanh nhất là ý nghĩ của con người, ý nghĩ của con người có thể theo gió đến bất cứ nơi đâu.

- Đúng là như vậy. Còn cái gì đáng yêu nhất?

- Đáng yêu nhất là giất ngủ say. Bất cứ ai, một khi đã ngủ say đều có thể giũ bỏ tất cả.

- Hoàn toàn đúng! - Cụ già nói. - Con bò là của anh rồi ! Nhưng anh phải nói cho ta biết anh tự mình nghĩ ra hay đã có ai giúp đỡ anh?

- Thưa cụ. - Người em nghèo khổ nói. - Tôi có một đứa con gái tên Masa, chính nó đã bảo cho tôi điều đó.

- Có việc này ư? Ta thông minh như thế, còn cô ta chỉ là cô gái bình thường, thế mà lại đoán được câu đố của ta.

Cụ suy nghĩ và quyết định thử tài cô gái này. Cụ nói với người em:

- Đây là mười quả trứng gà chín, hãy đưa cho con gái anh, bảo cô ấy đem gà mẹ ấp qua một đêm phải nở ra những con gà. Sau đó đem những con gà đó nuôi lớn, rồi con gái anh hãy giết ba con quay chín mang đến cho ta ăn sáng. Sáng mai, trước khi ta ngủ dây, anh hãy mang đến đây. Ta sẽ đợi. Nếu như không làm được thì anh và con gái anh sẽ gặp rắc rối đấy!

Người em trở về nhà và ân hận vô cùng khi đã đến nhờ ông cụ phân xử dùm. Nghĩ tới sáng mai, anh bật khóc. Người con gái thấy, chạy ra hỏi:

- Bố ơi, sao bố lại khóc ? Lời giải đáp của con đã sai sao?

- Không phải. Chúng ta gặp rắc rối rồi con ơi ! Ông cụ đưa cho con mười quả trứng gà chín, con cần phải đem trứng cho gà mẹ ấp ra gà con, yêu cầu sau một đêm gà phải nở, lại phải nuôi lớn rồi giết ba con quay lên làm bữa sáng cho ông cụ.

Cô gái sau một hồi suy nghĩ rồi đem ra một chậu cháo nói:

- Bố ơi, bố hãy đem chậu cháo đến đưa cho ông cụ, bảo với ông cụ rằng ông cụ hãy đào một cái hố, đem chậu cháo trồng xuống đó, cây mạ mọc lên, khi lúa chín rồi hãy gặt lúa về, xát thành hạt gạo, nghiền vỡ ra rồi đem đến cho những con gà nở từ những quả trứng chín này ăn.

Người em nghèo mang chậu cháo chín đưa cho ông cụ già và đem những lời con gái nói với ông cụ.

Ông cụ nhìn đi nhìn lại chậu cháo, rồi đem chậu cháo ra cho con chó nhà mình ăn. Sau đó, ông cụ tìm một rễ cây gai đưa cho người em nghèo và nói:

- Hãy cầm rễ cây gai này đưa cho con gái anh, bảo nó ngâm thật kỹ rồi phơi nắng, đập tơi, đem dệt thành một trăm tấm vải, nếu như không làm được thì lời nói kia khó mà chấp nhận được.

Người em nghèo chạy về nhà, lại khóc. Con gái anh hỏi:

- Chuyện gì nữa vậy bố?

- Con nhìn đây, ông cụ đưa cho con một rễ cây gai, yêu cầu con ngâm vào nước rồi phơi nắng, đập kỹ và phải dệt ra một trăm tấm vải.

Masa suy nghĩ rồi lấy con dao chặt một cành cây nhỏ đưa cho bố nói:

- Bố ơi, hãy đem cành cây này đưa cho ông cụ, xin ông cụ hãy làm khung cửi dùng để dệt rễ gai này.

Người em nghèo cầm cành cây đến gặp ông cụ, đem những lời con gái nói lại với ông cụ. Ông cụ nhìn đi nhìn lại cành cây nhỏ, rồi ném nó đi, trong lòng thầm nghĩ: "Xem ra đây đúng là một cô gái thông minh". Ông cụ rất muốn gặp mặt cô gái, nhưng lại nói với người em nghèo:

- Anh hãy quay trở về nói với con gái anh, bảo cô ấy đến làm khách nhà tôi sáng mai, nhưng phải nhớ là không được đi bộ cũng không đi xe, không đi chân không cũng không đi giày, không cần đem theo lễ vật nhưng không thể thiếu lễ vật. Nếu con gái anh không đến, chắc anh biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Người em nghèo lại trở về nhà trong tâm trạng buồn rầu. Đến nhà, anh đem lời nói của ông cụ nói với con. Nghe xong, sau một hồi suy nghĩ, Masa nói với cha:

- Bố ơi ! chớ có buồn, tất cả đều tốt. Xin bố đem về cho con một con thỏ sống.

Người em nghèo ra đi, đem về một con thỏ sống.

Sáng sớm hôm sau, Masa xỏ một chân vào đôi giầy rách, còn một chân đi không. Sau đó cô lại đem theo một con chim sẻ, tìm một cái xe trượt tuyết buộc vào con dê. Cô giấu con thỏ trong nách áo, con sẻ cầm trên tay, một chân để dưới đất, một chân đặt trên xe trượt tuyết - rõ ràng con dê đi bộ thay cô. Rồi cứ như thế, cô đi đến sân nhà ông già.

Từ xa, ông cụ đã nhìn thấy một cô gái đi đến bèn gọi người hầu bảo:

- Hãy thả hai con chó săn ra.

Hai con chó săn của ông cụ chạy tới chổ cô gái, cô nhanh nhẹn thả con thỏ ra, con chó thấy con thỏ liền bỏ cô gái chạy đuổi theo con thỏ. Lúc này cô gái đã đến trước mặt cụ già, cung kính vái chào ông cụ và nói:

- Thưa cụ, đây là lễ vật cháu biếy cụ. - Nói rồi cô đưa con chim sẻ cho ông cụ.

Ông cụ vừa đưa tay đón lấy thì cô gái buông tay, con chim sẻ lập tức bay vọt từ cửa sổ ra ngoài.

Ngay lúc ấy có hai người nông dân đến kiện nhau. Ông cụ hỏi họ:

- Các anh có việc gì thế?

Một người nói:

- Sự việc là như thế này cụ ạ. Hai chúng tôi cùng ở ngoài đồng qua đêm, sáng sớm thấy con ngựa cái của tôi đã đẻ ra một con ngựa con.

Người kia nói:

- Không đúng, đó là do con ngựa của tôi đã đẻ. Xin cụ hãy sáng suốt phân xử.

Nhớ tới cô gái đang đứng đó, ông cụ bèn bảo cô gái hãy thử phân xử việc này. Đứng nghe hai người nông dân nói này giờ, cô gái cũng đã nghĩ ra một cách nên liền nói:

- Hãy buộc con ngựa con lại, đưa con ngựa mẹ từ trên xe xuống, thả ngựa mẹ ra. Con ngựa mẹ nào chạy về với con ngựa con thì đó chính là con ngựa đã sinh ra con ngựa con.

Ông cụ nghe phải bèn làm theo lời cô gái. Kết quả là có một con ngựa mẹ chạy đến với con ngựa con, còn con ngựa kia thì đứng yên không động đậy.

Ông cụ thấy cô gái thật túc trí đa mưu nên rất nể phục, tiếp đãi rất chu đáo và khi ra về đã thưởng cho cha con cô thật hậu hĩnh.

Nông phu và hũ vàng

Có một người nông phu hiền hoà, hàng ngày dắt trâu ra đồng cày bừa. Một hôm đang cày ruộng, chợt phát giác ra một cái hũ ai chôn ở ruộng của anh ta. Khi mở nắp ra, thì thấy toàn là ngọc ngà châu báu đầy ở trong hủ. Người nông phu không lộ vẻ gì vui mừng cả, đặt cái hũ bên bờ ruộng, rồi lại tiếp tục việc cày bừa.

Đến tối về, kể chuyện lại cho vợ nghe. Người vợ trách chồng khờ khạo, đào được châu báu mà không đem về, lại để ở bờ ruộng Người nông phu trả lời: "Có phải của mình đâu mà mang về. Nếu Trời đã cho mình, thì mình chẳng cần mang về mà tức khắc có người mang đến để ở trước cửa nhà mình"

Trong khi đó, có hai tên trộm nghe lén được; vội vàng ra ruộng xem thì quả nhiên thấy cái hũ còn để bên bờ ruộng. Hai tên trộm mừng lắm, vội mở nắp ra xem thì chỉ thấy toàn là rắn rết trong hụ Hai tên trộm giận lắm, một tên bàn rằng: "Hừ! Thế này mà hắn dám bảo là ngọc ngà châu báu! Đã thế ta đem để trước cửa nhà hắn cho bõ ghét!".

Nói xong hai tên bèn khênh cái hũ để ở trước cửa nhà người nông phu. Sáng hôm sau, như thường lệ, người nông phu lại ra động Khi mở cửa thì thấy cái hũ ở trước cửa, mở ra thì vẫn còn đầy ngọc ngà châu báu.

Lời Bàn: Câu chuyện muốn khuyên chúng ta phải sống hiền lành, và lương thiện thì sẽ được đền bù xứng đáng.

Tục ngữ: Ở hiền gặp lành.

Ông lão và con lừa

Ông lão nhà quê và đứa cháu bàn nhau đem con lừa ra hội chợ bán. Để con lừa khỏi mệt mỏi hầu có thể bán được giá cao, họ buộc chân lừa lại và hai ông cháu khệ nệ gánh con lừa đi.

Đi được một đoạn, người đi đường thấy thế phá ra cười và bảo: "Có con lừa mà không chịu cỡi lại khiêng nó. Sao mà ngu thế!" Ông lão nhận thấy mình ngu thật, vội để con lừa xuống, cởi trói cho nó, và để đứa cháu cỡi lên lưng lừa, còn ông thì đi theo sau.

Một lúc sau, khách bộ hành trông thấy thế, mắng thằng cháu: "Mày là đồ bất hiếu bất mục! Sao lại để Ông mày già yếu thế mà đi bộ Chính mày phải đi bộ mới phải!" Một lần nữa, nghe theo ý khách bộ hành, Ông già leo lên lưng con lừa, đứa cháu bước theo sau.

Đến một đoạn đường khác, ba cô gái đi qua thấy vậy, một cô bảo: "Tội nghiệp thằng bé, phải đi khập khễnh theo sau, trong khi ông già tưởng mình khôn ngoan lại ngồi chễm chệ trên lưng lừa!" Ông già nhận thấy ý kiến đúng, bảo thằng cháu cùng lên ngồi trên lưng lừa.

Rồi một toán người khác đi ngang qua lại phê bình: "Sao lại bắt con lừa đáng thương ấy chở nặng như vậy? Họ không biết thương hại con vật già nua của họ tí nào cả. Ra đến hội chợ thì họ chỉ còn mảnh da lừa để bán!" Một lần nữa, hai ông cháu xuống đi bộ, để con lừa đi thong dong đằng trước.

Vẫn chưa hết, một khách qua đường thấy vậy than rằng: "Sao họ không để con lừa vào lồng kính mà thờ! Họ đi mòn giầy của họ để bảo vệ con lừa. Đúng là ba con lừa!"

Bấy giờ Ông lão mới trả lời: "Vâng, chính tôi là con lừa! Nhưng từ nay về sau, dù người ta khen hay chê tôi, dù người ta nói điều gì hay không nói điều gì, tôi chỉ làm theo đầu óc của tôi mà thôi!"

Lời bàn: Câu chuyện khuyên ta tuy phải lắng nghe ý kiến của người khác nhưng luôn luôn phải dùng sự suy nghĩ của chính mình để định đoạt mọi việc.

Tục ngữ: Lắm thầy thối ma

Hoa mào gà

Ngày xưa, chú gà nào cũng có một cái mào đỏ rất đẹp như mào các chú gà trống bây giờ. Một buổi sớm, gà Mơ soi mình trong vũng nước và sung sướng thấy cái mào rực rỡ nằm trên đỉnh đầu của mình như một chùm hoa đỏ rực. Gà Mơ khoan khoái đập cánh và hát bài hát quen thuộc của họ nhà gà : "Cục ta cục tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc".

Mọi vật quay qua nhìn gà Mơ và cùng xuýt xoa: "Chiếc mào mới xinh xắn làm sao, trông Gà Mơ thật đáng yêu". Gà Mơ đi tung tăng khắp nơi kiếm mồi. Nó đến bên bể nước và nghe có tiếng khóc ti tỉ. Nó dừng lại nghiêng đầu, chớp chớp đôi mắt và lắng tai nghe. Thì ra, đó là một cây màu đỏ tía đang tấm tức khóc một mình. Gà Mơ đang vui sướng, thấy bạn buồn, Mơ bỗng bối rối. Nó vội vàng chạy đến khẽ hỏi:

- Bạn sao thế?

Cây rơi hạt nước mắt trong suốt như hạt sương xuống gốc và sụt sịt bảo:

- Các cây quanh đây, cây nào cũng có hoa mà chỉ mỗi mình tôi là không có hoa.

Chưa nói dứt câu, cây lại bật khóc, nước mắt cứ rơi xuống thánh thót. Gà Mơ an ủi bao nhiêu cũng không làm cây nín. Gà Mơ nghĩ một lúc rồi quyết định:

- Tôi cho bạn bông hoa đỏ trên đầu tôi nhé.

Cây sung sướng vẫy là rối rít:

- Thế bạn cho tôi thật nhé ! Cám ơn bạn!

Sáng hôm sau, mọi người ngạc nhiên khi thấy chiếc mào đẹp đẽ của gà Mơ biến đâu mất. Còn cái cây bên bể nước thì lại nở một chùm hoa rực rỡ y hệt chiếc mào của Gà Mơ.

Cây hoa sung sướng vươn mình đón ánh mặt trời nhuộm cho bông hoa thêm đỏ thắm. Cây khe khẽ kể cho mọi người nghe câu chuyện về lòng tốt của Gà Mơ. Thế là mọi người gọi cây đó là cây hoa mào gà.

Trên đầu Gà Mơ bây giờ cũng nhú lên một chiếc mào mới nho nhỏ, xinh xinh rồi đấy.

Chú đỗ con

Một chú Đỗ con ngủ khì trong cái chum khô ráo và tối om suốt một năm. Một hôm tỉnh dây chú thấy mình nằm giữa những hạt đất li ti xôm xốp. Chợt có tiếng lộp độp bên ngoài.

- Ai đó?

- Cô đây.

Thì ra cô Mưa xuân, đem nước đến cho Đỗ con được tắm mát, chú lại ngủ khì. Có tiếng sáo vi vu trên mặt đất làm chú tỉnh giấc. Chú khẽ cựa mình hỏi:

- Ai đó?

Tiếng thì thầm dịu dàng trả lời chú: "Chị đây mà, chị là Gió xuân đây. Dậy đi em, mùa xuân đẹp lắm". Đỗ con lại cựa mình. Chú thấy mình lớn phổng lên làm nứt cả chiếc áo ngoài.

Chị Gió xuân bay đi, có những tia nắng ấm áp khẽ lay chú Đỗ con. Đỗ con hỏi:

- Ai đó?

Một giọng nói ồm ồm, âm ấm vang lên:

- Bác đây! Bác là Mặt trời đây, cháu dậy đi thôi, sáng lắm rồi. Các cậu học trò cắp sách tới trường rồi đấy.

Đỗ con rụt rè nói:

- Nhưng mà ở trên ấy lạnh lắm.

Bác Mặt trời khuyên:

- Cháu cứ vùng dậy đi nào. Bác sẽ sưởi ấm cho cháu, cựa mạnh vào.

Đỗ con vươn vai một cái thật mạnh. Chú trồi lên khỏi mặt đất. Mặt đất sáng bừng ánh sáng xuân. Đỗ con xòe hai cánh tay nhỏ xíu hướng về phía mặt trời ấm áp.

Con rùa vàng

Xưa kia có hai người bạn chơi với nhau rất thân, hiềm vì một người thì giàu, còn một người nghèo. Người bạn giàu có cái tên là Đại Phú, còn người nghèo tên là Chí Quân. Vợ chồng Đại Phú thấy bạn nghèo thì có ý muốn giúp đỡ vốn liếng để làm ăn. Chí Quân lòng dạ ngay thẳng ngại rằng lấy tiền của bạn đem về, rủi làm ăn thất bát thì lấy đâu mà trả cho bạn. Vì vậy nên từ chối việc giúp đỡ của bạn.

Nhà Đại Phú chẳng thiếu gì của qúi, nhưng lại muốn có thêm của lạ nên hôm nọ lấy năm nén vàng đưa cho một người thợ bạc đặt làm con rùa vàng. Ngày kia, Chí Quân đến thăm bạn, Đại Phú liền đem con rùa vàng ra khoe. Chí Quân xem rồi để trong một cái đĩa, đoạn cùng bạn uống rượu đến say khướt nằm ngủ quên.

Lúc bấy giờ, con trai của Đại Phú đi học ở xa về, thấy con rùa vàng lấy đem đi chơi. Đến chừng Chí Quân ra về được một lát, Đại Phú mới sực nhớ tới con rùa vàng, hỏi vợ thì vợ nói không có lấy cất. Đại Phú lấy làm bối rối, chẳng lẽ nghi cho người bạn tốt của mình ăn cắp con rùa vàng? Ngày sau, Đại Phú đến nhà Chí Quân chơi, nhân tiếc con rùa vàng có hỏi mát bạn rằng:

- Này anh, hôm trước anh có lấy con rùa vàng của tôi đem về để cho chị coi không?

Nghe vậy Chí Quân nghĩ thầm rằng: "Có lẽ bạn ta nghi ta ăn cắp con rùa vàng chăng?" Nhưng chẳng lẽ bảo là không lấy thì chi cho khỏi phật lòng bạn mình, nên đành nhận là có lấy. Đại Phú mới bảo bạn:

- Thôi được, anh cứ giữ con rùa vàng mà chơi. Tôi xin biếu anh.

Đại Phú về rồi, vợ chồng Chí Quân lấy làm lo lắng, làm sao có con rùa vàng để trả cho bạn. Vợ chồng bàn nhau bán nhà bán cửa cho ông Phú và xin làm người hầu hạ để có đủ tiền làm con rùa vàng trả cho bạn. Ông Phú biết chuyện lấy làm động tâm, mới gọi người thợ bạc đến làm một con rùa vàng khác, trao cho vợ chồng Chí Quân đem về trả bạn và cũng không nhận vợ chồng Chí Quân làm người hầu hạ, mà chỉ cho ở nhờ.

Được ít lâu, người con trai của Đại Phú trở về nhà có đem theo con rùa vàng đã lấy độ trước, trả cho cha mẹ và nói:

- Hôm nọ, con về nhà thình lình thấy con rùa vàng để trong đĩa nên con lấy cất đây, nếu gặp phải kẻ gian thì mất luôn rồi. Vậy con xin trả lại.

Thấy vậy, vợ chồng Đại Phú vô cùng ngạc nhiên. Rùa vàng con mình lấy đem đi chơi, rùa vàng nào bạn đem trả? Mới nghĩ ra, có lẽ người bạn nghèo sợ mình phiền trách nên làm con rùa khác để thế. Bấy giờ Đại Phú mới đem con rùa vàng đến nhà Chí Quân để trả lại và xin lỗi bạn. Nhưng nhà đã bán rồi, vợ chồng bạn lại ở nhờ trong nhà ông Phú. Lập tức Đại Phú đến gặp ông Phú trao trả con rùa và xin đưa vợ chồng bạn về. Ông Phú từ chối như vầy:

- Anh có mượn rùa của tôi đâu mà trả? Còn vợ chồng Chí Quân tôi có bắt buộc gì đâu mà lãnh về?

Còn Chí Quân nhận mình mắc nợ ông Phú nên không chịu về. Câu chuyện trở thành rắc rối, cả ba mới đưa nhau đến cửa công để nhờ phân xử. Lẽ tự nhiên quan trên không biết xử làm sao đối với ba người ngay thật và tốt bụng.

Con mèo sáng suốt?

Ngày xửa ngày xưa, ở khu rừng kia có một người thợ săn. Ông ta sống hoàn toàn cô độc không ai thân thích ngoài con chó đi săn với ông ta và một con mèo giữ nhà. Trong cảnh sống cô độc hoang dã đó, ông học cách hiểu được tiếng súc vật. Một hôm, ông tình cờ nghe thấy chó và mèo nói chuyện với nhau. Chó bảo mèo:

- Bạn thân mến của tôi ơi! Bạn sống sung sướng như trên thiên đường vậy. Người ta nuôi dưỡng bạn chăm chút bạn, trong khi đó chỉ quẳng cho tôi những khúc xương thừa. Bạn suốt ngày chỉ ở nhà, muốn đi dạo ngủ nghê tùy thích. Còn tôi ấy à? Ban ngày tôi giúp chủ đi săn trong rừng, ban đêm phải gác cổng vườn. Ngay khi ở trong rừng cũng đâu được dạo chơi mà phải đuổi theo thú rừng. Ông chủ mà bực bội là dễ ăn đòn lắm. Giá như được cuộc sống của bạn thì thật là tuyệt, ít ra yên ổn một chút cũng được. Bạn có mách bảo điều gì cho tôi không?

Mèo đáp:

- Ồ! Ông bạn thân mến ạ! Tôi là mèo, ông là chó làm sao mà giống nhau được. Chủ nhà sai gì ông làm nấy, cho ông rặt xương là ông cũng thỏa mãn lắm rồi. Nếu ông muốn sống như tôi thì tôi mách cho.

Chó thấy thế vui quá bèn vểnh tai nghe mèo nói tiếp:

- Tôi khuyên ông một điều, nhưng nhớ là đừng cho ai hay. Sau đó muốn thì cảm ơn tôi, không thì thôi.

- Ồ bạn mèo nói gì lạ thế? Tuy loài chó chúng tôi hơi ngốc nhưng không bao giờ là đồ vô ơn cả. Tôi sẽ không bao giờ quên ơn của bạn đâu mèo ạ!

Mèo rất đắc chí trước lời nói của chó:

- Vậy thì bạn nghe đây: Ngày mai khi bạn vào rừng săn với ông chủ, bạn bỏ chạy sang một hướng khác, khi ấy ông chủ đánh bạn, bạn cứ trốn đi. Sáng hôm sau ông chủ cho ăn bạn không ăn gì cả, ông chủ tưởng bạn bệnh sẽ chăm sóc bạn tốt hơn. Và thế là bạn có thể nghỉ ngơi một chút rồi!

- Xin cảm ơn bạn mèo của tôi, tôi sẽ không quên ơn bạn đâu!

Người thợ săn làm ra vẻ không biết gì. Sáng hôm sau đi săn, chó chạy nhảy lung tung làm chủ phát cáu, ông ta lấy roi quất chó. Thế là chó chạy tuốt vào rừng đến tối mới quay về. Ông chủ biết thừa âm mưu của chó nhưng vẫn quyết định cho nó nghỉ ngơi vài ngày và mang mèo đi săn thay. Bây giờ mèo ta phải làm tất cả công việc của chó. Hứng chịu toàn bộ sự khổ sở của chó, mèo ta mới hiểu rằng đã khuyên chó một cách dại dột.

Chó cảm ơn mèo, nói:

- Bạn là mèo thông minh nhất quả đất này. Tôi rất biết ơn bạn.

Mèo im lặng không đáp, mỏi mệt lê về góc của mình. Mèo đã được hưởng kết cục thông minh của nó như thế đấy!

Sự tích mùa Xuân

Ngày xưa trên trái đất chỉ có ba mùa: mùa Hạ, mùa Thu và mùa Đông. Người ta bảo rằng, mùa Xuân chỉ đến khi có một chiếc cầu vồng nhiều màu sắc và có muôn hoa đón chào.

Cầu vồng thì chỉ có trong mùa Hạ, khi ông mặt trời xuất hiện sau cơn mưa rào. Còn hoa thì nở quanh năm, lại có khắp nơi trên trái đất nên không thể hẹn nhau cùng nở một lúc được.

Vì thế, sau mùa Đông giá buốt là đến mùa hạ nóng bức, thời tiết thay đổi đột ngột khiến cho muôn loài hết sức khổ sở. Ai cũng mong được gặp mùa Xuân ấm áp.

Có một chú thỏ sống trong khu rừng xanh với mẹ. Mỗi lúc chuyển mùa, mẹ của thỏ lại bị ốm nặng. Thương mẹ quá, thỏ liền bàn với bác khỉ già thông thái:

- Chúng ta hãy cùng nhau làm một chiếc cầu vồng thật đẹp để đón mùa Xuân.

- Nhưng bằng cách nào? - Bác khỉ già hỏi lại.

- Cháu sẽ rủ muông thú trong rừng góp những chiếc lông đẹp nhất để làm chiếc cầu vồng nhiều màu sắc.

Tin lan truyền đi khắp nơi. Muông thú trong rừng đều muốn gặp mùa Xuân dịu hiền nên vui vẻ góp những sắc màu đẹp nhất. Nào là màu xám của gấu, màu vàng tơ của hươu sao, màu nâu của sóc. Rồi chim công, vẹt, vành khuyên.... cũng góp những chiếc lông nhiều màu sắc của mình. Bầy cá cũng cử cá chép mang đến một túi vây cá lấp lánh sắc màu.

Chim sâu khéo tay bắt đầu kết nối những mảng màu để làm chiếc cầu vồng.

Trong khi đó, thỏ tạm biệt các bạn muông thú để lên đường đi tìm các loài hoa.

Thỏ đi, đi mãi, vượt thác, lên ngàn, băng qua hết khu rừng này đến khu rừng khác để gặp từng loài hoa. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của thỏ dành cho mẹ, các loài hoa đều đồng ý sẽ tích tụ dưỡng chất để chờ chị gió báo tin là đồng loạt nở.

Những nụ hoa lần lượt trồi lên, nở muôn màu rực rỡ.

Một buổi sáng cuối mùa Đông, chim sâu đã dệt xong những mảng màu cuối cùng. Chiếc cầu vồng xuất hiện làm muôn loài trên mặt đất xôn xao. Chị gió nhanh chóng báo tin cho các loài hoa. Như đã hẹn, những nụ hoa lần lượt trồi lên, nở muôn màu rực rỡ. Cả mặt đất lộng lẫy sắc màu. Nàng mùa Xuân xinh đẹp đã đến với trái đất.

Từ đó, trên trái đất có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nếu các bé để ý sẽ thấy các loài hoa đều khoe màu rực rỡ khi những làn gió xuân nhè nhẹ thổi tới.

Còn riêng chú thỏ đáng yêu đã được nàng mùa Xuân tặng cho một chiếc áo trắng tinh, mềm mại vì tấm lòng hiếu thảo và đã biết đoàn kết các bạn muông thú và các loài hoa để cùng nhau đón mùa Xuân về.

Sự tích trái sầu riêng

Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ. Chàng từng cầm quân mấy lần đánh cho tan tác thầy trò Nguyễn Ánh.

Nhà Tây Sơn mất, Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người từng theo nhà Tây Sơn.

Nhân dân trong xóm quý mến chàng, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ để tiện đi lại. Và chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.

Một hôm, chàng dừng thuyền, lên bộ để mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà-lon, về đến đây thì người con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng đã cứu chữa cho cô gái khỏi bệnh. Sẵn có thuyền, chàng chở họ về tận nhà.

Cô gái đem lòng quyến luyến chàng. Sau một tuần chay tạ ơn Trời, Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui mừng nhận lời và từ đó hai vợ chồng làm ruộng, nuôi tằm, xây dựng gia đình đầm ấm.

Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu-rên" mà ở xứ sở chàng không có. Mùa trái chín đến, vợ bổ một trái đưa cho chồng ăn. Trái "tu-rên" vốn có một mùi khó chịu. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo:

- Anh ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.

Không ngờ một ngày kia, vợ đi dâng hương Đế Thiên, Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tuy cách trở âm dương, nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng.

Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê nhà nhắn tin lên bảo chàng về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết sẽ đi theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy, cây "tu-rên" tự nhiên chỉ ra mỗi một trái. Trái "tu-rên" ấy lại tự nhiên rụng vào vạt áo chàng giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ, quyết đưa nó cùng về xứ sở.

Chàng lại trở về nghề dạy học, nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt "tu-rên" thành cây, đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đấy ngoài công việc dạy học, chàng còn có việc chăm nom cây quý.

Nhưng cây "tu-rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã lốm đốm bạc. Nhưng ông thấy lòng mình trẻ lại khi những cây mà ông bấy lâu chăm chút nay bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng, làng xóm tới nhà nhân ngày giỗ vợ và nhân thể thưởng thức một thứ trái lạ chưa hề có ở trong vùng.

Khi những trái "tu-rên" được bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Chủ nhân biết ý, đã nói đón: "... Nó xấu xí, có mùi khó chịu, nhưng chính những múi của nó ở trong lòng lại đẹp đẽ, thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông ta vừa nói vừa bổ những trái "tu-rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Đoạn, ông ta kể hết câu chuyện tình duyên xưa mà từ khi về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy, hai giọt lệ long lanh tự nhiên nhỏ vào múi "tu-rên" đang cầm ở tay. Hai giọt nước mắt ấy sôi lên trên múi "tu-rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.

Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy, dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu-rên"bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng loại hạt có hai giọt nước mắt của chàng mới là thứ sầu riêng có trái ngon và thơm hơn các thứ khác

Trương Chi - Mỵ Nương

Ngày xưa, có một ông quan thừa tướng sinh được người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Nàng ở cấm cung trong ngôi lầu cạnh bờ sông.

Bấy giờ có một chàng trai con nhà thuyền chài tên là Trương Chi, ngày ngày đến thả lưới kiếm ăn trên khúc sông đó. Chàng ta thường buông lưới, vừa hát. Tiếng hát rất hay, khiến cho Mỵ Nương ở trong lầu xao xuyến say mệ

Một dạo, Trương Chi đi đánh cá ở khúc sông khác. Không được nghe tiếng hát, Mỵ Nương sinh ra sầu nãọ Nàng bồn chồn trông đợị Tiếng hát vẫn vắng lặng và nàng bắt đầu ốm.

Thừa tướng vội cho mời các lương y đến xem mạch, bốc thuốc. Thuốc uống đã nhiều mà bệnh Mỵ Nương vẫn không chuyễn. Sau thừa tướng hỏi dò những người hầu hạ Mỵ Nương, mới biết là con mình ốm tương tự Các lương y khuyên thừa tướng cho gọi anh lái đò đến.

Trương Chi được mời đến thăm Mỵ Nương. Chàng ta đội chiếc nón lá che mất khuôn mặt mình. Mỵ Nương năn nỉ mãi, phải ra lệnh, Trương Chi mới ngả nón rạ Nhưng khi nhìn thấy mặt Trương Chi, Mỵ Nương vỡ mộng, vì Trương Chi xấu xí quá. Nàng cho chàng ra về, và từ đó không còn yêu hình bóng Trương Chi nữạ

Về phần Trương Chi, từ khi trông thấy Mỵ Nương xinh đẹp, chàng ta thầm yêu nàng. Chàng tủi cho thân phận nghèo bèn của mình, buồn chân không thiết gì ăn làm ăn nữạ Chàng hát :

Kiếp này đã dở dang nhau,

Thì xin kiếp khác, duyên sau lại lành.

Trương Chi mang mối tình hận mà chết vì tương tự

Một dạo sau không ai còn nghe tiếng chàng hát trên sông nữạ Mỵ Nương lại nhớ tiếng hát, hỏi ra mới biết anh dân chài đã chết. Mỵ Nương sai đắp cho chàng một nấm mộ cao. Nhưng lạ thay, khi đào mộ lên, thịt xương Trương Chi đã tan rửa, duy chỉ có trái tim biến thành một khối ngọc sáng long lanh.

Mỵ Nương sai người mang khối ngọc đẽo một cái ly nước.

Một hôm, Mỵ Nương cầm chén rót nước, thì lạ thay, hình ảnh người đánh cá chèo thuyền hiện lên chậm chậm xoay quanh trong lòng chén. Tức thì tiếng hát năm xưa cũng văng vẳng như than, như trách.

Mỵ Nương chạnh lòng nhớ lại mối tình đã quạ Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén và tự nhiên chén ngọc tan ra thành nước.

Cóc kiện trời

Thuở xa xưa, Ngọc Hoàng cai quản tất cả các việc trên trời và dưới đất. Ngọc Hoàng giao cho thần Mưa chịu trách nhiệm làm mưa cho tất cả các con vật và cây cỏ có nước uống.

Nhưng đã ba năm nay, không có một giọt mưa nào. Khắp nơi đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết rụi, các con thú cũng chết dần chết mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than ai oán, vậy mà trời đâu có thấu.

Một hôm, các con vật họp bàn với nhau lại, chúng quyết định cử Cóc lên gặp Ngọc Hoàng. Cùng đi với Cóc có Cáo, Gấu và Cọp.

Bốn con vật đi mãi, cuối cùng cũng lên đến cửa nhà trời. Ở cánh cửa có đặt một cái trống rất to. Theo tục lệ, nếu ai có điều gì oan ức, thì đánh trống lên, Ngọc Hoàng sẽ ra giải quyết. Cóc bảo Cáo, Gấu, Cọp nấp vào bụi rậm, còn Cóc thì nhảy lên đánh trống inh ỏi.

Ngọc Hoàng nghe tiếng trống liền sai một thiên thần ra nhìn xem ai. Thiên thần bước ra nhìn ngược nhìn xuôi mãi không thấy ai, chỉ thấy một con Cóc bé nhỏ ngồi trên trống. Khi biết Cóc có ý định gặp Ngọc Hoàng, thiên thần tỏ ý khinh bỉ Cóc, lẳng lặng đi vào và thưa với Ngọc Hoàng:

- Thưa Ngọc Hoàng, kẻ dám cả gan đánh trống ầm ĩ nhà trời là một con Cóc bé tí, xấu xí, thần hỏi nó đi đâu, nó nói lên gặp Ngọc Hoàng để kiện.

Ngọc Hoàng nghe thiên thần nói vậy thì giận lắm, bèn sai bầy gà ra mổ Cóc. Bầy gà vừa ló khỏi cửa, Cóc ra hiệu cho Cáo từ trong bụi rậm ra vồ gà.

Biết Gà bị Cáo vồ mất, Ngọc Hoàng liền sai Chó ra giết Cáo. Chó chạy ra chỉ kịp sủa một tiếng đã bị Gấu ra chộp lấy tha đi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra trị Gấu. Lần này, Cọp xông ra quật chết toán lính không chừa một người nào.

Ngọc Hoàng không ngờ Cóc tuy bé nhỏ mà lại khó trị như vậy, Ngọc Hoàng đổi giận làm lành sai thiên thần ra mời Cóc vào. Ngọc Hoàng hỏi Cóc:

- Cậu lên đây có việc gì?

Cóc thưa:

- Muôn tâu Ngọc Hoàng, đã 3 năm nay, chúng tôi không được một giọt mưa nào. Loài vật cử tôi lên đây để kiện trời, vì sao không làm mưa?

Ngọc Hoàng cho gọi thần Mưa đến. Té ra là thần Mưa mải rong chơi, tối về đắp chiếu nằm ngủ, quên không làm mưa bị Ngọc Hoàng trách mắng, thần Mưa vội sai các con rồng phun nước ào ào xuống đất. Ngọc Hoàng đưa tiễn Cóc ra về và dặn:

- Từ nay về sau, nếu cần mưa thì Cóc nghiến răng ken két báo cho Ngọc Hoàng biết. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay. Cóc không phải lên kiện trời nữa.

Cóc, Cáo, Gấu, Cọp từ biệt Ngọc Hoàng trở về. Khi bốn con vật đến nơithì thấy nước đã tràn đầy hồ, ao, sông suối, cây cỏ, muôn loài uống nước thỏa thuê. Tất cả đều phục Cóc bé tí mà kiện được trời nên đặt ra câu hát:

"Con Cóc là cậu ông trời

Hễ ai đánh Cóc thì trời đánh cho"

Cây nêu ngày tết

Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ. Quỷ đối với người ngày càng quá tay. Chúng dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do chúng nghĩ ra là "ăn ngọn cho gốc". Người không chịu. Chúng dùng áp lực bắt phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt. Người chỉ còn trơ những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi trong khi bọn Quỷ reo cười đắc ý.

Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như lời Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước: "Ăn ngọn cho gốc".

Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy những gánh chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhá nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng đành cứng họng không chối cãi vào đâu được.

Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là "Ăn gốc cho ngọn". Phật bảo người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo người về nhà, còn rạ phó mặc cho Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng tuyên bố "Ăn cả gốc lẫn ngọn". Lần này Quỷ nghĩ:

- Cho chúng nó muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao.

Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Ngời hạt giống cây ngô để gieo khắp mọi nơi mọi chỗ.

Năm ấy có một lần nữa, Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần quỷ lại bị một vố cay chua, uất ức hàng mấy ngày liền. cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nghĩ:

- Thà không được cái gì cả, còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình.

Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre bao nhiêu diện tích ở mặt đất là đất của Ngời sở hữu ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận nhng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu ít mà giá rất hời bèn nhận lời:

- Ồ! Bằng chiếc áo cà sa có là bao nhiêu.

Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ớc: Ngoài bóng tre là đất của Quỷ, trong bóng tre là đất của Người.

Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay toả ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hoá phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên đất trời trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế; mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất của chúng, chúng phảii dắt nhau lùi mãi lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa, phải chạy ra biển đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Đông.

Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó, ngao, bạch xà, hắc hổ, v.v... rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người làm quân của Quỷ không tiến lên được.

Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa qủa, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Đối lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ: máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.

Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật, Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó, sợ hoảng hồn bỏ chạy.

Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân địch. Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi, nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.

Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người ta tha hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đày ra biển đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được hai ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại hứa cho.

Vì thế, hàng năm cứ đến ngày tết Nguyên Đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, ngời ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.

Có câu tục ngữ:

Cành đa lá dứa treo kiêu (cao)

Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.

Quỷ vào thì Quỷ lại ra.

Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm

Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi quỷ như khi có dịch tễ chẳng hạn, thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp nơi cho Quỷ khỏi quấy. Đàn bà thường buộc tỏi vào giải yếm là cũng có một mục đích gần như vậy.

Sơn Tinh - Thủy Tinh

Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên gọi là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mỵ Nương được vua cha yêu thương rất mực. Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng thật xứng đáng.

Một hôm có hai chàng trai đến, xin ra mắt nhà vua để cầu hôn. Một người ở vùng núi Ba Vì, tuấn tú và tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Nhân dân trong vùng gọi chàng là Sơn Tinh. Còn một người ở mãi tận miền biển Đông tài giỏi cũng không kém: gọi gió, gió đến, hò ma, ma tới - Chàng này tên gọi là Thủy Tinh.

Một người là chúa của miền non cao, một người là chúa của vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng cả. Hùng Vương băn khoăn không biết nhận lời ai, từ chối ai. Nhà vua cho mời các quan lạc hầu vào bàn mà vẫn không tìm được kế hay. Cuối cùng, Hùng Vương phán rằng:

- Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Ngày mai, nếu ai đem đồ sính lễ đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, thì được rước dâu về.

Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước và được phép đưa dâu về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mỵ Nương.

Thủy Tinh hô ma, gọi gió, làm thành dông bão đùng đùng rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn tiến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng rồi ngập nhà, ngập cửa.

Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép màu bốc từng quả đồi, di từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời liền, cuối cùng Thủy Tinh đuối sức phải rút quân về.

Từ đó, oán ngày càng thêm nặng, thù ngày càng thêm sâu, không năm nào Thủy Tinh không làm mưa làm bão, dâng nước lên đánh Sơn Tinh và lần nào Thủy Tinh cũng thua, phải bỏ chạy.

Chú bé thông minh

Ngày xưa có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu hắn cũng ra những câu đố oái oăm hỏi mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.

Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng; cha đánh trâu cày, con đập lúa. Hắn bèn dừng ngựa lại hỏi:

- Này lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?

Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào, thì đứa con chừng bảy tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:

- Thế con hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của tôi cày được mấy đường.

Viên quan nghe nó hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp ra sao cho ổn. Hắn thầm nghĩ bụng nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu cho mất công. Hắn bèn hỏi tên họ, làng xã, quên quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.

Nghe nói, vua lấy làm làm mừng lắm. Nhưng để biết đích xác hơn nữa vua bèn sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực ra lệnh phải làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hết năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều chưng hửng và lo lắng không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không nghĩ ra được cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dới, mọi người đều coi là tại vạ. Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:

- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng ngả thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.

- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có dại mà bay đầu đi đó, con ạ!

Nhưng đứa con quả quyết:

- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.

Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.

Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào phán hỏi:

- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?

- "Tâu đức vua" em bé vờ vĩnh đáp, "Mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé đẻ chơi với con cho nó có bạn cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ".

Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:

- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực làm sao mà đẻ được!

Em bé bỗng tươi tỉnh:

- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được cơ chứ?

Vua cười bảo:

- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ra thịt mà ăn với nhau à?

- Tâu đức vua làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc nhưng vua vẫn còn muốn thử cho đến cùng. Qua hôm, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẽ với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đa cho sứ giả bảo:

- Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua, xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn. Lập tức vua cho gọi cả cha con vào ban thưởng rất hậu.

Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nhà vua. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ mói sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua được ruột ốc.

Sau khi sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đa mắt nhìn nhau. Không trả lời đợc câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Có người dùng miệng hút, mong cho sợi chỉ lọt qua; có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu, v.v... Nhưng tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu các ông trạng, các nhà thông thái triệu đến đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành tìm cách mời sứ thần tạm nghỉ ở nhà công quán để có thì giờ đi hỏi em bé thông minh ngày nọ. Khi một viên quan mang dụ chỉ của vua đến thì em còn đùa nghịch ở sau nhà. Và khi nghe nói xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên mấy câu rằng:

- Tang tình tang! Tính tình tang!

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng.

Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang,

Tang tình tang...

Rồi bảo:

- Không cần phải về làm gì. Cứ theo cách đó là xâu được ngay!

Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần lắng nghe nói như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt kính phục của sứ giả nước láng giềng.

Rồi đó, vua phong cho em bé làm Trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em để tiện hỏi han.

Sự tích trái dưa hấu

Đời xưa, thời vua Hùng Vương, đất nước ta có núi cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý.

Thói thường, các quan được một chút lộc vua thì nâng niu ca tụng; riêng An Tiêm thường bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai vua, vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ xương ra không?".

Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một cái gì hết. Chàng nói mãi chúng mới để cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong bờ lần lượt khuất đi, rồi bèo bọt, rác rểu, dấu vết của dân cư cũng không còn nữa, bây giờ chỉ thấy trời với nước xanh ngắt một mầu.

Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm, bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa. Từ nay có bao giờ nàng lại được cùng hàng xóm chia nhau những bắp ngô đầu mùa, hay nói một câu chuyện gia đình dưới ánh trăng! Quay vào hòn đảo hoang vu nàng lại càng khiếp sợ hãi hùng, không biết rồi đây lấy gì mà ăn để sống tạm cho qua ngày tháng.

An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chát chua và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra bờ biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim. Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé không bắt được một cái lông. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông bao nhiêu. Tuy vậy An Tiêm vẫn tin rằng một ngày kia, mình có thể làm cho đời sống khá lên.

Một hôm có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi, bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì là một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm chim ăn được có lẽ người cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng ăn hết miếng dưa và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống.

Ít ngày sau mấy hạt da mọc mầm đâm lá, bò tỏa ra khắp khoảnh đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc mấy dây dưa lạ. Vợ chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.

Một buổi sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng:

- Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi một nơi, tất là có sự lạ. Anh ra xem thế nào!

An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay đi bỏ lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa về. Khi chàng bổ dưa ra, cả nhà lóa mắt vì mầu đỏ tươi của ruột dưa. Đây đó giữa mầu đỏ, có những hạt đen như hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa bé thèm nhỏ nước rãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ, ăn vào không những không xót ruột lại còn thấy đỡ khát và khỏe người ra. Đến tra, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả dưa cho con ăn đến no.

Bấy giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm mầu dưa đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ cứ trồng thêm ra mãi. Tất cả nông cụ chỉ gồm có một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén, vì vậy thêm một gốc dưa là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy giống dưa càng ngày càng sai, quả càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh.

Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả da lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.

Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, vì nơi ấy xa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.

BÀI HỌC BỔ ÍCH CHO CON

Ngày xưa, có một cậu bé nóng tính. Bố cậu đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng: Cứ mỗi lần mất bình tỉnh, mất kiên nhẫn, hoặc cãi nhau với ai, thì cậu đóng một cái đinh vào khúc gỗ.

Ngày đầu tiên, cậu đóng 37 cái đinh vào khúc gỗ. Ngày qua ngày, vài tuần sau, cậu biết cách kềm chế, nên số đinh đóng vào khúc gỗ bớt dần. Lúc đó, cậu khám phá ra là: tự kềm chế dễ hơn là đóng đinh vào khúc gỗ.

Cuối cùng, đến một ngày kia, cậu không phải đóng một cái đinh nào vào khúc gỗ nữa. Cậu đi gặp bố và thưa rằng: Hôm nay con không còn phải đóng cái đinh nào nữa hết!

Lúc đó, bố cậu mới bảo rằng: Ngày nào không mất kiên nhẫn, không mất bình tỉnh hoặc không cãi nhau với ai, thì con hãy nhổ một cái đinh ra khỏi khúc gỗ.

Ngày lại ngày trôi qua, cuối cùng cậu bé đến gặp bố và thưa rằng: Con đã nhổ tất cả đinh khỏi khúc gỗ rồi!

Ông bố bèn dẫn cậu con đến khúc gỗ và bảo: Này con, con đã biết cách xử sự tốt rồi đó! Nhưng con hãy nhìn xem các lỗ đinh trên khúc gỗ. Khúc gỗ hiện nay không còn như trước kia nữa! Khi con cãi nhau với ai và nói điều gì xấu xa, con đã để lại cho người ấy một vết thương trong lòng, cũng như những vết đinh trên khúc gỗ này vậy. Con có thể đâm con dao vào một người rồi rút ra, nhưng mãi mãi vẫn còn một vết thương, vết thẹo, phải không? Dù con có xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương vẫn còn đó!

Một vết thương do lời nói gây ra cũng làm đau nhức như một vết thương trên thân thể. Huống nữa đó là một lời chụp mũ, vu khống, cáo gian, làm cho người ta tù tội, dở sống dở chết, danh dự bị tổn thương, hạnh phúc bị tan vỡ, cuộc đời còn lại chìm đắm trong phiền não khổ đau!

Những người bạn là những viên ngọc quí hiếm, họ có thể làm cho con cười và khuyến khích con. Họ sẵn sàng lắng nghe khi con cần đến. Họ nâng đỡ và mở lòng ra với con. Con hãy làm cho các bạn của con thấy là con yêu thương họ đến đâu

1 CÂU CHUYỆN BỔ ÍCH CHO CON

Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sự Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học trò ở lại chăm lo tu hành. Học trò nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ, Vì nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc mỗi một miếng khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác. Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. Một tín đồ thấy vậy bèn tình nguyện dâng cúng tu sĩ một con bò cái để có sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho bò ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ lại phải đi xin rơm về nuôi bò. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi bò. Tu sĩ ra công cầy cấy nên rau trổ thật nhiều, bò ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ. Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp. Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng gì cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú. Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành không còn là bao vì tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa. Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán. Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ Ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế. Tu sĩ trả lời, 'thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Để bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi bò, và để có rau nuôi bò, con phải canh tác. Rồi thì trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi thì buôn bán thành công, tiền bạc nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con còn mướn người lo việc cúng tế, nhang đèn cẩn thận'. Sư phụ thở dài, 'xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tụ Chỉ vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào cácthứ đó rồi làm sao có thể thoát được ?

Ba cô tiên

Ngày xưa, có một cậu bé đã lên sáu tuổi rồi mà vẫn bé tí ti, bé chỉ bằng ngón tay cái mọi người thôi, cho nên ai cũng gọi là cậu bé Tí Hon.

Nhà bé Tí Hon nghèo lắm. bố mẹ phải đi chăn trâu thuê cho địa chủ, phải làm vất vả mà không có cơm ăn cho đủ no, áo mặc cho đủ ấm. Tí Hon rất thương bố mẹ, chỉ muốn đi làm đỡ bố mẹ thôi. Một hôm, Tí Hon nói với bố mẹ để Tí Hon chăn trâu thay cho bố mẹ. Lúc đầu, bố mẹ thấy Tí Hon bé còn đàn trâu thì to nên thương Tí Hon, không cho đi. Nhưng Tí Hon nằn nì mãi bố mẹ phải cho đi.

Tí Hon chăn trâu cẩn thận lắm, không để trâu ăn lúa, ăn ngô, mà con nào con nấy cũng no căng đầy bụng. Cả làng ai cũng khen. Bọn địa chủ cũng không chê Tí Hon câu nào cả.

Một hôm , đồng làng hết cỏ, Tí Hon phải đưa trâu lên núi. Bỗng nhiên, Tí Hon thấy một bông hoa hồng nở to bằng cái nón trên một cành cây. Đợi cho trâu đến gần cây ấy, Tí Hon chui ở tai trâu ra, khẽ chuyển sang cây và leo vào giữa bông hoa. Tí Hon thấy, ồ thích quá, ba cô Tiên cũng bé tẹo như Tí Hon, một cô áo xanh, một cô áo đỏ, một cô áo vàng. Các cô thấy Tí Hon thì vui mùng chào hỏi rồi đi lấy bánh kẹo cho Tí Hon ăn. Tí Hon không ăn mà lại bỏ bánh kẹo vào túi. Thấy vậy, ba cô Tiên liền hỏi:

- Sao Tí Hon không ăn?

- Tôi mang về cho bố mẹ tôi ăn, nhà bố mẹ tôi nghèo lắm. Tôi thương bố mẹ tôi lắm.

Ba cô Tiên cùng nói:

- Tí Hon cứ ăn đi, ăn xong chúng tôi sẽ giúp.

Lát sau, ba cô Tiên cùng Tí Hon bước ra khỏi nhà hoa hồng, dắt nhau ngồi trên cả sừng trâu đi về làng. Về đến nơi, thấy nhà Tí Hon nghèo lắm, vườn ruộng không có, gian nhà đổ nát, ba cô Tiên bảo Tí Hon đi tìm bố mẹ về.

Tí Hon đi khỏi, cô Tiên áo đỏ vẽ một căn nhà xinh đẹp, cô Tiên áo vàng vẽ một đám ruộng to có lúa chín vàng, cô Tiên áo xanh vẽ rất nhiều quần áo đẹp. Vừa vẽ xong thì tất cả biến thành nhà thật, ruộng thật, quần áo thật.

Vừa lúc ấy, bố mẹ và Tí Hon về đến nơi.

- Ôi, nhà ai đẹp thế? Ruộng của ai tốt thế? Áo quần ai nhiều thế?

Ba cô Tiên trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói:

- Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ đây, hai bác không nghèo nữa. Có ruộng cày, có nhà ở, có quần áo mặc. Rồi cô Tiên áo xanh lại cho Tí Hon một chiếc áo, mặc vào bỗng lớn hẳn lên.

Bố mẹ Tí Hon mừng quá, quay lại định cám ơn thì ba cô Tiên đã biến thành ba con bồ câu trắng bay vù lên mây. Từ đấy, không ai thấy ba cô Tiên đâu nữa cả. Còn Tí Hon lúc này rất to lớn, khỏe mạnh, làm việc rất chăm chỉ và khéo léo.

Giọt nước tí xíu

Tí Xíu là một giọt nước. Quê ở biển cả, họ hàng, anh em nhà chúng đông lắm và ở khắp mọi nơi, ở biển cả, ở ao hồ, ở trên trời, ở cả dưới đất.

Một buổi sáng biển lặng, Tí Xíu cùng các bạn đuổi theo các lớp sóng nhấp nhô. Ông Mặt trời thả ánh sáng vàng rực rỡ xuống biển. Bọn Tí Xíu reo vui trong sóng nhẹ và trong ánh nắng chan hòa. Chợt có tiếng ông Mặt trời cất lên:

- Tí Xíu ơi! Cháu có đi với ông không?

Tí Xíu ngẩng nhìn, chú đáp giọng rất khẽ, chỉ có ông Mặt trời là nghe thấy.

- Đi làm gì ạ?

Ông Mặt trời cười bảo: "Trên mặt đất thiếu gì việc, chỗ nào chẳng cần". Tí Xíu vui lắm, nhưng sực nhớ mình là giọt nước không thể nào theo ông mặt trời được. chú hỏi:

- Cháu nặng lắm làm sao bay lên được?

- Không lo, ông mặt trời nói ồm ồm, ông sẽ làm cho cháu biến thành hơi. Nói xong, ông Mặt trời vén mây, chiếu thật nhiều ánh sáng xuống biển, Tí Xíu rùng mình và biến thành hơi. Chú chỉ kịp nói với biển cả:

- Chào mẹ, con đi ! Mẹ chờ con trở về

Tí Xíu từ từ bay lên...

Tí Xíu nhập bọn với các bạn. Lúc đầu,chúng bay là là xuống biển rồi chúng hợp thành một đám mây mỏng rời đất liền tiến vào đất liền. Gió nhẹ nhàng đưa Tí Xíu lướt qua những dòng sông lấp lánh sáng như bạc. Xế chiều, ông Mặt trời tỏa những tia nắng chói chang hơn lúc sáng. Không khí oi bức... Bỗng từ đâu một cơn gió lạnh thổi tới. Tí Xíu reo lên:

- Mát quá các bạn ơi! Mát quá!

Tí Xíu và các bạn nhảy nhót, múa lượn vui thích. Nhưng rồi trời mỗi lúc một lạnh, Tí Xíu thấy thấy rét, các bạn của chú cũng thấy rét. Chúng xích lại gần nhau thành một đông đặc toàn những chú bé giọt nước nhỏ li ti. Bọn Tí Xíu không bay cao lên được nữa, chúng xà xuống thấp, thấp dần. Một tia sáng vạch ngang bầu trời, rồi một tiếng sét đinh tai vang lên. Gió thổi mạnh hơn. Bọn tí xíu níu lấy nhau thành những giọt nước trong vắt. Chúng thi nhau ào ào tuôn xuống đất ... Cơn giông bắt đầu.

Bài học đầu tiên của Gấu con

Ngày chủ nhật Gấu con xin phép mẹ ra đường chơi cùng các bạn. Gấu mẹ dặn:

- Con chơi ngoan nhé. Nếu làm sai điều gì, con phải xin lỗi. Được ai giúp đỡ thì con phải cảm ơn.

Gấu con tung tăng chạy nhảy và mải lắng nghe chim Sơn Ca hót nên va phải bạn Sóc khiến giỏ nấm văng tung toé ra đất. Gấu con vội vàng khoanh tay và lễ phép nói:

- Cảm ơn bạn Sóc!

Nói xong Gấu con cúi xuống nhặt nấm bỏ vào giỏ giúp Sóc. Sóc ngạc nhiên nói:

- Sao Gấu con lại cảm ơn, phải nói xin lỗi chứ!

Mải nhìn Khỉ mẹ ngồi chải lông cho Khỉ con nên Gấu con bị trượt chân, rơi xuống hố sâu. Gấu con sợ quá kêu thất thanh:

- Cứu tôi với! Ai cứu tôi !!!

Bác Voi ở đâu đi tới liền đưa vòi xuống hố và nhấc bổng Gấu con lên mặt đất. Gấu con luôn miệng:

- Cháu xin lỗi bác Voi, Cháu xin lỗi bác Voi!

Bác Voi cũng rất ngạc nhiên liền nói:

- Sao Gấu con lại xin lỗi, phải nói cảm ơn chứ!

Về nhà, Gấu con kể lại chuyện cho mẹ nghe. Gấu mẹ ôn tồn giảng giải:

- Con nói như vậy là sai rồi. Khi làm đổ nấm của bạn Sóc, con phải xin lỗi. Còn khi bác Voi cứu con ra khỏi hố sâu, con phải cảm ơn

- Con nhớ rồi ạ! - Gấu con vui vẻ nói.

Cổ Tích về Người Cha

Khi ông Trời bắt đầu tạo ra nguời cha đầu tiên trên thế gian, ngài chuẩn bị sẵn một cái khung thật cao. Một nữ thần đi ngang qua ghé mắt coi và thắc mắc: "Thưa ngài, tại sao nguời cha lại cao đến như vậy? Nếu ông ta đi chơi bi với trẻ con thì phải quỳ gối, nếu ông ấy muốn hôn những đứa con mình lại phải cúi nguời. Thật bất tiện!". Trời trầm ngâm một chút rồi gật gù: "Ngươi nói có lý. Thế nhưng nếu ta để cho nguời cha chỉ cao bằng những đứa con, thì lũ trẻ sẽ biết lấy ai làm tầm cao mà vươn tới?".

Thấy Trời nặn đôi bàn tay nguời cha to và thô ráp, vị nữ thần lại lắc đầu buồn rầu: "Ngài có biết đang làm gì không? Những bàn tay to lớn thường vụng về. Với đôi bàn tay ấy, nguời cha chật vật lắm mới có thể găm kim băng đóng tã, cài nút áo cho con trai, thắt chiếc nơ hồng cho con gái. Bàn tay ấy không đủ khéo léo để lấy những mảnh dằm nằm sâu trong da thịt mềm mại của trẻ". Ông Trời mỉm cuời đáp: "Nhưng đôi bàn tay to lớn vững chãi đó sẽ dìu dắt bọn trẻ qua mọi sóng gió, cho tới lúc chúng trưởng thành".

