Chuyện lính xưa-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHUYỆN VUI ĐỜI THƯỜNG CỦA LÍNH

1- Tôi bị lừa. 

            Hồi đó chúng tôi đóng quân ở Tân Châu , An Giang, nơi biên giới  giáp  Campuchia. Trong điều kiện thời chiến nên chúng tôi nấu ăn theo tiểu đội và ở nhờ nhà dân. Nhà chúng tôi ở nhờ là gia đình một bà má có 9 con, con má lớn đã lập gia đình và ở riêng cả , nhà còn má và em chín Lý 17 tuổi, em trai út 15 tuổi. Tiểu đội tôi có 5 người , ở cùng có anh tư Lâm người Miền Nam là trung đội phó. Tôi là tiểu đội trưởng nên phải quản lý tiền ăn, hàng ngày đi chợ mua đồ ăn đảm bảo đời sống cho anh em. Hồi đầu chín Lý thường rủ tôi hai anh em đi chợ nhưng được ít bữa tôi ngại đi vì các má, các chi  cứ ghép tôi với chín Lý. Lý thì cứ cười còn tôi thì mắc cỡ quá trời( Vì tôi nhát gái lắm ). Một hôm anh tư nói với tôi :

            - Hai à. hồi này ăn thịt, cá mãi rồi ngán thấy mồ. Mai em đi chợ phải đổi món đi, ở đây anh thấy có  đồ ăn vừa ngon vừa rẻ.

Nghe anh tư nói vậy tôi hỏi :

            - Đồ ăn gì mà vừa ngon vừa rẻ anh tư ?

Anh tư:

            - Mai ra chợ em cứ hỏi mua dấm xủ ăn ngon lắm

Tôi nghĩ dấm chắc chua  hay là đu đủ muối dưa liền hỏi

            - Có phải đu đủ thái lat to đem muối dưa vẫn bán ở chợ ?

Anh tư:

            -Không. mà mai ra chợ hỏi  biết liền hà.  nếu không  cứ nhờ chín Lý mua cho cũng được.

Tôi nói :

            - Dạ để mai em nhờ chín Lý mua dùm.

Sáng  hôm sau  ăn sáng xong chín  Lý  hỏi tôi.

            - Đi chợ không anh hai ?

Tôi nói 

            - Chờ anh chút anh xuống liền.

Lý đứng ngoài cổng ngay chân cột nhà sàn đợi tôi. Tôi xuống đưa tiền và nói;

            - Chín à , em chịu khó đi một mình nha, tiền đây em mua dùm anh nửa kí thịt còn nhiêu em mua hết dấm xủ cho anh.

Nói chưa dứt lời thì anh tư cùng cả tiểu đội và bà má ồ lên cười, còn chín Lý mặt đỏ tía lên ,đấm tôi một cái rồi giật tiền chay ra cổng, vừa chạy vừa ngoái đầu lại nói 

            - Anh hai ngốc , ghét

Tôi quay lại hỏi mọi người sao cười nhưng không ai nói . Chỉ có má cười và nói

            - Tao nghe bay dặn con chín đi chợ coi ngộ và dễ thương quá đi.

            Định bụng dần dà mấy bữa sau  hỏi xem dấm xủ là gì mà mọi người cười. Nhưng ngay chiều hôm đó tôi được lệnh về trung đoàn làm thủ tục đi học sỹ quan. Vậy là mọi người quay sang lo bữa nhậu chia tay tôi. cái ý định hỏi cũng quên luôn. Cho đến bây giờ nhớ lại tôi cũng chưa biết dấm xủ là cái gì, chỉ biết chắc là tôi bị anh tư lừa chọc quê  tôi. 

            - Các bạn. các em, các cháu trong Miền nam ơi mét anh bộ đôi  nhé

             2- Thượng tướng:

            Đây là chuyện kể về đôi vợ chồng nhà  lính. Chồng là sỹ quan trẻ  ra trường được vài năm, vợ là cô giáo dạy học tại quê.. Chồng công tác tai tỉnh biên giới phía Bắc  nên rất ít khi được về. Cưới  đã hai năm rồi mà vẫn chưa có em bé nên vợ chồng và cả hai gia đình đều mong mỏi. Bữa đó chàng sỹ quan  được đi công tác  tranh thủ về qua nhà được mấy ngày, cô giáo và gia đình vui lắm. Cơm  tối xong một lúc vẫn còn sớm thì ông bố nói.

            - Thôi ra đóng cổng  đi ngủ. hôm nay bố đau lưng và buồn ngủ quá. bố muốn ngủ sớm.

Nghe nói vậy cô giáo kẽo chồng vào buồng. nói với chồng nhưng vô ý nói hơi to

            - Hiiii Chưa gì đã thượng tướng rồi

Sáng hôm sao cô giáo dậy sớm đun nước để pha trà vì cô biết lát nữ hàng xóm sẽ qua thăm. Quả không sau nước vừa sôi có mấy bác hàng xóm  đã sang. Cô rót nước pha trà  nghe bố chồng và mấy bác nói chuyện

            - Cháu nó về bao giờ hả bác ? có khỏe không?

Ông bố :

            - Cháu về tối qua, khỏe, hơi đan nhưng rắn giỏi.

Bca hàng xóm:

            - Thế giờ cháu nó cấp gì rồi bác ?

Ông bố ;

            - Cháu nó thượng tướng rồi bác ạ.

Nghe chuyên cô giáo mặt đỏ lên vội chạy xuống bếp. Còn ông bố và mấy bác hàng xóm thì không biết  về cấp bậc chức vụ trong bộ đội liền tán thưởng

            - Ôi cháu tiến bộ bác nhỉ ? Lớp trẻ bây giờ có học có khác. Anh nào cũng tiến bộ nhanh. Cứ xem bác Lập làng mình đi  hơn 30 năm lúc về mới thiếu tá. Còn cháu con nhà bà Lan mới đi hơn năm giờ nó đã là y tá rồi. Còn cháu nhà bác thượng tướng là nhanh thật. Bac hạnh phúc quá.

            Ôi thật thương cho bố và mấy bác vcác cụ mừng quá sớm. Ho đâu biết rằng con trai yêu của bô chỉ " Thượng tướng " được một lúc thôi chứ một lúc sau lại " Hạ tướng " ngay ý mà.

            3- Cái quan tài:

             Câu chuyện này xảy ra ngày tôi còn trẻ. 25 tuổi dời là chính trị viên đai đội thông tin.Đơn vị có hơn trăm chiến sỹ thì có  hơn hai chúc chiến sỹ nữ làm nhiệm vụ trực tổng đài, y tá, nuôi quân. Quả là " Có nam có nữ mới nên xuân ". Có các em về bọn con trai ngoan hẳn lên chứ không nghịch ngợm như trước, nói năng cũng lịch sự hơn , Tuy vậy cũng thật nhiều cái khổ, nào là nơi tắm giặt, nơi sinh hoạt cho các em.. Nhà vệ sinh cả đơn vị có một nhà chia ra mấy ngăn chẳng có cửa che. Đi vệ sinh cũng phải lựa lúc các em ngủ trưa, ấy vậy mà có tránh được đâu có hôm đang thỏa mái giải quyết nỗi buôn thì giật mình bởi giọng con gái:

            - Em chào thủ trưởng, thủ trưởng cũng đi i.... đấy ạ ?

            Trời đât ơi, sao lại ra nông nỗi này cơ chứ ?  Giật mình " Máy bay thì  vội cắt bom " , ' Nhà máy nước ngừng hoạt động ". Nhưng cũng không trách các em được vì các em được dạy là gặp nhau phải chào, cấp dưới chào cấp trên trước...

Quay lại với câu chuyện kẻo lạc đề. Số chiến sỹ nữ  đủ thành phần, người Kinh có, người Tày có, người Nùng có, thành phố có, vùng sâu vùng xa có... Nhìn chung các em ngoan nhưng sau quen dần nhiều em cũng tếu táo nghịch ngơm chẳng kém con trai,

             Chuyện là một nữ chiến sỹ được về qua nhà mấy hôm. Lúc lên đơn vị có đem theo quà quê  , em  lên nhà ban chỉ huy mời chúng tôi xuống chỗ các em uống nươc và ăn quà. Xuống đến nơi thấy mấy em cứ lăn ra cười , tôi hỏi sao cười nhiều thế thì mấy em chỉ em vừa về quê rồi nói: 

            - Anh hỏi cái Hậu ý

Hậu là cô gái nghich ngợm  nhất trong số các nữ chiến sỹ thấy vậy nói luôn.

            - Thôi đằng nào cũng phải kể em kể luôn cho các anh khỏi phaỉ hỏi:

Sáng nay ra bến xe để lên đơn vị , thấy một nhà tu hành còn trẻ  em nảy ra ý định trêu và em hỏi :

            - Bạch thày thày cho em biết giữa hai đùi của thày là cái gì ?

Nhà tu hành chắc nghĩ mình xuất gia nên cái khoản tình cảm trai gái không chẳng bao giờ bận tâm và " cái kia " coi như đã chết nên nói

            - Thưa cô giữa hai đùi của tôi chỉ là cái xác chết

Em lại hỏi luôn:

            - Bạch thày thế thày có biết giữa hai đùi em là cái gì không ?

Nhà tu hành không biết nói thế nào đành hỏi 

            - Là cái gì hả cô ?

Em trả lời

            - Giữa hai đùi của em  là cái  quan tài

            Hiii đó các bạn thấy nữ chiến sỹ thông minh không ? Đúng quá đi chứ . "Quan tài "để chôn "xác chết" thì còn ai bắt bẻ được nhỉ.. Chúc các bạn tuần mới làm việc hiệu quả, nhiều niềm vui.

Thôi chuyện còn nhiều nhưng anhbodoi tạm dừng tại đây. Chúc các bạn tuần mới công tác hiệu quả nhiều niềm vui, 

            Rất tiếc anhbodoi không tìm được hình minh họa, Còn những câu chuyện trên các bạn có tin không là tùy nhưng đừng nói anhbodoi bịa chuyện đấy nhé

1- Niêu cá kho.

( Niêu cá khi mèo chưa ăn )

            Ngày trước ở vùng đồng bằng sông Hồng thường đun nấu bằng rạ rơm  chứ không sẵn ga như bây giờ. Ngày ấy có anh  sỹ quan trẻ về tranh thủ. Tối đến thấy Mẹ sắp niêu cá ra kho. Hai vợ chồng lính không nỡ để Mẹ làm và nói:

            - Mẹ đi nghỉ trước đi, để bọn con kho xong chúng con nghỉ sau. 

            Nghe nói vậy mẹ cảm động vì sự quan tâm của hai con và bà đi ngủ sớm. Hai vợ chồng nhà lính  đun bếp kho cá. Chẳng biết làm cái quái gì mà hai vợ chồng ngủ ngay đống rạ dưới bếp. Đến sáng bà mẹ dậy sớm xuống bếp nhìn thấy hai vợ chồng nhà lính vẫn ngủ ngon lành dưới bếp, Tay thằng chồng cứ ôm khư khư cái " Hoa hậu " của vợ nó. Nhưng khi nhìn sang niêu cá thì ôi thôi mèo đã ăn hết sạch,

Thương con, tiếc niêu cá bà mẹ chửi yêu

Tiên sư chúng mày. Giá như chúng mày giữ cái niêu cá như thế kia... thì làm sao mèo ăn được chứ 

lính dạy thú biết nói.

( Con mèo này biết nói )

            Hồi đó mấy học viên trường sỹ quan đi thực tế địa hình chuẩn bị cho bài thi. Trong số ấy có một học viên rất cà chớn. Lúc vào quán nước nghỉ ngơi thấy cô chủ bán hàng nước xinh xắn vui bẻ. Lại nhìn thấy con mèo hiền lim dim măt ngủ bên cạnh. Vừa uống nước vừa tán chuyện anh học viên cà chớn ba hoa. 

            - Em tin không ? anh dạy con mèo biết nói tiếng người . 

Cô chủ quán 

            - Anh nói điêu, anh day được thích  gì em chiều. 

Anh học viên

            - Anh chẳng cần gì chỉ để em biết tài của lính là đủ

Nói xong anh ta ra xách tai con mèo và hỏi+

            - Cái "ấy " của cô chủ mày tròn hay méo ?

hỏi xong anh đập mạnh vào  lưng con mèo, con mèo giật mình  kêu

            - Méooooooooooooooo

Anh học viên cà chớn:

            - Đấy nhé , đúng chưa ? con mèo bảo của em méo chứ không tròn

Cô bán hàng : 

            - Mấy anh khỉ gió em bị các anh lừa chứ em đếch thua đâu.

           

            3- Ông không ịả được chúng mày cũng chết.

            Các cụ xưa nói " Nhất quận công, nhì ỉa đồng ". Đời lính chúng tôi trong chiến tranh được kiểm nghiệm rất đúng. Thật mát mẻ, thoáng đãng và sảng khoái. Những năm trong chiến tranh chỉ cần một cái xẻng  đào một phát lật đất lên rồi " Tương  vào đó " , xong hất đất trở lại vừa vệ sinh vừa không bị địch phát hiện bộ đội đã ở đây.

Sau này về đơn vị trong đợt diễn tập dã ngoại, Đại đội thông tin cử 2 tổ đài vô tuyến điện, 1 tiểu đội hữu tuến  và mấy em nuôi quân , y tá đi phục vụ. Tổ đi diễn tập của đại đội căng nhà bạt nằn trên quả đồi nhỏ đầy sim  hao tím thật đẹp.

            Buổi tối hôm đó trăng sáng mờ. Tay chính trị viên xách xẻng xuống đưới chân đồi để làm " Quận công ". Lấy xẻng đào hất đất lên ngồi xuốn đinh "Xả nỗi bức sũc " thì nghe ngay  bên kia bui sim có đôi nam  nữ đang tâm sự

Cô gái

            - Anh ơi mình đã yêu nhau hơn một năm rồi. Hay là báo cáo anh Tuấn chính trị viên rồi xin phép đăng ký anh nhé.

Chàng trai

            -  Nhưng anh chưa báo cáo gia đình. Để từ từ em à. 

Cô gái 

            - Em chỉ sợ bố mẹ anh không đồng ý. Em yêu anh lắm anh biết không? em không lấy được anh chắc em chết mất.

Chàng trai

            - Anh cũng yêu em lắm. anh thề nếu không lấy được em anh cũng chết.

            Bên kia tay chính trị viên mấy hôm trước ăn nhiều sim nên táo bón. " Rặn " mãi không được lại phải nghe lính mình thề sống chết như thế tức mình quát to

            - Ông mà không ỉa được chúng mày cũng chết

            Hai đứa nghe chính trị viên quát vậy chạy mất dép và chẳng thấy " Chúng nó " báo cáo chuyện cưới xin nữa hiii.

ĐẾCH PHẢI THẾ...

Đăng ngày: 14:25 11-09-2011

Thư mục: Tổng hợp

            Bữa trước sang nhà  anh Bàn tay sạch và đọc mẩu chuyện " Đếch phải thế " thật vui. Ngẫm ra sự đời khối cái tưởng như kết quả đẹp đến nơi rồi vậy mà đùng một cái hóa ra " Đếch phải thế "  . Dzưng mà anh BTS ơi sao nỡ vạch áo cho cánh các bà xem " Cái yếu " của mình thế ? Các bà, các chị thấy cánh mày râu " Yếu " là khoái  lắm đó Hôm nay bodoi kể câu chuyện na ná như vậy mà có thật 100%, Mà nói về cái " Đểnh đoảng " của phụ nữ  nhé, Coi như lấy lại thế cân bằng

            Chuyện này xảy ra lâu lắm rồi. Ngày ấy ở đơn vị có anh chính trị viên đại đội tuổi gần 30 có vơ ,có con rồi. Anh chịu trách nhiệm quản  lý chính trị tư tưởng  của hơn trăm cán bộ chiến sỹ trong đơn vị. Đơn vị trai có , gái có, có cả chiến  sỹ đã có vợ rồi. Là  người vui tính, hòa đồng  và hiểu được trách nhiệm của mình. Lúc rảnh anh thường xuống nói chuyện tếu với chiến sỹ ,vừa để  khỏi có khoảng cách  với chiến sỹ, vừa là để nắm bắt tâm tư của cấp dưới để kịp thời động viên anh em khắc phục khó khăn , hoàn thành nhiệm vụ..

            Trong đơn vị có 3 chiến sỹ đã có vợ, qua tìm hiểu anh thấy  vợ lính thật tốt, đảm đang  mọi công việc gia đình, thương chồng, thương con.... Thế nhưng ai mà nói rằng trong đời sống vợ chồng có sự hoàn hảo thì tôi sợ là họ nói dối. Vợ lính tốt thật nhưng ai mà chẳng có  những sơ xuất khuyết điểm. Ví như 3 chiến sỹ tâm sự với anh chính trị viên

Chiến sỹ 1 : Vợ em tốt lắm nhưng phải mỗi tội mắng con hơi quá ,Tức lên là mắng  không cần để ý đến ai. Đôi khi làm mẹ em chạnh lòng...

Chiến  sỹ 2:

            - Vợ em đảm đang lo toan mọi việc nhưng phải cái cô ấy ít quan tâm đến sở thích của chồng và mọi người trong nhà. em thích ăn canh cua mà cô ấy lại không thích , nên em chẳng mấy khi được cô ấy nấu cho ăn,Không phải mình đòi hỏi nhưng sự quan tâm ấy nếu có tự nhiên em sẽ thấy hạnh phúc hơn nhiều...

 chiến sỹ 3:

            -Vợ em thì khỏi chê, mỗi tội em uống chút rượu với bạn là cô ấy lườm nguýt, thậm chí nói làm em mất cả thể diện với bạn bè

            Nghe chiến sỹ tâm sự vậy,chính trị viên (CTV) rất hiểu và thông cảm. Thường thì lính ít được về , mà về cũng ngắn ngủi. Được vài ngày bên nhâu chẳng lẽ mang nhhau ra phê bình. Thuận thì không sao , kẻo lại " Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt " thì  chẳng uổng lắm sao ?. Thương anh em CTV ráng nghĩ cách để mách cho chiến sỹ mình sao cho góp ý cho vợ một cách hiệu quả nhất mà lại không  để mất lòng vợ. Có như vậy mới vẹn đôi đường

            Anh nghĩ : Việc đóng góp ý kiến cho nhau cũng là một nghệ thuật.  Ngoài việc chọn câu từ, biểu cảm giọng nói thì thời cơ cũng là điều quan trọng. Góp ý cho nhau nên chọn lúc  người được góp ý  trạng thái tinh thần vui vẻ , thỏa mái bao giờ cũng tốt hơn, Người nghe cũng dễ chấp nhận và sửa một cách tự giác hơn.

            Còn trong đời sống tình cảm vợ chồng nên góp ý cho nhau những lúc vợ chồng hanh phúc nhất chắc là kết quả còn cao hơn, Vậy hạnh phúc nhất là lúc nào ? hiii phải chăng là lúc vợ chồng " Đầu ấp má kề ." ?  Hiiii đúng rồi.... Chính lúc ấy

            Từ lập luận như vậy, CTV gọi 3 chiến sỹ có vợ lên gặp và nói  rõ suy nghĩ của mình rồi kết luận

            - Lần này cho các cậu về qua nhà một tuần, vừa để đỡ nhớ vợ con nhưng cái chính là phải  góp ý để vợ sửa chữa những thiếu sót. Có như vậy các cậu mới thỏa mái yên tâm công tác. Nhưng nhớ là lúc nào các " Thím " ấy thật Hạnh phúc hãy phê bình nhé. Nhớ lên đơn vị đúng ngày, lên báo cáo kết quả rồi tổng kết biết đâu đây là sáng kiến hay.

Đúng hẹn các chiến sỹ có mặt tại đơn vị và cùng CTV rút kih nghiệm.

Chiến sỹ 1;

            Chính trị viên nói đúng thật, Đúng lúc nhà em hạnh phúc em dặn " Từ nay bảo ban con nhẹ nhàng nhé, kẻo mẹ phật lòng anh sẽ buồn " nhà em vâng ngay

            -Chiến sỹ 2: Em cũng vậy em dặn mai mua cua nấu canh nhà em cũng vâng ngay.  Công nhận ngoan thật

            - Chiến sỹ 3 : Em biết lúc ấy nhà em hạnh phúc lắm vì ngay hơi thở cũng không tự chủ cứ thở gấp như thiếu không khí ấy. Em dặn " Từ mai anh có uốn rươu với bạn em nói cho từ tốn nhé " nhà em cũng vâng và xin lôi. Hii tiện đà em hỏi " Mai anh chở ông ngoại đi KRAOKE bàn tay vàng nhé " nhà enm cũng ừ  thế mới biết lúc  hạnh phúc hỏi và bảo ban vợ th ật dễ 

Chính trị viên khoái chí :

            -Thế chứ , tớ bảo chỉ có đúng, kể cả dạy vợ lúc đó cũng là hiệu quả nhất

Đang vui bỗng  một chiến sỹ nói : Anh ơi, nhưng mà nhà em nó chỉ vâng lúc đó thôi chứ sau hình như " nó" quên hết. Em hỏi "sao không mua cua " nhà em nói " Anh bảo lúc nào ?"

            - Được thể chiến sỹ 3 nói: Đúng thế, hôm sau nhà em thấy em uống rượu vẫn mắng " uống vừa thôi chứ không ai phục vụ được "

Chính trị viên cùng mấy chiến sỹ có vợ ngớ người ra,

            Ô hay lúc ấy bảo vâng dạ là thế, ngoan ngoãn là thế , tưởng là sửa  ngay. Cứ nghĩ  góp ý cho vợ lúc đó "hiệu quă " cao... Nhưng xem ra " Đếch phải thế " các bạn ạ. Đâu vẫn đóng đó

Nếu anh bàn tay sạch còn nghi ngờ điều này cứ làm theo lời dặn của anh chính trị viên nọ với chiến sỹ sẽ rõ và biết ngay kết quả

CHUYỆN TUỔI THƠ " LÃO CÀ CHỚN"

Đăng ngày: 08:48 01-09-2011

Thư mục: Tổng hợp

            Cái biệt danh " Cà chớn " là từ thời trai trẻ ở miền Nam.Vì tính hay đùa, hay cợt nhả nên mấy má, mấy thím thường hay gọi  yêu  là " thằng hai cà chớn ", còn mấy em thì gọi " Anh hai cà chớn ".Đồng nghĩa với  " Cà chớn " trong Nam thì ngoài Bác thường  dùng từ " Nhăn nhở ". Thôi thì lúc trẻ gọi anh, gọi" thằng cà chớn" sao cũng được nhưng giờ già rồi  nên gọi là '" Lão cà chớn " vừa gọn lại vừa tiện.

            Mấy hôm nay " lão cà chớn " tự nhiên trầm hẳn đi, " lão " suy tư lúc thì trầm lắng  như" ông cụ", có lúc  "lão "lại mủm mỉm cười một mình như " thằng dở hơi ". Thực ra đó cũng là điều dễ hiểu vì mấy ngày này các cháu học sinh và nhà trường đang  chuẩn bị bước vào năm học mới. "Lão " lại chạnh lòng chợt nhớ về bao kỷ niệm tuổi thơ, về một thời " lão " cũng được cắp sách tới trường. Kỷ niệm thì nhiều lắm, buồn có, vui có nhưng " Lão " chợt nhận ra rằng " Lão " đúng là thằng "cà chớn " từ nhỏ từ khi ở tuổi học trò , những năm trong quân ngũ và rồi đến bây giờ già rồi vẫn " cà chớn " mà không sao sửa được thế có khổ không cơ chứ ?

        Công bằng mà nói ở cái tuổi học trò  của " lão " cũng bình dị va ftrong sáng như bao bạn cùng trang lứa, trong mắt thày cô và gia đình "Lão " là cậu bé ngoan, là học học trò tốt.  Biết vâng lời cha mẹ, thày cô, không nói bậy, không đánh cãi nhau, với bạn bè hết lòng giúp đỡ nhau,trong học tập cũng như trong công việc, Lực học tàm tạm nhưng có lẽ cái nổi bật cũng là cái yếu nhất không sửa được đó là "Nghịch ngầm "  , chính vì thế càng lớn, càng già càng "cà chớn"

            Nhớ lại những năm học cấp I (Tiểu học) " lão "đã nghịch,  nhưng nhớ nhất là hai vụ xui con người ta. Hôm đó một con bạn "lão "khoe

            - Nhà tớ có con gà mái đẻ  trứng non mãi không  chữa được

Nghe vậy "lão " nói :

            - Đấy  là nó thiếu Can xi  (' lão" nghe các anh chị lớp trên nói chứ lúc đó biết  can xi là cái quái gì ). Muốn chữa tớ bày cách cho

Con bạn hỏi chữa thế nào " Lão nói ":

            - Ghè ít mảnh bát thật nhỏ, trộn với vôi cho vào đít gà và ngoáy cho tan ra sẽ tạo thành vỏ trứng. Nhưng nhớ làm lúc vắng bố mẹ kẻo không nghiệm.

            Con bạn tưởng thật chuẩn bị đủ thứ , nhằm lúc bố mẹ đi làm , nó săn bát bằng được con gà đẻ trứng non và làm theo" hướng dẫn ". Kết quả  chiều đó gà chết . Bố nó tưởng gà dập trứng chết nên mang đi thịt , ai dè khi làm lòng thấy trong ruột có mảnh bát và vôi liền tra hỏi con gái. Dĩ nhiên nó khai " Lão " xui. Kết quả tiếp theo là " lão" bị  mẹ mắng một trận nên thân 

            Một lần khác có thằng bạn ca thán :

            - Nhà tớ nuôi nhiều gà  mà mẹ không thịt cho ăn , thèm quá 

Thấy bạn nói vậy " Lão " nói :

            - Thích ăn thịt gà  tớ bày cách cho

.           Thằng bạn đồng ý liền. Thế là " Lão " dẫn bạn đi tìm mấy quả ớt thóc (loại ớt quả nhỏ nhung rất cay ), lẫy xong rồi " lão " dặn

            - Về dã cho nhỏ, sát ớt vào đít con gà mái và nhớ là làm lúc bố mẹ không có nhà.

            Thằng bạn về hăm hở đuổi gà không được, Nó bắt luôn con gà mái đang ấp trứng cũng sắp đến ngày nở và sát ớt vào. Quả là hiệu nghiệm, Con gà rát quá cứ vừa bay vừa nhảy, cổ vươn ra, miệng kêu không ra tiếng. Lúc sau bố mẹ nó về nhìn thấy vậy mẹ nó hoảng hốt  nói với bố nó:

            - Ông ơi , chết rồi, gà mái nhà mình gáy gở,( phong tục lúc ấy gà mái gáy gở là độc lắm, phải chặt bỏ đầu rồi thịt ).

            Nghe vậy ông bố bắt gà chặt bỏ đầu rồi thịt nhưng khốn thay đít gà vẫn còn dính vỏ ớt và hạt ớt. Ông bố quay ra tra hỏi con trai và một lần nưa " Lão " lại bị mẹ mắng  là đi xui dại con người ta,  Còn Bố " lão " chỉ tủm tỉm cười  và còn cho rằng " lão "  là thằng thông minh hóm hỉnh.

            Sang những năm học cấp II ( THCS) " lão " vẫn nghịch .  Hôm đó trong giờ ra chơi " lão " đi qua chỗ mấy đưa con gái lớp dưới " đang chơi trò nhẩy dây. Có con bé học sau 2 lớp nhảy dây, trời xe lạnh mà trán rớm mồ hôi, má ửng hồng, búi toc đuôi gà cứ  hất lên hất xúng theo nhịp nhảy trông rõ " ghét ". " Lão" phá quấy, con bé nói lão  là "đồ phá rối".. Mấy hôm sau " lão" cùng bạn bè thấy con rắn nước  và mấy thằng đánh chất con rắn. " Lão " nảy ra ý định và gói con rắn chết đến trường, Trong giờ ra chơi " lão " lẻn sang bỏ rắn vào túi sách của con bé nhảy dây rồi lặng lẽ rút lui. Đến giờ vào học thấy lớp đó có tiếng hét ầm lên . hóa ra con bé sờ thấy nhũn lôi ra là con rắn, nó vất bừa đi ai dè lại vào chỗ mấy đứa con gái khác. " lão sang thấy mặt con bé nhảy dây mặt tái mét, lão ân hận và từ đó không trêu  cô bé đó nữa và có chút gì đó thương thương. 

            Sang năm học cấp III (THPT) thời gian đầu ít bạn vì ngày ấy cả huyện có một trường nên mỗi xã thường được vài người trúng tuyển,

            Mất  năm đầu tìm hiểu và kết bạn. Sau thì " Lão " lại nhiều bạn và  lại nghịch, Ngồi bàn gần sau cùng với mấy bạn trai lão bày đủ thứ trò trong đó  có trò chọc ghẹo bạn gái  hiiii

            Cô giáo chủ nhiệm thấy bọn con trai  có  vẻ không chăm chú nghe giảng có ý định tóm nhưng lần nào cô gọi kiểm tra xem có chú ý học không " lão "và mấy thằng bạn vẫn trả lời được nên không thể bắt lỗi. Nhưng rồi cũng đến ngày "lão "và mấy thằng gặp " Nạn". Bữa đó mấy thằng làm thơ trêu mấy đưa con gái. Nhưng phải nói là bạn gái trong lớp cũng xinh chứ không đến nỗi như trong thơ, Bài thơ đó  giờ tôi vẫn nhớ như sau :

Xào xạc như lá chuối khô

Lớp 10 c  (xê ) có mấy cô muốn chồng

Cô Lan cao ngổng cao ngồng

Cô Vân cao cẳng lội sông cũng vừa

Cô Nguyệt có bộ răng  thừa

Ai đứng bên cạnh , tránh mưa  an lòng.

Cô Bích có cái lưng còng

Nằm chiếu thì chật nằm  nong thì vừa

Cô Nụ có hai răng thưa

Muốn chồng  vẫn nói ta chưa thích chồng

Cô Xuân có cái eo thùng

 Rất muốn lấy chồng nhưng chẳng ai yêu

Đáng đời một lũ  tự kiêu

Nếu sống biết điều , quân tử giúp cho

            Lúc  nhận được mấy dòng thơ này  lũ con gái kêu oai oái rủa lũ con trai. Vậy là cô chủ nhiệm tóm sống. Cô đọc thơ xong thì phì cười phải chạy ra ngoài. Mấy thằng lo cô lên báo ban giám hiệu thì gay. Nhưng cũng may cô chủ nhiệm là cô giáo mới ra trường chỉ hơn lũ học trò 4 - 5 tuổi nên dễ thông cảm. Lúc cô hết cười  cô vào tìm " thủ phạm", nhưng vì là " tác phẩm " chung chẳng đứa nào nhận . Cuối cùng cô so chữ thì thôi "Lão " chịu tội rồi Tội " chết " thì tha nhưng phạt thì không thể tha. Cô cho " lão " lên bàn trên cùng ngay trước bàn cô giảng, lại ngồi giữa hai con bé "Eo thùng " và "Răng thừa " nữa chứ. Quả là hình thức phạt khổ hơn bất cứ hình thức phạt nào vì hồi đó "Lão " rất ghét ngồi gần con gái .Đã hết đâu có hôm  " Lão " ngủ gật lúc gật bên nọ, lúc gà bên kia cô thấy và nói :

            - Anh Tuấn , anh đồng ý cô nào thì đồng ý một cô thôi đồng ý hai cô là phạm luật đó Thế có khổ cho "Lão" không cơ chứ ..

            Thế  đấy chuyện về tuổi học trò của 'lão " thì nhiều lắm nhưng kể mấy mẩu   cà chớn vậy thôi. Bây giờ ngồi nghĩ lại " Lão" biết rằng cái tính " Cà chớn" ấy đã ăn sâu và trở thành một phần máu thịt trong cuộc sống của mình chẳng thể sửa được ."Lão" đành tự an ủi mình  là  mình chẳng giống ai cả, Có như vậy "lão " mới là chính mình. Vả lại " Lão " có cà chớn thì cũng chẳng mấy ai ghét " Lão " nên chả tội gì phải sửa. Ngay cả việc lấy vợ cũng vậy vì cà chớn mà lấy được vợ đó chứ không thì ế. Nhưng thôi " Lão chẳng kể đâu "        Còn đôi khi lão trầm tư, hoặc cười mủm mỉm như  người dở hơi cũng có lý do cả, một chút thôi mà.

             Lão chạnh lòng về tuổi học trò đi học ngày ấy vất vả , gian lao, cực khổ, thiếu thốn và trong chiến tranh là vậy mà vẫn học đều, học cân chứ chả học lệch như bây giờ. Ngày nay  việc học của các cháu đầy đủ và thuận lợ hơn rất nhiều nhưng xem ra cần phải xem lại. Chẳng thế mà kỳ thi đại học khối C vừa rồi  số  các cháu bị điểm 0 môn lịch sứ  để mọi người phải giật mình và cần quan tâm đến quản lý dạy và học, Tâm hồn các em như tờ giấy trắng , tâm hồn các em có đẹp hay không đều trông mong vào "nét vẽ" của thày cô, Lẽ dĩ nhiên để tạo sự chuyển biến không thể ngày một ngày  hai, còn phụ thuộc vào các cấp các ngành nhưng trước hết có lẽ vẫn trông mong ở những  thày cô đang trực tiếp giảng dạy.

Nhân dịp năm học mới " Lão cà chớn " xin gửi tặng tất cả các thày cô đã và đang công tác trên mặt trận văn hóa, nói chung và các thày cô trong làng BLog nói riêng  đã mang hết sức mình và cả cuộc đời  trong sự nghiệp trồng người những đóa hoa tươi thắm để tỏ lòng tri ân các thày cô.

GIỐNG TỐT

Đăng ngày: 14:15 12-06-2011

Thư mục: Tổng hợp

 Anh bodoi  vẫn bận nên đăng lại bài này để các bạn đọc cho vui.  Hứa là  lần sau không đăng lại nữa. mà sẽ viết bài mới . Các bạn đọc cho vui để thư giãn đầu óc  .Bước sang tuần mới  làm việc hiệu quả nha

 

        Ngày xưa các cụ nhà mình còn nghèo lắm. Cuộc sống chủ yếu là cấy lúa trồng khoai để sống. Hàng năm thường thiếu ăn đến vài tháng. Cuộc sống đã vậy nói chi đến có " Của ăn của để " như bây giờ.Vì vậy cũng chẳng có gì để lại cho con cho cháu. Con gái đi lấy chồng cũng thường là tay không chứ mong gì " Của hồi môn ". Nhà nào khá lắm thì cũng  gọi là     " Cấp vốn " cho con gái con lợn , con gà.
    

             Chuyện là có cô con gái mới đi lấy chồng ở làng bên. Hôm đó về thăm bố mẹ đẻ, được bố mẹ " Cấp vốn " cho một con lợn con khoảng chục ký.Giữa trưa nắng oi ả  cô gái cắp thúng đựng con lợn về nhà chồng. Đồng không  một bóng người, vắng vẻ đến dễ sợ. Bỗng cô gái vấp ngã làm rơi cái thúng đựng con lợn. Lợn tuột dây buộc chạy lung tung cô gái không sao đuổi được.

       May quá dưới mương nước có người đàn ông đang đánh dậm. Cô gái nói to
      - Bác ơi bác, giúp em với , bắt hộ em con lợn chứ không em chết mất. Cả cơ nghiệp vợ chồng em trông vào đó đấy.

 

 

        Thương cô gái anh đánh dậm nhảy phắt lên bờ . Ai dè nhảy mạnh quá cái quần lót đang mặc đứt tung đũng quần nên nó trở thành cái váy cộc.Khi anh chạy " Cái váy " cứ tung lên và xoè ra trông như váy của nữ diễn viên " Vũ ba lê ". Nhưng khác là cái "của thừa " của anh ta cứ nảy lên nảy xuống như cần gạt chỉ của máy khâu. Anh ta ngượng quá định thôi nhưng lại thương cô gái mất lợn thành ra cứ cố đuổi để bắt giúp lợn. Cuối cùng thì anh cũng tóm được con lợn giúp cô gái

     Nhưng đến khi trói con lợn anh một đầu gối đè vào con lợn, một chân chống xuống đất thì "của thừa " lại phơi ra trước mắt cô gái.Cô gái xấu hổ  mắt nhắm lai. Thấy vậy người đàn ông một tay che cái kia một tay giữ lợn rồi nói

   - Cô mở mắt ra đi mà trói lợn, tôi che "nó "lại rồi.

 

      Cô gái mở mắt rồi lấy dây trói lợn nhưng cứ lóng ngóng mãi mà không xong. Cứ quấn dây được một vòng thì con lợn giẫy lại tuột ra. Cô lo cứ như thế này chắc lợn chết mất. Cô mạnh dạn nói:

    - Thôi bác, bác bỏ tay ra để em lấy tay em che cho bác cũng được. Bác trói giúp hộ em chứ cứ thé này lợn chết mất.