Vị nữ thần đứng bên cạnh nhìn Trời nặn nguời cha với một đôi vai rộng, lực luỡng. "Tại sao ngài phí thế?", nữ thần thắc mắc. "Thế người cha sẽ đặt con ngồi đâu khi phải đưa nó đi xa? Lấy chỗ đâu cho đứa con ngủ gật gối đầu, khi đi xem xiếc về khuya?". "Quan trọng hơn, đôi vai đó sẽ gánh vác cả gia đình", ông Trời đáp.

Ông Trời thức trắng đêm để nặn cho xong nguời cha đầu tiên. Ngài cho tạo vật mới ít nói, nhưng mỗi lời phát ra là một lời quyết đoán. Tuy đôi mắt của nguời cha nhìn thấu mọi việc trên đời, nhưng lại bình tĩnh và bao dung. Cuối cùng khi đã gần như hoàn tất công việc, Trời thêm vào khóe mắt nguời cha vài giọt nuớc mắt. Nhưng sau một thoáng tư lự, Ngài lại chùi chúng đi. Thành ra người đời sau không mấy khi thấy được những giọt lệ hiếm hoi của nguời cha, mà chỉ có thể cảm và đoán được rằng ông ta đang khóc.

Xong việc, ông Trời quay lại nói với nữ thần: "Ngươi thấy đó, người cha cũng đáng yêu như nguời mẹ mà ta đã dồn bao công sức để tạo ra

Nhổ củ cải

Ngày xửa, ngày xưa có hai ông bà già và một cô cháu gái sống trong ngôi nhà bằng gỗ bên cạnh manh vườn xinh xắn. Trong nhà còn có một con Chó, một con Mèo và một chú Chuột nhắt.

Vào mùa thu, ông già mang về một cây củ cải nhỏ và trồng trong vườn. Ngày ngày, ông ra sức chăm chút cho cây. Sáng nào ông cũng cho cây cải uống một gáo nước. Chiều nào ông cũng bắt sâu, nhổ cỏ cho cây. Cây cải cũng không phụ lòng tốt của ông, nó lớn nhanh như thổi. Chẳng bao lâu nó trở thành một cây cải khổng lồ, to chưa từng thấy.

Một buổi sáng, ông già ra vườn định nhổ củ cải về cho bà già và cháu gái:

Nhổ cải lên

Nhố cái lên

Ái chà chà

Ái chà chà

Nhổ mãi nhổ mãi mà ko được

Ông gọi bà già: "Bà già ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!". Bà già liền chạy ra túm áo ông, ông nắm cây cải nhổ mãi, nhổ mãi vẫn không được.

Nhổ cải lên

Nhố cái lên

Ái chà chà

Ái chà chà

Nhổ mãi nhổ mãi mà ko được

Bà già gọi cháu gái: "Cháu gái ơi! Mau lại đây! Mau giúp bà nhổ củ cải!". Cháu gái liền chạy lại kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải nhổ mãi, nhổ mãi chẳng ăn thua gì.

Nhổ cải lên

Nhố cái lên

Ái chà chà

Ái chà chà

Nhổ mãi nhổ mãi mà ko được

Cháu gái gọi Chó con: "Chó con ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!". Chó con chạy lại ngậm lấy bím tóc của cháu gái. Cháu kéo áo bà ba, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Kéo mãi nhổ mãi cây cải vẫn nằm ì ra.

Nhổ cải lên

Nhố cái lên

Ái chà chà

Ái chà chà

Nhổ mãi nhổ mãi mà ko được

Chó con gọi Mèo con: "Mèo con ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!". Mèo con chạy lại cắn đuôi chó. Chó ngậm lấy bím tóc của cháu gái. Cháu kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Kéo mãi nhổ mãi cây cải vẫn nằm ì ra.

Nhổ cải lên

Nhố cái lên

Ái chà chà

Ái chà chà

Nhổ mãi nhổ mãi mà ko được

Mèo con gọi Chuột nhắt: "Chuột nhắt ơi! Mau lại đây!Mau giúp tôi nhổ củ cải!" Chuột nhắt chạy lại, bám đuôi Mèo, Mèo cắn đuôi Chó, Chó ngậm bím tóc cháu gái, cháu gái kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Một, hai, ba... Cây cải gan lì đã bị kéo lên khỏi mặt đất.

Tất cả sung sướng, nhảy múa quanh vây cải:

Nhổ cải lên

Nhố cái lên

Ái chà chà

Ái chà chà

Nhổ mãi, nhổ mãi, lên được rồi!

Bà lão chăn ngỗng

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay với, vác cả lên lưng về nhà. Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp ai cũng chào hỏi niềm nở:

- Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh nặng của mình trên lưng.

Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông khẽ bảo con:

- Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là một mụ phù thủy đấy.

Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại. Chàng nói:

- Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?

Bà già đáp:

- Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng."

Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:

- Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì đến ngay đấy mà.

Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:

- Quả tôi không phải là nông dân, mà là một vị bá tước giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia.

Bà già nói:

- Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé!

Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:

- Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!

Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:

- Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!

Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà nói mỉa:

- Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn thôi.

Bà nói tiếp:

- Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.

Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát sống lưng. Chàng nói:

- Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí.

Bà già đáp:

- Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng.

Bá tước nói:

- Mụ già kia, mụ thật hỗn xược.

Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra được. Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách khoái trá. Bà nói:

- Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ thưởng cho xứng công.

Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹ, còn chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói. Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng không chịu đi thì bà lấy roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta bảo bà lão:

- Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?

Bà lão đáp:

- Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ và luôn luôn đùa giỡn với nhau.

Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:

- Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất định là có thôi.

Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng:

- Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng trai trẻ thật là không tiện. Chàng ta có thể mê con đấy.

Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho mình rung động được. Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới nước. Chàng nghĩ bụng:

- Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất rồi.

Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo:

- Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không cần đến, để ta cho thứ khác.

Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một viên ngọc xanh nguyên khối và dặn:

- Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho chàng.

Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại. Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng. Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết và bà nói:

- Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất. Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai buộc lên lưng cô út một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô vào rừng hoang.

Hoàng hậu nói tiếp:

- Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng.

Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó.

Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu nữ. Hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên nhìn một tí rồi bảo:

- Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ.

Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng hồng mịn dịu như hoa táo. Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào. Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió thổi tắt. Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo:

- Mẹ biết hết cả rồi.

Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch sẽ. Bà bảo cô:

- Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.

Cô bảo:

- Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ định làm gì?

Bà già hỏi:

- Thế con không biết mấy giờ rồi à?

Cô đáp:

- Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi.

Bà nói tiếp:

- Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không thể cùng ở với nhau nữa.

Cô gái sợ hãi hỏi:

- Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!

Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra. Bà bảo cô:

- Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con.

Cô gái lại hỏi:

- Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra.

- Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.

Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:

- Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ kia cũng không thoát được đâu.

Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy nàng nữa.

Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa. Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ cửa sổ. Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm nở:

- Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi.

Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:

- Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì đã sống trong lo sợ. Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:

- Con ơi ra đi con.

Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính nàng cũng không biết tại sao.

Vua bảo:

- Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, cha đã cho đi hết rồi.

Bà lão nói:

- Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của nàng, già để cho nàng căn nhà con của già.

Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy lại tới tấp.

Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém quá nên quên mất đoạn sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi. Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu có.

Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa đúng không nào? Vậy các em hãy thử bảo bố mẹ làm các món ăn mà không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có thể đoán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối.

Chú mèo đi hia

Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột, lừa đi lấy lúa về và chở bột đi, mèo thì bắt chuột. Khi bác chết, ba con chia nhau gia tài: con cả được cái nhà xay lúa, con thứ hai được con lừa, con thứ ba không còn gì khác đành lấy con mèo vậy.

Anh này buồn bã, nói một mình:

- Mình xí được phần tồi quá! Anh cả mình có thể xay bột, anh hai mình còn được cưỡi lừa, mình thì làm ăn gì được với con mèo! Bất quá lột da nó làm được đôi bao tay là hết.

Mèo nghe hiểu hết, liền nói:

- Cậu ơi, cậu giết tôi lấy da làm đôi bao tay khổ làm gì? Cậu cứ bảo làm cho tôi một đôi hia để tôi ra ngoài cho nó đường hoàng thì rồi chả mấy lúc tôi sẽ làm cho cậu mở mày mở mặt.

Người con bác thợ xay thấy mèo nói vậy rất ngạc nhiên. Nhân có người thợ giày đi qua, anh gọi vào bảo đo chân mèo làm cho nó một đôi hia. Hia làm xong, mèo đi vào, lấy một cái bị, đổ đầy thóc xuống đáy, buộc miệng bị, rồi quẩy bị lên vai. Đoạn mèo bước ra cửa đi hai chân như người.

Lúc đó trong nước có một ông vua thích ăn chim đa đa. Nhưng tiếc thay không ai bắt được con nào. Rừng thì đầy chim đa đa, nhưng chim nhát quá, không người đi săn nào tới gần được. Mèo biết chuyện ấy, bèn nghĩ cách làm ăn cho khá hơn. Nó vào rừng mở bị, tãi thóc ra, để dây xuống cỏ, rồi luồn dây vào sau một bụi rậm.

Nó cũng lẩn quất quanh ở đó để rình. Được một lát, chim đa đa bay đến, thấy thóc liền theo nhau nhảy vào bị. Khi được một số kha khá, mèo giật dây bắt được một số con chim. Rồi nó quẩy bị lên vai đi thẳng đến cung vua.

Lính canh hô:

- Đứng lại! Đi đâu?

Mèo đáp gọn:

- Ta vào gặp nhà vua!

- Mày điên à? Mèo mà dám vào gặp nhà vua!

Một tên lính khác bảo:

- Thôi cứ để nó đi. Nhà vua thường hay buồn phiền biết đâu mèo gừ gừ lại chẳng làm cho hoàng thượng khuây khỏa.

Mèo đến yết kiến nhà vua, cúi chào rồi tâu:

- Tâu bệ hạ, chủ tôi là bá tước...,- mèo bịa ra một cái tên quí phải thật dài, - xin trân trọng gửi lời chào hoàng thượng và xin kính dâng hoàng thượng một ít chim đa đa bẫy được.

Vua thấy chim béo mừng rỡ, truyền lệnh cho mèo lấy vàng ở kho chất vào bị, tha hồ mang được bao nhiêu thì cứ việc lấy. Vua phán:

- Cho ngươi mang về biếu chủ ngươi và nói là ta đa tạ về món quá biếu.

Trong lúc đó, người con bác thợ xay lúa nghèo nàn, ngồi bên cửa sổ chống đầu vào tay nghĩ: còn bao nhiêu tiền đã bỏ ra sắm đôi hia cho mèo mất rồi, không biết có ăn thua gì không? Vừa khi ấy, mèo bước vào, bỏ bị xuống, cởi bị ra đổ vàng xuống trước mặt chủ mà nói:

- Thưa cậu, đây có ít nhiều trả tiền đôi hia cho cậu. Nhà vua còn gửi lời chào và đa tạ cậu.

Anh ta mừng vì được của nhưng không hiểu đầu đuôi ra sao.

Mèo ta vừa tháo hia vừa kể lại chuyện và bảo:

- Giờ thì quả là cậu có đủ tiền rồi, nhưng không phải chỉ có thế thôi đâu. Đến mai tôi lại xỏ hia vào, cậu sẽ lại giàu có hơn nữa. Tôi cũng đã tâu với vua cậu là một vị bá tước.

Hôm sau, mèo lại y lời, đi hia cẩn thận rồi đi săn, mang đến cho vua một mớ chim đa đa. Ngày nào mèo cũng mang vàng về nhà, mèo được vua yêu quí, tha hồ ra vào cung điện.

Có lần mèo đứng sưởi bên lửa trong bếp nhà vua. Tên đánh xe vào và nguyền rủa: "Ma quỉ hãy bắt vua và công chúa đi cho rảnh! Ai lại mình định ra quán đánh chén và chơi bài một phen, thì lại phải đánh xe cho họ ra hồ chơi!".

Nghe vậy, mèo vội lén về nhà bảo chủ:

- Nếu cậu muốn thành bá tước và trở nên giàu có thì cậu hãy đi với tôi ra hồ, rồi xuống hồ mà tắm.

Chú thợ xay im lặng, đi theo mèo, cởi sạch quần áo nhảy xuống nước. Mèo lấy quần áo mang đi giấu một chỗ. Vừa làm xong thì xe vua đi tới. Mèo liền lên tiếng than vãn nghe mà não ruột:

- Trời ơi! Tâu bệ hạ, bá tước chủ tôi đương tắm ở dưới hồ thì có một tên ăn trộm đến lấy quần áo để ở trên bờ. Chủ tôi đang ở dưới nước lên không được; nếu ở lâu nữa thì đến cảm mà chết mất thôi!

Vua nghe vậy, cho dừng xe lại, phán cho một tên hầu chạy về lấy bộ quần áo của nhà vua. "Bá tước" mặc bộ quần áo lộng lẫy vào. Nhà vua biệt đãi chàng vì cứ tưởng chàng biếu chim đa đa là bá tước thật, và cho chàng ngồi lên xe. Công chúa cũng lấy làm thích vì bá tước vừa trẻ vừa xinh trai, lại dễ thương.

Mèo đi trước tới một cánh đồng cỏ rộng mênh mông có trên một trăm người đương cắt cỏ.

Mèo hỏi:

- Cánh đồng nhà ai thế?

- Của thầy phủ thủy đấy.

Mèo dặn họ:

- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi cánh đồng cỏ của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói thế là bị đánh chết tươi đấy.

Mèo lại đi nữa, tới một cánh đồng lúa bát ngát ai đi qua cũng phải để ý. Có tới trên một trăm người đang gặt lúa. Mèo hỏi:

- Các bác ơi, lúa nhà ai thế?

- Của thầy phù thủy đấy.

Mèo dặn:

- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi lúa của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói là bị đánh chết tươi đấy.

Mèo đi mãi tới một khu rừng đẹp, có trên ba trăm người đang đẵn những cây sồi to để lấy củi.

Mèo hỏi:

- Các bác ơi, rừng nhà ai thế?

- Của thầy phù thủy đấy.

Mèo dặn:

- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi rừng của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói thế thì bị giết hết đấy.

Mèo lại đi nữa. Mọi người đều nhìn theo thấy mèo có vẻ kỳ dị, nom như người đi hia thì sợ lắm. Một lát sau mèo tới lâu đài của thầy phủ thủy, ngang nhiên tiến vào. Lão phù thủy nhìn mèo một cách khinh khỉnh hỏi nó muốn gì.

Mèo vái chào nói:

- Tôi nghe nói ông có thể tùy ý muốn biến ra con vật gì cũng được. Tôi tin là biến ra chó, cáo hay cả chó sói thì còn được, chứ biến thế nào ra voi được. Do đó tôi đến tận nơi để xem có đúng không.

Lão phủ thủy dương dương tự đắc đáp:

- Làm quái gì cái vặt ấy.

Rồi trong nháy mắt lão biến ra voi.

Mèo bảo:

- Khá lắm, nhưng có biến ra sư tử được không?

Lão phù thủy đáp:

- Dễ không!

Rồi lão biến ra sư tử.

Mèo làm ra bộ sợ hãi kêu lên:

- Thật là trên trời đất chưa từng thấy! Ngay trong giấc mơ, tôi cũng chưa từng thấy. Nhưng nếu thầy biến ra thành một con vật nhỏ như con chuột thì mới thật là tài thánh. Thầy nhất định là giỏi hơn các thầy phù thủy trên đời, nhưng chắc không làm nổi đâu.

Lão phủ thủy nghe phỉnh bùi tai, có vẻ thích lắm nói:

- Này chú mèo thân mến ạ, việc đó ta cũng làm được.

Lão biến ra con chuột nhắt nhảy tung tăng trong buồng. Mèo theo sau vồ lấy chuột ăn.

Vua cùng bá tước và công chúa đi xe tới cánh đồng cỏ mênh mông.

Vua hỏi:

- Cỏ của nhà ai đấy?

Mọi người đều trả lời theo mèo dặn:

- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.

Vua phán:

- Bá tước có mảnh đất đẹp quá.

Tới cánh đồng lúa bát ngát, vua hỏi:

- Lúa nhà ai đấy chúng bay?

- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.

Vua phán:

- Chà chà! Đất vừa rộng đẹp quá.

Tới rừng, vua hỏi:

- Rừng nhà ai thế chúng bay?

- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.

Vua càng ngạc nhiên hơn nữa bảo:

- Bá tước ạ, bá tước hẳn là giàu lắm. Ta chưa chắc đã có một khu rừng đẹp đến thế.

Đi tới lâu đài thì đã thấy mèo đứng đợi ở đầu cầu thang.

Xe vừa đỗ, mèo đã nhảy xuống mở cửa nói:

- Tâu bệ hạ, đây là lâu đài của bá tước chủ tôi. Bệ hạ tới đây thật là hân hạnh suốt đời cho chủ tôi.

Vua xuống xe, ngạc nhiên thấy tòa nhà lộng lẫy, to hơn và đẹp hơn cả cung điện của mình. Bá tước dẫn công chúa vào phòng tiếp tân sáng loáng vàng ngọc châu báu.

Công chúa đính hôn với bá tước và khi vua mất, bá tước lên nối ngôi, phong cho mèo đi hia làm tể tướng.

Câu chuyện kỳ lạ về chú mèo thông minh biết nói giúp các em một điều: Ta không nên coi thường các con vật nuôi trong nhà vì chúng có thể giúp ích cho chúng ta. Các em hãy yêu quý những con vật sống xung quanh mình nhé.

Bê con ham chơi

Hôm ấy chị Bò đưa con ra đồng cỏ, trong lúc chị mải mê gặm những ngọn cỏ tươi non thì Bê con chạy chơi loăng quăng. Một lúc sau, không nhìn thấy con đâu, chị Bò lo lắng gọi:

- Ừm... bò... ò... Con ở đâu?

Không thấy chú Bê đâu, chị Bò hốt hoảng chạy đi tìm.

Gặp Cún con đang say sưa gặm mấy khúc xương, chị hỏi:

- Cậu Cún có thấy con trai tôi đâu không?

- Gâu! Cháu không thấy bạn ấy đâu cả.

Chị Bò nghe nói thế càng lo lắng hơn, chị vội đi về phía ao.

Ở đó mẹ con cô Vịt đang nô đùa vui vẻ. Mấy chú Vịt con không ngớt kêu! - Vít vít.

Không thấy Bê con ở đó, chị Bò lại chạy đi tiếp. Vừa đi chị vừa gọi:

- Ừm... bò... ò... Con ở đâu?

Chị chạy tới khu chuồng lợn. Trời nắng nóng nên mấy chú lợn con nghịch ngợm, rủ nhau lăn trong bùn, lấm lem từ đầu đến chân.

Cũng không có Bê con ở đó.

Chị Bò quay về trang trại, gặp cô Gà đang dẫn đàn con vừa nở ra khỏi ổ.

- Chị có thấy con trai tôi đâu không? - Chị Bò hỏi.

- Cục... cục... cục...Tôi không thấy, không thấy. Gà mẹ trả lời

"Không biết thằng bé chơi ở đâu nhỉ?" - Chị Bò vừa đi vừa nghĩ. Chợt chị nhìn thấy mấy chú cừu và ngựa đang chơi vui vẻ, cạnh đó là Bê con đang tung tăng chạy nhảy.

Bò mẹ mừng quá chạy vội về phía con. Nghe tiếng mẹ gọi, Bê con ba chân bốn cẳng chạy đến với mẹ.

- Ừm... bò... ò ! Con đi chơi sao không bảo mẹ, để mẹ đi tìm mãi!

Nghe mẹ âu yếm mắng, Bê con dụi đầu vào ngực mẹ tỏ ý xin lỗi. Rồi hai mẹ con cùng trở về trang trại.

Sự tích cây thìa là

Các em biết không, ngày xưa, xưa lắm rồi, cây cỏ chưa có tên chi cả. Một hôm, ông Trời tập hợp tất cả các loài lại, ban cho mỗi loài một cái tên. Thôi thì, các loại cây giành nhau đến trước được đặt tên theo đúng ý của mình muốn. Có cây thì dịu dàng tỏa hương, đòi được gọi là Lan, có cây lại õng ẹo múa nhịp nhàng, xin được đặt là Tóc Tiên, có cây lại hiên ngang đi đến, được gọi là Thông. Các loại rau cỏ cũng vậy, cũng chen chúc nhau, nài nỉ những cái tên thật đẹp như Quế, Dấp Cá, Tía Tô, Húng, v.v...

Cho đến cuối ngày, khi ông Trời đã mệt, có một nhành cây nho nhỏ hớt hơ hớt hãi chạy đến, chỉ xin tên gì cũng được. Nhành cây đó xin lỗi ông Trời đã đến trễ, vì nó phải chăm sóc bà của nó đang bị bệnh. Ông Trời thấy lòng hiếu thảo của nó thì cảm động lắm nên không phạt nó, nhưng ông không thể nghĩ ra được tên gì khác, cho nên ông ngập ngừng:

- Tên của con là... thì là...thì là...

Nhành cây nghe vậy, mừng quá hét toáng lên:

- Ôi tôi có tên rồi ! Tôi là Thì Là !

Nó vui quá nên vội vàng cám ơn ông Trời rồi chạy nhanh về nhà khoe bà của nó, và để xem sức khỏe của bà. Nó nào biết đâu rằng chữ "thì là" không phải là tên ông Trời dự định đặt cho, mà là sự ngập ngừng chưa nghĩ ra được cái tên cho nó.

Từ đó, muôn loài gọi nó là cây Thì Là, hay là Thìa Là. Tuy rằng cái tên đó rất bình dân, nhưng không một loài nào dám chế diễu, bởi vì lòng hiếu thảo của nó đã hơn tất cả các loại cây khác rồi.

Nàng tiên thứ 9

Ngày xưa, có một bà cụ già có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. Ðêm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà khóc.

Một đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh, đứng trên ngọn cây mít. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo: "Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được ."

Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa qua.

Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương.

Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang: miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang toả sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà.

Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng thông thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi . Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ già đến bên nàng chào hỏi: "Cháu ơi! Ðường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã." Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri - loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người kinh - cho cô gái yên giấc.

Ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em.

Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hòa thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo - vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn. Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình.

Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. Ðược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt.

Ðược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. "Mẹ ơi!" Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. Ðau khổ quá, họ bưng mặt khóc.

Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa :Dnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn.

Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn, bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. (Ðến nay người Hê- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người).

Ðã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết.

Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh... đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo: "Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!" Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông.

Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê... cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông chảy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá.

Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ

Núi pha lê

Ngày xưa có một nhà vua sinh đựoc ba hoàng tử. Một hôm ba chàng tâu với vua cha:

- Xin phụ vương cho chúng con đi săn một chuyến!

Nhà vua ưng thuận, vậy là ba hoàng tử lên đường theo ba hướng khác nhau. Người em út đi mãi, bị lạc lối đến một khu rừng thưa. Trên bãi cỏ có con ngựa nằm sóng sượt, bên cạnh có rất nhiều loại chim thú đang tranh cãi.

Chim ưng bay lên đậu lên vai hoàng tử út và nói:

- Thưa hoàng tử I-van, xin chàng giúp chúng tôi chia con ngựa này cho đều. Nó nằm đó đã ba mươi năm mà chúng tôi cứ cãi nhau mãi không biết phải làm thế nào.

Hoàng tử xuống ngựa, chàng chia con ngựa như sau: xương dành cho thú, thịt cho chim, da cho loài bò sát còn đầu cho họ nhà kiến.

- Xin đa tạ hoàng tử! - Chim ưng nói - Để đền đáp công ơn này, bất cứ khi nào cần chàng có thể hóa thành chim ưng và kiến.

Hoàng tử I-van liền thử giậm mạnh chân xuống đất, quả nhiên chàng biến thành con chim ưng lông bạc bay đến một vương quốc xa xôi. Một nửa vương quốc này nằm dưới một trái núi pha lê. Chim ưng bay đến cung điện nhà vua trị vì vương quốc ấy biến trở thành chàng trai tuấn tú.

Chàng hỏi người gác cổng:

- Liệu nhà vua của các ngài có nhận tôi làm người hầu không?

- Anh tuấn tú thế này, sao lại không nhận!

Vậy là chàng thành người hầu của nhà vua.

Được một thời gian, một hôm công chúa tâu với cha:

- Muôn tâu phụ vương, xin người cho phép con được đến núi pha lê chơi.

Nhà vua đồng ý và sai "người hầu" đi tháp tùng công chúa. Hai người cưỡi những con ngựa tốt nhất vương quốc và ra đi. Khi họ đến gần trái núi pha lê thì bỗng từ đâu xuất hiện một con dê lông vàng. Người hầu - hoàng tử thúc ngựa đuổi theo dê, dê chạy thoăn thoắt, ngựa không sao đuổi kịp. Khi hoàng tử quay lại thì không thấy công chúa đâu nữa. Làm thế nào bây giờ, biết làm thế nào với nhà vua đây? Chàng đành đóng giả là một ông lão đến xin với nhà vua.

- Muôn tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng cho kẻ hèn này làm người chăn bò!

- Được! Ta cho phép ngươi chăn đàn gia súc của ta. Nhưng nhớ rằng, nếu thấy xà tinh ba đầu bay tới thì ta phải cho nó ba con bò, nếu nó có sáu đầu thì phải cho nó sáu con, nếu có mười hai đầu thì cho mười hai con.

Hoàng tử xua đàn bò ra thung lũng, bỗng xà tinh ba đầu từ dưới hồ bay lên:

- Hoàng tử Ivan mà phải đi chăn bò ư? Hãy nộp ra đây ba con bò mau!

- Ngươi ăn lắm thế không sợ phát phì ư? Ta đây một ngày chỉ ăn có một rẻo thịt mà mi đòi những ba con, đã vậy ta không cho ngươi con nào hết.

Xà tinh nổi giận. Đáng lẽ bắt ba con thì nó bắt tới sáu con bò. Hoàng tử Ivan biến thành chim ưng khổng lồ, mổ đứt ba cái đầu của xà tinh và lùa đàn bò nguyên vẹn trở về nhà.

- Thế nào ông lão? Ông có cho xà tinh ba đầu ba con bò chưa?

- Muôn tâu hoàng thượng, lão chẳng cho nó con bò nào cả.

Hôm sau hoàng tử lại lùa bò ra thung lũng. Lần này xà tinh sáu đầu xuất hiện và nó đòi sáu con bò.

- Đồ quái vật phàm ăn! Ta đây một ngày chỉ ăn một rẻo thịt, mi đòi gì lắm thế, đã thế ta không cho mi con bò nào cả!

Xà tinh nổi giận, đáng lẽ bắt sáu con bò thì nó bắt tới mười hai con. Chim ưng lông bạc lại xuất hiện mổ đứt sáu đầu xà tinh Hoàng tử Ivan lùa đàn bò nguyên vẹn trở về. Nhà vua lại hỏi:

- Thế nào ông lão? Xà tinh sáu đầu có đến không? Nó có bắt mất nhiều bò không?

- Muôn tâu, nó có tới nhưng không bắt được con nào cả!

Chiều hôm đó hoàng tử biến thành con kiến đen, chui qua khe nứt vào bên trong hòn núi pha lê, biến trở thành hoàng tử Ivan và thấy công chúa đang ngồi khóc bên trong.

- Thưa công chúa, sao này vào được chốn này?

- Xà tinh mười hai đầu đã đưa em tới đây. Nó sống trong hồ lớn của thân phụ em. Trong bụng nó có một cái hòm, trong hòm có con thỏ, trong con thỏ có con vịt, trong con vịt có quả trứng, trong quả trứng có hạt giống. Nếu lấy được hạt giống, chàng sẽ phá tan đựoc ngọn núi pha lê và cứu em ra khỏi nơi này.

Hoàng tử Ivan dưới lốt kiến bò ra khỏi núi, mặc quần áo người chăn bò và lùa đàn bò ra thung lũng. Xà tinh mười hai đầu bay tới:

- Hoàng tử Ivan mà phải đi chăn bò thế này ư? Biết điều thì hãy nộp cho ta mười hai con bò!

- Dễ nghe nhỉ! Ta đây một ngày chỉ ăn có một rẻo thịt, vậy mà mi đòi những mười hai con!

Hai bên liền xông vào đánh nhau. Xà tinh đuối sức dần và bị hoàng tử đánh bại. Chàng rạch bụng xà tinh, tìm thấy chiếc hòm, trong hòm có con thỏ, trong con thỏ có con vịt, trong con vịt có quả trứng, trong quả trứng có hạt giống.

Hoàng tử Ivan đem hạt giống tới trước núi pha lê đốt lên thì núi tan chảy hết. hoàng tử đưa công chúng về cung điện, nhà vua vui mừng nói với hoàng tử:

- Hãy làm phò mã của ta!

Hoàng tử và công chúa làm lễ thành hôn, cả hai cùng sống một cuộc sống hạnh phúc.

Vì sao lông nhím nhọn?

Ngày xưa, họ nhà Nhím có bộ lông rất mựợt. Trong cánh rừng nọ có một chú Nhím con rất hay trêu chọc mọi người. Một hôm, Nhím con ngắm nghía cái mũi nhọn của mình và chợt nghĩ ra một trò tinh nghịch.

Nhím con lấy cung tên ra bắn, mũi tên nhọn cắm phập vào thân cây, chuôi tên rung bần bật. Nhím con khoái chí lắm. Nhím con nấp sau một thân cây đổ. Thấy Thỏ con đang xách giỏ cà rốt đi tới, Nhím con giương cung bắn. "Vút!". Mũi tên bay sượt qua giữa hai tai của Thỏ con.

- Ối! - Thỏ con hét lên kinh hãi.

Nhím con xách cung tên đi tiếp. Trông thấy hai anh em Khỉ đang tập đu cây chuyền cành, Nhím con giương cung bắn. Mũi tên cắm "phập" vào thân cây khiến Khỉ em giật mình và trượt tay, suýt nữa thì bị ngã.

Biết chuyện, bác Gõ Kiến nghiêm nghị nói với Nhím con:

- Cháu không được đùa nghịch như vậy, nếu lỡ làm các bạn đau thì sao?

Thế nhưng Nhím con vẫn không nghe lời bác Gõ Kiến. Một hôm khác, Nhím con trông thấy Gấu đang trèo lên cây lấy mật ong. Khi Gấu trèo tới gần tổ ong, Nhím con liền bắn một phát tên trúng vào tổ ong. Thế là đàn ong bay ùa ra khỏi tổ. Ong không chỉ đốt Gấu mà còn đốt cả Nhím con nữa. Nhím con cuống cuồng bỏ chạy, đàn ong vẫn đuổI sát phía sau.

Mải chạy, Nhím con lao phải bụi cây xương rồng và bị mắc luôn vào đám gai tua tủa. Nó vừa giãy giụa vừa kêu ầm ĩ: "Đau quá! Cứu tôi với!"

Thỏ con, Khỉ anh và Khỉ em chạy tới tìm cách gỡ gai, vạch cây kéo Nhím ra. Lúc này, gai xương rồng bám đầy người Nhím. Các bạn cố rút những cái gai ra nhưng vừa chạm đến thì Nhím đã kêu rên: "Đau quá! Đừng rút gai nữa!"

Lâu dần, những cái gai xương rồng đã gắn chặt vào mình Nhím, không sao gỡ ra được. Càng lạ hơn nữa là những cái gai ấy cứ mọc dài thêm ra và trở thành những cái lông cứng bao quanh mình Nhím. Nhím rất hốI hận vì những trò nghịch ngợm của mình nhưng đã muộn. Suốt đời, Nhím phải mang những cái lông nhọn và cứng ở trên người.

Chim công kiêu ngạo

Chim Công may mắn được trời phú cho một bộ lông rất đẹp. Mỗi khi nghe thấy các bạn tán dương bộ lông rực rỡ của mình, Công thích lắm!

Công thường hãnh diện xòe đuôi ra múa. Rồi suốt ngày này sang ngày khác, Công chẳng chịu làm gì, nó cứ đi đi lại lại trong rừng, so sánh vẻ đẹp của mình với bạn bè. Và Công kiêu ngạo nghĩ rằng chẳng có ai đẹp bằng nó.

Một hôm, Công đến bên bờ sông, nó chợt thấy có một con Công khác ở dưới nước đang nhìn lên. Thế là Công lại muốn khoe cái đuôi rất đẹp của mình với con chim dưới nước. Công liền xòe rộng cái đuôi rực rỡ cho con Công kia xem và nghĩ thầm: " Chắc chắn gã Công kia sẽ phải lác mắt vì vẻ đẹp của mình."

Nhưng Công sững sờ khi nhìn xuống nước. Thật kỳ lạ, con Công dưới nước cũng có cái đuôi giống hệt nó. Điều đó khiến Công rất tức giận. Không ai có thể đẹp hơn nó được. Công đập mạnh xuống nước làm nước bắn tung tóe. Toàn thân Công bị ướt sũng, trông rất xấu xí và khó coi.

Những con chim ở trên cây nhìn thấy dáng vẻ của nó liền phá lên cười. Chúng chế giễu chim Công kiêu ngạo và dốt nát. Ai lại đi đánh nhau với cái bóng của mình cơ chứ!

Chuyện hổ và ngựa

Con ngựa có tính huênh hoang, khoác lác, ra khỏi nhà là nó nện bốn cái vó xuống đất, nghe ròn hơn gõ mõ làng, hí váng cả tai hàng xóm. Một hôm trời chưa sáng hẳn, ngựa còn đang ngủ say, chủ nhà đã ra bắt ngựa cưỡi đi chợ. Ngựa phải đưa chủ qua suối, qua đồi, qua khe. Đường xa, bụng đói, chân mỏi, người đẫm mồ hôi, nhưng con ngựa không dám kêu, vì kêu thì sợ lúc trở về chủ sẽ không cho ăn bắp ngô, chậu cám. Đến chợ, chủ nhà buộc ngựa ngoài gốc cây, vào quán ăn thịt uống rượu. Con ngựa khát nước khô cả cổ mà không dám đòi, vì sợ chủ ăn không ngon, lúc về sẽ bắt ngựa chạy nhanh hơn. Ngựa về, bụng đã đói, chân đã mỏi, nhưng chủ nhà vẫn giục ngựa chạy nhanh. Lưng ngựa oằn xuống, bọt xùi ra mép, ngựa vẫn cắm đầu chạy một mạch, mong mau về đến nhà kiếm nắm cỏ tươi. Nhưng vừa mới về đến cửa thì con chủ nhà đã ra đón. Ngựa lại phải đưa con chủ nhà đi thăm nương, rẫy. Mãi đến nửa chiều, ngựa mới được về nhà uống một chậu nước cám. Uống xong, lại sức, con ngựa ra sông tắm. Vừa mới tắm xong ngựa đã lên bờ giũ lông, hí vang, ra dáng khoan khoái lắm. Lúc đó có một con hổ đi ngang. Thấy hổ lủi thủi đi một mình, đuôi cụp, đầu cúi, dáng buồn bã, ngựa nghển cổ lên nói khích:

- Đi đâu mà trông khổ sở thế anh hổ?

- Tôi đi kiếm ăn ở rừng dưới về. Anh chẳng làm gì sao mà trông thong thả thế?

Ngựa càng lên mặt, giũ lại bộ lông một lần nữa, hí vang thêm một lượt, rồi mới ngạo nghễ nói:

- Tôi lúc nào mà chẳng thong thả? Đi dạo chơi từ sáng đến giờ, bây giờ ra tắm cái cho khỏe.

- Anh sung sướng quá! Phận tôi thì phải chạy tối ngày mà có khi cũng chẳng được miếng ăn.

Được hổ nịnh, ngựa càng vênh mặt:

- Anh vất vả quá thật. Đường rộng rãi thế này, mà tôi dạo một lúc đã thấy mỏi chân. Còn anh thì núi rừng thế kia, đi vướng trước, đụng sau làm sao mà chịu được?

Ngựa còn khoe lúc nào cũng thừa thóc thừa ngô, ăn chẳng hết, rồi mời hổ về nhà chơi, để xem những thứ đó. Tính hổ ít nói, lại không muốn mang ơn bạn trước, nên mời ngựa đến nhà mình chơi trước, rồi mới đến trả lễ sau. Hổ về, chạy vào rừng tìm bắt những con nai, con hươu làm tiệc đón ngựa. Ngựa đến cùng hổ ăn thịt, uống rượu tới một ngày rồi kết nghĩa làm anh em. Xong bữa tiệc đó, ngựa về lo đón hổ, tỏ cho hổ biết mình là người sang trọng. Ngựa lấy lục lạc tròng vào cổ, mang yên vào lưng, ngắm nghía một lúc rồi ra đứng đón hổ. Hôm đó nhà chủ ngựa lại có cỗ, ngựa chờ chủ nhà ngủ yên, vào lấy hết mâm cỗ ra tiếp hổ. Hai bên ngồi ăn uống, ngựa chỉ vào từng món thức ăn, khoe:

- Cái này là thịt gà xào này!

- Cái này là mật ong này, ngọt lắm.

- Cái này là chỗ ở của tôi - Ngựa chỉ ra chuồng, nói tiếp - chỗ tôi ở mưa không dột, nắng không đến, chứ đâu có khổ sở như anh, lúc mưa phải núp vào hang đá, lúc nắng trú dưới bóng cây...

Ngựa còn đang khoác lác thì trời đã sáng, chủ nhà cầm một cái roi ra bắt ngựa cưỡi đi chợ. Thấy ngựa ăn cắp mâm cỗ, sẵn roi chủ nhà đến tóm bờm ngựa đánh một trận nên thân. Ngựa cúi đầu chạy, hổ núp bên ngoài nhìn thấy mọi chuyện vừa xảy ra. Hổ tự hỏi:

- Ta ở trong rừng. Núp mưa trong hang đá, núp nắng dưới gốc cây mà không bị đánh là sướng, hay ở nhà gỗ ăn cám ngô mà bị đánh là sướng?

- Đi đường dốc, vấp phải đá, quàng phải dây mà không bị người ta ngồi trên lưng là sướng, hay đi đất bằng, đường rộng mà bị người ngồi trên lưng là sướng?

Hổ ra bờ suối, chui vào bụi rậm nằm, chờ ngựa, còn ngựa đưa chủ đi đến nửa buổi chiều mới được về. Ăn xong một nắm cỏ, nó lại ra suối tắm. Hổ hỏi:

- Anh ngựa này? Cái sướng của anh tôi không muốn đâu! Anh được ăn ngô, ăn thóc, ăn cỏ, được ở nhà gỗ mà bị người ta đánh vào đầu, người ta cưỡi lên lưng thì sướng làm sao được?

Con ngựa chống chế:

- Tôi không phải làm nhà mà được ở, ngô, thóc tôi không cấy mà được ăn... Anh bảo thế chưa sướng thì thế nào là sướng? Lủi thủi trong rừng quanh năm suốt đời như anh là sướng đấy sao?

- Núi rừng tuy có âm u rậm rạp, nhưng tôi muốn đi đâu cũng được, muốn nằm đâu cũng được. Lúc tôi ngủ không ai dám gọi, lúc tôi chơi không ai dám ngăn. Hươu, nai, cáo, cầy không phải là của tôi, nhưng tôi có công bắt được thì tôi cứ ăn; không bị ai giành lại, không bị ai đánh mắng. Cái sướng của anh tôi không muốn đâu... Tôi không làm bạn với anh nữa đâu. Tôi đi về rừng rậm núi cao của tôi đây.

Nói rồi hổ cong đuôi chạy vào rừng.

Truyền thuyết Hạt lúa thần

Tục truyền, hạt lúa thời vua Hùng mới dựng n¬ước to như¬ cái thuyền con, khi chín thì tự lăn về nhà. Chỉ vì chị vợ của quan lang lư¬ời biếng và nóng nảy đã làm thần lúa giận bỏ đi. Từ đấy, những hạt lúa ngày càng bé đi và mỗi lần lúa chín, ng¬ười dân lại phải gặt lúa về.

Tục truyền ngày x¬ưa khi vua Hùng mới dựng nư¬ớc, ven các con sông Thao, sông Đà, sông Lô đất đai màu mỡ, cây cối tốt t¬ươi. Cư¬ dân Văn Lang vẽ chàm vào ng¬ười xuống đồng bắt cá về ăn. Vùng đồng kẻ Gáp, kẻ Vầy cá nhiều vô kể, ăn cá mãi cũng chán. Các cụ già làng thư¬ờng thấy trên những bãi bồi hàng năm nở lên những vạt cây tốt nhanh, lá giống lá mía, thân như¬ thân lau, nở từng bụi sum suê, bông trĩu, quả to, có quả như¬ cái thuyền con, khi quả chín rụng xuống đất, chim sóc cứ mổ mà ăn không xuể.

Các già làng liền rủ nhau lấy rìu bổ ăn thử, ăn vào đến đâu thấy dễ chịu đến đấy, nếu đem cho vào ống nứa đốt như¬ nấu khoai mài, ăn thấy càng thơm ngon. Thấy vậy, dân làng rủ nhau đi nhặt về để dành ăn vào mùa đông rét m¬ướt.

Như¬ng có năm cây vẫn tốt, lúc ra hoa trời nắng bông lại lép kẹp, bông thì to như¬ng cứ giơ thẳng lên trời như¬ những mũi mác, cả làng cả bản tha hồ đốt cây trầm h¬ương gọi là vía, gọi hồn hạt cũng không to, bông vàng không trĩu xuống.

Vua Hùng thấy vậy, cùng các già làng tìm một ngọn núi cao im lặng trèo lên trên đỉnh, đốt h¬ương khấn vái bốn phư¬ơng mong Long Quân về phù hộ. Vua Hùng cùng các già làng cầu khấn mãi từ sáng đến hết đêm. Sáng hôm sau, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mư¬a từ đâu như¬ trút n¬ước xuống, rồi từ trong đám m¬ưa có vị thần nói to lên rằng: "Từ nay trở đi cứ sáng mồng một Tết, nhà nào cũng phải quét sạch nhà cửa cổng ngõ sân bãi đến giờ "dần" sẽ có lúa thần về mới đ¬ược ăn, bằng trái ý là lúa bay đi".

Tan cơn m¬ưa, vua Hùng và các già làng như¬ tỉnh giấc mộng, nhìn thấy ngay tr¬ước mắt mình một hạt lúa thần thật to bằng chiếc thuyền con.

Từ đó về sau năm nào cũng vậy, cứ khoảng tháng bảy, tháng tám khi n¬ước các con sông rút đi là tất cả c¬ư dân Văn Lang, cùng với vua Hùng nghe theo lời thần dạy, ra những bãi bồi ven sông cày bừa vun xới, chăm chút nâng niu những cây lúa thần. Từ đấy năm nào lúa cũng về đều đặn, dân c¬ư no lành, vui mừng ca hát, nhảy múa. Như¬ng bỗng một năm có hai vợ chồng nhà quan lang còn trẻ, chị vợ ngủ tr¬ưa, khi mở mắt ra những tia sáng của thần trời đã le lói chiếu qua khe liếp nhà, mới vội vàng cầm chổi đi quét sân. Chị vợ đang quét thì lúa tới giờ đã lăn từ ngoài bãi bồi lăn về. Hạt lúa thật to, thật đẹp, nh¬ưng cổng nhà rác quá, lúa không vào đ¬ược, chị vợ sợ chồng mắng mới quay ra mắng lúa:

"Lúa gì mà chư¬a đến giờ đã mò về".

Lúa giận rồi bỏ đi. Trư¬ớc khi đi, lúa còn bảo: "Nhà chị l¬ười quá, từ nay cứ lấy ngoèo tre, l-ưỡi sắt cắt từng bông chứ đừng hòng ta lăn về cho mà ăn nữa".

Chị vợ hối hận chạy theo van nài, nói thế nào cũng không đ¬ược. Lúa thần bay đi, c¬ư dân Văn Lang lại lao đao vì thiếu cái ăn. Vua Hùng lại phải cùng các già làng lên đỉnh núi cầu khấn trời đất, thắp hư¬ơng suốt ngày đêm, gọi vía lúa, lúa thần vẫn không về. Còn những cây lúa hằng năm vẫn chăm sóc ở bãi bồi ven sông thì lá bé đi, bông nhỏ lại chỉ bằng phần nghìn, phần vạn hạt lúa thần và phải lấy cái ngoèo tre, đóng một miếng sắt (gọi là liềm) đi cắt từng bông một mang về.

Từ đó, hằng năm cứ sắp đến mùa lúa nở, c¬ư dân Văn Lang và vua Hùng lại cầu khấn thần lúa. Và mỗi khi n¬ước sông rút đi, lại ra sức chăm sóc những cây lúa ven sông rồi mang ngoèo tre, lưỡi sắt đi cắt từng bông lúa mang về.'

Sói và sóc

Sóc nhảy nhót chuyền cành thế nào ngã trúng ngay vào chó sói đang ngủ. Chó sói choàng dậy tóm được sóc, định ăn thịt. Sóc bèn van xin:

- Xin ông thả cháu ra.

Sói trả lời:

- Thôi được, ta sẽ thả mày, có điều mày hãy nói cho ta hay, vì sao họ nhà sóc chúng mày lúc nào cũng vui vẻ như vậy. Ta thì lúc nào cũng buồn rũ, còn chúng mày thì lúc nào cũng thấy đùa nghịch nhảy nhót trên tán cây cao.

Sóc nói:

- Ông cứ thả cháu lên cây đã, trên đó cháu sẽ nói cho ông rõ, chứ không cháu sợ ông quá.

Sói thả Sóc ra, thế là Sóc tót lên cây và nói chõ xuống:

- Ông buồn rũ là vì ông độc ác, cái độc ác nó bóp thắt tim gan ông lại. Còn đằng này bọn ta vui vẻ là vì bọn ta hiền lành và chẳng làm điều ác cho ai cả.

Cổ tích về loài bướm

"Xưa lắm rồi, khi có những chú bướm đêm cũng có màu sắc rực rỡ như những loài bướm khác, thậm chí còn lộng lẫy hơn cả những chú bướm bây giờ. Một ngày nọ, những thiên thần thấy buồn bã khi mây đen che phủ bầu trời khiến họ không còn nhìn thấy loài người ở chốn trần gian. Họ khóc - nước mắt thiên thần rơi xuống tạo nên những giọt mưa trắng xóa.

Những chú bướm đêm hào hiệp vốn ghét nhìn thấy mọi người buồn phiền. Vì thế chúng rủ nhau làm một chiếc cầu vồng. Bướm đêm nghĩ rằng nếu nhờ những loài bướm khác giúp sức thì chúng chỉ cần cho đi một ít màu sắc của mình là có thể tạo ra một chiếc cầu vồng tuyệt đẹp. Thế là một chú bướm đêm tìm đến nữ hoàng của loài bướm khác để nhờ giúp đỡ. Nhưng những loài bướm khác quá đỗi ích kỷ và tự phụ nên không muốn cho đi màu sắc của mình, dù chỉ một chút.

Những chú bướm đêm quyết định làm việc đó một mình. Chúng vỗ cánh thật mạnh làm bột phấn trên cánh rơi rắc trong không trung tạo nên những đám mây ngũ sắc lung linh như thủy tinh. Những đám mây dần dần giãn ra tạo thành một đường viền dài. Nhưng chiếc cầu vồng vẫn chưa đủ lớn, vì thế những chú bướm đêm cứ tiếp tục cho đi màu sắc của mình, cứ thêm vào từng chút một cho đến khi chiếc cầu vồng kéo dài đến tận chân trời. Những thiên thần trông thấy cầu vồng trở nên vui sướng. Họ mỉm cười, nụ cười ấm áp chiếu rọi xuống trần gian làm nên những tia nắng rạng rỡ. Và những chú bướm đêm ấy chỉ còn lại duy nhất một màu nâu thô mộc bởi chúng đã cho đi tất cả những sắc màu lộng lẫy nhất để dệt nên chiếc cầu vồng tuyệt diệu..."

Bạn ạ, đừng chăm chăm nhìn vào diện mạo, hãy soi rọi để tìm thấy những điểm sáng bên trong một con người. Có ai đó đã nói: "Nhân cách là ngọc quý, nó có thể cắt rời những ngọc quý khác".

Sự tích con sư tử

Thuở xưa, có một hoàng tử mới mới lên ngôi hoàng đế. Ngay lập tức chàng muốn đi học phép thuật để củng cố đất nước. Chàng đi tìm một ông thầy bùa chú rất nổi tiếng về phép thuật để học.

Hoàng hậu rất buồn vì ý định của hoàng đế vì nàng sợ sự chia ly, vả lại trên đường đi có rất nhiều nguy hiểm, khó khăn. Nhưng chàng đã quyết và một ngày kia lên đường cùng với bốn người tuỳ tùng.

Đường đi rất khó khăn, vì phải qua những sa mạc rộng lớn và đi vào những vùng rừng sâu đầy thú dữ... nhưng vì họ quá khao khát phép thuật, quyền hành sau nầy, cho nên những khó khăn chẳng cản được họ.

Ba tháng cực khổ, đói và khát, hoàng đế và bạn hữu chàng đến chỗ của thầy tu. Vị thầy nầy cảm động vì sự dũng cảm của họ nên chấp nhận cho họ học nghề. Nhưng ông ra một điều kiện: họ phải hứa xử trí một cách đạo đức, không bao giờ giết sinh vật nào cả. Nếu tay họ chỉ một lần vấy máu thôi, thì tất cả phép thuật sẽ biến mất đi. Hoàng đế đồng ý.

Sau khi học những phép thuật, họ vui mừng, lên đường trở về cung điện. Nhưng đi một tháng sau, họ lạc trong một khu rừng dày đặc. Họ không nhận ra những đường xưa nữa, và thấy tất cả vật xung quanh họ đều lạ lùng. Lúc đó, hoàng hôn giăng bủa và đêm khuya bỗng nhiên ôm trùm cả phong cảnh rừng tối om. Những vòm lá ngàn cây che mịt mù cả trời đen thui, không cho thấy những ngôi sao nào để mà nhắm hướng. Xung quanh họ bắt đầu vang lên hàng trăm thứ tiếng của thú rừng.

Hoàng đế và các bạn hữu chàng bắt đầu sợ và bàn với nhau dùng phép thuật để biến thành một con thú vật rất mạnh bạo, to lớn, dữ tợn, có thể tự bảo vệ, và làm khiếp sợ những con thú khác. Vì thế, hoàng đế bắt đầu biến thành đầu một con vật, bờm tóc, như vương miện... Ông đại tướng làm theo ngay và biến thành thân người của con động vật ấy... bốn người tùy tùng kia thì biến thành bốn chân... còn lại ông thầy địa, do dự một lúc, rồi biến thành cái đuôi. Con vật ấy có dáng đi hùng dũng như một vị vua nên các con thú rất sợ và không tấn công nó.

Hoàng đế và mấy bạn bè ở như vậy suốt cả đêm dài. Nhưng lúc gần sáng, thì có một con nai non đi qua gần đó. Con sư tử rất đói vì cả ngày chưa ăn, bỗng chìa cánh tay ra, bắt con nai bằng vuốt nhọn, và hai tay giữ mạnh, cắn cổ nai và xé thịt ăn ngon lành...

Mõm của nó còn đỏ máu lúc mặt trời dần dần thức dậy. Nó muốn biến lại thành người để tiếp tục đi về cung điện. Nhưng đột nhiên nó nhớ lại là nó đã dùng phép thuật để giết một con thú vật rồi. Lúc đó nó mới biết là nó sẽ không bao giờ trở thành người lại được nữa, và luôn luôn phải sống làm kiếp con sư tử...

Con rùa vàng

Xưa kia có hai người bạn chơi với nhau rất thân, hiềm vì một người thì giàu, còn một người nghèo. Người bạn giàu có cái tên là Đại Phú, còn người nghèo tên là Chí Quân. Vợ chồng Đại Phú thấy bạn nghèo thì có ý muốn giúp đỡ vốn liếng để làm ăn. Chí Quân lòng dạ ngay thẳng ngại rằng lấy tiền của bạn đem về, rủi làm ăn thất bát thì lấy đâu mà trả cho bạn. Vì vậy nên từ chối việc giúp đỡ của bạn. Nhà Đại Phú chẳng thiếu gì của qúi, nhưng lại muốn có thêm của lạ nên hôm nọ lấy năm nén vàng đưa cho một người thợ bạc đặt làm con rùa vàng. Ngày kia, Chí Quân đến thăm bạn, Đại Phú liền đem con rùa vàng ra khoe. Chí Quân xem rồi để trong một cái đĩa, đoạn cùng bạn uống rượu đến say khướt nằm ngủ quên.

Lúc bấy giờ, con trai của Đại Phú đi học ở xa về, thấy con rùa vàng lấy đem đi chơi. Đến chừng Chí Quân ra về được một lát, Đại Phú mới sực nhớ tới con rùa vàng, hỏi vợ thì vợ nói không có lấy cất. Đại Phú lấy làm bối rối, chẳng lẽ nghi cho người bạn tốt của mình ăn cắp con rùa vàng? Ngày sau, Đại Phú đến nhà Chí Quân chơi, nhân tiếc con rùa vàng có hỏi mát bạn rằng:

- Này anh, hôm trước anh có lấy con rùa vàng của tôi đem về để cho chị coi không?

Nghe vậy Chí Quân nghĩ thầm rằng: "Có lẽ bạn ta nghi ta ăn cắp con rùa vàng chăng?" Nhưng chẳng lẽ bảo là không lấy thì chi cho khỏi phật lòng bạn mình, nên đành nhận là có lấy. Đại Phú mới bảo bạn:

- Thôi được, anh cứ giữ con rùa vàng mà chơi. Tôi xin biếu anh.

Đại Phú về rồi, vợ chồng Chí Quân lấy làm lo lắng, làm sao có con rùa vàng để trả cho bạn. Vợ chồng bàn nhau bán nhà bán cửa cho ông Phú và xin làm người hầu hạ để có đủ tiền làm con rùa vàng trả cho bạn. Ông Phú biết chuyện lấy làm động tâm, mới gọi người thợ bạc đến làm một con rùa vàng khác, trao cho vợ chồng Chí Quân đem về trả bạn và cũng không nhận vợ chồng Chí Quân làm người hầu hạ, mà chỉ cho ở nhờ.

Được ít lâu, người con trai của Đại Phú trở về nhà có đem theo con rùa vàng đã lấy độ trước, trả cho cha mẹ và nói:

- Hôm nọ, con về nhà thình lình thấy con rùa vàng để trong đĩa nên con lấy cất đây, nếu gặp phải kẻ gian thì mất luôn rồi. Vậy con xin trả lại.

Thấy vậy, vợ chồng Đại Phú vô cùng ngạc nhiên. Rùa vàng con mình lấy đem đi chơi, rùa vàng nào bạn đem trả? Mới nghĩ ra, có lẽ người bạn nghèo sợ mình phiền trách nên làm con rùa khác để thế. Bấy giờ Đại Phú mới đem con rùa vàng đến nhà Chí Quân để trả lại và xin lỗi bạn. Nhưng nhà đã bán rồi, vợ chồng bạn lại ở nhờ trong nhà ông Phú. Lập tức Đại Phú đến gặp ông Phú trao trả con rùa và xin đưa vợ chồng bạn về. Ông Phú từ chối như vầy:

- Anh có mượn rùa của tôi đâu mà trả? Còn vợ chồng Chí Quân tôi có bắt buộc gì đâu mà lãnh về?

Còn Chí Quân nhận mình mắc nợ ông Phú nên không chịu về. Câu chuyện trở thành rắc rối, cả ba mới đưa nhau đến cửa công để nhờ phân xử. Lẽ tự nhiên quan trên không biết xử làm sao đối với ba người ngay thật và tốt bụng.

Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn

Trong một khu rừng nọ, có một con cọp dữ và một con heo rừng hung hãn. Cọp và heo, con thì cậy có móng vuốt sắc, con thì cậy có bộ nanh dài, bắt nạt tất cả mọi loài. Các con vật đều không thể nào sống yên lành với hai con thú hung ác này đư¬ợc.

Mọi loài kéo nhau đến nhà thỏ, để bàn cách giết cọp và heo rừng. Chúng nghĩ mãi, vẫn chẳng tìm ra cách gì. Bỗng thỏ reo to:

- Tôi nghĩ ra rồi! Tôi nghĩ ra rồi!

Các con vật xúm lại. Thỏ ghé tai nói thầm với chúng. Cả bọn đều phục mư¬u trí của thỏ.

Sáng hôm sau, thỏ tìm gặp cọp trong một bụi rậm. Thỏ khẽ nói vào tai cọp:

- Bác cọp ơi! Thằng heo rừng cứ luôn nói xấu dọa dẫm bác mà bác không biết sao?

Cọp vừa nghe thấy vậy đã giận dữ gầm lên:

- Cái gì? Thằng heo rừng mà dám nói xấu và dọa dẫm ta? Nó nói gì vậy?

- Chu cha! Thỏ làm bộ bí mật - Thằng heo rừng nói bác cọp miệng to, răng to, mặt to mà nhút nhát, chỉ dám bắt nạt bầy dê và loài heo nhà thôi. Heo rừng còn bảo: nếu gặp bác, nó sẽ đâm thủng bụng bác.

Sau đó, thỏ lại chạy theo đư¬ờng tắt đến tìm gặp heo rừng. Heo rừng đang ngủ trong một cái hang sâu. Thỏ lay heo rừng dậy, giả bộ sợ hãi nói:

- Bác heo ơi! Trốn mau đi! Thằng cọp đang tìm bác để ăn thịt đấy! Nó bảo phải cắn cổ heo rừng, vì heo rừng chỉ chuyên phá mì, phá bắp.

Heo rừng hộc lên giận dữ. Thỏ nói thêm:

- Thằng cọp nói rằng phải cắn cổ bác, xem tim bác có to không.

Heo rừng vốn lì lợm và ngang ngạnh. Nó chẳng nói chẳng rằng, chạy ngay đi tìm cọp.

Hai con vật hung dữ gặp nhau. Chúng mắng nhiếc, xỉ vả nhau thậm tệ. Cọp nói rằng heo rừng là loài chết đói. Heo rừng rủa cọp là bị quỷ Briơng ăn thịt. Mỗi lúc chúng một hung hăng, như¬ng chúng vẫn sợ nhau. Chúng hẹn bảy ngày nữa sẽ gặp nhau để thử sức.

Trong bảy ngày ấy, cọp lăn mình mãi ở trên đồi cỏ tranh cho khỏe người. Cả đồi cỏ tranh bị cọp lăn trở thành xơ xác. Cọp định bụng phen này sẽ ăn thịt heo cho hả giận. Còn heo rừng cũng lăn mình trong bùn suốt bảy ngày, để bùn trát vào da hết lớp này đến lớp khác. Heo rừng định bụng làm gẫy răng cọp, đâm cọp lòi ruột ra để cọp hết thói ba hoa.

Đến ngày thứ bảy, cọp và heo rừng gặp nhau ở một trảng lớn ven suối. Chúng chẳng nói với nhau một lời, cứ lẳng lặng xông vào cắn xé nhau. Thỏ ngồi trên một thân cây thông, hò hét ầm ĩ, kích cho hai con vật đánh nhau chí tử.

Cọp và heo rừng đánh nhau cho đến khi trời tối mịt, lại suốt cả ngày hôm sau. Cọp nhiều lần ngoạm vào mình heo, bị gẫy cả răng. Khắp mình heo rừng cũng đầy vết thư¬ơng. Cả hai con vật, máu chảy đầm đìa, cùng gầm lên giận dữ và đau đớn. Mọi thú rừng đều im tiếng theo dõi hai tên chúa rừng đánh nhau. Riêng thỏ vẫn ngồi trên thân cây thông hò hét cổ vũ làm cho hai con vật càng điên tiết lao vào nhau mạnh hơn.

Đến ngày thứ ba, heo rừng bị què một chân, còn cọp bị mù một mắt. Chúng lảo đảo lao vào nhau lần cuối cùng. Cả hai con vật ngã nhào xuống suối. Chúng chìm nghỉm, không đủ sức bơi vào bờ nữa.

Giữa lúc mọi loài vật kéo nhau ra suối xem xác hai con vật hung ác, thỏ bỗng thấy đuôi nó bị nhựa thông dính chặt vào thân cây thông. Thỏ cố sức đứng dậy, vùng ra, mà không đư-ợc. Nó đành ngồi nghĩ, nghĩ mãi, và rồi nghĩ ra một kế. Thỏ chờ đúng lúc bác voi ở trong rừng đi ra, liền hét lên thật to.

- Dừng lại! đây là suối nư¬ớc của ta. Ai ra suối cũng phải xin phép!

Bác voi sững lại ngạc nhiên: một chú thỏ nhãi ranh mà dám bắt nạt một bác voi to lớn! Voi tiếp tục đi. Thỏ lại quát:

- Dừng lại! Đây là suối n¬ước của ta. Ai ra suối cũng phải xin phép. Không xin phép, ta sẽ ăn thịt.

Bác voi bực mình, bèn dừng lại, túm lấy tai thỏ, nhấc nó lên và quẳng sang một bên. Thỏ đau điếng nh¬ưng mừng vì thoát nạn, cắm cổ chạy vào rừng.

Thỏ bị bác voi túm tai nên tai dài ra. Còn đuôi thỏ trở nên ngắn cũn vì một mẩu đuôi bị đứt, dính ở thân cây thông ngày ấy!

Sự tích chú Cuội cung trăng

Nhìn lên mặt trăng, ng¬ười ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có ngư¬ời ngồi dư¬ới gốc, ngư¬ời ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....

Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao.

Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.

Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:

- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!

Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.

Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.

Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.

Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.

Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.

Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.

Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.

Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.

Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.

Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....

Sự tích con tằm

Ngày xưa, có một người con gái tên là Tơ cha mẹ đều mất sớm, phải đem thân đi ở hầu hạ một bà góa giàu có. Tánh tình của bà chủ nhà ác nghiệt quá đỗi khiến một hôm thị Tơ phải bỏ trốn đi, chạy vào một khu rừng, nghĩ bụng thà chết vào miệng thú dữ còn hơn là ở mãi trong cảnh khốn khổ bị hành hạ hàng ngày. Thị Tơ đi được một quãng khá xa, phần bấy lâu nay ăn uống thiếu thốn đuối sức, phần vất vả băng rừng lội suối, nên ngã ngất nằm trên một tảng đá.

Thần núi ở đấy thấu rõ tình cảnh đáng thương của cô gái hiền lành thơ ngây mới theo dõi che chở.

Khi thị Tơ bừng mắt tỉnh dậy tưởng chừng mình như vừa qua một giấc chiêm bao. Cảnh vật chung quanh khác hẳn lúc nàng ngất đi. Nàng thấy mình nằm ở trong một cái động, rêu trải mềm dịu như nhung, dưới chân một giòng suối đang chảy qua kẽ đá êm đềm như tiếng nhạc. Trước mắt nàng, vừa tầm tay với, vô số những trái cây ngon chín thắm lủng lẳng ở dây leo buông xuống như rèm che cửa động. Đang đói khát sẵn, nàng đưa tay lên hái ăn ngấu nghiến ngon lành.

Sau bữa ăn thanh đạm ấy, trong người nàng cảm thấy khỏe nhẹ khác thường. Thần núi hiện hình một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc bước đến gần nàng. Trông thấy cụ già phúc hậu, thị Tơ vái chào kính cẩn. Ông lão làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi nàng ở đâu đến đây, làm sao lạc lõng một mình giữa rừng núi hoang vắng. Thị Tơ chân thành kể lại đầu đuôi mọi nỗi về kiếp sống đầy đọa của mình. Ông lão lắc đầu tội nghiệp cho nàng rồi khuyên nhủ:

- Cháu trốn như vậy là phải. Cháu cứ ở lại đây, có lẽ được yên thân hơn, có lão trông chừng cho.

- Thưa cụ, cụ là ân nhân của cháu, xin cụ cho cháu được biết cụ ở đâu.

- Cả khu rừng núi này là nhà của lão. Lão sống bằng nghề đốn củi, nên nay đây mai đó luôn. Cháu đừng lo ngại, thỉnh thoảng có lão lại thăm. Nếu có việc gì cần đến lão, cháu cứ tới mỏm đá này gọi "Ông tiều ơi" là có lão đến ngay.

Sáng hôm sau, ông lão trở lại cho thị Tơ một bọc quần áo mới để thay bộ đồ cũ rách nát. Từ đó, thị Tơ sống một cuộc đời thanh thản, tự do, không phải lo đến ngày mai, không buồn rầu nghĩ đến ngày qua. Dần dần chim chóc, các thú trong rừng đến làm quen với nàng, ngày ngày mang lại cho những trái cây ngon ngọt, quý lạ để dùng làm thức ăn. Sống như thế, nhan sắc thị Tơ ngày một rạng rỡ như đóa hoa rừng đang độ tốt tươi.

Vào thuở bấy giờ, ở Thượng giới có một vị thần đam mê khoái lạc, sau khi biến cõi thiên đình thành một chốn trác táng rồi chán những lạc thú trên trời, thần tìm xuống trần gian. Nhờ phép tắc siêu phàm, vị thần biến hóa ra đủ mọi hình dạng để cám dỗ đàn bà con gái nhan sắc. Từ giới thượng lưu cho đến bình dân, thần hiện ra khắp nơi, khi là vị quan trẻ đẹp, tài hoa lỗi lạc, khi là một thanh niên tuấn tú, phong nhã, đa tình, để lôi cuốn bao nhiêu người đẹp vào trong vòng sắc dục. Không một người đàn bà, con gái nào bị để ý đến mà tránh khỏi sức thu hút của thần để khỏi rơi vào vòng đam mê.

Thần đã chán chê khoái lạc trong giới thượng lưu xa hoa, một hôm đi tìm lạc thú ở nơi thôn dã, qua khu rừng vắng, không một bóng người, tình cờ gặp cô gái rừng xanh đang nô đùa với bầy chim cùng muông thú. Sau phút sững sờ trước sắc đẹp của thị Tơ, lòng dục bùng cháy lên, thần mon men rẽ lá tiến lại định vồ lấy người đẹp. Một tiếng chim kêu thất thanh, cả cô gái cùng muông thú vội vàng bỏ chạy trước người lạ, thần ra sức đuổi theo. Thị Tơ quen sống giữa thiên nhiên đã trở nên nhanh nhẹn khác thường, chạy đi như gió, thần bèn giở phép phóng theo. Trong lúc thần sắp chụp được thì con nai lớn đến quỳ xuống cho thị Tơ leo lên lưng mà thoát khỏi tay dâm thần.

Nai đưa tới động, thị Tơ sợ hãi không dám bước ra ngoài nữa. Nàng trèo lên mỏm đá, gọi "Ông tiều ơi" ba lần thì thấy ông lão hiện ra. Ông lão căn dặn nàng cẩn thận và trao cho nàng một chiếc vòng ngọc, đeo vào tay có thể muốn tàng hình lúc nào cũng được. Nhờ thế mà nàng tránh khỏi sự săn đón của vị thần muốn chiếm đoạt nàng.

Thấy công đeo đuổi của mình không có kết quả, thua trí một sơn nữ, thần nổi giận thề quyết bắt nàng cho kỳ được. Nhờ phép siêu phàm, thần giăng một sợi lưới rộng lớn với những sợ chỉ thật nhỏ và thật chắc bao vây cả khu rừng. Cô gái không dè nên bị mắc vào lưới, may nhờ một con bạch tượng dùng ngà đâm thủng, cứu thoát nàng một lần nữa. Nàng gọi đến ông tiều. Ông lão lão hiện ra khuyên nàng lần sau có bị vướng lưới thì kêu đến tên Phật Bà Quan Âm.

Vì sợ mắc bẫy nên đã lâu thị Tơ không dám ra khỏi động. Nhưng rồi lòng ham muốn tự do chạy nhảy lại thúc giục nàng đi. Lần này nàng hướng về phía khác để tránh sự theo dõi của vị thần si tình. Song nhờ phép thần thông, vị thần biết được giờ nàng đi và nơi nàng đến, nên giăng lưới trước bắt được. Nhớ lời ông lão dặn, nàng kêu đến tên Phật Bà Quan Âm, thì nhiệm màu thay, tất cả các sợi chỉ lưới đều rút gọn lại thu tròn bằng một hạt đậu lạc. Trong lúc nàng mở miệng gọi đến lần thứ hai thì trái chỉ theo hơi nàng thở hút vào trong bụng.

Thấy phép tắc thần thông bị một cô gái thu mất, lòng tự ái của thiên thần bị kẻ phàm trần trêu ngươi quá đỗi, vị thần nổi trận lôi đình nghĩ cách trả thù. Lập tức thần nhắn gọi ngay Thiên Lôi ở dưới quyền mình trước kia đến. Thần Sét rủ các bạn, thần Gió, thần Mưa, thần Sấm, thần Chớp, cùng đến ra mắt. Vị thần mê gái liền nhờ Thiên Lôi giúp mình đánh cho tan tành quần áo cô gái đang nô đùa với bầy thú giữa rừng kia, song đừng làm hại đến người nàng. Thần Sét vâng lời, rồi chỉ trong nháy mắt, giữa lúc cô gái đang vuốt ve mấy con nai con bên giòng suối, thì mây đen kéo đến kín trời, gió nổi lên dữ dội, sấm dậy ầm ầm, chớp nhoáng chằng chịt, mưa tuôn xối xả. Thị Tơ bỏ chạy về động, bỗng một tiếng sét nổ vang trời, rung chuyển cả núi rừng nhắm bổ xuống người nàng. Thị Tơ không hề hấn gì, song lớp quần áo che đậy người nàng đã tan biến đâu mất. Vị thần đứng trên một mỏm đá cao chứng kiến cảnh tượng ấy, phá lên cười đắc thắng, rồi sôi nổi chạy về phía người đẹp.

Nhưng thần lại phải thất vọng một lần nữa, vì chiếc vòng ngọc đeo ở tay đã giúp cho thị Tơ thành ra vô hình.

Đêm xuống, thị Tơ khó nhọc lần mò về đến trong động. Nàng thẹn thùng với tất cả chung quanh, tưởng chừng như vật gì cũng có mắt đang tò mò nhìn mình. Trần truồng, nàng không dám gọi đến ông lão hay lũ thú rừng quen biết đến cứu giúp. Nàng lui vào cuối động, rét run lẩy bẩy. Tấm lưới thần đã nuốt vào bụng làm cho nàng khó chịu, nôn ra, thành một đống chỉ mềm dịu, bền chắc. Lạnh quá, nàng lấy quấn vào người làm một thứ mền đắp ấm áp. Thế rồi nàng dần dần tắt thở trong cái ổ chỉ êm dịu ấy. Trước khi linh hồn rời khỏi thể xác, nàng thành khẩn nghĩ đến những kẻ nghèo nàn, khốn khổ, thiếu quần áo che thân, phải chết lạnh lẽo như nàng, tự nguyện sẽ giúp cho họ may mặc, đem những sợi chỉ này dệt thành quần áo. Vì thế mà nàng chết đi hóa thành con tằm.

Để thực hiện lời nguyện ước, hồn nàng mang theo đống chỉ tơ đến giăng ở ngọn cây dâu trong vườn Thượng uyển, nơi hoàng hậu cùng vua thường ngự tới mỗi chiều. Khi hoàng hậu ngang qua, hồn nàng mới nhả ra các sợi tơ vàng óng ánh tung bay cho gió mơn man. Hoàng hậu ngạc nhiên hứng lấy, thấy chỉ tơ đẹp, ánh vàng, mềm dịu, bứt thử mới hay là sợi tơ trông mong manh mà dẻo chắc lạ thường. Dâng lên vua xem, hoàng hậu ước mong được mặc một chiếc áo dệt bằng những sợi tơ vàng đẹp ấy.

Nỗi mong ước của hoàng hậu được nhà vua sai thực hiện. Tất cả những sợi tơ vàng trong vườn ngự uyển đều được thu góp lại, bao nhiêu thợ dệt tài giỏi trong nước được triệu vào cung, rồi chẳng mấy chốc, một tấm lụa vàng cực kỳ mềm dịu, bền chắc, rạng rỡ dâng lên trước mắt vua. Hoàng hậu vui mừng sai cắt ngay cho mình một chiếc áo dài, để hôm sau ra triều ngự cạnh vua. Cả triều sửng sốt trước vẻ đẹp của chiếc áo hàng mới làm tăng thêm bội phần nhan sắc của người mặc. Vua mới cho triều thần hay là chính hoàng hậu đã khám phá ra thứ chỉ tơ quý lạ đó, và cho phép các quan cùng nhà giàu có trong nước được bắt chước hoàng hậu may mặc thứ hàng mới kia.

Từ đó nghề trồng dâu, nuôi tằm bắt đầu nẩy nở, đáp lại nguyện vọng thiết tha của cô gái quê mùa thị Tơ.

Cái Cân Thuỷ Ngân

Xưa có một nhà làm nghề buôn bán, âm mưu chế ra một cái cân rỗng, trong đổ thuỷ ngân, hai đầu bịt đồng mà không ai biết. Khi cân hàng bán cho người ta thì dốc cái cân vào đầu móc. Khi cân hàng mua của ai thì lại dốc cái cân vào đằng quả. Như vậy một cái cân vừa nặng, vừa nhẹ thì phần được bao giờ cũng về mình. Vì buôn bán điên đảo như thế, nên không bao lâu nhà ấy trở nên giàu có. Trời cho lại sinh ra được hai đứa con giai, mặt mũi khôi ngô, học hành thông thạo. Thiên hạ ai nấy đều khen nhà có đại phúc.

Một hôm hai vợ chồng ngồi bàn với nhau rằng:

- Nhà ta bây giờ giàu có hơn người nhiều, lại sinh được hai đứa con khôn ngoan, "một mặt người bằng mười mặt của", thôi thì bây giờ ta đem cái cân điên đảo kia chẻ đi, để dành cái đức lại cho con về sau.

Bàn xong, hai vợ chồng thuận tình sửa cái lễ sám hối, trên thì cúng Phật, dưới thì cúng các ông bà ông vải. Rồi đem cái cân ra chẻ. Nhưng khi chẻ, thật ghê thay, lại thấy trong cái cân có đọng một cục máu đỏ hon hỏn.

Từ đó hai vợ chồng bảo nhau ăn ở tu nhân tích đức, tránh điều dữ, làm điều lành. Nhưng cách đó vài năm, bỗng một hôm, một đứa con lăn ra chết. Và chẳng bao lâu, đứa kia cũng lăn ra chết nốt. Hai vợ chồng kêu gào khóc lóc rất thảm thiết, nghĩ rằng mình đã có bụng cải ác vì thiện mà trời không chứng quả. Hai vợ chồng rầu rĩ, khổ sở cứ ngồi than dài thở vắn trong mấy tháng trời, không buồn động đến việc gì nữa.

Một đêm, hai vợ chồng cùng nhau nằm mơ thấy có một ông bụt đến bảo rằng:

- Hai vợ chồng mày hãy nên lo toan làm ăn tu tỉnh lại. Chớ vội trách trời không có mắt! Trời thương chúng mày lắm đấy! Trước trời thấy chúng mày buôn bán lọc lừa, trời đã sai hai con quỷ xuống đầu thai làm con để phá tan hết những của phi nghĩa chúng mày chắt bóp nhặt nhạnh bao nhiêu năm nay. May mà chúng mày sớm biết hối hận cải tà quy chính, tránh dữ làm lành. Trời mới sai bắt hai con quỷ ấy về. Đừng thương tiếc chúng nó làm chi nữa. Chúng mày cứ ăn ở ngay lành rồi trời lại đền cho hai đứa con khác để ngày sau mà nhờ.

Hai vợ chồng biết thế, không thương khóc con nữa, lại làm ăn như cũ, và lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm cố gắng làm bao điều từ thiện tích đức.

Quả nhiên, sau sinh được hai đứa con giai khác. Hai đứa cũng hiền lành, tử tế, văn hay chữ tốt, và sau lớn lên làm cho cha mẹ được vẻ vang, vui sướng cái cảnh về già.

con chó biết nói

Ngày xưa, có một ông già giàu nhất làng. Tiền bạc của ông kiếm được phần nhiều là do những món nợ ăn lời quá vốn, hoặc những âm mưu cướp giật ruộng đất, nhà cửa của dân lành. Càng có nhiều tiền lão càng cay nghiệt. Không bao giờ lão chịu bố thí, cứu giúp cho chòm xóm. Lúc nào lão cũng lăm lăm kiếm nhiều tiền hơn nữa để trở thành phú hộ ăn trên ngồi trước thiên hạ

Lão có nuôi một con chó mực, lão thương con chó còn hơn con ruột. Lão cho con chó ăn ngon như lão, cho ngủ trên giường và chăm sóc kỹ lưỡng. Lão thường ao ước:

- Giá như con mực này biết nói tiếng người thì ta sẽ trở thành một người nổi tiếng nhất làng. Ta sẽ làm tiền thiên hạ mỗi khi ai muốn nghe nó nóị Và nhờ vậy mà ta sẽ có nhiều tiền, ta sẽ ăn trên ngồi trước ngườị

Một anh đầy tới biết ý muốn của lão chủ, nghĩ kế làm tiền chủ cho bỏ ghét. Anh lựa lúc chủ vui mà nói rằng:

- Thưa ông chủ, tôi biết một vị tu sĩ trong núi có phép dạy chó nói tiếng người. Nếu ông cho tôi dắt chú mực đi học, chắc chắn trong ba tháng sẽ nói được như tôi.

Lão già khoái quá hỏi giá bao nhiêu. Anh đầy tới tính phỏng lối năm nén bạc. Lão liền đưa cho anh năm nén bạc và một nén làm lộ phí.

Anh đầy tới dắt chó ra đi. Anh không đi vào núi mà lại đưa chó về nhà cha mẹ mình ở cách đó khá xa. Anh giao chó cho cha mẹ nuôi và trăm năm nén bạc, nhờ cha mẹ mua ruộng cho anh. Ở chơi vài ngày rồi anh trở lại nhà chủ, thưa rằng:

- Ông tu sĩ nhận tiền và hứa sẽ dạy chú mực biết nói trong hai tháng. Ông ta đòi thêm ba nén bạc nữa về lớp dạy gấp rút nàỵ

Lão già bằng lòng lắm, hy vọng sẽ có con vật đặc biệt nhất làng. Lão đi khoe khắp nơi và hăm rằng kẻ nào khinh khi lão sẽ bị chó chửi thay lão.

Thời gian trôi qua, đến ngày hẹn, lão trao ba nén bạc nữa cho anh đầy tới và cho thêm hai nén đi đường. Anh chàng khôn ranh ôm bạc về nhà nhờ cha mẹ cất, chờ anh về cưới vợ. Anh gọi con chó lại vuốt đầu tỉ vẻ cám ơn nó. Vài hôm sau anh trở lại nhà chủ một mình.

Lão già ngạc nhiên thấy không có con chó, lật đật hỏi:

- Chó mực đâu? Chó mực đâu? Sao mày lại về một mình?

Anh làm bộ âu sầu kể lại rằng:

- Thưa ông chủ, tôi không ngờ chú mực lại vô ơn bội nghĩa đến thế. Ông tu sĩ đã dạy nó nói được tiếng người đàng hoàng như tôi, vừa thấy tôi là chú kêu tên tôi ngaỵ Tôi hỏi thăm sức khỏe của chú để thử tài ông thầy, thì chú trả lời ron rót y như tôi nói chuyện với ông chủ vậỵ Chú nói rằng: "Tôi về nhà rồi chủ tôi sẽ biết. Tôi sẽ kể hết tội ông chủ làm lâu nay, như cho vay lấy lời cắt cổ, gạt người ta lấy của, kiện cáo đoạt nhà, cướp ruộng thiên hạ, lo lót quan trên, hãm hại dân lành. Tôi sẽ tố cáo ông chủ trước mặt quan phủ để ngài bắt lão chủ bỏ tù, tịch thu tài sản mới được...".

Thưa ông chủ chú còn nói nữa, nhưng tôi không dám thuật hết cho ông chủ nghe, tóm lại chú biết hết các chuyện ám muội của ông chủ và nhất định cho ông chủ vào tù. Tức quá tôi lấy búa chém đứt đầu nó rồi.

Lão già toát mồ hôi hột. Lão đâm lo vì tội ác rành rành như thế, nếu con chó nói hết thì lão không tránh khỏi tai họạ Lão cảm ơn anh đầy tớ đã giúp lão giết con vật "chó chết" và cứu lão thoát nạn. Lão cho anh ba nén bạc gọi là thưởng công anh.

Từ đó lão bớt dần tính ác độc và bủn xỉn, lão sợ những con vật rồi đây sẽ biết nói và sẽ không bỏ qua những việc làm có tội của lão.

Còn anh đầy tớ, anh xin nghỉ làm ở nhà chủ, anh về nhà với cha mẹ lo làm ruộng, rồi anh cưới vợ, cất nhà riêng. Anh nuôi con chó mực như các con chó khác, và nó cũng chỉ "biết nói" gâu gâu mà thôi

Sự tích hạt lúa

Ngày xưa, có một người đàn bà nghèo. Chồng chết sớm, bà ở vậy nuôi đứa con trai duy nhất. Điều đáng buồn là cậu con trai càng được cưng chiều, càng đâm ra hư hỏng, bất hiếu, và không nghe lời mẹ. Bởi vì nhà nghèo, không đủ miếng ăn, người đàn bà cực nhọc trồng bắp, nuôi gà.

Có trái bắp nào lớn đủ, bà luộc rồi đưa cả cho con ăn, phần mình ăn chỗ còn thừa lại. Khi nào làm con gà nào, bà để cho con ăn no nê, xong rồi bà kín đáo bòn mót đống xương vụn. Nhưng cậu con trai không thấy điều đó, cậu không thương yêu mẹ, lại còn hỗn xược, ham chơi nữa.

Một ngày kia, người đàn bà lâm bịnh nặng. Biết mình sắp chết, bà lo lắng, kêu đứa con trai lại, khuyên nhủ rằng:

- Ngày mẹ chết, con sẽ thấy ở chỗ mẹ nằm có một loại hạt nhỏ Con hãy bỏ vào trong chậu đất, đổ nước vào, rồi quảy về hoàng cung sẽ đổi được rất nhiều vàng bạc.

Ngày mẹ chết, cậu con trai tìm được trên gối nằm một loại hạt nhỏ bằng đầu ngón tay. Lòng tham lam, cậu liền làm theo lời mẹ dặn, bỏ hạt vào một chiếc chậu nhỏ, rưới nước vào, rồi bỏ lên lưng quảy về phía hoàng cung.

Đường về hoàng cung rất xa, phải mất cả sáu, bảy tháng đi đường. Cậu con trai mệt mỏi, tiền hết, lương thực cạn dần. Cậu bắt đầu phải xin từng bữa ăn, và khó khăn lắm mới xin được chỗ trú ngủ qua đêm. Cậu dần dần nhận ra được công lao của mẹ đã cực nhọc nuôi nấng mình trong bấy lâu. Cậu hối hận vì đã đối xử tệ bạc với mẹ.

Về tới hoàng cung, lúc cậu bỏ cái chậu trên lưng xuống, ngạc nhiên vì thấy tự lúc nào, trên lưng cậu có một nhánh cỏ trĩu những hạt nhỏ, mầu vàng xinh xắn, mùi thơm thoang thoảng, nấu ra ăn thật bùi. Cậu con trai nhớ thương mẹ, bèn thôi không đem hạt vào cung vua nữa, trái lại cậu mang giống hạt ấy về trồng, rồi phân phát cho mọi người cùng trồng nữa... Các em biết không, ấy là hạt lúa, chính là hạt gạo mà mỗi ngày chúng ta ăn đó.

Các em có nghĩ ra tại sao người mẹ biến thành hạt lúa, và tại sao bà nói câu con trai quẩy hạt lúa về hoàng cung không? Hãy hết lòng yêu kính mẹ của mình, các em nhé. Vì không có ai yêu thương các em bằng cha mẹ của các em đâu.

Cây Đào

Ngày xưa, ở phiá đông núi Sóc Sơn, Bắc Việt, có một cây đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào xum xuê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng.

Quỹ dữ hay ma quái nào bén mãng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phớt của 2 vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sự luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành đào là bỏ chớy xa bay.

Ðến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Luỹ phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái.

Ðể ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành đào về cắm trong lọ,nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ.

Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành đào về cắm trong nhà trừ ma quỷ, Lâu dần, người Việt quên mất ý nghĩa thần bí của tục lệ này, không còn tin mấy ở ma quỷ thần linh như tổ tiên ngày xưa. Ngày nay, hoa đào hoa mai tươi thắm khắp nhà nhà vào dịp Tết, và sắc giấy đỏ hồng điều với câu đối hoà hợp được trang trí mấy ngày Xuân trong không khí vui vẻ, trong sáng.

Sự tích con cào cào

Cào cào xưa kia là một cô gái đẹp. Tính cô thích ăn diện nhưng vì nhà nghèo nên cô chưa được thỏa ý muốn.

Một hôm, nhà vua bị lạc mất cô công chúa bèn sai quân lính đi tìm. Lúc đó, cô gái đẹp đang kiếm củi dưới gốc cây sấu lớn bên đường. Tốp lính thứ nhất đi qua, hỏi rằng:

- Cô có thấy công chúa qua đây không?

Cô gái nhìn thấy toán người này có nhiều quần áo đẹp, cái nào cũng bay trong gió như tấm lụa màu hồng. Cô thích quá liền bảo:

- Cho tôi một chiếc, tôi đang rét lắm! Rồi tôi sẽ chỉ đường cho.

Tốp lính cho cô một chiếc áo rồi đi theo hướng cô đã chỉ.

Một lúc sau, có tốp lính khác chạy qua, mặc toàn áo xanh màu lá. Trông thấy cô gái, họ dừng lại hỏi:

- Cô ơi có thấy công chúa chạy qua đây không?

Cô gái nghĩ: "Tốp trước đã cho ta áo hồng, tốp này có áo xanh.Ta xin một cái mặc cho đẹp". Nghĩ vậy, cô bảo họ:

- Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi sẽ chỉ cho.

Tốp lính bảo nhau cho cô gái cái áo rồi họ tiếp tục đi theo đường cô chỉ.

Ðược hai cái áo, cô thích quá, thầm chắc rằng về nhà ai cũng phải khen.

Khi cô chuẩn bị về, toán lính nữa mặc toàn áo màu trắng như nước suối. Họ thấy cô gái và cũng lại hỏi về công chúa. Quen như hai lần trước, cô đòi một cái áo rồi mới chỉ đường. Thế là cô có ba cái áo: một hồng, một trắng, một xanh. Cái nào cũng đẹp.

Cô khoác cả ba cái vào, ngắm nghía, nhảy nhót tung tăng. Bỗng trên trời có tiếng sét nổ dữ dội, làm một cành sấu rơi xuống đầu cô gái. Cô bị bẹp đầu rồi chết, hóa thành con cào cào, suốt ngày tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu.

sự tích khỉ đỏ đít

Bị phỏng cháy trụi cả lông ở sau đít, đôi khỉ hoảng sợ bỏ chạy tuốt vào rừng ở luôn không dám quay trở lại nữa. Cũng vì thế mà từ đó giống khỉ sinh ra là đỏ đít.

Ngày xưa, có một người giàu nứt đố đổ vách mà tính tình lại rất bủn xỉn, hà tiện và hết sức khe khắt đối với kẻ nghèo khổ. Vợ người phú hộ cũng giống như chồng, chỉ biết bo bo chắt bóp giữ tiền, cả đời không hề bỏ một đồng giúp ai. Hai vợ chồng không có con cái, chỉ nuôi một đứa tớ gái xấu xí giúp việc. Trái với chủ nhà, người ở rất tốt bụng, thấy các người đến cửa xin ăn bị xua đuổi tàn nhẫn, lấy làm thương hại, thường đem lời ngọt ngào an ủi.

Một hôm, vào lúc xế chiều, vợ chồng kẻ trọc phú đang ngồi ăn, có một bà lão ăn mày quần áo rách tả tơi, gầy yếu chỉ còn da bọc lấy xương, lọm khọm đến cửa kêu van đã nhịn đói mấy hôm và xin một ít cơm ăn. Hai vợ chồng phú hộ không thèm ngó đến, sai con ở đuổi đi. Người tớ gái miễn cưỡng vâng lời rồi theo bà lão ăn mày ra ngoài dặn nhỏ bảo bà ta đợi ở gốc cây bên đường, đợi chủ ăn xong nó sẽ lén đưa cơm ra cho. Bà lão ngồi chờ, một lát thấy đứa tớ gái rón rén mang đến cho một gói lá chuối bọc cơm và cá.

Cho xong con ở vội vàng toan chạy đi thì bà lão ăn mày níu lại cảm ơn và bảo nó hôm nào chủ sai nó đi vào rừng lấy củi, hãy đến tắm ở suối cách đó hai dặm, tức khắc người sẽ đẹp ra.

Vài hôm sau, củi hết, bà phú hộ sai con ở vào rừng kiếm về. Đứa tớ gái nhớ lại lời bà lão, tìm đến con suối đã dặn, xuống tắm một lúc, rồi lên lượm củi vác về nhà.

Từ hôm đó, nó thấy khác trong người, mỗi ngày mỗi biến đổi, trở nên xinh đẹp lạ thường. Vợ chồng người phú hộ nhận thấy đứa ở xấu xí tự nhiên bỗng có nhan sắc tuyệt vời, bèn nảy ra ý định nhận nó làm con nuôi, hy vọng sẽ có rể làm quan lớn. Như vậy là vừa giàu có lại thêm danh vọng mà không phải mất tiền mua. Bàn tính lợi hại rồi vợ chồng mới ngỏ lời với đứa tớ gái nhận nó làm con nuôi. Mồ côi cha mẹ từ lâu, bà con họ hàng cũng không có ai, đứa ở nhận lời. Vợ chồng người phú hộ mời làng đến làm giấy tờ đàng hoàng, chắc mẩm sẽ đòi được nhiều của thách cưới cô gái nuôi xinh đẹp.

Sau đó ít lâu, một hôm bà phú hộ hỏi con gái nuôi nhờ đâu mà được thành ra nhan sắc đẹp đẽ như vậy. Cô gái nuôi tình thật kể lại những lời chỉ bảo của bà lão ăn mày độ nọ. Nghe nói thế, vợ lão phú hộ dò chỗ suối tiên, rồi ngay hôm sau, cùng chồng tìm đến nơi để tắm, hy vọng sẽ hóa nên trẻ đẹp.

Theo lời con gái nuôi, vợ chồng tìm ra giòng suối, vội vàng cởi hết quần áo nhảy ùm xuống nước hụp lặn nhiều lượt. Đang lúc ngâm mình nước bỗng nóng sôi lên, vợ chồng nhảy lên bờ, thấy da thịt ngứa ngáy, cho là suối tiên biến hóa bắt đầu hiệu nghiệm. Song lần này suối tiên biến hóa trái ngược hẳn, hai vợ chồng phú hộ ngứa gãi khắp mình, và gãi đến đâu thì thấy mọc lông đến đấy, chẳng mấy chốc đầy người, cả hai hóa thành khỉ. Họ cuống cuồng lên, quên cả quần áo, cứ thế mà chạy thẳng về nhà, muốn nói thốt không ra lời được nữa, chỉ ú ớ thành những tiếng kêu thét.

Người con gái nuôi trông thấy hai con vật lông lá dữ tợn muốn xông vào nhà, sợ hãi kêu ầm ĩ cả lên. Bà lão ăn mày độ nọ lại hiện ra bảo cô gái rằng:

"Con chớ sợ, hai con vật này là hai vợ chồng lão phú hộ hà tiện và ác nghiệt bị Trời phạt hóa kiếp đó".

Rồi Phật Quan Âm đã hiện ra làm bà lão khuyên cô gái lấy hai hòn đá nung đỏ đặt ở trước cửa để ngăn trừ đôi khỉ đến quấy phá. Cô gái vừa thương tâm vừa lo sợ làm theo lời Phật dạy, rồi đóng cửa lại ở trong nhà. Hai vợ chồng khỉ trở lại khẹc khẹc đòi của, gào rú, lồng lộn một hồi mệt mỏi rồi ngồi phịch xuống hai hòn đá nung lửa. Bị phỏng cháy trụi cả lông ở sau đít, đôi khỉ hoảng sợ bỏ chạy tuốt vào rừng ở luôn không dám quay trở lại nữa. Cũng vì thế mà từ đó giống khỉ sinh ra là đỏ đít.

tại sao bầu trời mầu xanh

Tại sao bầu trời màu xanh?

Ánh sáng phát ra từ mặt trời bao gồm nhiều màu sắc, mỗi màu lại có một sóng ánh sáng khác nhau.

Bầu khí quyển tác động tới mỗi màu ánh sáng xuyên qua khi sóng của nó chạm vào phân tử, các giọt nước nhỏ và những mẩu bụi.

Ánh sáng màu xanh dương có sóng ngắn nên các phân tử trong không khí phán tán đi nó đi xung quanh, làm cho bầu trời có màu xanh dương. Ánh sáng đỏ có sóng ánh sáng dài hơn, vì thế hoạt động mạnh hơn và không bị phân tán đi nhiều như thế.

Bầu trời lúc hoàng hôn có màu đỏ là bởi vào buổi tối, ánh sáng đi xuyên qua bầu khí quyển dày hơn để tới mắt người và chỉ có ánh sáng đỏ mới lọt qua được.

Tết Trung thu - nguồn gốc và ý nghĩa

Tết Trung Thu theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích.

Nguồn gốc

Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ.

Ở Trung Hoa, Tết Trung Thu đã có từ thời Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng), đầu thế kỷ thứ 8. Theo truyền thuyết, sau khi dẹp xong An Lộc Sơn, Đường Minh Hoàng nhớ thương Dương Quý Phi không nguôi. Đêm rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, một vị tiên xuất hiện tình nguyện đưa vua đi gặp Quý Phi. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chấm mặt đất, nhà vua trèo lên cầu vồng đi lên cung Quảng, nhìn thấy Quý Phi xưa trong đoàn vũ. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu thưởng trăng nên còn gọi là "Tết Ngắm Trăng".

Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được diễn tả trong tục: "Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Đầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp".

Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời LêTrịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa mà "Tang thương ngẫu lục" đã miêu tả. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách "Thái Bình hoàn vũ ký" thì: "Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau". Như vậy, mùa thu là mùa của thành hôn.

Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc "muôn vật thảnh thơi" (bia chùa Đọi 1121), người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.

Ý nghĩa

Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để cha mẹ tùy theo khả năng kinh tế gia đình thể hiện tình thương yêu con cái một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khắng khít thêm.

Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác.

Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".

Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.

SỰ TÍCH ĐÈN KÉO QUÂN

Ngày xưa, gần đến dịp tết Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: "Ta là Thái Thượng Lãn Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua".

Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: "Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện cá tính của con người".

Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau. Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu.

Từ đó, mối khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo quân.

Vì sao nước biển mặn?

Ngày xưa ở bờ biển nọ, có một ông lão đánh cá rất nghèo. Ngày ngày, ông ra biển đánh cá rồi đem cá ra chợ đổi lấy bánh mì và muối để sống qua ngày. Một hôm, như thường lệ, ông lão cũng mang lưới ra biển đánh cá. Khi kéo lưới lên, ông chỉ thấy một con cá nhỏ, vảy và đuôi vàng óng. Con cá van nài:

_ Ông lão ơi, ông đừng giết tôi, ông muốn gì, tôi xin giúp.

Nghe nói, ông lão thở dài:

_ Lão nghèo lắm, cả đời đến muối cũng chẳng có mà ăn. Ta chỉ mong trong nhà lúc nào cũng có muối mà thôi.

_ Thế thì tôi sẽ cho ông một cái cối xay muối. Khi cần ông chỉ việc nói: "Cối ơi, hãy xay muối đi!". Lúc nào ông muốn nó dừng lại thì nói: "Cối ơi. thôi đủ rồi".

Nói rồi con cá biến mất. Trước mặt ông lão hiện ra một chiếc cối nhỏ. Ông trở về với chiếc cối xay trong tay. Ông mang ra xem và thử nói:

_ Cối ơi, hãy xay muối đi.

Tức thì, từ chiếc cối, những hạt muối trắng tinh óng ánh chảy ra. Ông lão sung sướng hứng muối cho mình. Khi thấy đủ, ông nói:

_ Cối ơi, thôi đủ rồi!

Sau đó ông đem muối chia cho dân làng, nhà ai cần ông cũng mang cho. Từ đó dân làng rất mừng vì có đủ muối ăn.

Dần dần tiếng đồn về chiếc cối đến tai một lão nhà giàu ở làng bên. Hắn rắp tâm ăn trộm chiếc cối của ông lão nghèo. Một hôm khi hàng xóm đã ngủ say, ông lão cũng nằm ngủ dưới bếp, bên cạnh chiếc cối đang làm việc, nó xay muối để sáng mai ông kịp phân phát cho dân làng. Tên nhà giàu chèo thuyền sang nhà ông, hắn lẻn vào đánh cắp chiếc cối rồi nhanh chóng trở ra thuyền

Đặt chiếc cối vào khoang, hắn vội vàng chèo thuyền ra biển. Chiếc cối thì vẫn đang xay muối. Muối trong thuyến đầy dần. Ra đến giữa biển, chiếc thuyền nặng nề, chòng chành. Tên nhà giàu ra sức chèo. Lúc đó trời bổng nhiên nổi gió, rồi gió bão mỗi lúc một to. Lúc này, lão nhà giàu thấy cần phải bắt chiếc cối dừng lại, nhưng hắn không biết làm thế nào trong khi muối thì đã đầy. Gió bão dữ dội, mấy lần chiếc thuyền suýt bị lật. Hoảng quá cuối cùng tên nhà giàu phải kêu cứu. Nhưng khi dân làng chạy ra đến bờ biển thì cũng là lúc mọi người trông thấy một cơn sóng lớn chồm lên nhận chìm cả tên nhà giàu lẫn chiếc thuyền chở đầy muối.

Cho đến ngày nay chiếc cối vẫn còn đang ở dưới đáy biển và vẫn tiếp tục xay ra những hạt muối làm cho nuớc biển trở nên mặn

Sự tích Hòn Vọng Phu

Ngày xưa có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con, đứa con trai mười một tuổi, đứa sau là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng, thường hay để hai anh em ở nhà chơi với nhau.

Một hôm trước khi đi làm, người mẹ trao cho thằng anh một cây mía bảo:

- Con ở nhà chặt mía cho em ăn, đừng để em khóc, kẻo cha về đánh chết nghe không?

Thằng anh vâng lời mẹ, cầm cây mía cất đi, đợi khi nào em khóc thì đem mía ra dỗ.

Mẹ đi rồi, người anh dẫn em ra sân, cùng em chồng đá bẻ cây làm nhà cửa chơi với bè bạn quanh xóm.

Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía, tìm mãi cũng không thấy con dao nào khác con dao cùn mà mẹ vất ở xó bếp.

Người em đợi mãi không thấy mía đâu thì bật khóc. Người anh nhớ lời mẹ vội vàng chạy lại dỗ em, rồi quýnh quáng lấy dao để chặt mía cho em, không ngờ con dao vừa giơ lên thì sút cán, lưỡi văng vào đầu em.

Cô bé thét lên một tiếng rồi ngã xuống bất tỉnh nhân sự, máu chảy lênh láng cả một vạt đất.

Thấy thế thằng anh rất sợ, nghĩ thầm:

- Tội ta to lắm, thế nào cha về cha cũng đánh chết!

Thế rồi thằng anh bỏ em nằm sóng sượt ở giữa nhà mà trốn đi.

Cậu bé đi mãi đi mãi, trên bước đường lưu lạc nó làm cho nhà người này ít lâu, lại bỏ đi làm cho người khác.

Trong hơn mười lăm năm, nó không biết mình đã đi qua những xứ nào, và làm cho bao nhiêu nhà.

Cho đến lần cuối cùng, chàng ta cảm thấy mình cần phải dừng chân và thèm muốn một mái ấm gia đình.

Thế là chàng chí thú làm ăn và được một người đánh cá ở Bình Định nhận làm con nuôi.

Từ đó chàng làm nghề chài lưới phụ giúp cha mẹ nuôi của mình, ngày qua tháng lại, chàng ra khơi cùng cha nuôi. Những ngày biển động thì ở nhà phụ vá lưới với người mẹ.

Cuộc sống êm đềm trôi đi, chàng quên cả cha mẹ ruột của mình, không một lần có ý nghĩ trở lại quê xưa.

Trời sinh ra con người, và khi lớn lên thì trai có vợ, con gái có chồng. Chàng cũng không thoát khỏi qui luật đó. Do vậy mà ít lâu sau, chàng kết duyên cùng với một người gái trong làng chài ấy.

Vợ chàng cũng thạo nghề đan lưới. Và mỗi khi thuyền của chồng về bãi, nàng lại nhận lấy phần cá của chồng đem ra chợ bán.

Sau hai năm, vợ chồng chàng có được mụn con, hai vợ chồng chàng cảm thấy sung sướng vô hạn, đứa con luôn theo mẹ ra bãi để đón cha mình. Gia đình ba người ấy luôn đầy ắp tiếng cười vui vẻ.

Một hôm, biển động, người chồng nghỉ đi biển, ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, người vợ xõa tóc nhờ chồng bắt chấy, đứa con chơi trước bãi cát đầu hiên nhà.

Chồng âu yếm vạch tóc vợ, chợt thấy vợ có một cái sẹo bằng đồng tiền phía trên tai bên phải, chàng lấy làm ngạc nhiên vì bấy lâu nay mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho ai thấy, ngay cả chàng cũng thế.

Người chồng thấy lạ quá, liền quay xuống hỏi vợ:

- Mình có thể cho tôi biết vì sao lại có cái sẹo bên tai này không?

Người vợ vui vẻ kể liền:

- Được chứ! Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng tí tuổi đầu không biết gì đâu. Anh ruột tôi chặt mía, chẳng may mũi dao vuột khỏi cán bay vào đầu tôi, mũi dao thật oan nghiệt làm anh em phải chia lìa...

Người chồng hỏi dồn:

- Vì sao lại chia lìa anh em?

Người vợ xót xa kể tiếp:

- Anh tôi sợ quá khi thấy máu và tưởng tôi chết rồi nên vội vàng bỏ nhà trốn biệt tích. Từ ấy đến nay không có tin tức gì của anh ấy nữa.

Người chồng tái mặt hỏi tiếp:

- Thế còn mình lúc ấy ra làm sao? Ai biết mà cứu?

Người vợ ngã đầu vào lòng chồng kể tiếp:

- Lúc tôi ngất đi được hàng xóm sang cứu chữa, nhưng mãi đến khi cha mẹ tôi về thì mới chạy đi tìm thầy thuốc. May làm sao tôi vẫn còn sống để nhìn lại cha mẹ của mình, nhưng tôi lại mất người anh ruột, vì anh ấy sợ quá bỏ trốn. Cha mẹ tôi có ý đi tìm, nhưng tuyệt không có tin gì. Rồi cha mẹ tôi thương con quá sinh bệnh và qua đời.

Nghe vợ kể xong, người chồng thẫn thờ đau buồn vì biết mình lấy nhầm phải người em ruột.

Lòng chàng càng bị vò xé hơn khi hay tin cha mẹ qua đời, nhưng người chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó lại, không hề hé ra cho vợ biết.

Qua mấy ngày sau, trời yên biển lặng, nhưng trong lòng người chồng thì dậy sóng. Biết không thể nào chuộc lỗi được nữa rồi, chàng giã từ vợ con, chở lưới ra biển đánh cá và quyết ra đi không bao giờ trở lại nữa.

Người vợ trông chồng mòn mỏi mà vẫn không thấy chồng về, chẳng biết nguyên nhân là do đâu...

Lòng cứ thắc mắc là tại sao khi đánh cá xong, giữa lúc đêm tối, ai nấy đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại dong buồm ra đi biền biệt, mà chồng mình lại là người chồng chí thú làm ăn và rất thương mến vợ con. Thật là khó hiểu?!

Mỗi chiều nàng thường bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển, mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt để tìm bóng dáng thân yêu của chồng.

Ba tuần trăng trôi qua, rồi sáu, rồi chín tuần trăng qua nữa... Tuy nước mắt bấy giờ đã khô kiệt, nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo lên núi trông chồng, song vẫn không hề thấy chút tăm hơi.

Cái hình bóng ấy thành ra quen thuộc đối với dân làng trong vùng, cứ nhìn lên là thấy hình bóng người mẹ bế con nhìn về phương xa. Về sau cả hai mẹ con đều hóa đá, vĩnh viễn nằm lại ở đó.

Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đỉnh núi ở bên cửa biển Đề Gi, thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Người ta gọi là đá trông chồng, hay là Hòn Vọng Phu.

Sự tích con muỗi

Ngày xưa, có một người nông dân hiền lành tên là Ngọc Tâm, có một người vợ xinh đẹp tên là Nhan Diệp. Khác hẳn với tính tình đơn giản của chồng, quanh năm chăm chú làm ăn, người vợ lười biếng xa hoa, chỉ lo thỏa thê sung sướng

Trong lúc hai vợ chồng tưởng chung sống với nhau đến răng long đầu bạc, thì Nhan Diệp bỗng lăn ra chết. Người chồng đau đớn quá, không muốn rời xa xác vợ, bèn bán hết tài sản, mua một chiếc thuyền chở quan tài vợ thả bồng bềnh trên mặt nước.

Một buổi sớm mai thuyền đi đến dưới chân một ngọn núi cỏ cây ngào ngạt, Ngọc Tâm lên bờ thấy đủ các kỳ hoa dị thảo, cây cối nặng trĩu trái thì lấy làm lạ bèn phăng lần lên cao. Lưng chừng núi, Ngọc Tâm gặp một ông lão tướng mạo phương phi, râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc đang lần bước. Thấy người có vẻ tiên phong đạo cốt, đoán chừng là thần tiên ở núi Thiên Thai xuất hiện, Ngọc Tâm bèn sụp lạy, rồi thiết tha xin cứu tử hoàn sinh cho người vợ thương yêu.

Vị thần thương hại nhìn Ngọc Tâm hồi lâu rồi nói:

- Ngươi còn nặng lòng vương vấn trần ai, chưa thoát được vòng tục lụy... Ta có thể giúp cho ngươi đạt ước vọng song về sau ngươi đừng có lấy làm ân hận!

Ngọc Tâm theo lời vị thần, dở nắp quan tài vợ ra, chích đầu ngón tay mình nhỏ ba giọt máu vào thi thể Nhan Diệp, thì người đàn bà từ từ mở mắt ra, rồi ngồi lên như sau một giấc ngủ dài.

Trước khi từ giã, vị thần bảo người đàn bà vừa sống lại:

- Đừng quên bổn phận của người vợ... Hãy luôn luôn nghĩ đến lòng thương yêu chung thủy của chồng... Chúc cho hai vợ chồng được sung sướng.

Trên đường về quê, người chồng hối hả giục thuyền đi mau. Một tối thuyền ghé bến, Ngọc Tâm lên bờ mua sắm thức ăn. Trong lúc đó, có một chiếc thuyền buôn lớn đậu sát bên cạnh, chủ nhân là tay lái buôn giàu có chú ý đến nhan sắc lộng lẫy của Nhan Diệp. Hắn gợi chuyện, mời Nhan Diệp qua thuyền mình dùng trà rồi ra lệnh cho bạn thuyền dong hết buồm chạy.

Ngọc Tâm quay về thấy mất vợ, bỏ cả ăn ngủ, ngày đêm đi tìm kiếm, một tháng sau mới gặp. Nhưng người đàn bà đã quen với lối sống xa hoa bên cạnh tay lái buôn giàu có, quên cả tình cũ nghĩa xưa. Thấy rõ bộ mặt thật của vợ, Ngọc Tâm như tỉnh cơn mê, bảo Nhan Diệp:

- Mình được tự do bỏ tôi song tôi không muốn mình còn lưu giữ kỷ niệm gì của tôi nữa, vậy hãy trả lại ba giọt máu của tôi đã nhỏ ra để cứu mình sống lại.

Nhan Diệp thấy được ra đi dứt khoát dễ dàng như thế, vội vàng lấy dao chích đầu ngón tay, nhưng máu vừa bắt đầu nhỏ giọt thì nàng ngã lăn ra chết.

Người đàn bà nông nổi, phụ bạc chết vẫn còn luyến tiếc cõi đời nên hóa kiếp thành một vật nhỏ, ngày đêm đuổi theo Ngọc Tâm, tìm cách ăn cắp ba giọt máu để trở lại làm người. Con vật này luôn luôn kêu than với chồng cũ, như van lơn, như oán hận, như tiếc thương, ngày đêm o o không ngừng. Về sau giống này sinh sôi nẩy nở rất nhiều, người ta đặt tên nó là con muỗi. Vì ghét kẻ phụ bạc, nên mỗi lần muỗi lại gần, người ta không tiếc tay đập cho nó chết.

cậu bé Tích Chu

Chuyện kể về cậu bé Tích Chu mồ côi cha mẹ ở với bà, được bà chăm sóc, thương yêu nhưng cậu đã không đối đáp đươc tấm lòng của bà nên bà đã bị hóa thành chim. Cậu rất ân hận và cậu đã trải qua nhiều ngày đêm lặn lội trên đường, vượt qua rất nhiều nguy hiểm, cuối cùng Tích Chu đã lấy được nước suối mang về cho bà uống. Được uống nước suối Tiên, bà Tích Chu trở lại thành người và về ở với Tích Chu.

Ngày xưa, có một bạn tên là Tích Chu. Bố mẹ Tích Chu mất sớm, Tích Chu ở với bà. Hàng ngày bà phải làm việc quần quật kiếm tiền nuôi Tích Chu, có thức gì ngon bà cũng dành cho Tích Chu. Ban đêm, khi Tích Chu ngủ thì bà thức quạt. Thấy bà thương Tích Chu, có người bảo:

- Bà ơi! Lòng bà thương Tích Chu cao hơn trời, rộng hơn biển. Lớn lên, Tích Chu sẽ không khi nào quên ơn bà.

Thế nhưng lớn lên, Tích Chu lại chẳng thương bà. Bà thì suốt ngày làm việc vất vả, còn Tích Chu suốt ngày rong chơi. Vì làm việc vất vả, ăn uống lại kham khổ nên bà bị ốm. Bà lên cơn sốt nhưng chẳng ai trông nom. Tích Chu mải rong chơi với bạn bè, chẳng nghĩ gì đến bà đang ốm. Một buổi trưa, trời nóng nực, cơn sốt lên cao, bà khát nước quá liền gọi:

- Tích Chu ơi, cho bà ngụm nước. Bà khát khô cổ rồi!

Bà gọi một lần, hai lần...rồi ba lần nhưng vẫn không thấy Tích Chu đáp lại. Mãi sau Tích Chu thấy đói mới chạy về nhà kiếm cái ăn. Tích Chu ngạc nhiên hết sức thấy bà biến thành chim và vỗ cánh bay lên trời. Tích Chu hoảng quá kêu lên:

- Bà ơi! Bà đi đâu? Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!

- Cúc cu ... cu! Cúc ... cu cu! chậm mất rồi cháu ạ, bà khát quá không thể chịu nổi phải hóa thành chim để bay đi kiếm nước. Bà đi đây, bà không về nữa đâu!

Nói rồi chim vỗ cánh bay đi. Tích Chu hoảng quá chạy theo bà, cứ nhằm theo hướng chim bay mà chạy. Cuối cùng Tích Chu gặp chim đang uống nước ở một dòng suối mát. Tích Chu gọi:

- Bà ơi! Bà trở về với cháu đi. Cháu sẽ đi lấy nước cho bà, cháu sẽ giúp đỡ bà, cháu sẽ không làm bà buồn nữa!

- Cúc ...cu...cu, muộn quá rồi cháu ơi! Bà không trở lại được nữa đâu!

Nghe chim nói, Tích Chu òa khóc, Tích Chu thương bà và hối hận. Giữa lúc đó, có một bà tiên hiện ra, bà bảo Tích Chu:

- Nếu cháu muốn bà trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối Tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối Tiên xa lắm, cháu có đi được không?

- Nghe bà Tiên nói, Tích Chu mừng rỡ vô cùng, vội vàng hỏi đường đến suối Tiên, rồi chẳng một phút chần chừ, Tích Chu hăng hái đi ngay.

Trải qua nhiều ngày đêm lặn lội trên đường, vượt qua rất nhiều nguy hiểm, cuối cùng Tích Chu đã lấy được nước suối mang về cho bà uống. Được uống nước suối Tiên, bà Tích Chu trở lại thành người và về ở với Tích Chu.

Từ đấy, Tích Chu hết lòng yêu thương chăm sóc bà.

Quạ uống nước

Có một mùa hè nóng nực, trời nóng như thiêu như đốt, mãi mà không có giọt mưa nào. Đất đai bị hạn hán khô cằn, nứt nẻ, sông suối cạn khô. Muôn loài nháo nhác vì thiếu nước.

Không có nước uống, mẹ con nhà Quạ sắp lả đi vì khát. Quạ mẹ đã dẫn các con đi khắp nơi, nhưng không tìm đâu ra nước. Cuối cùng Quạ mẹ cũng tìm được một cái bình. Nhưng cái bình rất sâu, Quạ chẳng có cách nào uống được tí nước còn lại dưới đáy bình.

Quạ mẹ nghĩ mãi rồi bảo các con đi lấy sỏi thả vào bình. Nhờ vậy mà nước dâng lên đến miệng bình, Quạ mẹ và Quạ con có nước uống, qua được cơn khát.

Chú chim lạc mẹ

Vào một buổi sáng chủ nhật, trời đang nắng bỗng nhiên tối sầm lại. Gió thổi phần phật, cây cối nghiêng ngả, bụi cuốn mù mịt. Mẹ bảo với Tùng là trời đang có giông

Bỗng từ phía cửa sổ có một chú chim sẻ non bay vào nhà. Mẹ nâng chú chim sẻ trên tay, người chú run lên, ánh mắt non nớt như cầu khẩn sự che chở. Chắc là chú chim đang hoảng sợ lắm.

Tùng thích quá, chạy tới nói với mẹ:

- A! Mẹ bắt được chim sẻ rồi! Mẹ cho con chú chim này nhé!

Mẹ nhẹ nhàng bảo:

- Chắc là chú chim non này bị gió hắt ra khỏi tổ nên mới bay vào nhà mình để trú nhờ. Khi nào tạnh mưa, mẹ con mình sẽ thả chú chim ra để chú tìm về với bố mẹ nhé!

Nghe mẹ nói vậy, Tùng ngồi bệt xuống đất, giãy chân và khóc toáng lên:

- Ứ đâu! Chim sẻ của con để con chơi cơ. Hu Hu....!

Thế là mẹ đành chiều Tùng và nhốt chú chim sẻ non vào lồng. Tùng thích lắm, cứ đứng bên chiếc lồng và ngắm nghía, âu yếm gọi chim. Nhưng lạ quá, sao chú chim cứ nhảy nhót loạn xạ trong lồng, miệng kêu "chíp chíp" ầm ĩ. Tùng cho gì chim cũng không ăn.