      Người đàn ông bỏ tay ra, Cô gái lấy tay che chỗ ấy cho người đàn ông. bàn tay mềm mại, mát rượi làm người đàn ông rừng rực trong người nên trói lợn cũng lóng ngóng. Mỗi lần con lợn giãy giụa làm cánh tay cô gái động đậy nên có khác gì cô ấy làm khó cho anh ta chứ đâu còn là che nữa.

 Cuối cùng con lợn cũng được trói và cho vào thúng để cô cắp về nhà.

Xong việc cô gái cám ơn rối rít người đàn ông và nói:

      - Em cám ơn bác nhiều lắm. Không có bác hôm nay chắc em mất con lợn.Ôi ước gì con lợn giống nhà em nó cũng tốt như "Con giống " nhà bác. Nó chẳng ăn  uống cái gì mà sao nó lớn như thổi ấy bác nhỉ?

     Người đàn ông không nói gì, chỉ đỏ mặt và chạy thẳng về chỗ để cái dậm. Cái váy cộc của anh lai theo gió tung lên.

1- Nấu canh quả vải:

       Có một cô vợ bộ đội chồng đi xa quanh năm. Cô ở nhà với đứa con trai 5 tuổi.Xa chồng nhưng có con nên chị cũng cảm thấy đỡ buồn và đỡ cô đơn. Những lúc hai mẹ con ăn cơm thằng bé cứ dạng 2 chân ra lại mặc quần đùi nên chim cò  cứ phơi hết cả ra. Thấy vậy mẹ trêu con :

        - Kìa con, con phơi hết cả ra ngoài kìa. Mẹ lại xẻo đem nấu canh bây giờ.

      Thời gian sau chồng về vào dịp mùa hè nóng bức. Khi ăn cơm cũng chỉ có hai vợ chồng và đứa connên anh cũng chỉ mặc quần áo lót cho mát. Vô  tình thế nào nó lại trật ra ngoài một bên trông giồng quả vải. Cậu con trai nhìn thấy nhưng không dám nói gì. Còn vợ nhìn thấy nhắc khẽ chồng.

      - Kìa  Bố cu . Quả vải của Bố cu lộ ra hết rồi.

Con trai mặt tỉnh bơ buông  ra một câu.

      - Xẻo, đem nấu canh. À mà nấu mẹ ăn chứ con ứ ăn canh  nấu bằng "Quả vải " của Bố đâu

2- Bộ đội có đuôi

       Câu chuyện này có thật và xảy ra vào dịp sau ngày giải phóng Miền Nam được ít ngày. Sau  giải phóng chúng tôi được điều về một cù lao có 3 xã ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Nơi đây bà con chưa hề được tiếp xúc với  Việt cộng mà chỉ được Mỹ Nguỵ tuyên truyền là " Việt cộng 7 người đu cọng đu đủ không gãy, Việt cộng có đuôi.."

     Chúng tôi về nơi đây với bà con  thì đây là lần đầu tiên bà con tiếp xúc với Việt cộng bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Ban đầu họ còn bỡ ngỡ, e ngại chưa biết Việt Cộng thế nào?, có ác không?. Qua vài ngày tiếp xúc bà con nhất là chị em  thấy bộ đội hiền khô mà còn dễ thương nữa.Vậy là mọi người đều quý bộ đội. Ngày ấy do điều kiện chưa ổn đinh nên chúng tôi đóng quân tại nhà dân và nấu cơm ăn theo tiểu đội. Các em gái giúp chúng tôi nhiều lắm. Toàn tranh nấu cơm và con đi chợ mua đồ ăn dùm chúng tôi. Đến bữa các em ngồi  đầu nồi bới cơm cho chúng tôi. Chúng tôi mời em ăn cùng  thì em nói:

        - Thôi để em bới cơm cho các anh, nhìn các anh ăn ngon là em vui rồi.

      Vài bữa sau lại có thêm cậu bé chừng 10 tuổi cũng quanh quẩn bên chúng tôi. vừa nói vừa cười nhưng tay thì cứ sờ vào chỗ xương cụt của mọi người. Thấy vậy ăn xong tôi lấy một loong đồ hộp cho em bé và gọi riêng ra một chỗ  rồi dỗ em  nói ra sao lại làm như vậy ? ngần ngừ một chút rồi em nói :

       - Mấy chị biểu em  sờ xem các anh bộ đội  có đuôi hay không?

     Hiiiiii. Biết rồi  nhé. Một thoáng ý nghĩ  lươt nhanh trong đầu .Tôi dặn dò cậu bé thật kỹ nên trả lời các chị thế nào  khi các chị đó hỏi và rồi  rủ mấy anh em ra nghe lén mấy chị em hỏi cậu bé. Thấy cậu bé ra mấy chị con gái quây quanh em nhỏ rồi hỏi ríu rít:

        - Nè em, em sờ chưa?

Cậu bé

    - Dạ rồi

Mấy chị:

   - Bộ đội có đuôi không ?, nó như thế nào ?

Cậu bé:

    - Dạ bộ đội có đuôi, đuôi vừa to, vừa cứng , vừa dài nhưng...

Mấy cô gái:

   - Nhưng sao em ?

Cậu  bé:

     - Nhưng đuôi của các anh bộ đội mọc ở đằng trước

     Ấy vậy mà sau ít ngày ở cùng bà con nhiều chị em đem lòng thương bộ đội chẳng biết vì màu  xanh áo  lính hay vì cái " Đuôi " nữa.

3- Bộ đội chăm chỉ , vừa khôn lại vừa giỏi:

        Đây là những nhận xét mà bà con  tặng cho bộ đội sau đợt hành quân dã ngoại vừa luyện tập kết hợp với  làm công tác vận động quần chúng. Một đơn vị  vào vùng sâu vùng xa ở Miền núi, một số thì ở nhà dân còn một số thì ở tập trung ở  mấy gian nhà công cộng của xã. Nơi đây cũng là nơi nấu ăn tập thể của đại đội.

         Bộ đội được khen là chịu khó  là vì cứ sáng ra mấy chú bộ đội cứ tranh nhau cái chổi để quét nhà. Cái chổi rơm ngắn khi quét cứ phải khom lưng vậy mà các chú quét rất kỹ, rất lâu và lại tranh nhau quét cơ chứ. Hốm sau cô chủ nhà xinh đep mua thêmmấy cái chổi nưa để các chú khỏi tranh nhau. Vậy là các chú quét cả nhà,  quét cả cổng cả ngõ., Các chú chăm chỉ thật.( Hiiiiii Chỉ có cánh lính nhà ta mới hiểu . Vì chịu khó khom lưng quét nhà chỉ vì không thể chỉnh " Đồng hồ" về sáu giờ rưỡi )

       Còn danh hiệu khôn và giỏi thì do các cháu thiếu nhi quan sát khi các chú bộ đội ngủ trưa  mà phát hiện ra và về  khoe với Mẹ:

      - Mẹ ơi các chú bộ đọi khôn và giỏi lắm. Buổi trưa nóng như vậy các chú ngủ trưa chú nào cũng bẻ một cái que chống cao cái quần đùi để gió lùa vào cho mát. Con cũng bắt chước các chú bẻ que chống quần mà  bị que đâm vào thịt đau không chịu nổi. Vậy mà các chú bộ đội chịu được,  vẫn ngủ ngon lành, các chú giỏi thật.

4- Bộ đội thèm ăn ốc:

          Có anh bộ đội rất thích ăn ốc luộc. Nhất là những mẻ ốc vặn luộc cho thêm chút muối, lá chanh và có bát nước mắm có pha thêm gừng ớt để nhâm nhi chén rượu thì tuyệt vời     

         Nghe tin chồng sắp về chị vợ chuẩn bị một mẻ ốc thật ngon để khi về anh ăn cho đỡ thèm. Khi chồng về vợ chông và đứa con quấn quýt thật hạnh phúc. Bố ôm con vào lòng tay âu yếm vuốt tóc con và lấy quà cho con. Chị vợ thò cứ quanh quẩn hết ra nhà ngoài lại vào trong buồng. Chợt nhớ ra điều gì chi gọi con trai và nói:

     - Con ơi, Bố thích ăn ốc, con đi luộc ốc để lát nữa bố nhắm rượu. Nhớ cho muối và ít lá chanh con nhé. à mà con pha luôn nước chấm , làm nhanh con .

    Cậu con trai vâng lời mẹ rời lòng Bố và đi làm ngay. Thằng bé giúp Mẹ nhiều nên thạo việc .Trong khi chờ ốc chín  thì pha luôn nước chấm lại còn rót cho Bố một cốc rượu bày sẵn. Xong rồi con lên nhà gọi Bố :

        - Bố ơi ốc chín rồi , bố ra ăn ốc đi Bố.

       Anh bộ đội chắc đang mơ màng khi nghe con gọi vẫn tưởng mình ở đơn vị. Nghe tiếng gọi giật mình và theo phản xạ tự nhiên nhảy ngay ra ngoài. Hiii trời ơi  nhìn kìa...  anh bộ đội không một mảnh vải che thân. Con trai Bố như vậy nói với bố:

        - Ôi Bố thích ăn ốc có khác. " cái ấy "của Bố cũng thèm ốc đến chảy cả "nước  dãi " ra kia kìa

" HAI LỚP "

Đăng ngày: 14:12 12-12-2010

Thư mục: Tổng hợp

        Đã lâu rồi tôi không kể chuyện vui . Chỉ mấy hôm nữa là đến ngày thành lập QĐND Việt Nam. Ngày vui của những người Lính chúng tôi.Để chia xẻ niềm vui đó hôm nay anhbdoi lại kể mẩu chuyện vui, rất thật, rất dung dị và thật đời thường để các bạn hiểu thêm lính chúng tôi vui như thế nào nhé.

        Câu chuyện này xảy ra cách đây đã lâu, ngày đó tôi cũng còn khá trẻ. Câu chuyện này đã lan truyền trong cánh lính chúng tôi và tôi khẳng định là câu chuyện này đơn vị tôi giữ " Bản quyền ". Bởi lẽ nhân vật chính trong câu chuyện này là người của đơn vị tôi.Câu chuyện này kể về một gia đình nhà lính. Chồng là một sỹ quan trẻ cùng ra trường, cùng về một đơn vị với tôi. Giờ đây anh ấy đã nghỉ hưu. Còn cô vợ là cô giáo trước day cấp 2 ( THCS) nay xuống làm Hiệu trưởng của Trường tiểu học hiện vẫn còn đang công tác.
       Không nói chắc các bạn cũng biết ngày đó chúng tôi làm nhiệm vụ Bảo vệ biên giới  nên rất ít được về  thăm nhà. Nhớ vợ thương con nhưng vì nhiệm vụ nên cũng phải xác định tư tưởng yên tâm công tác. Anh bạn tôi lần đó được cử đi công tác và trên cho về qua nhà với thời gian một tuần. Hôm trở vè đơn vị có mang chút quà quê lên  và mời mấy anh em trong ban chỉ huy uống rượu. Thấy bạn vui chúng tôi hỏi "đợt về thế nào " anh chỉ mủm mỉm cười và nóí " Bình thường ".
Khoản này lính chúng tôi luôn quan tâm và khá nhạy bén. Chúng tôi nháy nhau chúc cho " Anh chàng " uống nhiều rượu để dẽ bề khai thác. Quả nhiên rượu vào lời ra  bí mật vợ chồng anh khai hêt . Thế nên hôm nay mới có chuyện để mà kể với các bạn đó.
Anh  bạn tôi kể:
       Hôm đó được cử đi công tác và về qua nhà lòng vui lâng lâng khó tả. Chỉ chiều nay thôi là lại được gần vợ, gần con.  Anh ta hình dung đủ chuyện lúc về sẽ nói với vợ những gì để bõ những ngày xa cách và động viên vợ luôn là hậu phương vững chắc của mình.
        Gần tối anh về tới nhà. Thấy chồng về , cô giáo mừng quýnh vì niềm vui đến thật bất ngờ. Cô giáo liền thịt gà và chuẩn bị bữa cơm thịnh soạn lại còn mời cả mấy anh bạn của chồng đến uống rượu. Khi bữa cơm bắt đầu anh mang ra chai rượu cao sơn dương ( Dê núi ) kiếm được ở Miền núi cùng mấy anh bạn nhâm nhi. Bà con hàng xóm thấy anh về cũng sang chia vui va fhỏi chuyện biên giới. Thế nhưng có lẽ ai cũng rất tâm lý vì hiểu đôi vợ chồng trẻ lâu ngày không gặp nhau. Vì vậy ngồi chuyện trò , uống nước một lát rồi  cũng xin phép về sớm để  vợ chồng trẻ có nhiều thời gian bên nhau.
        Mọi người đã ra về, Cô giáo dọndẹp nhà  và rửa bát. Chàng sỹ quan trẻ thì quay ra chơi với con nhưng con không nhận bố. Vì anh đi lâu không về con lạ không nhận là phải. Dỗ dành cho kẹo và đủ thứ mà nhất định nó chẳng theo mà chỉ quẩn quanh với Mẹ.  Xong xuôi công việc cô giáo bỏ màn và dỗ con ngủ. Anh bộ đội nhà ta uống rượu ngon, bổ nên cảm thấy phấn chấn và sung mãn. Vào đến giường vùa địng ngồi xuống bên vợ thì cậu con trai ngồi bật dây , khóc um lên và đuôỉ  Bố  Đi ra... Đi ra... Không được vào đây.
Biết không thể dỗ con được cô giáo nói với chồng
      - Anh cứ ra ngoài , Lát nữa con ngủ hãy vào.
      Vậy là anh buộc phải ra ngoài, ngồi nhâm nhi chén nước trà. Ở trong nhà thằng con cứ hết chuyện này sang chuyện khác , Mẹ dỗ mà nó chẳng chịu ngủ cho. Mọi ngày cơm nước xong  chơi một lát là đi ngủ một mạch đến sáng. Vậy mà hôm nay Bố về nó lại không chịu ngủ . Hết băt mẹ gãi lưng lại bắt Mẹ kể chuyện , rồi thì hỏ đủ thứ chuyện . Anh chồng ở phòng ngoài thì sốt ruột. Nằm thì sợ ngủ quên nên cứ uống hết chén trà này đến chén trà khác cho khỏi buồn ngủ và thi thức với con trai.
          Nhưng ' Lính con " đâu thức giỏi bằng " Lính Bố ". Khoảng gần 2 giờ sáng nó mới lăn ra ngủ say tít, không biết trời đất là gì. Lúc đó bộ đội với cô giáo mới được gần nhau và có nhau trong vòng tay. Có lẽ sự xa cách, sự chờ đợi tối nay càng làm cho tình cảm vợ chồng thêm thi vị, Lính thời chiến tranh giỏi tháo gỡ hàng rào là  thế mà hôm nau việc tháo dỡ " Hàng rào vật cản " anh ta lại nhanh nhảu đoảng. Còn một cái "hàng rào " mong manh nhất, gần mục tiêu nhất thì chàng Lính lại bó sót. Vì vậy cứ loay hoay, hì hà hì huc, cậy là bộ đội khoẻ nhưng vẫn không sao " Kéo pháo vào trận địa" được. Chẳng biết cô giáo thương chồng vất vả toát cả mồ hôi mà không nên chuyện hay bản thân cô giáo cũng sốt ruột mà cô nhắc khẽ chồng
- Anh ơi, Em còn.... lớp nữa
      Nghe vợ nói vậy anh lính tưởng vợ từ lúc mình về mải lo cơm nước mà chưa soạn giáo án để mai lên lớp. Bây giờ gần sáng rồi cô ấy mà " Bỏ việc " dây soạn giáo án thì coi nhứ hỏng rồi. Nghĩ vậy chàng lính có vẻ hơi bực nó xãng với vợ như ra lệnh
        - Lớp nào thì lớp, cũng để đến sáng mai
      Vợ biết chồng hiểu lầm liền cấu chồng một cái và nói
        -  Cái anh Ngốc này. Lớp vải ý.... chứ không phải lớp học.
      Anh chồng hiểu ra  cười khẽ với vợ
        - Ừ nhỉ .... thảo nào... nó cứ lùng nhà lùng nhùng. Như hàng rào bùng nhùng của Mỹ.
        Từ đó chúng tôi đặt cho anh cái biệt hiệu " Hai lớp "
       Hơn chín tháng sau anh lính lại mua thịt lợn quay về mời chúng tôi uống rượu. Hỏi lyd do anh chỉ cười và nói " Bí mật "
        Đến khi nâng chén anh Lính mới tuyên bố lý do
        - Các cậu còn nhớ cái vụ " Hai lớp " chứ. Có cái vụ đó mà bây giờ cô giáo đã cho mình thêm một chú " Lính con "
Kinh nghiệm cho thấy cứ kiểu " hai lớp " sẽ không đr con gái nhỉ
       Bọn tôi đều cười và nâng chén chúc mừng.
       Các bạn ơi, các cô giáo ơi . Bộ đội hỏi chút nhé
       Có cô giáo nào  " Hai lớp " không?. và kinh nghiệm của anh bạn tôi không biết có đúng không nhỉ.
      Chúc các bạn ngày nghỉ vui vẻ . Ấm áp trong hạnh phúc gia đình

SỰ THẬT THÀ ĐÁNG YÊU

Đăng ngày: 16:44 04-10-2010

Thư mục: Tổng hợp

          Năm 1983 sau khi tốt nghiệp trường sỹ quan mấy anh em chúng tôi được điều về nhận nhiệm vụ tại một tỉnh biên giới phía Bắc.Mấy sỹ quan trẻ thật háo hức muốn về ngay đơn vị mới. Háo hức một phần muốn thử sức với cương vị công tác mới, Một phân vì chúng tôi được biết nơi đây gồm nhiều Dân tộc thiểu số anh em sinh sống với nhiều phong tục tập quán đa dạng và phong phú.Như vậy chúng tôi lại có dịp tìm hiểu những nét đẹp trong nền văn hoá của các dân tộc Việt Nam.
          Trong những ngày nghỉ chờ trên giao nhiệm vụ chúng tôi thường dạo phố, đi chợ  và tìm hiểu những nét mới ở nơi đây . Bà con thường vẫn sử dụng nhiều ngôn ngữ  dân tộc mình và cũng nói tiếng phổ thông nhưng ít vì không thạo.Việc xưng hô trong giao tiếp thường xử dụng đại từ nhân xưng theo kiểu Trung Quốc như : Ngôi thứ nhất chỉ mình thì xưng là  Tao. Ngôi thứ hai chỉ người đối diện  gọi là Mày. Ngôi thứ ba chỉ người khác gọi là Nó....
         Trong số anh em nghỉ  ngơi chờ quyết định phân công côg tác có một y sỹ người  địa phương. Thấy rảnh rỗi rủ chúng tôi về thăm gia đình và quê hương của Anh. Chúng tôi xin phép và được đồng ý. Sáng sớm ra bến xe khách mua vé đi chơi. Xe đông, đường xấu chỉ cách thị xã 80 km mà đi hết gần 6 tiếng đồng hồ. Xuỗng xe đi bộ thêm 10 Km mới tới nhà bạn.  Thấy chúng tôi đến thăm , gia đình và bà con vui lắm . Đón tiếp rất cởi mở và thật ấm áp tình người. Ngắm nhìn quê bạn tôi biết nơi đây bà con còn nghèo và vất vả lắm. Vẫn sống trong nhà sàn dưới sàn là nơi  nhốt trâu bò. Đất thì rộng nhưng ruộng không nhiều nên vẫn phải ăn sắn ăn ngô.Tuy vậy đây cũng là xã trung tâm của mấy xã trong vùng thung lũng nên cũng có bệnh xá và có chợ. Chợ thì 5 ngày một phiên nên thường đông vui nhộn nhịp,
Sáng hôm sau là phien chợ. Anh y tá dẫn chúng tôi ra chợ  cho biết. Một khung cảnh chợ thật đẹp mắt. Giữa núi rừng trùng điệp là một chợ với nhiều màu sắc áo hoa xen lẫn áo chàm. Hàng hoá chủ yếu là nông, lâm sản và các gia súc gia cầm nhân dân tự chăn nuôi hoặc tìm kiếm sản phẩm khai thác từ rừng. Anh bạn tôi chỉ dẫn
          - Đây là dãy hàng bán rượu. các ông cứ thoả sức uống không mất tiền.
         Chúng tôi nhì dọc dãy bán rượu có đến vài chục người bán rượu. Mỗi người một đến vài can rượu. Ai cũng có một chai rót sẵn và một cái chén úp lên chai rượu. Người muốn mua có thể nếm nếu vừa ý thì mua, không vừa ý thì thôi. Vậy là mấy anh em đi vào hỏi và nếm rượu. Hết người này sang người khác đến nửa dẫy anh nào annh nấy mặt đỏ gay.Không có ý định mua nhưng nghĩ làm vậy tội bà con nên cuối cùng chúng tôi cũng mua vài lít làm quà cho Bố bạn.
        Ngây ngất vì men rượu chúng tôi qua hàng bán gia súc gia cầm. Thấy hai vợ chồng chị bán lợn chúng tôi hỏi:
       - Chị ơi , con lợn này bao nhiêu tiền ?
Vợ chồng anh bán lợn trả lời :
      - 50 đ ( Giá tiền hồi đó )
     Chúng tôi hỏi
      - Thế con lợn này ăn cám khoẻ không chị ?
Anh bán lợn nói luôn:
        - Cơm nó còn đéo ăn nữa là cám.
Chị vợ nói tiếp:
        - Nếu nó ăn khoẻ tao đã đéo bán .
Chúng tôi bấm bụng cười và kéo nhau sang chỗ khác. Đến chỗ một cô gái khá xinh da trắng bán mèo. Chúng tôi dừng lại và hỏi:
       - Em ơi con mèo này em bán bao nhiêu tiền?
Cô gái trả lời :
      - 10 đồng.
Chúng tôi lại hỏi:
      - Con mèo này có hay bắt chuột không  em?
Cô gái trả lời :
       - Chuột thì chưa thấy bắt lần nào nhưng gà con thì phát một, phát một chưa lần nào xểnh. Có 2 đàn gà con mà 3 ngày nay nó vồ gần hết đấy.
          Đến chiều anh Y sỹ rủ chúng tôi sanh bệnh xá thăm người yêu. Chúng tôi đi theo anh. Hai người gặp nhau mừng quýnh. Chúng tôi để đôi bạn " tự nhiên " và dạo quanh bệnh xá. Chợt thấy chị phui nữ chừng 45 tuổi đến khám bệnh. Chi hỏi mấy cô y tá trực ở đó:
        - Chúng mà cho bá hỏi phòng khám ...ồn ở chố nào ?( Tên theo Comviets đặt cho một cái Lỗ )
Mấy cô trực hướng dẫn nói :
           - Bá ơi, cái ấy ở đây người ta gọi là khám phụ khoa chứ đừng nói như thế người ta bảo là nói tục đấy.
Chị đi khám bệnh nói :
          - Thì bá có đi khám bao giờ đâu mà biết. À mà cho bá hỏi thễ cái" phụ khoa "  của con ngựa phụ nữ ( ý chỉ ngựa cái vì con gái còn được gọi la phu nữ ) mấy hôm nay nó " Tấy " lên chúng mày có khám không ?
Mấy cô trực cười ngặt ngẹo và nói:
          - Bá ơi cái đó bên thú y khám, còn ở đây chúng cháu khám cho Người thôi.
Chị phụ nữ nói:
           - Thế hả cháu. thôi Bá đi khám đây. Bá chào các cháu.
           Nói rồi chị đi đến nơi khám bênh theo mấy cô gái chỉ. Một lúc sau chị phụ nữ ra về. Thấy mấy cô gái cứ nhìn mình rồi cười chị biết là họ cười mình nên bực mình chị nói với mấy cô gái :
            - Chúng bay cười cái gì ? Cười cái phụ khoa của bá đây này.
         

          Một lần khác  mấy sỹ quan trẻ trong đó có tôi được " Sếp " gọi cùng đi nghiên cứu địa hình chuẩn bị cho phương án diễn tập. Nơi đến là vùng núi khá xa, Nơi ấy là quê của cậu chiến sỹ công vụ ( liên lạc ). Tiện đường nên sếp cho cậu công vụ cùng đi về thăm nhà.Còn anh em chúng tôi cũng tiện " báo cơm " và thăm gia đình.Nghiên cứu  địa hình và xác định những vấn đề cơ bản xong chúng tôi quay lại nhà cậu công vụ. Mấy anh em trẻ xông xáo đi trước. Gặp Bố của chiến sỹ mấy anh em chúng tôi chào:
            - Chúng con chào Bố Mẹ. Bố mẹ khoẻ không ạ ?
ông bố tươi cười:
            - Bố chào các con. Bố khoẻ. Mời các con vào trong nhà uống nước rồi ăn cơm với Bố Mẹ. Hôm nay các con về thăm Bố Mẹ vui lắm.
          Chúng tôi ngồi uống nước một chút cơm đã dọn xong.Ông bố mời chúng tôi xuống uống rượu. Toàn sản phẩm nhà sản xuất như thịt gà  " Leo đồi ". canh rau rừng, măng... và còn món xôi trám đen nữa chứ. Món này thật ngon mà giờ kể cả ở Hà Nội kiếm còn khó.
Mải vui người Bố không để ý đến  ' Sếp" ông nói :
            - Nào Bố mời các con chén rượu này. Bố chúc các con mạnh khoẻ , công tác tốt.
" Sếp" chúng tôi biết phong tục nên vui vẻ cười và nói :
            - Chúng con chúc  Bố khoẻ , sản xuất thắng lợi.
Một lúc sau "Bố " vui vẻ quay sang hỏi tuổi. Chúng tôi trả lời. Đến " Sếp "  Bố hỏi:
           - Thế thủ trưởng à, năm nay con bao nhiêu tuổi ?
Chúng tôi lo lắng nhưng ' Sếp " cười rất tươi và nói :
           - Thưa bố . Con năm nay mới có 45 tuổi ạ.
Người  Bố lại nói:
              - Ô thế ra con cũng nhiều tuổi rồi nhỉ ? Con hơn Bố đến 4 tuổi cơ à.
Cả nhà cười vui.
             Thế đấy các bạn. Tôi kẻ chuyện này moi người đừng cho tôi là "bôi bác " bà con dân tộc thiểu số nhé. Không đâu . Ngược lại tôi rất quý và kính trọng họ bởi lẽ: Bà con các dân tộc miền núi rất thiệt thòi bởi điều kiện địa lý. Ít được  ăn học, ít tiếp xúc với bên ngoài nên ít hiểu biết và không thạo tiếng phổ thông thì đâu là  lỗi của họ. vả lại thật thà , trung thực. tấm lòng nhân ái, bao dung là nét đẹp truyền thống của nền văn hoá Việt Nam đã được hình thành và được gìn giữ từ bao đời. Giờ đây khi đát nước phát triển, trình độ dân trí cao hơn nhiều và nhất là khi  chuyển nền kinh tế sang " Cơ chế thị trường " với biết bao kiểu bán hàng đạt đến mức    " Nghệ thuật "thì kiểu bán hàng như đã kể trên quả là chuyện " Cổ tích ". Tôi rất mừng khi đất nước nói chung và đời sống nhân dân ta đa được nâng lên khác xa so vớt trứơc. Nhưng tôi cũng chạnh lòng khi các giá trị đạo đức truyền thống như : Trẻ kính trọng già, Trò kính trọng thày, lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ và thậm chí ngay cả trong tình yêu tình bạn và các mối quan hệ khác đã bị chi phối không nhỏ bởi " ma lực của đồng tiền ".

Lính Kể Chuyện

Thật đúng là lính Tây nguyên có đặc thù riêng. Thông tin trên của bác Tomqb3 (nằm gần các cụ) khẳng định thêm về tin đồn ngày đó của lính là các cụ trên BTL B3 muốn lập quốc gia riêng vì khinh tạt mọi chi viện hậu cần của miền Bắc. Vì thế mà lính đói và thiếu đủ thứ. Mang tiếng là lính cũng có tiền phụ cấp mà chỉ có dịp cuối năm mới thấy hậu cần qua Cămpuchia mua rồi phát đều cho lính bút máy Hero (không có mực) và bật lửa, thế là xong. Còn cái đói thì triền miên, chỉ đến khi đánh Ban Mê Thuột trở đi mới no đủ.

Có lẽ đúng là trên các chiến trường thì lính B3 giỏi tăng gia nhất. Rau cỏ, lạc đỗ thì không nói làm gì, nhưng ấn tượng nhất là trồng sắn và lúa. Kể từ mùa mưa 1972 trở đi có lệnh cứ hở đánh nhau ra là phải tăng gia. Cứ chỗ nào có mảnh đất rộng độ trăm mét vuông trở lên là trồng sắn. Rồi chỉ tiêu mỗi lính một năm trồng lúa đạt 1 tấn thóc... Không thể nhớ nổi mình đã trồng bao nhiêu sắn ở đâu và đã ăn bao nhiêu sắn của các đơn vị khác trồng.

Riêng món cá sông thì chúng tôi hầu như không có. Chỉ những dịp gặp đầm nước đơn vị cho phép tát bắt thì ăn cá ê chề, chả khác gì tát ao ở nhà. Mỗi tội đỉa ở các đầm nước vùngTây nguyên có quá nhiều, toàn đỉa trâu to sụ, cỡ ngón chân cái, da xanh đen ram ráp, cắn phát nào nhớ đời phát đó. Dính độ hai chục con nó cắn thì chắc chắn phải cấp cứu đi viện vì mất máu.

Còn cái vụ quả và hạt mã tiền ở Tây nguyên cũng có nhiều chuyện hay. Hạt mã tiền vừa độc vừa làm thuốc rất tốt (đúng liều lượng). Chắc các bác cũng đã có thử?

Nói như trên thì cũng hơi oan cho BTL B3, Thực sự thì thời điểm đó (1969-1972) tình cung cấp lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho B3 cực kỳ khó khăn. bob được nghe các anh trên BTL nói chuyện: Nguyồn từ Cam pu chia- từ sau vụ đảo chính của Lon non - xi ric ma tac thì bị "Tắc" luôn. nguồn từ miền bắc vào thì bị máy bay Mĩ tăng cường bắn phá ác liệt ngăn chặn. ( 40 xe từ miền bắc vào thì 39 chiếc bị cháy trên đường...đến b3 chỉ còn 1), còn tại chỗ thì dân cũng còn thiếu đói, Mặc dù bà con các dân tộc Tây nguyên đã dành hết khả năng của mình cho CM. tình hình thực tế lúc ấy là như vậy, nên chủ trương phát nương làm rẫy tự túc lương thực để tự nuôi sống mình là hoàn toàn chính xác. Bởi vậy hồi ấy ở B3 bộ đội ta ngoài nhiệm vụ chiến đấu còn phải sản xuất để tự nuôi sống mình. Tuy vậy sự chi viên của hậu phương miền bắc vào vẫn là nguồn sống chính và vô cùng quí báu. Tuy nhiên cái lo lắng nhất của các vị tư lệnh mặt trận là: trang bị vũ khí, kỹ thuật cho chiến đấu (súng đạn)...Nên trong báo cáo về trung ương chắc có ý nói "cần vũ khí hơn là lương thực..." bob tui cũng được nghe băng trong dịp bác Tố Hữu và bác Đinh Đức Thiện vào B3 năm 1973 nói chuyện. Có thể nói các cụ "chửi" không tiếc lời: -"Các anh báo cáo đảm bảo đủ lương thực nuôi bộ đội mà dọc đường thấy bộ đội mặc quần áo rách đi cõng đạn, thậm chí có ae mặc quần đùi rách ...Ăn thì toàn sắn với măng rừng...Sau chuyến này về xin trung ương chuyển gạo vào cho B3 các a ăn "chết no"...! 

CHUYỆN I
   Chúng tôi là lính trinh sát 325. Sau 5 ngày luồn sâu trong lòng địch ở ngay gần nhà thờ La Vang, Quảng Trị, gần sáng luồn về được cứ nằm ven sông Nhùng. Cứ này nằm trên phần đất do ta kiểm soát. Chúng tôi bò ra làm hồ sơ để chuyển về trên. Đến trưa công việc cũng xong. Không biết có ae nào đã trải nghiệm 5 ngày chỉ nói thầm hoặc làm ám hiệu mà không được nói thành tiếng ? Chúng tôi hoàn toàn mất tiếng nói. Thường thì sẽ hồi phục dần sau vài ngày. Anh là Ng T D, quê ở Bình Lục, Nam Hà (Hồi đó là 2 tỉnh Nam Định và Hà nam sáp nhập), nhập ngũ tháng 8 năm 70. Xong việc, hứng chí mấy ông giọng khạc khạc trong cổ như nagn đực ngồi tán chuyện dóc rồi thách đố nhau. Loanh quanh thế nào, anh nhận thách đố ăn hết 1 cân lương khô (loại 701). Một cân 4 phong, mỗi phong có 4 thanh. Anh em phải xót xa, từng người móc gùi của mình để có đủ 1 cân. Quả thật, đang đói khát, nửa cân đầu hết đánh vèo. Nửa cân sau càng ngày càng khó. Mà cái giống ăn lương khô là phải uống nước, không thì không trôi được. Đến thanh cuối cùng thì anh không ngồi được, cũng chẳng nằm được. Chỉ còn một tư thế giống như bà đẻ đang nằm chống tay trên bàn đẻ. Rồi cũng không thể chịu được. Cả chiều hôm đó, anh phải nằm ngâm mình dưới sông Nhùng. Chuyện không còn cười được nữa. Nếu bây giờ, chắc phải đưa đi viện cấp cứu rồi.
   Không quên được vì sau đó anh đã hy sinh trên đường tiến vào Sài Gòn, nơi gần cửa Xuân Lộc.

CHUYỆN II
   Đại đội hành quân di chuyển từ Quảng Trị đến Nam Đông, phía tây nam Huế. "Mưa trên xứ Huế" dai dẳng hết ngày này qua ngày khác. bầu trời lúc nào cũng u ám bàng bạc. mưa có lúc đổ xuống xầm xập có lúc à à, âm âm ngập cả không gian.Cây cối và mặt đất ngậm no nước, xũng xịu. Đường rừng từ Nam Đông về động Truồi là cánh rừng nguyên sinh sao chẳng thấy đẹp ở đâu nữa. Hình như rừng núi muốn vít lấy người, chẳng cho qua mà chỉ rình để quật ngã những người lính bất cứ lúc nào. Di chuyển cả đơn vị nên tất cả đều lên vai những người lính gầy gò. Nào thì ba lô, súng đạn đủ 2 cơ số, bao gạo như con trăn lớn trằn lên cổ. Các loại nồi xong lủng củng, xong 20 thì úp vào sau ba lô, nồi quân dụng lớn thì hai thằng khênh. các thực phẩm dự trữ thì chia nhau mà vác, . . .
   Trời vẫn mưa và mưa. Người hâm hấp như sốt, dâm dấp mồ hôi. Đường trơn nhầy nhụa như đổ mỡ, ngoằn nghoèo, khúc khuỷu như răng cải mả. Tôi đi sau Ngh., chàng này đã tốt nghiệp 10, có vẻ thư sinh. Dù sao tôi cũng khoẻ hơn hắn nên luôn đi sau để thúc đẩy hắn khỏi bị tụt lại.
   Đại đội cứ thế đi, ai nấy lầm lũi bước. Bước thấp bước cao, bước trồi, bước sụt, cứ bước. Chẳng ai còn buồn nói gì. Chỉ có tiến lanh canh xẻng, cuốc, nồi xong. Tiếng áo mưa xột xoạt, tiếng nước òng ọc trong giày. Mùi mồ hôi hắc nồng xông lên từ áo, quần, luẩn quẩn trong áo mưa, ngạt thở ! Tôi thấy từng bước chân của Ngh. cứ nặng dần, cứ rời rặc dần. Rõ ràng anh không còn làm chủ được chúng nữa. làm sao mà chúng vẫn cứ bước ? Không biết nữa.
   Bất chợt, rừng thủng ra một đám. Ánh trời bạc oà xuống trảng cỏ, xũng nước. Anh dừng lại, có vẻ như anh muốn quỵ xuống. Tôi đi lên ngang anh và đẩy nhẹ vào ba lô. Tiếng anh bật ra rất khẽ lẫn trong tiếng thở gấp, phì phò:
   -  Tao muốn, muốn, ...
   -  Gì ?
   -  Tao chỉ muốn ngã xuống, tao muốn chết, . . . tao muốn chúng mày lấp đất lên, . . .  là tao sướng !
   -  . . .
Tôi lấy đỡ khẩu khẩu súng cho anh và đẩy anh đi. Văng vẳng trong tai:
   " ... chúng mày lấp đất lên, . . . là tao sướng !