Buổi ch ều hôm ấy, trời hửng nắng. Tùng được bố mẹ cho đi công viên chơi. Công viên đẹp thật, chỗ nào Tùng cũng muốn xem. Lúc đầu, Tùng còn nắm tay bố mẹ. Sau đó, cậu cứ chạy hết chỗ nọ đến chỗ kia để xem và quên luôn bố mẹ. Đến khi chợt nhớ ra, thì Tùng chẳng thấy bố mẹ đâu nữa. Tùng sợ quá, khóc ầm cả lên. May sao ngay sau đó, bố mẹ đã tìm thấy Tùng. Trên đường về, Tùng cứ nắm chặt tay mẹ, chỉ sợ lại bị lạc lần nữa.

Về đến nhà, Tùng ngạc nhiên khi thấy một đôi chim cứ kêu rối rít trên cây ổi trước nhà, còn chú chim non thì cứ lao vào các khe lồng như muốn bay ra.

Bố Tùng bảo:

- Chắc là chim bố và chim mẹ đến tìm chim con đấy!

Tùng chợt nghĩ:" Ôi! Lạc bố mẹ thì buồn và sợ biết bao!".

Nghĩ thế, Tùng liền mở cửa lồng. Chú chim non lao ngay ra với chim bố và chim mẹ. Cả gia đình chim gặp nhau vui mừng và kêu ríu rít như cảm ơn rồi chuyền cành bay đi.

Tùng cảm thấy rất vui vì đã làm được một việc tốt. Tùng ngước lên và thấy bố mẹ đang nhìn Tùng mỉm cười âu yếm.

Đom đóm và giọt sương

Tối hôm đó không có trăng nhưng bầu trời đầy sao sáng. Đom Đóm bay từ bụi tre ngà ra ruộng lúa. Cây đèn của Đom Đóm cứ chớp lên trong đêm, trông đẹp như ngôi Sao Hôm đang nhấp nháy.

Đom Đóm sà xuống chân ruộng bắt mấy con Rầy Nâu hại lúa để ăn lót dạ. Sau đó, cậu ta bay lên một gò cao, đậu lên một bông cỏ may, vừa hóng gió thu về đêm, vừa làm cho cây đèn của mình sáng thêm. Bỗng Đom Đóm nhìn sang bên cạnh và thấy cô bạn Giọt Sương đang đung đưa trên lá cỏ. Đom Đóm thầm nghĩ: "Ôi! Bạn Giọt Sương thật là xinh đẹp!". Rồi Đom Đóm cất cánh bay quanh Giọt Sương. Lạ thật! Càng đến gần, Đom Đóm lại càng thấy Giọt Sương đẹp hơn. Đom Đóm cất tiếng:

- Chào bạn Giọt Sương, trông bạn lung linh, tỏa sáng như một viên ngọc vậy!

Giọt Sương dịu dàng nói:

- Bạn Đom Đóm ơi! Mình sáng đẹp thế này là vì mình phản chiếu ánh sáng từ các ngôi sao trên bầu trời, có khi còn mờ hơn ánh sáng cây đèn của bạn. Mình nghĩ bạn mới là người đẹp nhất, sáng nhất, vì bạn sáng lên được từ chính bản thân mình. Bạn thật đáng tự hào!

Đom Đóm nói:

- Bạn Giọt Sương khiêm tốn quá! Nhưng mình xin cảm ơn bạn về những lời tốt đẹp bạn dành cho mình. Thôi, chào bạn! Mình đi bắt bọn Rầy Nâu hại lúa đây!

Đom Đóm bay đi, Giọt Sương còn nói với theo, giọng đầy khích lệ:

- Xin chúc bạn làm tròn nhiệm vụ của mình để đồng ruộng thêm tươi tốt nhé!

Ai biết ăn dè (Lớp lá)

________________________________________

Một hôm, các con vật nhỏ trong rừng tổ chức cuộc thi vui. Thi ăn. Không phải ăn nhanh, ăn nhiều mà là....ăn dè. Thỏ, Nhím và Sóc đã dự thi. Ban giám khảo phát cho mỗi con muời hạt đậu. Ai ăn được lâu nhất sẽ đoạt giải thưởng.

Thỏ ăn mỗi ngày một hạt, được 10 ngày.

Nhím ăn mỗi ngày nửa hạt, được 20 ngày.

Sóc tuy nhỏ thế mà chỉ trong bốn ngỳa đã chén sạch. Phải đứng hạng bét là cái chắc.

Ban giám khảo đợi Nhím ăn xong nửa hạt đậu cuối cùng mới vui vẻ mời bác

- khướu có giọng hót vang xa thông báo:

- Vô địch ăn dè là ...Nh...í...m!

Tất cả đều hoan hô Nhím

Đúng lúc ấy, Sóc bước ra nói:

-Thưa ban giám khảo, cháu còn ai hạt đâu nữa chưa ăn.

BÁc Khướu hỏi:

-Hai hạt đâu ấy đâu?

Sóc thưa:

- Xin Ban gíam khảo đi cùng cháu.

Nói rồi, Sóc dần cả bầy đàn đông đảo tới vạt đất nhỏ, ngoài bìa rừng và đứng lại. Bác Khướu thấy Sóc không đưa hai hạt đậu ra, mới giục:

- Hai hạt đậu của cháu đâu?

Sóc liền trỏ vào hai cây đâu nhỏ Đã có lá, có ngọn, đáp:

- Thưa bác, đây ạ! Cháu đã trồng đúng 20 hôm.

Tất cả bấy giờ mới à lên, trầm trồ:

- Giỏi quá! Sóc mới là nhất!

Với hai cây đậu ấy, Sóc sẽ có hàng trăm hạt đâu nữa...

Ai đáng khen nhiều hơn?

________________________________________

Ở một nhà kia có hai anh em thỏ xám sống cùng mẹ. Bố đi làm việc xa, nên cậu nào cũng tỏ ra là đứa con biết thương mẹ nhất và đáng khen nhiều nhất. Thỏ anh biết mình lớn hơn nên lúc nào cũng nhường nhịn em. Song Thỏ em thì ngược lại, Thỏ em cứ thích mình ngoan hơn anh, được mẹ khen mình nhiều hơn anh. Biết được chuyện đó, một hôm thỏ mẹ bảo hai anh em:

- Buổi nay các con được nghỉ học. Thỏ anh lên rừng hái cho mẹ mười chiếc nấm hương, Thỏ em ra đồng bứt cho mẹ mười bông hoa đồng tiền thật đẹp. Đường hơi xa, các con đi cẩn thận, đừng có rong chơi, la cà ở đâu.

Hai anh em vâng lời, hăng hái đi ngay, Thỏ em hăm hở chạy một mạch ra đồng cỏ. Cậu ta mải miết đến nỗi không nhìn ngắm gì, không để ý đến việc gì ở xung quanh. Tới nơi, Thỏ em chưa vội hái ngay những bông hoa vừa trông thấy. Cậu ta đi vòng một lượt, chọn khóm đẹp nhất, bông rực rỡ nhất mới bứt mang về. Ra khỏi đồng cỏ, Thỏ em chạy một hơi cào vào nhà ríu rít:

- Mẹ ơi! Con mang được hoa đẹp về rồi đây này!

Thỏ mẹ đón lấy bó hoa, xuýt xoa:

- Hoa đẹp quá! Con mẹ ngoan quá!

Thỏ em hớn hở:

- Con không la cà một tí nào ở dọc đường đâu mẹ ạ!

Thỏ mẹ nhìn con âu yếm:

- Thể trên đường đi, con có gặp ai, có thấy gì không?

Thỏ con nhanh nhảu:

- Có, mẹ ạ. Con thấy Sóc, em bé con nhà Sóc Vàng, đứng khóc bên gốc ổi, nó hư mẹ nhỉ?

- Con có hỏi vì sao Sóc khóc không?

- Không mẹ ạ. Con sợ ở nhà mẹ mong.

- Còn đến lúc trở về.

- Con gặp Nhím. Nhím cứ đòi xin một bông hoa của con.

- Con có cho không?

- Không mẹ ạ. Con hái đúng mười bông để mang về cho mek.

Thỏ mẹ nghe xong không hỏi gì thêm.

Hai mẹ con chờ rất lâu mới thấy Thỏ anh về. Chiếc giỏ đeo bên sườn Thỏ anh đầy những nấm hương và mộc nhĩ. Thỏ anh vừa chào mẹ, vừa bốc từ trong túi áo ra từng nắm hạt dẻ đưa cho Thỏ em.

- Em thích ăn hạt dẻ, anh mang về cho em đây.

Thỏ mẹ hỏi Thỏ anh:

- Sao con hái nhiều thể?

Thỏ anh tươi cười:

- Cũng một công đi, con hái nhiều để dành lần sau có cần đến, mẹ đỡ phải vào rừng.

Thỏ mẹ lại hỏi:

- Sao con đi lâu vậy?

Thỏ anh thưa:

- Thưa mẹ, trên đường về con còn phải đợi cô Gà Hoa Mơ.

- Cô Gà Hoa Mơ làm sao?

- Dạ, cô Gà Hoa Mơ dẫn đàn con đi ăn bị lạc mất một đứa. Cô tìm nháo nhác cả lên. Con phải dừng lại để giúp cô tìm cậu Gà nhiếp bị lạc. Tìm thấy rồi, con lại vừa đi vừa đợi cô dắt lũ trẻ cùng về, kẻo lại bị lạc lần nữa. Vì vậy, con đã về chậm mẹ ạ!

Nghe Thỏ anh nói xong, Thỏ mẹ mỉm cười gật đầu, gọi cả hai anh em đến và nói:

- Các con của mẹ, các con rất đáng khen vì đã biết vâng lời mẹ. Nhưng Thỏ anh đáng khen hơn. Thỏ em luôn nghĩ đến mẹ là đúng. Song Thỏ anh ngoài mẹ ra còn biết nghĩ đến người khác, còn biết hái nấm, mộc nhĩ, và mang quà cho em, giúp Gà mẹ lúc khó khăn. Thỏ em ạ, con hãy làm những việc tốt không phải để được khen mà trước hết vì niềm vui được làm những việc giúp ích cho người khác.

Thỏ em hiểu ra, bẽn lẽn nói:

- Thưa mẹ, vâng ạ!

Ai quan trọng hơn

________________________________________

Khi tiếng gà gáy vừa vang lên, cũng là lúc mọi người thức dậy. Bác nông dân dắt trâu ra ruộng. Mọi người tất bật đi làm trong niềm vui háo hức của ngày mới.

Thế nhưng sáng hôm nay, mọi vật cứ im lìm, hình như mọi người vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Đã 8 giờ rồi, chợt bác Tư tỉnh giấc nhìn lên đồng hồ, hốt hoảng. Cả nhà ơi, trưa lắm rồi, muộn mất rồi dậy thôi! Mọi người trong nhà hốt hoảng vừa vệ sinh vừa lo công việc cho ngày mới. Chị Lan vội vã đeo ba lô và lên tiếng: Sao hôm nay trời kì quá, trời cứ tối om, mà cũng không nghe tiếng gà gáy, báo hại con đi học trễ rồi. Cả nhà cũng đồng tình. Ừ, hôm nay ngộ nhỉ, sao chú gà trống không gáy, ông mặt trời cũng trốn luôn. Bác Tư chạy sang nhà các bác hàng xóm đánh thức mọi người và rủ nhau đi tìm chú gà trống.

Khi gặp gà trống, bác Tư hỏi:

- Gà trống ơi! Sao sáng nay chú không gáy vậy? Báo hại chúng tôi trễ nải công việc hết rồi.

Gà trống liền trả lời:

- Các bác cứ đi tìm mặt trời mà hỏi. Anh ấy bảo: "Tôi chẳng có ích gì, chỉ có anh ấy mới giúp mọi người thức dậy đi làm".

Mọi người hiểu ra liền rủ nhau đi đến nhà mặt trời. Gọi mãi cũng không nghe mặt trời trả lời, nhìn qua khe cửa mọi người ngạc nhiên, giờ này mà mặt trời còn ngủ. Mọi người cố gọi to đánh thức mặt trời dậy, mặt trời tỉnh dậy:

- Ủa trời sáng chưa? Để tôi đi báo thức mọi người. Muộn mất rồi, mọi người đã dậy rồi nhưng đã trễ nải công việc hết.

Mặt trời ăn năn lắm:

- Đúng là lỗi của tôi, tại tôi chê gà trống nên bây giờ tôi cũng dậy muộn chẳng làm việc gì được rồi. Các bác đừng giận tôi nhé. Tôi sẽ đến nhà gà trống xin lỗi.

Từ đó về sau, cứ nghe tiếng gà gáy, mặt trời liền chiếu sáng để mọi người dậy đúng giờ đi làm.

Ai quan trọng nhất?

________________________________________

Bé Lan sắp đi học rồi. Mẹ mua cho bé một cái bút chì thật đẹp và bộ 29 chữ cái. Hằng ngày, bé hay mang cái chữ cái ra xếp thành chữ "ba", "mẹ" và tập đánh vần.

Đêm hôm đó, đợi bé Lan ngủ say, các chữ cái rủ nhau nhảy ra khỏi cái ba lô xinh xinh của bé.

Chữ cái "m" nói:

- Tớ là chữ cái quan trọng nhất! Ngày nào bé Lan cũng mang tớ ra xếp và ngắm tớ mãi.

- Chữ cái "e" cũng lên tiếng:

Thôi đi, anh phải đứng gần tôi, lại phải thêm anh "dấu nặng" mới thành chữ mẹ.

Thế thì bé Lan mới ngắm, bé yêu mẹ nhất mà.

Chữ cái "b" ưỡn cái bụng ra và nói:

- Nếu không có tớ, không thể nào ghép thành chữ "ba" được, tớ mới là quan trọng nhất.

Chữ cái "a" cũng kêu lên:

- Phải có tôi mới thành chữ "ba" chứ!

- Ừ đúng rồi đấy!- Cả 4 chữ cái gật gù khen. Chúng vênh váo nhìn các chữ cái còn lại và nói:

Các bạn chữ cái kia thật là vô dụng, chẳng bao giờ được bé Lan đụng đến.

Các chữ cái còn lại buồn rầu nép vào tận đáy ba lô. Đúng là chẳng bao giờ chúng

được bé Lan sờ đến thật. Đúng lúc ấy , bác Bút Chì đứng lên và nói:

- Này các cháu, lại đây chơi với bác!

Các chữ cái chạy đến vây quanh bác Bút Chì. Bác Bút Chì từ tốn nói:

- Các cháu ạ, chữ cái nào cũng quan trọng vì nó có tất cả các chữ cái mới ghép thành các từ có nghĩa. Chữ "b, a, m, e" được bé Lan ghép nhiều vì bé mới học các chữ đó. Khi nào học xong mẫu giáo, bé Lan biết đủ 29 chữ cái, lúc đó bé sẽ sử dụng tất cả các chữ cái. Và lúc đó, bé Lan cũng có thể dùng bác, viết đủ 29 chữ cái các cháu. Bốn chữ cái a, b, e, m rất xấu hổ. Chúng cảm ơn bác Bút Chì, xin lỗi các bạn.

Sáng hôm sau, bé Lan lại tung tăng khoác chiếc ba lô có 29 chữ cái và bác Bút Chì đến trường mẫu giáo.

Ba Ba tìm nhà

________________________________________

Trời mùa thu mát rượi, nắng sớm lung linh chiếu trên mặt đất. Một chú Ba Ba vừa mới đạp vỡ vỏ trứng chui ra được có mấy ngày, đang ngơ ngác đi tìm nhà của mình. Chú nhìn thấy một vật tròn tròn dính trên thân cây to bị đổ nằm ngang, chú liền bò đến hỏi:

- Đây có phải là nhà của cháu không ạ?

Nghe tiếng động, một đàn ong bay vù ra. Ba Ba sợ quá nghĩ bụng: "Có lẽ nhà của mình ở dưới lòng đất?"

Chú bò đi, tìm thấy một cái hang ở góc tường. Ba Ba đang định rúc vào hang, thì mấy chú chuột con chui ra, chít chít chào Ba Ba rồi nói ngọt ngào:

- Đây là nhà của chúng tớ.

Ba Ba lại nghĩ: "Hay là nhà của mình ở trên núi nhỉ?" Chú bò chậm chạp lên một cái hốc núi vừa lúc gấu con trong hốc đi ra. À, hốc núi là nhà của gấu. Ba Ba nghĩ mãi: "Có khi nhà mình ở dưới sông cũng nên?"

Chú bò đến bên bờ con sông nhỏ. Vừa mới xuống nước bơi được quãng ngắn, Ba Ba thấy ngạt đến không thở được. Chú vội lên ngồi nghỉ ở một phiến đá ven bờ. Bỗng, một cô Ốc Sên nhỏ từ trong hẻm đá bò ra. Ba Ba liền hỏi thăm:

- Cô bé Ốc Sên xinh đẹp ơi! Có biết nhà của anh đâu không?

Cô Ốc Sên có đôi má đỏ bồ quân tươi cười, nhìn Ba Ba từ đầu đến chân rồi trả lời:

- Ái chà, sao mà anh ngốc thế! Anh cứ nhìn kỹ em đi, rồi là lại ngắm cái lưng của mình sẽ biết.

Ba Ba ngoảnh cổ nhìn cái mai của mình y như viên ngói lợp trên lưng, mà lại giống màu vỏ ốc sên. Thế là Ba Ba đã tìm được nhà của mình.

Ba con gấu (lớp mầm)

________________________________________

Đang hái hoa, cô bé Tóc Vàng vội đứng dậy: "Ôi! Trời lại mưa rồi, phải tìm chỗ trú thôi".

Cô chạy vào một ngôi nhà nhỏ và nhìn thấy ba cái bàn và ba cái bát, một cái nhỏ, một cái vừa và một cái to. Cô ngồi xuống và ăn thức ăn để trong ba cái bát và tự nhủ: "Ngon tuyệt!". Cô nhìn xung quanh và nhìn thấy ba cái giường, một cái nhỏ, một cái vừa và một cái to. Cô reo lên sung sướng: "Ôi! Những cái giường mới ấm áp làm sao!". Cô chọn cái giường lớn nhất để ngủ.

Một lát sau, Gấu bố, Gấu mẹ và Gấu con về đến nhà. Vừa bước vào nhà, Gấu bố giận giữ gầm lên:

- Có ai đã đến đây thế này?

Khi thấy các bát đều hết sạch thức ăn, Gấu mẹ kêu lên:

- Ai đã ăn hết thức ăn của chúng ta rồi?

Nghe tiếng ồn, cô bé Tóc Vàng choàng tỉnh dậy và kể lại cho gia đình Gấu biết vì sao cô lại ở trong ngôi nhà này. Nghe xong Gấu Bố, Gấu Mẹ vá Gấu Con mỉm cười và đưa cô về nhà.

Từ hôm ấy cô bé Tóc Vàng trở thành người bạn thân thiết của gia đình Gấu.

Ba điều ước

________________________________________

Ngày xưa, có một cậu bé đã lên sáu tuổi mà vẫn bé tí ti, bé chỉ bằng ngón tay cái mọi người thôi, cho nên ai cũng gọi cậu là cậu bé Tí Hon. Nhà bé Tí Hon nghèo lắm. Bố mẹ phải đi chăn trâu thuê cho địa chủ, phải làm vất vả mà vẫn không có cơm cho đủ no, áo mặc cho đủ ấm. Tí Hon rất thương bố mẹ, chỉ muốn đi làm đỡ cho bố mẹ thôi. Một hôm, Tí Hon nói với bố mẹ để Tí Hon đi chăn trâu thay cho bố mẹ. Lúc đầu, bố mẹ thấy Tí Hon bé còn đàn trâu thì to nên thương Tí Hon không cho đi. Nhưng Tí Hon năn nỉ mãi cuối cùng bố mẹ phải cho đi.

Tí Hon chăn trâu cẩn thận lắm, không để trâu ăn lúa, ăn ngô mà con nào con nấy cũng no căng cả bụng. Cả làng ai cũng khen, bọn địa chủ cũng không chê Tí Hon câu nào cả.

Một hôm, đồng làng hết cỏ Tí Hon phải đưa trâu lên núi. Bỗng nhiên Tí Hon thấy một bông hoa hồng to bằng cái nón nở trên một một cành cây, đợi cho trâu đến gần cây ấy Tí Hon chui ở tai trâu ra, khẽ chuyền sang cây và chui vào giữa bông hoa. Tí Hon thấy ồ thích quá, ba cô tiên cũng bé tẹo như Tí Hon, một cô áo xanh, một cô áo đỏ, một cô áo vàng. Các cô thấy Tí Hon thì vui mừng chào hỏi rồi đi lấy bánh kẹo cho Tí Hon ăn, Tí Hon không ăn mà lại bỏ bánh kẹo vào túi. Thấy vậy ba cô tiên hỏi:

- Sao Tí Hon không ăn?

- Tôi đem về cho bố mẹ tôi ăn, bố mẹ tôi nghèo lắm. Tôi thương bố mẹ tôi lắm.

Ba cô tiên cùng nói:

- Tí Hon cứ ăn đi, ăn xong chúng tôi sẽ giúp. Lát sau, ba cô tiên cùng Tí Hon bước ra khỏi nhà hoa hồng, dắt nhau ngồi cả trên lưng trâu về làng.

Về đến nơi, thấy nhà Tí Hon nghèo lắm, vườn ruộng không có, gian nhà đổ nát, ba cô tiên bảo Tí Hon đi tìm bố mẹ về. Tí Hon đi khỏi, cô tiên áo đỏ vẽ một cái nhà xinh đẹp, cô tiên áo vàng vẽ một đám ruộng to, cô tiên áo xanh vẽ rất nhiều quần áo đẹp, vừa vẽ xong tất cả biến thành nhà thật, ruộng lúa thật và quần áo thật. Vừa lúc ấy Tí Hon và bố mẹ về đến nơi

- Ồ! Nhà ai đẹp thế? Ruộng của ai đẹp thế? Áo quần ai nhiều thế?

Ba cô tiên ở trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói:

- Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ nay, hai bác không nghèo nữa, có ruộng cày, có nhà ở, có quần áo mặc.

Rồi cô tiên áo xanh lại cho Tí Hon một chiếc áo, mặc áo vào là lớn hẳn lên. Bố mẹ Tí Hon mừng quá, quay lại định cám ơn thì ba cô tiên đã biến thành ba con bồ câu trắng bay vù lên mây. Từ đấy, không ai trông thấy ba cô tiên đâu nữa. Còn Tí Hon nhờ có ba điều ước kỳ diệu trở nên to lớn, khỏe mạnh, làm việc rất chăm chỉ, khéo léo không kém gì ba cô tiên hoa hồng.

Ba ngọn đèn

________________________________________

(Phỏng theo truyện BA MÀU của L.Demcôva)

Tại một thành phố nọ, trong ngôi nhà nhỏ ở ngay ngã tư đường phố có ba ngọn đèn cùng chung sống. Đó là đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh. Công việc của chúng thật quan trọng. Này nhé, nếu đèn xanh bật sáng, nghĩa là đường đang trống xe hơi và mọi người có thể băng qua được! Còn khi đèn vàng bật lên là lúc nó muốn lịch sự nhắc chúng ta rằng:

- Đi cẩn thận nhé! Sắp phải dừng lại đấy!

Sau đèn vàng là đèn đỏ. Đèn đỏ sáng lên và nói:

- Xin mời dừng lại! Đến lượt xe khác đi.

Trật tự trên là nghiêm ngặt. Không đèn nào được quên thứ tự bật sáng của mình. Nhưng bất ngờ, một hôm đèn xanh cãi nhau với đèn đỏ. Đèn xanh nói:

- Tại sao xe hơi đang chạy lại phải dừng lại? Xe nào cũng vội vã như nhau vì có biết bao người đang đợi chúng ở các bến xe. Này đèn vàng và đèn đỏ ơi, tôi không nhường cho các anh đâu. Tôi cứ bật sáng mãi để các xe được chạy liên tục đấy!

Đèn đỏ bèn cãi lại:

- Tôi nghĩ khác, các xe vội vã chạy nhanh nên rất mệt. Vì thế, tôi cần chiếu sáng để chúng dừng lại nghỉ thật lâu!

Nghe hai bạn cãi nhau, đèn vàng ân cần hòa giải:

- Đèn xanh và đèn đỏ ơi, ai có việc của người nấy. Cãi nhau mà làm gì?

Nhưng dù cho đèn vàng van nài thế nào, đèn đỏ và đèn xanh vẫn cứ cãi nhau... và thậm chí là đánh nhau nữa chứ! Kết cục là cả hai đều bị thương tích đầy mình nên chẳng còn bật sáng lên được nữa. Thế rồi, các loại xe và người qua lại ở các ngã tư đường không còn biết phải đi như thế nào nên cứ ùn lại, ùn lại... Chẳng mấy chốc, đường xá đông nghẹt những xe và người... Thế là tắc đường mất rồi!

Bỗng một ông tiên mặc trang phục như chú cảnh sát giao thông xuất hiện. Ông tiên đến ngôi nhà của ba ngọn đèn và khám sức khỏe cho chúng. Sau đó, ông tiên còn trò chuyện vui vẻ rất lâu với cả ba ngọn đèn rồi ân cần khuyên chúng:

- Này các cậu bé, đừng bao giờ cãi nhau nữa nhé!

Từ đó trở đi, trong ngôi nhà nhỏ tại ngã tư đường phố, ba ngọn đèn xanh, vàng và đỏ luôn sống chan hòa và đoàn kết với nhau.

Các bé thử nghĩ xem, chú cảnh sát giao thông đã nói chuyện gì với ba ngọn đèn xanh, vàng, đỏ?

Ba người bạn

________________________________________

Chim Sẻ, ếch và Cào Cào là ba người bạn thân. Một hôm cả ba đang nhảy nhót vui chơi thì gặp một cái ao to. Chim sẻ nói:

- Tôi không thể nhảy qua cái ao này được. Tôi phải bay qua nó và đợi các bạn ở bên kia ao nhé.

Ếch phàn nàn:

- Tôi không nhìn thấy một lá cây súng nào trên mặt ao. Do đó tôi không thể nhảy qua ao được. Tôi chỉ còn cách bơi qua ao thôi.

Cào Cào bình tĩnh nói với hai bạn rằng:

- Tôi không thể nhảy hoặc bay qua ao được và cũng không biết bơi. Nhưng nếu chúng ta cùng nhau hợp sức thì cả ba chúng ta đều sang được bên kia bờ ao.

Cả chim Sẻ và Ếch đều hỏi:

- Bằng cách nào hả bạn Cào Cào?

Cào Cào dõng dạc trình bày kế hoạch của mình:

- Trước hết bạn chim Sẻ bay lên cây mang về đây một chiếc lá to. Tôi ngồi trên chiếc lá còn bạn Ếch bơi và đẩy chiếc lá đó qua ao.

Khi cả ba sang được bên kia bờ ao, chim Sẻ hỏi :

- Này bạn Cào Cào, tôi có công mang chiếc lá về và bạn Ếch có công đẩy chiếc lá đó qua ao. Còn bạn thì làm gì?

Cào Cào vui vẻ trả lời:

- Tôi đã nghĩ ra kế hoạch qua ao và kế hoạch đó đã giúp đưa cả ba chúng ta sang được bờ ao bên này. Bạn có đồng ý như vậy không? Và bây giờ chúng ta lại cùng nhau vui chơi được rồi.

Chim Sẻ, Ếch đều nhảy lên mừng rỡ tán thành. Thế là cả ba bạn cùng nhau nhảy múa tiếp tục cuộc vui chơi của mình.

Ba người bạn (truyện 2)

________________________________________

Khỉ, Voi và Tê Tê là những người bạn tốt. Tuy vậy, chúng luôn luôn tranh luận với nhau xem ai là người tốt nhất, thông minh nhất.

Cả ba tìm đến bác Quạ thông minh:

- Bác Quạ ơi! Bác hãy nói xem trong chúng tôi ai là người thông minh nhất?

Bác Quạ cười phá lên:

- Ha! Ha! Vấn đề thật đơn giản các cháu ạ. Hãy mang cây ăn quả này về nhà trồng. Khi mùa xuân đến nó sẽ ra hoa kết trái, bác sẽ dành câu trả lời cho các cháu.

Ba người bạn liền mang cây về trồng xuống luống đất cạnh bờ sông.

- Hãy để tôi trồng, tôi sẽ chỉ cho các bạn cách làm. - Khỉ con nói và cố gắng hết sức để đào một cái hố.

Nhưng cái hố quá nhỏ, không thể trồng cây được.

- Thôi, để đấy tớ đào cho. - Tê Tê nói với Khỉ.

Rồi Tê Tê dùng cái móng vuốt nhỏ, sắc của mình để đào một cái hố khác.

Nó làm thật dễ dàng.

Sau khi trồng cây xong, chúng thấy cần phải có nước để tưới. Nhưng làm thế nào nhỉ?

- Tôi sẽ có cách. - Khỉ con nhanh nhảu nói.

Khỉ chạy ra bờ sông để tìm nước. Nó vốc nước vào hai bàn tay. Nhưng khi trở về thì chả còn một giọt nào trên tay cả.

Voi chậm chạp tiến ra bờ sông. Nó khoan khoái thả vòi xuống dòng nước mát. Trong nháy mắt, Voi đã hút đầy vòi nước đem về.

Voi vừa phun nước lên trên cây vừa nói với Khỉ và Tê Tê:

- Các bạn đừng nghĩ tôi là người tốt nhất, thông minh nhất.

Rồi Voi và Tê Tê thích thú nhảy múa vui vẻ, không để ý đến Khỉ con bé nhỏ tội nghiệp đang nghĩ: "Cõ lẽ mình là người đần độn nhất."

Thời gian trôi đi, bây giờ cây ăn quả đã vươn cao. Trên cành chi chít những chùm quả mọng nước và đỏ chót.

Voi và Tê Tê rất thẻm ăn quả chín trên cây nhưng cả hai đều quá thấp nên không với được quả nào.

Bằng một vài bước nhảy, Khỉ con đã ngồi tót trên cây. Nó hái tất cả những chùm quả chín xuống cho hai người bạn.

Voi và Tê Tê nói với Khỉ con vẻ ân hận:

- Cám ơn sự giúp đỡ của bạn.

Bất thình lình chúng nghe bác Quạ nói:

- Ồ, các cháu. Bây giờ chắc các cháu đã biết câu trả lời rồi chứ?

Khỉ, Voi và Tê Tê cùng cười vang và nói:

- Vâng, tất cả chúng cháu đều là những người bạn tốt và thông minh phải không bác Quạ?

Bác gấu đen và hai chú thỏ (lớp mầm)

________________________________________

Trời mưa to như trút nước. Gió thổi ào ào... bẻ gãy cả cành cây. Gấu Đen đi chơi về bị ướt lướt thướt, nước mưa chảy ròng ròng xuống mặt Gấu. Gấu chạy mãi, chạy mãi trong rừng để tìm chỗ trú nhờ. May quá nhà của Thỏ Nâu đây rồi!

- Cốc. Cốc. Cốc.

Thỏ Nâu đang ngủ liền tỉnh dậy, gắt gỏng hỏi.

- Ai đấy?

- Bác Gấu Đen đây! Mưa to quá, cho bác trú nhờ một đêm.

Thỏ Nâu không mở cửa, nó càu nhàu:

- Không trú nhờ được đâu. Bác to quá, bác làm đổ nhà của cháu mất!

Gấu đen van nài:

- Bác không làm đổ nhà đâu. Bác vào rất nhẹ nhàng thôi!

- Nhẹ cũng đổ, không nhẹ cũng đổ. Bác đi đi!

Thỏ Nâu vẫn nằm trong nhà nói vọng ra, nó nhất định không ra mở cửa. Gấu Đen buồn rầu. Nước mưa chảy ròng ròng xuống cổ Gấu Đen. Gấu Đen đi mãi, đi mãi, vừa mệt vừa rét. Bỗng nhiên Gấu Đen nhìn thấy có một ngôi nhà. Trong nhà thắp đèn sáng trưng. Có tiếng Thỏ Trắng khe khẽ hát "Là lá la...". Gấu Đen lại gần và rụt rè gõ cửa:

- Cốc. Cốc. Cốc.

- Ai đấy?

- Bác Gấu Đen đây! Cho bác vào trú nhờ có được không? Thỏ Trắng bước ra mở cửa.

- Ồ! Chào Bác Gấu Đen, mời bác vào đây, bác ướt hết rồi!

Thỏ Trắng dắt bác Gấu Đen vào nhà, kéo ghế mời bác ngồi trước bếp lò. Gấu Đen hơ người một lúc, nước mưa trên mặt cũng khô, trên cổ cũng khô.

Trong khi bác Gấu Đen sưởi ấm. Thỏ Trắng bưng ra một đĩa bánh mời bác Gấu Đen ăn. Gấu Đen cảm động nói:

-Cảm ơn Thỏ Trắng.

Gấu Đen ăn xong, Thỏ Trắng và bác Gấu Đen cùng đi ngủ.

Nửa đêm bão nổi lên ầm ầm cành cây kêu răng rắc. Có tiếng đập cửa thình thình:

- Bạn Thỏ Trắng ơi! Cho tôi vào trú nhờ với, nhà của tôi đổ mất rồi!

Gấu Đen vội choàng dậy, chạy ra mở cửa. Thỏ Nâu vừa khóc vừa kể với bác Gấu Đen và Thỏ Trắng.

- Hu, hu, hu, nhà bị đổ mất rồi. Làm thế nào bây giờ! Gấu Đen kéo Thỏ Nâu đến bên đống lửa an ủi Thỏ Nâu:

- Cháu sưởi cho ấm người đi! Nhà bị đổ à? Lo gì. Sáng mai bác sẽ làm lại nhà cho cháu.

Thỏ Trắng cũng nói:

- Bạn đừng lo. Sáng mai tôi cũng sẽ giúp bạn làm lại nhà!

Thỏ Nâu sưởi một lúc, nước mưa trên người đã khô. Lúc này Thỏ Nâu mới ân hận là đã đuổi bác Gấu Đen. Thỏ Nâu ngập ngừng định xin lỗi bác Gấu.

- Thỏ Nâu đừng buồn bác không giận cháu đâu. Thôi bác cháu ta đi ngủ kẻo khuya quá rồi!

Đêm hôm ấy, Thỏ Nâu và Thỏ Trắng ôm bác Gấu Đen ngủ ngon lành.

Bác Voi tốt bụng (lớp mầm)

________________________________________

Một buổi sáng mùa xuân, trăm hoa khoe sắc, gà con vui vẻ gọi vịt con ra vườn chơi.

Gà con rủ vịt con bắt sâu bọ, côn trùng có hại cho cây cối. Nhờ có mỏ nhọn nên gà con bắt sâu rất dễ dàng. Nhưng vịt con không có mỏ nhọn nên không thể nào bắt sâu được. Thấy thế gà con vội chạy tới giúp vịt.

Bỗng một chú voi con xuất hiện, chú dùng vòi khều con sâu đưa cho vịt con. Vịt và gà con cùng cảm ơn chú voi. Vịt và gà con lại rủ nhau ra ao chơi . Chân vịt con có màng nên vịt bơi lội rất giỏi, còn gà con vô ý nên bị ngã xuống ao, vì không biết bơi nên gà con bị ướt sũng nước, lạnh đến phát run. May quá, chú voi lại đi tới. Chú cứu gà con lên, chú còn đùa nghịch dùng vòi phun đầy nước vào gà con và vịt con. Gà và vịt cười vang bỏ chạy, còn lũ ruồi đậu trên lưng chú voi cũng phải hốt hoảng bay đi. Sau đó voi dùng kèn thổi acmônica. Chú thổi hay đến nổi gà con và vịt non đang chơi vui cũng phải chạy đến, những chú chim trên cành cây cũng ngừng hót để lắng nghe những âm thanh tuyệt vời mà voi thổi.

Gà và vịt con rất yêu chú voi tốt bụng. Chúng thích vui đùa và nhảy vào nằm trong lòng chú voi. Chúng cảm thấy ấm áp và hết sức an toàn.

Bài học đầu năm (Lớp lá)

________________________________________

Sang năm mới, Chuột Nhắt thêm một tuổi rồi. Vì thế, Chuột mẹ cho phép cậu được đi một mình ra công viên chơi. Chuộ Nhắt vốn rất thích đi xe ô tô. Mặc dù đường đến côg viên không xa lắm, nhưng khi chiếc xe buýt chở khách đến bến đỗ, Chuột Nhắt quyết định trèo lên xe. Song, bậc lên ô tô thì cao, mà cậu thì bé tí làm sao lên được? Cậu lay hoay một lát rồi chui tọt vào chiếc ủng của một bà hành khách đang lên xe. Xe chuyển bánh, mọi người lần lượt đưa tiền cho người phụ xe để mua vé. Nhưng tiền mẹ cho, vừa ra khỏi cổng Chuột Nhắt đã ăn bánh rán hết rồi, Làm thế nào bây giờ? Cu cậu luống cuống không biết trốn vào đâu. Bí quá, nó liền nhảy ngay lên thành ghế nói thầm vào tai anh Tí Tô nhờ anh giúp đỡ. Bấy giờ hành khách trên xe mới phát hiện ra Chuột Nhắt đi ô tô trốn vé, lại còn ngồi vắt vẻo trên thành ghế, vừa không an toàn, vừa mất lịch sự.

Anh Tí Tô quay lại nói với Chuột Nhắt:

- Thôi được, lần này anh cho tiền mua vé. Nhưng nhớ lần sau đi ô tô khách là phải mua vé đấy nhé!

Chuột Nhắt vâng dạ rối rít và nói:

- Cảm ơn anh. Em xin anh. Em nhớ lời anh dặn rồi ạ!

Ô tô tới bến. Một lần nữa, Chuột Nhắt cảm ơn anh Tí Tô rồi phấn khởi xuống xe vào công viên chơi. Thế là, nhờ buổi đi chơi đầu năm, Chuột Nhắt lại biết thêm một điều rất bổ ích là đi xe ô tô chở khách là phải mua vé và ngồi ngoan ngoãn đúng chỗ. Nếu không sẽ bị mọi người chê cười, thậm chí, còn bị đuổi xuống xe nữa.

Bài học đâu tiên của Gấu

________________________________________

Ngày Chủ Nhật Gấu con xin phép mẹ ra đường chơi cùng các bạn. Gấu mẹ dặn:

- Con chơi ngoan nhé. Nếu làm sai điều gì, con phải xin lỗi. Được ai giúp đỡ thì con phải cảm ơn.

Gấu con tung tăng chạy nhảy và mải lắng nghe chim Sơn Ca hót nên va phải bạn Sóc khiến giỏ nấm văng tung tóe ra đất. Gấu con vội vàng khoanh tay và lễ phép nói:

- Cảm ơn bạn Sóc!

Nói xong Gấu con cúi xuống nhặt nấm bỏ vào giỏ giúp Sóc. Sóc ngạc nhiên nói:

- Sao Gấu con lại cảm ơn, phải nói xin lỗi chứ!

Mải nhìn Khỉ mẹ ngồi chải lông cho Khỉ con nên Gấu con bị trượt chân, rơi xuống hố sâu. Gấu con sợ quá kêu thất thanh:

- Cứu tôi với! Ai cứu tôi !!!

Bác Voi ở đâu đi tới liền đưa vòi xuống hố và nhấc bổng Gấu con lên mặt đất. Gấu con luôn miệng:

- Cháu xin lỗi bác Voi, Cháu xin lỗi bác Voi!

Bác Voi cũng rất ngạc nhiên liền nói:

- Sao Gấu con lại xin lỗi, phải nói cảm ơn chứ!

Về nhà, Gấu con kể lại chuyện cho mẹ nghe. Gấu mẹ ôn tồn giảng giải:

- Con nói như vậy là sai rồi. Khi làm đổ nấm của bạn Sóc, con phải xin lỗi. Còn khi bác Voi cứu con ra khỏi hố sâu, con phải cảm ơn

- Con nhớ rồi ạ! - Gấu con vui vẻ nói.

Bàn tay có nụ hôn (Lớp lá)

________________________________________

Hôm nay là ngày đầu tiên bạn Quân đi học mẫu giáo. Bạn sợ lắm, hai tay cứ nắm chặt, chân không chịu bước, nước mắt giàn giụa:

- Con không muốn đến trường đâu! - cậu bé bảo mẹ - con muốn ở nhà với mẹ cơ!

Con thích đồ chôi và thích ở nhà. Mẹ cho con ở nhà với mẹ đi!

Mẹ Nga nắm tay bé nhỏ của Quân và thì thầm vào tai bé:

- nhiều khi chúng ta phải làm những việc mà mình không muốn! Nhưng mẹ tin con sẽ thích đến trường. Ở trường con sẽ có nhiều bạn mới, có nhiều đồ chơi mới. Cô giáo sẽ dạy con nhiều điều mới!

Mẹ nói thêm:

-Mẹ biết một bí mật tuyệt vời sẽ giúp con cảm thấy những gày đến trường cũng ấm áp và dịu êm như khi con ở nhà.

Quân quệt nước mắt, có vẻ chú ý lắng nghe:

- Điều bí mật gì hả mẹ?

Mẹ bảo:

- Một điều bí mật có từ rất lâu, bà ngoại con kể cho mẹ và bà ngoại lại được cụ ngoại của con kể cho, điều bí mật ấy là Bàn tay có nụ hôn.

Bé Quân ngạc nhiên:

-Bàn tay có nụ hôn là thế nào hả mẹ?

Mẹ Nga nắm lấy bàn tay trái của Quân và xòe những ngón tay bé xíu của bé ra giống như hình cái quạt giấy. Mẹ cúi thấp xuống, đặt một nụ hôn vào chính giữa lòng bàn tay con.

Bé Quân cảm thấy nụ hôn của mẹ chạy từ bàn tay lên cánh tay, chạy thẳng vào tim. Khuôn mặt bé cũng ửng hồng vì một cảm giác thật ấm áp.

Mẹ Nga mỉm cười:

- Bây giờ thì mỗi lúc con cảm thấy sợ hãi, lo lắng, con hãy áp bàn tay này vào má và con sẽ cảm thấy lúc nào mẹ cũng ở bên con.

Mẹ Nga nắm lấy bàn tay của Quân, cẩn thận khép những ngón tay của bé lại. Mẹ bảo:

- Từ giờ trở đi, con đừng để mất nụ hôn này nhé! Nhưng con có biết điều kỳ diệu này không, Kể cả khi con rửa tay thì nụ hôn ấy cũng không bị mất đi đâu!

Bé Quân rất yêu đôi bàn tay có nụ hôn của mình. Bây giờ bé biết rằng tình yêu thương của mẹ dành cho bé sẽ theo bé đi đến bất cứ nơi đâu, kể cả khi ở trường bé không có mẹ.

Đêm hôm đó trước khi đi ngủ, bé quay sang mẹ thì thầm:

-Mẹ đưa tay của mẹ đây!

Cậu bé nắm lấy bàn tay gầy gầy xương xương của mẹ, cậu mở những ngón tay dài của mẹ ra, cậu đặt một nụ hôn thật lậu vào chính giữa bàn tay mẹ và thủ thỉ:

-Bây giờ mẹ cũng có Bàn tay có nụ hônrồi! Khi ở cơ quan nếu mẹ nhớ con thì mẹ cũng áp bàn tay này vào má, con sẽ ở bâb cạnh mẹ, con yêu mẹ lắm!

Mẹ Nga đến cơ quan vẫn cảm thấy hơi ấm nụ hôn của bé Quân trong lòng bàn tay mình và mẹ tưởng như nghe thấy từ trái tim mình tiếng hát thì thầm "Con yêu mẹ lắm"!

Bàn tay có nụ hôn là một món quà tặng quý báu từ cuộc sống được truyền khắp mọi nơi. Qua mọi thời kì, đến với mọi người, nó giúp cho những người yêu thương được gần nhau hơn.

Bạn mới

________________________________________

Lớp mẫu giáo của Hà có thêm bạn mới. Tên bạn ấy là Hoa. Cả lớp cứ xì xào, chỉ chỏ vào bàn tay trái của bạn ấy.

"Kỳ lạ lắm, thật đấy!" - Tí sún thì thầm với Hà như thế. Hà vờ đi uống nước rồi liếc nhìn. Ừ, mà lạ thật. Mấy ngón tay của bạn ấy quắp lại, bé tẹo.

Đến lúc nghỉ trưa, cả lớp cứ đùn đẩy nhau không ai chịu nằm cạnh Hoa. Cuối cùng Tí sún bảo:

-Oẳn tù tì, ai thua thì phải nằm cạnh bạn mới nhé!

Hà thua, Hoa nằm ngoài cùng rồi đến Hà. Các bạn đã ngủ khì từ khi nào, nhưng Hà không sao ngủ được. Hà hé mắt nhìn sang Hoa đang nằm im bên cạnh. Hàng mi bạn ấy khe khẽ động đậy. Bạn ấy cũng chưa ngủ. BÀn tay bị tật giấu chặt vào trong lòng. Nước mắt lặng lẽ chảy xuống chiếc gối bông.

Buổi chiều, cô giáo dạy cả lớp tập múa:

- Các giơ tay ra phía trước nào!

Hoa lúng túng rồi mếu máo:

- Thưa cô con không múa được !

Cả lớp nhìn về phía bạn mới. Hoa chợt ngồi thụp xuống sàn, giấu bàn tay trái vào lòng và òa khóc nức nở. Cô giáo bước lại ôm Hoa vào lòng:

- Nín đi con, cô thương!

Rồi cô nghẹn ngào nói:

- Cô đã tận mắt nhìn bàn tay tật nguyền của bạn Hoa biết trông em và nấu cơm đỡ mẹ. Cô nghĩ, bàn tay ngoan ấy phải được cả lớp yêu thương chứ! Chỉ những bàn tay lười, bàn tay bẩn không rửa mới là bàn tay xấu và đáng chê cười thôi, có phải không các con?

Nghe cô nói, Hà thấy thương Hoa quá. Hà nhớ lại những giọt nước mắt của Hoa buổi trưa. Thế là Hà chạy lại nắm tay Hoa:

- Tớ là Hà!

Cô giáo mỉm cười:

- Hà ngoan lắm!

Các bạn khác cũng lần lượt xúm lại:

- Tớ là Dung.

- Tớ là Phương.

Tí sún thấy vậy vội chen vào:

- Còn tớ là Tí sún. Hoa ơi, tí nữa chúng mình chơi trò chơi em bé ăn bột nhé!

Cô giáo gật đầu:

- Có thế chứ! Bạn bè trong lớp như con một nhà, các con phải biết yêu thương đoàn kết thì cô mới vui.

Báo gấm suýt ngã

________________________________________

Có một con báo gấm con không ngoan, chẳng chịu đi học, suốt ngày rong chơi, leo trèo cây cối.

Một hôm báo gấm leo lên cây, bò ra đầu mút của một cành cộc. Gió bắt đầu thổi mạnh. Cành cộc lắc la lắc lư lay động. Báo gấm không làm sao quay đầu bò vào được. Nó sợ quá, đầu váng, mắt hoa, miệng khóc tu tu:

- Ối trời ơi, mẹ ơi, có ai đấy không, cứu tôi với! Cứu tôi với!

May quá, gia đình nhà khỉ mặt đỏ ở gần đó, nghe tiếng kêu, cả nhà vội chạy ra cứu báo gấm. Khỉ bố, khỉ mẹ và cả hai khỉ con leo cả lên cành cộc đó, nhún mạnh cho cành cây oằn xuống gần mặt đất, báo gấm liền nhảy xuống, vui mừng nói:

- Cháu xin cảm ơn gia đình bác khỉ thật nhiều! Không có gia đình bác giúp đỡ, chắc cháu bị ngã từ cành cao xuống, sẽ chết mất, gia đình bác đã cứu sống cháu!

Hôm sau, báo gấm con xách một nải chuối tiêu đến làm quà tạ ơn gia đình khỉ mặt đỏ. Từ đó về sau, báo và khỉ trở thành bạn thân.

Bé Minh Quân dũng cảm (Lớp mầm)

________________________________________

Nhà bé Minh Quân có một chú mèo vàng rất ngoan. Mimh Quân yêu nó lắm. Ngày chủ nhật bố mẹ vắng nhà. Bé Minh Quân và Mèo vàng được dịp nô đùa thỏa thích, mãi đùa nghịch, chẳng may tay Minh Quân gạt phải lọ hoa, lọ hoa rơi xuống vỡ tan tành. Chiều bố mẹ về Minh Quân mach :

- Bố ơi! Con Mèo nghịch, đánh vỡ bình hoa rồi.

Thế là Mèo vàng bị phạt, nó bị bố xích lại và không được ăn cá. Tối đến nằm trên giường nghe tiếng mèo vàng kêu meo meo. Minh Quân không sao ngủ được. Minh Quân vùng dậy, chạy đến bên bố và thú nhận tất cả rồi xin bố tha cho mèo. Bố ôm Minh Quân vào lòng và khen:

- Con trai bố trung thực và dũng cảm lắm.

Bê mẹ - Bê con (lớp lá)

________________________________________

Sau những ngày trời liên tiếp đổ mưa, sáng nay nắng ấm, mọi cảnh vật như tươi tỉnh, những đám cỏ non vươn lên xanh mơn mởn. Ba mẹ con chị Bê nhanh chân bước ra khỏi nhà. Như thường lệ, Bê mẹ dắt hai con ra phái cuối làng, nơi đây là một vùng đất trồng cỏ có đường sắt chạy ngang giữa hai làng.

Hai chú bê con chạy nhảy quanh mẹ một lúc lâu, chúng cảm thấy đói, cả hai xin mẹ đi tìm cỏ non để ăn. Bê mẹ dặn:

-Các con tìm cỏ quanh đây, không được băng qua dường sắt nguy hiểm lắm đấy!

Cả hai hớn hở chạy đi tìm cỏ non. Nhìn những đám cỏ xanh mơn mởn, cả hia cùng mải mê ăn., vượt lên gần đường sắt, quên cả lời mẹ dặn.

Mải mê gặm cỏ, một lúc sau, Bê mẹ nhìn quanh quẩn không thấy hai con đâu, liền gọi to mấy tiếng: "Be...be!" nhưng chẳng thấy hai con trả lời. Bê mẹ vội vã đi tìm con. Bỗng từ đằng xa, Bê mẹ nhìn thấy hai con đang đến gần đường sắt, Bê mẹ vội chạy đến, gọi hai con dừng.

Vừa lúc đó, đòan tàu vừa tiến đến cùng với tiếng còi tàu làm hai chú Bê con giật bắn cả người.

Nguy hiểm đã qua, ba mẹ con ôm nhau mừng rỡ. Nhìn thấy mồ hôi ướt đầm của mẹ, hai chú Bê con vô cùng hối hận và xin lỗi mẹ.

- Thưa mẹ, chúng con xin lỗi mẹ, từ nay về sau chúng con sẽ vâng lời mẹ không đến gần đường sắt nữa!. Bê con lí nhí nói.

Hai con biết nhận lỗi là tốt, các con phải biết vâng lời mẹ, không nên gặm cỏ hoặc chơi gần đường sắt rất nguy hiểm - Bê mẹ căn dặn bê con.

- Hai chú Bê con đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn mẹ, cuối cùng không ai bảo ai, cả hai cùng nhìn xuống con đường ray dài thăm thẳm.

Biển sông và suối (Lớp Mầm)

________________________________________

Một bác nông dân tranh luận với một bác nông dân khác là bác ta có thể uống rất nhiều nước. Bác ta nói :

- Tôi có thể uống cạn biển

- Anh không uống nổi. Bác kia nói.

- Uống nổi ! Cược nào ! Tôi cược một ngàn đồng tiền vàng là tôi có thể uông cạn sạch được biển.

Sáng ra người ta kéo đến gặp bác nông dân :

- Thế nào, ta đi uống cạn biển hay nộp đây một ngàn đồng tiền vàng !

Bác nông dân trả lời :

- Tôi đã nhận uống cạn biển, tối sẽ uống cạn. Nhưng tôi không nhận uống tất cả các con sông. Các người hãy chặn tất cả sông, suối lại không cho nước chảy vào biển, bấy giờ tôi sẽ uống cạn biển.

Bó hoa tặng bà

________________________________________

Bà ngoại của Voi con bị bệnh phải vào bệnh viện nằm. Đi học về, Voi con xin phép mẹ vào bện viện thăm bà. Trên đường đi, Voi con thấy bác Dê đang vác trên vai một bao gạch lạch bạch đi từng bước một. Voi con vội chạy tới nói với bác: "Bác Dê ơi! Để cháu giúp bác". Thế là chú Voi dùng vòi của mình nhấc bao gạo lên một cách nhẹ nhàng và đưa về tận nhà bác Dê.

Khi Voi con đi qua một vườn hoa, chú nhìn thấy Cún con đang tưới hoa. Cún con chạy đến bên giếng để múc nước, do bất cẩn nên để gàu rơi xuống giếng. Cún con ngẩn ngơ nhìn theo chưa nghĩ ra cách gì để lấy cái gàu lên. Voi con thấy vậy chạy lại nói: "Không việc gì, để tớ giúp cho". Voi con thò cái vòi dài của mình xuống vớt gàu lên, lại còn múc đầy một gàu nước nữa. Cún con rối rít cám ơn và chạy đi hái một bó hoa tươi thắm tặng Voi con.

Voi con mang bó hoa đến bệnh viện. Vừa trông thấy bà, chú đã reo lên: "Bà ơi! Bà xem cháu đem đến cho bà cái gì đây." Voi con dâng bó hoa lên trước mặt bà và nói: "Cháu tặng bà. Chúc bà chóng khỏe". Bà ngoại cám ơn Voi con và nói: "Hoa đẹp lắm, cháu hái ở đâu vậy?". Voi con kể cho bà ngoại nghe mình có bó hoa như thế nào. Nghe xong, bà ngoại ôm Voi con vào lòng và khen Voi con: "Cháu bà giỏi lắm, biết giúp đỡ người khác. Đây là bó hoa đẹp nhất".

Bu Bu tập trồng cây

________________________________________

- Bu Bu con trông nhà nhé! Ba phải ra vườn đây.

- Ba ơi, cho con giúp ba với? Con cũng muốn trồng trọt giống ba

- Được thôi, Bu Bu à. Nhưng con không cần nhiều thứ như thế đâu. Này, con cầm lấy cái xẻng, cái cào và bình tưới.

- Ba ơi, đây là rau gì vậy?

- Á, đó là rau cải, rau dền, có củ cải trắng nữa đấy.

- Con xem ba làm này. Trước hết, cào cho kỹ... Cẩn thận, đừng cào vào cải trắng nhé!

- Hạt giống đây. Con gieo xuống chỗ đất này đi. Gieo hạt xong rồi, sau đó con lấy đất phủ lại.

- Ba cho con tưới nước với.

- Ứ, giỏi lắm! Từ từ nha, ướt quần áo hết. Bây giờ chỉ còn chờ hạt mọc lên. Hôm nay con làm việc tốt lắm. Ta về nhé ?

- Không con ở lại đây. Mấy cái hoa này lâu quá chưa chịu mọc lên há? Thử đào cái lỗ nhỏ xem sao. Ba ơi, sao hoa chưa chịu mọc lên?

- Chưa đâu con ạ! Phải vài ngày nữa.

- Ồ nhìn kìa, mới có một đêm thôi mà cây đã mọc kín luống. Bu Bu, con xem này. Vườn nhà mình đẹp quá!

Cá cầu vồng (Lớp lá)

________________________________________

Trứơc kia, cá Cầu Vồng là con cá đẹp nhất trong biển cả. Vì luôn nghĩ rằng mình đẹp nên cá Cầu Vồng rất kiêu căng và không chơi với những con cá khác.

Có một lần, cá Xanh nhỏ đến hỏi cin cá Cầu Vồng một cái vẩy lóng lánh. Cá Cầu Vồng chỉ cười lớn và nói:

- Không bao giờ!

Từ đó, tất cả cá dần dần dần rời xa, Không chuyện trò và chơi với cá Cầu Vồng nữa. Cá Cầu Vồng rất buồn nên đi hỏi cua:

- Anh cua ơi, tại sao không ai thcíh tôi vậy?

Cua trả lời:

- Cô đi hỏi bác Tôm Hùm đi. BÁc ấy thông minh lắm.

Cá Cầu Vồng tìm đến bác Tôm Hùm và hỏi:

- Bác Tôm Hùm ơi, tại sao không ai thcíh tôi vậy?

Bác Tôm Hùm chậm rãi trả lời:

- Hãy chia cho các bạn những cái vẩy của cháu. Cahú sẽ không được đẹp như trước nhưng cháu sẽ có rất nhiều bạn.

Cá Cầu Vồng đáp lại thật nhanh:

- Cháu không thể làm như vậy!

Đột nhiên Cá Xanh Nhỏ mon men bơi tới và hỏi:

- Cá Cầu Vồng ơi! Cho tôi xin một cái vẩy. Cá Xanh Nhỏ vui quá, bơi vòng quanh cá Cầu Vồng. Thấy vậy cá Cầu Vồng cũng vui theo và cả hai cùng bơi vòng quanh bác Tôm Hùm.

Nghe tin. Tất cả cá trong biển sắp hàng để xin vẩy của cá Cầu Vồng. Cá Cầu Vồng cho dần dần những cái vẩy xinh đẹp của mình. Cuối cùng, Cá Cầu Vồng chỉ còn một cái vẩy. Như lời bác Tôm Hùm nói, cá Cầu Vồng không còn đẹp như trước nữa. Bây giờ cá Cầu Vồng có rất nhiều bạn và là con cá vui nhất trong biển cả.

Cá cầu vồng can đảm (Lớp lá)

________________________________________

Xa tít ngoài đại dương, có môt đàn cá tụ tập bên nhau. Đó là giống cá đặc biệt, mỗi con đều có những cái vẩy long lánh. Kể từ khi cá Cầu Vồng phân phát lớp vẩy đẹp của mình cho đàn cá chung quanh, thì tất cả trở thành bạn thân, làm gì cũng có nhau. Chúng bơi chung, chơi chung, ăn chung và khi nghỉ ngơi, chúng cũng quây quần bên nhau.