CHUYỆN III:  CÁI CÂY
   Vẫn tiếp tục hành quân đến động Truồi. Đó là những ngày tết âm lịch năm 1975. Sư đoàn có nhiệm vụ đánh xuống Phú Lộc, chia cắt Huế với Đà Nẵng.
   Trời vẫn "mưa cứ rơi dầm dề" suốt ngày này sang ngày kia. Đi phía trước Ngh. vài đứa là Lê Văn Đ., quê phủ Khoái, nổi tiếng thịt chuột. Đ. rất khoẻ. Tôi vật tay với hắn chỉ trụ được vài giây. Tay này tính nóng nảy như hổ lửa, ăn to, nói lớn, đích thị "trai nông chi điền". "Cái cây" là chuyện của hắn.
   Chả là ở tiểu đội anh nuôi có một lão Chí già (vì lão hơn lứa bọn tôi 3, 4 tuổi gì đó), quê Diễn Châu. Lúc ở nhà chuyên rèn liềm, dao cho bà con trong vùng. Lão rất chịu khó, rèn cho mỗi người trong đại đội trinh sát chúng tôi một cây dao găm (bây giờ gọi là hàng thửa hay hàng độc). Dao găm rất nhỏ và rất sắc, có thể cạo được lông chân. . .
   Trời vẫn mưa, đường trơn kinh khủng, lại còn vướng gốc cây với dây rừng lằng nhằng. Bỗng một tiếng rầm, xoạch xoạch . . . Thì ra Lê Văn Đ. bị ngã một cú "Trời giáng", chắc là hắn rất đau. Đoàn người xững lại, Những cái đầu ngoái lại, những người sau dồn lên nhiều con mắt đổ dồn về hắn. Dường như chẳng có ai định phản ứng gì. Một giọng cất lên rất to:
-   Tháo đạn đứng dậy !
Mọi người cười ồ lên.
Hắn lồm cồm bò dậy, rút phắt ngay con dao găm. Cơn điên đồn hết lên đầu hắn khiến hắn đỏ mặt tía tai. Ai nấy kinh hãi dạt hết. Tôi tưởng hắn sẽ phải đâm một ai đó. Nhưng hắn phăm phăm chạy lại cái cây láo, dám đưa rễ ra ngáng chân hắn. Mắm môi, mắm lợi, hắn bổ con dao xuống cái rễ cây, liên tục, liên tục, mỗi nhát văng ra:
-   Đ. mẹ cái cây !
-   Đ. mẹ cái cây !
-   . . . .
   Tới bây giờ khi nhớ bạn, nói thật, tôi vẫn nghe thấy tiếng đâu đó: Cái cây ! Cái cây ! . .

Em góp vui.thêm chuyện thách-đố vui của lính,do ông già kể lại hồi chống Pháp,việc xẫy ra hình như trước trận đánh lớn o Bắc ninh thì phải,sau đó ông cụ bị thương va bị bắt.do lâu rồi lên khống nhớ được chính xác thời gian xảy ra:đóng quân trong nhà dân,trong lúc rỗi rãi,hết chuyện nọ xọ chuyện kia,lạii thấy nhà chủ có 1 đàn gà,trong đó có 1 con gà sống tầm 3kglính mới quay ra thách nhau ăn hết 1 con gà đó,muốn chế biến kiêu gì cũng được chỉ có 1 yêu cầu nho nhỏ: không được có 1 tý mắm,muối nào cả.Ai thắng tất nhiên được ăn trọn con gà và 1 bao thuốc lá của Pháp thơi đó.Nếu thua hình phạt sẽ gấp đôi,Cuộc thi bắt đầu,có cán bộ đứng ra làm trọng tài : tình hình lúc đầu diển ra thuận lợi,ông kia ăn hết 1/2 con gà luộc sau đó tốc độ châm dần,vì không có muối chấm,lên ngán+mứ nhưng mặt vẫn bình thản coi như không ;khi được 2/3 con gà thì bên thách đố Giành lại 1/3 còn lai chia nhau ăn,Vì họ nghĩ Mình thua là cái chắc rồi,vớt vát được cái gì hay cái nấy,Còn ông " vân đông viên" ăn gà thì sau này thú nhận: phúc tổ 70 đời nhà em,chúng nó lúc đó không Giành lai gà,chắc em chết mất,lúc đầu nghĩ đơn giản.lâu ngày không ăn uông thiếu thốn,giờ chỉ phai ăn 1 con,chứ 2 con cũng xơi tái được,vì không nghĩ ra là bị cấm dùng muối & nước mắm .ăn mấy miếng đầu không sao,cố được 1/2 con thì không thể ăn được vì nhạt & ngán.sau đó vừa nhâm nhi vừa nghĩ kế chuồn,may sao mấy ông kia non gan,lên thoát chết trong gang tấc.Bản thân em những năm hồi 198x mới sang Liên xô,ở nhà đi thiếu thốn thế nào,chắc mọi người đều biết.Lúc sang em là trưởng phòng,phụ trách ăn uống.đến bữa cứ 1con gà+ 1chai sữa tươi+ 1chai nước ngọt=napitok/1 người sau mấy tháng học tiếng em lên được 9kg,đứng thứ 2 toàn đoàn vì "tăng trọng" thua ông thứ 1 lên có 12.5kg.Sau đó cứ nhìn thấy gà lại rùng mình vì sợ.Gần đây mới ăn lại được.Phàm những cái gì Quá,đều không hay các bác nhỉ

CHUYỆN IV:  CÁI WC
   Đúng WC là nhà vệ sinh, nghe có vẻ chuyện rất mất vệ sinh.
   Tôi được rút về cứ từ đài quan sát ở Nhan Biều, nơi ngày đêm pháo bom, nơi mà không có nước. Muốn có nước sạch thì ban đêm mò xuống sông, thế thì quá sang rồi. Để tiện thì lấy nước hố bom, chỗ nào chẳng có. Có lần thằng Hoàng múc gần đáy hố bom, nhìn thấy có anh em nằm đó không biết từ bao giờ. Thôi được rồi, chuyện ở Nhan Biều hãy để lại sau.
   Cứ của đại đội ở phía sau, chân dãy Cao Hy, ngay gần cao điểm 108, một điểm đặt đài quan sát của chúng tôi. Sao cứ vắng vẻ thế, chỉ có vài đứa mới đi các chốt về nghỉ ngơi dăm ba ngày. Tôi đang lò mò tìm một căn hầm thì M. nhìn thấy reo lên rất to. Rồi chúng tôi hai thằng ở chung một hầm. Hầm ở đây phải nói là rất kiên cố, pháo thường chẳng nhằm nhò gì trừ khi là pháo khoan hay bom rơi trúng nóc.
   Hầm của chúng tôi chỉ cách một con suối nhỏ cỡ vài chục mét. Không biết là suối gì, nước chảy chậm, tuy không trong lắm nhưng tuyệt vời. M. là người Hà Nội, hiền lành, ít nói nhưng rất hòa đồng với mọi người. Hắn không biết bơi, chỉ biết đánh đàn và viêt nhật ký. Người tỉnh thành, kẻ quê mùa nhưng chúng tôi rất thân nhau. Ở cứ mấy hôm tôi đã dạy hắn biết bơi ở con suối nhỏ đó. Có lần tôi đã đọc trôm nhật ký của hắn mới thấy hắn hồn nhiên, phơi phới, rất lãng mạn và sôi nổi. Ở nhật ký tôi mới thấy cái chất Hà Nội tế nhị và lịch sự của hắn, không ào ào như tôi. Sự tế nhị và lịch sự bỗng nhiên bộc phát ra ngoài. Nghe như thế có vẻ lạ nhỉ ? Đó là câu chuyên "Cái WC".
   Hôm đó trời u ám, không có tiếng OV10, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng "thần sấm" hay "con ma" ầm ào rít qua đầu. Ấy là sắp có B52 đánh gần đây. Chúng tôi đang ngồi trong hầm thì nó vò giấy rồi chạy ra ngoài. Chắc mọi người nghĩ, ở nơi ác liệt ấy thì chỉ có "hố mèo". Không phải vậy. Chúng tôi làm nhà vệ sinh rất lớn và rất vệ sinh, rất kín đáo. Được một lát thì bỗng tôi nghe lục bục trên đầu, căn hầm bỗng chao đảo dưới loạt bom. Tôi hét lên gọi hắn:
-   M. ơi, M., chạy vào đi !
     Không có tiếng trả lời.
Hết loạt đầu, rồi sang loạt thứ hai.
-   M. ơi, vào đi !
    Vẫn không có tiếng trả lời.
Hết loạt thứ ba, tôi nhào ra khỏi hầm, lao về phía cái WC. Trong đầu dội lên một tiếng nghẹn: mày chết rồi hả M. ơi ?!
  Ra đến nơi thấy hắn vẫn đang đứng, thản nhiên phủi đất cát ở trên người . . .
-   Mày có bị thương ở đâu không ?
-   Không.
   Thật là không còn biết nói gì nữa. Từ nghẹn ngào chuyển sang tức giận, tôi gào lên:
-   Ông qua đáng thế ! hết một loạt chạy vào vẫn kịp, sao ông cứ đực ra đấy? Ông bị điên à ? . . .
   Cơn giận của tôi vẫn không nguôi suốt chiều hôm đó. Tối đến chúng tôi châm ngọn đèn làm từ lọ thuốc BComplex (thuốc này chỉ có sỹ quan được phát), ống tiêm thủng hai đầu nhồi bông, xăng thì xin của lái xe chạy trên đường. Hắn lại ngồi viêt nhật ký. Trông mà ghét quá.
   Rồi cũng không nhịn được, tôi lại làm cho hắn một trận nữa. Hắn vẫn không nói gì.
   Lúc tắt đèn đi ngủ, tôi hỏi:
-  Sao hết loạt đầu ông không chạy vào ?
   Im lặng một chút, rồi hắn từ từ nói:
-  Tôi có khả năng chạy vào được, nhưng tôi không thể. Tôi không thấy sợ, cũng không điên. Tôi chỉ nghĩ, mình mà chạy vào, sau này chúng nó sẽ gọi tôi thành biệt hiệu.
-  Biệt hiệu gì ?
-  . . . .
-  Quái gì ?
-  Là  . . . "thằng không kịp chùi"

CHUYỆN V: MỘT CHUYẾN LUỒN SÂU " XÈ XÈ . . ."
   Chúng tôi chuẩn bị luồn sâu xuống đường 1, phía sau lưng địch. Bàn đạp của tụi tôi ở bờ sông Nhùng (trong bản đồ ghi là "Nhùng Giang"), ngay dưới chân cứ điểm 367 của địch, phía trên động Ông Do đỏ trọc (có người bảo là Ông Đô). Gọi là sông Nhùng nhưng đoạn đầu nguồn này khá nhỏ, nằm trong rừng đại ngàn, um tùm cây cối. Vì khu vực này nằm khá xa đường vận tải, địa hình lại rất hiểm trở, không thể vận tải hay chuyển quân được nên hình như không bị bom và chất rụng lá tàn phá. Bàn đạp này là cứ của một xã thuộc huyện Hải Lăng nhường lại cho trinh sát chúng tôi vì họ đã xây dựng cứ mới khang trang hơn.
   Đó là giữa năm 74. Ngừng bắn đã lâu rồi. Trên chiến trường Quảng Trị không còn đụng độ cũng đã lâu rồi. Giai đoạn này, chúng tôi liên tục luồn sâu xuống đồng bằng. chúng tôi đoán ý đồ chuẩn bị chiến dịch của sư đoàn có thể đưa mội mũi chủ công đánh vào sau lưng địch (chỉ là đoán thôi).
   Cũng không phải chuẩn bị gì nhiều, mỗi người một gùi tự tạo làm từ nylon lấy từ vỏ tải gạo Trung Quốc, rất dày. Chỉ 2 bộ quần áo, bản đồ, ống nhòm, địa bàn, giấy và bút chì HB và 2B. Lương thực chỉ có vài cân gạo, 1 cân lương khô và ruốc mặn. Xanh tuya rông chỉ đeo một băng đạn, hai quả lựu đạn mỏ vịt, loại bé như quả ổi và bi đông nước. AK báng gấp 1 băng đầy đeo trên vai. đạn và lựu đạn phải dùng đến là bất đắc dĩ rồi vì trinh sát thắng lợi là không được lộ. Vậy là xong. Ấy, còn một thứ bất li thân mà tôi học từ M. đó là nhật ký. Nhưng tôi không mang theo cuốn nhật ký đâu vì sợ nhỡ có chuyện gì thì bị bật mí, chỉ là vài tờ 5 hào 2 gấp đôi. Tôi cũng chỉ định gạch đầu dòng các sự kiện để lúc về sẽ viết, khỏi quên.
   5 giờ chiều, chúng tôi xuất phát. Lần này chỉ có anh P. và tôi. Chúng tôi đi trên bờ vách của sông Nhùng, xuôi xuống. Chừng 10 phút sau chúng tôi đã đến cứ của huyện Hải Lăng. Ở đây có các cơ quan của huyện, cả cơ quan chính quyền, cả huyện ủy và huyện đội. Cứ của các xã cũng ở ngay xung quanh. Đất của Hải Lăng hầu như hoàn toàn thuộc địch kiểm soát. Cơ quan huyện và các xã chỉ còn có rẻo rừng già này làm căn cứ, sát với huyện Đackrông. Sẽ có một du kích xã Hải Lâm dẫn chúng tôi đi. Đó là một cậu trai 17 tuổi, cao, gày và nhanh nhẹn. Cùng đi với cậu là một huyện uỷ viên đi cơ sở dưới đồng bằng. Cùng đi với chúng tôi còn có 3 du kích ở các xã khác đi xuống cơ sở. Chúng tôi trao đổi đường đi trên bản đồ. Những người thạo đường thì không thạo bản đồ, tôi thạo bản đồ thì lại chả biết đâu vào với đâu. Tuy nhiên, sau 5 phút thì mọi việc cũng tạm ổn.
   Lên đường. Chúng tôi lại đi dọc theo ven sông, hướng nước chảy. Chừng 10 phút sau thì đến chỗ giáp ranh (giữa ta và địch). Mọi người tạm nghỉ chờ trời tối. Chúng tôi trao đổi ám hiệu để nhận nhau. Người đi trước chỉ tróc lưỡi 2 tiếng, người đi sau cũng đáp lại 2 tiếng - nghĩa là ổn. Nếu cần yêu cầu phía trên đi chậm lại thì tróc 3 tiếng. Tiếng khạc hơi trong cổ là báo động, yêu cầu mọi người dừng lại, giữ yên tĩnh. Từ lúc này, chúng tôi phải nhịn nói. Tiếng tróc lưỡi và khạc hơi trong cổ nghe như tiếng của các con vật nào đó phát ra trong đêm.
   Trong khi chờ trời tối, tôi chẳng nghĩ gì nhiều, chỉ quan sát xung quanh. Tiếng nước sông vẫn chảy rì rào dưới kia. Ngước lên cao, phía bên trái, nhìn qua cây lá có thể thấy những tia nắng cuối cùng vẫn còn hắt lên điểm cao 367. Và, gần hơn, thấp hơn là những điểm cao khác của địch đã tắt nắng và trở nên xẫm màu. Tôi mở bản đồ, đánh dấu các điểm cao có địch và ghi vào hồ sơ. Trong đoàn đi, vài người cũng đứng xem. Thực ra có mỗi tấm bản đồ tôi mang theo. vả lại, mọi người cũng không thạo dùng bản đồ cho lắm. Anh P. là cán bộ đại đội, làm công tác chính trị. Chắc hồi học trường sỹ quan chính trị, anh cũng phải học nhưng có vẻ anh cũng không thạo. Anh đi cùng chúng tôi theo kiểu đi thực địa cho biết. Nhưng có lẽ anh muốn gần gũi với lính tráng, và sau khi đi một lần , anh sẽ dễ làm công tác của mình hơn.
   Chúng tôi dấu dép đúc vào các bụi cây và đi giày dép, ngụy. Thực ra đó là những đôi giầy của lính ngụy. Dân luồn sâu anh nào chả thửa một đôi. Có người đục thêm nhiều lỗ ở xung quanh, có người cắt ngang cả một đoạn mõm giày để thoát nước nhanh. Có nước trong giày sẽ phát ra tiếng kêu òng ọc. Tôi cắt hết phần giày, chỉ để lại đế, xâu lỗ rồi luồn quai cao su đúc của ta vào - gọi là dép rồi, vừa nhẹ, vừa mát, vừa không òng ọc.

 Đi thôi !
   Anh P. và tôi được ưu tiên đi giữa đoàn, vừa có người dẫn đường phía trước vừa có người cản hậu phía sau, khỏi lạc. Khi đi trinh sát bao giờ tôi cũng đi đầu để "cắt phươg vị", lần này được đi giữa thấy là lạ, hay hay. Ở đây du kích về cơ sở như cơm bữa nên thuộc đường như lòng bàn tay.
   Trời sập tối rất nhanh. Rừng mà. Nửa tiếng sau, tôi hoàn toàn không còn nhìn thấy gì. Ừ, thì rừng thật nhưng sao tối thế không biết. Lâu rồi chỉ dùng lịch dương, không biết hôm nay là bao nhiêu âm lịch? tôi tính nhẩm mãi không ra, chỉ biết hoặc là đầu tháng hoặc là cuối tháng. Đúng là tối như hũ nút. À, quên, mỗi chúng tôi đều có gậy đi đường, nếu không thì bây giờ chẳng thể đi được. Tôi hoàn toàn dựa vào tiếng xột xoạt cây lá của người đi trước để nhắm hướng và dựa vào gậy để dò đường dưới chân, lổm ngổm những đá và rễ cây. Khó chịu nhất là thỉnh thoảng cành cây và dây rừng vắt ngang qua mặt, lúc thì chẹn ngang cổ. Đang đi nhanh, bật ngửa lại. Rồi cũng nghĩ ra một cách hợp lý. Tôi đưa tay bên đeo súng lên phía trước, ngang đầu làm "xúc tu dò đường" và để hất cành cây và dây rừng trượt qua mũ tai bèo.
   Chúng tôi cứ thế đi. Lúc đầu anh P. và tôi không theo kịp người đi trước. Thỉnh thoảng cứ phải tróc lưỡi 3 tiếng, yêu cầu đi chậm lại. Chẳng có nhẽ thế ! Bọn trinh sát chúng tôi đi đêm có chịu ai bao giờ. Ừ, nhưng với điều kiện mắt phải còn có tác dụng. Đằng này, có căng hết mắt ra thì cũng như nhắm thôi. Thật là một cảm giác bức bối khó chịu, mới thấu hiểu tâm trạng bất lực của những người khiếm thị. Tôi ước gì có đom đóm mà bắt vài chú, dán vào mũ tai bèo làm đèn pha và dán vào gùi làm đèn hậu dẫn đường cho người đi sau.
   Bỗng anh P. dừng lại và nói thầm với tôi: "Lội sông nhé !". Chúng tôi tụt từ vách sông xuống. Xuống nước rồi, bây giờ mắt đã có tác dụng. Đêm nay không trăng đã đành, mà sao cũng chẳng thấy một ngôi. Sao vậy ? rõ ràng chiều nay rất nắng. À, mình ngốc thật. Hẳn là ban đêm mây núi đã phủ kín trên đầu chúng tôi rồi. Đang nóng nhột nhạt khắp người được lội xuống nước thật không có gì sướng bằng. Tôi cúi xuống vỗ nước lên mặt và nhúng cả hai tay xuống nước, ướt đến tận nách. Lủm một cái, xuýt nữa thì tuột mất súng.
   Chúng tôi lội đi, mát mẻ, khoan khoái. Đã có thể nhìn thấy lờ mờ người đi trước.
(Hôm nay nhớ lại chuyện này, sau khi biết bác PHONGQUảNG khênh cả cối đá xuống đồng bằng để giã giò, thấy nể quá !).
   Đoàn người cứ thế mải miết đi, lúc đi trong rừng, lúc lội sông. Rừng ngày càng dãn ra. Bóng đêm không còn đặc quánh nữa mà mỗi lúc một loãng hơn. Có đoạn, chúng tôi rời con sông để vòng tránh chốt của địch. Tiếc là mình không xác định được vị trí để điền vào sơ đồ. Chúng tôi đang đi trên đồi tranh, ở đây không có rừng, mát hẳn. Gió đêm nhè nhẹ thổi quấn quýt lấy người.
   Qua đỉnh đồi. Giải lao. Đã gần 12 giờ, vậy là đã đi được hơn 5 tiếng. Đường loằng ngoằng như vậy, chắc mỗi giờ chỉ đi được dưới 3 cây số. Vị chi là 15 cây. Tính ra đường chim bay chắc mới hơn chục cây. Mai mình sẽ xem bản đồ, một vị trí địch ở một cao điểm sát bờ sông bên trái, gần đồi trống không có rừng, cách cứ chừng 10 cây số theo đường chim bay ?!
   Dưới đây là bản đồ đường đi từ cứ xuống thôn Phú Long. Điểm dừng cuối cùng của chuyến luồn sâu này.

Đã lâu lắm rồi mới được bác TTNL nhắc đến "miền Đông gian lao mà anh dũng ". Đúng vậy ! Tôi đã cảm nhận được cái gian lao của miền đất đỏ này.
    Ngày xưa khi bé vốn là dân thành phố chỉ mong ước được về quê để ngắm nhìn cánh đồng lúa phì
nhiêu và được chăn trâu cắt cỏ là sướng lắm rồi , thì hôm nay ,binh trạm cuối cùng của đường 559 , làng 8 Lộc Ninh , trong tầm mắt là một rừng cao su ngút ngàn , thẳng tắp , xa xa lác đác mấy người  hì hũi cạo mủ , những câu thơ thuở nào dưới mái trường đã hiển hiện "cây cao su quý hơn người..."chợt thoáng trong đầu rồi tan biến . Thường thì sau mỗi cuộc hành quân ai cũng thấm mệt , chẳng ai bảo ai lặng lẽ mắc võng , dường như đất cũng có tình của đất không biết từ bao giờ mà trên bộ quần áo lính đã vương vấn bụi đỏ miền Đông , nhưng chẳng sao cứ để đất và người hòa quện với nhau thắm thiết . Thở phào nhẹ nhõm , nằm võng ngả lưng cái đã , những tán lá xum xuê của cây cao su che lấp cái nắng nghiệt ngã , thỉnh thoảng một vài tia nắng yếu ớt lọt qua kẽ lá xuyên xuống đong đưa cùng nhịp võng . Trong tiếng "nhạc rừng " có tiếng chim hót véo von , tiếng lao xao của lá ru tôi một giấc ngủ yên lành . Đang chìm đắm trong mộng mỵ bỗng nghe tiếng ai gọi , to lắm , hình như tiếng của thằng liên lạc đại đội : mỗi A cử 2 người đi lấy " gạo ", tôi và một thằng nữa được cử đi vội vã lột hết quân tư trang quẳng vào võng quấn bồng không đi theo lệnh , khoảng chừng 20' đã đến kho " gạo " nhìn mấy thằng trước giật mình hỏi thằng coi kho : chúng tôi lấy gạo cơ mà ? sao lại thế này ! chắc câu trả lời của nó cũng nhiều  nên quen nó mỉm cười :gạo đây chứ đâu nữa ! tay mở mảnh bạt ra , không tin vào mắt mình nữa...một kho đậu phộng , thôi thế là biết rồi khẩn trương xúc cho đầy bồng rồi về cho nhanh. Thế rồi sao nữa không nói thì mọi người cũng hiểu , sáng lạc rang , trưa lạc luộc trút nốt ít gạo trong bao tượng để bữa chiều ... cơm độn lạc . Mới chớm vào chiến trường chúng tôi đã bị cái đói phủ đầu nó khủng bố cả thể chất và tinh thần suy sụp đến tột cùng . Trộm nghĩ , nếu cứ đói thế này thì sức đâu mà anh dũng nhỉ ?.
   Ngay buổi tối hôm ấy chúng tôi mỗi đứa tản mỗi nơi qua các lô cao su khác , phía xa thấy có đốm lửa nhỏ đoán là có ai hút thuốc lá mò đến ,đây là trạm dừng chân của TB chờ ra Bắc , vào trong lán thấy một anh tầm tuổi gần 40 , thân hình gầy gò , mắt trắng dã , môi thâm xì vì trải qua nhiêu trận sốt rét , nhanh mồm tôi hỏi :chào anh ! thế anh vào đây lâu chưa ? Anh mỉm cười chua chát trả lời : à thì mới vào thôi mà ! năm 70 ! bị thương đang chờ ra Bắc đây , biết bọn tôi lính HN anh thả tiếp :chúng mày vào trả thù 12 ngày đêm hả ? vào nhanh lên ! không còn ống bơ gỉ mà nhặt đâu! .Vui câu chuyện nửa đêm mới tạm biệt các anh trên đường về trong lòng nặng trĩu .
   Một ngày hành quân về đơn vị chiến đấu hôm sau chúng tôi đụng Vàm Cỏ , cứ mỗi ngày đường thì cảnh vật lại hiện ra khác lạ . Hôm nay chúng tôi gặp sông mới có cơ hội tẩy hết " bụi trần ", nghỉ ngơi , cắt tóc , cạo râu sáng sủa rồi cùng nhau tung tăng bơi lội trong dòng nước xanh biếc , thỉnh thoảng lãng đãng mấy cụm lục bình trôi qua , thanh bình , yên ả.
   Chắc sông cũng biết những người lính HN chúng tôi "ở tận sông Hồng "đã vào chung sức đánh giặc nên mở lòng tiếp đón , không hung dữ như những khi dìm tầu địch tàn phá làng quê .Ven sông thỉnh thoảng có một vài người dân nghề sông nước thấy bộ đội đến mang tôm cá ra mời chào , cả ngày hôm ấy đ/v được một bữa...ăn vã cá no nê . Đời người lính "đâu có giặc là ta cứ đi "cũng phải tạm biệt sông hẹn ngày gặp lại , chúng tôi hành quân về đ/v mới .

Cậu du kích dẫn tôi đi lấy cây để trải đệm. Chúng tôi luồn trong rừng giang chừng 15 phút thì tới một vạt tinh những lau sậy. Mỗi người cắt một ôm, kéo về. Đệm được trải tinh tươm. Đúng là "buồn ngủ gặp chiếu . . . lau", ba chúng tôi đặt lưng là kéo liền. Yên tâm đi, đã có anh Chánh gác rồi.
   Đến trưa, chúng tôi tỉnh dậy. Cậu du kích chạy đâu đó vào trong bụi cây lấy ra hai cái xoong, lại còn cả bát đũa nữa mới sang chứ. Tôi ra suối lấy nước còn cậu đi kiếm củi. Gọi là suối cho oai, thực ra là một cái rãnh nhỏ có nước chảy ri rỉ, ngoắt ngoéo trong rừng giang. Tôi lấy nước ở một cái hố được bới sâu xuống đất. Nước rất trong và mát. Mang nước về, vừa lấy gạo ra, đã thấy cậu trai mang củi về, toàn là giang khô. Lửa cháy rất đượm, chẳng cần bếp Hoàng Cầm cũng không hề có sợi khói nào.
   Tôi ra rãnh nước rửa mặt. Vốn là đến đâu tôi cũng phải đảo một vòng quanh xem thế nào. Tôi đảo vòng một lượt rồi lần theo rãnh nước, ngược lên một đoạn. Lúc đi xuôi rãnh được có vài mét, bất chợt nhìn thấy mảnh áo mưa màu xám của lính ta lòi ra ngay chỗ nước chảy. Tôi kéo mảnh nylon ra một chút đã nhìn thấy xương sọ người, rất trắng, rất sạch chứ không như tôi thấy ở những lần đi bốc mộ. Anh là ai vậy, du kích hay bộ đội ? thì ra động này đã có lâu rồi. Chắc anh em xuống ấp, bị thương, được đưa về đây nhưng không đưa được về phía sau và đã mất ở đây. Tôi bùi ngùi vét đất ở xung quanh để đắp kín lại, rồi lại vét đất cho rãnh nước chảy vòng qua, không xói vào chỗ anh nằm. Đất mỏng quá, lại bị nước xói vào. Lại còn nắng nữa chứ, rồi mưa . . . . Sao lại thế ! Tội quá !
   Cậu du kích đang nấu canh măng giang tươi với ruốc mặn. Đói quá, thèm rỏ rãi.
-  Tối ni em về nhà lấy bột ngọt, đậu phộng.
   Tên cậu du kích là Vượt (có lẽ thế). Hoá ra không phải du kích Hải Lâm mà là Hải Phú. Những ngày ấy đi phối thuộc với du kích hay đơn vị bạn đều thế cả. Chưa kịp hỏi gì về nhau đã chiến rồi. Nhiều khi chia tay vẫn chưa biết tên. Ba cậu cũng là bộ đội miền, mẹ và em vẫn ở trong ấp. Bọn địch đã gom dân về các ấp. Làng quê, xóm mạc đâu còn, giờ đây chỉ là những nền đất trơ trọi. Có xót lại vài cây ăn trái, hay hàng rào cây thì cũng xơ xác hết cả.
   Chúng tôi thay nhau ra tắm ở rãnh nước. Mát quá ! Tôi còn cạo cả râu nữa, cũng chỉ lún phún chứ có bao nhiêu. Móc ngón tay út vào lưỡi dao lam, vài đường là xong.
   Tôi trải bản đồ, trao đổi với anh P và Vượt. Chúng tôi chọn một vị trí cao, có thể quan sát được rộng và ẩn nấp kín đáo. Vượt nhìn bản đồ, mày hơi nhíu lại, có vẻ như cậu đang hình dung ra thực địa để chọn chỗ cho thích hợp. Đây là "nhà" của cậu mà, chỗ nào chẳng biết.
-  Được eng à !
Dưới đây là vị trí một động của du kích Hải Phú, nền nhà của Vượt và điểm quan sát mà chúng tôi sử dụng trong ngày hôm sau

Xin góp một Kỷ niệm đẹp .
Ngày x..ngày xưa , ( hình như cuối mùa khô 72 ) toán trinh sát pháo binh D42 gồm 5 người chúng tôi đi luồn sâu ,tham gia đánh Long Chẹng
Xiêng Khoảng .Tôi còn nhớ rõ buổi chiều ấy ...Rừng già ẩm ướt , vào khoảng trời vừa tắt nắng , Trên nền rì rào của tiếng rừng là tiếng máy bay chỉ điểm eo óc , thỉnh thoảng chen tiếng ụt ụt của đạn 20 ly từ xa , tiếng bom  ùng uỳnh  vọng lại ...Con đường mòn dưới tán cây rừng rầm rập lính ta đi vào ( bây giờ hình dung lại mới thấy đẹp quá ! ) Rất nhiều người đi chân đất,ba lô vuông , dáng thiện chiến lắm . (Thỉnh thoảng cũng có toán đi ngược lại  :hối hả là những cáng thương binh , còn lại là cáng tư sĩ ,tăng bó kín gọn gàng theo dáng người ,,,)
Chọn chỗ phăng phẳng một tí , chúng tôi dừng cho bữa chiều và cũng là bữa gạo cuối cùng dành dụm của một chuyến đi dài .Nấu cơm ,không đáng nói nhiều : Dùng dao găm chẻ lõi của một cây to thật khô - phải chẻ nhỏ như đóm ấy , ba hòn đá xanh cụ kê lên , dùng một mảnh ni lông dày ( trữ sẵn ) làm vung nồi ...Trời ơi ! cơm ở chiến trường kiểu gì cũng ngon quá ! Bữa ấy của chúng tôi cũng vậy , chưa ăn đã thấy miệng ứa nước ...cái dạ dày lép như cố chen lên cổ để đón...Họ đi tấp nập qua , cũng mời một câu cho phải phép lấy lệ :" Cơm các đồng chí nhá  a ..á ! " Chẳng ai ngờ : quá chúng tôi khoảng 30 m một cậu dáng trẻ trung nhanh nhẹn tách ra "ấy ấy, đợi em một tí nhé  e.. é ", rồi hạ ba lô xuống  , Rồi bẻ hai nhánh cây rừng thay đũa , rồi  cậu tân binh  ( ấy là tôi đoán thế ) ăn với chúng tôi vui vẻ ,tự nhiên như cùng một tiểu đội vậy ...  ...
Hôm 10/4/10 vừa rồi ,tôi về Thường Tín được găp lai dăm đồng đội cũ nhân kỷ niệm  ngày nhập ngũ 10/4/68 của họ .Bữa trưa cơm gà cá gỡ nào bia nào rươu...tại nhà anh Thụy ,với đông con cháu  của gia đình anh Thụy vây quanh ,Vui quá ! Có 2 người nữa có mặt trong bữa cơm chiều tôi vừa kể trên...Râm ran hàn huyên  và kỷ niệm ấy cũng được nhắc tới ." Hôm ấy nó làm mình choáng !" , " Nó tự nhiên như ruồi ấy nhỉ !?" , "Đâm ra mình bị đói " , " không biết bây giờ nó ở đâu nhỉ !? "  ," Có khi nó tèo rồi cũng nên "  , "Đúng là gặp ngay một ô.thớt trưởng "...Rồi chúng tôi cười ha hả ...
  Mấy con người ấy- chúng tôi : bây giờ  mỗi người mỗi hoàn cảnh , mỗi mức sống , mỗi tính cách ... Cũng khác nhau nhiều , Nhưng chúng tôi gật gù và đều phải công nhận một sư thật với nhau rằng :Chưa từng một lần chúng tôi nghĩ xấu về cậu lính trẻ đó - kể từ bữa cơm chiều  dọc đường chiến dịch ấy đến bây giờ và chắc chắn sẽ  nhiều năm sau nữa !...

Chuyện giống như của bác thì chúng tôi gặp rồi , anh em mình cả họ đói và thiếu chất khi ở trong rừng lâu ngày nên cứ đâu có thể ăn được là cứ tự nhiên hơn ruồi , anh em lính cả chia sẻ với nhau chút ăn uống ai lại nghĩ xấu về nhau .
 Lần đó chúng tôi gặp một đơn vị công an vũ trang từ giáp biên giới Thái lan rút ra , anh em ai cũng da xanh như tàu lá chuối non , thấy chúng tôi đang ngồi ăn cơm theo từng B của mình , cơm thì chẳng có gì ngoài cá khô kho với đầu đuôi cá nấu canh chua lá rừng họ hành quân qua liền hỏi :
- Các bác ăn cỗ đấy à ?
- Không , cơm thường hàng ngày thôi có gì đâu ?
- Bọn em 6 tháng nay chỉ có cháo với muối chẳng có gì cả , các anh sướng thật .
- Thế thì ngồi xuống ăn cùng chúng tôi đi .
 Họ tự nhiên như người nhà ngồi xuống móc ba lô lấy bát đũa rồi ngồi ăn , các B khác cũng mời số anh em CAVT khác cùng ăn , thấy họ ăn nhiệt tình quá chúng tôi lặng lẽ nhường bằng lý do đã ăn no rồi . Ăn xong anh em CAVT đó ngồi lại uống nước một lúc nữa rồi chào tạm biệt chúng tôi khoác ba lô hành quân ra tuyến ngoài .
 Chúng tôi thấy thương họ , họ phải chịu nhiều khổ cực gấp nhiều lần chúng tôi lúc đó , nhìn người thì biết gày đến mức không thể gày hơn được nữa , da dẻ xanh mét ai cũng có cái ba tong làm gậy chống mà đi , đường thì trèo đèo lội suối , chẳng ai coi thường hay kinh khi họ cả , họ đã làm được cái việc gấp chúng tôi cả trăm lần , người lính chúng ta là như vậy , khó khăn cùng gánh vác ngọt bùi cùng sẻ chia và đó cũng là chuyện thường của lính thôi

CHUYỆN VI:   ĐẶC SẢN NHƯ LỆ

   Chỉ còn dăm ngày nữa là đến ngày ngừng bắn (28/1/1973). Sắp đỡ rồi !
   Tôi đi cùng anh A. từ cứ của đại đội ở chân dẫy Cao Hy. Chúng tôi đi từ rất sớm. Anh A. là chính trị viên phó đại đội. Nghe nói anh giỏi võ lắm, dân Bình Định mà. Anh nhảy núi từ năm 14 tuổi (nhảy núi là từ chỉ người dân trong vùng địch trốn lên núi theo ta), đã hai lần được tặng danh hiệu “Dũng Sỹ”, đánh nhau gan tày trời. Lớn hơn lứa chúng tôi trên chục tuổi, thấp, đậm với nước da gọi là “Maroc kiều”, trông anh rõ là khắc khổ. Không mấy khi nét mặt anh giãn ra được trừ khi cười (may mà anh hay cười), đôi mày lúc nào cũng chau lại. Vậy mà hiền khô. Trong số các thủ trưởng đại đội, anh gần gũi lính tráng nhất. Lính tráng, đứa nào cũng thích trêu anh, bao giờ anh cũng chỉ cười hề hề. Gọi là “trình độ văn hóa có hạn”, làm chính trị viên hẳn là chẳng thoải mái với anh chút nào, nhất là khi phải nói “chuyện chính trị” cho anh em trong đơn vị. Với anh, thà rằng có địch lại dễ, chỉ việc “uýnh” thôi.
   Trên đường đi xuống Như lệ, chúng tôi sẽ rẽ qua cao điểm 108, nơi có đài quan sát của C20 (trung đoàn và sư đoàn đều có một đại đội trinh sát và đều được gọi là C20). Anh A. bảo:
-    Hái rau đi, trên 108 chúng nó làm bún rồi.
   Ngay gần cứ, chẳng có dấu tích gì của làng xóm nào mà sao những rẻo đất thấp ven suối lại có những đám rau rõ là do người trồng hẳn hoi nhưng đã bỏ từ lâu. Thế mới lạ ! Những cây rau rền cằn cỗi, những khóm húng chanh xơ xác và mấy cây cà chua còi cọc. Rồi cũng hái được một nắm rau rền, lá nhỏ lắm, màu xanh chứ không to, mướt và có màu tím như rau dền ở chợ bây giờ. Một thứ rau dền mọc hoang dại cùng với cây cỏ ở những chỗ xó xỉnh trên các con đường thôn quê. Lại được một túm rau húng với dăm bảy quả cà chua nữa. Nói là quả cho nó hoành tráng chứ cà chua ở đây chỉ to như quả nho, không biết có phải là giống cà chua bi bây giờ ?
   Điểm cao 108 là một quả đồi trọc cao hơn hẳn xung quanh, không có cây cối gì, đến cỏ cũng hiếm vì bị bom pháo địch thăm hỏi đều. Mọi người đều phải ở trong hầm có hai ngách dẫn ra chỗ quan sát. Ở đây còn có cả nhà âm, chỉ vài mét vuông, mái lợp tranh, phủ đất lên trên để ngụy trang. Khổ nhất ở đài là đi lấy nước và lấy củi. Lấy nước mãi tận suối, rất xa, đi lên đi xuống dễ là ẩm thực món "cà pháo" của địch lắm. Tuy nhiên, đã nhằm nhò gì so với đài quan sát của chúng tôi ở cao điểm 20, Nhan Biều. Được về đài 108, coi như đi an dưỡng rồi.
   Chúng tôi lên đến nơi, thấy hai đứa trần trùng trục đang giã bột. Ở trần vừa mát và nhất là đỡ phải xuống suối giặt quần áo, vẫn lịch sự chán, quần đùi rộng lắm, tháo ra có thể may được chăn mà?!  Vậy coi như vẫn thả rông nhé ! Anh A. Hỏi:
-    Thằng C. đâu?
-   Nó đang quan sát thủ trưởng ạ!
Gạo được ngâm chua dễ đến cả tuần, thay nước liên tục. Gạo được giã trong cái cối là mũ sắt, còn chày là một quả lựu đạn cán gỗ đã tháo ruột. Chày cối này giã . . . . sướng phải biết ?! Bột được nắm thành quả cho vào luộc cho chín lớp bên ngoài, gọi là làm bột áo, rồi vớt ra đem giã lại. Cái vắt bún là chiếc tất Trung Quốc dệt bằng loại sợi màu cỏ úa, có ánh vàng (tất lính cũng thời trang đáo để). Chiếc tất được khâu cẩn thận vào cái miệng thở của mặt nạ phòng độc có nhiều lỗ rất tròn. Đồ nghề làm bún quá sáng tạo (tiếc là không dự thi “Trí tuệ Việt Nam”). Sợi bún hơi to một chút nhưng không đến nỗi “giun đũa”.
   Hai tên này làm bún có nghề quá, vắt bột thoăn thoắt vào nồi nước sôi, một loáng đã thấy vớt ra. Có bún rồi. Gạo ngâm lâu, sợi bún dai và giòn như bún Huế.
   Thực sự là ngon. Bún chan canh thịt hộp nấu cà chua và rau dền ăn với húng chanh nữa. Tuyệt! Giá bây giờ mà có . . . vẫn tuyệt !
-    Chín rưỡi rồi, đi thôi ! – Anh A. nói.
   Chúng tôi bắt tay 3 lính đài rồi xuống núi. Từ đây xuống Như Lệ phải qua một số chỗ trống trải. Bọn địch trên động Ông Đô (anh em thường gọi là động Ông Do) và nhất là trên cao điểm 29 Tanh Lê thể nào cũng thấy và gọi pháo. Cứ chuẩn bị tinh thần đi ! Chúng tôi xuống núi rất nhanh, chỗ này rất trống trải. May mà không thấy địch bắn pháo. Đoạn sau có rừng cây thấp, chúng tôi đi dưới cây men theo đường tăng (“đường Tăng” là từ mọi người hay dùng để gọi đường mòn của xe, pháo địch đi nhiều mà thành. Nhiều chỗ phát cây đi trong rừng, nhiều chỗ trống trải).  Ba tiếng sau, chúng tôi đã đến khá gần Như Lệ, chỉ còn vài cây số nữa. Đoạn này trống trải. Chúng tôi dừng lại nhắm hướng, chọn đường rồi . . . chạy. Trên cao điểm 29, chắc chắn địch nhìn thấy, chỉ hy vọng có hai thằng lính còi chúng không bõ bắn pháo. Chúng tôi cứ chạy từng đoạn, dừng lại, chọn đường, lại . . . chạy.
     Nghe tiếng pháo địch đang giã vào Như lệ và Tích tường. Đúng là giã giò. Nhừ tử hết cả !
     Bỗng nghe tiếng “ùng . . .”  lạ, rất nhỏ và xa. Không ai bảo ai, anh A. và tôi mỗi người đã lăn xuống một hố pháo rồi. Vừa kịp, . . . một loạt pháo 105 chạm đất nổ ùng oàng xung quanh, may mà không trúng ai. Đúng là trò đùa ! Mà sao chúng tôi lại hay đùa thế ? Nhưng, bình thường thôi. Chạy tiếp . . . Không thấy địch bắn tiếp nữa. Có hai thằng ranh này, chỉnh pháo không kịp, có ăn được cũng “không bõ dính răng”.
     Đến gần bờ sông, cỏ tranh, lau lách và cây lúp xúp. Chúng tôi lần theo một đường tụ thủy giữa hai quả đồi, cây cối dày đặc, rất kín đáo. Đứng trong đám cây, đã nhìn thấy bờ nước ngay trước mặt. Chỉ cần bơi cỡ trăm mét là tới Như Lệ rồi.
     Sao bên kia bỗng nhiên im tiếng súng. Không thấy pháo bắn, cũng không nghe tiếng súng bộ binh ?! Chắc là giây phút tĩnh lặng, khét lẹt. Một dấu lặng trong bản trường ca bất tận. Là lính, ai cũng biết đây là những giây phút mà ta có thể tận dụng để điểm lại ae, nghỉ ngơi đôi chút, xốc lại trận địa, là cơ hội để làm một số việc gì đó . . .
-   Vượt luôn anh nhé !
-   Ừa !
-   Bọn 29 Tanh Lê nhìn thấy đấy. Bơi thật nhanh anh nhé !
-   Ừa ! Không thấy đứa nào bên kia ra đón hè ?
Hai tên tháo gùi, cho hết quần áo vào gùi, chỉ vận mỗi cái quần đùi ống rộng của lính. Tôi gác súng lên gùi và tuồn nhanh xuống nước. Anh A. thì “khỏe” hơn, anh chỉ mang K54. Chúng tôi bơi ngang dòng nước, mở hết tốc lực.
     Nếu nó bắn thì vẫn yên tâm đi. . . . Vì mai sau vẫn có nhiều người khóc mình “. . .đáy sông còn đó bạn tôi nằm . . . ” và hàng năm mọi người sẽ “thả hoa” cho mình thưởng hương rồi mà.
     Trên ban 2 của sư đoàn yêu cầu chúng tôi khẩn cấp xuống đây nắm địch, vẽ sơ đồ phòng tuyến địch trước khi ngừng bắn. Phải tranh thủ đúng lúc ngừng bắn, địch đều lên khỏi công sự mà nắm toàn bộ bố trí trận địa của chúng. Vì vậy chúng tôi bắt buộc phải chơi đùa với pháo giữa ban ngày. Thế mới vui !
     Chúng tôi qua sông mà không bị quấy rầy một lần nào. Đã thấy bên kia, y tá Tất sinh viên y2 ra đón. Tất nói:
-   Các anh vào hầm của du kích nhé ! Đêm qua pháo bắn liên tục, vận tải không qua được. Thương binh nằm hết trong hầm của mình rồi.
     Hầm của du kích Hải Lệ đào ở ngay vách sông, sát mép nước. Chỗ này vách sông khá cao, bên lở mà (xem bản đồ). Ngách vào được đào một đoạn rồi mới rẽ ngang làm hầm. bình thường, mỗi hầm chỉ có hai du kích. Ở đây du kích Hải Lệ chỉ có 2 nam còn lại toàn nữ. Họ cấp cứu và chăm sóc thương binh, tham gia cùng vận tải của trung đoàn chuyển thương binh qua sông, chuyển lính bổ sung, đạn dược và lương thực vào các chốt.

 Đã bốn giờ chiều, chúng tôi được dẫn vào hầm của du lích Hải Lệ. Đây là hầm của hai nữ du kích, nghe nói một o tên là Nữ, một o tên Sâm. Giờ này các o đang phải chăm sóc các thương binh ở bên Tích Tường, đến tối mới chuyển anh em ra bến vượt. Căn hầm khá chật, đúng là chỉ vừa cho hai người nằm. Tôi hỏi Tất:
-   Xuống sông tắm được không ?
-   Ấy, không được. Phải sáng mai, nếu không thì tối hãy tắm. Ở đây bất cứ lúc nào cũng có thể có pháo bắn tới đấy.
     Chúng tôi trút các bao tượng gạo và lấy thịt hộp, mì chính, đường, thuốc lá, . . . xuống cho Tất mang về hầm.
-   Khoảng 6 giờ sang chỗ em ăn cơm nhá !
Nói xong tất chạy nhanh về hầm, vừa hay pháo địch bắn tới.
   Chỗ ăn cơm là nhà âm, ở ngay cạnh hầm của Tất. Nhà được làm sát vách bờ sông dựng đứng, chỉ cao đến ngang bụng, cao hơn chừng ba mươi phân là mái được đổ đất và làm cho tơi bời ra một chút – coi như ngụy trang xong vì ở đây chỗ nào cũng được pháo địch cày xới hết cả. Từ bờ sông, luồn qua một ngách hào là vào nhà. Chui vào nhà phải cúi vì chỗ này chỉ để ngồi ăn cơm hoặc thỉnh thoảng ngồi chơi cho thoáng một chút - cũng bõ cả ngày phải ở trong hầm hoặc chạy nhảy như choi choi trên các chốt. Mà nhà cũng chỉ bé tí teo, năm sáu người ngồi thôi. Ở đây tương đối an toàn, pháo không thể khoan được vì có vách sông che chắn. Nóc nhà thì có thể chống được pháo chơm rồi.
     *(Pháo chơm nổ ngay trên cao khi chưa chạm đất và có hai loại. Một loại nổ ra nhiều mảnh nhỏ, một loại nổ phóng ra hàng vạn mũi tên thép trông giống như đinh 3 phân nhưng có 4 cánh đuôi, không biết tẩm bột gì đó màu đỏ. Cả hai loại đều gây sát thương rất lớn người ngoài công sự. Về sau này, chúng tôi lấy đạn pháo chưa bắn ở bãi Ái Tử, gỡ ra lấy hàng vạn mũi tên đó làm đinh. Bảo đảm đinh này đóng không bao giờ bị quằn.)*
   Toán trinh sát của chúng tôi có bảy, tám người. Tất y tá, Thứ thông tin và Phố anh nuôi, còn lại anh em chia nhau lên chốt và đi nắm địch. Tin tức thường xuyên được Thứ chuyển thẳng về ban 2 (Những điểm nóng phải thông tin trực tiếp với ban 2 còn những điểm thường thì báo cáo với đại đội). Tất, Phố và Thứ ở trong hầm suốt ngày và rỗi rãi nhất nên coi như một tổ cấp dưỡng lo cơm nước cho anh em.
   Tầm 6 giờ tối, ngày nào cũng vậy, có lẽ gần như 100% là im tiếng pháo. Bọn tôi chui ra khỏi hầm, được giãn xương cốt, tai vẫn còn i i tiếng nổ cũng được thảnh thơi một chút. Chỉ trong vòng nửa tiếng đến một tiếng thôi. Mọi người tụt ngay xuống sông, tranh thủ tắm giặt giũ hết đất cát và hơi cay nồng của đạn pháo. Kể cũng lạ. Sao giờ này bao giờ bọn địch cũng im lặng thế không biết. Chẳng lẽ bọn pháo địch bàn giao ca, đổi lính hay sao vậy ?! Đúng là đánh nhau kiểu pháo binh Mỹ.
   Cơm trắng phau đựng trong xoong to(xoong tám) đang bốc hơi nghi ngút, canh trong xoong nhỏ (xoong 6) thấy lởn vởn mỡ thịt hộp lẫn với rau tàu bay. Lạ cái giống rau tàu bay, mỗi hạt có một dúm lông trên đầu, bay rất xa, đã hạ xuống đâu là chỉ vài ngày đã thành rau, xanh mơn mởn, nhất là nơi hố bom, hố pháo.  Hấp dẫn nhất là món mặn đựng ở nắp xoong 8 (nắp xoong lật ngửa lên để đựng thức ăn, có 4 ngăn đàng hoàng). Một món mặn. Thứ gì đó nâu nâu như đất, loằng ngoằng như giun. Lại thứ gì nữa nhẵn nhụi, cũng nâu nâu, bong bóng cỡ bằng ngón tay út nằm rải rác trong đám “giun”. Với lại lác đác những sợi thịt hộp , tơi tả. - thơm thế không biết ! Mùi thơm bốc lên ngào ngạt – ngon quá đi mất, rỏ rãi . . . . Anh A. hỏi:
-   Cái gì thế ?
-   Dế xào củ chuối với ruốc mặn mí lị thịt hộp của thủ trưởng mang xuống đấy.(dân “ xin xà phòng” có cái từ “mí lị” không lẫn vào đâu được).
-   Ngon nhể ! – tôi nói.
-   Ừ ! bữa nào cũng chuyên trị củ chuối với dế (đúng là y tá có khác, lúc nào cũng chuyên trị . . .). - Tất nói xong, cười hề hề, rất thoải mái.

    “Dế xào củ chuối”. Đấy là đặc sản của Như L

Phố chạy từ dưới sông lên, mặc mỗi cái quần đùi dải rút ống rộng, người ướt lướt thướt. Mặt nó vốn đã nhiều trứng cá nhưng hôm nay trông còn tệ hơn. Mặt mày cháy nhem nhuốc, lông mày, lông mi chẳng còn một sợi; tóc phía trước cháy vàng loăn quăn, chỉ còn lại đôi môi đỏ “gợi cảm” là còn nguyên vẹn.
-   Mày làm sao mà trông ghê thế ?
-   Sáng hôm kia, trời mưa, nhóm bếp mãi không được. Tao cầm ống liều phóng M72 dốc dốc  vào bếp thế này này. Nó phùng  một cái, kinh quá. May mà chỉ bị cháy mặt.
-   Ai bảo ngu, cho mày chết !
-   Mọi khi tao vẫn làm thế, chắc hôm qua mạnh tay quá.
Phố là chàng trai bằng tuổi tôi (20 tuổi), quê phủ Khoái (thịt chuột). Nó hiền lành, ít nói, chỉ hay cười. Nhin nó tôi lại nhớ thằng bạn nối khố của nó, thằng Phớt (anh em vẫn hay gọi là Cờ Lít Phớt - cho nó tây). Thằng Phớt bị B52 ở gần Cao Hy cùng 3 anh em khác.
-   Dế ngon thật mày ạ ! Làm sao kiếm được nhiều thế ?
-   Sáng mai mày đi với tao đào củ chuối với . . . đào dế nữa .
Bỗng có bóng người thấp thoáng ngoài ngách, rồi một o du kích tay bưng một tô gì đó chui vào nhà âm. Tất nói:
-   Đây là út Mừng anh A. ạ ! - rồi quay sang Phố:
-   Kìa ! Cái thằng này . . . Nói gì đi chứ !
Tôi thấy cái mặt cháy của Phố bỗng đỏ lựng lên. Út Mừng cũng lúng túng, cô đặt vội chiếc tô đánh ịch xuống đất, cạnh khay dế xào, chỉ bật ra mỗi một từ:
-   Keeng !
Rồi út mừng vụt chạy ra mất, không ai kịp giữ lại, cũng không kịp mời. Tất vừa cười vừa nói:
-   Anh A. à ! Ở đây ngày nào bọn em cũng được “ăn tươi”. Không biết họ thế nào chứ anh em mình được cái chén đã, anh nhở . . .
“Keeng” nghĩa là canh nói theo giọng Quảng Trị. Canh rau lang nấu mắm ruốc, ngọt lịm. Cứ gọi là thun thút !
-   Này, mày có phải đổi dế của mày lấy mắm ruốc của của út Mừng không đấy ?
Mặt Phố đỏ tưng bừng, hắn nói:
-   Dân ở đây họ không ăn dế. Lúc đầu thấy bọn mình ăn, mấy út kinh lắm. Bảo thử nếm xem, họ cũng không chịu đâu.
-   Ừ ! Thế lãi quá còn gì. Mày không mất dế mà lại được mắm ruốc.
Canh rau lang nấu mắm ruốc thực sự rất hợp vị, cực ngon – gọi là đặc sản của Quảng Trị. Trời tối. Sau khi nghe H. báo cáo với anh A. tình hình địch ta ở Tích Tường-Như Lệ, anh A. giao cho Hùng và tôi trong ngày mai phải “đi địa hình”, nắm lại toàn bộ các chốt của ta và vị trí địch trên toàn tuyến (ae thường gọi tắt là “đi tuyến”).
     Thứ dẫn anh A. và tôi qua hầm của trinh sát e95. Vì không có nhiệm vụ trực tiếp chốt giữ các “chốt”, nên cũng giống như chúng tôi, trinh sát e95 cũng chọn vị trí hầm ở nơi an toàn nhất. Đó là vách sông. Toán trinh sát 95 bám địch và vị trí các chốt của ta, thường xuyên báo cáo về cho trung đoàn. Toán trưởng là Lê Tấn Hổ (sinh viên năm 2 ĐHSPhạm HN) cùng 3 ae khác. Ae phải chia nhau đi các chốt hàng ngày, tối đến đổi ca, về nghỉ một ngày.
     Tôi đã nghe nói đến Hổ từ trước bây giờ mới gặp mặt. đẹp trai, khỏe mạnh, ngăm đen, người Hà Nội gốc khu 5 tập kết. Chúng tôi nắm lại tình hình ở đây, từng chốt một. Chốt (1), (2), (3, (4) ở Như lệ và (5), (6) ở Tích Tường. Hổ nói chuyện sôi nổi, cởi mở như chúng tôi đã thân thiết từ lâu. Anh đã  là một “con sói” trong làng trinh sát rồi. Chúng tôi thống nhất giờ xuất phát sáng hôm sau với nhóm của Hổ rồi chạy nhanh về hầm. Pháo địch vẫn đang bắn hủy diệt trên các chốt và cầm canh khu vực bờ sông không cho ta qua lại.
     Hầm của hai o du kích Sâm và Nữ đúng là khác với hầm bọn tôi vì nó sạch sẽ và nhất là không có mùi nặng của đàn ông, cũng không có mùi thuốc lá. Hồi đó tôi không hút thuốc nhưng rất thích các ae hút thuốc. Tôi thường châm thuốc cho chúng nó, nhất là sáng ra chúng hút thuốc lào, ngã vật ra, tôi cảm thấy rất khoái. Anh A. bật lửa soi trong hầm, tôi tìm thấy cái đèn dầu “Hoa Kỳ” có thông phong hẳn hoi để trong hốc đất trên vách hầm. Đèn được châm lên, anh A. móc bịch thuốc lá trong túi quần. Thuốc lá và giấy quấn đều là hàng vụn, phế phẩm của nhà máy thuốc lá Thăng Long. Tôi gỡ giấy và quấn một điếu, đưa cho anh A. Không cần nhìn, anh A. liếm nhẹ vào mép giấy, ngón tay trỏ ốp nhẹ một cái thế là đã bập ngay vào môi rồi. Tôi châm lửa cho anh và khoan khoái ngắm bức tượng đồng đen nhả khói chậm rãi.
-   Anh nghỉ trước đi, hôm nay chúng nó ưu tiên em chưa phải gác. Đêm mai em đi gác anh tha hồ mà tâm sự với hai o nhé !
     Tôi lấy giấy, phóng tạm một cái sơ đồ từ bản đồ để mai đi chốt làm việc cho nhanh. Quãng 9 giờ đêm, thấy tiếng pháo ngớt ở bờ sông. Nghe tiếng í ới của bộ đội và du kích. Bên bờ bắc, thuyền chở ae mới sang bổ sung, chở lương thực chế biến sẵn, cơm nắm, ruốc, có cả thịt, nước uống, bông băng, đạn dược. Hai tiểu đội công binh của trung đoàn được chở sang để đào lại công sự cho các chốt và chôn cất anh em tử sỹ. Thuyền đến bờ nam, mọi thứ được khẩn trương vứt đại lên bờ để nhanh chóng đón thương binh qua bờ bắc. Thuyền còn quay lại để gần sáng đón công binh trở ra. Nếu bị pháo bắn rát quá, đôi khi ngày hôm sau công binh phải dạt vào các hầm của du kích, của hỏa lực cối 82 của trung đoàn hay các hầm của thông tin và trinh sát (tóm lại là hầm của các lực lượng đảm bảo phía sau – toàn ở bờ sông, vì rất an toàn).
     Thực ra mỗi đơn vị chỉ đưa một nửa ae lên chốt, nửa còn lại nằm ở các hầm ở bờ sông và thay thế nhau lên xuống các chốt từ (1) đến (6). Bờ sông về đêm thật sự nhộn nhịp. Tuy nhiên hễ nghe kịch, kịch . . . tiếng nổ đầu nòng của pháo địch thì chỉ một loáng, bờ sông lại vắng vẻ quạnh quẽ như “chốn không người”. . .

     Thật là kỳ lạ ! Ôi, . . . . Đây có phải là cuộc sống ?

     Không! Đây là hơi thở của cuộc chiến đấy !

     Một bức tranh bằng chì với những nét kỷ hà sắc nhọn, nhạt nhòa đủ cả, . . . nhảy múa rồi tĩnh lặng, chớp lóe lên rồi bỗng đen xẫm lại.

    Một dòng sông và một bến bờ trĩu nặng . . . Tôi chui vào hầm và ngủ lúc nào không biết. Tiếng ì ùng của pháo cũng không làm tôi giật mình lần nào. Tôi giật mình tỉnh dậy vì có ai đó đẩy vào người. Thì ra là o Sâm và o Nữ. Một o cầm chiếc đèn bão, còn một o đang đẩy anh A. và tôi nằm dịch qua. Họ tắt đèn rồi nằm xen vào với chúng tôi, ”trở đầu đuôi”. Vẫn là chiếc đèn bão nhưng được che bịt bằng sắt tây chỉ để hở một quầng sáng nhỏ như đèn phòng không ở các xe ô tô lúc bấy giờ.
     Cảm giác lạ khi nằm cạnh một người con gái làm tôi vừa thấy thinh thích vừa thấy sờ sợ. Hai o ngủ rất nhanh, đã nghe tiếng họ thở đều. Sao giờ này yên ắng thế ? Mình chưa biết mặt hai o.
     Đêm nào cũng vậy sao? Sao những người con gái, đáng ra được nâng niu, chiều chuộng. Dù cho nghèo khó, vẫn có mái tranh mát mẻ và đầm ấm, có người yêu để mà hàng đêm cứ cười khúc khích bên cạnh mẹ và được nghe mẹ chửi: “Cha tổ bố mi, là cái thằng nớ chứ ri . . .” Vậy mà biết bao nhiêu dập vùi, biết bao nhiêu nhọc nhằn, đớn đau . . .
     Tôi chợt nhớ “ Em là ai, cô gái hay nàng tiên . . .
     Tôi bị anh A. lay dậy. Đã năm giờ sáng. Giờ này pháo địch chỉ bắn cầm canh nhất là ở các chốt. Ban đêm địch sợ ta tấn công nên chúng thường bắn pháo sáng để trên các cao điểm xung quanh chúng có thể kiểm soát được các hoạt động của ta.
     Tôi bỏ bản sơ đồ đã vẽ phác tối qua, tấm bản đồ, cuộn giấy Mỹ và hai cái bút chì vào trong túi nylon rồi thả luôn vào ngực áo đã đóng thùng. Xanh tuy rông có hai quả lựu đạn nhỏ, một băng đạn, một túi bông băng và bi đông nước. Phong lương khô thì đút tỏm vào túi quần. Tôi xách súng chui ra khỏi hầm. Tôi chạy đến nhà âm thì cũng là lúc H. vừa chạy tới. Phố đã nấu cơm xong, tài thật. Nó nấu cơm trong nhà âm vào ban đêm, phía địch khó mà phát hiện được. Trời cũng tang tảng sáng rồi, vả lại lính ta mò đêm cũng là chuyện thường mà. Lại được xơi món dế xào củ chuối.
      Hổ và một anh em nữa đang chờ chúng tôi, cậu ấy cũng tên H. Chúng tôi luồn theo giao thông hào lên chốt (1). Từ chốt có tiếng hô:
-   Ai ?
-   Tôi. Hổ đây ! “mười lăm”.
-   “Không ba”.
Chúng tôi lại luồn theo hào vào chốt. Hổ hỏi:
-   Đêm qua thế nào ?
-   Một bị thương nhẹ thôi anh ạ, nó đang gác thì bị mảnh. Nó bảo không sao, cứ cho nó ở đây.
     Chốt là vị trí cao hơn xung quanh một chút, có 4 hầm kiên cố, rất nhiều giao thông hào nối các hầm và ra các vị chí chiến đấu. Cứ một đoạn giao thông hào lại có một hầm kiểu hàm ếch để tránh pháo. Thì ra đây là tác phẩm hàng đêm của công binh. Khá nhiều đạn B40, B41 và lựu đạn, ba bốn quả một, để dọc theo giao thông hào. Mặt đất, hầm và giao thông hào chỗ nào cũng nham nhở. Đêm qua trời mưa lúc nào mà giao thông hào lõng bõng nước đục. các hố pháo cũng ngập đầy nước. Vẫn còn những dòng nước nhỏ ri rỉ chảy xuống hào.
     Trời đã sáng, pháo địch vẫn cầm canh chốt này qua chốt khác. Hổ và tôi chui vào một hầm, hai thằng H. chui vào một hầm khác cùng anh em ở chốt. Chúng tôi phải chờ địch ngừng bắn pháo. Hổ nói:
-   Cứ yên tâm, ngày nào chúng nó cũng ngừng bắn từ lúc 6 giờ đến 7 giờ.
Quả nhiên là như vậy. Đúng 6 giờ, chúng tôi kịp nghe tiếng đầu nòng cấp tập của loạt đạn cuối, rồi bầy pháo rơi xuống phía chốt (3). Đột nhiên im lặng, trong khi khói bụi vẫn mù mịt nơi các chốt.
     *(“Pháo bầy" là lính ta gọi cách bắn cấp tập của pháo 105 của địch. Đây là cách bắn mà tất cả các trận địa pháo 105 của địch đồng loạt bắn vào một điểm. Cách đánh này rất nguy hiểm, nếu đánh trúng thì ta không kịp chạy vào nơi trú ẩn, đã bị pháo sát thương. Tôi nhớ, có lần địch gọi loa nói nếu ta không dùng H12 thì chúng cũng không đánh kiểu pháo bầy nữa. Đúng là chuyện cười !)*
   Phải nhắc lại là bọn pháo binh ngụy này học thày nó cả cách nghỉ giải lao đúng giờ. Đúng kiểu MỹHổ nói với cậu H(c20-95):
-   Mày sang bên chốt (5) đi, Tao ở bên này được rồi.
-   Vâng.
Tôi thấy Hai thằng H. bắt tay nhau và dặn:
-   Đi cấm chết đấy nhé !
      Hổ dẫn chúng tôi luồn ra đến ngách xa nhất của chốt (3) thì trời đã sáng. Chỗ này có thể quan sát thấy toàn bộ các chốt của ta ở Như Lệ. Anh giới thiệu toàn bộ tuyến của ta. Phía địch, bên trái có Đồi Chè, một quả đồi chẳng thấy còn cây chè nào, chí có cỏ và cây dại lúp xúp, cũng đã xờ xạc vì đạn của cả địch và ta. Bên phải là Đá đứng, một điểm chốt nổi tiếng của địch ở bờ sông. Chếch về phía trước là cao điểm 29. Từ Đồi Chè và điểm cao 29 địch nhìn xuống các chốt của ta như nhìn vào lòng bàn tay. Phía trước mặt là ruộng lúa cũ. Xa hơn là các chốt của địch. Phía sau chúng là nơi xe tăng của địch ẩn náu để sẵn sàng tấn công. Xa hơn nữa là rặng núi thấp chắn ngang làm khuất tầm nhìn.
     Tôi phác nhanh sơ đồ trận địa của ta và chấm các vị trí của địch lên sơ đồ sơ đồ. Mình ở dưới thấp, không nhìn thấy trân địa của chúng để vẽ. Cứ như vậy, trong vòng nửa tiếng, tôi đa xong các chốt (3), (2) và (1). Chúng tôi bắt tay Hổ rồi theo giao thông hào tụt xuống bờ sông để sang chốt (4).
    Lên đến chốt (4) vẫn chưa đến 7 giờ. Vẽ xong sơ đồ chốt (4) thì vừa đúng 7 giờ. Chúng tôi tụt vội xuống bờ sông. Ở bờ sông thật là nhộn nhịp, các anh em ở chốt về tắm dưới sông chạy lên, du kích và bộ đội vận động qua lại giữa Như Lệ và Tích Tường như con thoi men theo vách sông. H. cũng dẫn tôi sang Tích Tường bằng đường này.
     Pháo địch bắt đầu bắn trên các chốt. Có vẻ như hôm nay chúng chưa tấn công. Không nghe thấy tiếng xe tăng và 12 ly 8 bắn yểm hộ cho bộ binh của chúng. Ở bờ sông cũng rất nhiều hầm của du kích và bộ đội. Ở đây chỉ có hai chốt và bị địch tấn công quyết liệt hơn nhưng chúng cũng không nhổ được hai cái chốt nhỏ bé này. Chúng tôi luồn lên chốt (5) lúc pháo địch chuyển làn bắn vào Như Lệ. Anh em ở cả trong hầm, chỉ có một người ra nghách cảnh giới.  Hai thằng H. hỏi thăm nhau:
-   Mày chưa chết à !
Rồi chúng cười lên ha hả. Sao mà vô tư, hồn nhiên đến thế !

“ Đi cấm chết đấy nhé ! . . . . .
                      Mày chưa chết à ! . . . .”  . . . . là món đặc sản Như Lệ- Tích Tường.

Sao chúng nó không dặn nhau:”mày đi cẩn thận nhé”  Mày vẫn còn sống . . .”
Lời dặn dò và tiếng cười của hai thằng H. làm tôi thấy xót trong ruột quá

 Bữa cơm chiều yên ả không có món pháo mà lại có món dế xào.
-   Thằng Hổ nó đang buồn, mày kéo nó sang đây ăn cơm cho vui.
Thằng hổ và 1 đứa nữa trinh sát 95 cùng sang nhà âm của chúng tôi. Trông nó hôm nay còn buồn hơn cả hôm qua.
-   Hôm nay mày ở đâu thế ?
-   Tao ở chốt (2), thằng này ở bên Tích Tường.
-   Chốt (2) thế nào ?
-   Chết hết cả rồi ! Sập hai cái hầm, không đứa nào bị sao. Chúng nó dồn hết vào một hầm, cả tao là 6 thằng. Tao vừa chạy ra ngách quan sát, bảo thằng Bình nó vào, tao cảnh giới cho một lúc. Pháo nó bắn ghê quá. Thằng Bình vừa chui vào hầm thì một quả pháo khoan trúng ngay hầm. Cả sáu thằng đều đang ở đấy. Chết hết ! Mẹ nó !
-   Thế còn mỗi mình mày ở đấy, may mà chúng nó bỏ chạy. Một mình mày mần sao nổi.
-   Điện thoại không bị hỏng. Chính tao là người gọi cứu viện. Lúc pháo ngừng bắn, tao lấy B40 rải dọc theo hào, còn có 4 khẩu, mấy khẩu khác bị pháo bắn hỏng hết. Tao chờ chúng nó đến thật gần. Ừ, hôm nay B72 đuổi được bọn nó. Chúng mày có nhìn thấy không?
-   Có ! Sao tự nhiên mày lại nghĩ chạy ra quan sát ?
-   Biết được !
-   Chúng nó gọi mày là thằng giời đánh cũng phải. Thằng ở ngoài không chết, chết thằng trong hầm.
-   Bọn nó rút rồi mới thấy 6 thằng lên bổ xung. Phải bới mãi hai cái hầm sập để trú tạm. Chắc đêm công binh phải mang thêm gỗ sang làm lại. Ui giời  . . . !
-   Anh em vẫn nằm đấy à ?
-   Tao chui vào sờ hết chúng nó. Không thằng nào còn sống. Bây giờ chắc anh em đại đội mới đang đưa chúng nó lên chôn cất. Không làm nhanh đến 7 giờ chúng nó lại bắn.

     Về sau nhiều lần Hổ vẫn còn kể lại với tôi chuyện này. Lần nào khi kết thúc câu chuyện anh cũng than: “Ui giời . . . !”.  

     Hôm 12/6/2010 tôi gọi điện vào Đà Nẵng hỏi thăm bệnh tình của anh. Tôi có nói đang kể chuyện Như Lệ. Anh Nói:
-   Tao vừa ra khỏi hầm thì pháo khoan chết 6 thằng trong hầm. Ui giời . . . !

Các đồng chí ạ..!

Trong ba năm sáu tháng công tác trên đất bạn, chỉ duy nhất có một lần anh em chúng tôi được ở trong phum, lần đó Trung đoàn vào chiến dịch mùa khô, suốt ba tháng ròng rã càn quét địch trong nội địa,tuy vất vả và gian nan, nhưng cũng lắm chuyện buồn vui, hôm nay tôi xin trở lại chuyện ngày xưa cùng các bác

Ngày đầu về phum ,đập vào mắt chúng tôi trước tiên đó là những chú “sake” lớn nhỏ sủa um trời đất, bực cả mình anh em bàn bạc với nhau , bằng mọi giá phải thịt một chú “ sake ” nhậu cái đã , thật tình thì 90% quân số đơn vị đều có một tâm trạng chung là “ nhớ vợ thương con thèm thịt chó ” mà hình như thèm thịt chó nhiều hơn các bác ạ..! biết tính sao đây ? thử hỏi xin thì dân không cho...! mà mua thì tiếc tiền, chưa chắc họ đồng ý bán , nhưng rồi người ta thường nói “ trong cái khó nó ló cái ngu ” kế hoạch trộm chó được triển khai ngay,  tất nhiên là nhận được cái gật đầu miễn cưỡng của cụ chính trị viên đại đội

Các bác biết không..? kinh nghiệm bẫy thú rừng thì các bố trẻ trong đơn vị có cả bụng,mà phải  nói là kính thưa các loại bẫy, nhưng với hôm nay  thì kế hoạch bẫy treo được duyệt, một sợi dây thòng lọng được cột chặt vào nhánh cây bên trên,được kéo cong xuống đất cố định bởi một cọc sắt,và  chốt giữ, chỉ cần chú chó cắn vào miếng thịt heo, chốt bật ra.. sợi dây sẽ siết cổ chú chó treo lên trong không trung không một tiếng rên la..! chỉ cần một phút ba mươi giây là chú sake đơ ngay

Từ chiều mọi công tác chuẩn bị coi như hoàn tất, từ khâu củi lửa, gia vị các loại, quan trọng nhất là bình rượu đơn vị nấu ngâm nhung nai, cao trăn, tắc kè,mật ong..v.v.được cõng từ trong rừng ra chỉ còn đợi giờ G là hành động...! đêm hôm đó khoảng 9 giờ hơn sợi dây từ trên cao được kéo xuống miếng thịt heo được gắn vào ai nấy vào vị trí chờ đợi với niềm tin và hy vọng, đêm nay trên bàn  nhậu sẽ no say với  những đĩa thịt luộc, thịt nướng thơm nứt mũi.