Đàn cá sống êm đềm bên nhau, không thèm để ý đến những giống cá khác. Một hôm, giữa lúc chúng đang chơi trò chơi đuổi bắt, bỗng có chú cá nhỏ đuôi vằn bơi lạc tới, cả bầy nhìn chú với những ánh mắt xa lạ.

Chú cá đuôi vằn lên tiếng nói:

- Các bạn cho tôi chơi chung với, được không?

Một con trong bầy đáp lại ngay:

- Chúng tôi đang chơi trò đuổi bắt. Đứa nào bị chộp vào vẩy là thua. Anh không có vẩy như tụi tôi, làm sao chơi được!

Chú cá đuôi vằn hỏi thêm:

- Phải có vẩy đặc biệt mới chơi được hay sao?

- Dĩ nhiên rồi! - một chú cá trong bầy trả lời - Thôi, tụi mình chơi tiếp đi. Đừng để ý đến nó nữa.

Nói xong cả bầy quay về với trò chơi dang dở.

Nhưng cá Cầu Vồng lấy làm áy náy lắm. Vì không muốn mất lòng bầy cá bạn nên Cầu Vồng không dám lên tiếng nói giúp chú cá đuôi vằn kia. Cá Cầu Vồng từ từ bơi ra nhập bọn cùng nhóm bạn cá, nhưng trong lòng cảm thấy hơi xấu hổ.

Chú cá nhỏ đuôi vằn một mình bơi quanh ghềnh đá. Buồn rầu nhìn đàn cá chơi đùa với nhau. Cuộc chơi vui quá, lũ cá lao vùn vụt, ngụp lặn đuổi bắt nhau dưới làn nước trong xanh những lớp vây lóng lánh sáng.

Trong khi đó cá Cầu Vồng nhớ lại cái cảm giác cô đơn hồi trước mà chính nó đã trải qua. Ngày ấy tất cả mọi con cá khác đều không chơi với nó vì nó không san sẻ cho ai lớp vẩy rực rỡ của mình. Bây giờ thì ai cũng thích rủ cá Cầu Vồng cùng chơi vì nó đã chia vẩy đẹp của mình cho các con cá khác.

Mải chơi nên chẳng đứa nào biết rằng có sự nguy hiểm đang sắp xảy ra quanh ghềnh đá...

Một con cá mập bất chợt như mũi tên phóng vụt tới giữa bầy cá nhỏ. Lũ cá hoảng hốt chạy tứ phía, tìm chỗ ẩn núp.

May quá, chúng tìm được chỗ trốn an toàn sau khe đá. Con cá mập lớn quá chui qua không lọt.

Nhưng riêng chú cá đuôi vằn thì lội vào không kịp. Cá Cầu Vồng nhìn ra, vô cùng lo sợ.

Con cá nhỏ bên cạnh hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Cá Cầu Vồng đáp:

- Chú cá đuôi vằn còn kẹt ngoài kia. Chỉ còn mình nó! Tụi mình phải nhanh lên giúp nó, không thôi nguy mất!

Vừa nói dứt lời, cá Cầu Vồng bơi ra và gọi bạn bè:

- Các bạn theo tôi mau!

Cả bầy cá lo sợ, nhưng chúng biết việc phải làm. Chúng cùng nhau bơi theo cá Cầu Vồng và chẳng bao lâu chúng trông thấy chú cá đuôi vằn nhỏ bé đang lội vùng vậy trườc cái miệng hãi hùng của cá mập. Cá Cầu Vồng thấy chú cá đuôi vằn sắp kiệt sức mất rồi!

- Mau lên! Xông vào cứu nó!

Cá Cầu Vồng hô lớn. Thế là tất cả đàn cá nhất loạt lao về phía cá mập. Cá mập lúng túng, quay bên này, quẹo bên kia, chộp bên phải, đớp bên trái, cho đến khi mắt hoa cả lên!

Nhờ vậy, cá Cầu Vồng lặng lẽ đưa được chú cá đuôi vằn thoát ra chỗ an toàn. Chú cá đuôi vằn nhỏ nói:

- Anh thật là can đảm! Cám ơn anh đã cứu tôi!

Rồi cả bầy nhìn theo con cá mập mệt mỏi bơi đi chỗ khác.

Khi tất cả đàn cá đã an toàn trở về ghềnh đá, chúng cùng nhau đón mừng chú cá đuôi vằn nhập bọn. Cá Cầu Vồng bảo:

- Ở lại đây chơi với tụi tôi nhé!

Cá đuôi vằn hỏi:

- Tôi không có vẩy như các bạn, làm sao chơi được?

Một con cá nói:

- Bạn không có vẩy như chúng tôi, nhưng bạn có vi giống chúng tôi. Vậy thì mình đổi trò chơi. Thay vì đụng vào vẩy thì đứa nào bị đụng vào vi là thua!

Cả bầy reo hò đồng ý và lao ra chơi đùa giữa dòng nước trong xanh.

Cá chép con (Lớp lá)

________________________________________

Cá chép con muốn rủ cua đi chơi nhưng tìm mãi chẳng thấy cua đâu. Chép con liền đi hỏi ếch xanh. Ếch xanh bảo:

- Cua đi ẩn náu để lột xác rồi!

Chép con nghĩ bụng: "Quái lạ, tại sao cua lại phải lột xác nhỉ?" Chép con đi hỏi ốc vặn, ốc vặn cũng chẳng biết gì hơn. Chép lại hỏi:

- Ốc vặn có phải lột xác không?

Ốc vặn phì cười trả lời:

- Không, vỏ của tôi lớn dần theo cơ thể nên tôi không cần phải lột xác đâu.

Chép con liền đi hỏi trai con:

- Cậu có biết vì sao cua phải lột xác không? Và cậu có phải lột xác không?

Trai lắc đầu:

- Vì sao cua phải lột xác thì tớ chịu. Còn tớ, vỏ của tớ tăng từng vòng theo cơ thể lớn phồng lên nên không phải lột xác.

Về nhà Chép con hỏi mẹ, mẹ cũng không biết vì sao. Chép con lại thắc mắc:

- Thế họ nhà cá Chép chúng ta có phải lột xác không ạ?

Cá Chép mẹ nở một nụ cười tươi trên đôi mội đỏ tươi trả lời:

- Ôi, con của mẹ thật ngốc nghếch! Chúng ta có vảy chứ đâu có mai như cua. Mỗi năm vảy của ta tăng thêm một hàng, cứ đếm số hàng vảy trên mình là biết tuổi của chúng ta con ạ!

Mấy hôm sau, Chép con gặp cua liền hỏi:

- Tại sao bạn phải lột xác vậy?

Cua trả lời rất tự nhiên:

- Họ nhà cua chúng tôi phải lột mai thì mới lớn lên được!

Chép con ngắm nhìn cua một lát rồi reo lên:

- A! Đúng rồi. Nhìn bạn lớn hơn mấy hôm trước rồi đấy!

Cá diếc con (Lớp lá)

________________________________________

Đàn cá diếc mới lớn đang tung tăng bơi lội, nô đùa trong hồ nước. Nhìn cái gì, Diếc con cũng thấy lạ. Bỗng có Bác Rùa từ đâu bơi tới.

Diếc con tròn mắt nhìn. Lạ quá, cùng ở dưới nước mà bác ấy không giống họ hàng nhà cá: Cái đầu thò ra, thụt vào. Cái đuôi ngắn ngun ngủn. cái "nhà" trên lưng thật nặng nề. Lại còn bốn cái chân thô kệch nữa chứ!

Diếc con lại thấy từ bác cá Chép, cá Mè, cá Chuối đến chú Rô, Mương... Khi gặp bác Rùa đều chào rất lễ phép, kính trọng.

Diếc con chê bác Rùa xấu xí. Diếc mẹ biết vậy liền kể:

- Bác Rùa cao tuổi nhất, hiểu biết nhất vùng hồ này. Nhờ có bốn chân, bác hồ lên được bờ, biết nhiếu cảnh, nhiều chuyện trên cạn. Bác rất tốt bụng, hay giúp đỡ người khác.

Buổi chiều kia, Diếc con bơi lửng lơ sát mặt nước, say sưa ngắm lão chim có bộ lông xanh biếc, tuyệt đẹp! Lão bay đứng lại như treo trên không trung, thật tài!

Chợt lão chim rơi tõm xuống nước, rồi lại bay lên ngay. Diếc nghĩ lão chim cũng nghịch nước! Thoắt cái lão đứng như treo trên đầu Diếc con, nhìn Diếc chăm chú.

Bỗng lão chim lão chim lao vút xuống đầu Diếc, cùng lúc luồng nước mạnh mang một bóng đen to lớn ào tới, nhấn Diếc con chìm sâu xuống. Diếc con được bác Rùa cứu thoát khỏi lão Bói cá.

Biết chuyện, Diếc mẹ dẫn con đến cảm ơn bác Rùa. Thì ra, chính cái "nhà" nặng nề trên lưng bác Rùa đã che chắn, cứu Diếc con thoát khỏi mỏ lão Bói cá độc ác.

Diếc con rất nhớ ơn bác rùa. Mỗi lần gặp bác Rùa, Diếc lễ phép chào:

- Cháu chào bác Rùa ạ!

Cá và Chim (Lớp mầm)

________________________________________

Có một chú chim đậu trên cành cây. Thấy chim cá bèn bơi lại gần. Cá rủ chim:

- Này bạn chim ơi!

Chim có biết bơi.

Xuống đây mà chơi

Thích lắm! Thích lắm!

Chim nói với cá:

- Ơi bạn cá ơi!

Chim không biết bơi

Chim không biết bơi

Chim có đôi cánh

Chim bay trên trời

Cá nghĩ một lát rồi bảo chim:

- Không sao chim ơi

Cá bơi dưới nước

Chim bay trên trời

Ta cùng đi chơi

Thích lắm! Thích lắm!

Thế rồi, cá và chim rủ nhau đi chơi, cá bơi dưới nước, còn chim bay lên trời.

Cái áo của thỏ con (Lớp mầm)

________________________________________

Trong khu rừng nọ có một chú Thỏ mắt hồng trong rất xinh. Thỏ mẹ may cho Thỏ con một cái áo bông trắng giống như áo của tất cả các chú Thỏ khác. Thỏ con không thích cái áo bông trắng, Thỏ con đòi mẹ phải may cho mình thật nhiều áo sặc sỡ khác.

Thỏ mẹ nghĩ mãi, nghĩ mãi, cuối cùng đành may cho Thỏ con một cái áo vàng, có viền mầu nâu giống như áo của Hổ. Thỏ con sung sướng mặc áo mới vào rồi xin phép mẹ ra đường chơi. Vừa lúc đó có mấy chú mèo con tung tăng chạy tới, Thỏ con liền gọi:

- Các bạn ơi, cho tôi cùng chơi với nào!

Mèo con hỏi:

- Thế tên bạn là gì?

Thỏ con trả lời:

- Tên tôi là Thỏ con.

Mấy chú Mèo con ngạc nhiên nhìn Thỏ con rồi nói:

- Thỏ gì mà mặc áo giống Hổ thế kia? Thôi đúng là Hổ rồi!

Thế là mấy chú Mèo hoảng sợ nấp vào sau bụi rậm. Thỏ con còn trơ lại một mình, chẳng biết chơi đùa ai cả. Thỏ con lủi thủi đi về nhà và nói với mẹ:

- Mẹ ơi, con không thích mặc áo giống Hổ đâu. Mẹ may cho con một cái áo khác cơ.

Thỏ mẹ lại nghỉ và cuối cùng đành may cho Thỏ con một cái áo màu đỏ chót giống như áo của Cáo. Thỏ con thích quá, mặc luôn áo mới rồi chạy ra đường chơi. Lúc ấy có hai chú Bê con đang đùa húc nhau bằng những cái sừng mới nhú, Thỏ con lại gần và nói:

- Các bạn ơi, cho tôi cùng chơi với nào!

Hai chú Bê con hỏi:

- Thế tên bạn là gì?

Thỏ con trả lời:

- Tôi là Thỏ con.

Bê con nói:

- Sao Thỏ lại mặc giống con Cáo thế kia? Thôi đúng là Cáo rồi!

Hai chú Bê dương sừng lên quát to:

- Không ai thèm chơi với Cáo. Đồ gian ác, hãy cút đi!

Thỏ con sợ hãi chạy về nhà. Thỏ con vừa khóc thút thít, vừa mách mẹ:

- Mẹ ơi, con không thích mặc áo đỏ giống con Cáo đâu. Mẹ may cho con một cái áo khác cơ.

Thỏ mẹ lại nghĩ, nghĩ mãi, cuối cùng Thỏ mẹ đành bảo con:

- Thôi con cứ mặc áo bông trắng của con vậy! Thỏ con phụng phịu mặc áo trắng rồi ra đường chơi. Ngoài đường có rất nhiều con vật đang chơi đùa vui vẻ. Thỏ con rụt rè nói:

- Các bạn ơi cho tôi cùng chơi với nào!

Các con vật xúm lại hỏi:

- Thế tên bạn là gì?

Thỏ con trả lời:

-Tôi tên là Thỏ con.

- Ôi, tên bạn hay quá. Cái áo trắng của bạn vừa đẹp, vừa sạch. Bạn lại đây chơi với chúng tôi đi!

Thế là Thỏ con, Mèo convà cả Bê con nữa cùng chơi với nhau rất vui vẻ.

Từ đấy trở đi Thỏ con rất thích cái áo bông trắng của mình và không đòi mẹ may cho áo khác nữa.

Các cháu thử đón xem vì sao Thỏ con lại thích mặc áo bông trắng?

Cái đuôi của Sóc Nâu (Lớp lá)

________________________________________

Sóc Nâu có cái đuôi bông thật tuyệt vời. Nó thường hênh hoang:

- Cái đuôi của tớ đẹp nhất nên tớ là đứa trẻ xinh đẹp nhất, tuyệt vời nhất! tớ sẽ đi khắp khu rừng để cho mọi người thấy...

Rồi Sóc Nâu bắt đầu lên đường. Gặp Gấu Đen, nó hí hửng chìa cái đuôi ra khoe. Gấu Đen bảo:

- cái tát của Gấu này mới tuyệt vời. Chú này có muốn thử không?

Sóc Nâu lắc đầu. Nếu bị Gấu tát thì chắc là đau lắm. Sóc nâu xấu hổ bỏ đi.

Một lúc sau, Sóc Nâu gặp Hổ Vằn. Nó lại đem cái đuôi ra để khoe. Lão Hổ Vằn gầm lên một tiếng động trời

- Móng vuốt cảu laòi Chú Sơn Lâm chúng ta mới là tuyệt vời, hiểu chưa, nhóc con?

Sóc Nâu sợ qaú chạy biến vào rừng sâu.

Ở nhà, Sóc mẹ đi tìm mãi mà không thấy Sóc Nâu đâu. Khi trở về, gặp trận mưa to. Sóc mẹ bị ướt và cảm lạnh.

Lũ thú nhỏ thương Sóc mẹ lắm, chúng rủ nhau đến săn sóc Sóc mẹ. Thỏ thì kiếm hạt dẻ, khỉ vào rừng tìm lá thuốc, Hoẵng ra suối lấy nước....Tất cả chỉ mong cho Sóc mẹ mau khỏi. Hươu Sao nói:

- Cháu cạhy nhanh như gió. Cháu sẽ đi tìm bạn Sóc Nâu về!

Ròng rã một ngày trời, Hươu Sao mới tìm thấy Sóc Nâu đang ngồi dưới góc cây, người run cầm cập vì đói và rét. Sóc Nâu òa khóc:

- Ở đây sợ lắm, chỉ tòan là thú dữ, chẳng ai thèm để ý cái đuôi của tớ. Hu...hu...hu...

- Thế sao cậu không về nhà, mẹ cậu lo lắm đấy? - Hươu Sao trách.

- Nhưng tớ bị lạc đường...hu...hu...

- Thôi, nín đi, để tớ đưa về!

Về đến nhà, Sóc Nâu kể về chuyến đi cho mẹ nghe. Sóc mẹ bảo:

- Cái đuôi bông dù có đẹp thì cũng chưa hẳn là tuyệt vời. Chỉ có những người bạn tốt khiêm tốn và sẵn lòng giúp đỡ người khác mới là những đứa trẻ tuyệt vời.

Bây giờ Sóc nâu đã hiểu. Sóc nâu cảm ơn các bạn và nói:

- Cho tớ được nhập hội nhé! Tớ muốn trở thành người tuyệt vời như các cậu mà!

Cái mồm (Lớp chồi)

________________________________________

Vốn đa sự, một hôm mồm nhận ra: cùng trên một khuôn mặt mà tai và mắt có đôi, cả mũi, tiếng là có một nhưng cũng có hai... lỗ. Duy mồm là thiệt thôi - chỉ có một! Chưa hết, tuy hai, nhưng tai chỉ nghe, mắt chỉ nhìn, mũi chỉ ngửi, ngoài ra có được tích sự gì nữa đâu! Còn mồm có một nhưng phải đảm đương biết bao nhiêu việc: ăn này, nói này, cười này. Đấy là chưa kể gặp những khi mũi không thở kịp, mồm còn phải thở hộ cả mũi nữa. Vậy đáng lý ra phải bốn mồm mới công bằng. Cùng lắm là hai như tai, mắt và mũi. Nghĩ thế mồm quyết tâm lên tận thiên đình gặp mười hai bà mụ để kêu oan.

Trên đường, mồm gặp hai người đi ngược chiều. Một người luôn mồm lải nhải, người kia bực quá dừng lại gắt: "Người đâu mà ... mồm !"

Mồm giật mình: "Đúng là xưa nay chỉ thấy người ta kêu lắm... mồm, chứ có thấy ai kêu lắm tai, lắm mắt, lắm mũi bao giờ đâu! Có một còn thế, nữa là bốn mồm thì loạn!"

Nghĩ thế, mồm quay về nhà và "câm như miệng hến".

Cáo và Rùa (lớp chồi)

________________________________________

Rùa là bạn thân của Ếch. Một hôm Rùa đến nhà Ếch chơi, từ xa Rùa đã nhìn thấy Cáo đang rón rén tiến lại gần Ếch. Rùa biết ngay sẽ có việc chẳng lành. Rùa nhẹ nhàng bò lại gần, cắn một cái thật mạnh vào đuôi Cáo. Cáo đau quá kêu lên, thế là Ếch nhảy xuống nước thoát thân.

Mất miếng mồi ngon Cáo tức quá quay sang định ăn thịt Rùa, Rùa liền rụt cổ vào biến thành một hòn đá, khiến Cáo tức giận hét lên: "Mau thò cổ ra đây kẻo ta ném vào lửa bây giờ!". Rùa bảo: "Được thế thì tốt quá! Lửa là nhà của tôi đấy!" Nghe Rùa nói, Cáo tưởng thật nghĩ bụng: "Đừng hòng ta cho mày được đắc ý!" Nghĩ rồi nó ném Rùa xuống nước.

Rùa bơi một mạch đến chỗ Ếch, cả hai leo lên chiếc lá sen ngồi giễu Cáo ngu ngốc. Cáo tức điên lao ra vồ, thế là ngã xuống nước và bị chết ngạt.

Cao và thấp

Một sáng mùa xuân, Dê và Lạc Đà rủ nhau vào công viên chơi. Dê thì thấp bé, Lạc Đà thì cao lêu nghêu. Dê nói:

- Thấp là tốt nhất.

- Còn Lạc Đà lại cho rằng "Cao vẫn tốt nhất", rồi sinh ra cãi nhau ầm ỹ.

Cả hai đã đến công viên, nhưng tường cao bốn bề, bên trong cây cối xum xuê

Cành là vườn cả ra ngoài tường. Lạc Đà chỉ cần ngẩng đầu lên là đã có những lá non ăn ngon miệng, còn Dê thì chịu... nhịn, nhìn lạc Đà ăn mà thèm.

Lạc Đà đắc chí cười khì:

- Rõ ràng cao là tốt hơn thấp rồi chứ?

Cả hai định vào công viên, nhưng khốn nỗi cái cửa ra vào lại vừa hẹp, vừa thấp, Dê chui vào dễ dàng gặm cỏ non xanh, còn Lạc Đà thì quỳ chân, cúi đầu cố chui vẫn không vào được.

Dê ta lên mặt nói với Lạc Đà:

- Đúng là thấp tốt hơn cao như lời tôi nói không nào? Tôi nói cấm có sai.

Lạc Đà lắc đầu Không nhận Dê đúng mình sai. Cả hai tiến đến nhờ bác Trâu phân xử, bác Trâu hiền từ nói:

- Chỉ nhìn thấy điểm mạnh, không nhìn thấy điểm yếu của mình, thì chẳng ai đúng đâu.

Lạc Đà, Dê phục thiện, nghe ra ý nghĩa lời nói của bác Trâu, thấy mình không đúng, bác Trâu nói chí phải, cần lấy đó sửa mình.

Cây rau của Thỏ Út (Lớp lá)

________________________________________

Mùa thu đã qua, mùa đông đã tới. Thỏ Mẹ dẫn các con ra vườn và bảo:

- Các con ạ, bây giờ là vụ rau rồi, mẹ sẽ dạy các con trồng củ cải nhé.

Ba anh em Thỏ ríu rít trả lời:

- Thưa mẹ, vâng ạ!

Bốn mẹ con quây quần bên luống đất, mẹ bắt đầu giảng:

- Muốn trồng rau, người ta phải làm đất, rồi gieo hạt...

Nhưng mới nghe mẹ nói vậy, thỏ Út đã nghĩ thầm: "Thế thì mình cũng biết rồi" và không chú ý nghe mẹ nói nữa. Chú ngồi đấy nhưng còn mải nhìn theo con bươm bướm ngoài vườn nên chẳng biết mẹ còn dặn điều gì nữa.

Mẹ giảng xong, ba anh em bắt đầu làm việc, mỗi người phải trồng một luống rau nho nhỏ. Hai anh của thỏ Út cặm cụi cuốc đất, đập đất cho nhỏ tơi ra rồi mới gieo hạt, còn Thỏ Út thì chỉ làm qua quýt rồi nhảy đi chơi.

Ít ngày sau, hạt giống nảy mầm. Những cây rau bé li ti hiện ra. Hai luống rau của các anh cây mọc đều, trông như những chiếc khăn màu xanh tươi phủ lên mặt đất, còn luống rau của thỏ Út thì cây mọc thưa thớt, cây cao, cây thấp. Thế nhưng thỏ Út vẫn mãi chơi chẳng chịu chăm bón gì cả.

Tới vụ thu hoạch, cây rau nào của các anh lá cũng to, củ cũng to, còn những cây rau của thỏ Út thì cằn cỗi vì thiếu nước, củ bé tí tẹo. Thỏ Út xấu hổ quá, biết nói sao với mẹ bây giờ?

Thấy vậy, thỏ Mẹ bảo:

-Nếu con chú ý nghe lời mẹ và chăm sóc vườn rau thì rau của con sẽ tươi tốt đúng không?

Sau vụ ấy, thỏ Út hỏi lại mẹ cách làm đất, trồng rau, vun luống, gieo hạt rồi bắt đầu trồng lại luống rau khác.

Đúng như lời mẹ đã nói: "Phải biết cách trồng và chăm sóc tưới bón". Lần này, rau của thỏ Út lớn rất nhanh. Đến vụ thu hoạch, thỏ Út chở về nhà những cây rau lá xanh non.

Thỏ Út rất vui. Mẹ thỏ còn vui hơn vì thấy thỏ Út đã biết chăm chỉ và chịu khó làm việc.

Cây táo (lớp mầm)

________________________________________

Mưa phùn bay, hoa đào nở. Ông trồng cây táo xuống đất. Bé tưới nước cho cây. Mặt trời sưởi nắng cho cây.

Con gà trống đi qua nói to:

- Cây ơi! Cây lớn mau.

Thế là những chiếc lá non bật ra.

Những con bươm bướm đi qua cũng nói to:

- Cây ơi! Cây lớn mau.

Thế là cây ra đầy hoa.

Một hôm: Ông, Bé, Gà, Bướm cùng nói to:

- Cây ơi! Cây lớn mau.

Thế là những quả táo chín ngon hiện ra.

Bé chìa áo ra, những quả táo chín ngon lành rơi đầy vào lòng Bé.

Câu chuyện của cái tay trái và tay phải (Lớp lá)

________________________________________

Từ trước đến giờ, Tay trái và tay phải luôn là hai người bạn thân thiết của nhau. Một hôm, mẹ đi chợ về. Tay phải giúp mẹ xách giỏ giúp mẹ, mệt quá nó mắng Tay trái:

- Cậu thật là sướng, chẳng phải làm việc gì nặng nhọc, còn tớ thì việc gì cũng phải làm. Từ việc xúc cơm, cầm bút, thái rau... tất tật đều do một tay tớ cả.

Nghe bạn nói vậy. Tay trái buồn bã chẳng nói gì. Nó lẳng lặng ngoảnh mặt đi chỗ khác và hứa sẽ không giúp tay phải việc gì nữa.

Rồi một buổi sáng, con người thức dậy và muốn đánh răng nhưng Tay Trái đã giận Tay phải mất rồi nên chỉ có một tay cầm bàn cahỉ, còn ly nước thì không sao cầm được. Con người bắt đầu không hài lòng vì đánh răng vừa cậhm vừa không sạch. Đến lúc cần mặc quần áo thì lại càng khổ hơn. Không thể nào cài nút được nếu chỉ có một tay. Vậy là con người đành mặc nhăn nhúm để kịp đến trường. Khi cô giáo dạy vẽ ô tô thì hết chịu nổi. Chỉ có một tay để cầm bút màu và không có tay nào để giữ giấy cả. giấy cứ chạy lung tung và trêu:

- Tại cậu chỉ biết quý trọng bản thân mình mà coi thường bạn nên hậu quả như vậy đấy!

- Sợ bị con người không cần đến mình nữa. Tay Phaỉa bèn năn nỉ Tay Trái:

- Cậu giúp tớ với! Việc này khó quá, tớ không làm được.

- Tay Trái vẫn còn giận, liền nói:

- Sao lúc trước cậu nói tớ chẳng được việc gì?

Tay Phải hối hận nói:

- Tớ biết mình sai rồi, thôi cho tớ xin lỗi. Chúng ta hòa nhé!

Thế là tay Trái và Tay Phải giúp con người đánh răng, mặc áo và làm nhiều việc khác một cách nhanh chóng, gọn gàng.

Cuối cùng Tay Phải sung sướng thốt lên:

- Nhờ cậu mà tớ đỡ vất vả. Cậu và tớ đều quan trọng như nhau. Không có cậu thì tớ có nhiều việc mà một mình tớ không thề nào làm đươc.

Câu chuyện trong rừng (Lớp mầm)

________________________________________

Ở một khu rừng nọ, có một chú Sóc rất thích đi du lịch. Hàng năm, cứ vào mùa thu, Sóc tạm thời bỏ ngôi nhà của mình để đi thăm những danh lam thắng cảnh mà Sóc yêu thích.

Vốn tính cẩn thận của họ nhà Sóc nên trước khi đi xa, Sóc phải chuẩn bị được một kho quả thông dự trữ để khi về nhà đói có cái ăn ngay. Nhưng vì tính hay quên và những kì thú của chuyến du lịch cuối thu quá hấp dẫn, say mê nên khi trở về Sóc tìm mãi không thấy ngôi nhà của mình. Ôi thôi, kho quả thông cũng đã biến mất rồi. Sóc vừa lo vừa sợ đói nên đứng khóc hu hu. Cả khu rừng vắng lặng. Nghe xa xa có tiếng khóc của Sóc, các bạn Gấu, Hươu Sao, Thỏ Trắng, Lợn rừng tất tưởi chạy đến. Rồi cả nhà Sẻ, Quạ Đen, Cú Mèo cũng từ bốn phía ùa đến. Sóc thấy xóm giềng đến thăm hỏi, trong lòng thấy yên tâm hơn và kể hết sự tình cho các bạn cùng nghe. Nghe xong cả bầy thú rừng cùng đồng thanh: "Chúng tôi sẽ giúp bạn đi tìm kho quả thông". Trong khi các bạn đang mải miết tìm kho quả thông, bỗng từ xa có tiếng reo của Cú Mèo: "Các bạn ơi! Kho quả thông đây rồi". Tiếng reo của Cú Mèo đã vang lên cả góc rừng. Sóc và bầy thú nghe thấy liền chạy nhanh về phía Cú Mèo. Các bạn reo hò mừng vui cùng Sóc. Sóc ngậm ngùi thầm cảm ơn Cú Mèo và các bạn láng giềng đã giúp đỡ mình.

Sau đó Sóc mời các bạn đến nhà mình cùng nhảy múa và ca hát.

Câu chuyện về giấy kẻ (lớp chồi)

________________________________________

Giấy kẻ là tên của một tờ giấy. Chúng ta hãy nghe điều gì xảy ra với giấy kẻ khi giáy kẻ đến trường nhé.

Trước đây giấy kẻ làm bạn với bé Hiền. Lúc đó giấy kẻ là một tờ giấy hạnh phúc. Bé Hiền nâng niu giấy kẻ, tập viết những chữ cái o, a kín cả hai mặt trang giấy. Khi đã sử dụng hết cả hai mặt của tờ giấy bé Hiền xếp giấy kẻ vào túi đựng giấy loại và bán cho bà đồng nát. Bà đồng nát chuyển giấy kẻ đến nhà máy giấy Bãi Bằng, ở đây các chú công nhân đã biến giấy kẻ trở thành một tờ giấy trắng tinh. Lần này bạn Minh là bạn mới của giấy kẻ. Nhưng thật buồn bạn Minh chỉ mới viết được vài chữ lên một mặt của tờ giấy là vứt luôn giấy kẻ vào thùng rác. Nằm trong thùng rác giấy kẻ hét lên: ....(Nào chúng ta cùng đón xem giấy kẻ hét lên điều gì?)

Đúng lúc đó bạn Hạnh đi qua, Hạnh cầm giấy kẻ lên xem và nói "Nếu là mình, mình đã viết vào cả hai mặt trang giấy". Nói vậy rồi Hạnh vứt luôn giấy kẻ ra sàn. Giấy kẻ buồn rầu nghĩ...(Giấy kẻ nghĩ gì vậy các bé? Các béthử đoán xem?).

Câu chuyện về giọt nước (Lớp chồi)

________________________________________

Một giọt nước nhỏ đọng trên chiếc lá sen. Giọt nước đong đưa, đong đưa. Giọt nước bé nhỏ này tới đây bằng cách nào nhỉ?

Chị Gió bay ngang nói:

- Cô Sen Hồng ơi, giọt nước ấy là của tôi đấy ! Chính tôi đã thổi giọt nước ấy đến đây.

Cô Mây Hồng sà xuống:

- Không phải đâu, chính tôi mang giọt nước ấy đến đây. Giọt nước ấy là của tôi chứ !

Còn cô Mưa thì bực tức:

- Các bạn nói sai hết rồi, chính tôi sinh ra giọt nước ấy. Các bạn xem, giọt nước ấy có giống tôi không?

Mọi người cứ cãi nhau mãi, ai cũng nhận giọt nước ấy là của mình. Bác Mặt Trời chứng kiến câu chuyện từ nãy đến giờ liền cười to và nói:

- Giọt nước ấy là của tất cả chúng ta đấy! Khi bác chiếu những ta nắng ấm áp xuống thì giọt nước tan biến đi tạo thành mây, chị Gió đưa cô Mây đi khắp nơi, và cuối cùng giọt nước quay trở về nằm trên chiếc lá sen này.

Cậu bé Mũi Dài (Lớp mầm)

________________________________________

Ngày xưa có một cậu bé có một cái mũi rất dài vì vậy mọi người gọi chú là "bé Mũi Dài"

Một buổi sáng mùa thu đẹp trời, tiếng gió thổi vi vu lay động những chiếc lá, Bé Mũi Dài nhìn thấy một vườn hoa với muôn vàn bông hoa đua nhau khoe sắc. Hoa hướng dương có màu vàng rực, hoa hồng, hoa cẩm chướng đỏ tươi. Xa xa có tiếng chim họa mi hót véo von.

Bỗng bé Mũi Dài nhìn thấy một cây táo sai trĩu quả. Những quả táo chín đỏ thơm lừng. Chú vội vàng trèo lên cây để hái những quả táo chín nhưng... chú không tài nào nào trèo lên được vì vướng cái mũi của mình. Bực quá bé Mũi Dài liền nói to: "Ước gì cái mũi của tôi biến mất. Tôi chẳng cần có mũi, tôi chỉ cần có miệng để ăn đủ thứ thơm ngon trên đời, để cười, để nói, tôi cũng chẳng cần tai, và tay cũng chẳng cần gì cả". Gần đấy có chú ong đậu trên một cành hoa, nghe thấy thế, ong ngạc nhiên và nói: "Tại sao bạn lại không cần có mũi? Đối với tôi, mũi rất cần, có mũi tôi thở được này, còn ngửi và phân biệt được các mùi thơm khác nhau của các loài hoa. Còn bạn, bạn có ngửi thấy mùi táo thơm ngon không? Nhờ có mũi mà bạn ngửi được và phân biệt được các mùi vị và hươngthơm khác nhau". Vừa lúc đó chim họa mi hót véo von bay đến nói với bé Mũi Dài: "Bạn Mũi Dài ơi, Nếu bạn không cần có tai thì làm sao bạn nghe được tiếng nói của tôi và những âm thanh diệu kỳ xung quanh. Bạn biết không nhờ có tai mà bạn nghe và phân biệt được mọi âm thanh đấy".

Ở gần đấy các cô hoa runh rinh cánh cũng đua nhau gọi: "Bạn Mũi Dài ơi! Bạn có nhình thấy một vườn hoa rực rỡ của tôi không? Bạn có thấy chúng tôi đẹp nhường nào không? Nếu bạn không có mắt thì làm sao bạn có thể nhìn thấy vẽ đẹp rực rỡ của chúng tôi được?".

Bé Mũi Dài nghe xong, ngẫm nghĩ một lát rồi hốt hoảng đưa tay sờ lên đầu, lên mặt, tai, mắt, mũi, miệng của mình để xem chúng có còn nữa không hay đã giận chú mà đi mất rồi. Bé muốn gọi to lên để nói lời xin lỗi nhưng run quá không tài nào gọi được.Chú ong, cô hoa, chim họa mi cùng gọi giúp cho cậu bé, còn chúnh ta, các cháu có đồng ý gọi giúp cậu bé không nào?".

Từ đó, cậu bé Mũi Dài nhận thấy tất cả tai, mũi, mắt, miệng, lưỡi đều cần thiết cho mình và không thể thiếu chúng được. Cậu thầm nghĩ: "Ôi! Nếu ta không có chúng thì sẽ như thế nào nhỉ? Thật là đáng sợ!". Và cũng từ đó cậu bé luôn nghe lời người lớn giữ gìn vệ sinh cơ thể sạch sẽ, giữ gìn đôi mắt, cái mũi... của mình mà không bao giờ có ý định vứt chúng đi nữa.

Chiếc áo đẹp

________________________________________

Gió bấc thổi ào ào qua khu rừng vắng. Một chú Thỏ bước ra, tay cầm lá cọ che thân. Bỗng cơn gió bay vèo kéo theo tấm lá của Thỏ xuống nước. Rét quá, Thỏ co ro trhầm nghĩ trong bụng: "Giá như mình có một chiếc áo thì hay biết mấy".

Vừa lúc đó nhím đi tới, Thỏ mừng quá:

- Bạn Nhím ơi, trời rét quá mà tôi thì ko có áo mặc, bạn giúp tôi may một chiếc áo nhé.

Nhím gật đầu ngay:

- Tôi sẵn lòng, kim thì tôi nhiều lắm, bạn xem này!

Nói xong Nhím rút một chiếc lông nhọn trên mình. Rồi như chợt nhớ ra điều gì:

- Kim thì có rồi, nhưng phỉa có chỉ thì mới may được áo chứ. Chúng mình đi tìm bạn nào có chỉ đi.

Cả hai đi một lúc đếm bãi nương dâu. Trên lá dâu là chị Tằm đang ra sức nhả tơ làm kén. Thỏ và Nhím cùng nói:

- Chị TẰm ơi, giá chị giúp chúng tôi được ít tơ làm chỉ may áo thì tốt biết mấy.

Chị Tằm thả mình xuống đưa cuộn tơ cho Thỏ và Nhím một cách vui vẻ.

- Có chỉ, có kim nhưng chưa có người cắt vải vẫn chưa may áo được. Chúng ta phải đi tìm người cắt vải đã.

Đi một quãng, họ gặp anh Bọ Ngựa đang vung kiếm cắt lá. Quả thật đúng là một tay cắt cừ khôi rồi!

Bọ Ngựa vung kiếm lên cắt ào ào, mọi người ngạc nhiên nói:

- Phải cắt theo kích thước chứ! Cắt bừa sẽ hỏng hết vải...

Bọ Ngựa vùng vằng:

- Đã bảo mà! Tôi có quen giúp ai đâu?

Nói rồi Bọ Ngựa giận dỗi bỏ đi. Thấy vậy Nhím liền nói:

- Chúng ta phải đi tìm người vặt giỏi nữa.

Đang đi thì họ gặp một ông Ốc Sên đang bò chậm chạm ven đường., Thỏ mừng quá réo lên:

- A đây rồi! ta đã có người vạch giỏi rồi.

Rồi cuối cùng chiếc áo đã hòan tành, Thò vui mừng khoác lên mình chiếc áo đẹp đầy nghĩa bạn bè.

Trong rừng gió bấc vẫn vi vu thổi, lá vàng vẫn rơi rơi. Nhưng các bạn cùng nhau nắm tay nhảy múa ca hát tưng bừng, chúng không còn lo Thỏ bị rét nữa.

Thế là một xưởng may quần áo toàn thợ lành nghề ra mắt. Khách hàng tấp nập đến xưởng. Trong xưởng may ai nấy đều cùng làm việc rất vui vẻ, chan hòa tình yêu thương.

Chiếc áo mùa xuân (Lớp lá)

________________________________________

Vào những ngày mùa đông lạnh cóng, tuyết rơi trắng xóa, cả Thỏ mẹ và Thỏ con

Đều khóac trên mình bộ áo da trắng tinh.

Sang xuân, chú Thỏ con vẫn mặc chiếc áo da trắng. trong rừng, cô Gà Gô đã thay một bộ áo hoa rất đẹp bởi mùa xuân, cánh đồng đầy ắp hoa đỏ lá xanh, còn vào mùa đông, tuyết phủ trắng thì phải mặc áo trắng, như thế sẽ dễ ẩn nấp hơn!

Đến bên hồ, một anh bạn Nhái Bén vừa mới thức dậy, toàn thân tỏa ánh xanh như cây cỏ. Ngay cả những anh Châu Chấu cũng hay áo mùa xuân mới: Anh thích nhảy trên bãi cỏ thì mặc áo xanh, còn anh thích nhảy trên bãi đất lại mặc áo nâu. Nhìn thấy Thỏ con. Châu Chấu cười giễu:

-Ha ha! Mùa xuân mà vẫn mặc áo da trắng cơ à? Đúng là đồ Thỏ ngốc nghếch!

Thỏ con xấu hổ quá, chạy thẳng một mạch về nhà, nằng nặc đòi mẹ phải thay quần áo cho, Thỏ mẹ cười và nói:

- Con thử soi gương xem nào.

Và thật kỳ lạ khi trong gương, chú thấy mình đã mọc rất nhiều lông màu xám. Thỏ sung sướng reo lên:

- A! thấy rồi, con đã mặc quần áo mùa xuân mẹ ạ!

Mấy ngày sau, hai mẹ con nhà Thỏ đã thay hết lông và mặc bộ quần áo mùa xuân mới.

Chiếc ấm sành nở hoa (lớp mầm)

________________________________________

Trời mùa đông lạnh buốt, mây đen xám xịt. Những ngọn gió len lỏi như muốn truyền cái lạnh vào từng lá cây, ngọn cỏ. Bên vệ đường một chiếc ấm sành sứt quai nằm lăn lóc. Có một đôi bướm vàng dáo dác tìm chỗ chú rét, ấm sành rụt rè hỏi:

- Bướm vàng ơi bướm vàng, hãy vào lòng tôi đây này!

Đôi bướm vàng bay vụt vào lòng ấm sành. Thật là chỗ trú ẩn tuyệt vời: ấm áp và khô ráo. Mùa xuân đến, đôi bướm vàng cảm ơn ấm sành và bay đi tìm hoa thơm. Còn lại một mình, ấm sành vừa buồn, vừa tuổi thân nức nở khóc.

- Hu! Hu! Sao chẳng có ai kết bạn với tôi? Sao chẳng có ai cần tôi thế này!

Có cô bé đi qua nhặt chiếc ấm sành sứt quai mang về nhà. Cô rửa sạch và đổ đầy đất vào lòng ấm, rồi gieo vào đó vài hạt giống. Mấy hôm sau, bỗng có tiếng ấm sành hốt hoảng:

- Ối! Ối! Có ai đang cựa quậy trong lòng tôi thế này?

- Tôi đây, tôi đây! Tôi là một cái cây con vừa nảy mầm đây!

Mầm cây lớn dần lên, xanh non mơn mởn. Rồi xuất hiện những nụ hoa. Và chẳng bao lâu sau, một bông hoa cựa mình rồi xòe cánh rực rỡ, tỏa hương thơm ngát. Bướm vàng bay đến reo to:

- Hoa đẹp quá, thơm quá. Cảm ơn ấm sành nhé!

Và từ đó, ấm sành không còn buồn vì không có bạn nữa.

Chiếc xe đạp của Gấu con

________________________________________

Có một chú gấu con, rất chịu khó ăn cơm với thức ăn và hoa quả, nên người chú rất khỏe, to béo, xinh trai. Chú lại rất chăm học, tập múa, hát chơi các đồ chơi lắp ráp... chẳng thua kém bạn nào trong lớp. Đặc biệt nhất là chú gấu con rất lễ phép với ông bà, bố mẹ, với cô giáo, với các anh chị lớn tuổi và chơi thân với các bạn trong lớp. Bởi vậy, tuần nào gấu con cũng đựoc côgiáo tặng phiếu " Bé ngoan''. Gấu con đem phiếu về khoe với mẹ, mẹ thơm lên má chú.

Hôm rằm tháng bảy, đúng ngày sinh nhật gấu con, bố mua tặng chú một chiếc xe đạp ba bánh mới tinh, sơn màu đỏ chót. Gấu con khoanh tay cám ơn bố. Hôm sau, gấu con dậy thật sớm, ăn sáng xong, chú khóac chiếc ba lô nhỏ đựng sách vở lên lưng, đạp xe đến lớp (vì nhà chú ở cạnh trường mà!). Chú lượn một vòng quanh sân chơi, rồi dừng lại, nhìn các bạn tủm tỉm cười, có vẻ rất tự hào. Các bạn trai xúm quanh gấu con, ai cũng muốn mượn xe đi thử. Voi con nằn nì:

- Cho tớ đi thử, một vòng thôi mà!

- Ôi, cậu to béo thế, ngồi lên xe cua tớ hỏng mất, xe cua tớ bị non hơi!

Nói rồi, gấu con lại cưỡi lên xe, đạp nhoay nhoáy. Xe chạy được một quãng, bỗng nhiên chững lại. Voi con chạy ngay tới xem sao. Hóa ra là xe của gấu con một bánh bị hết hơi. Voi con cắm ngay cái vòi của mình vào van xe rồi thổi từng hơi thật dài. Lát sau, lốp xe của gấu con căng phồng, cứng nhưlốp xe máy của bố. Các bạn vỗ tay hoan hô Voi con. Gấu con rất mừng, cảm ơn voi con đã giúp đỡ, rồi cho Voi con mượn xe đạp đi thử mấy vòng quanh sân trường.

Chim con và gà con (lớp mầm)

________________________________________

Chim con bay đi bay lại trên bầu trời. Gà con chiêm chiếp dưới gốc cây. Chim con bay mỏi cánh, sà xuống một cành cây để nghỉ. Gà con nhìn lên hỏi chim con "Trên trời chơi có thích không?". Chim con trả lời "Tất nhiên rồi". Gà con nghe vậy, trong bụng nghĩ thầm: "Vì sao chim con bay được mà mình lại không bay được. Mình cũng có đôi cánh kia mà!".

Thế rồi Gà con vỗ phành phạch đôi cánh, thế nhưng nó chỉ mới nhấc mình lên được một tẹo là rơi mình xuống ngay. Gà con buồn lắm, cúi gục đầu xuống. Chim con thấy thế liền bảo với Gà con: "Anh bạn, đừng vội, đừng vội. Tớ biết bay sẽ dẫn cậu bay khắp bầu trời!". Chim con bay sà xuống đậu bên Gà con, Gà con thích thú nhảy tót lên lưng chim con. " Nào chúng ta cùng bay nào!". Chim con duỗi đôi cánh, nhẹ nhàng bay vút lên không trung. Gà con thấy những đám mây bồng bềnh trôi như những nụ bông.

"Ôi! Thế giới thật rộng bao la" - Gà con vui thích quá. Chim con cũng vậy, thấy vui trong lòng vì nó có bạn mới.

Chim gáy (Lớp mầm)

________________________________________

Có một đôi chim Gáy sống trong rừng. Chúng ăn ở rất hiền lành. Đôi chim rất xinh xắn. Mỗi con có một bộ lông màu nâu và những hạt cườm lấp lánh ở cổ. Đầu chúng tròn và mượt, mắt nâu, cái mỏ thì nhỏ nhắn và đen láy.

Đôi chim Gáy chọn một lùm cây rậm rạp tha những ngọn cỏ, lá thông, cành khô về làm một chiếc tổ nhỏ. Ổ lởm chởm và khô nhưng đôi chim rất vừa lòng. Chim mái đẻ vào tổ 2 cái trứng xinh xinh. Rồi đôi chim thay nhau ấp. Mươi năm bữa sau, chúng nở.

Bọn chim non rất khoẻ và lớn như thổi. Suốt ngày chúng há rộng cái mỏ còn mềm đòi ăn. Cứ thấy động là chúng lại vỗ đôi cánh cụt lủn, vươn cổ lên kêu chim chíp... Một buổi, chim bố và chim mẹ đi kiếm mồi, một con Diều Hâu nhìn thấy lũ chim nhỏ, nó sà xuống đỗ ngay bên cái tổ của lũ chim Gáy. Lũ chim non sợ quá, gục đầu vào lưng nhau và run bần bật.

Từ lúc thấy đôi cánh Diều Hâu trùm xuống rừng, vợ chồng chim Gáy đã bỏ mồi quay lại.

- Về mau, về mau, chim bố giục.

Chúng cùng vun vút bay về như hai mũi tên. Diều Hâu đang bám vào thân cây cho chắc, sắp sửa quắp đôi chim non bay đi.

Giữa lúc đó, chim bố và chim mẹ về đến tổ. Chim mẹ và chim bố cùng xoè cánh, bay chập chờn trước mặt kẻ thù. Trông thấy chúng vật vờ như đôi chim ốm, Diều Hâu chỉ cần giơ vuốt ra là quắp được. Diều Hâu dang cánh bay lên. Đôi chim Gáy trở nên nhanh nhẹn. Chim mẹ vội lao xuống, bay quặt về tổ trong lúc chim bố bay đi, lấy thân mình làm mồi cho kẻ thù bay theo. Cuộc săn đuổi rất ác liệt.

Nhiều lúc chim bố tưởng nguy. Nhưng chiếc vuốt nhọn của Diều Hâu đã mấy lần quờ trên lưng nó làm những sợi lông màu nâu rơi xuống lã tã. Nhưng cuối cùng chim bố vẫn nhử được kẻ thù bay đi rất xa, rất xa. Đến lúc đã làm cho kẻ thù lạc đường và mỏi cánh, nó mới bổ xuống một bụi rậm, quay ngoắt về.

Về đến tổ, chim bố đã thấy lũ con được mớm ăn no. Chúng đang bình yên nằm nghếch đầu lên lưng nhau mà ngủ dưới chân mẹ. Thấy chim bố về, chim mẹ vui mừng chớp chớp đôi mắt nâu mở rất to.

"Cúc cu; Cúc cu". Nhìn đàn con nguyên vẹn, chim bố cất tiếng gáy dồn vui vẻ.

Chim vàng anh

________________________________________

Mùa thu sắp trôi qua. Chim muông trong rừng đều lo xây tổ, tích trữ thức ăn cho những ngày giá buốt. Chỉ có Vàng Anh vẫn rong chơi suốt ngày, lại còn cười giễu bạn bè là quá lo xa.

Mùa đông sắp đến, trời đã se lạnh. Vàng Anh phải náu mình trong khe đá, bụng đói run lên, nó than thở: "Ôi, lạnh đến chết mất! Mai mình phải xây tổ thôi!"

Trời vẫn còn hửng nắng, ánh nắng lọt vào khe đá khiến chim Vàng Anh thấy dễ chịu hẳn, nó quên luôn mùa đông đang đến gần , quên luôn cả dự định xây tổ.

Chiều tối, gió rét tràn về khắp khu rừng. Chim Vàng Anh không có tổ nên lạnh cóng luôn miệng kêu lên: "Lạnh quá, lạnh quá! Ngày mai mình nhất định sẽ xây tổ!"

Nhưng sáng hôm sau Vàng Anh lại mải chơi, không nghĩ gì đến việc xây tổ nữa. Trời càng ngày càng lạnh, Vàng Anh vừa đói vừa rét, nó rũ cánh, từ từ nhắm mắt và không còn tỉnh lại được nữa.

Chim vàng anh ca hát (Lớp lá)

________________________________________

Các loài chim và thú trong rừng đang chuẩn bị hội diễn văn nghệ. Chị Sóc nâu tìm gặp Vàng Anh và bảo:

- Hôm hội diễn em sẽ hát một bài nhé!

Vốn nhút nhát nên Vàng Anh chẳng dám nhận lời. Mẹ Vàng Anh động viên mãi, cô bé mớ "Vâng ạ!". Khi chị Sóc Nâu giới thiệu, người xem đã vỗ tay hoan hô trước, làm Vàng Anh cứ sờ sợ, tim đập thình thịch. Rụt rè một lúc lâu, Vàng anh mới dám bước ra sân khấu.

Vì quá run sợ, ca sĩ tí hon Vàng Anh chỉ hát được có nửa bài "Em là hoa hồng nhỏ", rồi bỏ sân khấu, buồn bã bay về nhà.

Các bạn chim Khách, Sáo Sậu, Khiếu, Họa mi... ngồi nghe ở dưới bàn tán:

- Cô bé Vàng Anh có giọng hát rất hay, nhưng nhút nhát quá không hát được!

Về tới nhà, Vàng Anh Phụng Phịu nói với mẹ:

- từ nay con chẳng hát nữa đâu! Người nghe thật là đông, ngượng chết đi được! Mẹ Vàng Anh lại bảo:

- Con cứ tập hát thật nhiều trước các bạn. Rồi con sẽ bạo dạn hơn!

Nghe lời mẹ, sau đó, ngày nào Vàng Anh cũng tập hát và hát cho các anh Vẹt xanh nghe. Có Khi lại biểu diễn cho các chị chim Khách, các cô Sáo đen, Sáo sậu, Chào mào nghe. Ai cũng khen Vàng Anh hát hay hơn và bạo dạn hơn nhiều. Cô bé hát bài "Trái đất này là của chúng mình", người nghe vỗ tay thật dòn, đòi hát lại đến ba lần. Tiếng hát chưa dứt, Vàng Anh đã ôm hoa tặng đầy ngực và vui sướng đến trào nước mắt.

Chó, gà trống và cáo (truyện ngụ ngôn)

________________________________________

Chó và gà trống là một đôi bạn thân. Một hôm, chúng rủ nhau đi chơi. Đến tối, tới một khu rừng, hai đứa bèn rủ nhau nghỉ lại.

Gà trống bay lên đậu trên cành cây cao, còn chó ta chui vào ngủ trong hốc cây to. Khi mặt trời mọc, gà trống theo lệ gáy lên một chặp. Một con cáo ranh mãnh nghe tiếng gà gáy, muốn ăn thịt gà liền chạy ngay tới gốc cây. Nó cao giọng mời gà xuống đất cùng vui chơi.

Gà trống thông minh giả bộ thân mật nói:

- Anh có đánh thức người canh cổng ở dưới gốc cây dậy thì tôi mới bay xuống với anh được.

- Cáo già không nghĩ ngợi gì, chạy tới gọi cửa. Chó liền xông ra, cắn đứt cổ cáo già.

Chú bé lọ lem (lớp chồi)

________________________________________

Bạn Tít chẳng phải là em của cô Lọ Lem trong truyện cổ tích đâu nhé. Mọi người gọi Tít là "lọ lem" chỉ vì cậu rất lười tắm. Cứ mỗi lần bà nhắc đi tắm là Tít trốn chạy hoặc hét vang lên: "Hôm qua cháu tắm rồi!". Buổi chiều, mẹ gọi Tít về tắm. Tít lại tìm mọi cách trốn mẹ để không phải tắm gội. Như vậy, không ai có thể bảo Tít tắm được, lúc nào thích cậu còn ngồi bệt ra đất nghịch bẩn nữa.

Một hôm, thấy các bạn chơi đùa ngoài sân vui quá, Tít cũng chạy ra chơi cùng. Mặc dù Tít đã cười thật tươi mà các bạn cứ nhìn Tít chằm chằm, rồi tất cả bịt mũi bỏ chạy. Tít giận dỗi ra chơi với cún con, nhưng Tít vừa đưa tay vuốt ve thì cún con đã khịt khịt mũi và co cẳng chạy. Tít đứng một mình buồn thiu, chả ai muốn chơi với cậu. Vừa lúc đó Tít thấy có cậu bé đang ngồi một mình. Tít mừng quá: A! Mình đã có bạn rồi. Tít chạy lại gần, hai bạn nhìn nhau, mỉm cười làm quen, rồi bỗng dưng cả hai cùng bịt mũi bỏ chạy. quái lạ, sao thế nhỉ?. Sau đó Tít hiểu ra rằng: Lười tắm gội, bẩn thỉu như Tít và cậu bé kia thì chẳng ai muốn chơi cùng. Từ đó Tít quyết tâm không bị gọi là "lọ lem" nữa, ngày nào cậu cũng tắm rửa sạch sẽ, giữ gìn quần áo, mặt mũi đầu tóc gọn gàng.

Chú chim lười biếng (Lớp chồi)

________________________________________

Mùa đông sắp đến, các loài chim trong rừng thi nhau tìm thức ăn để dự trữ cho mùa đông. Riêng chỉ có chích chòe là lười biếng suốt ngày chỉ mải chơi và ngủ.

Một hôm chích chòe nhìn thấy các bạn chào mào, chim sâu, gõ kiến mải mê đi tìm thức ăn, chích chòe trêu bạn lo xa rồi lại tiếp tục đi chơi.

Tối đến chích chòe nấp trong những tán lá để ngủ, những giọt sương rơi xuống làm cho chích chòe lạnh lắm nhưng đói bụng quá nên đành ngủ thiếp đi và nghĩ bụng mai sẽ đi tìm thức ăn.

Sáng hôm sau, ông mặt trời chiếu những tia sáng làm chích chòe tỉnh giấc nhưng chích chòe lại lười và cũng không muốn đi tìm thức ăn nữa.

Mùa đông, trời lạnh buốt đến ai ai cũng ở trong tổ của mình với những thức ăn thật ngon. Riêng chích chòe vừa lạnh rét vừa đói, chích chòe từ từ nhắm mắt lại và không mở ra được nữa.

Chú Dê đen

________________________________________

Có một chú Dê Trắng đang đi tới một khu rừng để tìm ăn những chiếc lá non và uống nước suối. Bất chợt, một con Sói ở đâu đi tới trước mặt, nó quát hỏi:

- Dê kia, mày đi đâu?

- Tôi đi tìm lá non để ăn và nước mát để uống.

- Mày có gì ở chân?

- Chân tôi có móng.

- Trên đầu mày có gì?

- Trên đầu tôi có sừng.

Sói hỏi tiếp:

- Bây giờ mày hãy trả lời tao: Tim mày thể nào?

- Tim tôi đang run sợ.

- A! Ha!

Sói cười vang rồi ăn thịt luôn chú Dê Trắng.

Một chú Dê Đen cũng tới khu rừng đê ăn lá non và uống nước suối. Sói đã ngồi sẵn ở đó. Thấy Dê Đen đi qua, nó quát hỏi:

- Dê kia, mày đi đâu?

- Tao đi tìm kẻ nào hay gây sự đây.

- Mày có gì ở chân?

- Chân thép của tao có móng bằng đồng.

- Trên đầu mày có gì?

- Trên đầu tao có đôi sừng bằng kim cương.

Sói lại tiếp.

- Thế bây giờ mày hãy trả lời tao: tim mày thế nào?

- Trái tim thép của tao bảo tao: hãy cắm đôi sừng bằng kim cương của tao vào bụng mày. Nào Sói hãy lại đây thử xem!

Sói sợ quá vội vàng chuồn thẳng.

Chú đỗ con

________________________________________

Một chú Đỗ con ngủ khì trong cái chum khô ráo và tối om suốt một năm. Một hôm tỉnh dậy chú thấy mình nằm giữa những hạt đất li ti xôm xốp. Chợt có tiếng lộp độp bên ngoài.

-Ai đó?

-Cô đây.

Thì ra cô Mưa Xuân, đem nước đến cho Đỗ con được tắm mát, chú lại ngủ khì. Có tiếng sáo vi vu trên mặt đất làm chú tỉnh giấc. Chú khẽ cựa mình hỏi:

- Ai đó?