Đang tưởng tượng đến giây phút ấy thì một sự cố ngoài dự kiến xảy ra tưởng chừng như đêm nay ngáp gió đấy các bác ạ..!, trời lạnh vậy mà chúng tôi toát mồ hôi hột..! không hiểu sau sợi dây không siết cổ chó như dự kiến, mà lại máng vào chân trước chú chó treo lên cả mét, chẵng những không đơ ngay mà nó sủa...ẳng..ẳng..um sùm báo hại cả bầy chó trong phum hùa theo sủa..điếc cả tai, thời cơ đã đến...! rất nhanh, thằng Thành chạy vào bếp lấy một khúc củi to ra đập vào đầu con chó một cái rất mạnh, nó đơ tại chỗ, rồi vội vàng tháo dây cho vào bao chỉ xanh đựng gạo phi tan, cũng vừa lúc ấy ánh đèn dầu các nhà sàn người dân bật sáng, họ bước ra dòm dòm, ngó ngó một hồi rồi vào tắt đèn ngủ

Do được tính toán kỹ từ trước, rất nhanh nồi nước nấu sôi cho anh em uống giờ đây đem đi trụn chó, toàn bộ lông và xương chó chúng tôi đào lỗ chôn sau nhà ,một nồi cháo đậu xanh thật to được nấu từ xương chó, thịt làm xong được chia đều các bộ phận, mang về B âm thầm đánh lẽ của “ trộm ” ngon không biết dùng từ gì để tả,chỉ biết đêm hôm đó lai rai đến gần 2h sáng anh em mới chịu đi ngủ, sáng ra nhà bị mất chó họ vừa đi tìm vừa chửi bâng quơ..chưa yên đâu, họ còn đi vòng vòng sau đơn vị rất lâu vừa tìm vừa thì thầm điều gì đó theo tôi nghĩ  có lẽ họ nói  “ chả nhẽ tụi nầy ăn luôn cả xương và lông chó sao  tìm không ra cho dù là một cọng lông chó hay một mảnh xương

 Hai tên tù binh tại Long Khánh, Bà Rịa



Sau Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết cánh quân Đường 1 cứ ào ào như lốc cuốn, chưa đầy tuần lễ từ ngày 14 đến ngày 19/4/75 đã băng qua các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận rồi Bình Tuy, chỉ còn cách Sài gòn 145 cây số nữa thôi. Lính chúng tôi bị cuốn đi, mệt và căng thẳng hồi hộp.
Từ Phan Rang, trinh sát Sư đoàn đi trước dò địch, nắm địch có ở đâu thì báo về phía sau cho BCH đại quân. Chạm địch hoặc bị địch nổ súng thì biết là ở đấy còn địch. Trinh sát hành tiến trên xe như vậy thật nguy hiểm nhưng chẳng còn cách nào khác, thần tốc và táo bạo mà. Như thế thì trinh sát mới được đánh nhau thật như bộ binh, được nổ súng thật. Mấy anh em  TS kỹ thuật chúng tôi cũng có cơ hội ấy nhưng căng thẳng lắm.

10 giờ 15 đêm ngày 21/4 xuất phát từ trong rừng cao su. Tôi cùng 3 anh em TS kỹ thuật là Duyên, Quí và Công được giao nhiệm vụ đi cùng 2 b (thiếu ) của C20 dưới sự chỉ huy của Thượng úy Kim còi , trợ lý Ban TS Sư. Đoàn đi trên 3 xe, rẽ vào liên tỉnh lộ 2 hướng Vũng tàu để nắm địch.

Xe Zep chỉ huy của anh Kim đi giữa, mỗi xe cách nhau khoảng răm sáu chục mét, có liên lạc được với nhau bằng máy PRC25 của TS kỹ thuật. 3 xe lầm lũi chạy tốc độ chậm, đèn gầm leo lét trên đường nhựa phảng phiu. Về đêm, trời se lạnh. Không gian im ắng đến dễ sợ. Hai bên đường rừng cao su âm u tối sẫm, một chặng đường dài đã qua mà không thấy bóng một nhà dân nào. Phía xa xa trước mặt và bên tay phải có quầng sáng, đó là TP Vũng Tàu và TP Sài Gòn. Lính ngồi im trên thùng xe trần, tay không rời AK. Mệt mỏi và căng thẳng quá. Một số đã không cưỡng lại được cơn buồn ngủ. Lúc này đã 2, 3 giờ sáng rồi còn gì.

Gần 4 giờ sáng, chiếc xe đi đầu do Trung úy Thẩm, trợ lý Ban TS và thiếu úy Chiêm C phó C20 chỉ huy dừng sững lại. Dưới ánh sáng nhờ nhờ của đèn gầm xe, ta phát hiện có địch đang nằm ngủ ngổn ngang trên đường nhựa phía trước, 2 xe sau nhận được thông báo cũng kịp dừng lại ngay. Tất cả nhảy ào xuống. Quân địch thấy động cũng đã kịp phản ứng. Lúc này trên phía xe đầu, súng đã nổ râm ran, tiếng AK, AR15 và cối cá nhân M79 chát chúa. Lính xe sau nhanh chóng lên tiếp ứng. Quân địch đông, có cả lính dù thuộc d7 tháo chạy từ Xuân Lộc về đây cụm lại. Quân ta không có hỏa lực mạnh của bộ binh, địa hình bất lợi ban đêm, lại có một số anh em là tân binh bổ sung chưa lâu, ít kinh nghiệm chiến đấu chưa dày dạn trận mạc nên khi chạm địch, nhảy xuống xe thiếu bình tĩnh, một số còn lộn xộn chụm quanh xe nên đã bị địch bắn cối cá nhân vào đội hình. Sau khoảng hơn nửa giờ choảng nhau, địch đã  rút chạy vào rừng cao su,  quân ta lùi dần về phía sau lôi theo 2 tù binh bắt sống ngay trước mũi xe. Chiếc xe bị trúng đạn vào thùng xăng đang bốc cháy dữ dội. Mấy chục ba lô của anh em đi xe này cùng gạo, thực phẩm thế là đi tong.

Trời sáng dần, đã nhìn rõ mặt người. Hai tù binh, mặc quần áo rằn ri, một tù binh đậm người, một tên nhỏ con trông trẻ hơn, trông hai tên tù binh  sợ hãi mặt tái xám. Xe, ba lô đồ đạc bị cháy, một số anh em hi sinh và bị thương nên anh em ta rất căm thù, một số anh em như trút sự căm thù lên 2 tên tù binh lao đến đấm đá túi bụi. “Bắn bỏ mẹ nó đi” – có cả tiếng anh em nào đó quát lên. Anh Kim còi lúc này cũng có mặt ở đó mắng anh em không được đánh tù binh nữa, lệnh không được bắn và giải về phía sau. Nhưng lúc cán bộ chỉ huy đang mải công việc thì trong số anh em sôi máu căm thù có cậu Q. sôi me nhất đã cho tù binh người đậm một tràng AK. Tên tù binh chỉ “hự” được một tiếng rồi đổ nhào xuống rệ đường đầy cây cỏ lúp xúp. Chưa bao giờ tôi chứng kiến tận mắt sự trúng đạn ở một cự ly gần như thế. Tên tù binh còn lại đứng ngay bên cạnh, sợ quá run lẩy bẩy, miệng lắp bắp xin tha chết. Một lát sau, hắn được chở đi cùng xe với ae bị thương lui về phía sau và được giao cho du kích địa phương.

Ta bị hi sinh 2, b trưởng Dân người Nam Hà, hiền tính, chưa vợ và 1 cậu lính mới, nghe anh em đi xe này nói lúc chạm địch cậu còn đang ngủ nên không kịp nhảy xuống xe, gần 10 bị thương. Còn thiếu 3 anh em nữa chưa rõ sống chết ra sao, gồm Chuẩn úy Thắng, b trưởng và 2 a trưởng là Tàu và Đọ. Sau 3 anh em này cũng mò về được đơn vị, các bố bị lạc trong rừng cao su. Thắng và Tàu thì về ngay trong ngày, riêng đồng chí Đọ đến 4 ngày sau ( ngày 25/4) mới về tới đơn vị. Chẳng rõ nó đánh nhau kiểu gì mà lại lạc vào rừng cao su sâu về phía địch. Nhịn đói khát mấy ngày mãi mới mò được ra ngoài đường. Khi về thấy cậu hốc hác phờ phạc, giọng khản nói không thành tiếng.
Quân địch chết bao nhiêu chúng tôi không rõ ngoài 2 tên tù binh miễn cưỡng tội nghiệp. Có một điều chắc chắn là, chúng tôi là lính trinh sát đánh nhau như lính bộ binh thì hiệu quả là kém rồi, không thể bằng lính bộ binh thực thụ được, kém từ chỉ huy cho đến lính. Trong chuyện của Tích Tường Như Lệ, lão cứ kêu TS mà chán quá, chán quá !

Trời đã sáng hẳn, pháo địch vẫn uỳnh oàng chi viện quanh khu vực đụng độ vừa nãy. Một tổ được cử lên phía trước để tiếp tục bám địch. Chúng tôi lui tiếp về phía sau một chặng nữa, đường nhựa trống trải nên lững thững cuốc bộ cũng ghê người lắm, rồi tạt vào ria rừng cao su ngồi nghỉ. Lúc này mới thấm mệt và đói. May là lúc khiêng thương binh lên xe, tôi móc trong ba lô của tôi lấy ra được một hộp sữa đặc, thế là giờ khui ra, ngửa cổ mỗi đứa một hơi dài hết luôn cả hộp. Sữa chảy đến đâu biết đên đấy. Người tỉnh hẳn ra. Mấy thằng tiếp tục nhai gạo sấy cho đỡ đói. Mấy túi gạo sấy nhặt được ngoài đường nhựa của tàn quân địch. Xong lại cuốc bộ tiếp khoảng 2 cây số nữa thì tạt vào rừng cao su dừng trú lại chờ lệnh và chờ đại quân phía sau lên. Mấy lính TS kỹ thuật mở máy nắm tình hình. Buổi tối trinh sát trên máy đến gần 10 giờ. Một ngày căng thẳng, mệt rã rời.

Cả ngày và đêm hôm ấy tôi cứ bị ám ảnh bởi các anh em đồng đội hi sinh và bị thương và về hai tên tù binh trong một tình huống chiến sự đặc biệt và chớp nhoáng với nhiều cung bậc cảm xúc của chiến tranh không thể nào quên trên đất Long Khánh giáp ranh với tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu một ngày cuối tháng 4, 1975.

Lính mới vào chiến trường


Thời đó miền Bắc tuy dân đi sơ tán đã về lại thành phố nhưng vẫn là thời chiến đầy khó khăn và gian khổ. Tuổi trẻ chúng tôi yêu đời và lãng mạn theo kiểu bay bổng và thi vị của tuổi mới lớn. Những câu thơ như
“ Nước còn giặc, còn đi đánh giặc
Chiến trường giục giã bước hành quân “
hay như câu khẩu hiệu “ Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù “  được chép vào sổ tay, như có cánh, như giục giã chúng tôi.

Những băn khoăn, lo lắng rồi cũng như làn gió nhẹ thoảng qua. Hành trang lên đường nhập ngũ nhẹ tênh, chẳng vướng bận gì. Anh nào cũng mới 18, 19 tuổi chưa vợ, vui vì vô tư và nghịch ngợm ồn ào. Rồi mấy tháng huấn luyện ngoài Bắc cũng ào qua, lại mấy tháng nữa huấn luyên và diễn tập hiệp đồng binh chủng những ngày nắng như đổ lửa đất đồi chè Hương Sơn, những đồi hoa sim Kỳ Anh, những làng chài ven biển Kỳ Lợi, Kỳ Đông , rồi những đài quan sát trên những điểm cao Đèo Ngang, sang Quảng Bình những Phà Ròn, Sông Gianh..., rồi cũng đến Cự Nẫm, nơi nhận quân trang vào B.


Quãng 1 rưỡi chiều 21/7/72 chúng tôi vượt sông Bến Hải. Bến vượt này mãi trên thượng nguồn nên nước nông và lòng sông hẹp. Có dây căng ngang để bám lần sang vì nước chảy rất mạnh. Đặc điểm các sông ở miền Trung là độ dốc nước rất cao và thoát nhanh. Mưa ở thượng nguồn một lúc, khi thấy nước chuyển màu đùng đục thì chỉ sau đó ít phút  nước đã dâng cao và chảy xiết, dù có bám dây cũng không thể qua được nữa. Một lúc thì dây cũng bị ngập chìm sâu dưới nước. Lúc đấy chỉ còn cách chờ nước rút thì mới qua sông được.Sau này cũng trong năm 72 tôi có lần quay lại đây ra Động Nóc bên đất Vĩnh Linh công tác lúc trở về gặp mưa nước lũ cao nên phải mắc võng ngủ, chờ sang hôm sau mới đi được. Còn một lần, khi vượt sông Cam Lộ trên thượng nguồn tôi suýt nữa thì bị nước cuốn trôi. Chả là tôi chủ quan vì thấy nước nông chưa ngập đầu mà mình lại biết bơi nên cứ ào lội qua, mặc dù tay Long, A trưởng người Hà Tĩnh cẩn thận và kinh nghiệm đã nhắc là đi chậm và  ôm chặt túi ba lô, quay lưng hơi gập người xuống ngược với dòng nước. Tôi đi thẳng mặt hướng sang bờ bên kia, nước chảy mạnh đẩy vào người và túi ba lô, đến giữa dòng thì đá cuội làm tôi trượt chân, tôi bị mất lưc trụ bám thế là ngã ra và chìm nghỉm. Lúc trôi tự do mới thấy rõ nước chảy mạnh. Tôi không thể buông túi đựng ba lô và súng.. Tôi trồi sụt một đoạn mới đứng lên được. Phải nói loại túi ni lon này quả là hữu ích cho lính vượt sông. Nó là bao bì lớp ngoài của các bao gạo. Các bao gạo 50 kg có 2 lớp túi ni lon bên ngoài được tàu thả từ ngoài biển rồi trôi theo sóng vào bờ biển dọc Cửa Tùng, cửa Việt tiếp tế cho bộ đội. Khi vượt sông, cho cả ba lô và súng vào gọn trong túi nilon. Sông nông thì chỉ việc lội và đẩy túi đi, sâu ngập đầu thì nó thành cái phao cứ bám vào phao mà vượt sang. Túi màu xanh sẫm như màu nước biển và rất dày. Anh em bộ đội thời ấy ở QT không lạ gì loại túi nilon này.

Qua bến vượt, chúng tôi đặt chân lên đất Quảng Trị. Bây giờ đang là mùa mưa. Trời nhiều mây, âm u,  tôi có cảm giác gai gai người. Chúng tôi được phổ biến cấm nói to và tụ tập ồn ào, đi phải cách nhau một đoạn, ba lô và mũ phải ngụy trang và đặc biệt tránh đốt lửa khói để phòng máy bay địch. Chúng tôi lầm lũi đi giữ cự li đội hình, lâu lâu lại được truyền miệng nghỉ giải lao tại chỗ, rồi lại đi. Cứ theo đường mòn đi mãi, lúc thì ven đồi cỏ tranh lúc thì lội qua suối nhỏ. Chúng tôi đi chếch lên phía Tây, qua hết đất Gio Linh rồi sang đất Cam Lộ, đã thấy mùi chiến tranh nhiểu hơn, rõ hơn. Đã nghe thấy tiếng uỳnh oàng xa xa, trên đường đi cũng đôi lúc nghe thấy tiếng máy bay địch ầm ì trên cao. Tôi cũng đã quen quen, đã tĩnh tâm trở lai sau mấy tiếng đồng hồ hành quân trên đất chiến trường. Tôi bắt đầu quan sát nhiều hơn và nhìn quanh xa hơn. Vẫn là những vạt đồi cỏ tranh nham nhở nhấp nhô, những lối đi qua suối hai bờ nhẵn bước chân lính, ngoằn ngoèo mãi. Khi gần đến điểm tập kết, tôi có ấn tượng mạnh về sự ác liệt của chiến tranh ở vùng đất này. Tôi cứ nhìn mãi những vạt rừng dưới chân điểm cao 544. Những cây to chết khô bởi chất độc hóa học, trơ trui cành và thân nhô cao trông như những bộ xương chết chóc hằn lên trên những mảng xanh của núi rừng. Chúng tôi tập kết dọc theo một con suối cạn dưới chân 544. Đêm đầu tiên trên chiến trường tôi ngủ trong một cái hầm chữ A cũ của bộ đội ta dạo đánh chiếm điểm cao này.

Rồi những ngày sau đó di chuyển vị trí, cũng chẳng nhớ mấy lần nữa, lúc ấy cũng đã quen nhiều với sinh hoạt đi lại của lính ở chiến trường. Lúc này sợ nhất là bom B52 và pháo từ biển bắn vào. Một lần, đang ở bên ngoài hầm đi ra suối thì nghe thấy tiếng bom B52 rền vang rất gần, có cảm nhận đất rung dưới chân. Mấy thằng chúng tôi lao ngay xuống suối ẩn nấp. Suối nông nhưng có một phía bờ thành cao, cây cỏ rậm rạp. Tôi và một thằng nữa lao rúc đầu vào trong đó, người cúi khom. Một lúc thấy im ắng thì nghe tiếng anh T., người nhiều tuổi hơn chúng tôi ngồi nấp ở bờ khô bên này cười gọi  “ lên thôi, hết bom rồi. Nấp như chúng mày rúc đầu vào cỏ mà mông đít thì chổng lên như thế thì  khác gì đà điểu rúc đầu vào cát, có ngày bom nó phạt mất mông ”. Hai thằng lóp ngóp chui đầu ra, cười ngượng ngịu.

Tiểu đội có thằng Q., nó nhanh như sóc nhưng cũng lắm trò. Có lần tôi ở cùng hầm với nó. Dạo này ban đêm hay có pháo kích nên lính cũng sợ. Thằng Q. chẳng biết học được ở đâu, có lần nghe bên ngoài uỳnh oàng tiếng pháo thấy nó cứ lẩm bẩm, tôi hỏi “ mày lẩm bẩm cái gì thế”. Nó bảo nó khấn cho tai qua nạn khỏi. “ Mày khấn thế nào ?”. Nó nói to cho tôi nghe : “ Xin lạy các quan anh, con cắn rơm cắn cỏ xin lạy các quan anh, các quan anh cứ đưa qua đầu cho, xin cứ đưa qua đầu cho. Từ ngày vào chiến trường con chưa bắn giết ai. Xin lạy các quan anh...”. Tôi cười sằng săc. Một lúc sau tôi bảo nó “ nếu đạn pháo nó bắn qua đầu thì thoát rồi nhưng thế nào nó cũng phải rơi xuống đất chứ”. “ Ừ nó rơi xuông chỗ đất trống”, nó cười. “ Thế thì mày phải khấn thêm như thế nhé.

Ngày qua ngày, rồi qua tuần qua tháng chúng tôi dạn dĩ dần với bom đạn, với những di chuyển địa điểm, nào đào hầm, lên rừng chặt cây, đi gùi gạo, làm đài quan sát, làm kĩ thuật trinh sát suốt ngày đêm..., thôi thì “nước sông công lính” cứ thế đi hết cả mùa mưa trên chiến trường Quảng Trị 1972.

Những trò nghịch dại


Hồi huấn luyện tân binh ở Hà Bắc, hay được tập ở trên đồi bạch đàn. Những cây bạch đàn nhỏ cao vút rất dẻo. Lúc giải lao mà chỉ huy đi đâu đó, mấy thằng nghịch ngợm vít thân cây xuống đu người cho nó đàn hồi nhấc người lên, lấy cảm giác vi vu trên không. Cũng là thư giãn tí, cho đỡ buồn ngủ í mà. Tôi cũng thích trò nghịch này. Mới đầu chưa biết cách nên cũng làm gãy cây. Sau này thì thạo, cây không gày mà lại đu được cao hơn.  Ấy là dạo chuyển về Quán Rãnh tập trung chờ nhiệm vụ. Lính nhiều thời gian học tập chính trị ngồi tập trung ở sân kho hơp tác, nhưng cũng có lúc được ra đồi bạch đàn. Lúc giải lao tôi rủ vài thằng thích nghich ngợm ra sườn đồi vắng. Chọn cây cao, trông thân chắc để có thể có độ đàn hồi khỏe và không gãy, tôi phải trèo lên thân cây một đoạn mới vít nó cong được để đu treo người xuống, rồi hai tay lần tiếp lên cao. Không như mọi lần, lúc thân cây trĩu xuống là mình buông tay tiếp đất ở độ cao khoảng vài mét chẳng có vấn đề gì, nhưng lần này cái cây đến khỏe nó chẳng trĩu xuống mấy thành ra nó đưa tôi lên cao quá, tôi bắt đầu thấy hoảng. Hai thằng đi cùng thấy thế cũng hô lên “ thôi nhảy xuống đi, nó mà gãythì mày cũng gãy chân đấy”. Tôi nhìn xuống thấy phía dưới là bãi đất trơ sỏi không có đá hay cọc, tôi buông tay, nghe huỵch một cái tôi ngã ngồi ra, hai tay tì chống ra phía sau. Ngồi một lúc tôi đứng lên, bàn tay bị sỏi tỳ sượt rớm đỏ còn chân thì hơi đau đau, may mà có giày tất. Tôi đi lại một lúc thấy chân không làm sao, xoa tay cho đỡ rát. May mà không bị làm sao cả.


Vào Hà Tĩnh huấn luyện, tôi vẫn nghịch dại. Có lần xin được 1 thanh bộc phá “tăng gia”loại ném tay,  tôi đem ra một cái suối vắng và xa. Gọi là suối nhưng ở địa hình đồi thâp, ở rìa đồi, như một cái hủng nước thì đúng hơn, nước lặng, đục và  không chảy, có chỗ nông chỗ sâu. Tôi chon được một vũng rộng nhiều nước, hi vọng sẽ có cá. Khi chuẩn bị xong, kíp đã cho vào lỗ bánh thuốc nổ, dây cháy chậm để dài cho an toàn. Chọn vị trí chạy và chỗ nấp xong tôi bảo thằng Sáng. “ lúc nào thấy tao ném xuống là phải chạy nhanh đấy”. Tồi nhìn quanh gần xa không thấy bóng người, rồi giật dây phát hỏa ném vội thanh bộc phá xuống hố nước. Hai thằng cắm cổ chạy một đoan.nấp phủ phục xuống một cái hố sâu.” Quái lạ vẫn chửa thấy nổ, hay là sịt “, thế là hai thằng nhỏm lên, nhìn về phía hố nước thấy nước đang ùng ục “sôi” rồi nghe một tiềng “oành” khàn, nước bắn lên thành cột hất lên cả bùn đất. Chúng tôi lao đến xem. Chẳng thấy con cá nào chết. Hóa ra nước nông quá, bộc phá đánh bật cả bùn và đất lên văng lên cả xung quanh bờ. “ Thật phí cả công và bộc phá. Thôi vêề.. !” Còn thằng Sáng thì cười sằng sặc “ cá chả thấy đâu, lại còn chạy với nấp”.
 
Có lần được làm quân xanh tạo khói lửa bằng bôc phá, tôi và thằng Q. là thằng cũng nghịch ngợm, cài bộc phá ở sườn quả đồi, buộc dây nối vào từng thanh thuốc nổ to hơn bộ tú –lơ-khơ, liên kết chúng với nhau theo hình vòng cung dài khoảng chục mét,  dùng đến khoảng vài chuc bánh bộc phá để tạo tiếng nổ liên hoàn. Sau khi lắp kíp nổ, dây cháy chậm,  rải các bánh thuốc nổ buộc vào dây đóng cọc ghim chắc theo hình vòng cung, tôi và Q. dòng dây lên đỉnh đồi rồi tụt xuống nấp bên sườn đối điện nhưng gần đỉnh đồi hơn để khỏi yếu lực kéo dây và dễ giât dây. Kéo đầu dây và chỉnh cho căng rồi nằm chờ giờ G điểm hỏa. Đến giờ, chúng tôi giật dây . Nghe chuỗi bộc phá nổ liên hoàn, đinh tai nhức óc, những chớp lửa trong đụn khói đen, đất cát bay rào rào văng lên tận đỉnh đồi rơi xuống cả chỗ 2 thằng nằm sườn bên này, vừa sợ nhưng cũng có cảm giác thích thú. Nhìn về phía quả đồi xa thấy anh em “quân đỏ” đang xung phong, đạn giả nổ lẹt đẹt. Xong nhiệm vụ, chúng tôi tụt xuống chân đồi phía sau thao trường giải lao. Hai thằng khoái chí vì đã hoàn thành nhiệm vụ được giao mà lai “tăng gia” được mấy bánh thuốc nổ để nghịch. Thao trường đồi núi rộng, hôm đấy hết giờ không phải tập trung cùng về, nên đên giờ về tôi và thằng Q. nán lại để “đánh” bộc phá “tăng gia”. Gần đấy có một mỏm núi đá thấp, tôi bảo với Q. bó cả mấy bánh thuốc nổ lại rồi nhét vào khe một tảng đá lớn để đánh có tiếng nổ to và đá lở cho thích. Chúng tôi nối dây giật thật dài và chọn chỗ nấp thật an toàn. Để an toàn hơn, chúng tôi để dây cháy chậm dài hơn nữa để sau khi giật thì chạy tiếp xa hơn nữa để nấp, nhưng quả thực khi cái bịch bộc phá ấy nổ mới thấy sợ và thấy nghich dại quá. Tiếng nổ lớn đã đành, nó còn đanh và chát chúa bởi âm  thanh vọng vào vách núi đá cao gần đó, rồi các mảnh đá răm và bụi đá lẫn khói mờ mit bay văng ra tân gần chỗ chúng tôi nấp cách đó phải đến  mấy chục mét. Hai thằng sợ, không dám lại chỗ đánh bộc phá nữa mà đi thẳng về. Sau vụ này, đôi khi nghe anh em lúc đi tập nghỉ giải lao nói chuyện về những tai nạn bộc phá đánh cá, tôi đâm sợ và không dám nghịch dại nữa.

 Giờ nghĩ lại vẫn thấy sợ, sao ngày ấy mình lại nghịch dại thế nhỉ.

Thái quá



Chuyện lãng xẹt xảy ra trong Căn cứ hải quân Cát Lái, trên đất Gia Định  bên bờ sông SG. Mấy thằng lính TSKT chúng tôi bị quân ta bắt giữ.

Đêm 29/4/75 cánh quân cuả Sư đoàn 325 chúng tôi đã tới được bến phà Cát Lái. Đủ các lực lượng dồn ứ tại đầu bến phà bên này, vì tàu phà bị địch rút về bờ bên kia, ngay sát căn cứ hải quân Cát lái. Trên trời, dưới lính. Suốt đêm lính hành quân nườm nượp, bộ có, xe ô tô có, xe tăng có, giờ ùn ã cả ở đây. Mệt mỏi nhưng háo hức, chỉ còn cách Sài Gòn một bến phà thôi. Thế mà  phải dừng lại, thế có chán  không chứ. Thôi thì trong lúc chờ thông phà, lính tạm nghỉ vật vạ dọc hai bên đường, nằm ngồi la liệt, người chập chờn, người thức.

Sáng hôm sau 30/4, chúng tôi mới qua được sông rồi cứ theo đường trục tiến về hướng trung tâm. Đi cũng khá xa bến phà nhưng phải dừng lại vì chiến cuộc đã xong trong trung tâm SG – cánh quân theo trục xa lộ qua cầu SG đã vào trước. Cánh quân này gặp bến phà nên bi chậm hơn. Đêm đó Ban TS và tiểu đội TSKT chúng tôi ngủ nhờ nhà dân ven đường trên đất quận 9.

Sáng hôm sau chúng tôi lui về trú tại Căn cứ Hải quân Cát Lái, cùng một số đơn vị của Phòng TM Sư đoàn và C20. Căn cứ rộng, có nhiều nhà kho, phòng làm việc và nhà ở của lính và sĩ quan hải quân. Nhà từng dãy theo từng khu cách xa nhau, đường nội bộ rải bê tông rông, dọc lối đi có những cây dừa cao trĩu quả. Tiểu đôi tôi ở hẳn một dãy riêng thuộc khu sĩ quan, gồm nhiều phòng rộng, cứ 2 thằng 1 phòng. Phòng nào cũng ngổn ngang giấy, sách báo, tranh ảnh. Anh em dọn phòng để ở, thôi thì lính xem no mắt tranh ảnh khỏa thân, rồi nghịch ngợm lấy những bộ quân phục của sĩ quan hải quân VNCH còn mới trong tủ mặc nhìn ngắm nhau cho oách.


Ở trong Căn cứ mới được mấy ngày thì một hôm tôi và Công củng đi đên C20 để goi Duyên về đi chụp ảnh, có kết hợp vào nhà kho trong Căn cứ để lấy chiếu nilon về trải giường ngủ. Vào kho chúng tôi thấy có cả máy PRC25 mới,  thế là máu nghề nghiệp TSKT nổi lên, hai thằng xách luôn 2 chiếc về tiểu đội. Hai thằng lại còn bảo anh em là trong kho vẫn còn nữa, thế là lại bảo nhau đi lấy thêm. Tôi dẫn Định già và Điển dẹt đi. Hai thằng nhìn đống máy sướng quá, lôi máy ra thử cho chắc ăn. Đang hỉ hả thử thì bất ngờ Ông Trung tá Tham mưu trưởng SĐ đi qua. Nhìn thấy chúng tôi, ông dừng lại:
-   Các anh ở đơn vị nào, đang làm gì ở đây.
-   Dạ, báo cáo thủ trưởng ở TSKT Ban 2 ạ. Chúng em đang thử máy để lấy về cho Ban.
-   Thế giấy cử đi lấy máy của thủ trưởng Ban đâu ?
-   (Chêt cha, toi rồi )........
-   Các anh đi theo tôi
Ba thằng lững thững theo sau ông, nhìn nhau mỉm cười lắc đầu. Ông  dẫn chúng tôi đến giao cho đơn vị Vệ binh SĐ bộ ở ngay cạnh nhà của chỉ huy Phòng TM SĐ ngay trong Căn cứ không xa dãy nhà chúng tôi lắm.Vì không phải lính lạ, cũng lính của Phòng TM lại là lính TS nên ae Vệ binh chỉ  giữ “lỏng” chúng tôi. Thế là đêm đó 3 thằng ngủ ở chỗ Vệ binh, Đến sáng hôm sau, tôi xin phép về Ban báo cáo. Tôi đi cùng anh Kim trợ lý đi gặp thủ trưởng Phòng TM. Khi gặp ông Tham mưu trưởng, ông ấy nói là hôm qua trao đổi thì ông Trưởng ban TS còn thách giam nên chưa giải quyết. Tối tôi lại về Ban hỏi thủ trưởng xem g/q chúng tôi như thế nào thì ông bảo sáng mai sẽ được về.Chán thật. Các thủ trưởng “ thách nhau “ thế là lại phải ngủ một đêm nữa với anh em Vệ binh. Vài hôm bị giữ ở Vệ binh, anh em tiểu đội mang cơm bữa đều đặn, lại còn có cả rượu Napoleon và thuốc lá Rubi Queen nữa chứ.

7 giờ sáng hôm sau 3 thằng về đến ‘nhà’. Anh em tiểu đội nhìn nhau cùng cười như ma làm. Lúc chúng tôi được “thả” chẳng thấy ai tuyên bố gì, nhắc nhở gì, chỉ thấy ae Vệ binh trực nói “ thôi các anh về “. Chúng tôi cũng chẳng bị Ban phê bình nhắc nhở gì nghiêm trọng. Anh em chúng tôi hiểu nó như chuyện dại dột mà thôi.


Cũng tại chúng tôi thái quá chăng ? Chiến tranh kết thúc rồi mà còn hăng hái đi lấy máy với móc làm gì. Có địch nữa đâu mà trinh sát kĩ thuật với chả máy....
Các Thủ trưởng Ban 2


Ban 2 là Ban Trinh sát thuộc Phòng Tham mưu Sư đoàn.. Theo ngành dọc thì trên Ban 2 Sư là Phòng Quân báo hay Trinh sát của Mặt trận hay Quân đoàn sau này, trên nữa là Cục 2, dưới Ban thì  có 1 tiểu đội TSKT trực thuộc Ban, có C20 SĐ  và các Chủ nhiệm TS Trung đoàn với mỗi Trung đoàn có 1 C20.
Các thủ trưởng Ban 2 đều là những trinh sát kỳ cựu, mỗi người một vẻ trong trí nhớ của ae lính TSKT chúng tôi một thời gần gũi trong chiến đấu và sinh hoạt với họ..

Khi SĐ 325 ở Hà Bắc chuẩn bị đi chiến trường thì Đại úy Tân là Trưởng Ban 2, các trợ lý Ban thì có anh Lê Trường Vũ, người Thủ Dầu Một, lính biệt động được ra Bắc đào tạo mới ra trường được điều về Ban và anh Ngơi, người sau này làm C trưởng C20 sau khi Đại trưởng Hiền chuyển đi.
Thủ trưởng Tân quê Bắc Ninh, người dỏng cao, trắng, trông nho nhã và nói năng nhẹ nhàng Ông là người chú trọng đến đào tạo TSKT, TS  ảnh và TS binh địa bài bản và tin tưởng ae chiến sỹ là sinh viên. Hùng côn kể, lúc đó Hùng đang ở C20 Sư, một lần ông xuống C20, thấy Hùng trắng trẻo, thanh mảnh trông thư sinh., ông hỏi :
-   Cậu học lớp mấy ?
-   Dạ, em học lớp 14 a..
-   Thế cậu học đại học à
sau đó không lâu Hùng được điều động về tiểu đội TSKT chúng tôi, vào quãng đầu 1973.
Thủ trưởng Tân chuyền lên B5. trong năm 73. Từ đó đến nay chúng tôi không biết tin tức của ông.

Sau thủ trưởng Tân, thủ trưởng Ban 2 là các ông Quỳnh, ông Luyến là các Phó ban lên. Tôi không nhớ ông Quỳnh về Ban thời gian nào trong Quảng Trị và chuyển đi lúc nào, chỉ nhớ ông ở Ban không lâu. Thủ trưởng Quỳnh người khu 4 không nhớ tỉnh nào. Còn Thủ trướng Luyến thì tôi nhớ về Ban từ lúc đơn vị huấn luyện ở Hà Tĩnh.

Thủ trưởng Luyến làm Trưởng Ban 2 lâu nhất, ông vẫn làm Trưởng ban khi mấy đứa lính sinh viên trong tiểu đội TSKT chúng tôi được ra quân đầu tiên , đợt tháng 6/1975 tại Căn cứ Nước Trong, Long Thành. Lúc đó tiểu đội TSKT chúng tôi "hết việc" đã được Ban 2 chuyển về sinh hoạt trong đội hình C20 Sư đoàn từ dạo ở Thành Tuy Hạ cuối tháng 5/75.

Ông Luyến, quê Hà Bắc, người thấp đậm, da ngăm ngăm, râu ria trông vâm váp khỏe mạnh. Ông hơn ae chúng tôi đên vài chục tuổi Anh em chúng tôi hay gọi ông là Bọ Luyến. Ông có thói quen vừa ngồi nói chuyện vửa nhổ râu và thích chơi cờ tướng. Cờ ông cũng thuộc loại khá , ông ham chơi cờ và có phần “thích “ thắng. Hồi ở Tân Vĩnh yên ả, nhà Ban cũng gần nhà tiểu đội TSKT nên một số ae tiểu đội tôi cũng hay tạt sang chơi, có ae biết chơi cờ thì chơi cờ với Thủ trưởng. Nghe tiếng Thủ trưởng cười sảng khoái, ae biết là thủ trưởng đang thắng cờ, luc thì thằng P., lúc thì thằng C. Hai thằng này thấp cờ trong Tiểu đội.

Thủ trướng Luyến khỏe và xốc vác kiểu nhà nông không ngại việc nên lính “cậu” chúng tôi cũng mệt. Sang năm 73 có Hiệp định Pari, lính bộ binh phía trước doc tuyến giáp ranh địch còn vất vả với chốt giữ đất tuy đã yên bình, còn lính phía sau thì không còn phải chui rúc trong hầm nữa. Các đơn vị bắt đầu làm nhà ở , tuy rằng nhà vẫn âm xuống một chút và ở sườn đồi thấp, nhà không quá cao và lộ liễu. Nhà tiểu đội chúng tôi và nhà Ban 2 nhìn xuống bãibồi rộng của sông Lai Phước, trông đẹp và thoáng đãng. Nhà chúng tôi, theo ý kiến của Bọ Luyến, chúng tôi làm thêm một phần nhô ra phía trước, nối vào giữa ngôi nhà trông như cái chuôi vồ. Từ đó cứ gọi là nhà chuôi vồ. Ngoài thêm việc làm cái chuôi vồ, chúng tôi lại phải don dẹp san phẳng phía trước làm thành cái sân nhỏ trước khi bước lên chuôi vồ đi vào nhà. Ban đầu anh em rất ngại việc, cứ lẩm bẩm “ sao Bọ Luyến cứ bày việc ra thế nhỉ”, Về sau ở lâu mới thấy Bọ có lý và đúng là rất hữu dụng. Cái chuôi vồ làm cho ngôi nhà thoáng và bề thế hẳn lên không phải “lép” quá ở sườn đồi, cái sân con trước mặt cũng tạo thông thoáng và khoáng đạt cho ngôi nhà . Nhà có sân tạo cho ta cảm giác đỡ nhớ nhà hơn chăng. Lại nữa, nhà chúng tôi ở như vậy cũng không quá “chênh lêch” so với nhà của các Thủ trưởng Ban gần bên cạnh ở vị trí đẹp hơn, làm đẹp hơn. Có lẽ Bọ Luyến nghĩ vậy, Bọ thật tâm lý.
Từ nhà chúng tôi ra bờ sông chỗ gần nhất cũng khoảng vài trăm mét. Với chúng tôi, những thanh niên vô tư lúc yên bình này,thích chơi hơn thích làm, chẳng thành vấn để về tắm giặt ở ngoài sông, đi kiểu gì mà chả ra tới sông. Thế nhưng, dưới con mắt của Bọ Luyến thì lại khác. Lính của ông phải đàng hoàng, ngăn nắp và có tổ chức. Và có phải chỉ mỗi tắm giặt không đâu, còn phải lấy nước sông về tưới rau tăng gia nữa chứ, trước mặt có mấy hố bom múc mãi cũng phải hết nước chứ. Thế là Bọ bảo ae mở một lối đi nhỏ chạy dọc theo sườn đồi ra đến bờ sông. Tại đây, làm một cái cầu như kiểu cầu ao, chỉ việc đóng cọc và buộc đỡ tấm ghi sân bay vào là thành một cái cầu chắc chắn. Các buổi chiều ae chúng tôi ra tắm sông tại “cầu ao “ nhà mình rất thích, con đường ra “cầu ao” thì đi mãi thành mòn và tiện lơi, tất nhiên là chúng tôi mở đường theo kiến thức binh địa của TS là đường ngắn nhất và dễ đi nhất.

Rồi tăng gia trồng rau, trông lạc, trồng sắn. Đất sẵn đấy, cả một vạt đất bồi trước mặt màu mỡ. Bọ Luyến bảo chúng tôi làm một cái vườn rộng khoảng nửa sào hình chữ nhật ngay trước nhà để trồng rau muống và lạc. Giống rau muống Trung quốc bên Phòng Hậu Cần SĐ cấp, loại rau muống trắng gieo hạt và lên rất nhanh. Chiều chiều, lính đến phiên trực nhật tưới rau, khoảng  4-5 thằng, vác ống H12 là vỏ thùng đựng hỏa tiễn vác vai của phòng không ra sông lây nước. Mối thùng đầy nước cũng phải bằng hơn 1 thùng gánh nước thông thường. Vác tứ sông về, mấy thanh niên mình trần quần đùi rầm rập, huỳnh huỵch cứ như vác đạn cho trận địa. Mệt mà vui. Cái giống rau muống này tốt nhanh, um tùm như rau ngổ nước, màu lá không trắng như tên gọi, mà sáng bờn bợt, thân thì mềm nhưng xốp rỗng Ăn thì nhạt, thành ra trồng cho vui, có lẽ thế. Vườn rau được lính tưới nước đẫm đều hàng ngày theo bảng phân công trực nhật nên tươi tốt trông rất đẹp mắt. Rau muống chúng tôi ăn thì ít, chủ yếu là cho nhà bếp Ban 5.  Ngoài rau muống và lạc ở vườn, chúng tôi còn trồng sắn và lạc ở bãi đất rộng gần bờ sông. Đất bồi màu mỡ nên sắn và lạc đều tốt, củ to. Khi thu hoạch, luộc ăn thỏa thích.

Năm 74, Bọ Luyến còn triển khai cả cấy lúa ở dưới Thôn Trà Liên Tây là nơi C20 SĐ đóng quân, không biết Bọ liên doanh với dân ở đây hay ủy thác cho C20...chỉ biết có lần tôi và Hùng côn được phân công đi be bờ giữ nước cho ruộng để chuẩn bị cấy lúa.Tôi chẳng biết sau tiếp tục như thế nào nữa, chỉ nhớ mãi là buổi chiều hôm đó sau khi làm xong việc ở ngoài ruộng tôi và Hùng về làng Trà Liên Tây, ra sông Thạch Hãn bơi thuyền với hai em ở địa phương mà Hùng quen thời ở C20. Hai em chạc tuổi 17- 18, một em tên Túy còn em kia tôi không nhớ tên. Em Túy da ngăm ngăm, khỏe mạnh trông có vẻ đẹp rất Quảng Trị, còn em kia thì thanh thanh và ít lời hơn. Chúng tôi ngồi để hai em chèo. Chiều mùa hè, mặt trời chưa lặn, nắng đã hết gắt, nước sồng xanh trong, gió nhè nhẹ dễ chịu. Chèo thuyền dọc sông được một lúc thì hai em nhảy ùm xuống sông tắm, lại còn té nước lên thuyền làm ướt hết cả người hai anh. Thế là hai anh cũng nhảy xuống tắm. Em Túy nghịch liên tục té nước, cười đùa làm em kia cũng bạo dạn hơn, hai anh cũng té nước đùa trêu hai em. Đường từ Trà Liên về Tân Vĩnh cuốc bộ cũng khá xa nên chúng tôi đành chia tay hai em để ra về. Hôm ấy hai anh lính TSKT về ăn cơm rất khỏe và ngủ rất ngon !


Phía trước nhà dưới bãi thấp có một hố bom to nhiều nước và rất sâu. Nước cạn dần. Chúng tôi hàng ngày nhìn cái hố bom cũng chỉ biết vậy nhưng trong mắt Bọ Luyến thì Bọ lại nhìn thấy nhiều hơn thế. Một hôm, Bọ cho lính xuông Trà Liên Tây mượn lưới vét của C20. Bọ bảo hai thằng trong tiểu đội chúng tôi lội xuống dùng lưới vét cá. Ai cũng ngạc nhiên. Mà được cá thật, mà lại cá to mới kinh chứ. Hôm đó Ban và tiểu đội TSKT được ăn cá rất đã ở cái hố bom ấy. Thì ra, mùa mưa nước sông lên to và cá ngoi lên theo nước rồi mắc kẹt lại ở hố bom. Bọ tài thật.

Bọ Luyến đi săn thú rừng ban đêm cũng giỏi. Khu vực đơn vị đóng quân ở Tân Vĩnh gần nhiều đồi , suối và khe rãnh rậm rạp nên có một số thú. Có tối nhìn thấy Bọ xách súng săn, trên trán đeo đèn dọi trông đúng là thợ đi săn đêm điệu nghệ. Nhiều lần lính A12 được ăn thịt cầy hương Bọ săn được, có lần được ăn cả thịt nhím.
 
Mấy ae A12 TSKT ở Hà nội hàng năm cũng thường họp mặt, năm thì tụ họp ở nhà anh này, năm thì nhà anh kia. Có năm cả thủ trưởng Luyến và anh Kim còi Trợ lý Ban 2 từ Hà Bắc cũng về HN dự với chúng tôi. Nhắc lại bao nhiêu chuyện của thời ấy thật vui.
Năm hai nghìn linh mấy, tôi không nhớ rõ, mấy ae A12 Hà nội lên thăm gia đình anh Kim, gia đình ông Luyến. Dạo ấy nhà ông Luyến ở ria đường gần cầu Bắc Giang. Thời ký ấy vùng đất Lục nam, Lục ngạn, Nhã nam đang phát triển mạnh trồng vải thiều, hấp dẫn nhiều người thành phố lên mua đất trang trại trồng vải. Ông Luyến bảo chúng tôi có thích thì ông đưa đi xem chơi trên Nhã nam ở đó ông có người bà con. Ông đưa chúng tôi đi, có chỗ qua cả suối, mấy ae phải cõng các bà vợ để lội qua. Các vạt đồi cũng được dân địa phương phát cây đi để trồng vải. Khắp nơi đều thấy trồng vải. Các bà vợ chúng tôi rất thích và cũng thích mua đất trồng vải nhưng đều ngần ngại vì xa quá, dù giá đất có rẻ. Chiều chúng tôi quay về nhà ông Luyến và xuôi Hà nội. Thấy nhà thủ trưởng chưa có điện thoại bàn, mấy ae tặng thủ trưởng ít tiền để mắc điện thoại tiện liên lạc với anh em A12.

Các cán bộ ở ban 2, cấp dưới Trưởng ban thì có nhiều qua các lần thay đổi đi và đến. Tôi còn nhớ tên các anh:  anh Ngơi, anh Kim, anh Vũ, anh Tỉnh, anh Dụ, anh Xích, anh Báu, anh Thẩm và anh Hạnh.
Anh Ngơi, người Ninh Bình, tầm tầm, khỏe, nhanh nhẹn. Anh rất vui tính. Anh là người đầu tiên ở Ban 2 từ Hà Bắc. Đên cuối 72 khi Đại trưởng Hiền C20 chuyển đi thì anh được điều về làm C trưởng C20 Sư. Năm 74 anh chỉ huy một toán TS toàn những cán bộ chiến sĩ giỏi đi luồn sâu ở tây TT-Huế thì bị thương nặng trong vụ lật xe xuống vực trên đèo 365 tây Quảng Trị.

Anh Vũ, người Thủ Dầu Một, ae chúng tôi gọi là anh Hai Vũ. Anh trẻ, trắng, chưa vợ.. Anh là lính biệt động thành nhưng khi đường dây bị lộ nên ra Cứ và được cử ra Bắc đào tạo nhưng trông anh thư thái, lãng tử theo kiểu anh hai Nam Bộ, vui tính và hay gần gũi với anh em A12. Năm 73, 74 yên bình nên có rất nhiều đoàn văn công vào Quảng trị phục vụ bộ đội và nhân dân ở vùng giải phóng. Trong một đoàn văn công dạo ấy, có một cô xinh rất thích anh Hai Vũ, thấy cô hay đến Ban 2 đi tâm sự với anh, hai người đi bộ loanh quanh dọc theo quả đồi ở phía sau, trông rất đẹp đôi và lãng mạn. Sau này không thấy gì. Có lẽ do chiến tranh và xa xôi cách trở. Anh Vũ ở Ban 2 mãi, khi tôi ra quân thì anh vẫn ở Ban 2.

Anh Kim cũng là một Trợ lí Ban từ hồi anh chuyển từ E101 lên cho đến mãi sau 30/4. Anh quê Yên Phong, Hà Bắc, nhỏ người, nhanh nhẹn hoạt bát,hơn ae chúng tôi độ mươi tuổi. Anh hay vui chuyện tiếu lâm, cười nói oang oang. Anh em A12 goi anh là anh Kim còi. Không phải là còi cọc mà là anh nói to như loa, như còi. Anh hay đùa chêu Bọ Luyến. Tôi còn nhớ chuyện vui anh hay kể là chuyện Sân khấu lệch. Năm ngoái mấy ae A12 đi dự thượng thọ 70 của anh. Thấm thoắt đã gần 40 năm. Trông anh vẫn khỏe và hoạt tính như ngày nào.

Anh Kiều Tỉnh người Sơn Tây, khi đi bộ đội đã tốt nghiệp ĐH, đang chờ nhận công tác thì gặp đợt tuyển quân của trường. Anh là vua tiếu lâm. Hành quân mệt nhọc có anh kể chuyện nên ae cũng quên cả mệt. Anh ở A12 từ ngày thành lập TSKT rồi Ban 2 cho đến mãi sau 75, đi cả chiến trường K, rồi đi học nghiệp vụ quân báo bên Nga, sau nhiều năm theo nghiệp đó, mấy năm trước anh về hưu quân hàm Đại tá.
Anh Tỉnh là người biết nhiều, đông tây kim cổ. Anh giỏ tiếng Anh và tiếng Trung. Thời gian làm TSKT cùng A12, anh làm tổ trưởng Tổ Thông báo ra tin, là chỗ dựa tin cậy về chuyên môn của chúng tôi. Đầu năm 73 anh được rút lên Ban.
Gần đây hay gặp anh khi giao lưu bạn bè CCB, anh vẫn tếu táo tiếu lâm vui nhộn

Anh Xích người Thanh hóa, thời gian ở Ban ngắn, đến và chuyến đi trong năm 73, 74. Tôi nhớ anh Xích người đậm, hiền, it nói. Cùng cuốc đất trồng sắn với anh mà thanh niên chúng tôi thua xa. Nhớ có lần anh treo cái dạ dày nhím lên gác bếp của A12 bảo để dùng chữa đau dạ dày rất tốt.
Anh Dụ người Quảng Bình, về Ban năm 73 hay 74 tôi không nhớ chính xác, anh ở Ban hết cả chiến dịch 75. Hôm đánh qua thị xã Phan Rang, anh Dụ đi xe cùng mấy ae A12 . Nhớ chuyên anh Dụ có lần ra Cục 2 tập huấn khi trở lại đơn vị có kể rằng anh đi chơi chợ Hà Nội thấy có bán loại rau gì giống su hào mà ở trên ngọn như người ta đổ bột vào. Anh em nghe chuyên không biết là cây rau gì, tranh luận mãi thì vỡ ra nó là cây xúp lơ.

Anh Báu chuyển từ Ban Đặc công Sư sang Ban 2 quãng năm 73, sang năm 74 anh chuyển đi. Cuối 73 tôi được ra Bắc công tác kết hợp về thăm nhà, cùng đi đợt với anh Báu. Tôi lên tận nhà anh ở Sàn, Lục Nam. Quê anh Hưng Yên nhưng vợ anh làm ở Cửa hàng bách hóa huyện tại Sàn.

Còn anh Hạnh và anh Thẩm là cán bộ Trinh sát dưới Trung đoàn trong Sư chuyển lên Ban, khoảng trong năm 74. Hai anh cùng Ban 2 đi hết chiến dịch 75. Tôi không biết nhiều về anh Thẩm, chỉ nhớ anh Hạnh là khi dừng chân ở Đà Nẵng mới giải phóng, có hôm tôi đi theo anh vào trong trung tâm thành phố chơi và khi đơn vị hành quân qua Bình Định ngày 9/4/75 anh và anh Ánh C viên phó C20 Sư được tranh thủ tạt về thăm quê, các anh xa nhà đã trên dưới 10 năm.

Ban 2 có 1 chiến sỹ trẻ làm liên lạc và làm các việc vặt. Tôi nhớ có câụ Thơ, cậu Cam, đâu như đều lấy từ C20 lên. Thơ thì sau này tôi không gặp, hình như chuyển đi đơn vị nào đó, còn Cam thì có gặp lại mấy năm trước, cậu nói cậu làm ở Phường Ô Chợ Dừa.

Một nhân vật không phải lính, không phải biên chế Ban 2, là dân sự nhưng phục vụ Ban 2 từ Đà nẵng vào đến tân Sài Gòn 30/4. Đó là cậu Tài, lái xe Jep cho Ban. Khi giải phóng Đà nẵng, Ban lấy xe Jep chiến lợi phẩm nhưng phải có người lái. Thế là có Tài. Tôi không rõ lấy được Tài làm lái xe cho Ban cụ thể như thế nào. Tài hiền và rất mẫn cán với công việc lái xe cho Ban. Khi ở Đà nẵng, hôm tôi theo anh Hạnh đi chơi trung tâm thành phố bằng xe Jep do Tài lái. Tài đưa chúng tôi về nhà chơi. Tôi chẳng để ý nhà Tài ở chỗ nào, chỉ nhớ ở mặt đường, nhớ được ăn mỳ Quảng nhà Tài mời hôm đó rất ngon. Sau 30/4 đơn vị lui về đóng quân ở  Căn cứ Nước Trong, Long Thành thì Tài được Sư đoàn cấp giấy chứng nhận phục vụ quân đội để “ra quân” trở về nhà. Chắc Tài có một kỉ niệm đẹp trong cuộc đời với Ban TS Sư đoàn 325 và anh em A12 TSKT trong tháng 4/75 ấy.

Thời gian huấn luyện ở Khe Lang, Nghệ tĩnh, điều làm tôi suy nghĩ rất nhiều là dân Hà Tĩnh thời đó quá khổ, tất nhiên thời kỳ sau giải phóng cái đói, cái khổ đeo bám cả dải đất chữ S này đâu chỉ riêng Hà tĩnh...nhưng thật sự ngay cả trong tưởng tượng tôi cũng không thể hình dung nổi cuộc sống của họ lại cơ cực đến như vậy. Nói  gì thì bộ đội chúng tôi vẫn còn có tiêu chuẩn gạo để ăn ( dù là gạo mục, gạo hẩm ) đôi lúc phải ăn bột mì, bột cám, khoai mì ...nhưng người dân tại vùng chúng tôi đóng quân thì thật tội, họ đứt bữa là chuyện bình thường. Nhìn những đứa trẻ thiếu ăn đứng nhìn bộ đội ăn cơm lòng chúng tôi xe lại, vậy là các cháu lại cùng chia sẻ với các chú bộ đội khẩu phần ăn lúc nào cũng không được đầy đủ...Một món ăn mà gia đình nào cũng có một hũ để trong bếp là dưa nhút ( sơ mít muối thật mặn ) mà các bọ mạ sẵn sàng đãi khách.
Tôi nhớ mãi nơi chúng tôi đóng quân có dãy núi tên Tân Hương ( lâu quá tôi cũng không nhớ chính xác )...nơi mà mỗi ngày đi củi chúng tôi đều phải vượt qua nó. Để qua được bên kia sườn núi, chúng tôi phải vượt qua 2 con dốc tên thật lạ kỳ: dốc hạ sỹ, dốc thượng sỹ...tên những con dốc này do cán bộ huấn luyện đặt tên theo độ dốc của chúng: dốc hạ sỹ có thể nhìn thấy đỉnh, dốc thượng sỹ thì chỉ thấy lưng dốc...cánh lính trẻ chúng tôi trong chương trình huấn luyện phải tập vượt qua những con dốc này. Bên kia dãy núi là xóm Tân Hương...thời đó bà con ở đây sống giống như thời xa xưa, mặc dù có tiền nhưng họ ít sử dụng mà chỉ mua bán = hình thức trao đổi hàng hóa, hiện vật...cuộc sống của họ thật đơn giản và nghèo khó

NGÔI LÀNG KHÔNG BÌNH YÊN



   Ngược thời gian hơn 40 năm về trước . Xóm nhỏ của tôi là vùng tranh chấp . Cán bộ , du kích ở ngay trong dân . khi Giặc Mĩ hay lính ngụy đi càn thì làng xóm bị pháo dập tan tành . Khi Mĩ đến , đàn ông thì chạy đi, gấp quá thì rút xuống hầm bí mật.Thường thì cũng có phân công các em thiếu nhi chăn bò cảnh giới. Khi thấy chúng đến thì la:" bò ăn lúa" hay " trâu ăn sắn "
 Hôm ấy , mới sáng sớm , Mọi người đều còn ở nhà thì đã thấy lính Mĩ từ phía sau vườn đạp bờ rào đi vào. Tên lính Mĩ trăm một tràng gì đó, mẹ tôi và anh chị cứ lắc đầu " no biết " . Chúng hỏi gì thì cũng chỉ biết trả lời "NO BIẾT !" . Còn tôi thì chạy ra đưa tay nói : " Chú , cho xin tán kẹo". Có khi cũng được nhiều kẹo , nhưng hôm đó thì không có. Tụi chúng đi vòng quanh nhà chỉ thấy đàn bà và trẻ con rồi bỏ đi. Một lúc sau bổng nghe một tiếng nổ lớn ở xóm trong. Mọi người chưa hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng nhà ai nấy ở, không dám chạy vào xóm trong xem thử ra sao.Đến gần trưa khi tụi Mĩ đã rút lên đồi mọi người mới chạy vào nơi phát ra tiếng nổ ấy thì dân làng đang kéo từ căn hầm nhà bà Kính ra ba thây người chết nám đen thân người nào cũng te toét máu.Thì ra hôm ấy nhà bà kính đang ăn cơm sớm mai có 2 du kích ở đó nữa , Mĩ đến sớm quá bất ngờ,  3 người đàn ông (2 du kích và ông Sinh ,con trai bà Kính , cũng là cán bộ ) không kịp chạy, vội chui xuống hầm tránh pháo của gia đinh , không kịp xuống hầm bí mật. Tụi Mĩ chẹn miệng hầm và gọi lên, nhưng không ai dám lên, chúng bèn đặt mìn và giật trước mặt mẹ ,con  ông Sinh.
 Ôi ! lần đầu tiên khi mới 5 tuổi đầu tôi đã thấy người chết do bom mìn . Thật kinh hải đến bây giờ.
Sau vụ 3 người chết do Mĩ giật mìn thì các nhà đều lo củng cố lại hầm tránh pháo, hầm bí mật và cảnh gới nghiêm ngặt hơn . Riêng cô bé Sinh - con ông Sinh( gọi theo tên con ) trở thành cô bé mồ côi lúc 6 tuổi. Mẹ thì đã bỏ đi Sài Gòn lấy chồng khác -do mâu thuẩn gia đình -trước đó mấy năm.  Cha cũng bị giặc Mĩ giết rồi. Hai bà cháu sống lây lắt qua ngày ,cùng tản cư chạy bom đạn đến hết cuộc chiến tranh. Bây giờ cô bé ấy sắp trở thành bà ngoại rồi đó.
 
Cũng xin liên hệ lại lịch sử một tí. Sau Hiệp định Giơ ne vơ 1954. Ở quê tôi chỉ còn một số đảng viên cài cắm trong dân, một số thì lên núi. Chính quyền Ngô Đình Diệm ra chính sách "Tố cộng, diệt cộng " Từ 1960 đã thực hiện xây dựng "Ấp chiến lược" Mỗi gia đình phải nộp hàng trăm cây tre dài 3m rào quanh làng, bên trong có lính Bảo an, Dân vệ canh phòng .
Những cán bộ từ trên núi mò về có người đã bị bắn chết nằm trên bờ di ( Hàng rào Ấp chiến lược bằng tre ) Riêng có ông Phận là một đảng viên kỳ cựu, ra vào ấp chiến lược như " Xuất quỉ nhập thần".

Chuyện nầy nghe người lớn kể lại :

Hôm ấy gần 12g đêm , dân trong ấp đang ngủ say thì có một loạt súng nổ. Có tiếng la của Dân vệ : Bắt lấy nó, bắt lấy nó... Sau đó là tiếng kẻng dồn dập. Mọi người cầm đèn chạy ra .lại có tiếng la : Bắt lấy ông Phận ! Có người thấy một bóng đen chạy dọc theo bờ di lẫn vào hàng cây trong ấp . Đó chính là ông Phận
Lúc đó ông cũng nhanh trí chạy lẫn vào đám đông , chộp ngay một chiếc đèn dầu của ai đó và cũng hô to :
 
- Bắt lấy ông phận ! hắn chạy ra hướng cổng ấp kìa.
 Mọi người chạy theo hướng ấy. ông lại la to :
 - nó chui qua cổng rồi ! - Mở cổng ra mau !

Tên lính Dân vệ vội chạy ra mở cổng . Mọi người túa ra chạy về các ngã tìm kiếm
thì ông cũng vừa chạy vừa la như thế rồi ra xa ném đèn chạy thoát.
Người dân chẳng ai muốn bắt bà con của mình nhưng sống trong ấp chiến lược, bọn ngụy o ép phải làm như thế.
Đến 1965 thì Ấp chiến lược nhiều lần bị đốt cháy tan tành. Bọn ngụy phải chạy xuống đóng đồn ở Trà Câu. Quê tôi trở thành vùng Giải phóng.
  
 Trong thôn có một trường làng ,học Lớp 5, lớp 4 ( Tức lớp 1,2 bây giờ ) lớp 4, lớp 5 bây giờ thì gọi là lớp nhì , lớp nhất.
Có hôm tôi theo anh chị đến trường chơi,gặp lúc máy bay bay ngang cả lớp phải chui xuống hầm ở trong trường để trốn , hết máy bay lại ra ngồi học.Thời gian nầy pháo 105li của lính ngụy ở Gò Hội ( TT Đức Phổ ) vẫn thường xuyên bắn vào làng . nhiều người đi làm bị trúng pháo chết ngoài đồng. Mỗi lần pháo bắn như thế anh em tôi lại chui xuống hầm. Tiếng nổ làm rung chuyễn cả căn hầm , nổ xong thì nghe o.o ...

   Hầm tránh pháo của các nhà hầu hết đều làm bằng tre hình chữ A rồi đắp đất bên ngoài nên không thể chịu nổi pháo 105 . Bây giờ có phong trào cưa đường rầy xe lửa về làm hầm. Nhà của tôi chỉ có mẹ tôi và 4 con,(ba tôi đã hy sinh ) chị gái đầu mới 14 tuổi thì lấy ai đi cưa đường rầy. Hằng ngày tôi chạy lên đường tàu để xem vì đường tàu chỉ cách 200m. Có rất nhiều người dẫn cả trẻ em làm nhiệm vụ chế nước vào lưỡi cưa cho 2 người lớn ngồi kéo cưa sắt qua lại. Cưa cả ngày mới đứt một đầu đường ray .Đường ray thời pháp làm nhỏ hơn đường ray bây giờ nhiều , nếu như bây giờ thì cưa biết chừng nào xong.Một số người thì cầm cà lê mở ốc để lấy Tà vẹt -  gọi là máng sắt, nặng khoảng 40kg để cố định 2 đường ray. Tôi chạy về hỏi mẹ

 - Mẹ ơi ! sao mẹ không đi cưa đường ray về làm hầm ?
 - Con có đi cưa được không ?
 - Con chế nước cho mẹ và chị Ba cưa.
 - Thôi, mẹ và chị phải lên gò cuốc củ mì chứ không mưa đến củ sẽ thúi hết đấy.

  Thế rồi ít hôm sau mẹ tôi phải nhờ các chú trong xóm đi cưa đường ray . Cưa được một đoạn và lấy được mười mấy cái máng sắt. Rồi các chú làm lại căn hầm cho nhà tôi , lấy máng sắt đặt sít lại hình chữ A , gác đoạn đường ray lên trên làm cây đòn dông , sau đó đắp đất lên 2 bên và làm âm nền hầm xuống dưới mặt đất khoảng 5 tấc , đắp đất phủ lên cả cây đòn dông, bên dưới thì lót ván rồi trải chiếu lên. Mẹ tôi trả tiền công các chú không lấy. Sau đó mẹ tôi đi gặt hoặc nhổ củ dùm lại cho các chú ấy. Từ ngày có hầm mới tôi không còn sợ mỗi khi pháo bắn mà lại thích chơi súng đạn nữa chứ.
 
Mỗi khi mẹ đi chợ tôi lại dặn :

- Mẹ ơi ! đi chợ mẹ mua cho con cây súng thiệt ( súng thật ) nghen ?
- Ờ ! Ở nhà không được chạy đi đâu xa , cây nông ( pháo ) nó bắn chạy không kịp đấy !

Chục lần dặn mẹ như thế và vui mừng khi mẹ về cũng chỉ được chiếc bánh bò hoặc vài tán kẹo mâm - loại kẹo thắng bột và đường từng viên bằng ngón tay , không có bọc giấy bên ngoài, để lên mâm bán .Ai mua thì thì bỏ vào lá chuối gói lại đem về- Chỉ một lần cuối cùng mới được mẹ mua cho cây súng nhựa màu vàng là mừng nhất.

Cuộc sống cứ thế tiếp tục . Tới mùa gặt thì mẹ và chị đi gặt, tới mùa phá củ thì cả nhà che chòi trên gò ngay đám củ để nhổ và xắt phơi ngay trên đất vài hôm củ khô mới đem về

 Một hôm . Chị Hai Biên là người bà con vừa khóc vừa chạy vào nhà tôi báo tin cho mẹ tôi :
   - Mợ Ba ơi !  Mẹ con bị Mĩ giết rồi .
   - Giết làm sao ? bao giờ ?
   - Mới sáng nay. Khi con vừa đi chợ nghe tin lính Mĩ đi càn vô xóm . Trưa nay khi im tiếng súng con mới dám chạy về thì nghe tin cả nhà con bị lính Mĩ ném lựu đạn vào hầm, bây giờ con chưa dám về.Nói xong chi ngồi khóc nức nở. Mẹ tôi an ủi chị và bảo phải ở lại đây vì có thể lính Mĩ vẫn còn phục kích ở đó.

Làng của chị là thôn Bình Mĩ cách làng tôi chừng 2 cây số . Những ngày ấy bom đạn nổ hoài , những thằng bé con như tôi thì cũng chẳng biết Mĩ đi càn ở đâu, ngoại trừ khi chúng vào làng mình.

Vài hôm sau . Khi được tin Mĩ đã rút , Mẹ tôi ,các cô, ông nội của tôi chạy vào mãi đến chiều mới về cho hay:
Hôm đó Du kích xã tổ chức chống càn còn dân thì rút vô hầm . Trận đó lính Mĩ chết 2 tên . Khi vào được làng Gặp bất kỳ căn hầm nào chúng cũng đều ném lựu đạn vào . Mẹ chị Hai lảnh ngay trái lựu đạn , 3 người em của chị bị thương. Riêng anh Sáu thì đổ ruột ra ngoài . Cả  ba đều bị lính Mĩ đưa lên trực thăng đem đi đâu mất tích. Các cô chú phải quật hầm ra mới lấy được xác của mẹ chị Hai, đã thối rữa và đặt lên một tấm ván chôn ngay chiều hôm đó một cách vội vàng.

 Một buổi chiều nọ, có một chú bộ đội không biết từ đâu một mình đến xóm nhỏ của tôi. Chú hỏi đường đi về Trà Câu ( bây giờ mới biết có lẽ đó là lính trinh sát ) Nhờ ai đó đẫn đi chứ chú không biết đường và tình hình địch ở đây như thế nào.
 
 - Ai có thể dẫn đi bây giờ ? Trời thì sắp tối.
 - Ở đây chỉ có ông Tuôi là có thể dẫn chú đi - Bác gái của tôi nói

Còn tôi thi lần đầu tiên mới thấy chú bộ đội giải phóng - mặc đồ bạc màu nhưng bỏ vào trong quần bên ngoài có đeo thắt lưng to , nhiều lổ , bên hông đeo 2 trái gì như 2 lon cá hộp , vai thì khoát khẩu súng dài, chân đi đôi dép cao su màu đen.
Tôi thích quá chạy theo chú và mấy người đến nhà ông Tuôi ở cách nhà tôi một mảnh vườn. Sau đó ông Tuôi cùng chú đi rồi thì tôi mới chạy về.
Đến một hồi lâu sau mọi người thấy ở nhà ông Tuôi rộ lên tiếng la khóc . Tôi cùng anh chị chạy qua thì thấy chị gái con đầu ông Tuôi la khóc nức nở .
 
 - Trời ơi ! ba con bị Mĩ bắn chết rồi !
 - Bắn ở đâu ? mới đi đây mà , Sao không nghe tiếng súng nổ gì cả vậy ? mọi người lao nhao hỏi.
 - Bị bắn ở Mương co .Má con hạy xuống dưới rồi
  
  Sáng hôm sau có hai người phụ nữ khiêng ông Tuôi trên một cái võng về đến đầu ngõ , người còn ướt nước tôi đứng nhìn, không dám lại gần . Hai người phụ nữ kể rằng Chiều qua Mĩ phục kích ở mương co . Từ làng tôi đi xuống Trà Câu 4km phải qua cánh đồng Mương co . Ông Tuôi và Chú bộ đội bị bắn chết ngã xuống ruộng nên người chú bây giờ vẫn còn ướt. Ông Tuôi thì được khiêng về nhà chôn còn chú bộ đội thì dân ở xóm gần đó đem về chôn ở bìa xóm đó.
 
Các con của ông Tuôi thì lăn lộn kêu khóc , nhưng chúng cũng còn diễm phúc hơn tôi vì chúng còn được thấy mặt cha. Còn Ba tôi thì hy sinh khi tôi mới vừa 6 tháng tuổi. Nên tôi cũng chưa hề biết tình cảm cha con như thế nào
 
   Sau này theo lời kể của mẹ. Cha tôi tham gia hoạt động bí mật ở địa phương từ thời Ngô đình Diệm . Tên Phục cũng là người bà con xa ở trong xóm là Ấp trưởng, theo dỏi đã mật báo với lính Bảo an ở trong huyện .
 Đêm đó Tên Phục dẫn lính về vây nhà bắt cha tôi trói lại . Tên Phục lục soát trong tủ thấy 6 lon sữa bò liền hỏi:

 - Sữa để tiếp tế cho cộng sản phải không ?
 - Sữa để cho con tôi , chứ sữa nào cho cộng sản ?  Mẹ tôi trả lời

Tên Phục vẫn biết sữa đó để dành cho tôi nhưng hắn vẫn tịch thu.
Rồi chúng dẫn cha tôi đi trong đêm. Mấy hôm sau những người tù trở về báo tin chúng nhốt cha tôi tại chi khu Đức Phổ và tra tấn bằng gậy gộc , Giày đinh , roi điện rất dã man.
Mẹ tôi và chị tôi liền chạy ra đồng bắt cua về giã vắt lấy nước đem vào để cha tôi uống sẽ tan bớt máu bầm. Nhưng vào đến chi khu chúng lại không cho gặp cha tôi . Cha tôi bị giam phòng giam đặc biệt. Vì dù tra tấn dã man nhưng ông vẫn một mực không khai ra tổ chức bí mật. Vài ngày sau chúng dùng kiểu tra tấn cực kỳ dã man khác là treo 2 tay ,2 chân cha tôi lên xà nhà ,bên dưới để một ngọn đèn ống khói ( loại đèn dầu lớn ) đốt rún đến khi chết.

Riêng tên Phục từ đó chạy ở hẳn trong thị trấn làm tay sai cho giặc . Sau nầy chiến tranh ác liệt đã bỏ chạy vào Sài Gòn
Mãi đến 1982 mới dám mò về thăm quê. Khi về đầu xóm  chưa dám về nhà mẹ ruột ,hắn ghé vào nhà em gái thăm dò tình hình . Gia đình tôi hay được liền rủ anh em , chú ,cháu cầm cây gậy chạy đến ập vào nhà.
 
- Tất cả ngồi im ! Anh tôi hô lớn

Chúng tôi chặn hết lối ra vào . Tên phục đang ngồi trên ghế vội đứng dậy định chạy ra ngoài nhưng chú tôi dơ cây lên liền đứng lại như trời trồng. Hắn chưa biết chuyện gì xảy ra.

- Tên Phục mày phải đền nợ máu !

Hắn đứng như trời trồng, hình như vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, thì anh tôi nói :
 
 - Ngày xưa ông giết cha tôi là DP ông còn nhớ không? , hôm nay tôi phải trả nợ máu cho cha tôi.

Tên phục đã hiểu ra mọi chuyện, hắn run lẫy bẩy , miệng lí nhí câu gì đó không nghe rõ
Lúc này trẻ con trong nhà khóc ré lên, Mọi người trong xóm cũng chạy đến . Sau khi biết sự việc , chỉ đứng bàn tán bên ngoài , không ai dám có ý kiến gì. Ba đứa trẻ con thì sợ quá khóc càng to, thấy vậy chú tôi nói:
 
 - thôi, yêu cầu ông về nhà tôi rồi tính sau !

Tên Phục run rẫy ngập ngừng thì anh tôi đưa tay đẩy hắn ra cửa. Người em gái sụt sùi khóc, xách túi xách của hắn chạy theo quàng vào vai cho hắn .Chú tôi bảo tôi đi báo công an xã lên làm việc . Tôi nhờ một người anh đi báo, còn tôi phải ở lại cùng anh tôi giải quyết sự việc tiếp theo .Về đến nhà mọi người kéo đến càng đông. Tên phục giong run run nói với mẹ tôi:
  
 - Tôi biết mình đã gây nhiều tội ác nên sau ít lâu tôi bỏ chính quyền ngụy chạy vào Sài Gòn làm ăn lương thiện mãi đến  bây giờ. Mong Thiếm tha tội cho tôi. Bây giờ có đánh , chém tôi thì tôi cũng không dám oán trách chi. Tôi trăm nghìn lạy  mọi người hãy tha tội cho tôi.
  
 - Tội của ông làm  ngày xưa bây giờ phải có chính quyền Cách mạng trừng trị , chứ chúng tôi chẳng cần đánh ông làm gì-    Chú tôi nói
  
Nhìn tên Phục đứng run run giữa một vòng người tự nhiên tôi lại thấy tội nghiệp .Từ khi sự việc diễn ra tôi chưa nói được câu nào .Đến lúc đó tôi mới biết được người giết cha mình, còn cha thì chưa biết mặt bao giờ. Tự nhiên tôi tưởng tượng rằng 20 năm trước Khi tên Phục dẫn lính đến nhà bắt ba tôi có giống như hôm nay anh em tôi bắt tên phục không nhỉ ? Chắc là không giống rồi . Vì khi ấy chúng là lính ác ôn với súng ống có thể giết người bất cứ lúc nào. Còn chúng tôi thì làm sao dám làm điều đó . Bây giờ đã hòa bình .
  