Tiếng thì thầm trả lời chú: "Chị đây mà, chị là Gió Xuân đây. Dậy đi em, mùa xuân đẹp lắm". Đỗ con lại cựa mình. Chú thấy mình lớn phổng lên làm nứt cả chiếc áo ngoài.

Chị Gió Xuân bay đi. Có những tia nắng ấm ấp khẽ lay chú Đỗ con. Đỗ con hỏi:

- Ai đó?

Một giọng nói ồm ồm, âm ấm vang lên:

- Bác đây! Bác là Mặt trời đây, cháu dậy đi thôi, sáng lắm rồi. Các cậu học trò cắp sách tới trường rồi đấy.

Đỗ con rụt rè nói:

- Nhưng mà trên đấy lạnh lắm.

Bác Mặt trời khuyên:

- Cháu cứ vùng dậy đi nào. Bác sẽ sưởi ấm cho cháu, cựa mạnh vào.

Đỗ con vươn vai một cái thật mạnh. Chú trồi lên khỏi mặt đất. Mặt đất sáng bừng ánh nắng xuân. Đỗ con xoè hai cánh tay nhỏ xíu hướng về phía mặt trời ấm áp.

Chú mèo đánh răng (lớp chồi)

________________________________________

Bác Lợn mới mở cửa hàng bán bàn chải đánh răng, trước cửa có treo một biển quảng cáo rất to: "Bàn chải đánh răng chất lượng hạng nhất, một lần sạch ngay". Nhìn kìa, chú Voi đã đến. Bác Lợn khiêng ra một bàn chải to nhất đưa cho chú Voi. Chú Voi cảm ơn bác Lợn và vui vẻ ra về. Mèo Con cũng muốn mua một bàn chải to, Bác Lợn nói: "Miệng cháu nhỏ, mua bàn chải nhỏ đánh răng mới sạch!". Mèo Con vừa về đến nhà là đánh răng luôn, đánh mãi đến nỗi chảy cả máu răng. Chú sợ quá vội vàng đi tìm Bác Lợn: "Bác Lợn ơi bàn chải của bác không tốt".Bác Lợn nói: "Đó là vì cách đánh răng của cháu không đúng". Bác gọi Lợn Con ra và bảo: "Con hãy dạy Mèo Con đánh răng đi". À, hóa ra là như thế này: Răng trên đánh từ trên xuống dưới , răng dưới lại phải đánh từ dưới lên trên, mặt răng hàm phải đánh đi, đánh lại, bên trong, bên ngoài, đều phải đánh. Mèo Con xem hết lần này, đến lần khác: "Tôi biết rồi". Về đến nhà chú lại tiếp tục đánh răng...ấy làm sao mà đánh mãi không ra bọt trắng nhỉ? Mèo Con lại chạy đi tìm Bác Lợn: "Bàn chải của bác không tốt, đánh mãi không ra bọt". Bác Lợn cười nói: "Vì cháu không dùng kem đánh răng". "Đúng rồi, cháu quên mất!" Mèo Con lè lưỡi ra ngượng ngùng, rồi chú mua luôn một tuýp thuốc đánh răng. Mèo Con dung kem đánh răng nhưng không thấy bọt đâu cả. "Ha! Ha! Đồ ngốc!" Chú Voi dùng vòi của mình phun nước vào mồm Mèo Con. "A, có bọt rồi, bọt càng ngày càng nhiều". Mèo Con càng đánh càng thích. Từ đó, mỗi khi bác Gà Trống gáy ò, ó, o thì Mèo Con lập tức dậy đánh răng. Nhưng một vài ngày sau, Mèo Con đột nhiên bị đau răng, mắt cũng sưng vù lên. Chú tức giận chạy đến tìm Bác Lợn: "Bàn chải của bác chẳng tốt tẹo nào". Bác Lợn thấy răng của Mèo Con bị sâu răng rồi, tại sao thế nhỉ? Bác Lợn gãi gãi đầu: "Bác biết rồi, buổi tối cháu thường bắt chuột phải không?" "Vâng ạ" Mèo Con gật đầu. "Cháu ăn chuột xong có đánh răng không?" Bác Lợn lại hỏi "Không ạ!". Ấy, ăn gì trước khi đi ngủ cũng phải đánh răng, nếu không răng sẽ sâu" "Hóa ra là chuyện đó". Sauk hi Mèo Con chữa răng xong, buổi tối sau khi ăn chuột, chú đều đánh răng sạch sẽ rồi mới đi ngủ. Từ đó về sau, răng của Mèo Con lúc nào cũng tốt.

Chú thỏ tinh khôn (lớp mầm)

________________________________________

Có một lần Thỏ đến bên bờ sông bứt ngọn cỏ non nhai ngốn ngấu. Cá Sấu ở gần đó, nằm im giả như không nhìn thấy. Thỏ yên trí ăn rau. Cá Sấu liền giả bộ hiền lành từ từ bò đến bên Thỏ, rồi đột nhiên đớp gọn Thỏ vào mồm.

Cá Sấu kêu lên: "Hu! Hu" ở trong họng cốt làm cho Thỏ sợ. Thỏ đã nằm gọn trong hàm cá Sấu. Thỏ sợ quá nhưng vẫn bình tĩnh tìm kế thoát thân.

Thỏ nói: - Bác Cá Sấu ơi, bác kêu "Hu! Hu" tôi chẳng sợ đâu. Bác mà kêu "Ha! Ha!" thì tôi sẽ sợ chết khiếp đi mất.

Nghe Thỏ nói thế, Cá Sấu liền há to mồm kêu lên "Ha! Ha!". Thỏ nhảy phốc khỏi miệng Cá Sấu rồi quay lại cười nhạo và chạy biến vào rừng.

Chú Vịt khàn

________________________________________

Gà và Vịt đều học lớp cô giáo Họa Mi. Gà nghe lời cô giáo: Khi đi dường, Gà luôn đi bên tay phải và gặp ai Gà cũng đứng lại khoanh tay chào. Còn Vịt con thì chỉ thích chạy lăng xăng. Thấy ai Vịt cũng hét toáng lên gọi tên ầm ĩ.

Trên đường đi, thấy bác Ngỗng dẫn con ăn cỏ bờ ruộng. Đứng từ xa, Vịt con ngông cổ gọi Ngỗng con ầm ĩ, làm bé Ngỗng út giật mình, suýt rơi xuống nước. Thấy vậy bác Ngỗng bảo:

- Cháu muốn hỏi ai thì đến gần và nói nhẹ nhàng, đừng đứng ở xa mà kêu toáng lên như vậy là không tốt đâu!

Trên lớp học cô giáo Họa Mi dạy hát. Các bạn ai cũng khen Gà hát đúng giọng

như cô dạy, còn Vịt con thì gân cổ hát thật to, làm cô giáo phải nhiều lần nhắc nhở. Đến giờ chơi, Vịt con cứ chạy lăng xăng từ góc Xây dựng sang góc Phân vai rồi đến góc Nghệ thuật vá hét vào tai các bạn làm các bạn đang chơi ở các góc đều giật mình. Cô giáo lại phải nhắc nhở Vịt, nhưng Vịt con vẫn chứng nào tật ấy.

Hôm cô giáo cho đi tham quan cửa hàng bán đồ chơi, khi vào cửa hàng, Vịt con cứ luôn mồm khen cái này đẹp, chê cái kia xấu. Cô giáo lại phải nhắc nhở.

Trên đường về, Vịt con lại chẳng đi theo hàng cùng các bạn và cô giáo. Vịt con cứ chạy lăng xăng và bị vấp ngã. Vịt con kêu toáng lên và gào khóc ầm ĩ. Cô giáo Họa Mi phải đưa Vịt về nhà.

Về đến nhà, Vịt con thấy mẹ lại làm nũng, khóc to hơn. Một lúc sau, Vịt con mệt quá, ngủ thiếp đi.

Tỉnh dậy, Vịt con chẳng nói được nữa, mẹ phải đưa Vịt đến bác sĩ Sóc Nâu khám bệnh. Bác sĩ bảo:

- Cháu bị khàn tiếng là do nói to, nòi nhiều, và hay khóc nhè.

Vịt con nghe bác sĩ nói thấy hối hận lắm. Vịt cuối đầu thầm nghĩ: "Từ nay mình không như thế nữa".

Rồi Vịt định hứa với mẹ điều gì, nhưng giọng của Vịt đã khan mất rồi nên Vịt chỉ kêu được mấy tiếng "cạp, cạp, cạp".

Chú Vịt tốt bụng (Lớp lá)

________________________________________

Một buổi sáng Vịt con và Mèo con cùng đi tới lớp. Vốn là đôi bạn thân nên cả hai như hình với bóng, chẳng bao giờ giận dỗi nhau. Mèo con có phần lém lỉnh tinh nghịch, còn Vịt con thì hiền lành và chăm chỉ.

Dọc đường, cả hai bỗng phát hiện ra một lẵng hoa rất đẹp dường như ai đó đã bỏ quyên. Mèo con hãm hở nhặt lên và reo vui:

- Cậu xem này, lần đầu tiên tớ được cầm một lẵng hoa đẹp như thế này.

- Không hiểu ai đã bỏ quên nhỉ? Vịt con băn khoăn. Tớ nghĩ bọn mình nên canh chừng kẻo đàn chim sẻ đến phá hỏng lẵng hoa mất, chắc lát nữa chủ nhân của nó sẽ quay lại thôi.

Mèo con, Vịt con ngồi trông lẵng hoa, nhưng mãi chẳng có ai đến nhận cả. Mèo con ngập ngừng:

- Sắp đến giờ học rồi. Tốt nhất bọn mình mang theo lẵng hoa, rồi vừa đi vừa hỏi. Hay là người chủ này có nhiều lẵng hoa nên bỏ bớt một lẵng nhỉ?

Chẳng còn cách nào khác nên đôi bạn đành manh theo lẵng hoa và tiếp tục đến trường. Đi ngang qua nhà bác Gấu. Vịt con quay sang nói với mèo con:

- Mấy hôm nay bác Gấu bị ốm, mẹ tớ đã dặn mang một ít mật ong đến thăm bác. Tớ muốn mang một bông hoavào tặng bác Gấu nữa. Có thể bác ấy sẽ rất vui và chóng khỏe.

Nói sao làm vậy, Vịt con nhanh nhẹn rút một bông hoa mang tặng bác Gấu. Mèo con có vẻ không hài lòng lắm:

- Sao cậu lại làm thế? Nếu không có người nhận thì lẵng hoa là của bọn mình chứ.

- Nếu chủ của lẵng hoa có ở đây, chắc chắn người ấy sẽ đồng ý với tớ. Vịt con mỉm cười.

Mèo con đành im lặng không phàn nàn gì. Một lát sau cả hai trông thấy anh em nhà Sóc đang tranh nhau món hạt dẻ. Chẳng ai nhường ai, vì gia đình sóc đông anh em mà hạt dẻ vào mùa đông thì thật là hiếm. Vịt con rút mấy bông hoa thật đẹp, đưa cho chú Sóc lớn và nói:

- Nếu cậu nhường hạt dẻ cho em Sóc nhỏ, tớ sẽ tặng cậu những bông hoa này.

Vậy là mọi chuyện được giải quyết nhanh chóng.

Cứ như thế, Vịt con tặng hoa cho rất nhiều người, những người đang gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Đến khi chỉ còn vài bông, Mèo con cầm lấy lẵng hoa và bảo:

- Chỗ còn lại là của tớ. Cậu thật lãng phí khi không giữ hoa cho mình mà đem tặng hết mọi người.

Bẵng đi mấy hôm, những bó hopa Mèo con mang về nhà rồi cũng héo tàn. Khi sang nhà Vịt con chơi, Nó rất ngạc nhiên khi thấy trong nhà Vịt bao nhiêu là hoa rực rỡ. Thì ra mọi người vẫn luôn nhớ lòng tốt của Vịt con nên đã mang hoa tặng cho Vịt. Không những thế Vịt con mang hoa ra vườn trồng và chẳng bao lâu, nó có một vườn hoa khoe sắc quanh năm. Bây giờ nó mới hiểu, giúp đỡ người khác chẳng bao giờ là việc ngốc nghếch cả.

Chú Vịt Xám (lớp mầm)

________________________________________

Vịt mẹ dẫn Vịt con đi chơi. Trước khi đi, Vịt mẹ dặn:

- Các con phải đi theo mẹ, theo đàn, không được tách ra đi một mình mà con cáo ăn thịt đấy!

Đàn Vịt con vâng dạ rối rít.

Vừa ra khỏi cổng làng, chú Vịt Xám đã quên ngay lời mẹ dặn. Chú lẻn đi chơi một mình, lang thang hết nơi này đến nơi khác. Cuối cùng chú đến một cái ao có rất nhiều tôm cá. Đứng trên bờ nhìn xuống, chú thấy từng đàn cá, tôm bơi lội tung tăng dưới nước, thỉnh thoảng một con tôm cong mình nhảy tanh tách. Thích quá, chú nhảy xuống mò lấy, mò để. Lúc ăn đã gần no, chú mới nhìn lên chẳng thấy Vịt mẹ đâu cả. Hoảng sợ, chú nhảy lên bờ gọi mẹ ầm ĩ: "Vít... vít... vít". Gần đấy có một con cáo đang ngủ, nghe tiếng Vịt kêu, Cáo liền nhỏm dậy. Nó lẩm bẩm:

- Chà thịt vịt con ăn ngon lắm đấy! Hôm nay mình sẽ được một bữa thịt vịt thật là ngon.

Nói rồi Cáo đi nhanh ra phía bờ ao. Khi Cáo vừa ra đến nơi thì cũng là lúc Vịt mẹ tìm thấy Vịt Xám. Trông thấy Cáo, Vịt mẹ vội dẫn Vịt Xám nhảy tùm xuống ao. Thế là Vịt Xám thoát chết. Từ đấy Vịt Xám không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.

Chuột, gà trống và mèo (lớp chồi)

________________________________________

Chuột con ra khỏi tổ dạo chơi. Nó tha thẩn khắp sân rồi lại về với mẹ:

Này mẹ ơi, con nhìn thấy hai con thú cơ. Một con thú dữ tợn, còn con kia hiền khô.

Mẹ nó bảo:

- Con nói cho mẹ xem hai con thú ấy ra làm sao nào.

Chuột con thưa:

- Một con dữ tợn, đi đi lại lại trên sân thế này này: chân nó đen thui, mào nó đỏ ối, cặp mắt nó lồi ra, còn cái mũi nó khoằm khoằm. Khi con đi ngang qua, nó há hốc cái mồm ra, nhấc một chân và lên tiếng quát to đến nỗi con sợ quá chẳng còn biết chạy đi đâu.

- Đấy là con gà trống - chuột mẹ nói - Nó chẳng làm hại ai đâu, đừng sợ nó. Thế còn con thú kia?

- Con thú kia nằm ngoài nắng sưởi ấm. Cổ nó trắng, chân nó xám mượt mà, nó đưa cái lưỡi liếm cái ngực trắng của nó và cái đuôi hơi ngoe nguẩy, nhìn theo con.

Chuột mẹ bảo:

- Con ngốc lắm. Nó chính là mèo đấy

Chuột nhắt đi khám bệnh (lớp Chồi)

________________________________________

Phòng mạch bác sĩ Gấu rất đông khách, các bệnh nhân nhí đều trật tự xếp hàng chờ đến lượt mình.

Ngồi hàng đầu là Mèo con. Chú được bố đưa đến khám vì bị sốt và sổ mũi. Do hôm qua Mèo con mải chạy chơi ngoài nắng mà không chịu đội mũ nên bị cảm.

Ngồi cạnh Mèo con là Thỏ con xinh xắn, chẳng biết chú ta nghịch thế nào mà bị rách tai, chảy cả máu.

Tiếp theo là Heo con. Mẹ cô bé kể rằng chỉ vì quá tham ăn nên cô bé bị đau bụng.

Lúc này phòng khám có thêm một bệnh nhân nữa là Chuột nhắt, chú nắm tay bạn có vẻ sợ sệt. Thấy Chuột nhắt bé nhất, bác sĩ Gấu hỏi thăm:

- Cháu bệnh gì nào?

Chuột ấp úng trả lời:

- Cháu bị bệnh... bị bệnh sợ đi học ạ!

Bác sĩ Gấu cười lớn rồi nói:

- Không vâng lời bố mẹ bị sốt, bị đau bụng là những bệnh cần phải chữa. Nhưng bệnh sợ đi học làm bố mẹ buồn nên phải chữa ngay lập tức.

Rồi quay sang Mèo con, Thỏ con và Heo con, bác sĩ nháy mắt:

- Các cháu nhường cho Chuột nhắt khám trước nhé!

Sau khi được bác sĩ khám, Chuột nhắt phấn khởi ra về. Từ đó chú rất chăm chỉ đi học không bỏ buổi nào.

Chuyện của dê con (Lớp lá)

________________________________________

Dê mẹ bị ốm nặng phải nằm ở nhà liền gọi Dê con đến và bảo:

- Hôm nay con chịu khó đi kiếm thức ăn nhé! Nhưng con phải cẩn thận kẻo gặp Chó Sói đấy! Chó Sói có....

Chưa nghe mẹ nói hết câu, Dê con nhanh nhảu đáp:

- Mẹ cứ yên tâm! Con biết mặt Chó Sói rồi mà!

Nói rồi, Dê con chào mẹ rồi chạy vào rừng. Dê con gặp một con vật có hai cành cây khô trên đầu. Dê con nghĩ: "Chắc đây là Chó Sói rồi!" và quay đầu bỏ chạy. Nhưng con vật đó cười và nói:

- Này Dê con , tờ là Hươu đây... Có gì mà bạn hốt hoảng thế?

Dê con đã nghe mẹ kể về bạn Hươu hiền lành, tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người nên nó dừng lại và nói:

- Thế bạn là Hươu à?

-ừ! Bạn vào rừng một mình phải coi chừng gặp Chó Sói nhé! Chó Sói có cái đuôi dài xù lông và hàm răng...

Dê con chẳng đợi bạn Hươu nói hết câu đã đáp:

- Tờ biết rồi!

Nói xong, Dê con đi tiếp vào rừng. Dê con ngẩng đầu nhìn lên cây và thấy một con vật có cái đuôi xù lông. Dê con hoảng sợ vừa hét lên vừa bỏ chạy:

- Mẹ ơi! Chó Sói!

Con vật ở trên cây bèn gọi:

- Dê con ơi! Tôi không phải là Chó Sói đâu, tôi là sóc đây. Chó sói có móng vuốt...

Chẳng đợi Sóc nói xong. Dê con đáp:

- Tôi biết rồi!

Và nó chạy tót đi. Được một quãng. Dê con gặp một con vật có bộ lông màu xám. Con vật cất giọng ôn tồn:

- Chào cháu Dê con! Bác có quà cho cháu, lại đây với bác nào!

Dê con nghe nói được cho quà thì thích lắm liền tiến lại gần. Chợt cô Thỏ Nâu đi ngang qua thấy vậy liền gọi to: Dê con ơi! Chó Sói đấy! Chạy mau!

Dê con hốt hoảng cahỵ thục mạng. Ngoảnh lại đằng sau, Dê con thấy Chó Sói đang đuổi theo. Đang lúc nguy cấp thì cô Thỏ Nâu chạy ngang qua mặt Chó Sói, Chó Sói liền đuổi theo cô Thỏ Nâu. Thừa cơ, Dê con chạy vội về nhà. Cô Thỏ Nâu nhanh trí chui vào trong một hốc cây, Chó Sói' đành tiu nghỉu bỏ đi.

Dê mẹ thấy Dê con chạy về liền hỏi:

- Có chuyện gì vậy hả con?

- Con vẫn chưa kiếm được cái gì ăn nên bụng đói meo. Nhưng con đã gặp bạn Hươu, bạn sóc, cô Thỏ Nâu và cả lão Chó Sói hung ác đấy!

- Vậy à? và còn gì nữa nào?

- Từ nay trở đi, con sẽ lắng nghe lời chỉ bảo của mọi người và chẳng dám nói "Biết rồi" nữa đâu mẹ ạ!

Chuyện của hoa phù dung

________________________________________

Kể cũng lạ thật! Nó là hoa Phù Dung. Sao cũng là hoa, mà nó lại tài ba đến thế? Nó biến màu như có phép lạ ấy! Sáng - màu trắng, trưa - màu hồng, chiều - màu đỏ. Nó soi bóng xuống khúc sông trong vắt.

- Này, nhà thông thái, cậu đi nhiều biết nhiều, có thấy ở đâu có loài hoa tài bà như tớ không?

- Không, không thấy! - Suối róc rách trả lời.

Hoa Phù Dung ngả nghiêng cười.

- Đó! Nghe rõ chưa hả Kim Anh, hả Ban Hồng, hả Mẫu Đơn? Tớ là thiên tài nhé!

Hoa Kim Anh, hoa Ban Hồng và hoa Mẫu Đơn nhìn nhau ừ, cái giọng sao mà huyên hoang, hợm hĩnh. Nhưng hắn có tài thật đấy! Mà có tài thì đáng phục, đáng kính nể lắm! Chứ sao nữa!

Kim Anh, Ban Hồng, Mẫu Đơn phục tài Phù Dung là phải. Kim Anh chỉ có màu trắng, Ban Hồng chỉ có màu hồng, và Mẫu Đơn chỉ có màu đỏ. Còn nó trong một ngày, nó tự biến hóa thành ba màu. Đúng là màu của nó, chứ không phải nó ăn cắp màu trắng của Kim Anh, màu hồng của Ban Hồng và màu đỏ của Mẫu Đơn.

Tài ba của nó đâu chỉ có dòng suối biết. Ngay cả Mặt Trời cũng nhìn thấy rất rõ. Buổi sáng, Mặt Trời dậy ở đầu suối soi vào nó, thấy đúng nó có màu trắng. Buổi trưa, Mặt Trời ở trên đỉnh thung lũng nhìn xuống thì thấy quả thật nó chuyển sang màu hồng. Và khi Mặt Trời lững thững về phía núi xa, ngoái lại thì màu hồng đã ngả sang màu đỏ rực rỡ.

Thế đấy, chẳng lẽ Mặt Trời nhìn nhầm à? Mặt Trời nhìn nhầm thì còn ra thể thống gì nữa!

Nhưng vào một ngày sau đó, Mặt Trời đi vắng rồi! Nhưng ô kìa...

- Phù Dung ơi - Ban Hồng lên tiếng - sao màu trắng của Phù Dung sớm nay nhợt nhạt thế, thua xa Kim Anh rồi!

Phù Dung nhìn Kim Anh rồi ngắm mình, ngơ ngác.

- Ừ nhỉ! Có lẽ nào lại thể?

Buổi trưa, Mẫu Đơn nghiêng nghé mãi Phù Dung rồi kêu lên:

- Phù Dung ơi, sao cậu không biến sang màu hồng đi!

Phù Dung rung rinh:

- Ừ, chờ chút nữa xem sao.

Một lát sau, suối róc rách.

- Kìa Phù Dung thiên tài, không biến màu được nữa à?

Phù Dung lại ngơ ngác và giọng nói lúng túng:

- Ừ nhỉ! Có lẽ nào lại thế này được?

Chiều xuống dần, Phù Dung uể oải ủ rũ. Nó hết nhìn sang Kim Anh, Ban Hồng và Mẫu Đơn, lại soi mình đáy suối. Vẫn là Phù Dung trắng nhợt thôi!

Phù Dung lẩm bẩm:

- Hay là có kẻ bất tài nào đã lấy trộm tài năng của ta rồi!

Nghe thể, suối ồ lên cười:

- Phù Dung ơi chẵng lẽ cậu mất trộm cái cậu không hề có à? Không có ánh nắng Mặt Trời, cậu mới đúng là cậu. Thử nhìn kĩ lại mình xem nào.

Phù Dung ngắm mình một lần nữa! Ừ, trắng nhợt! Hóa ra cái tài biến màu không phải của ta ư?

Chuyện về các loài voi (Lớp lá)

________________________________________

Tổ tiên của tôi là Voi ma mút khổng lồ sống cách đây rất lâu, giờ không còn nữa. Bây giờ tôi là động vật khổng lồ sống trên cạn. Chiếc vòi dài trông rất ngộ nghĩnh của tôi là mũi và môi trên biến đổi thành. Còng đôi ngà tuyệt đạep là hai răng cửa nằm trên phát triển thành.

Chiếc vòi dài của tôi không phải vô tích sự đâu nhé, nó làm được rất nhiều việc đấy! Bé quan sát tranh và nói xem loài Voi chúng tôi có thể dùng vòi làm những việc gì?

Với bốn chân to như cột đình, loài Voi chúng tôi đi rất khỏe. Chúng tôi có thể mang gỗ đi xuyên qua rừng giúp ích cho con người.

Thức ăn của chúng tôi là các loại lá cây. Chúng tôi thích sống thành đàn với sự chỉ huy của một Bác Voi đầu đàn.

Voi mẹ mỗi lần chỉ đẻ một con. Con voi mới để được mẹ cho bú sữa, đi theo đàn kiếm ăn và được cả đàn yêu quí, chăm sóc.

Loài Voi chúng tôi là loài vật thông minh và hiền lành nên rất dễ huấn luyện. Nâu có dịp đi xem xiếc thú, bé sẽ được tận mắt chứng kiến những tài nghệ của loài voi chúng tôi.

Cỏ và lúa (Lớp Mầm)

________________________________________

Ngày xưa cỏ và lúa là con cùng một mẹ. Khi lớn lên, mẹ cho cỏ và lúa ở riêng mỗi người một cánh đồng. Lúa vốn chăm chỉ làm lụng, chịu thương chịu khó nên mỗi ngày một khỏe mạnh, tươi tốt, làm ra những hạt thóc mẩy căng như hạt chanh. Còn cỏ thì lười nhát, chỉ thích ăn chơi lêu lỏng suốt ngày, chẳng thích làm gì, nhười nó ốm o gầy còm. Nó chẳng bao giờ làm ra được cái hạt có ích cho con người. Tuy vậy, cỏ và lúa vẫn đi lại thăm nhau. Mỗi lần tới chơi với lúa, cỏ thường lén đi ban đêm, hay xin ăn hoặc lấy trộm thức ăn của lúa. Biết vậy nhưng thương cỏ, lúa không nở trách mắng hoặc xa lánh nó mà vẫn tìm lời khuyên nhủ ân cần. Nhưng cỏ chứng nào tật nấy. Nó vẫn lười nhát như xưa. Một hôm lúa làm cỗ mừng sunh nhật và mời cỏ ăn uống. Không còn giữ ý tứ gì. Khi no căng bụng, cỏ nằm lăn ra ngủ. Nó ngủ say xưa đến lúc ông mặy trời mọc. Rồi mặt trời đứng bóng nó vẫn chưa dậy. Đến xế chiều, cỏ mới cựa mình, mở mắt. Nhưng xấu hổ về tính lười nhát, tham ăn, cỏ không dám ra đường về nhà. Sợ mọi người chê cười, nó khẩn khoản xin ở lại nhà lúa. Lúa không hài lòng, nhưng vốn hiền lành và thương em, đành cứ để cho cỏ ở. Từ đấy, cỏ thích sống chung với lúa để ăn hại, ăn bám. Nó lại sang cả hàng xóm tranh ăn với ngô, đậu, rau nữa. Vì thế, hể thấy cỏ mọc lên là người ta lại nhổ vứt đi. Chẳng ai ưa cái tính lười nhát, ăn bám, phá hại của cỏ.

Có một bầy hươu (lớp mầm)

________________________________________

Có một bầy hươu đang gặm cỏ bên một dòng suối trong vắt. Chú hươu nào cũng có đôi mắt to tròn, đen nháy và kháoc bộ lông màu vàng hoặc màu nâu mịn như nhung, điểm những dấu hoa trắng.

Bầy hươu đang gặm cỏ thì bỗng có một chú hươu bé nhỏ đi tới. Chú bước tập tễnh trông thật vất vã, một chân của chú bị đau, bộ lông xơ xác đầy những vết bùn đất. Chắc là chú ta bị ngã rất đau.

Chú hươu nói :

- Các bạn ơi! cho tôi đi ăn cùng với nhé!

Các chú hươu khác nghe thấy vậy đua nhau mời:

- Bạn lại đây, lại đây ăn cùng với chúng tôi!

Rồi các chú hươu đứng vươn hai chân trước một tảng đá, lấy gạc cắt rụng mấy cái chồi nói:

- Bạn ăn đi! Rồi chúng tôi lấy thêm cho bạn mấy chiếc búp nữa thật ngon!

Chú hươu bị đau chân ăn rất ngon lành và cảm động nhìn các bạn hươu.

Đúng lúc ấy, một bác hươu già từ trong rừng đi tới. Thấy bầy hươu con giúp bạn, bác hươu già hài lòng lắm. Bác khen:

- Các cháu ngoan lắm!

Còn bầy hươu con rất vui vì đã làm một việc tốt giúp bạn.

Cóc gọi trời mưa (lớp mầm)

________________________________________

Đã lâu lắm rồi trời cứ nắng mãi không có một giọt mưa. Cây ngô bắt đầu vàng úa. Cây lúa bắt đầu vàng úa. Gà vịt nháo nhác đi tìm nước uống.

Thấy thế, Cóc bèn lên trời. Cóc nổi trống "Thùng, thùng thùng!" và gọi to:

- Ọc ! Ọc ! Ọc ! Ơi ông trời! Mau mưa xuống.

Nghe tiếng Cóc gọi, ông trời cho mây đen đem mưa đổ xuống.

Có mưa, gà vịt tha hồ uống nước, lúa ngô trở lại tươi tốt.

Từ đấy, hễ nghe có tiếng Cóc kêu ọc...ọc...ọc...., ông trời lại ra lệnh cho mây đen đổ mưa.

Con hãy đợi rồi sẽ biết (lớp chồi)

________________________________________

Có một cây Bưởi Con mọc cạnh cây Bưởi Mẹ. Một hôm, Bưởi Con hỏi mẹ: "Mẹ ơi! Con muốn biết khi lớn lên con sẽ làm được gì cho mọi người? Bạn Hồng Xiêm cho mọi người quả ngọt, bạn Hoa Hồng cho mọi người hương thơm, bạn Bàng cho mọi người bóng mát. Còn con có thể làm được gì hả mẹ?". Bưởi Mẹ trả lời: "Con hãy đợi rồi sẽ biết". Nghe lời mẹ, Bưởi con chờ đợi.

Mùa xuân đến, Bưởi Con nở đầy hoa. Ai đi qua cũng tấm tắc khen: "Ôi! Hoa bưởi trắng đẹp và thơm quá". Bưởi Con sung sướng nói với Bưởi Mẹ: "Mẹ ơi! Con đã mang đến cho mọi người hoa đẹp và hương thơm"

Nhưng rồi một ngày nọ, những cánh hoa của Bưởi Con rụng xuống. Bưởi Con buồn lắm: "Mẹ ơi! Nhũng cánh hoa của con rụng hết rồi, mọi người sẽ không còn cần con nữa, con phải làm gì bây giờ?"

"Hãy đợi rồi con sẽ biết" - Bưởi Mẹ nói. Tin lời mẹ, Bưởi Con yên tâm chờ đợi.

Thời gian trôi đi, những quả bưởi nhỏ xíu, xinh xắn xuất hiện dần. Bưởi Con mừng lắm. Một hôm có cậu bé hái quả bưởi ăn thử. Cậu kêu lên: "Ôi! Cay quá!" và cậu ném quả bưởi đi. Thấy vậy Bưởi Con nói với mẹ: "Mẹ ơi! Quả của con không ăn được". Bưởi Mẹ bảo: "Con đừng buồn, con hãy đợi rồi sẽ biết". Bưởi con lại đợi.

Rồi những quả bưởi ngày một lớn dần. Vào dịp Tết Trung Thu các bạn nhỏ chạy đến bên Bưởi Con sung sướng hái những quả bưởi to và thơm phức vào để bày cỗ Trung Thu. Bưởi Mẹ âu yếm nói với Bưởi Con: "Bây giờ con đã biết con làm được gì cho mọi người rồi chứ?". "Con biết rồi mẹ ạ!" Bưởi Con vui vẻ trả lời.

Các cháu có biết Bưởi Con đã làm được những gì cho mọi người nào?

________________________________________

Gà Trống Non có bộ lông đẹp tuyệt vời. Lông đuôi của nó óng mượt, nhiều màu sắc, trông xa cứ ngỡ đuôi công. Còn tiếng gáy của Gà Trống Non thì vừa dõng dạc, vừa âm vang. Gà Trống Non hãnh diện về bộ lông và tiếng gáy của nó lắm, vì thế nó sinh ra kiêu căng, coi thường Gà Tồ, Mèo Vàng. suốt ngày nó ưỡn ngực dạo chơi quanh sân, chẳng thèm ngó ngàng đến các bạn.

Một hôm, Gà Trống Non khoe với Gà Tồ:

- Này, chính tiếng gáy của tôi làm Mặt Trời tỉnh giấc đấy.

Gà Tồ cãi lại:

- Ồ! Không phải đâu. bạn đừng có nói khoác.

Gà Trống Non lại chạy đi khoe với Mèo Vàng:

- Này, chính tiếng gáy của tôi làm Mặt Trời tỉnh giấc đấy.

Mèo Vàng cười rung ria mép:

- Meo, meo, meo vì Mặt Trời mọc nên gà mới gáy đấy chứ. Tiếng gáy của bạn làm sao đánh thức được Mặt Trời.

Gà Trống Non chẳng thèm nghe Mèo Vàng nói, nó bỏ ra sân chơi và nghĩ thầm "Được rồi sáng mai sẽ biết".

Sáng hôm sau, sau khi dõng dạc cất tiếng gáy "Ò ó o o o o".

Gà Trống Non để ý ngắm xung quanh. Quả đúng thế, nghe tiếng của nó thiên hạ bắt đầu tỉnh dậy. Chim chích chòe hót véo von trên ngọn tre. Trâu kềnh cọ đôi sừng dài nghêu lộc cộc vào cột chuồng. Mèo Vàng vươn vai và lấy chân rửa mặt. Cả ông Mặt Trời cũng ló đầu ra khỏi tấm rèm mây hung hung đỏ, gương mặt hồng hào và tròn trặn. Gà Trống Non có cảm tưởng như ông Mặt Trời đang mỉm cười với nó. Gà Trống Non hí hửng chạy tới chỗ Gà Tồ, Mèo Vàng, nó hét lên:

- Hãy mở to mắt ra mà xem tiếng gáy của ta đã đánh thức tất cả thiên hạ dậy.

Gà Tồ, Mèo Vàng quay mặt đi: "chẳng nên phí lời với những kẻ nói khoác". Gà Trống Non tức đỏ mặt lên. Nó quay sang gây sự với Gà Tồ. Gà Tồ chẳng bao giờ muốn chọi nhau nhưng lần này nó quyết định cho kẻ hay gây gổ và khoác lác một bài học. Gà Tồ hùng dũng nhảy bổ vào Gà Trống Non, mổ cho nó mấy cú vào cái mỏ khoác lác.

Suốt đêm hôm ấy, Gà Trống Non nằm rên rỉ vì đau. Mãi tới lúc gần sáng nó mới chợp mắt được. Khi tỉnh dậy, nó thấy chuồng gà đã vắng tanh, vắng ngắt từ bao giờ. Ngoài vườn, Gà Tồ, Mèo Vàng đang dạo chơi, phía trên rặng tre, Mặt Trời đang le lói. Mọi việc vẫn diễn ra bình thường mặc dù không có tiếng gáy của Gà Trống Non.

Cô con út của ông mặt trời

________________________________________

Ông Mặt Trời có rất nhiều con, nhưng chỉ có một con gái duy nhất là út Trăng xinh đẹp, bé bỏng.

Người anh kề với cô là Đất. Ngay từ nhỏ hai anh em Đất và Trăng đã rất thân nhau. Trò chơi thích nhất của hai anh em là chạy vòng tròn. Trăng nắm tay anh chạy quanh. Hai anh em tính nết mỗi người một khác. Đất hiền lành, làm lụng quanh năm. Đất làm ra bao nhiêu của cải cho con người. Khắp nơi chim chóc ca hát. Cô Trăng tính tình dịu dàng, nhưng không thích làm việc, suốt ngày chỉ rong chơi. Ông Mặt Trời rất yêu thương các con. Ông tỏa hơi nóng sưởi ấm cho chúng. Còn các con ông tươi vui rạng rỡ. Cô Trăng nũng nịu quỳ xuống bên cha thỏ thẻ: "Cha ơi! Con biết làm gì bây giờ?". Ông Mặt Trời vuốt mái tóc con bảo: "Đêm đêm con hãy tỏa ánh sáng của con xuống đất làm dịu mát muôn loài". Từ đó cô Trăng đã bắt đầu làm việc. Nhiều khi anh Đất thấy thiếu em gái.

Mùa thu đến. Đất và Trăng đem đến cho con người bao nhiêu trái chín thơm ngon và ánh trăng vàng óng. Mỗi năm một lần, người lớn làm đèn cho trẻ nhỏ rước đi đón cô Trăng xuống chơi. Đó là vào đêm Trung thu, các em nắm tay nhau nhảy múa ca hát vòng quanh cô. Cô Trăng thì cười long lanh ánh mắt, còn anh Đất thì tỏa ngát hương thơm trong quả chín. Trên cao, giá như ông Mặt Trời hé màn mây nhìn xuống, hẳn ông sẽ mỉm cười vuốt râu: "Con gái ta được việc lắm".

Cuộc phưu lưu của những chú gà nhí (Lớp lá)

________________________________________

Những tia nắng sớm đánh thức những chú gà con thức dậy. Len lén chiu ra khỏi cánh mẹ còn đang ngủ, các chú chạy ra bờ suối.

- Chào bác Mặt Trời!

Các chú nói to, còn mặt trời thì mỉm cười, lướt nhẹ tia nắng xoa đầu các chú.

Gà cồ đưa các em ra suối rửa mặt và uống nước mát. Trên đường đi chúng thấy một cái chậu cũ, chúng quyết định lấy nó làm thuyền để đi du lịch. Cô út Lông Vàng, cậu Trống Choai, cậu Đuôi Rậm, cô Tơ Trắng, cậu Mào Ớt, cậu Cựa Ngắn, cậu Gà Trụi và anh cả Gà Cồ hò nhau khiên chậu ra suối.

- Nào! Cùng đẩy xuống nước và trèo lên thuyền - Gà Cồ hô.

- Ý rất hay! Thích quá! Đó là điều mà anh em mình mong đợi - Cả đàn gà tán đồng.

Nước suối cuốn luôn cái chậu, xoay một vòng và đưa những chàng thủy thủ dũng cảm nhưng non nớt và ham vui ra khơi xa.

Mặt trời tối sầm lại như muốn trách mắng lũ gà vô tư.

Dòng suối cứ chảy mãi, chảy mãi, nước tung những bọt trắng xóa hai bên cạnh thuyền. Thuyền cứ trôi, trôi mãi. Các thủy thủ tí hon viu mừng hát vang bài ca của họ nhà gà. Bỗng, nước đẩy mạnh và bất ngờ hất tung cái chậu vào tảng đá nhọn. Chậu thủng một lỗ, nước ùa vào.

- LÀm sao ba6y giờ! Chết mất! Mẹ ơi, mẹ ơi... Các chú gà con lo lắng nước mắt giàn giụa.

Nước cứ tràn thêm vào, các chú gà con không biết phải làm thế nào. Các chú kêu cứu nhưng bờ thì vắng vẻ, chẳng có ai cả. Lũ gà con sợ hãi, cuống quýt cả lên. May sao, trên cành cây cao bên bờ suối có một cô Sáo đang ngủ. Nghe thấy tiếng kêu, cô choàng thức dậy, mở mắt nhìn quanh. Nhìn thấy đàn gà sắp chìm, cô bay xuống kêu thất thanh: "Cứu với! cứu với! Gà con sắp chết đuối! Cấo cứu! Cấp cứu".

Nhưng trên bờ chẳng có ai nghe thấy tiếng kêu cứu, Chậu nước tiếp tục đầy hơn, sắp chìm...

Bất ngờ, một cô Cá Lóc rất to bơi đến:

- Bình tĩnh đã nào các cháu, lần lượt từng cháu một trèo lên lưng cô, cô sẽ đưa các cháu vào bờ.

Lần lượt, bé Lông Vàng, cậu Trống Choai,... theo thứ tự bé trước, lớn sau leo lên lưng cô Cá Lóc và được cô đưa vào bờ an toàn. Cả tám chú gà đều bình yên nhưng cô Cá Lóc thì dường như bị kiệt sức. Trông cô bơi lờ đờ thật đáng thương. Những chú gà lông ướt bết, đầu nặng trĩu, mệt mỏi và vẫn chưa hết khiếp sợ, lẩy bẩy nói lời cám ơn cô Cá Lóc tốt bụng. Bác Mặt trời âu yếm sưởi ấm cho lũ gà nghịch ngợm đang cúi đầu biết lỗi.

Củ cải trắng (Lớp chồi)

________________________________________

Mùa đông đã đến rồi, trời lạnh buốt. Thỏ con không còn gì để ăn nữa, nó đành mặc áo ấm và đi ra khỏi nhà để tìm cái ăn. Thỏ tìm, tìm mãi, bỗng nhiên Thỏ con reo lên một cách sung sướng:

- Ôi! Ở đây có hai củ cải trắng, mình mới may mắn làm sao.

Thỏ con liền nhổ hai củ cải trắng lên khỏi mặt đất và vội vàng đi về nhà. Đi được một lúc, Thỏ con chợt nhớ tới Dê con.

- Trời lạnh thế này chắc Dê con chẳng có gì ăn. Ta phải mang cho Dê con một củ cải trắng mới được.

Thỏ con đến nhà Dê con, nhưng Dê con đi vắng. Thỏ để một củ cải trắng trên bàn của Dê con rồi ra về.

Dê con đi kiếm ăn, nó kiếm được một cái bắp cải, Dê con ăn một nửa còn một nửa để dành cho ngày hôm sau. vừa mở cửa vào nhà, Dê con nhìn thấy củ cải trắng trên bàn, nó ngạc nhiên kêu lên:

- Ôi! Củ cải ở đâu ngon thế này?

Dê con ngắm nghía củ cải rồi chợt nghĩ:

- Trời lạnh thế này, chắc Hươu con không có gì ăn. Ta phải đem cho Hươu con củ cải trắng mới được.

Dê con đến nhà Hươu con,nhưng Hươu con không có ở nhà, Dê con liền đặt củ cải trắng trên bàn Hươu con rồi ra về.

Hươu con từ rừng trở về, nó ngạc nhiên khi thấy có một củ cải trắng rất ngon ở trên bàn. Hươu con định ăn nhưng nó chợt nghĩ:

- Trời lạnh thế này, chắc Thỏ con không có gì ăn, ta phải đem củ cải trắng này đến cho Thỏ con mới được

Hươu con vội vã đến nhà Thỏ con. Thỏ con đang ngủ say. Hươu con không muốn đánh thức bạn dậy, lặng lẽ đặt củ cải trắng trên bàn Thỏ con rồi ra về.

Thỏ con ngủ mãi, ngủ mãi, đến khi tỉnh dậy ngạc nhiên vô cùng, trên bàn của Thỏ có một củ cải trắng. Thỏ kêu lên:

- Ôi! Sao củ cải trắng lại ở đây nhỉ?

Thỏ con suy nghĩ và hiểu rằng: những người bạn tốt đã đem củ cải trắng đến cho mình.

Cô Mây (Lớp chồi)

________________________________________

Trên trời có một đám mây xinh đẹp, khi thì cô mặc áo trắng như bong, khi thì cô mặc áo xanh biếc, lúc thì cô lại đổi áo màu hồng tươi. Cô mây cứ suốt ngày nhởn nhơ bay lượn, lúc lướt trên đỉnh núi, ngọn đồi, lúc bay trên biển cả mênh mông, lúc vờn đồng quê bát ngát. Nhưng bay mãi một mình cũng buồn vì chẳng có ai chơi với cô. Bác Mặt trời bận tỏa ánh nắng cho người phơi thóc. Cô mặt trăng bận rãi ánh vàng cho các em bé vui chơi. May thay cô gặp Chị Gió. Cô gọi:

- Chị Gió ơi?.

Chị Gió đáp:

- Chị đang bận rủ các bạn mây các nơi về làm mưa đây. Em có muốn làm mưa không?.

- Làm mưa để làm gì hả chị?.

- Làm mưa để cho cây cối tốt tươi, cho lúa to bong, cho khoai to củ

- Thế làm mưa có dễ không chị Gió?.

- Làm mưa cũng dễ thôi nhưng mà phải mệt, phải nhịn mặc áo đẹp, phải chịu lạnh rồi tan thành mưa, rơi xuống ruộng đồng.

- Thế không được làm mây nữa ư?.

- Không, nhưng lại được làm nước chảy. Nước chảy có ích cho người. Thế em có thích làm nước chảy không?.

Mây gật đầu:

Chị cho em đi làm nước chảy với. Nhởn nhơ bay lượn một mình mãi em cũng chán lắm. Em muốn làm việc có ích cho người cơ.

Chị Gió thổi mạnh, đưa mây đi rất nhanh. Càng đi, càng bay sà xuống thấp, mây các nơi cùng kéo về đông nghịt, màu áo xám làm tối cả một vùng trời. Ai nấy đều nhanh nhẹn vội vàng kéo nhau sà xuống thấp. Bỗng cô nhìn thấy một đoàn trẻ bé đang chơi trong vườn hoa, đàn trẻ nhảy nhót tung tăng ngẩn mặt lên trời mà hát:

Cầu trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày

Lấy bát cơm đầy

Lấy rơm đun bếp.

Cây, lá, cỏ, hoa thấy mây xám bay ngang cũng ngẩng đầu lên rì rào nói:

Mưa rơi xuống đây

Cho tốt cỏ cây

Cho tươi hoa lá

Nhớ mong mưa quá

Mưa ơi! Mưa ơi!

Vừa lúc đó cơn lạnh ùa đến. Đám mây xám rùng mình tan thành những giọt nước thi nhau tưới xuống đất rào rào. Đoàn trẻ dắt nhau chạy trốn dưới mái hiên. Cỏ, cây, hoa, lá tươi tỉnh mỉm cười đón mừng những giọt nước trong vắt đáng yêu.

Thế là cô Mây trên trời cao đã hóa thành dòng nước chảy tràn khắp ao hồ, đồng ruộng, sông ngòi. Vài hôm nữa bác mặt trời chiếu xuống nước bốc thành hơi. Chị Gió lại đưa nước lên trở thành Mây.

Gấu con chia quà (lớp chồi)

________________________________________

Cây táo nhà Gấu rất sai quả và ăn thì ngọt lừ. Sáng nào Gấu Con cũng đòi ăn táo, nhưng mẹ hái bao nhiêu Gấu Con cũng chê ít. Một hôm gấu mẹ hỏi:

- Thế con muốn mẹ hái cho con bao nhiêu quả táo nào?

- Dạ... con muốn mẹ hái cho con thật nhiều ạ!

- Thật nhiều là bao nhiêu chứ? Gấu Mẹ hỏi lại

- Nhiều...là...là...

Mẹ Gấu cười nói:

- Con của mẹ không biết đếm. Từ nay con phải học đếm đến bao nhiêu mẹ sẽ hái cho con chừng ấy quả táo nhé.

Gấu Con vâng lời và tìm đến nhà thầy Hươu để học đếm

Hôm đầu Gấu biết đếm đến "Một", mẹ Gấu cho Gấu mỗi một quả táo. Thấy ít quá Gấu Con định đòi them nhưng nhớ lời mẹ dặn nên lại thôi và lẳng lặng ôm sách đi học. Hôm sau Gấu biết đếm đến "Hai" nên được mẹ cho hai quả táo. Nhưng, những ngày tiếp theo,cậu ta biết đếm đến "Năm", đến "Mười" nên được mẹ cho rất nhiều táo. Gấu Con rất khoái chí và càng chăm học hơn.

Năm mới đã đến. Mẹ Gấu muốn làm một bữa liên hoan, Gấu Con lanh chanh đòi đi chợ mua quà. Mẹ Gấu đưa tiền cho con rồi dặn:

- Con ra chợ mua hoa quả. Nhớ đếm cho đủ người trong nhà kẻo mua thiếu đấy.

Gấu Con "Vâng ạ" rồi đếm đi đếm lại từng người trong gia đình, xong mới xách giỏ đi chợ. Một lát sau, cậu ta khệ nệ bê giỏ về.

Gấu Bố bảo:

- Bây giờ, con hãy chia quà cho từng người đi.

Gấu Con chỉ chờ có thế, vội bưng đĩa hoa quả bằng hai tay mời bố, mẹ, mời cả hai em nhỏ. Ơ kìa, thế phần của Gấu Con đâu? Nhìn Gấu Con lúng túng, Gấu Mẹ cũng phì cười, rồi hỏi:

- Con đếm như thế nào mà lại thiếu? Con đã đếm đi đếm lại từng người rồi mà?

Gấu Con đếm lại: Mẹ là một, bố là hai, em trai là ba, em gái là bốn, đấy, đủ cả mà!

Nghe Gấu Con nói cả nhà cười rộ lên. Gấu Bố bảo:

- Con của bố đếm giỏi thật, đến nỗi quên cả mình cơ mà.

- À... ra thế, Gấu Con gãi đầu xấu hổ.

Gấu Bố vui vẻ nói:

- Chia quà đủ cho mọi người mà chỉ quên phần mình thì con sẽ chẳng mất phần đâu.

Nói rồi, bố mẹ Gấu dồn hết kẹo, hoa quả vào chung một đĩa, mời cả nhà cùng ăn.

Dê con nhanh trí (Lớp chồi)

________________________________________

Trong ngôi nhà kia có Dê mẹ và một chú Dê con. Một hôm, trước khi ra đồng cỏ, Dê mẹ dặn Dê con:

- Con ở nhà cho ngoan, mẹ đi ra đồng ăn một ít cỏ tươi để có nhiều sữa ngọt cho con bú. Ai gọi cửa cũng đừng mở nhé! Nếu không thì con Sói vào ăn thịt con đấy!

Dê con vâng lời mẹ và hỏi thêm:

- Thế mẹ về thì làm sao con biết mà mở cửa?

Dê mẹ khen con thông minh và dặn con:

- Lúc nào mẹ về, mẹ sẽ nói: "con chó Sói hung ác, đuổi cổ nó đi", thế là con mở cửa cho mẹ.

Nhưng con Sói hung ác nấp gần đó đã nghe Dê mẹ dặn Dê con như thế rồi. Dê mẹ vừa đi khuất, con Sói hung ác đã chạy lại gõ cửa: "Cạch, cạch , cạch! Con chó Sói hung ác, đuổi cổ nó đi", Dê con ở trong nhà, nghe tiếng gõ cửa vội vàng chạy ra. Nghe đúng câu mẹ dặn, nó định mở cửa nhưng nghe tiếng ồm ồm, không giống tiếng mẹ, Dê con liền nghĩ ra một kế và bảo:

- Mẹ đấy ư? Sao hôm nay tiếng mẹ lại ồm ồm thế?

Con Sói sợ bị lộ nhưng vẫn khôn ngoan trả lời:

- Mẹ ra đồng bị cảm gió nên khản tiếng đấy.

Dê con vẫn còn ngại:

- Mọi lần mẹ về vẫn thò chân vào khe cửa cơ mà! Chân mẹ thon thon, con nhìn là biết ngay!

Con Sói lại tìm cách chống chế:

- Mẹ giẫm phải gai, sưng vù lên, thò vào khe cửa không vừa nữa. Con mở cửa cho mẹ vào! Dê con cúi sát xuống đất nhìn qua khe cửa. Nó thấy cái chân lem luốc, đen sì. Nó bảo chó Sói:

- Thôi, anh Sói ơi! Chính anh rồi! Anh cút đi kẻo mẹ tôi về húc cho anh vỡ bụng ra đấy! Chân anh đen sì thế kia kìa! Ai còn lạ gì nữa! Bị lộ, con Sói vội vàng bỏ đi. Nhưng nó vẫn nghĩ cách lừa Dê con. Nó chạy ngay đến một cửa hàng bánh. Chờ lúc người làm bánh đi vắng, nó liền thò chân vào thùng bột, bột dính đến đầu gối. Xong xuôi, nó chạy về gọi Dê con:

- Cạch cạch cạch! Con chó Sói hung ác, đuổi cổ nó đi!

Dê con vội chạy ra, ngó qua khe cửa, lần này nó thấy rõ ràng 4 chân trắng. Thôi, đích là mẹ đã về! Nhưng cái mũi thính của nó lại ngửi thấy mùi gì hôi hôi chứ không thơm như mùi sữa của mẹ. Dê con ngần ngại, khe khẽ bắt ghế trèo lên nghếch cổ nhìn qua khe tường. Nó thấy hai cái tai lem luốc và nhọn hoắt. Thôi đúng là tai Sói rồi, Dê con gọi chó Sói và bảo:

- Tai anh đen và nhọn, chẳng giống tai mẹ tôi đâu! Anh Sói hung ác ơi, cút ngay đi kẻo mẹ tôi về, mẹ tôi lại húc cho anh vỡ bụng đấy! Sừng mẹ tôi nhọn lắm.

Con Sói sợ bị lộ, vội vàng bỏ chạy. Nó cố hết sức tìm cách giấu đôi tai lem luốc và nhọn hoắt mà không được. Nó chưa dám trở lại thì Dê mẹ đã về gõ cửa "Cạch, cạch, cạch! Con chó Sói hung ác, đuổi cổ nó đi!"

Dê con nghe đúng tiếng mẹ. Nó cúi nhìn qua khe cửa, đúng là chân mẹ. Nó trèo lên nhìn qua khe tường, đúng là tai mẹ. Nó mở ngay cửa cho mẹ vào và kể chuyện con Sói đến lừa cho mẹ nghe. Dê mẹ ôm con vào lòng và khen con giỏi.

Dê mẹ cho Dê con bú một bữa sữa thơm và ngọt.

Đám mây đen xấu xí (lớp chồi)

________________________________________

Dải mây trăng yểu điệu lượn gần tới đám mây đen xấu xí. Nó đỏng đảnh liếc mắt sang đám mây đen bĩu môi:

- Nhọ nhẻm nhọ nhem thế mà cũng gọi là mây. Thật xấu hổ. Rồi cùng với làn gió nhẹ, dải mây trắng thướt tha trong tà váy bồng xốp trắng tinh lướt qua mặt đám mây đen một cách kiêu ngạo. Mây trắng nhởn nhơ dạo chơi trên những mái nhà, những cánh đồng khô khát. Mây đen vẫn chỉ lặng im. Nó cúi nhìn xuống cánh đồng hạn hán và nghĩ ngợi: "Mình sẽ làm gì để giúp đỡ các cô bác nông dân được nhỉ?". Nó cố chịu đựng một cái nóng bức dữ dội của ngày hè. Mỗi lúc, đám mây đen một thêm xạm lại, nặng nề, có vẻ như càng xấu xí hơn. Rồi không biết vì thương các bác nông dân hay thương cánh đồng đang khát nước dưới kia, đám mây đen bỗng òa khóc. Những giọt nước mắt của nó trong trắng tinh khiết và mát rượi thấm vào lòng đất mẹ thân yêu. Những cánh đồng reo vui, những cỏ cây hoa lá bừng tỉnh, ríu rang nói cười như trong ngày hội. Tất cả đều cám ơn đám mây đen, cám ơn cơn mưa tốt bụng.

Lúc bấy giờ, dải mây trắng mãi chơi và kiêu kỳ chợy thấy xấu hổ quá. "Mình thật xấu tính và vô tích sự". Nó ân hận lắm. Nó muốn nói lời xin lỗi với đám mây đen nhưng đã quá muộn rồi.

Đôi bạn tốt (Lớp mầm)

________________________________________

Thím Vịt bận đi chợ xa đem con đến gởi bác gà mái mẹ. Gà mái mẹ gọi con ra chơi với Vịt con.

Gà con xin phép mẹ dẫn Vịt con ra vườn chơi và tìm giun để ăn. Gà con nhanh nhẹn đi trước. Vịt con lạch bạch theo sau. Thấy Vịt con chậm chạp, Gà con tỏ ra không thích lắm. Ra tới vườn, Gà con lấy hai chân bới đất tìm giun. Ngón chân của Vịt có màng không bới đất được. Vịt con cứ lạch bạch khiến đất bị nén xuống. Gà con không tài nào tìm giun được. Gà con tức quá nói với Vịt con:

-Bạn chẳng biết bới gì cả, bạn đi chỗ khác chơi để tôi bới một mình vậy.

Vịt con thấy Gà con cáu với mình cũng buồn, liền bỏ ra ao tìm tép ăn. Một con Cáo mắt xanh, đuôi dài nấp trong bụi rậm, thấy Gà con đi tìm mồi một mình định nhảy ra vồ. Gà con sợ quá vội ba chân bốn cẳng chạy ra bờ ao. Gà con vừa chạy vừa kêu: "Chiếp, chiếp, chiếp!".

Vịt con đang lặn ngụp tìm tép, nghe tiếng bạn gọi vội lướt nhanh vào bờ kịp cõng bạn ra xa. Cáo chạy tới bờ đã thấy Gà và Vịt đang ở gần ao sâu. Chờ mãi không được, Cáo liếm mép và bỏ đi. Nhờ Vịt có đôi chân như mái chèo bơi rất nhanh mà Gà con thoát chết... Lúc này Gà con mới thấy việc mình đuổi Vịt con là không tốt, và xin lỗi bạn. Vịt con không giận mà còn mò tép cho gà con ăn.