   Lại một điều nữa là ông Phục có một cô con gái tên L. đang ở với bà ngoại trong xóm, lâu nay cũng chơi chung với tôi mà tôi chẳng hề biết đó là con của người đã giết ba tôi. Thời đó còn làm ăn tập thể . Tôi và L. cùng đi gặt , gánh phân, xới củ ... hằng ngày cùng với thanh niên trong đội sản xuất của HTX. Có khi tôi và L. còn đi chơi riêng với nhau vào dịp tết, hoặc xem phim ngoài bãi. Oái ăm thay ! tuy chưa nói chuyện yêu đương gì, nhưng qua những lần đi chơi đó tôi biết L. có cảm tình với tôi. L. mới 17 tuổi, ngây thơ trong trắng, có biết gì chuyện hận thù ngày xưa. Chiến tranh tàn nhẫn quá !

 Lúc nầy hai anh công an xã đã tới, Một anh nói :
 
- ông có nợ máu với nhân dân, mà chưa đi học tập cải tạo . Yêu cầu ông về xã để giải quyết sự việc !
 
Nghe nói thế tên Phục như khụy xuống, còn người em gái thì khóc ré lên. Rồi hai anh công an dẫn tên Phục đi .

 Khi công an đi xong rồi thì Bà nội tôi lại la lớn .
  
 - Trời ơi ! chuyện ngày xưa qua rồi mà bây gây chi thù hận nữa . Chạy theo xin tha cho nó đi
 -  Nó có tội thì bây giờ phải đền tội , tại sao bảo tha cho nó - anh tôi nói.
 - Trời ơi, tha ngay đi ! Tao nói tụi bây không nhe thì tao chết bây giờ.

Mọi người vô cùng ngạc nhiên, không hiểu tại sao bà lại thương tên Phục quá vậy ?
Sau này hỏi lại bà mới nói bà rất sợ chế độ củ nó lật lại thì chúng tôi lại phải chết. Đúng ra thì không ai nghĩ như bà . Nhưng cũng phải hiểu vì sao bà nội tôi lại sợ hãi như thế. Vì đời bà đã trải qua chiến tranh tan tóc quá dài, đã thấy nhiều cảnh chém giết lẫn nhau . Từ khi CM tháng tám 1945 , bọn lí trưởng , địa chủ bị ngay những người bần cố nông trong xóm chặt đầu , rồi đến thời Ngô Đình Diệm những người CM lại bị con cái của chúng hành huyết, nên bà sợ cũng là điều dễ hiểu.

Một lúc sau , một người bác trong họ của tôi ( cũng là người bà con với tên Phục ) đến xin mẹ tôi tha cho tên phục. Bác nói :
 - Oán thù thì nên cởi chứ không nên buộc
 - Lấy oán trả oán thì oán sẽ càng chồng chất - Lấy ân trả oán thì oán sẽ tiêu tan . v.v...

Mọi người nghe Bác phân tích cũng nguôi ngoai .Lát sau anh tôi chạy xuống xã thì công an xã đã dẫn lên công an huyện , đi bằng xe đạp . Tên Phục cởi xe chở người trưởng CA xã , một du kích mang súng đi một xe khác. Không hiểu rồi sao hắn có đủ bình tĩnh mà chở người CA ngồi sau bắt mình .
Anh tôi mượn xe honda chạy đuổi theo thì kịp , chưa vào đến CA huyện . Anh nói với trưởng CA xin tha cho hắn . Tên Phục mừng như chết đi sống lại , hắn cuối lạy rối rít. Anh công an nói:

 - Theo đề nghị của gia đình, tôi tạm tha cho ông, nhưng không được đi đâu, khi nào Ủy Ban xã gọi là phải có mặt.
 - Dạ , Cảm ơn ông !

 Sáng hôm sau hắn chạy tuốt vào Sài Gòn .

   Cha tôi chết chưa đầy 2 năm thì bác ruột tôi cũng hy sinh. Bác cũng là cán bộ cơ sở.
Hôm ấy bác đi xới đậu ngoài gò Dinh thì mới hay lính ngụy  tiểu đoàn 37 Biệt động quân đi càn .Hôm ấy du kích xã đã tiêu diệt đươgj 6 - 7 tên. Nhe súng nổ dồn dập , Bác đi thẳng xuống thôn vùng 4 thì cũng gặp lính . Ông chạy vào một nhà cơ sở được chủ nhà đưa xuống hầm bí mật . Đến chiều ngộp quá phải trồi lên . Tưởng rằng chúng đã đi, ai ngờ vừa bước đi vài chục mét đã bị chúng dí súng vào hông . Chúng tập hợp dân trong xóm đứng vòng tròn để xem chúng tra tấn . Thôi thì đủ trò tra tấn nào là báng súng, giày đinh. Một phụ nữ thấy quá đau đớn chạy vào can ngăn bị tên lính đá vào hông nằm bất tỉnh . Bác tôi chửi lại cuối cùng chúng lấy lưỡi lê đóng vào giữa trán và dùng súng bắn chết.

 Có người chạy về báo tin cho ông nội tôi .
 
 - Chú ơi ! anh hai P. bị lính bắn chết nằm dưới vùng 4 rồi !
 - Ai đấy mà, không phải lão P. đâu !
 - Chính con thấy tận mắt kia mà
 - Không phải đâu , mày nhìn lầm rồi đấy.
 -   ........
  
Ông tôi cố không tin dù biết rằng đó là sự thật. Chưa đầy 2 năm mà 2 người con trai đầu phải chết trong đau đớn tột cùng . Sau này khi lớp 12 , học bài thơ  " Quê hương  " của Giang Nam tôi liên tưởng lại ông nội tôi cũng giống y tâm trạng
của Giang Nam khi biết tin người vợ bị giặc giết

  " ... Lần thứ hai , nhận được tin em, tôi không tin dù đó là sự thật
        Giặc giết em rồi quăng mất xác
        Chỉ vì em là du kích em ơi
        Đau xé lòng anh ,chết nửa con người ...

Nấu ăn bằng gạch !!!

Tại các nơi đóng chốt lẻ, việc tự cải thiện của lính ta là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, việc kiếm ra chất đốt không phải lúc nào cũng dễ. Đặc biệt là phải đảm bảo bí mật nơi nấu nướng đối với quân địch, và đôi khi cũng là để qua mặt cán bộ chỉ huy khó tính (tự nhận khuyết điểm !!).
Lính ta đã nẩy ra sang kiến là dùng gạch xây để thay chất đốt!!!!
Nhiều bạn sẽ cho rằng đấy là chuyện hoang đường. Nhưng hãy thử làm theo cách sau của lính nhé.
Chọn vài viên gạch xốp, loại gạch phế phẩm, nung non lửa, bị loại ra trong quá trình xây dựng là tốt nhất.
Sau đó, đem ngâm các viên gạch này vào đống dầu cặn thải loại của các loại máy cơ khí, như ô tô, tăng, máy phát điện, v.v… Tùy vào điều kiện đóng quân của mình.
Độ nửa ngày, lấy các viên gạch đó lên rồi mang về bếp Hoàng Cầm của chỗ mình.
Khi cần nấu, chỉ việc bắc nồi lên, cho mấy viên gạch này vào bếp và đốt.
Việc còn lại chỉ là chờ món tự cải thiện chín tới và chén.

Tắm nướng nóng bằng gang !!!
Ở vùng rừng núi phía bắc, mùa đông thường lạnh cắt da, cắt thịt. Trong khi đó, điều lệnh nội vụ quy định lính ta phải thường xuyên tắm giặt để đảm bảo quân phong, quân kỷ.
Tuy nhiên, việc để tìm ra nước nóng để tắm đối với lính quả là khó ngang với viêc rót mật vào tai các đôi chân dài.
Tớ xin mách các bạn một mẹo nhỏ của bản thân.
Trước hết, tìm một vật để đựng nước. Có thể là 1 cái chảo cũ của anh nuôi, hay là 1 nửa cái thùng phi của lính cơ giới, nếu may mắn thì ngay cạnh bể nước, ban doanh trại đã xây sẵn vài cái cái bồn nhỏ ngay cạnh bàn giặt để đựng nước giặt. Dùng mấy cái bồn nhỏ đấy cũng được.
Sau đó, tìm lấy vài mẩu gang hay thép bỏ đi ở ban kỹ thuật. Có thể đấy là 1 đoạn thép chữ I, hay là cái đe cũ, hoặc là 1 đoạn cầu xe, v.v..
Đem mấy cái mẩu gang thép đó, đút nhờ dưới gầm bếp than của anh nuôi. Sau đó múc nước vào cái chảo đã để sắn cạnh bể nước và yên tâm đi lao động tăng gia buổi chiều. Hồi tớ ở lính, trên khoán cho mỗi đầu lính là 70 kg rau xanh/năm, nên việc tăng gia là không thể lơ mơ được.
Cuốc đất trồng rau thoải mái xong, đến giờ tắm giặt, dùng cái kẹp gắp mẩu gang thép để nhờ ở gầm bếp anh nuôi ra, thả vào thùng nước đã múc sẵn ấy.
Và nghe đánh xèo một tiếng, hơi nước bốc ra ngùn ngụt, cứ gọi là sướng như Hồng quân Liên xô tắm hơi ấy chứ.
Đảm bảo buổi tối nào, vào giờ sinh hoạt chính trị lúc 7h30 tối, ta cũng thơm phức mùi xà phòng 72 Liên xô.!!!]

Lò vi sóng … người!!!

Thời bây giờ, muốn có thức ăn nóng, chỉ việc lôi nó ra khỏi tủ lạnh, tống vào lò vi sóng, ấn nút đánh vèo 1 cái là có thức ăn nóng bỏng mồm.
Nhưng thời lính của bọn tớ, thuật ngữ lò vi sóng còn chưa có trong từ điển tiếng Việt, thì lấy đâu ra cái gì để làm nóng khẩu phần của mình trên đường hành quân.
Ăn nóng trong phút dừng chân dọc đường hành quân là một ước mơ xa xỉ như chú ptlinh mơ được cầm tay cô meofmaths… gì đó khi uống ca phê trên tầng 18 Deawoo (tớ ví dụ thôi nhé!!).
Tớ mách các bác 1 mẹo của lính.
Khẩu phần ăn trưa là 1 cái bánh mì hoặc là một vắt cơm xinh xinh. Trong khi các đồng đội khác nhét hững hờ vào túi cóc của ba lô, thì tớ lẳng lặng gói nó vào trong 1 mảnh báo cũ và để nó vào trong ngực áo mình, chỗ gần tim ấy.
Dọc đường hành quân, mùi thơm của bánh hay mùi thơm của cơm cứ phảng phất làm cho ta nhớ về 1 cánh đồng lúa chín của quê nhà, điểm xuyết một làn khói lam chiều. Làm cho ta vơi đi bao nỗi mệt nhọc trên bước đường chinh biên.
Đến giờ nghỉ ăn trưa, trong khi các chú lười khác nhai trệu trạo miếng bánh lạnh cứng như đá, thì khẩu phần của mình lúc nào cũng thơm dẻo ở nhiệt độ 37 độ C.
Thế chẳng phải là lò vi song người là gì !!!

Làm thế nào để uống được nước bẩn.

Đang lúc lũ lụt hoành hành ở miền trung, nước sạch để uống rất khan hiếm, chợt nhớ đến một kinh nghiệm như thế này:
Ơ nơi không điện, không đèn, không còn có cả 1 que diêm, xung quanh chỉ là nước lụt đục ngầu và rác, làm thế nào để có nước sạch để uống ?
Lính ta đã làm như sau:
Lấy 1 cái chai thủy tinh trong, càng trong càng tốt. Hoặc là bây giờ thì dùng vỏ chai nhựa bất kỳ nào đó, miễn là càng trong càng tốt.
Múc nước bẩn vào đầy cái chai đó, phơi ra ngoài nắng. Việc này có tác dụng gì?
Nước để yên tĩnh một thời gian, các chất bẩn sẽ lắng cặn xuống bên dưới, đây là 1 thuộc tính tự làm sạch của nước.
Phơi ra ngoài nắng là để tận dụng tia cực tím của mặt trời tiêu diệt hay làm ngất 1 phần nào đó vi khuẩn.
Tại sao lại dùng chai trong ? Vì mặt cong lúc này như thấu kính, hội tụ nhiệt mặt trời được nhiều hơn, vi rút sẽ bị bỏng!!!
Và đến chiều thì có thể uống được.
Trong binh pháp, kế này gọi là: trong toàn cái xấu, nếu phải chọn, hãy chọn cái ít xấu nhất.

Ba chế độ ăn trong 1 nồi

Tổ chiến đấu của chúng ta theo chế độ “tam tam chế” có 3 người. Ấy vậy mà sở thích ăn uống thì lại mỗi anh một kiểu. Anh A tổ trưởng thích ăn cơm khô, cậu B tổ viên thích ăn cơm nát, còn cậu C hay làm thơ thì lại thích ăn cơm nếp. Trong khi đó thì hậu cần chỉ trang bị cho chốt của ta có mỗi một cái nồi. Làm thế nào để ba anh em có thể ăn cơm cùng 1 lúc được.
Theo tinh thần “khó khăn thì khắc phục”, lính ta đã làm như sau:
Cứ vo gạo như bình thường, khi nước sôi thì bỏ gạo vào. Gạo tẻ cứ đổ thẳng vào nồi, còn gạo nếp trước khi bỏ vào nồi đã được buộc túm lại trong chiếc khăn tay. Khi cơm gần cạn nước, kê nghiêng nồi 1 góc 45 độ.
Như vậy khi cơm chin, phần cơm phía trên góc 45 độ sẽ là cơm khô, phần dưới sẽ là cơm nát. Còn xôi thì chỉ việc rút cả chiếc khăn tay ra, mở khăn ra là phần cơm nếp ngon lành của cậu C.

Bồn tắm cánh cụp cánh xòe.

Sau mỗi ngày hành quân đường dài, việc được ngâm chân vào nước nóng pha muối mỗi buổi tối là rất cần thiết cho lính ta. Việc đó giúp các khớp chân được thư giãn, nhanh chóng phục hồi để chuẩn bị cho cuộc hành quân ngày mai.
Nhưng lấy đâu ra hàng trăm cái chậu cho đại đội. Và nếu người lính nào cũng đeo một cái chậu sau lưng thì cơ động làm sao cho kịp.
Lính ta đã làm như sau:
Đến chỗ trú quân, đào một cái hố nhỏ, trải xuống đó mảnh tăng (ni long) của mình. Chẳng là cậu nào cũng được phát 1 mảnh tăng, khi mưa thì là áo mưa, khi qua sông thì gói ba lô vào làm thành cái phao, và khi hy sinh thì “thay da ngựa và thay chiếu để anh về đất”.
Cậu nào khéo tay thì đã có thể khoét cho mình 1 cái chậu xinh xắn. Sau khi lót ni long xuống, đổ nước nóng vào, trước thì là rửa mặt, sau thì là ngâm chân.
Thế chẳng phải là bồn tắm cánh cụp cánh xòe còn gì.

Nấm là món ăn rất bổ dưỡng, có thứ nấm mọc từ tổ mối rất ngon, chỉ cần luộc lên xé ra ăn như thịt gà, có thêm chút muối tiêu, rau răm nữa là thịt gà phải gọi bằng anh. Tuy nhiên, một số loại nấm độc có hình dáng màu sắc như nấm thường và mọc xen kẽ trong số nấm ăn được. Nếu xơi trúng thứ này, rất dễ bổ..nhào vào huyệt. Trường hợp ngộ độc nấm, nhanh chóng lấy Nhân trung hoàng, đốt thành than, hòa với nước mà uống, nếu nạn nhân đã á khẩu cũng cố cạy miệng nhét vào. Thường là cứu được, không chỉ nấm độc mà còn nhiều loại thực phẩm bị nhiễm độc khác, Nhân trung hoàng cũng giải được.
Nhân trung hoàng rất sẵn, nó là gì sớm muộn gì các bác cũng biết, tớ không dám diễn nôm ra đây

Công dụng của xà phòng 72.

Thủa 7x, 8x thời còn Liên xô, lính ta hay được phát xà phòng 72 của Liên xô.
Nguyên bản thì đây là xà phòng giặt. Loại xà phòng này cứng và bền cực kỳ.
Tuy nhiên, khi vào tay lính ta, công dụng của nó đã được cải biến. Có thể kể ra đây vài ví dụ:
-Keo hàn vạn năng: cậu lái xe nào cũng phải thủ trong mình 1 cục 72, người có thể tắm xuông nhưng xe thì không thể thiếu 72. Chẳng qua là thời ấy, xe cộ nhà mình rách nát lắm. Việc thủng bình xăng là chuyện thường ngày ở huyện. Khi phát hiện chỗ thủng,lính ta chỉ việc miết 1 ít 72 vào đấy là yên tâm chạy cả ngày.
-Mìn đánh cá: Nhét 1 cái kíp cháy chậm vào giữa cục 72, quăng nó xuống suối chỗ có đàn cá, chỉ nghe ục 1 cái như ho khẽ, thế mà cũng bắt được vô khối cá đấy.
-Lương thực cao cấp: Thời ấy vào bản, trong túi mà thủ cục 72 thì tối ấy thế nào anh em ta cũng có 1 chú gà để nấu cháo nhờ đổi cục 72.
Các bác còn nhớ công dụng nào nữa không ?

Xà phòng đổi gà.
Thời 7x - 8x đó, nhân dân ở thành phố lớn thì còn có tiêu chuẩn 4 mét vải/năm. Nếu muốn mua 1 cái quần lót thì phải cắt ô phiếu 40cm. Nhân dân ở nông thôn/ miền núi thì ko có cái khoản tem phiếu ấy. Nói gì đến thứ đại xa xỉ là xà phòng 72 CCCP.
Bà con thôn bản, hàng ngày giặt quần áo thì mang ra suối, ngoài việc vò xuông như ta từng biết, thì còn lấy cây hay đoạn gỗ đập vào đống quần áo ướt. Có thể làm như thế sẽ sạch hơn là vò tay chăng?? Sau đó vò kỹ dưới suối, mang về phơi, thế là xong việc giặt.
Khi có được ít xà phòng (72 CCCP) chẳng hạn), thì chỉ khi nào hết mùa đông, khi giặt chăn đại chẳng hạn. Lúc ấy bà con mới dám thái mỏng 1 ít xà phòng, hòa vào nước ấm, thành 1 dung dịch xút, rồi ngâm chăn, màn vào đó.
Hiếm như thế, nên việc đổi 1 bánh 72 lấy 1 chú gà choai là bình thường. Tiêu chuẩn của tớ thời đó cũng chỉ có 1 cục/tháng.

Nấu cơm vào mùa mưa

Vào mùa mưa, có khi mưa kéo dài từ 2 đến 3 ngày liền.
Bộ đội đóng quân trong rừng luôn gặp khó khăn khi tìm cách nổi lửa nấu ăn.
Nhưng “khó khăn, khắc phục”, lính ta đã làm như sau:
Tìm kiếm những cành cây khô, to thì càng tốt. Dùng dao găm đẽo lớp vỏ ướt bên ngoài. Do gỗ khô nên rất ít thấm nước. Vì vậy phần bên trong cành cây khô luôn khô ráo.
Dùng phần củi khô ấy để nấu cơm. Trong khi đun, nhớ xếp các cành củi ướt ung quanh bếp, nhiệt độ sẽ làm các cành củi ướt khô mau. Và ta lại dùng chúng để tiếp tục đun nấu.
Thế là luôn có “cơm dẻo, canh ngọt” cho quân ta “ăn no, đánh thắng”.
Hồi tớ đang trong thời gian huấn luyện, có ông d  trưởng rất hắc. Cứ hôm nào mưa to, d trưởng lại ra lệnh hành quân chiến đấu. Lính tráng kéo nhau ra sân vận động. Tìm cách căng tăng bạt mà nấu cơm. Tiếng kêu cũng vang thấu đến trời xanh. Nhưng sau này về đơn vị rồi, ngẫm lại thấy học được nhiều ở ông d trưởng hắc xì dầu ấy.

Những cái tiết kiệm không nên có
Đời lính cũng có những mẹo hay, nhưng cũng có khi phát minh ra những cái mẹo dở. Tớ cho rằng cũng nên kể ra một số mẹo dở. Phần thì để anh em ta tránh, phần thì cũng để thay đổi không khí.

Mẹo dở thứ nhất: Tiết kiệm nước trên tầu tên lửa.

Hồi 8x, lữ 172 tầu tên lửa-HQ vẫn còn đóng ở căn cứ Hà Tu, chỗ cây số 11. Hồi đó quân chủng phát động phong trào thi đua: “bám biển dài ngày”. Có tay thuyền trưởng đã nghĩ rằng: muốn đi biển được dài ngày, điều đầu tiên là phải tiết kiệm nước ngọt. Nghĩ là làm, việc đầu tiên mà anh chàng hăng máu ấy làm là khóa béng cái toilet lại. Rồi cho hàn 1 cái cầu tõm ở phía đuôi tầu???
Các bác thử tính: tàu đi với hải trình khoảng 20 lý/giờ, mũi tầu đã bốc lên khỏi mặt nước thì bác có dám lần ra đấy để …tõm không
Chưa kể toàn tàu là 1 tham số trong điều khiển bắn. Giờ thêm cái cầu tõm chết tiệt ấy, thử hỏi tên lửa bắn ra đi cách mục tiêu bao xa
Chuyện này được cụ Cương, tư lệnh quân chủng kể trong buổi nói chuyện với các sỹ quan về nhận công tác tại HQ năm 84 đang tập trung tại đoàn 22 Hạ Long.

Bếp Hoàng Cầm và cách làm bếp Hoàng Cầm                                               

    Là loại bếp dã chiến, mang tên đồng chí Hoàng Cầm (1916-1996), quê ở thị trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, nguyên là Tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc Đội điều trị 8 Sư đoàn 308, sáng tạo ra từ chiến dịch Hoà Bình năm 1951. Bếp Hoàng Cầm được sử dụng từ năm 1951-1952, nhanh chóng phổ biến ở các đơn vị. Đặc biệt, bếp Hoàng Cầm được sử dụng rộng rãi tại các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, kể cả dân công hoả tuyến. Sau này bếp được cải tiến, hoàn thiện và sử dụng trong kháng chiến chống Mỹ như ở địa đạo Vĩnh Linh, địa đạo Củ Chi....


    Cách làm bếp Hoàng Cầm như sau: Bếp được đào dưới đất thành một hầm chữ nhật, chiều dài 1,5 đến 1, 8 mét, chiều rộng 1, 2 đến 1,5 mét, sâu 0,70 đến 0,80 mét gồm: Hồ đun, trên đặt nồi (chảo), hố ngồi nấu ( dành cho người nấu), trên có mái che tránh mưa, nắng, bụi ( mái che là tán cây, hoặc gác cành cây trên lợp bằng cỏ tranh hay đóng cọc căng tăng che). Hố đun, hố ngồi nấu tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể như vị trí khu đặt bếp, kích thước nồi, chảo, chiều cao trung bình của người nấu mà đào hố cho vừa đủ chỗ đặt nồi, thao tác khi nấu và chứa củi. Từ hố đun, đào một hệ thống hai đường đường dẫn khói, tản khói. Cách một đoạn đào một hầm chứa khói. Từ hầm chứa khói làm hai đường rãnh vừa để tản khói  vừa là rãnh thoát nước. Trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khi đun, khói từ trong lò bếp bốc lên qua các đường rãnh dân khói chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Do đó có thể nấu bếp ban ngày, ngay cả khi máy bay trinh sát của đối phương bay trên đầu không bị lộ khói và lửa, kể cả khi đun củi còn ướt.


    Đại tá, Giáo sư - Tiến sỹ Đặng Hiếu Trung, nguyên là chuyên viên đầu ngành của Khoa Tai mũi họng Bệnh viện Quân y 108 cho biết: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Đội trưởng Đội Điều trị 8, thuộc Đại đoàn 308. Đội điều trị 8 đóng cạnh suối Hồng Lếch, cách hầm Đờ Cát chỉ 4 km đường chim bay về phía tây. Đội Điều trị 8 có trên 100 người cộng với thương binh vì thế mặc dầu trong hoàn cảnh chiến trường, khó khăn, thiếu thốn, bom đạn của kẻ thù nhưng Tiểu đội trưởng nuôi quân Hoàng Cầm cùng tổ nuôi quân vẫn đảm bảo cơm nóng, canh ngọt cho Đội và thương binh.


    Trong hồi ức “Đường tới Điện Biên Phủ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB QĐND- 2001), có đoạn viết: “Sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc ở đây một sáng kiến đã mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống các chiến sỹ ngoài mặt trận. Khói lửa từ những bếp của anh nuôi đã nhiều lần làm lộ vị trí trú quân, dẫn đến những tổn thất xương máu.... Một chiến sỹ nuôi quân ở trạm quân y của Đại đoàn 308 có sáng kiến đào những đường rãnh thoát khói bên sườn núi, nối liền với lò bếp, bên trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ trong lò bếp bốc lên qua một đường rãnh chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Từ đó anh nuôi có thể thổi nấu ban ngày, ngay cả khi máy bay trinh sát địch bay trên đầu được ăn cơm nóng, uống nước nóng....

Bàn là không dây
Trong doanh trại, hiếm khi có được cái bàn là để là quần áo. Mà điều lệnh nội vụ thì quy định khi đi ra ngoài phải: quân dung thì tươi tỉnh, quân phục thì chỉn chu.
Vậy xin mách các bạn một mẹo nhỏ để có quần áo phẳng phiu nhé. Các bạn sinh viên bây giờ cũng có thể dùng cách này được.
Cầm ngược 2 ống quần lên, xếp làm sao cho 4 đường may 2 bên ở hai ống quần chập vào làm 1, đặt xuống giường dùng tay vuốt nhẹ cho phẳng. 
Sau đó gấp làm 3 rồi lấy 1 tờ báo cũ gấp đôi và đặt chiếc quần ấy vào.
Đặt xuống dưới chiếu, phía đầu giường, rồi đặt chăn màn cá nhân lên trên.
Kiểm tra nội vụ nhìn vào vẫn rất đẹp, chăn màn vẫn vuông bánh chưng và thẳng hàng với các giường khác.
Nhưng cuối ngày, các bác đã có bộ cánh tươm tất để được phép ra ngoài doanh trại.

Lọc nước ngọt từ nước biển

Lính thủy trên tầu hay trên đảo đều có nỗi khổ kinh niên là thiếu nước ngọt.
Ở chiến khu rừng Sát thời chống Mỹ, bộ đội đặc công của ta đã phải chưng cất nước phèn, kiểu như nấu rượu lậu, để có nước ngọt để uống. Nhưng đấy là rừng Sát, nơi có bạt ngàn cây mắm, cây đước để làm củi đun.
Còn đối với lính thủy, chất đốt hiếm như đạn, cách trên là bất khả thi.
Hồi đầu 8x, đơn vị tớ đã phối hợp với Viện Năng Lượng Mới (cơ quan này hồi đấy nằm ở đầu đường Tôn Thất Tùng, chuyên nghiên cứu cách dùng năng lượng gió, mặt trời và vân vân), đã thử nghiệm cách làm như sau:
San cát biển ra một khoảng trống, phẳng. Trên mặt cát phủ lên một lớp tro đen. Trên cùng đặt 1 tấm kính trong, nghiêng 15-20 độ. Sau đó đổ nước biển vào lớp cát đó cho ẩm cát.
Dưới ánh nắng mặt trời, hơi nước bốc lên, ngưng tụ vào ấm kính nghiêng đó, hơi nước theo độ nghiêng của tấm kính được chảy xuống phía dưới và theo một rãnh thu, được chảy vào bộ phận hứng nước.
Tớ đã uống nước này. Hoàn toàn là dùng được. Nhưng sau đó không thấy được áp dụng đại trà. Có lẽ là do kinh phí.
Các cao thủ có ý kiến gì không? Nhằm giảm bớt khó khăn cho lính ta.

Đèn lân tinh

Bộ đội ta hành quân trong rừng Trường Sơn sâu thẳm đưa bàn tay lên trước mắt không nhìn thấy nên người đi sau không thấy người đi trước, vấp ngã liên tục. Mà rừng đêm thì lắm “chướng ngại vật” gốc cây, tảng đá, ổ gà, ổ trâu, va vào “thiệt hại” như chơi. đèn không được phép dùng vì sợ lộ bí mật, sợ biệt kích, máy bay. Cho nên một sáng kiến nảy ra.

Có đồng chí nhận thấy khúc cây mục trong đêm có lân tinh phát sáng bèn gài vào quai ba lô. Hành quân đêm, người đi sau nhìn theo khúc gỗ phát sáng mà đi, vừa đúng hàng lại không sợ vấp ngã. Kinh nghiệm này được phổ biến và được đặt tên là “Đèn lân tinh”.

Kỹ thuật điện tử cũng... xin hàng

Người Mỹ sử dụng kỹ thuật điện tử để chế tạo ra các loại máy móc nhằm phát hiện các cuộc hành quân của ta trên đường mòn Hồ Chí Minh. Hệ thống thiết bị hồng ngoại ở máy dò người, được máy bay Mỹ rải khắp Trường Sơn, có thể cảm nhận được thân nhiệt cơ thể ở cách xa hàng ki- lô- mét. Trên cơ sở đó, chúng báo cho máy bay tới ném bom. Nhưng máy không thể phân biệt được thân nhiệt của người và động vật. Và động vật ở Trường Sơn thì nhiều vô vàn, nên bom đạn Mỹ cũng chỉ phí mà thôi.

Máy ghi amoniắc trong không khí cũng được quân Mỹ đưa sử dụng ở Trường Sơn. Khi có người đi qua, máy sẽ ghi số liệu amôniắc. Hơn nữa các chiến sĩ ta đã dùng cả những thùng nước giải đặt rải rác trong rừng gây nên sự nhiễu loạn cho máy. Sáng kiến này của bộ đội ta được nhà báo Đ. Ramít viết: “.. Dùng nước giải đựng trong thùng để chống lại máy bay thăm dò điện tử. Hình ảnh đó thật là hoàn chỉnh, khi ấy tôi nghĩ người Việt Nam thật là đẹp, dũng cảm. Họ đã cho thế giời thấy khoảng cách ghê gớm giữa khoa học kỹ thuật với sức mạnh thuần tuý của con người tới mức bất kỳ một nhà viết tiểu thuyết hay một nhà sáng tác nào cũng không thể tưởng tượng ra nổi”.

Bể nước ngầm đặc biệt

Chiến đấu tại chiến trường miền Nam, một trong những khó khăn của chiến sĩ ta là nước. Về mùa mưa thì khỏi nói, nước dầm dề cả ngày. Nhưng mùa khô hiếm mưa, bộ đội phải dùng nước sông, suối để sinh hoạt. Ở nhiều địa phương, do điều kiện tự nhiên ít sông suối, ao hồ (Như ở tỉnh Bình Thuận), mùa khô, bộ đội rất vất vả. Nước không có, tìm được suối hay hồ ao thì luôn gặp địch hoặc nguồn nước đã bị thả thuốc độc. Từ khó khăn này, chiến sĩ ta đã nảy ra sáng kiến dự trữ nước. đầu mùa mưa, đơn vị nào cũng cử người đào những chiếc hố lớn tại nơi kín đáo, khó bị phát hiện. Sau đó, dùng những bao ni lông đựng bao gạo (Loại bao các đoàn vận tải biển dùng để thả trôi gạo theo thuỷ triều vào đất liền) hứng đầy nước mưa, cột chặt xếp xuống hố, lấp đất chôn kỹ, đánh dấu. đây là nguồn nước của đơn vị dùng trong mùa khô, vừa đảm bảo vệ sinh vừa đảm bảo an toàn, hạn chế rất nhiều thương vong cho các chiến sĩ.

kinh nghiệm anh em bộ đội thật hay .Lính nghèo mà ra trận chỉ có cây súng +ba lô thôi . đồ ăn thì thịt hộp chỉ toàn mở .Thế mà không thấy ai phàn nàn phản ảnh cho quân nhu gì cả !!! mà có nói thì củng thế thôi ! cấp trên bảo do điều kiện chiến tranh mà !!! có lần năm 84 cả đại đội mình lạc trong rừng đi mải lại cành lạc .Ông đại đội phó bảo cứ theo đường dây thông tin đi  thì sẽ đến nơi  . đi .. đi mãi tới chổ kia pôn pốt cắt mất dây  thế thì lạc .Cả đại đội nhìn nhau !!!  nhắm hướng thì được nhưng lại sợ mìn .rừng mênh mông . thôi thì đi theo đường mòn dân buôn lậu . gặp địch thì đánh may quá không gặp vì cả đại đội bị kiệt sức hết nước uống không ăn 2 ngày thì đánh nhau chỉ có thua ..Cuối cùng gặp vũng nước sình đục ngầu anh em khát quá làm gì có thời gian mà vô chai phơi nắng hay bỏ thuốc lọc nước (CỦNG KHÔNG CÓ THUỐC NỮA) CỨ NỐC như uống bia .Đi thêm vài cây số ra bờ sông mừng quá sắp  đến cứ rồi !!! phải nói do suy nghỉ cấp trên quá đơn giản tí nửa đem cả đại đội mình xoá sổ rồi !!! đi rừng mà không có la bàn ,bản đồ ,thiết bị thông tin thì không?? 

Nấm là món ăn rất bổ dưỡng, có thứ nấm mọc từ tổ mối rất ngon, chỉ cần luộc lên xé ra ăn như thịt gà, có thêm chút muối tiêu, rau răm nữa là thịt gà phải gọi bằng anh. Tuy nhiên, một số loại nấm độc có hình dáng màu sắc như nấm thường và mọc xen kẽ trong số nấm ăn được. Nếu xơi trúng thứ này, rất dễ bổ..nhào vào huyệt. Trường hợp ngộ độc nấm, nhanh chóng lấy Nhân trung hoàng, đốt thành than, hòa với nước mà uống, nếu nạn nhân đã á khẩu cũng cố cạy miệng nhét vào. Thường là cứu được, không chỉ nấm độc mà còn nhiều loại thực phẩm bị nhiễm độc khác, Nhân trung hoàng cũng giải được.
Nhân trung hoàng rất sẵn, nó là gì sớm muộn gì các bác cũng biết, tớ không dám diễn nôm ra đây   
 
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Sau một đêm mưa nhỏ , gốc cột lưới bóng chuyền cũ có cây nấm trắng ,tròn , to bằng củ nâu rừng . Thằng gác nhổ lên mang vào bếp C . Cùng mấy thằng nhọ đít ,rửa sạch nướng lên chia đều chấm muối   . Trời ơi hết tầm !Ngon quá ! Hôm sau , quen mùi thằng gác dậy sớm lỉnh ra sân bóng . Cũng chân cột lưới cũ , cũng một cây nấm cũ . Nó mang vào bếp , lúi húi nướng lên , móc bọc muối ra . Không phải chia chác gì . nó cà lảm . Chỉ 15 phút sau ,trời ơi đau quá . miệng nôn trôn tháo . Ruột quặn lên từng cơn . Cho đi viện 24 . Mấy anh Y-Tờ chỉ biết tiếp nước . Đang cho lên tuyến trên bằng võng thì gặp anh Tộc Nùng . Anh ta đốt cái gì đó rồi vò nát , hòa nước cho uống . Thế là thoát . hú vía .Tí nữa thành ma rừng . Sau này , vào cám ơn và học môn thuốc trừ độc  nấm của anh người Nùng . Gặng mãi anh mới nói : '' Không phải dấu bộ đội mà không nói đâu . Nó thối lắm , mà của người già mới ỉa mới tốt vớ

Hôm trước tớ có đọc một bài viết của bác nào đó nói về cách làm lưỡi câu mà tớ quên rồi. Nay xin giới thiệu với các bác cách kiếm ăn của lính đồng bằng Cửu Long chúng tớ nhé! Tớ có biệt tài "đâm cá" bằng chỉa "xà búp" (loại bảy mũi gom tròn lại ấy) Lúc nào trong cái bòng của tớ cũng có thủ sẵn từ một tới hai mũi xà búp. Đi tới nơi nào, tớ chặt một đoạn trúc khoảng...4 mét, gắn mũi xà búp vào, cột, chèn cho chắc chắn  tìm chỗ nào có cá nhiều là tớ rình đâm, mười phát không sẩy một nhé! Mà đồng bằng miền Tây cá cứ gọi là nhiều vô thiên lủng. Cậu nào tắm mà "cuổng trời" là không khéo cá lóc (cá quả, cá trào) bằng bắp chân "tương" cho một phát là tiệt nòi ngay tắp lự! Đâm được cá rồi, tớ lấy cây xỏ vào miệng cá, gom rơm khô, cỏ khô lại chất vòng vòng rồi...nướng! Hoặc lấy đất sét nặn mỏng, bỏ con cá vào đó, nhét thêm vài cọng rau ngò om cuốn đất lại rồi bỏ vào lửa rơm mà nướng, thơm điếc mũi luôn. Có khi còn được nhậu với rượu đế nữa đấy! Có lần, bọn tớ đang nhậu, thằng nào thằng nấy "quắc cần câu" hết rồi, bọn thám báo sục vô địa hình, sỉn quá chạy không nổi "lông rông" xuống sông lặn tuốt qua bờ bên kia, tưởng chết "vì nước " rồi! Hoặc là bọn tớ dùng "ná thun" bắn chim cải thiện,. cũng đỡ lắm nhé, chim nhiều lắm. Nhớ có lần, tớ và anh đội trưởng đi ăn đám giỗ ở nhà bà con trong khu căn cứ, khi về sỉn quá đi hết nỗi, tới ngang đồn của tụi dân vệ, cách tụi nó khoảng 100 mét, tụi nó không dám ra còn mình cũng cóc dám vô! Tớ đi không nỗi, đòi nằm lại đó ngủ, tỉnh dậy đi tiếp, anh đội trưởng kêu hoài tớ không dậy, anh ấy chĩa AK vô đồn tương cho một loạt! Cha con chúng nó đang ngủ trưa, giật mình choàng dậy, đáp lễ bọn tớ bằng đủ thứ súng, tớ tỉnh ngay tắp lự, xách súng chạy trối chết. Về nhà, xém chút nữa bị kỷ luật, hú hồn, hú vía từ đó tớ cạch không dám nhậu gần đồn lính nữa!

Hồi tôi nằm đài , chuột nhiều vô kể , bọn tôi lại lười nên cứ đổ thức ăn thừa ngay cạnh lán nên chuột ra rất đông . Bắn thì không dám vì tiếng nổ to quá . Nằm ở đài buồn lắm nên cứ nghĩ ra việc để nghịch . Chỗ lán có 1 cây nghiến , vì mọc ở núi đá nên nó hơn trăm tuổi rồi mà chỉ to bằng cổ chân . Rách việc tôi bẻ mấy cành nhỏ nhỏ , dùng dao đẽo như đầu đan AK . Sau đó tháo đầu đan AK ra , đầu đạn để sau này làm pháo hoa , cát tút thì đổ bớt thuốc đi , lấy đầu đạn gỗ lắp vào ,vậy là được đạn bắn chuột , cứ 1 phát 1 con . Chỉ tội cách này bắn phát nào phải lên đạn phát ấy như súng trường .
  Có mấy mẹo nhỏ , nếu Mod , Min thấy độc hại... thì cứ xóa !
Cách thứ nhất : Cách này cần 1 con lê hoặc dao găm cũng được , 1 nắm tay đầy muối . đi qua chuồng trâu , dùng lê hoặc dao đâm 1 phát thật mạnh vào mông trâu , chú ý đâm đúng chỗ thịt ở mông ,đâm xong phải xoáy mạnh lưỡi dao. Sau đó thật nhanh sát cả nắm muối vào vết đâm . Bạn có thể đi đâu đó 2 đến 3 tiếng . Lúc quay trở lại phải có 1 con dao lưỡi thật sắc . Từ chỗ bị đâm của con trâu sẽ lòi ra 1 cục thịt , cắt cục thịt này , bạn sẽ có độ 0,5 đến 1,5 kg thịt bò . Loại thịt này bạn không bao giờ có thể mua được ngoài chợ . Thịt mềm và ngọt , phù hợp với món tái hoặc món xào . Cách này không làm trâu chết , sau 1 thời gian vết thương lại bình phục .
Lưu ý ;  Cách này chỉ thực hiện được khi chuồng trâu ở xa nhà , hành động phải nhanh gọn , chính xác , tốt nhất không phổ biến rộng ....
   Còn nữa !!!

Xin thưa với các bác , cái trò đâm mông bò , thả hạt đậu vào tai lợn ko phải lúc nào cũng có ăn . Có lần em dùng lê đâm mông bò , mãi 2 ngày sau mới đùn mẩu thịt bằng quả muỗn , ruồi muỗi bu đầy , cái đuôi nó quyét qua quyét lại khiến miếng thịt đen sì . Sau cắt bỏ đắp lá trầu cho con bò tội nghiệp . Còn hạu đậu xanh , hạt sỏi khó thả vào tai lợn . Cố giữ để cho vào thì nó kêu ầm lên dễ bị phạt tắm và dọn chuồng lắm . Em có cái hạt nọ , thả nhẹ nhàng vào tai lợn , ít hôm sau nó trương lên làm con lợn đau đớn chạy lung tung mắt đỏ sọc , sùi bọt mép , hộc lên từng chặp . '' Bọn nhà bếp nuôi nấng thế nào , có con lợn to dành ngày ...làm bữa . Thế mà giờ bị động kinh , thôi ! Thịt đi ! Đừng có làm tiết canh nhá , lợn bệnh tiết độc lắm '' . Loại khỏi vòng chiến một tên chuyên tranh ăn cháy của lính .

Anh em thân mến..!
***************
            2h23 phút sáng hôm ngày 19/12/2010  có một bạn đề nghị tôi mở Topic Những chuyện lạ có thật ở chiến trường K, thấy hay hay nên không từ chối yêu cầu của đồng đội, và cũng xin được bắn phát pháo đầu tiên trên Topic nầy, sau đó các anh em ccb cùng tôi tham gia viết thật nhiều những kỹ niệm những khoảnh khắc đáng nhớ những chuyện lạ có thật mà anh em chúng ta biết được trong quá trình công tác trên đất bạn campuchia
     Bên topic trung đoàn 429 một thời máu & lửa tôi có kể với anh em chuyện cáng 2 ca tử trong đêm, có một chi tiết cuối cùng, rất lạ hôm nay xin được kể lại cho anh em chúng ta nghe....!! chuyện là khi cáng hai ca tử đến ngã 3 phà ong gần 10h đêm, đến nơi thì bộ phận tiếp nhận chưa đến, lý do là xe zin 130 đề hoài không nổ máy, chúng tôi để hai ca tử sĩ nằm trên lộ 68 dọc theo hai làn bánh xe vì ngã ba phà ong lúc bấy giờ  đường thì hẹp hai bên lề cỏ mọc rất cao chỉ có hai vệt bánh xe là sạch sẽ  chúng tôi lấy bốn khẩu AK chống hai đầu cáng ngồi đợi khoảng 20 phút thì nghe tiếng xe vào , anh em mừng lắm nhưng đợi một hồi mới thấy ánh đèn pin soi đường, thì ra là hai bóng đèn xe đã bị đứt .Nhưng không quan trọng bằng xe không có thắng ( phanh ) do bị hư chưa kịp sửa chữa, tài xế cách chúng tôi khoảng 20m mới phát hiện là vì qua ánh đèn pin tầm nhìn bị hạn chế nên tài xế vội tắt máy thắng bằng số  anh em chúng tôi cũng không biết xe không thắng, nên đứng đó mà nhìn tới khi nghe trên xe la hét gì đó thì đã tới nơi, cách hai ca tử một mét tự dưng xe dừng lại làm chúng tôi hốt hoảng...định chửi tài xế chạy ẩu sau đó tài xế nhảy xuống xe nhìn, rồi lên xe lấy 3 cây nhang xuống đốt vái gì đó xong, quay sang nói với tôi ( hai anh tử sĩ linh thiêng lắm ) em nghĩ hồi nảy xe sẽ cán qua luôn hai ca tử chứ không dừng lại như vậy đâu, đến đây thì tôi cảm thấy toát mồ hôi . anh em chúng tôi đợi đưa 2 ca tử lên xe đi rồi mới quay trở vào đơn vị, trên đường về tôi cứ nghe văng vẳng câu nói của anh tài xế lúc nảy ( anh em mình linh thiêng lắm ) nếu như đêm hôm đó xe không dừng đột ngột mà cán qua hai ca tử thì anh em chúng tôi sẽ bị kỹ luật thật nặng riêng tài xế tội bảo quản xe quá kém tuy ở chiến trường nhưng đèn xe và thắng phải sửa chữa kịp thời  khi bị hư hỏng.. còn anh em chúng tôi ,  tội để tử sĩ không đúng nơi đúng chổ cũng may là đêm hôm đó chuyện xấu không xảy ra

Câu chuyện thứ 2
 **************
    Ở đơn vị chúng tôi có 2 đồng chí sát thú và săn bắn rất giỏi đó là Bphó Nguyễn văn Dân và Atrưởng Bùi huy Hoàng , chỉ có  ban đêm các anh ra phụ trách các tổ chốt, còn  ban ngày nằm ở láng trại nghĩ ngơi hoặt đi săn bắn, chuyện đi săn  bị cấm nhưng anh em chúng tôi rất linh hoạt với điều kiện đi phải báo cáo hướng nào để có chuyện gì mà còn sử lý
     Tôi nhớ lần đó vào khoảng tháng 2/87 Hoàng có nói với tôi anh Đức ơi em đi săn ở hướng bắc đơn vị , thường thì khoảng một buổi sáng là về, nhưng ngày hôm đó Hoàng đi từ 7h sáng đến 4h chiều mới về ở nhà tôi rất lo, sợ bị địch bắt, nhưng rất mừng là không có chuyện xấu xảy ra, khi về đến đơn vị Hoàng kể lại cho tôi nghe
       Em về hướng tây đơn vị khoảng 500m thì nghe ở hướng bắc lộ 69 có tiếng gà gáy, sau đó cắt rừng về hướng bắc tình từ lộ vào khoảng 300m, thấy một con gà trống đứng trên nhánh cây không cao gần ụ mối cách em khoảng 30m đang gáy , sau đó em quỳ xuống tỳ súng vào thân cây dầu mở khóa an toàn ngắm bắn chưa hết nấc cò chết thì nghe có tiếng la ( Ê ..) sợ có anh em trong C cũng đi săn nên em đứng dậy nhìn, không thấy ai con gà thì vẫn gáy, lần hai quỳ xuống ngắm vừa định bóp cò thì vẫn tiếng la như khi nảy, em vẫn ngồi yên không động đậy xem coi ai giởn với mình, đợi một lúc thấy im em đưa súng lên ngắm con gà thì vẫn tiếng la to hơn, em vội đứng dậy thì con gà cũng bay đi em  thấy lạ quá nên trở ra không đi nữa, nhưng rồi đi mãi đi mãi mà không tìm được đường ra, cho đến chiều em mới nhớ chuyện lấy nước tiểu rữa mặt sau đó mới trở ra khỏi cánh rừng tôi thấy rất lạ, là khu vực nầy Hoàng đi săn hằng ngày suốt cả năm qua chưa bao giờ bị lạc, thắc mắt tôi có hỏi một số anh em phía bắc vùng dân tộc, các anh nói có thể con gà ấy ở rừng lâu năm thành tinh, và từ đó tôi không cho anh em mình đi săn ở khu vực đó nữa Lại chuyện đi săn..!!
     Tui suýt chết vì chuyện nầy..
     Xin thưa với các bạn lúc sang campuchia tui làm liên lạc, ban ngày không có chuyện gì để nói thỉnh thoảng ban đêm Đại đội trưởng hay đi săn, hôm thì con chồn, hôm thì con cheo, nói chung là có thú ăn lai rai
     Có một hôm khoảng 7h C-trưởng gọi tui đi, lúc nào cũng vậy xách khẩu AK tiệp khắc cho nhẹ đi ra hướng B1 có dặn anh lính gác thủ trưởng đi săn chú ý đừng bắn nhầm nghe, hôm đó thế nào mà gặp thú toàn là bắn trật hoài, có lẽ do tui làm rớt cây súng của thủ trưởng nên lệch đầu ruồi, mà đâu có dám nói đâu, đến 9h30 mệt quá tui nói thủ trưởng ơi về đi tối rồi, và thủ trưởng đồng ý về, nhưng các bác biết không, vào đến đơn vị cách giao thông hào có 7m tui nghe một loạt AK bắn về chổ tui và thủ trưởng hai anh em nằm rạp xuống đất, thủ trưởng la lên  Đ..M  thằng nào bắn, trời ơi tui nhìn rõ đầu nòng AK sáng rực cha mẹ ơi khiếp quá !!
     Thì ra, khi đổi gác thằng Hùng quên nói với thằng Lộc có thủ trưởng đi săn, vào đến giao thông hào thủ trưởng tức quá nện cho thằng Lộc một báng súng,lúc đó nó chưa bàng hoàng thì ra nó ngủ gật khi thủ trưởng và tui đến gần nó mới phát hiện chơi cho một loạt 12 võ đạn còn nằm dưới hào . khiếp thật vì hôm đó nó say ke chứ tỉnh thì không bắn mà bắn thì tui và thủ trưởng lên bàn thờ ngồi rồi đó các bác ạ một chuyện lạ mà có thật đó các bác CCB

Lính Trinh sát mà đi lạc cách đơn vị khoảng 1km thôi nghĩ cũng lạ. Nhưng chuyện nầy lại có thật vì tui là một thành viên trong nhóm đi lạc
Hôm đó tui cùng hai anh nữa đi sắn măng ở mấy rặng tre dọc suối, đến lúc quay về thì gom măng lột vỏ cho vào ba-lô mang về. Khi đã đầy cả 3 ba-lô thì vứt hết măng dư rồi đi về (con mắt lớn hơn cái bụng, nên ham quá sắn nhiều măng không mang nổi). Trên đường quay về tui nghe tiếng loạc xoạc trên ngọn cây phía trái đường mòn, tui mở khóa súng lò dò đi vào thì thấy một con chồn chừng 4kg đang chuyền trên cây, nó cứ chuyền trên cây tui thì cứ luồn theo đuổi phía dưới chưa đến 10 phút thì nó dừng lại trốn vào lùm nho rừng bên trên, thấy còn ló cái đuôi tui ước lượng vị trí thân con vật bắn 1 phát AK, con vật bị đạn xuyên qua ức rơi xuống. Tui nhặt con chồn cột phía sau ba-lô, quay lại thấy hai anh kia cũng mang ba-lô mò tới: "Tao coi mầy bắn con gì . . ." Tui nói: "Sao hai anh không chờ chút tui ra chứ mang ba lô đi theo chi cho nặng?" Một trong hai anh nói: "Thôi cũng trưa lắm rồi đi về thôi!" Cả ba thầy trò dự định trở ra đường mòn nhưng đi cả giờ mà chưa thấy đường mòn đâu cả! Đến lúc thấm mệt tui thấy một cây gỗ mục hơi quen quen tui nói: "Hồi nãy giờ mấy anh em mình đi vòng tròn rồi, lúc rượt con chồn tui có vấp cái cây nầy" Một anh nói: "Chắc mầy quáng gà sao chứ lúc nãy tụi tao mò theo mầy đâu thấy cái cây nầy!" Tui lấy chân giậm vào một đầu khúc gỗ mục cho in dấu giày làm dấu. Đến anh khác dẫn đường, lại chừng 45 phút cũng quay lại chỗ cái cây gỗ mục đó! Tui chỉ cái dấu giày mà tui đạp làm dấu thì hai anh hơi hoảng: "Hay là tụi mình bị ma dắt rồi!" Tui nói: " Thôi ngồi nghỉ chút, anh nào còn thuốc lấy ra hút đi chờ tui leo cây xem vật chuẩn" Tui nghĩ bụng vạt rừng nầy cây chồi không có cây cao vượt trội nên tầm nhìn cũng hạn chế. Nhưng may sao tui cũng cố leo cao nhìn thấy được chòm dừa lão cặp suối, tuột xuống đất ngồi nghĩ chút thì tui là người cắt đường dẫn ra mé suối chừng 300m gặp đường mòn. Một trong hai anh kia còn bảo: "Mầy chịu khó một chút xuống suối coi nước chảy hướng nào để mà về, không khéo không đi trở về mà lại đi trở ra không chừng . . ." Về tới đơn vị giấu nhẹm không dám nói, vài hôm sau tui kể lại anh Trịnh C phó nghe thì anh nói rằng nếu trời mù sương, tắt nắng hoặc giữa trưa mà đi vào chỗ lạ dễ mất cảm giác phương hướng. Riêng cái chuyện đi thành vòng tròn, thì anh Trịnh nói cũng bình thường thôi, nếu bịt mắt một người bảo người đó đi thẳng thì người bị bịt mắt trong trí là đi thẳng, nhưng thực tế nếu ai thuận tay phải sẽ đi thành vòng tròn phía trái, ngược lại ai thuận tay trái sẽ đi thành vòng tròn phía phải thôi, chẳng có ma cỏ gì cả

Chức danh Liên lạc xưa nay có rất nhiều cách diễn "nôm" các bác ạ: nào là Cò, đậu phộng,pha đờ sếp...thì cũng giống như lính ta thường có hỗn (biệt) danh để gọi cho vui ,thì lính làm liên lạc cũng vậy,anh em lúc rảnh, buồn vì chẳng có chuyện gì,tâm sự mãi cũng chán mới nghĩ ra đủ trò ,đủ biệt danh gắn cho nhau cho vui.
  Em hồi mới nhập ngũ,đang huấn luyện mới được mấy tuần,nhìn cũng hơi sạch sẽ nên "được" tham mưu trưởng chấm làm liên lạc,được tuần đầu ở cơ quan nên toàn cán bộ đủ cỡ,tất cả đều lớn tuổi hơn mình từ vài tuổi đến vài chục tuổi,nên em gọi là thủ trưởng tất,và rất lễ phép đúng mực với tất cả,kể cả anh "thủ trưởng" văn thư đánh máy,thì nghe mấy cụ dặn dò là ở trên đây đi đứng nói năng phải chú ý cẩn thận,vì ở đây toàn là cấp trên,khách đến liên hệ công tác, mà đã là cấp trên thì trên 1m ,2m,50cm cũng là trên,nghĩa là..thủ trưởng hết  
  Thủ trưởng chính của em có tới 3 em liên lạc,hàng ngày phân công nhau làm đủ thứ việc lặt vặt giúp TT,ăn cùng TT,chiều có thể ngồi chơi đánh cờ với TT hoặc chơi thể thao,tăng gia trên mảnh đất nhỏ của phòng tham mưu tự cải thiện. Mấy em kia thì chăm chỉ tăng gia,làm mọi cái ,nge tất cả những gì mấy chục "thủ trưởng" ở cơ quan sai bảo (tuần đầu chưa biết nên ,em cũng ngoan,nhưng trong lòng bất mãn và bắt đầu khó chịu,nghi ngờ mình bị lợi dụng),còn em thì mê đánh cờ, có bữa hăng quá,có 2 thầy trò mà sôi nổi lắm, của đáng tội,không biết thủ trưởng giỏi tham mưu bầy trận,đánh địch thế nào ,nhưng đánh cờ chỉ cỡ ngang thằng cò là em,mà cũng máu ăn thua,em cũng máu nên có phen cãi văng cả nước..vào mặt TT,thế là ông bắt đầu ghét ghét em từ đấy ,bằng chứng là có mấy lần TT dấm dúi cho 2 thằng kia với mấy "thủ trưởng" đánh máy chữ thuốc lá...mà không cho thằng cò em , 2 tuần sau thì em túm cổ thủ trưởng đánh máy ném xuống mương rau muống vì dám chủi em khi sai em đi mua thuốc em không đi,dưới mương toàn bùn từ đầu đến chân mà hắn vẫn chủi và nhào lên phang em,em lại phải cho hắn xuống lần 2,cắm đầu và không nhúc nhích,em sợ quá phải nhào xuống lôi lên-ngất xỉu !
  Thủ trưởng cáu lắm rồi nhưng vẫn kiên nhẫn ,bênh em nhưng nhắc nhở em và nhắc chung các "thủ trưởng" khác là không được sai vặt,bắt nạt thằng cò của TT,tuyệt đối TT không chủi bới,văng tục với ai hehe , coi như êm  
  Bẵng đi khoảng 2 tuần,hôm đó thủ trưởng đi giao ban họp hành gì đó về ,nhìn mặt hằm hằm là thấy không ổn,cũng muộn khoảng 12h30p rồi,TT quát (lần đầu em thấy TT nóng) mấy thằng dọn cơm ăn,chết rồi,thường TT đi đâu họp hành giao ban gì về muộn là thường ăn ở tại đó rồi,hoặc nếu về muộn thì đều dặn mấy thằng liên lạc cứ ăn khỏi chờ,hôm nay TT không nói gì,mà cũng quá trưa rồi nên mấy thằng ăn trước,ăn song còn bao nhiêu đổ hết cho chó cho cá ăn rồi,bi giờ biết lấy gì cho TT ăn, TT quát : hôm nay thằng nào lấy cơm Dạ báo cáo..cháu--- Cháu cháu cái con C.. ! DM tui bay toàn vô tích sự...cut..cút hết..! toàn những thằng ngu lên làm lãnh đạo...! Ơ Ơ ! thế là gì nhỉ ! thủ trưởng chủi cả làng,cả sư lên kia mà !
  Thế là ngay chiều hôm ấy,em xách ba lô về lại đơn vị cũ, mới tập tháo lắp súng song là lên làm liên lạc,sáng mai đơn vị ra thao trường bắn đạn thật rồi ! mục tiêu bia số 4,cự ly..Xm ,Đạn 3 viên thời gian không hạn chế ! Bắn  

 Hi...Có chuyện này chính mắt mình thấy mà không giải thích được, dạo đóng quân ở phum M'Ho, Tài B trưởng rủ lấy xà- bông đi đổi chó.
 Đên một căn nhà sàn nhỏ bé, nhà chỉ có một ông già và ..1 con chó, ông ta đồng ý đổi, sau khi ông ấy kêu con chó lại gần và dùng dây cột lại, thì mình và thằng bạn đến..xỏ cây khiêng về, bất chợt con chó vùng vẫy và sút ra, sẵn đà đang phóng thì đụng phải Tài B trưởng và nó cắn cho một phát rất sâu vào cổ tay..máu phụt ra và Tài nhăn nhó kêu " nhức quá " Ông già hoảng hốt chạy đến xem và vào trong nhà lấy ra chai rượu, ông ta tu vào ngậm vào miệng và phun vào chổ chó cắn, miệng lâm râm đọc...lầm thầm, tay thì cầm 3 cây nhang quơ qua quơ lại và thật lạ là Tài hết nhức ngay...!!!! Vài ngày sau cũng không đau gì hết chỉ để lại 2 lổ sâu hoắm do chú chó để lại làm kỷ niệm

Chẳng những nói chuyện tụi em còn hút thuốc nữa, tuy là tuyến đầu bị ăn đòn thường, nhưng có lẽ do lì đòn nên lúc đó chẳng biết sợ là gì, nhất là những ngày đầu mới qua, vì buồn và nhớ nhà tui em thường gác chung ca, nói chuyện suốt đêm có hôm bị BTrưởng đá đít, cái tội gác còn rủ nhau ra tám, sau đó quen dần nên mỗi em một ca, thú thật với bác vẫn hút thuốc trong ca gác trời lạnh buồn lắm không thể bỏ được
[/quote]
  Chẳng phải lính mới lỳ đòn đâu VO THIEN DUC ạ , lính mới vào chiến trường thì thường chưa hiểu hết những nguy hiểm đang dình dập mình cùng đồng đội khác nên mới mất cảnh giác vậy thôi , kiểu như điếc không sợ súng vậy 
 Người nhát thì thường hay sợ quá mức bình thường , cái này cũng khá nguy hiểm bởi họ nhát nên hay nhìn gà hóa cuốc có người vẫn còn sợ ma sợ quỷ nữa chứ nên khi thấy có mỗi một mình ngồi chơ vơ gác thì nỗi sợ lại nhân lên nhiều lần dẫn đến bỏ gác làm anh em khác chết oan , gì chứ cái này thì đơn vị cũ của BY từng có rồi , người nhát kiểu khác khi thấy địch bò vào thì cuống lên bỏ chạy chui đầu vào hầm như chuột trốn vậy cũng khiến anh em khác chết oan uống .
 Người lỳ đòn hơn thì đôi khi hay chủ quan không thấy hết tầm quan trọng của chốt giữ nên hay có những hành động khiến người khác hết hồn , ngay BY đây thôi chứ không phải ai , hiên ngang đi trên bờ mương khi trời tang tảng sáng , cũng là sự thách đố nhau chỉ có 1 điếu thuốc và thể hiện cái lỳ đòn của mình , địch bắn cho lúc đầu còn khinh nhưng sau chịu không nổi lên phải lăn xuống mương mà tránh đạn , sau này mỗi lúc nghĩ lại thấy sao lúc đó mình ngu quá nhỉ ? Dính 1 phát thì teo chứ oai hùng gì đâu , teo mình thì thiệt thân mình trước chứ ai còn nhớ mình là ai và đã từng hiên ngang chẳng để làm gì như vậy . Dại và chẳng có cái dại nào giống cái dại nào , thôi rút kinh nghiệm lần sau em không dám thế .
 Chuyện gác đêm cũng còn tùy vào tình hình chiến trường lúc đó , ta địch rồi thời thế khu vực địa danh và cả may rủi nữa chứ không hẳn lúc nào chỗ nào cũng vậy , song chia nhau gác đêm là công tác khá quan trọng không thể chủ quan được , mình mà lơ mơ có ngày chúng nó dọn cả đám 
 Nhìn đám đàn em tân binh mới bổ sung vào đơn vị các sếp hay trấn an :
- Chúng mày có thằng nào sợ ma không ?
- Súng cầm ở tay mà còn phải sợ cái gì nữa . Ma sống mà vào từ hướng địch bắn thoải mái , ma chết cũng bắn không tha . Ma sợ súng sợ tiếng nổ sợ mùi thép của súng lắm lên không dám bén mảng lại gần mình đâu . Nhớ chưa ?
 Các em thuộc bài này rồi thì chẳng còn biết ngán ma sống và ma chết rồi nữa , cứ thấy động bên ngoài là vô tư nhả đạn và anh em trong hầm sẽ lao ra chi viện ngay , vài lần là các em yên tâm cảm giác không cô độc nữa dày dạn chuyện gác sách đêm 

Xin thưa với các bác : SẾT không " tông giật " 1 tí nào . Hắn MA LANH thì có .

 Nguyên do , hôm gác đó . Mấy cha lính cũ ăn gian : chưa hết giờ gác đã vào dựng nó dậy . Mắt nhắm mắt mở đi ra vọng gác , tới nơi thì cũng tỉnh ngủ . Nó nhìn sao trời  lập tức biết ngay là các bố cựu chơi bẩn .
Cãi bằng xem đồng hồ thì nó sợ sẽ thua .
 Nên mới nhớ ra trò đồng hồ TO đồng hồ BÉ , liền giả ngô giả ngọng vậy để vận dụng " chính sách Dân tộc " chơi lại các đàn anh hơi bị ... bẩn tính .
Nó đã học xong lớp 10 trường Dân tộc nội trú rồi , chứ không phải vẫn là  " con thú hoang lang thang trong rừng sâu " như các đàn anh tưởng ... bở .

 Nó ma mãnh lắm , với dân K nó không hề dấu diếm là người " Vietnam Lơ " .
 Luôn giả ngô ngọng , vậy mà dân K rất khoái , quí và thuơng hắn ra mặt luôn .

 Đánh xong Bantatum , E88 quay về Svaileu . Chỉ sau vài tuần nó đã quen gần như khắp cả phum . Gặp ai nó cũng chào hỏi cười nói hớn hở từ xa .

 Trong số đồ cổ thu được trên căn cứ , có một cái váy may kiểu hiện đai có chiết ly , có khóa kéo ... vải rất đẹp ( gọi là XOMPUT chứ không gọi là XARONG )
Chủ của cái váy gạ đổi mãi ,chỉ mong lấy 1 con gà hoặc vịt , mà vẫn không có ai chịu đổi .
Cái váy quá hiện đại so với cái xarong đại đa số vốn quen dùng , nên  không hợp " khẩu vị " .
Nó tuyên bố sẽ đổi được 1 con lợn tạ .
Chả chú cựu nào tin .
 Sau vài ngày , giữa buổi trưa nó lên bảo : Cần 3 người đi khiêng heo .
 Mình tròn mắt : Heo đâu mà khiêng ?
 Khắc đi khắc có heo khiêng !
Mình thấy hay hay , bảo 3 chú đi với nó và đe : Các ông mà làm bậy là K39 đấy . Nó cười cười không nói gì .
 Sau chừng 1 tiếng , 4 tên cười nói hớn hở , khệ nệ khiêng về 1 con heo cỡ tạ thật . Mình trợn ngược cả mắt , há mồm ...
 Chú a trưởng đi cùng , vội nói ngay :
 Đổi thật anh ạ , nhưng thằng này ... ma bùn lắm :
 Không hiểu sao , nó lại biết nhà khá giả này , có cô con gái đang học SƯ PHẠM ở Nôngpenh ( không 1 chú đội nào biết điều đó ) . Aupuc , M_dai thấy cái váy quá đẹp bèn đổi ngay cho con gái rượu . Nhưng chỉ đổi ngang con heo cỡ 40 ký thôi . Vượt quá cả sự mong đợi Các chú đồng ý ngay tức khắc , và nhằm con heo đó đuổi gấp . Nó trợn mắt quát : Ngu quá , bắt con kia chứ ( con heo tạ ) Không chú nào hiểu gì ráo trọi , bèn đứng nhìn nó lao vào bụi tóm chân con heo tạ kéo ra .
M_dai la to : Nhầm rồi ! Nhầm rồi .
 Nó cứ lôi về sân và nói : Mạ đổi =  con heo " THANH NIÊN " ( dịch nguyên văn lời nó ) nhanh , khỏe vậy Coongtop đuổi sao nổi . Bộ đội chỉ có sức bắt được con " ông già " này thôi . Con THANH NIÊN kia để lâu là nó cũng bằng con ÔNG GIÀ này . Đôi_khơ nia Mạk ơi .

 Bà già phì cười nhưng dứt khoát không chịu . Nó bèn thả " Ông già " ra .
 Oh ! " Ông già " không đi được nữa . Chân sau đã lặc lè , lủng liểng .
 Bà già chạy lại xem : Côn ơi ! Gãy chân con heo của Mạk rồi .
 Nó Xin lỗi rối rít , và kêu anh em tiếp tục đuổi con heo đã thỏa thuận
 Bà già TÊ , TÊ ! ngăn lại . Đòi phải phụ thêm tiền cho con heo bự , gãy chân .
 Nó bảo : Không có tiền , Bà già không đổi thì bộ đội đi về .
 Nhưng rồi lại ngọt ngào : Mạk cứ đổi đi , lần sau có cái khác đẹp hơn , bộ đội đổi chịu thiệt đi cho Mạk .
 Bà già tần ngần chút , rôi cũng gật đầu đồng ý .
 Thế là có con heo bự . Do nó đã cố tình bẻ gãy chân ngay từ lúc lôi trong bụi ra .
 ( Khoảng dăm tháng sau , Sết " tông giật " nhà ta lại xót xa than : Trời ơi ! cái váy đó ở Nongpenh phải tạ rưỡi heo mới đổi được )
  Chà ! Chà !

 Nói về kỹ năng đi rừng , săn bắt thú , và sinh tồn trong rừng thì SẾT đáng là bậc Đại SƯ PHỤ của các đàn anh :
Định hướng định vị , Phát hiện dấu vết , đặc tính qui luật sinh sống của các loại thú . Dấu hiệu hiểm nguy của rừng . Cây củ nào ăn được hay không , thậm chí không được chạm vào . Cây dây nào lấy được nước để uống . Xử trí rắn rết ong ,bò cạp ... chích đốt ... Với anh em dân Pako này chỉ là chuyện a b c bờ cờ . Rừng nào thì cũng gần có nghĩa như nhà của họ ,chỉ cần sau muơi ngày sống ở đó .
 Đi quanh đơn vị 5 -10 km chả cần địa bản bản đồ .
Địa hình nào đã đi qua thì dù dăm bảy tháng sau quay lại họ cũng vẫn nhận ra được các dấu vết cũ . Khó mà có chuyện lạc rừng .

Ở đơn vị em cũng có một chuyện vui về mấy anh em dân tộc,đêm đó B em đi phục tụi Pốt từ biên giới xâm nhập qua,B trưởng giữ hỏa lực nên anh có dặn tụi em là ảnh nổ trước rồi tụi em mới được nổ theo.Khuya khoảng 11g thì tụi Pốt về,một thằng trẻ măng(tụi em hay gọi là Nhicolai) đi chậm rãi như dạo mát đi đầu đội hình,lạ nữa là nó không mang súng,chỉ vác một ba lô lưng lửng không căng cứng như những đoàn vận tải ta thường gặp.Sau tên này khoảng chục thước là một thằng cũng "Nhicolai" nữa mang khẩu AK có vẻ như quá nặng đối với nó hay sao mà đi vài bước thì nó lại ngừng lại nhìn quanh dáo dác.Thật tình mà nói là diệt hai thằng nhóc này chắc còn dễ hơn húp cháo nữa nhưng B trưởng vẫn nằm yên chắc là anh thấy tội nghiệp hay là anh chờ mấy thằng già hơn để phang cho xứng với phát B40 kẻo phí.Rồi chừng 10 phút nữa thì xuất hiện một tốp 5 thằng,em nằm trong cỏ tranh thấy rõ thằng đi giữa è ạch gùi một ba lô căng phồng,ai nấy nín thở tập trung cao độ người đang căng lên thì bỗng nhiên tụi nó dừng lại,tụi nó bu xung quanh thằng mang ba lô ngay trước mặt thằng Hải người Sông Bé(bây giờ thuộc Bình Phước) mà nó cũng nằm nhìn tụi Pốt đang lấy cái gì trong ba lô ra chia nhau ăn.Rồi chuyện gì phải đến cũng đến,anh Lực đứng dậy quất trái B ngay thằng mang ba lô vừa lúc tụi nó thấy động nên ù té chạy,AK cũng phụ họa rần trời,khói bụi mù mịt,em lo phóng theo xử hai thằng nhóc(cho chắc ăn) nhưng không kịp.Trận đó tụi nó bỏ lại một xác,sáng ra thấy có dấu máu xung quanh nhưng tụi nó dìu nhau chạy mất tiêu,tụi em thu được một ba lô toàn thuốc tây mới tinh.Về họp rút kinh nghiệm ai cũng la thằng Hải quá xá làm nó cứ cà lăm cà lặp :"..tại hồi chiều quán..quán triệt rồi,hỏa...hỏa lực bắn rồi xung...xung lực mới được...được bắn chứ bộ",mọi người cười lăn lộn vì tánh thật thà của Hải,đúng là "quân lệnh như sơn" hé các bác!

Em không có chuyện lạ ở chiến trường nên khó kể quá! Nhưng lính thợ cũng có khối chuyện mà bây giờ nghĩ lại cười tức bụng. Em xin tiếp tục góp   chuyện, nếu không dúng chủ đề nhờ anh Đức xóa dùng nghe!
Chắc anh em mình ai cũng đã từng làm thịt cầy để cải thiện. Lúc đó khổ quá mà! Em xin lỗi, nghe nói ăn là ham.
 Có một con chó tự động vô sống trong b tụi em. Chắc là của dân rồi! Tụi em bữa nào cũng dành phần cho nó. Con chó thiệt đẹp, vàng ươm, đẹp trai phong  độ lắm, mà lại hiền khô. Tụi nó bàn " nên làm thịt cải thiện bị trước sau gì người ta cũng đi kiếm, trả lại uổng lắm". Thống nhất với nhau như vậy, đợi tới ngày nhận phụ cấp thì góp tiền mua đồ về " tẩm liệm" nó. Thằng Thanh là tổ sư mần chó, nó ngồi kể từng món, món gì nấu với gia vị gì, thèm nhỏ dãi. Nó nói một lát, cả đám đâm thèm, nhưng tièn đâu mùa đồ nấu? Trong đám tụi em có thàng Hải là có thủ tiền, bị nó róng riết, hà tiện lắm, không dám ăn dám xài, mặc dù lính chỉ có mấy đồng phụ cấp đâu? Nó chịu cho mượn tiền với điều kiện là khi lãnh phụ cấp phải trả ngay. Tụi em gật liền!
Chủ nhật đó tụi em phân công thằng Hải, thằng Thanh sẽ đi chợ, thằng Hùng ( đã có kể lần trước)với hai đứa nữa em quên tên ròi, chịu trách nhiệm mần chó, còn thằng Thanh thì đặt trách nấu.
Một lát thằng Hùng chạy kêu em:- Anh ơi, con chó này tu, làm ghê quá, em không dám.
Em hỏi nó:- Sao mầy