Từ đấy mỗi khi Vịt con đến chơi. Gà con mừng tíu tít đi tìm giun cho Vịt con ăn. Gà con nhanh nhẹn đi trước, Vịt con lạch bạch theo sau. Hai bạn gà và Vịt rất quý mến nhau.

Đôi dép (Lớp chồi)

________________________________________

Hai chiếc dép là đôi bạn chơi với nhau rất thân. Không biết chúng chơi chung từ bao giờ, chỉ biết từ rất lâu lâu lắm rồi.

Một hôm, Dép trái nói với Dép phải:

- Bạn Dép phải ơi, bạn có thấy chúng ta đẹp đôi lắm không?

- Ừ, thì mình có đôi có cặp, lại sạch như thế này mà không đẹp sao được - Dép phải trả lời.

Dép trái than thở:

- Không hiểu sao cậu chủ của chúng ta cứ lộn tôi với cậu hoài. Cứ mỗi lần mang dép vào thì y như rằng tôi phải chịu cảnh đau đớn vì cái ngón chân của cậu chủ đâm vào tôi hoài.

Dép phải tiếp lời:

- Còn tôi, phải chịu đựng sự ở dơ của cậu chủ nữa chứ. Mỗi khi đi chơi về, cậu chủ không chịu rửa chân, cứ thế mà mang tôi vào. Ôi, thật đáng sợ làm sao!

- Vì vậy tôi với bạn thật không may khi gặp cậu chủ như thế này! - Dép trái nói.

Dép phải cười và nói:

- Phải chi cậu chủ của chúng ta chịu khó giữ vệ sinh cho đôi chân sạch sẽ thì chúng ta cũng được sạch lây thôi.

- Ừ, và còn phải biết nhìn xem tôi và cậu, ai mới đúng là ở chân nào thì hay biết mấy bạn nhỉ!

Đôi sừng của hươu sao (Lớp chồi)

________________________________________

Trong khu rừng nọ có một chú Hươu sao với thân hình mảnh mai thật dễ thương. Hươu sao tự hào về dáng vẻ của chú lắm. Một hôm, Hươu sao đến bên bờ suối uống nước. Nước trong veo làm bóng nó hiện rõ dưới lòng suối. Hươu cứ ngắm nghía mãi, ngắm nghía mãi đôi sừng của mình và thầm nghĩ:

- Ôi, đôi sừng của mình mới đẹp làm sao!

Chợt nhìn xuống hai cặp chân gầy guộc, khẳng khiu, Hươu ta nhăn mặt, lẩm bẩm:

- Sao mà chúng xấu xí đến thế! Đã nhỏ lại còn dài nữa chứ!

Rời bờ suối, Hươu sao tha thẩn dạo bước trên cánh đồng và cứ băn khoăn suy nghĩ:

- Chân mình xấu quá! Có thể chúng sẽ làm hỏng danh tiếng của mình mất!

Bất chợt một con sư tử xuất hiện trước mặt Hươu. Sợ quá, Hươu sao vội ba chân bốn cẳng phóng chạy. Sư tử rượt đuổi theo phía sau. Nhưng đôi chân gầy guộc và dài nghêu đã giúp Hươu sao chạy nhanh như bay khiến Sư tử cứ lùi xa dần, xa dần... Mải chạy, không để ý nên Hươu vướng phải một lùm cây rậm rạp. Thế là đôi sừng đẹp mà nó hằng yêu quí bị cành cây và dây rừng níu chặt lại. Sư tử thì mỗi lúc một chạy tới gần. Hươu sao cuống cuồng sợ hãi và vùng vẫy thật mạnh. May quá, Hươu cũng chui được ra khỏi lùm cây và chạy thoát! Nhưng một nhánh của chiếc sừng đẹp đẽ mà nó từng hãnh diện đã bị gãy khiến nó rất đau.

Khi đã chạy như bay tới một chỗ an toàn, Hươu sao mới dám dừng lại. Lúc bình tĩnh lại, Hươu sao đã thấm thía nghĩ thầm:

- Ôi, cái mình nghĩ sẽ hại mình thì lại cứu sống mình còn cái mà mình vô cùng cưng chiều thì lại súyt làm mình mất mạng!

Các bé thấy Hươu sao nghĩ có đúng không nào?

Đôi tai xấu xí (Lớp lá)

________________________________________

Nhà Thỏ Nâu ở giữa làng, cách khá xa cánh đồng bắp cải, nơi các bạn thỏ hay tới để chơi đàu. Thỏ Nâu rất ít khi tới đó. Lý do không phải vì ở nhà xa, cũng không phải chân Thỏ Nâu bị đau. Thỏ Nâu không đến chỉ vì ngượng với các bạn về đôi tai vừa to vừa dài của mình. Các bạn thường trêu đôi tai Thỏ Nâu trông giống như hai cái lá bắp cải vậy.

Cứ mỗi khi soi gương thấy đôi tai của mình là Thỏ Nâu chỉ muốn khóc... Thấy vậy, Thỏ bố nói:

- Không sao đâu, con trai ạ! Rồi con sẽ thấy đôi tai của mình rất đẹp và tiện lợi.

Nhưng Thỏ Nâu không tin rằng một đôi tai vừa to vừa dài lại lại đẹp và tiện lợi. Thỏ Nâu lúc nào cũng buồn bã và đi đâu cũng cố gắng cụp đôi tai xuống.

Chơi mãi một mình cũng chán, một buổi chiều, Thỏ Nâu ra cánh đồng bắp cải chơi. Thỏ Nâu cùng với các bạn Thỏ Xám, Thỏ Bông chơi chốn tìm trên cánh đồng bắp cải vui ơi là vui .

Mải vui chơi nên trời tối lúc nào các bạn Thỏ cũng không hay biết. Trên cánh đồng bắp cải, trời như càng tối nhanh hơn. Vì thế, các chú Thỏ không tìm được đường về nhà nữa.

Cả ba chú Thỏ sợ hãi òa lên khóc... Chọt Thỏ Nâu ngừng khóc và nói

- Các cậu có nghe thấy tiếng gì không?

- Khộng! Thế cậu nghe thấy gì?

- Tiếng bố tớ gọi...

- Nhưng chúng tớ chẳng nghe thấy gì cả...

Chỉ mới Thỏ Nâu nghe thấy tiếng bố mình gọi thật. Đôi tai của Thỏ nâu vểnh lên, hướng về phía tiếng gọi của bố. Thế là ba bạn đi về hướng có ti6éng gọi của bố Thỏ nâu và tìm được đường về.

Thỏ Xám và Thỏ Bông nói với Thỏ Nâu:

- Chúng tớ sẽ không bao giờ trêu đôi tai to của bạn nữa... Đôi tai của bạn thật thính và đẹp.

Cũng từ đó, Thỏ Nâu mới thấy lời bố nói đúng. Đôi tai của Thỏ Nâu thật đẹp và có ích...

Đôi tay để làm gì? (Lớp chồi)

________________________________________

Bé Bi rất thân với ông nội. Hằng ngày Bi thường trò chuyện cùng ông. Một lần, ông nội hỏi Bi:

- Con người cần có đôi tay để làm gì?

Bi đáp:

- Để chơi banh ông ạ!

- Thế còn để làm gì nữa?

- Để cầm muỗng ăn cơm nữa ông nội ơi!

Nhìn Bi âu yếm, ông lại hỏi:

- Còn để làm gì nữa nào?

Nghĩ một chút rồi Bi lại nói:

- Ông nội ơi, còn để vuốt ve con mèo phải không ạ?

Nghe Bi hỏi, ông nội gật gật đầu rồi lại hỏi:

- Ồ, Bi nghĩ kỹ xem đôi tay còn để làm gì nữa không?

- À, à... để ném hòn sỏi xuống sông nữa ông ơi!

Suốt buổi chiều bé Bi trò chuyện với ông về đôi tay. Nó nói đúng cả đấy nhưng chỉ nói về mỗi đôi tay của nó thôi!

Thế còn đôi tay của ba, của mẹ, đôi tay của các chú công nhân, của cô giáo, của các bác sĩ, của các chú bộ đội và những người lao động khác thì để làm gì nhỉ? Đố bé biết đấy!

Em bé dũng cảm (Lớp Mầm)

________________________________________

Cô bác sĩ tiêm phòng dịch cho em bé. Huy sợ đau nấp vào một xó, nhìn trộm các bạn tiêm. Các bạn nhỏ không thấy Huy đâu, nhao nhao lên hỏi cô giáo. Cô bảo : « Các bạn tiên xong rồi tuy có đau, nhưng phòng được bệnh tật ».

Người tiêm thứ nhất là bạn Minh, bạn Minh nói « Hơi đau một tý, nhưng em không sợ »

Người tiêm thứ hai là bạn Anh, bạn gái nói « không đau, chẳng đau gì cả »

ngườu tiêm thứ ba là Lan Chi bé nhỏ, Lan Chi cau mày, nhăn mặt, bậm môi, nhưng dũng cảm nói « Có đau một tý, nhưng em không sợ tiêm »

Lúc đó Huy chạy ra, xắn tay áo, duỗi cánh tay nói với cô bác sĩ « Cô ơi ! con cũng không sợ đau cô ạ ! »

Gà trống thông minh

________________________________________

Gà Trống mải chơi , không may bị lạc đường và bị rơi vào bẫy của gã Cáo độc ác. Gà Trống khóc lóc xin tha, Nhưng đời nào Cáo lại chịu! Gà Trống nghĩ ra một cách, nó nói "Anh Cáo ơi! Trước khi từ giã cõi đời, em xin được hát cho anh nghe một bài". Cáo nghe bùi tai, lại nghĩ Gà Trống chẳng thể chạy đâu cho thoát nên đồng ý.

"Ò, ó, o! Tôi là Gà Trống, đứng trên đồi cao, nay gặp anh Cáo, biết phải làm sao?" Gà Trống lấy hết sức hát to, tiếng hát vang vọng khắp khu rừng, vang đến nơi ở của anh Chó kiểm lâm. Chó kiểm lâm vội lần theo tiếng hát phi ngay đến. Khi đã nằm bẹp dưới chân anh Chó kiểm lâm, Cáo mới hiểu ra mình bị lừa, nó rít lên giận dữ bảo Gà Trống: "Mày giả vờ hát là để kêu cứu! Thật không ngờ ta đã thua mày!"

Gấu con bị đau răng (Lớp mầm)

________________________________________

Các bạn nhỏ ạ! Tôi là một con sâu răng. Trước đây tôi sống thoải mái trong miệng một chú Gấu con. Chú Gấu này rất lười đánh răng. Ngày ngày tôi và các bạn của tôi đục khoét các kẽ răng của Gấu con để nhặt thức ăn. Món ăn mà tôi ưa thích nhất là sôcôla và bánh kẹo.

Một hôm, vào ngày sinh nhật của Gấu con, các bạn của chú đến rất đông, Mèo và Thỏ mang bánh ga tô, các bạn chim mang các viên kẹo đủ màu sắc, Chó thì mang đến một hộp kẹo sôcôla, còn Rùa mang bánh bích qui... đến tặng Gấu. Gấu ta thích lắm, chú ăn rất ngon lành và không ngớt lời khen: "Ôi! Sao toàn thứ ngon thế này! Tôi cảm ơn các bạn".

Khi buổi tiệc sinh nhật đã tan, các bạn đã về hết, như thường lệ, Gấu con không đánh răng mà nhảy tót lên giường đi ngủ. Chỉ chờ có thế, chúng tôi - những con Sâu Răng nhảy ra mở tiệc linh đình, chúng tôi gặm, cậy, đục khoét những chiếc răng bám đầy bánh kẹo của Gấu con, Đêm đó Gấu con kêu gào thảm thiết vì đau nhức răng.

Hôm sau, Gấu mẹ phải đưa Gấu con đến bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ bảo: "Này Gấu con, răng cháu sâu nhiều quá, phải chữa ngay thôi. Nếu để lâu sẽ bị sún hết đấy. Cháu nhớ là không nên ăn nhiều bánh kẹo, nhất là vào buổi tối. Hằng ngày phải đánh răng trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy".

Nhớ lời bác sĩ dặn, ngày nào Gấu con cũng chăm chỉ đánh răng. Chú đánh răng rất cẩn thận, đánh mặt trước, mặt sau của răng theo đúng lời dặn của bác sĩ làm cho răng trắng bóng. Gấu con không ăn nhiều bánh kẹo mà ăn nhiều các chất bổ khác như thịt, cá, trứng, sữa, rau quả tươi, nên răng của chú trở nên chắc và khỏe hơn.

Còn những chú Sâu Răng chúng tôi thì từ đấy không còn gì để ăn nữa nên phải chạy ra khỏi miệng Gấu con.

Giấc mơ kỳ lạ (Lớp lá)

________________________________________

Trong ngôi nhà kia có cô bé tên là Mi Mi.

Mi Mi rất lười ăn nên lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi và không muốn làm gì cả, suốt ngày chỉ muốn nằm ngủ thôi.

Một hôm, mệt quá, cô bé ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, cô vô cùng ngạc nhiên khi thấy các bộ phận của cơ thể lại có thể trò chuyện được với nhau. Cô thấy anh Tay nói chuyện với anh Chân:

- Này anh Chân, không biết tại sao dạo này tay của tôi lại mỏi thế,không muốn làm gì cả.

- Tôi cũng thế, hay chúng ta cùng đến hỏi bác Tai cho ra nhẽ đi! - Anh Chân cũng lên tiếng.

Anh Tay và anh Chân cùng đi đến nhà bác Tai. Họ gọi:

- Bác Tai ơi, bác Tai!

Họ gọi một câu, rồi ba câu cũng không thấy bác Tai trả lời. Một lúc sau, bác Tai mới lên tiếng:

- Ai đấy? Ai gọi tôi đấy?

- Chúng cháu đấy, Tay , Chân đây!

- Có chuệyn gì thế?

- Bác nghe được nhiều điều, bác có thể cho chúng cháu biết, tại sao dạo này chúng cháu lại mệt mỏ tế?

- Tôi không thể nói cho các anh rõ được vì dạo này tôi cũng ù lắm, không nghe được gì cả. Chúng ta cùng đến nhà cô Mắt hỏi nhé!

Thế là bác Tai, anh Chân cùng đi đến nhà cô Mắt. Đến nơi, họ cũng nhìn thếy bạn miệng. Trông bạn ấy ể oải không kém, mặt mũi thì tái nhợt. Tất cả cùng cất giọng gọi:

- Cô Mắt ơi, cô mắt!

Cô mắt nghe tiếng gọi liền bước ra và hỏi:

- Có chuyện gì mà ồn ào thế?

Bác miện cất giọng hỏi:

- Sao tất cả chúng tôi lại mệt mỏi thế này?

Cô nhìn thấy được mọi điều, cô có thể giải thích cho chúng tôi rõ được không?

Cô mắt nói:

- Mặc dù mắt tôi nhìn không rõ lắm, nhưng tôi hiểu tất cả là do bạn miệng không được ăn, không được uống nên cơ thể của chúng ta mệt mỏi theo. Bây giờ, chúng ta cùng đi tìm cô chủ và bảo cô chủ phải chịu khó ăn uống, năng tập thể dục thì mới có một cơ thể khỏe mạnh và chúng ta mới khỏa khoắn được.

Nghe thấy tếh. tất cả mọi người hiểu ra và đồng thanh:

- Đúng đấy, chúng ta cùng đi tìm cô chủ!

Đúng lúc đó, cô bé choàng tỉnh và giật mình nghĩ: "Mình phải ăn thật nhiều và chăm tập thể dục mới được!"

Chẳng bao lâu sau, cô bé đã trở thành một cô bé khỏe mạnh và giúp được nhiều việc cho mọi người.

Giọt nước tí xíu (lớp mầm)

________________________________________

Tí Xíu là một giọt nước. Quê ở biển cả, họ hàng anh em nhà chúng đông lắm và ở khắp mọi nơi, ở biển cả, ở sông ngòi, ao hồ, ở trên trời, ở cả dưới đất...

Một buổi sáng biển lặng, Tí Xíu cùng các bạn đuổi theo các lớp sóng nhấp nhô. Ông Mặt Trời thả ánh sáng rực rỡ xuống mặt biển. Bọn Tí Xíu reo vui trong sóng nhẹ và trong ánh nắng chan hoà. Chợt có tiếng ông Mặt Trời cất lên.

-Tí Xíu ơi! Cháu có đi với ông không?

Tí Xíu ngẩng nhìn. Chú đáp giọng rất khẽ, chỉ có ông Mặt Trời là nghe thấy:

- Đi làm gì ạ?

Ông Mặt Trời cười bảo: "Trên mặt đất thiếu gì việc, chỗ nào chẳng cần". Tí Xíu vui lắm. Nhưng sực nhớ mình là giọt nước không thể bay theo ông Mặt Trời được. Chú hỏi :

- Cháu nặng lắm làm sao bay lên được.

- Không lo, ông Mặt Trời nói ồm ồm, ông sẽ làm cho cháu biến thành hơi. Nói xong ông Mặt Trời vén mây, chiếu thật nhiều ánh sáng xuống biển, Tí Xíu rùng mình và biến thành hơi. Chú chỉ kịp nói với biển cả:

- Chào mẹ, con đi! Mẹ chờ con trở về.

Tí Xíu từ từ bay lên...

Tí Xíu nhập bọn với các bạn. Lúc đầu chúng bay là là xuống biển rồi chúng hợp thành một đám mây mỏng rời mặt biển bay vào đất liền. Gió nhẹ nhàng đưa Tí Xíu lướt qua những dòng sông lấp lánh như bạc. Xế chiều, ông Mặt Trời toả những tia nắng chói chang hơn lúc sáng. Không khí oi bức... Bỗng từ đâu một cơn gió lạnh thổi tới. Tí Xíu reo lên:

- Mát quá các bạn ơi! Mát quá!

Tí Xíu và các bạn nhảy nhót, múa lượn vui thích. Nhưng rồi trời mỗi lúc một lạnh. Tí Xíu thấy rét. Các bạn chú cũng thấy rét. Chúng xích lại gần nhau thành một đông đặc toàn những chú bé giọt nước nhỏ li ti. Bọn Tí Xíu không bay cao lên được nữa, chúng sà xuống thấp, thấp dần.

Một tia sáng vạch ngang bầu trời. Rồi một tiếng sét đinh tai vang lên. Gió thổi mạnh hơn. Bọn Tí Xíu níu lấy nhau thành những giọt nước trong vắt. Chúng thi nhau ào ào tuồn xuống đất... Cơn giông bắt đầu.

Gọi mẹ (lớp mầm)

________________________________________

Tại sao những con chim non lại cứ kêu chiêm chiếp như thế? Chúng gọi mẹ đấy. Khi chim mẹ bay đi kiếm mồi nuôi con, chim non nằm trong tổ vắng hơi ấm của mẹ nên cảm thấy lạnh, rét và ngót bụng, thế là chim con kêu lên, trước nhỏ sau to dần: "Ri...ri...ri...nhiếp...nhiếp...chiu...chiu... ". Kỳ lạ, từ nơi xa, rất xa... Chim mẹ đã nghe thấy chim con kêu và vội bay về với con mồi ngậm ở mỏ để mớm cho con. Gà mẹ cũng thế. Đang dẫn cả đàn con đi nhặt, bới thức ăn, thế mà có chú gà lạc đàn tận đẩu tận đâu " Nhiếc...nhiếc...chiếp...chiếp..." là Gà mẹ nghển cổ, ngó ngó nghiêng nghiêng rồi tao tác chạy tới. Nghé con mãi tung tăng, lúc dừng chân trước ngước trông sau, thấy chỉ có mỗi một mình mình, thế là hếch mũi lên: "Ọ...nghé ọ...ọ...ọ". Trâu mẹ vểnh tai ngoắt sừng lại, ngẩng cao đầu cất tiếng đáp: 'Ọ.. ọ...". Mẹ ở đằng kia, nghé quýnh cẳng chạy tới. Bê con cũng thế, vừa xa xa mẹ đã : " Mê..mê...". Bò mẹ vội vàng: "Ò bò...ò". Không sợ bị lạc nữa. Chẳng phải chỉ loài vật mà con người cũng thế. Đang ngủ, giật mình, bé choàng mếu: " Mẹ ơi!". Chẳng phải em bé, mà đã lớn rồi bị vấp đau, ngã lăn quay cũng kêu lên: " Mẹ ơi!...". Kỳ lạ mẹ đang ở nhà hay đang làm gì, hoặc đang ở xa cũng giật mình vào lúc con gọi. Con gọi mẹ nghe thấy. Mẹ gọi, con có nghe không?

Hai anh em gà con

________________________________________

Hai chú Gà con tìm được một mẩu bánh mì. Chúng thích thú vô cùng và bắt đầu dùng cái mỏ xinh mổ vào miếng mồi ngon. Một chú Vịt con chơi gần đấy nhìn thấy và chạy lại, xin Gà con cùng được ăn.

- Nào cùng ăn với chúng tớ đi! Gà lông vàng mời bạn.

- Anh còn muốn gọi ai nữa đây? Gà lông đen gắt: Mẩu bánh mì này cho chúng ta cũng không đủ nữa là còn gọi thêm nó.

- Đủ thôi! Gà lông vàng an ủi em.

Thể là cả hai chú Gà và chú Vịt chia nhau ăn hết mẩu bánh mì. Ăn xong hai chú Gà con vẫy đôi cánh tí xíu của mình chạy về chỗ mẹ.

- Mẹ ơi! Gà lông đen thét tướng lên. Vịt con vừa ăn bánh mì với chúng con. Mẹ hãy nói đi, con chia cho Vịt ăn cùng có được không?

- Thế là rất đúgn con ạ!

- Con cho Vịt ăn mới ngon lành làm sao! Gà lông đen vẫn liến thoắng khoe khoang.

- Có gì đáng nói đâu, Gà lông vàng ngắt lời em, chúng ta đã cùng ăn sáng thế thôi mà.

Gà mẹ nhìn các con và nói:

- Nhường cho bạn là điều tốt. Nhưng ai không khoe điều đó còn tốt hơn

Hạt đỗ sót (lớp chồi)

________________________________________

Mùa thu đến, bà đem các hạt đỗ đen gieo trên luống đất sau nhà. Có một hạt đỗ bị mắc vào mạng nhện, nằm sót lại trong đáy lọ nên gọi là Đỗ Sót.

Đố Sót kêu lên "Còn cháu nữa... cháu không ra được..." nhưng bà không hiểu tiếng nói của đỗ, nên không biết được trong lọ còn một hạt đỗ sót lại. Sống trong lọ vừa tối vừa vắng vẻ. Đỗ Sót rất buồn.

Một hôm các chú Kiến bò vào lọ. Đỗ Sót mừng quá. Đỗ Sót chưa kịp chào, thì các chú Kiến đã lao xao hỏi:

- Có cô Đỗ Sót đấy không? Các bạn cô ngoài kia nhờ chúng tôi mang cô ra vườn cùng các cô ấy đấy!

- Các chú Kiến đấy ư? Tôi đây! Đỗ Sót đây! Thật may mắn quá. Cám ơn các chú!.

Các chú kiến xúm vào khiêng Đỗ Sót lên lưng. Các chú khiêng Đỗ Sót đến đầu nhà, trời bỗng đổ mưa. Các chú Kiến đặt Đỗ Sót vào kẽ gạch rồi dặn:

- Trời mưa chúng tôi không đi được nữa. Cô cứ ở lại đây, khi nào tạnh chúng tôi lại mang cô ra với các bạn của cô.

Đỗ Sót chia tay với các chú Kiến. Trời mưa mỗi lúc một to, những lớp đất theo mưa phủ lên mình Đỗ Sót. Mấy ngày sau cô Đỗ Sót thấy trong mình xôn xao như đang lớn dậy. Vỏ cô bắt đầu tách ra, vươn lên một cái mầm xanh non, đầu đội chiếc mũ đến là xinh xắn.

Khi các chú Kiến trở lại, các chú sửng sốt reo lên:

- A! Thế là cô đã mọc mầm rồi. Cô đã có rễ rồi. Chúng tôi không khiêng cô đi được nữa. Thôi chào cô Đỗ Sót, thỉnh thoảng chúng tôi sẽ đến chơi.

Mấy ngày sau một cô bé đi qua. Nhìn thấy cây đỗ, cô reo lên:

- A! Cây đỗ.

Bây giờ Đỗ Sót đã mọc thành cây. Cô bé đem cây Đỗ Sót ra trồng ở luống đỗ sau nhà. Các cô Đỗ Đen thấy Đỗ Sót ra đều vui mừng, tíu tít hỏi han. Bây giờ đã được sống cùng các bạn, được cùng tắm nắng, uống nước. Cô mỗi ngày một lớn nhanh, tuy có lớn muộn hơn các bạn. Các bạn của cô đều đã ra hoa, kết quả. Riêng cô mới bắt đầu nhú lên những nụ hoa nhỏ xíu xinh xắn.

Hoa Bìm Bìm (Lớp Mầm)

________________________________________

Ngày xửa, ngày xưa các loài hoa chưa màu sắc như bây giờ. Một hôm, có một cô Tiên từ trên trời bay xuống, áo của cô có dải lụa bay phấp phới, xanh, đỏ, tím vàng rất đẹp.

Bên bờ dậu, Bìm Bìm cố vươn mình để ngắm cô Tiên xinh đẹp, rực rỡ. Bỗng cô Tiên sà xuống bên Bìm Bìm và hỏi : « Bìm Bìm ơi ! Có thích màu áo tôi không ? » Bìm Bìm trả lời :

- Em thích lắm, nhất là màu tím.

Cô Tiên nói :

- Thế thì cô sẽ cho mấy viên ngọc quí có thể hóa phép ra các máu mà em thích. Nói xong, cô Tiên đưa cho Bìm Bìm bốn viên ngọc lấp lánh rồi bay đi mất. Bìm Bìm cảm ơn cô Tiên rồi vươn lên cao nữa. Thấy trên giàn có chùm nụ mướp, Bìm Bìm nghĩ thầm : « Ta sẽ cho nụ mướp một viên ngọc mới được ! »Và Bìm Bìm tung viên ngọc vàng vào chùm nụ mướp. Tự khắc nụ mướp nở ra một đám hoa vàng sáng rực cả góc vườn.Ong và bướm rủ nhau đến xem tới tấp.

Bìm Bìm lại tụt xuống phía dưới, thấy mấy cây mào gà sắp nở hoa : « À ! Phải cho các bạn này viên ngọc màu đỏ mới được ! »Và Bìm Bìm tung viên ngọc màu đỏ vào đám nụ hoa màu gà. Tức khắc đám nụ nở ra một đám hoa màu đỏ thắm đẹp như màu cờ. Mấy chú Gà Trống trông thấy tưởng là mào của mình.

Bìm Bìm nhìn lên trời thấy tòan mây trắng. Bìm Bìm nghĩ thầm : « Phải tung viên ngọc màu xanh lên trời mới được ! » Và Bìm Bìm tung viên ngọc màu xanh lên trời. Tức khắc mây trắng biến đâu mất. Trời trong xanh soi bóng xuống mặt hồ nước cũng trong xanh.

Bìm Bìm bỗng nhớ tới viên ngọc màu tím, màu tím mà Bìm Bìm rất thích. Bìm Bìm tung viên ngọc tím lên đầu mình. Tức khắc Bìm Bìm nở hoa màu tím dịu như áo cô Tiên. Cô Tiên mà trông thấy chắc cũng phải khen : « Bìm Bìm tím đẹp quá ! ».

Hoa Dâm Bụt

________________________________________

Cô Hoa Huệ trắng muốt, thơm ngào ngạt, cao dỏng lên, mảnh dẻ, kiêu kì.

Cô Hồng Nhung đỏm dáng một cách kín đáo, áo của cô đỏ thắm óng ánh những giọt sương. Tuy ở cùng với nhiều chị em nhà hoa nhưng ít khi cô Hồng Nhung trò chuyện với ai.

Các cô Thược Dược sặc sỡ, áo các cô nhiều màu, miệng các cô lúc nào cũng nói toe toét...

Trong vườn muôn loài hoa đua nở, nhưng ít ai nhắc đến hoa Dâm Bụt. Dâm Bụt quanh năm đứng ở bờ ao. Các cô biết mình là con nhà nghèo, nên chỉ quây quần với nhau, không dám chơi với các chị em nhà hoa khác. Nhụy của các cô dài và cong xuống như cái cần câu nhỏ xíu. Thỉnh thoảng các cô lại đung đưa màu đỏ của mình, đùa với mấy chú ếch nhái ăn tham. Mấy chú ếch nhái khờ khạo nhảy tót lên, đớp một cái vào cánh hoa đỏ rực kia, rồi lại rơi tỏm xuống nước. Các chú nhai rồi nhả ra, cằn nhằn: "Nhạt, nhạt, nhạt...". Tiếng ấy lan ra mãi vang lên khắp mặt ao hồ. Tuy vậy, hôm sau vẫn có những chú ếch nhái khác lại mắc mưu đùa các cô hoa Dâm Bụt.

Cẩm Chướng xì xào với nhau từ xa:

- Xem kìa, bọn chúng không dám đứng cùng với chúng mình, phải ra bờ ao hàng đậu.

- Đã gọi là hoa mà lại chẳng thơm, không ai thèm cắm lên bình, không ai thèm chăm bón, chả ai thèm hái tặng nhau.

- Hoa gì mà chẳng hoa nào thèm chơi với, phải chơi cùng ếch nhái!

Một hôm, bọn hoa Cẩm Chướng mách với chị chủ vườn:

- Chị ơi, chị xem, bọn hoa Dâm Bụt vô tích sự thế, chị để chúng làm gì cho phí đất? Bọn chúng em còn nở cho chị cắm vào bình, cho vườn chị đẹp...

- Bọn chúng em tặng chị hương thơm - Các cô Hoa Huệ nói theo

Chị chủ vườn nghe, ngẫm nghĩ thấy các cô hoa nói cũng có lý. "Các loài hoa mỗi người một vẻ, vẻ đẹp, người thơm, còn hoa Dâm Bụt chẳng được tích sự gì, mà lại cứ nở lan tràn khắp trên ao, bờ dậu...". Rồi chị chủ nhà lấy dao đẵn tất cả các rặng Dâm Bụt đi, các cành to phơi làm củ, lá ủ làm phân bón.

Từ đó, bờ ao, xung quanh vắng mặt màu Dâm Bụt. Các cô Bướm màu thưa qua lại. Các chú ếch nhái không còn ai đùa với mình, bớt nhảy tõm xuống ao. Các chú nhớ hoài những rặng hoa Dâm Bụt đó. Chỉ có mụ Gió là tự do hoành hành, không ai ngăn cản bước đi của mụ nữa.

Một hôm trời bão. Hàng trăm mụ Gió rủ nhau ào ạt xô vào vườn hoa. Bấy giờ các mụ không còn trêu tức nữa mà là cáu giận thực sự. Cô Hồng Nhung bị rách tả tơi cả áo đẹp. Cô Hoa Huệ kiêu kì bị sái cả cổ. Nhiều cô Cẩm Chướng còn bị dập cả mồm miệng. Các cô chỉ còn biết rên la.

Khi đó, các loài hoa trong vườn mới nhớ đến rặng Dâm Bụt. Phải chăng rặng Dâm Bụt còn thì các cô đâu đến nỗi xơ xác như thế này. Các cô khóc lóc. Cô nọ đổ cho cô kia là đã xúi chị chủ vườn chặt mấy rặng Dâm Bụt.

Những gốc Dâm Bụt còn lại quanh vườn, nghe các cô hoa khóc lóc, cãi nhau, vừa buồn cười, lại vừa thương hại.

Ít ngày sau, các gốc Dâm Bụt đâm chồi lên xanh tốt kén dần thành rặng cây dây, trổ muôn vàn búp non tươi, rồi một sớm mai, nở tung ra những màu hoa rực rỡ.

Hoa tặng cô

________________________________________

Hình như bé Bin đang có chuyện buồn. Nó nhệu nhạo nhai cơm và đôi mắt đăm chiêu suy nghĩ, chốc chốc lại thở dài. Ăn hết một chén Bin buông đũa đứng dậy. Má nó ngạc nhiên lắm. Hôm nay có món trứng mà Bin rất thích ăn, nếu là mọi ngày nó ních đến no bụng rồi. Má nó lo lắng hỏi:

- Sao ăn ít vậy bé Bin ?

- Dạ con ăn no rồi má

Bin lửng thửng đi ra sau vườn. Buổi trưa gió mát rười rượi. Nó bắt ghế ngồi dưới gốc cây vú sữa ngắm các liếp rau đang xanh mơn mởn. Cải ngọt cải đắng, tần ô, xà lách...chen chúc nhau vươn lên tươi tốt. Thích mắt thật! Nhưng bé Bin không thấy vui, nó chép miệng nghĩ thầm: " Ước chi đó là những luống hoa hay biết bao!" Ngày mai đã là quốc tế phụ nữ 8 tháng 3 mà chưa có gì tặng cô Lan cả. Cô là chủ nhiệm lớp 3A của Bin, rất hiền và rất tốt nên cả lớp đều yêu cô. Mấy hôm nay đi học nghe các bạn bàn bạc mua quà, mua hoa tặng cô mà Bin sốt ruột quá. Biết nhà nó nghèo nên cô đã động viên nó đi học phụ đạo mà chẳng bao giờ thu học phí cả. Bin rất muốn tặng cô một thứ gì đó để tỏ lòng biết ơn. Nhưng ba má vất vả với những liếp rau cả ngày mà cái ăn còn thiếu trước hụt sau, nó đâu dám mở miệng xin tiền. Với lại những ngày này, cái gì cũng mắc kinh khủng. Ước gì nhà nó trồng hoa thì hay biết mấy...

- Bé Bin! Con làm gì ngoài này mà không ngủ trưa vậy?

- Bin giật mình quay lại. Má đã đứng đằng sau tự lúc nào, đang cau mặt nhìn nó.

- Con có chuyện gì giấu má phải không?

- Ơ...đâu có đâu má...

- Con trở thành đứa trẻ biết nói dối từ bao giờ vậy bé Bin? Không nói là má giận nghe!

Bin bối rối cụp mắt xuống. Nó thật sự không muốn má bận tâm chuyện này. Nhưng Bin cũng không muốn má giận và cũng không muốn là một đứa trẻ nói dối nên nó đành kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất nghiêm túc lắng nghe, sau đó xoa đầu Bin và cười nhẹ nhàng:

- Thế mà không nói cho má biết sớm, sáng mai chắc chắn bé Bin sẽ có hoa tặng cô!

- Má, má mượn tiền ai hả má? Thôi khỏi không cần đâu má.

- Ai nói má mượn, không cần đâu má

Má bật cười hay cú vào trán Bin một cú đau điếng. Nó ngơ ngác, vậy má lấy hoa ở đâu nhỉ?

Sáng hôm sau bé Bin tung tăng đến lớp, trên tay xách một chiếc làn mây rất xinh xắn. Má cũng kì cục ghê, hoa gì mà để trong làn mây có nắp đậy? Lại còn dặn Bin không được mở ra nữa chứ? Nhưng má bảo đảm với Bin rằng cô sẽ rất thích món quà đó. Và nó tin má!

Hôm nay không khí trong lớp thật vui. Mặc dù cô lam đã dặn dò đừng mua gì cho cô hết nhưng bạn nào cũng mua hoa hoặc quà nào đó vô lớp. Vì tất cả đều rất yêu cô! Những bó hoa hồng hoa cúc... xinh đẹp và những hộp quà thẳt nơ xanh đỏ , đủ màu. Bé bin chợt nhìn xuống chiếc làn của mình mà lo lắng. Không biết má để hoa gì trong đó cà? Bin tò mò quá mà đã hứa với má là không mở ra nên giả vờ là không để ý đến làn hoa nữa.

Cô lan vừa bước vào, cả lóp ríu rít lên chúc mừng và tặng cô những thứ mình mang tới. Cô có vẻ vui lắm, mắt sáng lấp lánh. Bé Bin cũng từ từ tiến lên đưa cho cô chiếc làn mây. Nó thậm chí không dám nhìn thẳng vào mắt cô.

- Dạ con chúc mừng cô nhân ngày 8 tháng 3.

- Ủa, gì mà trông bí mật vậy bé Bin?

- Dạ con cũng không biết nữa , má dặn không được mở ra. Má bảo chỉ mình cô được coi thôi

Cô lan ngạc nhiên liền mở nắp làn ra coi. Cả lớp ồ lên khi thấy đó là những bông bí màu vàng tươi nằm chen chúc nhau. Có lẽ má đã hái sau vườn hồi sớm, bắt đầu có những tiếng cười rồi lan ra thật nhanh. Lớp ồn ào bàn tán, trời ơi tặng hoa gì mà ngộ vậy nè? Giờ mới thấy đó nha! Lạ ghê!... Bé Bin đỏ bừng mặt vì mắc cỡ, đứng im lặng như pho tượng, chỉ muốn òa khóc ngay lập tức. Má kì cục quá hà , không có tiền thì thôi, ai đời lại tặng cô bông bí?.... Bỗng cô Lan bảo cả lớp im lặng. Cô đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nhẹ nhàng nói:

- Sao các con lại cười? Trước tiên cô cảm ơn cả lớp vì đã chúc mừng cô hôm nay. Đặc biệt cô cảm ơn bạn Bin và má bạn ấy đã tặng cô món quà dễ thương này, cô thật sự rất thích. Loài hoa nào cũng đẹp và có giá trị riêng của nó. Bông bí cũng vậy, ngoài vẽ đẹp giản dị, thì bông bí còn là món ăn rất ngon. Thế lớp mình bạn nào thích ăn cơm nóng với bông bí xào thịt bò hoặc bông bí luộc chấm xi dầu không?

- Dạ có, con thích nè cô...

- Vậy các con phải biết ơn những người đã trồng ra nó như má bạn Bin nha! Nhưng các con biết cô thích hoa nào nhất không, đó là hoa điểm 10 của các con. Các con cứ chăm ngoan học giỏi là cô vui lắm rồi!

- Nhìn nụ cười dịu dàng của cô Lan, cả lớp yêu cô hơn bao giờ hết. Cả lớp thấy cô như người mẹ thứ hai của mình. Mà nhắc đến mẹ mới nhớ, hôm nay là quốc tế phụ nữ mà hồi sáng chưa chúc mừng má câu gì hết trơn, tệ thật! Má cũng là phụ nữ chứ bộ...

Hồ nước và mây (lớp chồi)

________________________________________

Vào một ngày cuối xuân, những tia nắng đua nhau nhảy nhót trên mặt hồ nước. Mặt hồ lung linh, rạng rỡ dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên trời nổi gió. Chị Mây sà thấp xuống mặt hồ. Hồ nước cuộn sóng nói với chị Mây:

- Khi có ánh nắng, tôi lóng lánh đẹp hẳn lên, thế mà chị lại che nắng của tôi.

Chị Mây tung tà áo đen kịt và nói:

- Cô bé ơi! Nếu không có tôi thì sao có cô?

- Tôi cần gì chị - Hồ nước lớn tiếng nói.

Chị Mây tức giận bỏ mặc Hồ nước và bay lên tận trời xanh.

Những ngày hè trời nắng chang chang. Hồ nước bị nung nóng bốc hơi dần lên nên ngày càng bé lại. Chị Mây vẫn giận hồ nước nên ở tít trên cao. Hồ nước bị cạn kiệt dần. Nó cầu cứu:

- Chị Mây ơi! Không có chị tưới nước xuống tôi chết mất.

Bầy cá tôm trong hồ cũng than vãn:

- Chúng tôi chết mất vì thiếu nước...

Nghe tiếng gọi của Hồ nước và tiếng than vãn của bầy cá tôm, chị Mây bay về tưới nước xuống Hồ cả một ngày đêm. Hồ nước lớn dần lên. Mặt hồ lao xao sóng:

- Cảm ơn chị Mây! Cảm ơn chị Mây!.

Hồ nước im lặng suốt cả mùa thu và mùa đông. Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ cho bầu trời xanh ngát cao vời vợi soi mình. Tà áo đen của chị Mây nhỏ dần. Mùa xuân sang, tà áo của chị Mây chỉ còn bằng dải lụa. Chị vội sà tấm thân mỏng tang, bé nhỏ xuống hồ nước mà nói:

- Không có cô bé, tôi cũng teo tóp dần không sống nổi đâu!

Hồ nước lao xao sóng. Ông mặt trời tốt bụng rọi những tia nắng ấm đầu hè xuống mặt hồ. Hồ nước bốc hơi. Trên trời cao, chị Mây lớn dần lên. Từ đó Hồ nước và Mây không bao giờ tranh cãi kể công với nhau nữa. Cả hai đều thấm thía bài học: "Ở đời không ai sống được một mình".

Hươu con biết nhận lỗi (Lớp lá)

________________________________________

Một chú Hươu con có bộ lông óng mượt lại điểm những đốm trắng như sao. Chú đang tha thẩn trên đồi tìm lá non. Bỗng nó gặp một chú bò có bộ lông vàng óng. Hươu con nhìn bò và chào: "Chào chị Hươu". Bò đáp: "Tôi không phải là Hươu. Tôi là Bò".

Hươu con cãi: "Chị có lông màu vàng, có đuôi , bốn chân và sừng trên đầu thì chị phải là hươu chứ!"

Bò nói: "Mẹ tôi là Bò. Chúng tôi cho con người sữa ngọt và kêu ùm...bò, ùm...bò. Thế thì tôi là con bò".

Hươu con vẫn bướng bỉnh: "Thì chị là một con heo sữa chứ sao. Tôi cũng có thể kêu được như chị".

Rồi nó há miệng cố hết sức mà vẫn không phát ra được tiếng "ùm...bò".

Bò vẫn nhẹ nhàng: "Tôi không phải là Hươu! Hãy hỏi anh bạn Dê mà xem, anh biết tôi là ai!".

Dê con mắt nhìn Bò và ấp úng: "A...à chị có đuôi, có bốn chân và cặp sừng giống tôi. Thế thì chị là dê rồi!".

Hươu hét lên: "Chị ấy là Hươu , anh bạn cũng là Hươu, cả ba chúng ta đều là Hươu".

Bò và Dê không chịu thua Hươu. Chúng cãi nhau inh ỏi.

Một chú ngựa đang gặm cỏ gần đấy nghe tiếng la hét ầm ĩ liền phi đến xem chuyện gì xảy ra.

Ngựa nhìn những người bạn bốn chân, có cặp sừng trên đầu đang tranh cãi không ai chịu ai. Cả ba đều nhờ ngựa phân xử xem ai đúng ai sai.

Ngựa rung bờm rồi rủ cả ba đi ra suối uống nước cho đỡ khát.

Dòng suối trong xanh mát rượi. Hươu, Bò, Dê thi nhau uống nước cho đờ khát. Ngựa tha thẩn gặm cỏ bên bờ suối.

Chợt Hươu nhìn bóng mình trong dòng nước trong xanh và mỉm cười, chà hai bạn kia trông có giống mình đâu nhỉ? Họ có sừng và bốn chân, họ vẫn không phải là Hươu".

Dê cũng soi mình xuống dòng suối và reo to: "Hai bạn không hoàn toàn giống tôi đâu. Các bạn không phải là Dê".

Nghe tiếng reo của Dê, Bò liền ôn tồn: "Tôi không phỉa là Hươu hay Dê. Tôi là một con Bò cái. Các bạn đều lầm lẫn". Hươu con ngượng nghịu: "Xin lỗi bạn bè, tôi đã lầm lẫn!"

Ỉn con lấm lem (Lớp Mầm)

________________________________________

Ỉn con rất thích chui vào các xó xỉnh, rồi lại nghịch ngợm, lăn lộn trên mặt đất. Các bạn chú đều phải kêu lên: "Ỉn ơi! Cậu lắm lem quá, phải về tắm đi thôi". Nhưng Ỉn ta cứ tảng lờ như không nghe thấy.

Ỉn đến nhà Thỏ rủ bạn đi chơi bập bênh. Nhưng Thỏ vốn sạch sẽ vội xua tay: "Người cậu đầy đất bẩn thế kia, lấm sang váy của tớ thì sao. Cậu tắm sạch sẽ thì tớ mới chơi cùng cậu". Gặp Ngỗng, Ỉn lại gạ cùng chơi té nước. Ngỗng nguây nguẩy: "Ồ không, cậu vừa lem luốc lại vừa hôi, tớ chẳng thích chơi với ai bẩn thế đâu".

Ỉn con tức lắm, chạy vội nhà soi gương. Cậu thốt lên: "Ừ, đúng là mình trông lem luốc quá, thảo nào chẳng ai chịu chơi với mình". Ỉn chạy đến vòi nước tắm rửa, kì cọ sạch sẽ rồi các bạn kéo đến cùng Ỉn chơi đùa thật vui.

Kiến con đi xe ô tô (lớp chồi)

________________________________________

Kiến con leo lên xe buýt. Kiến muốn vào rừng xanh thăm bà ngoại. Trên xe đã có dê con, chó con, khỉ con, lợn con ngồi. Có bạn trong bọn họ vào rừng hái nấm, có bạn vào rừng chơi trốn tìm, có bạn đến dạo chơi bên hồ ở trong rừng.

"Bim Bim" xe chạy rồi. Tất cả cùng tiếng hát, rộn rang biết bao.

"Bim Bim" xe dừng ở bến đón khách, một bác gấu lên xe. Bác đến rừng xanh để thăm cháu. "Ngồi vào đâu bây giờ?" chỗ ngồi đã chật kín...

Dê con bảo "Bác gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!"

Chó Con bảo "Bác Gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!"

Mọi người cùng bảo "Bác Gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!"

Bác gấu nói "Cám ơn các bạn, cám ơn các bạn nhỏ tốt bụng", "Bác ngồi chỗ của các cháu, các cháu lại phải đứng".

Lúc đó Kiến mới leo đến bên bác gấu, cố nhoi lên và cất giọng nói "Không, không, mời bác lại ngồi chỗ của cháu".

Bác gấu hỏi lại "Thế cháu ngồi vào đâu?"

Kiến con lấp láy ánh mắt một cách hóm hỉnh. Bác gấu ngồi vào chỗ của kiến con "Ồ! Kiến con đi đâu rồi nhỉ?"

"Bác gấu ơi! Cháu ở đây!". Bên tai bác gấu vang lên tiếng của Kiến. Ủa, té ra Kiến con đã leo lên vai bác gấu ngồi chễm chệ trên đó.

Trên đường đi, kiến con hát cho bác gấu nghe nhiều bài hát, những bài hát du dương quá, hay quá khiến bác gấu lim dim đôi mắt, nghẹo đầu lắng nghe.

Kiến thi an toàn giao thông (Từ 4 tuổi)

________________________________________

Sau những ngày nhộn nhịp chuẩn bị, hôm nay họ nhà Kiến tổ chức cuộc thi an toàn giao thông.

Trong vườn mơ mát mẻ, tận dụng cái thước mét của ai để quên, thế là đã có con đường phẳng lì, thẳng tắp. Các chàng Kiến trẻ chỉ cần đắp hai bên vỉa hè và kẻ đường ranh giới.

Kiến Chúa oai vệ đứng trên cành mơ cụt, cầm chiếc loa to:

- A lô, a lô, hôm nay chúng ta tìm hiểu luật an toàn giao thông trên đoạn đường thẳng. Kiến Càng làm ô tô, Kiến Vống làm nông dân, Kiến Lửa làm xe máy, Kiến Đen làm xe đạp, còn Kiến Gió, Kiến Hôi làm học sinh, cuối cùng Kiến Kim sẽ làm em bé mẫu giáo. Tất cả các đội được chia làm hai tốp, đứng ở hai đầu đường rồi đi ngược chiều nhau. Ban giám khảo sẽ quan sát chấm điểm cho từng đội.

Tiếng vỗ tay vang dội cả vườn mơ. Ai nấy vào vị trí. Tiếng hô của Kiến Chúa vang lên:

- Bắt đầu!

Ô tô, công nông, xe máy, xe đạp, người đi bộ cùng chuyển động. Dưới mặt đất, trên các tảng đá cao và trên các cành cây vang lên tiếng reo hò của cổ động viên, to hơn vẫn là tiếng hô cổ động cho Kiến Kim: "Kiến Kim cố lên! Kiến Kim cố lên!"

Thế nhưng tất cả đều nhìn thấy đội Kiến Kim vẫn đứng trên vỉa hè nhìn theo các đoàn "thí sinh" di chuyển, chẳng chú nào nhúc nhích.

Rồi cuộc thi kết thúc. Nhiều người lo lắng cho đội Kiến Kim, không hiểu tại sao lại bỏ cuộc.

Tiếng loa của Kiến Chúa đã vang lên:

- Cuộc thi đã kết thúc tốt đẹp! Tất cả các thí sinh đã hòan thành rất tốt phần thi của mình, đi đúng luật giao thông, đảm bảo an tòan. Riêng đội Kiến Kim trả lời tiếp câu hỏi sau:

- Tại sao các cháu không xuống đường dự thi?

Đội Kiến Kim đồng thanh trả lời:

- Thưa Ban giám khảo, ở lớp cô giáo dạy chúng cháu không được xuống lòng đường. Muốn qua đường phải có người lớn đưa qua ạ!

Cả vườn mơ bỗng vang dậy tiếng hoan hô hòa trong tiếng loa của Kiến Chúa:

- Kiến Kim mười điểm! Kiến Kim mười điểm!

Lợn con sạch lắm rồi (Lớp Mầm)

________________________________________

Trong rừng cây đẹp có nhiều con vật sống, có gấu con, thỏ con, chuột túi con, khỉ con, và có cả dê con.

Một buổi sáng, trời trong xanh, các con vật đã tụ tập dưới gốc cây từ rất sớm để chơi, chúng nó chạy, chúng nó nhảy, vui thích quá!

Lợn con vừa lười vừa bẩn, không thích tắm, suốt ngày chỉ nhắm mắt nằm. Hôm đó, lợn ta tỉnh giấc trong tiếng cười đùa huyên náo của các con vật khác. Hé mắt nhìn qua cửa sổ, lợn con thấy bạn bè đang chơi đùa thỏa thích. Lợn ta vội vàng chạy đến dưới gốc cây. Ai dè, các con vật thấy lợn con vội vàng bịt mũi chạy tản ra chỗ khác. Chúng vừa chạy vừa la toáng lên "Hôi, hôi, hôi quá". Chỉ trong nháy mắt tất cả các con vật biến mất tăm mất tích. Lợn con ngạc nhiên quá. "Sao vậy?". Một con chim tốt bụng sà qua bảo cho lợn con biết: "Lợn con ơi, lợn con ơi! Cậu bẩn quá, đi tắm đi, nhanh lên!". Lợn con vội chạy về nhà tắm gội. Nay lợn con sạch sẽ lắm rồi. Các bạn lại đồng ý chơi với nó rồi đấy.

________________________________________

Các bạn nhỏ của trăng ơi, trong một ngày các bạn làm bao nhiêu việc, nào đi học mẫu giáo, khi về nhà sau khi giúp bà, nhặt rau giúp mẹ...Trăng thì không nhiều việc như các bạn. Trăng chưa bao giờ phải rửa mặt đánh răng, vì trăng chẳng ăn gì, và không hề nghịch bẩn. Trăng chỉ có một việc là chiếu sáng cho các bạn thôi.

Tuy vậy, các bạn đừng tưởng trăng nhàn rỗi lắm đâu. Vì thực sự đâu phải chỉ chiếu sáng. Trong lúc chiếu sáng còn biết bao nhiêu việc phải làm. Này nhé, đêm khuya khi các bạn ngủ rồi, trăng len qua các song cửa sổ, trăng đem về cho các bạn bao điều thích thú khi các bạn nằm mơ. Nói thật đấy, chẳng tin các bạn thử nhắm mắt lại xem. Các bạn thấy chưa "Những khu vườn trãi ra vô tận dưới ánh trăng, sông hát lên niềm vui của mình. Những sợi rong xanh biếc chập chờn. Những con cá không muốn ngủ, cứ bơi lượn lấp lánh suốt đêm..."

Này các bạn, có nhiều bạn cũng giống như những con cá, ham chơi quá, không muốn ngủ. Thật ra, khi ngủ, có phải thời gian mất đi đâu. Ngủ, đó là đi tới một cuộc sống thần tiên khác. Trong lúc ngủ, người ta mơ thấy những điều khi thức không thấy được. Chẳng hạn, bạn có thể thấy mình lái con tàu vũ trụ bay vút lên không trung, mặc dù chưa bao giờ bạn lái một chiếc máy bay nào cả. Bạn có thể gặp bố bạn mãi tận ở một mặt trận xa xôi. Bố bạn khóac vải dù, áo ướt hơi sương, lá ngụy trang trên mũ xào xạc ánh trăng. Những bạn mồ côi còn có thể gặp được cả cha mẹ mình. Nếu như không có giấc ngủ, các bạn sẽ thiệt thòi biết nhường nào. Hãy ngủ đi, hãy ngủ đi các bạn.

Món quà của cô giáo (lớp chồi)

________________________________________

Hôm thứ hai đầu tuần, cô giáo Hươu Sao nói với cả lớp mẫu giáo lớn:

- Các con sắp được nghỉ hè rồi. Tuần này, ai được phiếu bé ngoan, cô sẽ tặng cho một món quà.

Từ hôm ấy, bé nào cũng cố gắng hát hay hơn, múa dẻo hơn và trật tự hơn khi ngồi trong lớp. Đến ngày thứ bảy, cả lớp mẫu giáo lớn hồi hộp lớn, vì bé nào cũng thích được cô giáo cho quà mà!

Hết giờ ra chơi, trong lúc các bé xếp hàng vào lớp, Cún Đốm bá vai Gấu Xù khiến cho Gấu Xù xô vào Mèo Khoang làm Mèo Khoang ngã nhào, đầu gối bị trầy da thâm tím. Mèo Khoang đau quá liền khóc òa lên. Cô giáo Hươu Sao phải lấy dầu cao xoa bóp vào chỗ đau cho Mèo Khoang.

Giờ sinh hoạt cuối tuần, cô khen cả lớp:

- Tất cả các con đều xứng đáng nhận phiếu bé ngoan và nhận quà của cô.

Rồi cô đi từng bàn phát quà và phát phiếu bé ngoan cho các bé. Nào là những con búp bê, thú nhồi bông...trông thật ngộ nghĩnh. Lại có bạn được cô tặng cho chiếc bút chì để tập viết hoặc kẹo sô cô la...

Đến lượt Gấu Xù, cô giáo tặng cho Gấu Xù một cái ô tô đỏ rất đẹp, nhưng cậu cứ cúi mặt xuống, không đưa tay ra nhận quà. Cô giáo dịu dàng hỏi:

- Gấu Xù làm sao thế?

Gấu Xù nói lý nhí:

- Thưa cô, con không ngoan ạ!

- Con hãy nói cho cô nghe nào!

- Thưa cô, con đã xô vào Mèo Khoang làm bạn ấy bị ngã ạ.

Cô Hươu Sao nhìn Gấu Xù trìu mến rồi nói:

- Đó là lúc xếp hàng, con đi hơi nhanh nên lỡ xô vào bạn. Con không cố ý làm bạn ngã, phải không nào?

- Thưa cô, lỗi tại con ạ. Chính con đã bá vai bạn Gấu Xù ạ!

Cô Hươu Sao gật đầu:

- Cô hiểu rồi. Lần sau, khi xếp hàng, các con đừng đùa nghịch, xô đẩy nhau. Còn hôm nay, Gấu Xù và Cún Đốm vẫn được nhận quà và phiếu bé ngoan vì các con đã thật thà, dũng cảm nhận khuyết điểm của mình.

Nói rồi, cô giáo tặng cho mỗi bạn một chiếc ô tô đồ chơi rất đẹp. Chắc hẳn đó là đồ chơi mà cả hai bạn quý nhất trong năm học mẫu giáo này.

________________________________________

Mèo con ngồi bên một hốc cây, trên tay chú là quyển sách tậo tô rất mới, rất đẹp. Mèo con ngắm nghía một lúc rồi "soạt! soạt!", chú ta xé quyển sách. Thấy vậy, bác Gà trống đang kiếm mồi gần đó liền hỏi:

- Cháu làm gì thế?

- Dạ cháu xé sách để gấp đồ chơi đấy ạ! - Mèo con trả lời.

Rồi Mèo con hớn hở ngắm những con vật vừa gấp của mình. Còn bác Gà Trống thì nghiêm mặt nhắc:

- Vậy là chú đã làm hỏng quyển sách rồi đó! Phải biết giữ gìn sách vở chứ!

Mèo con cầm đồ chơi cạhy đi. Vừa đi chú ta vừa lẩm bẩm: "Có thế mà bác Gà Trống cũng mắng. Mình xé quyển sách thì có gì ghê gớm đâu?". Bác Gà Trống nghe thấy những lời đó liền nói với theo: "Đúng là một chú Mèo không biết nghe lời, hư quá!".

Tối hôm đó, nằm trên giường. Mèo Con cứ thắc mắc mãi: "Mình chẳng làm điều gì xấu cả. Vì sao bác Gà Trống lại bảo mình hư nhỉ?". Rồi chú ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ. Mèo con thấy những bức tranh và chữ cái quen thuộc của quyển sách hiện ra. Ai cũng trách móc chú và bảo lần sau không làm bạn với chú nữa.

Tỉnh dậy, Mèo Con vội tìm những mảnh giấy rách đem dán lại. Chú đưa cho bác Gà Trống xem:

- Bác Gà Trống ơi! Cháu đã dán lại quyển sách rồi này!

Bác Gà Trống nhìn quyển sách tỏ vẻ rất ngạc nhiên rồi lắc đầu chán nản. Thì ra Mèo Con đã dán nhầm lung tung, trang nọ lẫn trang kia, mảnh nọ chồng lên mảnh kia. Rồi bác Gà Trống châm rãi bảo:

- Sách vở là người là bạn tốt, luôn mang đến cho chúng ta nhiều điều bổ ích. Nếu lỡ tay làm rách thì chớ có dán lại ẩu như thế này nhé!

Mèo Con ngượng nghịu nhìn bác Gà Trống khẽ nói:

- Vâng ạ! Cháu hiểu rồi ạ!

Từ đó, Mèo Con không xé sách nữa mà học xong, chú lại cất đi cẩn thận.

Mỗi người một việc (Lớp mầm)

________________________________________

Trong một gia đình hạnh phúc nọ có anh chị em. Họ sống với nhau vui vẻ, đầm ấm. Nhưng rồi một hôm họ cãi nhau xem ai làm việc nhiều nhất.

Mắt nói: Tôi suốt ngày phải nhìn.

Tai nói: Tôi suốt ngày phải nghe.

Mũi nói: Tôi suốt ngày phải ngửi.

Tay nói: Tôi vẽ, tôi giặt, tôi quét nhà...

Chân nói: Tôi đi, tôi chạy, tôi nhảy...

Và tất cả cùng kêu lên:

- Mồm không làm gì cả, suốt ngày chỉ ăn và uống! Mồm nghe vậy buồn lắm nó quyết định không ăn, uống gì nữa và bỏ đi nằm, im lặng.

Hết một ngày cả nhà ai cũng mệt và buồn. Mắt nói: Không biết vì sao tôi mệt không muốn nhìn nữa.

Tai cũng nói: Tôi chẳng muốn nghe

Chân uể oải kêu lên: Tôi cũng không chạy được nữa.

Lúc ấy mọi người mới sực nhớ mồm không ăn, mệt lả, đang nằm ngủ, im lặng. Chúng chợt nhớ đến cuộc cãi vã hôm trước, tất cả cùng nhau đi gọi mồm dậy và mang thức ăn đến:

- Thôi cậu ăn đi, cậu uống đi. Bọn mình xin lỗi cậu. Bấy giờ mồm mới chịu ăn. Sau khi mồm ăn uống, tất cả cảm thấy khỏe hẳn lên, tất cả vui vẻ, cười đùa.

Từ đó trở đi chúng sống với nhau thân ái và hòa thuận và ai ai cũng vui vẻ làm việc.

Một bó hoa tuơi thắm (lớp chồi)

________________________________________

Bà ngoại của Voi Con bị bệnh phải vào bệnh viện nằm. Voi Con vào viện thăm bà. Trên đường, Voi Con thấy một bác Dê vác trên vai một bao gạo lạch bạch đi từng buớc một. Voi Con tới gần, nói với bác: "Bác Dê ơi! để cháu giúp bác". Voi Con để bác Dê buộc túi gạo vào cái mũi dài của mình và rảo buớc đi, đưa bao gạo đến tận nhà bác Dê.

Khi Voi Con đi qua một vườn hoa, nhìn thấy Chó Vàng con định tưới hoa, chó chạy đến bên giếng để múc nước, do sơ suất nên gầu rơi xuống giếng. Chó Con ngẩn ngơ nhìn xuống giếng và chưa nghĩ ra cách gì để lấy gầu lên. Voi Con đi vào vườn hoa và nói với Chó Vàng con rằng: "Không việc gì, để tớ giúp cậu vớt gầu lên, lại còn múc đầy một gầu nước".

Chó Vàng con bảo Voi Con "Xin từ từ rồi hãy đi" và chạy đi hái một bó hoa tặng Voi Con và nói rằng: "Xin cám ơn chị Voi Con, em xin tặng chị bó hoa tươi thắm này".

Voi Con mang bó hoa tươi đến viện, trông thấy bà ngoại vội kêu lên: "Bà ơi! Bà xem này, cháu mang đến cho bà cái gì đây!". Voi Con dâng bó hoa lên trước mặt bà nói: "Cháu tặng bà!". Mắt bà ngoại sáng lên "Ồ! Hoa đẹp quá! Hoa đẹp quá!". Bà tự nhiên thấy hết cả bệnh".

Nàng tiên bóng đêm (lớp lá)

________________________________________

Bé Hoa ghét nhất trên đời là bóng đêm. Mỗi khi mẹ hôn lên má bé Hoa trước lúc ngủ, đèn tắt và bóng đêm tràn vào. Tất cả xung quanh bỗng trở nên lạ lẫm và huyền bí. Bé Hoa thầm nghĩ: "Mình muốn mặt trời chiếu sáng cả ngày lẫn đêm. Ngày vui vẻ còn bóng đêm thì đáng sợ làm sao".

- Tại sao tôi lại đáng sợ cơ chứ? -Giọng của ai đó bất ngờ vang lên trong bóng tối.

Bé Hoa ngạc nhiên nhìn xung quanh. Bé thấy bên cửa sổ một người phụ nữ, gương mặt trắng hồng và tỏa sáng như ánh trăng trên bầu trời. Cô ta khóac một chiếc áo choàng lấp lánh như những vì sao bạc. Cô nói:

- Hãy ngắm nìn tôi - Cô bé thân yêu. Chẳng lẽ tôi lại không xinh đẹp?

Bé Hoa khẽ hỏi: - nhưng cô là ai?

Người phụ nữ mỉm cười: - Ta là nàng tiên đêm, ta đến thay cho ngày để tặng cho tất cả mọi người sự bình yên và giấc ngủ.

Cô tiên đến bên bé hoa, cầm tay bé và nói: - Hãy bay cùng ta và cháu sẽ thấy cả vương quốc của cháu ngủ bình yên và ngọt ngào như thế nào.

Thế rồi, nàng tiên đêm cùng bé Hoa bay qua cửa sổ. Họ bay qua những thành phố và làng mạc. Tất cả đều đang chìm trong giấc ngủ dịu dàng và êm đẹp. Chưa bao giờ bé Hoa thấy cảnh đẹp đến thế. Bé Hoa thầm thì: - Cô không đáng sợ, cô tuyệt diệu và bí ẩn làm sao.

Ngôi nhà ngọt ngào (Lớp Mầm)

________________________________________

Bé Hoa và Cường không thích ăn cơm, cũng chẳng thích ăn rau. Suốt ngày hai bạn chỉ thích ăn bánh kẹo.

Mùa hè đến, chỉ nhìn thấy kem là cả hai bạn thi nhau ăn hết chiếc này đến chiếc khác mà không biết chán ! Hôm đó hai bạn rủ nhau vào công viên chơi. Bỗng cả hai phát hiện ra "ngôi nhà ngọt ngào" xây toàn bằng kẹo, sô cô la, bánh kem trứng... Hoa và Cường khoái chí vô cùng. Cả hai vội vàng chạy tới. Cường chạy lên nóc nhà, Hoa chui vào trong, bóc tường ra chén ngon lành. Chỉ một loáng sau, mái nhà bằng kem sữa, tường bằng trứng đã vỡ hết. Hoa và Cường còn cao hứng chén cả những chiếc cánh của bằng sô cô la rất thơm và ngon nữa. Cứ thế, cả hai cứ ăn nữa, ăn mãi, càng ăn càng hăng cho đến khi ngôi nhà ngọt ngào chẳng còn thấy hình bóng đâu nữa. Khi hai bạn lặc lè với cái bụng to tướng trở về thì: "Ối !...a...Sao mà đau răng thế hả trời?" Cả hai cùng òa lên khóc nức nở...

Ngựa đỏ và lạc đà (lớp chồi)

________________________________________

Hôm ấy trên thảo nguyên tổ chức hội thi. Ngựa Đỏ và Lạc Đà đều ghi tên tham gia thi chạy hai nghìn mét. Bác trọng tài Dê giơ sung phát lệnh, "Đoành" một tiếng. Ngựa Đỏ và Lạc Đà nhắm về phía trước chạy như bay. Ngựa Đỏ chạy rất nhanh, chẳng mấy chốc nó bỏ xa Lạc Đà. Nó nghỉ: "Lạc Đà, mi đừng hòng giỏi hơn ta, cổ mi tuy dài nhưng làm được gì nào. Hãy xem bốn cẳng kìa, vừa gồ, vừa dẹt, vừa mập ú như bốn chiếc bánh thịt to, còn chân ta vừa nhỏ, gọn, cứng nên phóng nhanh như gió".

Ngựa Đỏ chiếm giải nhất nên xem Lạc Đà chẳng ra gì. Mấy ngày sau, thấy bên kia sa mạc mắc bệnh truyền nhiễm bác Dê Gấm nhờ Ngựa Đỏ và Lạc Đà đưa thuốc sang đó. Ngựa Đỏ kiêu ngạo nói:

- Như vậy làm sao được. Chắc là tôi đến đó trước chờ cậu thôi.

Lạc Đà chẳng nói gì, lặng lẽ chuẩn bị uống nước, ăn cỏ rồi chở mấy kiện thuốc lên đuờng. Nó đi trong sa mạc, từng bước vững vàng, mặt trời chiếu rọi những tia nắng nóng như lửa. Ngựa Đỏ mồ hôi dầm dề, vừa khát vừa đói, còn Lạc Đà càng đi càng khỏe. Lạc Đà nói:

- Tại anh đang đi không thích hợp, mỗi bước mỗi lún, phí sức quá. Anh xem dấu chân ta này.

Ngựa Đỏ đã kiệt sức, Lạc Đà ngoái chiếc cổ dài lại và nói:

- Đừng lo, vòng qua thêm hai đụn cát nữa là có nước. Anh hãy bước theo dấu chân tôi cho đỡ mệt.

Quả thật, khi bước theo dấu chân Lạc Đà, Ngựa Đỏ thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Qua khỏi hai đụn cát, dưới mấy gốc Liễu, xuất hiện một dòng suối nước trong. Ngựa Đỏ vương cổ uống nước ừng ực, rồi khen Lạc Đà:

- Cậu giỏi thật đấy!.

- Không, trong sa mạc tôi hơn anh, nhưng trên đồng cỏ thì tôi ko dám sánh với anh đâu - Lạc Đà khiêm tốn nói.

Ngựa Đỏ cảm thấy thật xấu hổ, nó khe khẻ nói:

- Tôi hiểu rồi.

Người cha và các con trai (lớp chồi)

________________________________________

Người cha muốn cho các con phải sống hòa thuận, nhưng chúng không nghe lời. Ông liền sai đem đến một cái chỗi sể và bảo:

- Các con bẻ đi!

Lũ con trai xoay xở thế nào đi nữa cũng không bẻ nổi.Bấy giờ người cha tháo rời chổi ra và bảo các con bẻ từng ngọn một. Lũ con dễ dàng bẻ hết từng ngọn chổi. Lúc đó người cha nói:

Đối với các con cũng vậy đấy: Nếu như các con sống hòa thuận, đoàng kết thưong yêu nhau thì không ai làm gì nổi, bằng không các con cứ cãi cọ nhau, tất cả riêng rẽ thì bất cứ kẻ nào cũng dễ dàng làm hại các con.

Người làm vườn và các con trai (lớp chồi)

________________________________________

Người làm vườn muốn dạy nghề của mình cho các con trai. Khi ông sắp qua đời, ông gọi các con đến và bảo:

- Thế này các con nhé, khi nào bố chết, các con hãy tìm kỹ cái vật bố giấu trong vườn trồng nho.

Các con tưởng rằng ở đó có kho báu nên khi bố qua đời, họ đi đào xới rất kỹ đất ở khu vườn trồng nho. Họ đã không tìm thấy kho báu, nhưng đất ở vườn trồng nho được xới trộn rất kỹ, năm đó nho ra quả nhiều và rất to, rất ngon. Thế là họ bán được rất nhiều tiền và trở nên giàu có.

Nhím con kết bạn (Lớp lá)

________________________________________

Trong một khu rừng nọ có một chú Nhím chỉ sống một mình, rất nhút nhát nên chú không quen biết bất kì một con vật nào khác sống trong rừng.

Vào một buổi sáng đẹp trời, nhím con đi kiếm quả để ăn. Bỗng một chú Sóc nhảy tới và nói:

- Chào bạn! Tôi rất vui sướng được gặp bạn.

Nhím con bối rối nhìn Sóc, rồi quay đầu chạy chốn vào một bụi cây. Nó cuộn tròn người lại mà vẫn run vì sợ.

Ngày tháng trôi qua, những chiếc lá trên cây bắt đầu chuyển màu và rụng xuống. Nhím con quyếet định phải mau chóng tìm một nơi an toàn và ấm áp để trú đông.

Trời ngày càng lạnh hơn. Một hôm nhím con đang đi tìm nơi trú đông thì trời đổ mưa. Nhím sợ hãi cắm đầu chạy.

Bỗng nó lao vào một đống lá. Nó chợt nhận ra sau đống lá là một cái hang "Chào bạn!". Một giọng ngái ngủ của một chú nhím khác cất lên. Nhím con vô cùng ngạc nhiên.

Sau khi trấn tĩnh lại. Nhím con bẽn lẽn hỏi:

- Tên bạn là gì?

- Tôi là Nhím Nhí.

Nhím con run run nói: "Tôi xin lỗi bạn, tôi không biết đây là nhà bạn của bạn".

Nhím nhí nói: "Không có hề gì. Thế bạn đã có nhà trú đông chưa? Tôi muốn mời bạn ở lại bới tôi qua mùa đông. Tôi ở đây một mình buồn lắm.

Nhím con rụt rè nhận lời và cảm ơn lòng tốt của bạn. Cả hai thu dọn và trang trí chỗ ở gọn đẹp.

Chúng rất vui vì không phải sống một mình trong mùa đông gió lạnh.

Nhổ củ cải

________________________________________

Ngày xửa, ngày xưa có hai ông bà già và một cô cháu gái sống trong ngôi nhà bằng gỗ bên cạnh mảnh vườn xinh xắn. Trong nhà còn có một con Chó, một con Mèo và một chú Chuột nhắt.

Vào mùa thu, ông già mang về một cây củ cải nhỏ và trồng trong vườn. Ngày ngày, ông ra sức chăm chút cho cây. Sáng nào ông cũng cho cây cải uống một gáo nước. Chiều nào ông cũng bắt sâu, nhổ cỏ cho cây. Cây cải cũng không phụ lòng tốt của ông, nó lớn nhanh như thổi. Chẳng bao lâu nó trở thành một cây cải khổng lồ, to chưa từng thấy.

Một buổi sáng, ông già ra vườn định nhổ củ cải về cho bà già và cháu gái. Ông nhổ mãi, nhổ mãi mà cây cải không hề nhúc nhích. Ông gọi bà già: "Bà già ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!" Bà già liền chạy lại, bà túm áo ông, ông nắm cây cải nhổ mãi, nhổ mãi vẫn không được. Bà già gọi cháu gái: "Cháu gái ơi! Mau lại đây! Mau giúp bà nhổ củ cải!" Cháu gái liền chạy lại kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải nhổ mãi, nhổ mãi chẳng ăn thua gì. Cháu gái gọi Chó con: "Chó con ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!". Chó con chạy lại ngậm lấy bím tóc của cháu gái. Cháu kéo áo bà ba, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Kéo mãi nhổ mãi cây cải vẫn nằm ì ra. Mèo con gọi Chuột nhắt: "Chuột nhắt ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!" Chuột nhắt chạy lại, bám đuôi Mèo, Mèo cắn đuôi Chó, Chó ngậm bím tóc cháu gái, cháu gái kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Một, hai, ba... Cây cải gan lì đã bị kéo lên khỏi mặt đất.

Tất cả sung sướng, nhảy múa quanh vây cải:

Những con sao biển

________________________________________

Một sớm tinh mơ, khi mặt biển còn mù sương, tôi bắt đầu chạy thể dục với chiếc walkman đeo bên hông. Ở phía xa, tôi thấy một cậu bé có vẻ bận rộn. Cậu chạy lăng xăng, cúi nhặt những vật gì đó rồi quăng nó xuống biển. Nếu đó là trò chơi thi ném đá thì tôi có thể trổ tài cùng cậu bé. Ngày nhỏ, tôi cũng thường hay chơi trò này. Nhưng khi nghe thấy tiếng cậu hét:"Về nhà ngay nhé! Bố mẹ mày đang đợi đấy!"

Có thể bạn không tin, như chính tôi lúc ấy, những "viên đá" đó thì ra là những con sao biển bị mắc cạn trên bãi. Và vị cứu tinh nhỏ này đang cố gắng đưa chúng trở lại bãi biển, chạy đua với Mặt trời mà chỉ vài giờ nữa thôi sẽ trở nên gay gắt và không tài nào chịu đựng nổi.

Nhưng những cố gắng của cậu bé rồi sẽ chỉ là công cốc thôi. Làm sao có thể đưa hàng ngàn con sao biển về "nhà" của chúng được? Tôi gọi to: " Này nhóc, làm thế làm gì? Làm sao em cứu được tất cả những con sao biển?"

Cậu bé lại cúi xuống, nhặt một con sao biển và hét trả lời: "Nhưng em có thể cứu được con này mà. Nó sẽ được về nhà!" Cậu bé vung tay quăng con vật bé nhỏ xuống biển. Rồi lại lập tức cúi xuống với một con khác...

Rõ ràng cậu bé không quan tâm đến việc có vô số những con sao biển trên cát. Cậu chỉ nhìn thấy những sự sống mà cậu đang nắm trong tay. Cái mà cậu bé nhìn thấy, dù chỉ là một con số nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa. Còn tôi, tôi nhìn thấy một con số quá khổng lồ đó là vô vọng.

Thế là tôi cúi xuống nhặt một con sao biển lên và đưa nó về nhà.

Những người bạn dễ thương (Lớp chồi)

________________________________________

Ở vùng rừng núi xa xôi kia có một ngôi nhà sàn nhỏ lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười, đó là ngôi nhà của gia đình bé Mơ. Buổi sáng khi cha và anh lên rẫy, Mơ cũng đi hái nấm. Mẹ dặn Mơ đừng đi vào rừng sâu. Vậy mà những cái nấm tinh nghịch cứ rủ Mơ đi mãi...

Mơ vừa đi vừa hát, mấy chú chim sẻ sà xuống cùng hòa ca. Mơ lấy trong gùi vài hạt thóc tặng cho chim sẻ. Trên đường, Mơ gặp một chú gà con lạc mẹ đang buồn bã đi một mình. Mơ ân cần bảo: "Chị cùng em đi tìm mẹ nhé." Chẳng mấy chốc, Mơ đã nghe tiếng gà mẹ cục cục. Gà con mừng rỡ chạy ngay đến. Cả hai mẹ con cảm ơn Mơ hết lời.

Một lúc sau, Mơ gặp cô mèo đang nằm sưởi nắng dưới gốc cây. Mơ đến vuốt ve và kêu mèo thật dễ thương. Bỗng Mơ nghe thấy có tiấng gầm gừ. Thì ra có một chú gấu khó chịu vì bị gai đâm. Mơ dịu dàng nhổ cho gấu những cái gai đáng ghét.

Khi còn lại một mình, Mơ không tìm được lối về. Rừng thì sâu thăm thẳm. Mơ sợ hãi khóc òa lên. Tiếng khóc của Mơ làm động cả khu rừng im ắng, đánh thức hổ vằn đang ngủ say. Hổ tức giận nhảy xổ ra đòi ăn thịt Mơ. May thay, chú gấu xuất hiện kịp thời bảo vệ Mơ. Thấy gấu to lớn quá hổ cụp đuôi chạy mất. Gấu bảo: "Mơ ơi, để mình cõng bạn nhé, chúng ta sẽ nhanh chóng ra khỏi khu rừng".

Mẹ Mơ đứng đón em trước ngõ, Mơ xin lỗi vì đã làm mẹ lo lắng. Cả hai mẹ con cùng vào bếp nấu một bữa ngon lành cho cha và anh. Và ngôi nhà sàn nhỏ giữa rừng núi xa xôi vẫn luôn đầy ắp tiếng cười...

Những tấm biển biết nói

________________________________________

Những chiếc ô tô đang lao vút trên đường. Nhưng kia, chúng bỗng phanh kít lại; hoặc đi chầm chậm một cách "hiền từ". Vì sao vậy nhỉ? "phép màu" nào đã khiến những chiếc xe đang "hung hăng" kia thay đổi bất ngờ như thế? Xin "bật mí" cùng các bạn nhỏ: "phép màu", đó chính là các cột đèn và bảng hiệu giao thông trên đường phố đấy. Tuy chúng chẳng biết nói, nhưng cứ nhìn thấy chúng thôi, các chú lái xe phải răm rắp "nghe lới". Người lớn gọi chúng là luật lệ giao thông đấy các em ạ.

Hồi xưa, khi các loại xe thô sơ mới xuất hiện, ở nước Anh đã ra đời luật giao thông đầu tiên: Khi ô tô đi trên đường, phải có một ngưới cầm cờ chạy trước mũi xe để thông báo cho mọi người, nhằm tránh nguy hiểm. Chắc các bạn đọc tí hon ngạc nhiên lắm nhỉ, vì ôtô chạy nhanh thế, làm sao mà người chạy trước xe được? nhưng hóa ra ôtô thời ấy đi rất chậm, chậm hơn cả đi xe đạp ngày nay.

Thời gian trôi đi, ôtô xuất hiện ngày càng nhiều, gây ra không ít phiền phức cho nhau và cho người đi bộ. Để tránh những điều trên, tại những đoạn đường cần thận trọng, người ta treo những tấm biển có ghi các dòng chữ: "Cẩn thận! Đọan đường khó đi!. "Đây là lối cho người đi bộ"...

Nhưng rồi đến lúc, ôtô không chỉ đi lại trong phạm vi một nước. Chúng đi từ nước này sang nước khác. LÀm sao bây giờ, nếu những người lái xe không biết tiếng của những nước họ sẽ đến? Thế là một số "hà thông thái" bèn họp nhau lại và cùng suy nghĩ ra những lí hiệu đi đường. Thời gian đầu, họ chỉ nghĩ ra có 4 kí hiệu thôi.

1. Đường uốn khúc

2. Đường gồ ghề

3. Đường có tàu hỏa chạy qua

4. Ngã tư

Đến nay, các kí hiệu giao thông ngày càng nhiều. các chú lái xe muốn được cấp bằng, phải học thuộc "làu làu" tất cả các kí hiệu rắc rối đó. Vì vậy, nhựng tấm biển hiệu giao thông lúc nào cũng như biết nói, nhắc cho các chú lái xe không gây nguy hiểm trên đường.

Lúc đầu, đèn giao thông "Xanh, vàng, đỏ" cũng chưa có. Mãi về sau này, "phát minh"" tuyệt vời đó ra đời, như bây giờ các em thấy chúng "trấn giữ" ở các ngã tư, ngã năm đường phố đấy. Hẹn một dịp khác, chúng mình lại trò truyện về cây đèn giao thông thú vị đó nhé.

Niềm vui từ bát canh cải (lớp chồi)

________________________________________

Xem tivi thấy các chú bộ đội đảo Trường Sa trồng rau trong khay gỗ, bé Mai thích lắm nói với bố: "Con muốn được trồng rau như các chú bộ đội".

Chiều hôm sau, bố mang về cho Mai một bao đất và gói nhỏ hạt rau. Bố cho đất vào hai cái chậu nhựa hỏng rồi hướng dẫn Mai làm đất cho tơi xốp và gieo hạt. Biết Mai chưa biết cách chăm sóc cho hạt nảy mầm, mẹ dừng tay vo gạo nói: "Tưới nhiều nước hạt cải không nảy mầm được. Tưới rau cũng như tưới hoa, ngày tưới hai lần vào buổi sáng và buổi chiều. Tưới nhẹ tay vừa nước cho đất ấm là được". Nghe lời mẹ, Mai chăm chỉ ngày tưới hai lần và hồi hộp chờ đợi hạt cải nảy mầm. Mấy ngày sau Mai thấy ở kẻ nứt của hạt cải có một mầm trắng. Hôm sau nữa hạt cải nảy mầm, than cải nhỏ và trắng đội đất nhô lên. Được chăm sóc chu đáo cải lớn nhanh như thổi, chẳng bao lâu là cải xanh rờn xòe kín cả chậu.

Vào một ngày chủ nhật mẹ làm bữa ăn tươi. Mai cùng mẹ cắt tỉa những lá cải. Cùng với các món ăn khác, bát canh cải nấu với thịt nạc thêm chút gừng tỏa mùi thơm ngát, ngọt ghê. Mẹ bảo: "Ngon nhất là bát canh cải nấu bằng rau do Mai chăm sóc". Mai sung sướng lắm.

Nòng nọc con tìm mẹ

________________________________________

Một đàn Nòng nọc bơi quanh ao tìm mẹ. Cá Chép thấy vậy bảo chúng: "Mẹ của các cậu có mắt lồi ra cơ". Đàn Nòng nọc vội vàng bơi đi tìm mẹ mắt lồi.

Vừa thấy cô Tôm có mắt lồi ra, Nòng nọc mừng rỡ gọi to: "Mẹ ơi, mẹ! Chúng con đây!". Nhưng cô Tôm đáp: "Cô không phải là mẹ của các cháu, mẹ của các cháu có bốn chân kia..."

Đàn Nòng nọc lại tiếp tục đi tìm, và chúng gặp bác Rùa. Thấy bác có bốn

chân, Nòng nọc vui mừng gọi: "Mẹ ơi!" Bác Rùa lắc đầu: "Ta không sinh ra các cháu, mẹ các cháu có bụng trắng cơ..."

Đàn Nòng nọc chưa nghe bác Rùa nói hết đã vội bơi đi. Chúng tìm gặp chị Ngỗng lông bụng trắng như bông gọi: "Mẹ, mẹ!" Chị Ngỗng cười: "Mẹ của các em biết hát "ộp, ộp" cơ..."

Đang thất vọng, chợt Nòng nọc nghe có tiếng gọi: "Các con yêu, mẹ ở đây này!" Một chị Ếch có đôi mắt lồi, có bốn chân và biết hát "ộp ộp" xuất hiện.

Đến lúc này Nòng nọc mới tìm được đúng mẹ.

Ông già Noel (Lớp mầm)

________________________________________

Các bé có biết ông già Noel sống ở đâu không?

Ông già Noel sống ở nơi Bắc Cực, cùng với bà già Noel, các chú lùn tí hon và đàn tuần lộc. Xung quanh nơi ở của ông già Noel có những cảnh đẹp vào bậc nhất trên thế giới đấy. Thỉnh thoảng quang nơi ở của mình, ông còn gặp vài chú gấu Bắc cực lang thang dạo chơi nữa cơ.

Gần đến Noel, thư từ từ khắp nơi trên thế giới bay đến nơi này. Ông già Noel đã phải nhờ người giúp ông tập hợp thư điện tử để biết chắc là thư của tất cả mọi người đều đã đến nhà ông. Ơn trời là bây giờ chúng ta không phải phụ thuộc vào bưu điện nữa rồi. Ở nơi Bắc cực của ông cũng có internet.

Trước đêm Noel, ông già Noel bận rộn kiểm tra lại danh sách các bạn nhỏ, sơ đồ đường đi đến từng nhà của các bạn khắp nơi trên trái đất, chuẩn bị quà đủ cho tất cả các bạn nhỏ và gói lại cẩn thận. Nhưng chưa hết đâu, ông già Noel còn phải xem chiếc xe trượt tuyết của ông có đảm bảo cho chuyến đi dài hay không, rồi dàn tuần lộc đã được ăn no chưa, có đủ sức kéo xe không. Bé biết tại sao ông già Noel phải cẩn thận như vậy không? Vì đường rất xa, nên đoàn tuần lộc không có thời gian ghé lại vào cửa hàng KFC nào đâu.

Ông già Noel phải đến mọi nhà vào khoảng nửa đêm, khi hầu hết các bạn nhỏ đã đi ngủ và đang mơ về món quà sẽ nhận được khi tỉnh giấc vào sáng mai.

Đến trước cửa mỗi nhà có trẻ em, ông già Noel kiểm tra lại xem có đúng địa chỉ không và các món quà còn đủ trong túi không. Rồi ông khoác túi quà lên vai, trèo lên mái nhà và vào bên trong theo ống khói lò sưởi. Ông phải vừa tụt xuống vừa để y để lửa đừng làm ông bị bỏng. Khi xuống đến nơi, bước ra khỏi lò sưởi, ông già Noel lắng nghe xem có phải tất cả mọi người đều đang ngủ say không, rồi ông mới rón rén đến đặt quà vào gốc cây thông và cho vào bít tất treo bên cạnh lò sưởi...

Bé ơi, nếu nhà bé không có lò sưởi thì bé cũng đừng lo nhé! Ông già Noel rất tài tình, khéo léo, thế nào ông cũng tìm cách vào được nhà bé!

Thế nhưng tại sao ông già Noel lại để quà vào những chiếc bít tất nhỉ? Đó lại là một sự tích khác nữa đấy bắt nguồn từ một truyền thuyết nổi tiếng về thánh Nicholas. Bé lắng nghe nhé:

Vào thời của mình, thánh Nicholas nổi tiếng là người thích làm việc thiện. Ông đặc biệt thích giúp đỡ mọi người một cách bí mật. Có một lần thánh Nicholas nghe nói về hoàn cảnh của ba chị em gái xinh đẹp nhà kia. Nhà họ rất nghèo, mặc dù rất chăm chỉ làm lụng nhưng khó khăn lắm họ mới đủ trang trải cuộc sống của chính mình và nuôi mẹ già. Hoàn cảnh của ba cô gái nọ khiến thánh Nicholas mủi lòng và ông quyết định làm điều gì đó giúp họ.

Đêm nọ khi mọi người đã ngủ say, thánh Nicholas nhẹ nhàng lướt qua các con hẻm về phía cuối làng đến bên túp lều của ba chị em nhà nọ. Ông rón rén trèo lên mái và thả vào nhà họ ba túi tiền vàng qua ống khói lò sưởi.

Nói về ba chị em nhà kia thì mỗi người chỉ có một đôi bít tất nên mỗi ngày đi làm về, họ phải giặt ngay và treo bên cạnh lò sưởi cho khô. Thế nên khi thánh Nicholas thả túi tiền vàng qua ống khói nhà họ thì mỗi túi rơi vào trúng ngay từng chiếc tất treo bên lò sưởi.

Sáng hôm sau, ba chị em vui mừng khôn xiết khi thấy tiền vàng trong bít tất của mình. Họ kể lại cho mọi người nghe điều kỳ diệu đó. Từ đó, nhưng người dân trong làng cũng treo những chiếc tất của mình bên lò sưởi trước khi đi ngủ, với hi vọng một ngày nào đó sẽ nhận được những đồng tiền vàng vào sáng hôm sau như ba chị em nhà nọ Truyền thuyết về thánh Nicholas về sau được gắn với ông già Noel và tục lệ treo tất bên lò sưởi vào đêm Noel cũng bắt đầu từ đó. Cho đến tận bây giờ, mỗi khi Noel đến, trẻ em khắp nơi thường treo những chiếc tất của mình bên lò sưởi với hi vọng nhận được quà của ông già Noel.

Xe lu và xe ca (lớp mầm)

________________________________________

Có một chiếc xe lu và một chiếc xe ca cùng đi trên một con đường. Xe lu dáng vẻ thô kệch, lăn từng bước chậm chạp, còn xe ca có bề ngoài gọn gàng, phóng nhanh vun vút. Thấy vậy xe ca chế nhạo xe lu:

- Xe lu ơi! Cậu đi chậm như rùa ấy! Hãy xem tớ đây này!

Nói rồi, xe ca phóng vụt lên, bỏ xe lu ở lại đằng sau. Xe ca tưởng mình thế là giỏi lắm.

Nhưng tới một quãng đường bị hỏng và lầy lội, xe ca không thể đi qua được, đành phải đỗ lại. Người ta đổ đá cuội xuống chỗ lầy lội. Bấy giờ xe lu mới tiến lên, đi lên đống đá và lăn qua lăn lại nhiều lần. Chẳng mấy chốc, mặt đường trở nên bằng phẳng. Nhờ vậy mà xe ca mới có thể đi qua được.

Xe ca đã hiểu rằng tuy xe lu đi chậm chạp, dáng vẻ lù lù, thô kệch nhưng xe lu làm cho những con đường bằng phẳng để cho các xe khác đi lại dễ dàng. Từ đấy xe ca không bao giờ chế giễu xe lu nữa.

Vì sao thỏ cụt đuôi? (lớp lá)

________________________________________

Thỏ và Nhím là đôi bạn rất thân. Thỏ vốn thông minh nhưng nghịch ngợm hay leo trèo nhảy nhót khắp nơi. Nhím hiền lành, chịu khó, tính tình cẩn thận, chắc chắn.

Một hôm Thỏ rủ Nhím ra ven rừng chơi. Cạnh rừng có một con đường đất đỏ chạy qua, bên kia là bãi cỏ rộng nhiều hoa thơm, bướm lượn, trông thật thích mắt.

Thỏ nói với Nhím: "Chúng mình chạy nhanh qua đường, sang bên kia tha hồ mà hái hoa, bắt bướm."

Vốn tính cẩn thận Nhím nói: "Bên kia đường là bãi cỏ trống vắng, trên đường lại có ô tô chạy chúng mình đứng ngắm hoa cũng được."

Thỏ nghĩ: "Bãi cỏ rộng thế tha hồ mà chạy nhảy, nếu có gì nguy hiểm thì mình chạy nhanh là được.

Nghĩ rồi, Thỏ chạy băng qua đường. Vừa lúc ấy có một chiếc ô tô chạy đến. Thấy Thỏ, ôtô vội phanh thắng két một cái, chú Thỏ bé nhỏ chui tọt vào gầm xe, chiếc đuôi xinh đẹp của nó đã bị xe đè lên đứt rời ra.

Thấy Thỏ bị nạn, Nhím vội chạy ra đỡ Thỏ vào lề đường. Bị mất đuôi, Thỏ đau đớn, nó ân hận vì đã không nghe lời Nhím, chiếc đuôi của Thỏ còn lại một đọan ngắn ngủi trông thật xấu xí.

Nhím động viên Thỏ: "Từ nay chúng mình cùng phải cẩn thận hơn khi sang đường, phải nhìn sang trái, sang phải, không có xe đến gần mới được qua đường". Thỏ bẽn lẽn: "Tớ đồng ý".

Vì sao cây rụng lá (Lớp mầm)

________________________________________

Sau một mùa hè, những cây trong vườn dường như buồn thiu. Cây Táo than thở:

- Ôi, nóng thế này thì tôi xỉu mất!

Cây Ổi cũng thì thào:

- Khát nước quá đi thôi!

Một sáng nọ, bỗng nhiên khí trời dịu hằn. Nghe những tiếng xôn xao, xào xạc.

- Ôi mát quá!

- Ôi, các anh các chị ơi! Đã tới mùa thu rồi! - Cây Mít giọng khàn khàn nói.

- Bộ áo của chúng ta sẽ được thay vào những chiếc lá non mơn mởn vào mùa xuân.

Bỗng anh Cam hốt hoảng:

-Ối, bộ áo đẹp của tôi đang chuyển vàng.

- Ối, 1 ,2 ,3 ,.... lá của tôi đang rụng dần - Anh Táo bảo.

Từng lá, từng lá đua nhau rơi rụng trong suốt mùa thu. Một vườn mùa thu đầy lá, ôi đẹp làm sao!

Thỏ con không vâng lời (lớp mầm)

________________________________________

Một hôm Thỏ mẹ dặn Thỏ con:

- Thỏ con của mẹ! Con ở nhà, chớ đi chơi xa, con nhé.

- Vâng ạ! Con ở nhà, con không đi chơi xa.

Nhưng bươm bướm bay đến. Bươm bướm gọi:

- Thỏ con ơi, ra vườn kia chơi đi! Ở đấy có cỏ này, có hoa này, thích lắm.

Thỏ con liền chạy theo bươm bướm. Thỏ con đi chơi mãi... chơi mãi... xa... thật xa...

Thế rồi Thỏ con quên cả lối về nhà. Thỏ con khóc hu hu và gọi:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi!

Bác Gấu đi qua, thấy Thỏ con khóc. Bác dắt Thỏ về nhà. Thỏ mẹ chạy ra ôm Thỏ con. Thỏ con nói với mẹ:

- Mẹ! Mẹ dặn con ở nhà, con lại đi chơi xa, con xin lỗi mẹ.

Thỏ trắng biết lỗi

________________________________________

Hôm nay là sinh nhật Thỏ Trắng. Cô bé vui lắm. Bé dậy thật sớm dọn nhà cửa để lát nữa còn đón các bạn đến chúc mừng. Mẹ Thỏ làm cho Thỏ Trắng một cái bánh ga tô có những bông hoa hồng bằng kem thơm phức.Trên bánh cắm bốn cây nến hồng. Vì Thỏ Trắng năm nay đã bước sang tuổi thứ tư rồi mà. Mẹ còn tặng Thỏ một gói quà nữa:

- Mẹ chúc mừng con nhân ngày sinh nhật!

Thỏ Trắng vội giằng lấy gói quà, hấp tấp mở ra. A, một cái áo trắng tinh. Thỏ Trắng ướm thử, soi đi soi lại trước gương tỏ vẻ rất thích thú.

Có tiếng các bạn gọi xôn xao ngoài cửa. Thỏ vội chạy ra đón các bạn. Vì vội quá, Thỏ đã vấp phải chân ghế và ngã sõng soài làm quần áo lấm lem. Thỏ Trắng nhăn nhó, các bạn xúm lại phủi quần áo cho Thỏ và hỏi:

- Thỏ Trắng có đau lắm không?

- Bị ngã thì phải đau chứ! Thế mà cũng hỏi.

Các bạn nhìn nhau ngạc nhiên nhưng không ai nói gì. Thỏ Trắng mời các bạn lại bàn.

Gấu Nâu đỡ hộp quà bằng hai tay đưa cho Thỏ Trắng:

- Đây là chiếc bánh mật ong tớ tự làm đấy, xin tặng cậu.

- Ồi bánh à! Mẹ tớ cũng làm cho tớ một cái bánh kem rồi, tớ chẳng thích bánh mật ong đâu.

Thỏ Khoang lên tiếng:

- Còn đây là củ cà rốt to nhất vườn, do tay mình tự vun xới đấy, tặng cậu !

- Giời ơi, cà rốt thì lúc nào tớ cũng có.

Nghe Thỏ Trắng nói, Thỏ Khoang buồn lắm.

- Còn đây là quà của mình! Sóc Vàng đưa cho Thỏ Trắng lẵng hoa rực rỡ sắc màu.

- Cậu để hoa lên bàn đi kẻo nhựa hoa chảy ra làm bẩn áo tớ mất. Thỏ Trắng không chú ý tới vẻ mặt không vui của các bạn, nó lấy dao cắt bánh.

- Ôi, sao mẹ l àm cái bánh cứng thế? Thỏ Trắng vừa nói vừa nhăn nhó.

Đến lúc này các bạn mới lên tiếng:

- Thôi , chúng tớ chào Thỏ Trắng, muộn rồi, chúng tớ về đây. Chúng cháu chào bác ạ.

Các bạn đi hết rồi, còn lại một mình, Thỏ Trắng thấy buồn quá. Thỏ mẹ thấy vậy nói:

- Con có biết vì sao các bạn đi hết không? Con đã không biết cách cư xử với bạn bè.

Các bạn đến chúc mừng, con phải vui vẻ đón tiếp các bạn chứ! Mẹ và các bạn rất quan tâm đến con, tự tay làm những món quà sinh nhật cho con, vậy mà con không biết cảm ơn các bạn còn chê bai những món quà đó. Mẹ rất buồn.

Thỏ Trắng cuối gằm, lúng túng:

- Con xin lỗi mẹ, con nhận ra lỗi của mình rồi.

Thỏ Trắng vội chạy đi tìm các bạn:

- Các bạn ơi, tớ xin lỗi các bạn, các bạn hãy quay trở lại đi, đừng giận tớ nữa nhé!

Các bạn cùng cười. Thế là bên ánh nến bập bùng ấm cúng, những tiếng chúc mừng, tiếng cười, tiếng hát vui vẻ quyện vào nhau vang xa vang xa...

Thỏ con và mùa xuân (Lớp chồi)

________________________________________

Trong khu rừng nọ có một chú Thỏ con rất dễ thương. Thỏ con yêu mùa xuân lắm bởi mùa xuân luôn làm cho vườn hoa của chú rực rỡ sắc màu. Nhưng mùa xuân thường không ở lại được lâu. Vì thế Thỏ con rất buồn mỗi khi thấy mùa xuân đi qua. Ngay sau màu xuân là mùa hè với cái nắng gay gắt khiến các bông hoa trong vườn của Thỏ con không thể nở được. Khi đi dạo trong vườn, Thỏ con thường nghe các loài hoa than thở:

- Nóng quá bạn Thỏ ơi! Có cách nào giúp chúng tôi không?

Nhìn các loài hoa khổ sở mệt nhoài vì nắng, Thỏ con thương lắm. Nhưng biết làm sao bây giờ?

Một hôm, Thỏ con quyết định đi tìm Thần Mưa để cầu cứu. Nghe nói, Thần Mưa thường núp sau các đám mây đen trên đỉnh núi cao. Đường đi thật gian nan nhưng Thỏ con không nản chí. Thế rồi Thỏ con leo lên được đỉnh núi cao rồi đấy! Ngước nhìn những đám mây đen, lúc đầu Thỏ con cũng thấy sờ sợ vì chúng có vẻ hung dữ quá. Nhưng hình ảnh về những nụ hoa đang cố nhú ra mà không được vì nắng đã khiến Thỏ con can đảm hẳn lên.

- Xin Thần Mưa hãy tưới mát cho các loài hoa trong vườn được khoe sắc! - Thỏ con hít một hơi dài rồi nói thật lớn.

- Chào Thỏ con! Cháu thật can đảm và đáng yêu. Hãy về các loài hoa trong vườn của cháu đi! Ta sẽ làm mưa ngay thôi! - Thần Mưa ôn tồn nhận lời.

- Xin cảm ơn Thần Mưa!

Nói rồi, Thỏ con phóng một mạch về nhà. Vừa tới cổng khu vườn, thì trời đã đổ mưa. Những giọt nước mưa mùa hè đang tắm mát cho những nụ hoa. Và rồi một điều kỳ diệu đang dần hiện ra trước mắt Thỏ con: những cánh hoa mỏng manh, rực rỡ đang xòe ra, rung rinh vẫy chào chú.

Thỏ con vô cùng sung sướng reo lên: "Ôi, mùa xuân, mùa xuân đã lại về rồi!".

Thỏ con đi học (lớp lá)

________________________________________

Mấy hôm nay, cả nhà Thỏ bận rộn đào xới khu vườn xung quanh nhà để trồng lại cà rốt dự trữ cho mùa đông sắp tới. thấy bố mẹ bận rộn, Thỏ con xin phép mẹ được đi học một mình để bố mẹ không phải đưa đón. Bố mẹ Thỏ đồng ý. Thỏ mẹ dặn: "Khi đi học con đi cẩn thận, đi bên lề đường bên phải, đến ngã tư con rẽ phải đến nơi có vạch cơn trắng trước cổng trường con mới sang đường, vì đó là nơi dành cho người đi bộ".

Thỏ con vâng lời mẹ và ra đi. Nó phấn khởi vì đây là lần đầu tiên trong đời Thỏ con được đi học một mình.

Đi được một đoạn, Thỏ con gặp Chó con cũng đi học, trên tay Chó con ôm một quả bóng to. Chó con rủ: "Chúng mình cùng lăn bóng đến trường". Thỏ con lắc đầu: "Tờ không chơi bóng trên đường, rất nguy hiểm.

Chó con bĩu môi: "Sợ gì! Cậu không chơi tì tớ chơi một mình vậy. nói xong, Chó con thả bóng xuống và lấy chân đá bóng đi trên lề đường. Chó con vừa chạy theo bóng vừa cười thích thú, được một đọan bóng đi chệch hướng lăn xuống lòng đường, chó con thấy vậy lao ngay xuống lòng đường để bắt bóng, Chó con chạy nhanh quá không để ý gì đến người đi xe đạp, nó bị va phải người đi xe, may mà bác lái xe phanh lại kịp, Chó con chỉ bị té xuống và trầy đầu gối. Mọi người xúm lại, một người kêu lên: "Tại sao lại dại dột chơi bóng ở ngoài đường chứ, may mà va phải xe đạp chứ va phải xe to thì mất mạng rồi!".

Bác đi xe đạp lau chỗ xước và đầu gối cho Chó con. Thỏ con đến bên bác đi xe cảm ơn bác. Bác dặn cả hai đi trên lề đường và không chơi nữa.

Thỏ con và Chó con cùng đến trường, cả hai đi bên lề đường và im lặng nghĩ đến lời mẹ dặn trước khi đi.

Hai bạn đến trường cũng vừa kịp lúc trống trường điểm vào học. Thỏ con, Chó con cùng xếp hàng vào lớp. Hôm nay, cô dạy an toàn giao thông - Bài: "Không đùa giỡn, thả diều, chơi bóng ở lòng, lề đường". Thỏ con trả lời: "Thưa cô vì như vậy rất nguy hiểm, gây tai nạn cho mình và cho người khác". Cô giáo khen Thỏ con giỏi.

Giờ ra chơi, Chó con đến gần Thỏ con và nói: "Tớ xin học ở cậu. Từ nay tớ sẽ không bao giờ đùa giỡn, chơi bóng ở lòng, lề đường nữa mà chỉ chơi ở sân trường thôi. Bây giờ chúng ta cùng chơi bóng đi". Thỏ con cùng chơi bóng trong sân rất vui vẻ.

Thi hát (Lớp lá)

________________________________________

Mỗi buổi sáng cả khu rừng xôn xao trước bảng thông báo.

- Thi hát hả? Tuyệt lắm! Nhưng giải nhất lại về tay Họa Mi thôi.

- Không, giải năm nay chỉ dành cho loài thú, chim không được thi đâu.

Lũ thú phấn khởi bàn tán râm ran.

Cáo lớn tiếng cười:

- A ha, ha! Nếu vậy tớ sẽ tham gia và thế nào chẳng đoạt giải, giọng hát của tớ hay ra phết.

- Đừng có mơ vội nhé, còn có cả Sói này tham dự nữa đấy - Sói Xám cất lời.

Từ hôm đó, cả khu rừng vang lên tiếng tập hát của cácloài thú.

Cọp thì gầm gà, gầm gừ nghe sợ phát khiếp. Sói thì hú vang cả khu rừng "ú, ú, ú...". Còn Cáo ta cứ "ư, ư, ư..." trong cổ họng. LÀm cho những người hàng xóm đến phát sốt. Điếc tai nhất là tiếng "eng éc..." của lũ Heo. Còn tiếng "Ngao, ngao" của lũ Mèo nghe thật thảm thiết. Tội nhất là lũ Bò, cái giọng ồm ồm "ùm bò, ùm bò..." làm cả khu như tối đen cả lại.

Tất cả chăm chỉ luyện giọng chờ ngày thi đến.

Thế rồi ngày thi cũng đến gần.

Nhưng, trước ngày thi một hôm, chị Họa Mi hốt hoảng thông báo:

- Bác cảnh sát Gấu ơi, phần thưởng bị mất rồi.

BÁc cảnh sát Gấu vội vã đi tìm thủ phạm, nhưng tìm mãi mà khôn gthấy. Ban giám khảo rất lo lắng, nhưng cuối cùng các vị giám khảo Họa Mi, Sơn Ca, Vàng Anh đều nhất trí vẫn cho cuộc thi bắt đầu vì mọi người đợi ngày này đã lâu lắm rồi. trong thời gian đó vẫn tiếp tục tìm phần thưởng.

Buổi sáng hôm ấy, một góc khu rừng được trang hoàng lộng lẫy. Các chú Voi đã dựng lên một chiếc sân khấu vững chãi. Các chú Khỉ khéo tay thì chịu trách nhiệm đi hái hoa rừng về trang trí. Không khí vô cùng náo nhiệt.

Cuộc thi bắt đầu.

THí sinh thứ nhất có khuôn mặt nhọn hoắt, thân hình nở nang, cái đuôi như cái chổi lớn cứ ngaóy đi ngaóy lại đầy vẻ tự tin. HẮn tự xưng là Sói Xám. Sói ta hát vang bài hát của họ nhà Sói: ú, ú, ú...

Sợ mất giải, ả Cáo cũng tất tả bước lên sân khấu. Với chiếc mõm dài, bộ lông vàng óng, chiếc đuôi dài và thân hình nhỏ nhắn,mềm mại, trông Cáo ta thật là lộng lẫy. Cáo hát bài: ư, ư, ư...

Thí sinh thứ ba có nước da trắng hồng, thân hình tròn xoe, hai má phúng phính và cái mũi tròn ươn ướt rất gây ấn tượng cho Ban giám khảo, đó là anh Heo Mập. Anh hát một bài ca trầm bổng: ịt, éc...,ịt,éc... hai cái tai của anh đong đưa, vẫy vẫy liên hồi theo nhịp của bài hát làm cho nét mặt anh trong bớt nặng nề hơn. Ban giám khảo gật gù thưởng thức, dường như giải nhất sẽ thuộc về anh Heo Mập.

Anh Bò Mộng cũng quyết thắng. Dáng vẻ chậm rãi, bộ lông mượt màu nâu, bóng như nhung, thân hình vạm vỡ tựa như tảng núi và hai chiếc sừng nhỏ trên đầu làm anh trông thật nghiêm. Bài ca của anh trầm lắng như chính anh vậy: ùm bò, ùm bò... Ban giám khảo xúc động tưởng như phát khóc lên được.

Với bộ lông vàng óng, mượt mà, điểm những vằn cam tươi, khuôn mặt tròn xinh xắn và đôi tai tam giác nhỏ nhắn, trên đó có đeo chiếc nơ màu hồng nhạt. Có lẽ chị Mèo là thí sinh khả ái nhất của cuộc thi hôm nay. Giọng ca của chị cất lên nghe thánh thót như tiếng chuông buổi sớm: Ngao, ngao, ngao, meo, meo, meo...

Mọi người dđang say sưa thưởng thức giọng ca ngọt lịm của chị Mèo thì bỗng bịch một cái, một món quà từ trên cây rớt xuống. Ồ! Thì ra đó là gói quà phần thưởng dành cho người đạt giải nhất. Mọi người trong cuộc thi hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao vì gói quà đã bị mất từ hôm qua rồi. Ai là người đã tìm ra gói của vậy nhỉ? Thì ra không phải vậy. Thủ phạm lấy cắp món quà đang bị đè ở dưới. Ai thế nhỉ? Mỏ nhọt hoắt, mặt bé tí, hai cái tai tí tẹo, cái đuôi đen đủi, miện kêu chít, chít, chít..., hai mắt láo liên... Hóa ra kể trộm là tên Chuột nhắt. Tưởng đã đánh cắp phần quà của Ban giám khảo, không ngờ, vừa nghe tiếng chị Mèo, Chuột nhắt sợ quá ngã ngất đi.

Thế là, Ban giám khảo trao giải nhất cho chị Mèo vì tiếng hát của chị không chỉ làm say lòng người mà còn làm kẻ xấu phải run sợ. Cả hội thi ai cũng đồng ý như vậy.

Tối hôm ấy, cả khu rừng tổ chức liên hoan thật là vui và có lẽ vui nhất chính là chị Mèo Vàng - người vừa đoạt giải nhất trong cuộc thi hát năm nay.

Thần Gió và Mặt Trời

________________________________________

Sau khi gây ra thiên tai, bão táp làm đổ sập nhà cửa, cây cối, Thần Gió càng lúc càng tỏ ra ngạo mạn. Một hôm Thần Gió tranh cãi với Mặt Trời xem ai là kẻ mạnh nhất. Nhìn xuống mặt đất, thấy một khách bộ hành khoác chiếc áo tơi đang đi, Mặt Trời bảo: "Chẳng cần cãi nhau làm gì, hễ ai làm cho người khách bộ hành kia phải cởi chiếc áo ra sẽ thắng cuộc và là kẻ mạnh nhất!"

Thần Gió bắt đầu dương oai, thổi làm cát bụi bốc lên mù mịt, cây cối đổ rạp. Những cơn cuồng phong liên tiếp nổi lên, kèm với cái lạnh buốt da, buốt thịt. Tuy nhiên, gió càng lớn chừng nào thì người bộ hành càng cố giữ chặt chiếc áo tơi của mình, làm cho Thần Gió không cách nào lột được chiếc áo kia ra.

Đến phiên Mặt Trời, từ trong đám mây đen, Mặt Trời từ từ ló dạng. Những tia nắng vàng tỏa ra khắp nơi, làm người bộ hành cảm thấy ấm áp, thoải mái. Mặt Trời càng lúc càng nóng ấm. Thế rồi người bộ hành tự động cởi bỏ chiếc áo tơi vô dụng kia ra.

Rùa con tìm nhà

________________________________________

Có một chú rùa con, vừa mới nở được mấy ngày đã vội vàng đi tìm nhà của mình. Thấy tổ ong trên cây, tưởng đó là nhà của mình, Rùa Con vươn cổ lên hỏi: "Có phải nhà của tôi đây không?". Nhưng đàn ong bay túa ra làm Rùa Con sợ quá, thụt cổ vào nằm im như chết. Sau đó Rùa bò tới chân một bức tường. Thấy hang chuột, Rùa Con định chui vào thì một chú chuột ngăn lại: "Đây là nhà của chúng tôi. Không phải nhà của bạn đâu, Rùa ạ". Trông thấy dòng sông nhỏ, Rùa nghĩ: "Có lẽ nhà mình ở dưới nước". Thế là Rùa nhảy xuống sông. Bơi được một quãng ngắn, Rùa con đã mệt đứt cả hơi, đành bò lên bờ. Gặp ốc sên, Rùa lại hỏi: "Bạn có biết nhà tớ ở đâu không?" Ốc sên trả lời: "Ôi! Bạn hãy nhìn tớ đây rồi hãy nhìn lại lưng mình mà xem". Bấy giờ Rùa con mới quay đầu nhìn lại cái mai của mình. Rồi vừa tủm tỉm cười vừa nói với ốc sên: "Cảm ơn bạn nhé! Nhờ có bạn mà tớ đã tìm được nhà của mình rồi".

Quạ đen và gà mẹ

________________________________________

Quạ đen bay qua sân nhà nọ nhìn thấy mẹ con đàn gà, quạ lượn vòng lại ngó nghiêng thèm lũ gà con lắm. Gà mẹ thấy quạ liền "cúc cúc" báo cho đàn con ẩn nấp vào bụng và hai cánh của mình. Quạ bay lảng vảng trên đầu gà nói:

- Chị gà ơi, chị thả đàn con chị ra cho em xem tí. Em thích nhìn đàn con bé bỏng xinh xắn của chị.

Gà mẹ ngẩng mỏ lên nói:

- Mi nói ngon ngọt nhỉ? Nhưng mi không lừa được ta đâu. Các con ta cũng đã biết nghe lời ta rồi, không đứa nào ra khỏi cánh ta đâu. Mi đi đi, đừng lải nhải phí công.

Quạ bay đi rồi. Gà mẹ nói với đàn con:

- Lớp anh chị các con, trước có một chị không nghe lời mẹ hay tách đàn đi chơi xa. Một hôm thấy quạ, chị ấy không kịp chạy về với mẹ đã bị quà sà xuống quắp đi mất. Nay các con đều biết nghe lời mẹ, quạ sẽ chẳng làm gì được các con đâu.

Qua đường (lớp chồi)

________________________________________

Vào một buổi sáng mùa xuân ấm áp, hai chị em Thỏ Nâu và Thỏ Trắng xin phép mẹ ra phố chơi. Mẹ đồng ý và dặn: "Các con đi đường cẩn thận nhé!". Hai chị em vâng dạ rồi nhảy chân sáo ra khỏi nhà.

Ra đường, được ngắm trời ngắm đất và hít thở không khí trong lành, hai chị em Thỏ nói cười ríu rít. Thỏ Nâu bảo em:

- Em xem kìa, trên cành cây có một con chim xinh đang nhảy nhót bắt sâu đấy!

Thỏ Trắng nói:

- Chị ơi, bên kia đường có vườn hoa đẹp quá, chị em mình sang xem đi!

Thỏ Trắng kéo chị Thỏ Nâu chạy ào sang đường, chẳng chú ý gì cả.

Bỗng, kít, kít... tiếng một loại xe phanh gấp nghe rợn cả người. Hai chị em nhìn lên, một đoàn xe dừng hết cả lại.

Bác Gấu lái xe tải thò đầu ra khỏi xe nói to:

- Hai cháu kia, tín hiệu đèn đỏ đang bật mà lại dám chạy sang đường à?

Đúng lúc ấy, chú Thỏ Xám là cảnh sát giao thông đi tới, dắt cả hai chị em quay lại vỉa hè. Chú ôn tồn giải thích:

- Các cháu có nhìn thấy tín hiệu đèn đỏ kia không? Khi nào đèn đỏ tắt, đèn xanh bật lên các cháu mới được qua đường. Lần sau, hai cháu phải chú ý nhé!

Hai chị em Thỏ Nâu và Thỏ Trắng nhìn nhau. Thỏ Nâu nói:

- Chúng cháu xin lỗi chú, lần sau sang đường, chúng cháu nhớ nhìn tín hiệu đèn màu ạ!

Chú cảnh sát giao thông Thỏ Xám còn dặn tiếp:

- Các cháu còn bé nên khi qua đường phải có người lớn dắt, nếu không rất dễ xảy ra tai nạn đấy!

Từ hôm đó, hai chị em Thỏ luôn nhớ những lời dặn của chú Thỏ Xám: "Đèn đỏ phải dừng lại, đèn xanh mới được đi, khi qua đường phải có người lớn dắt".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro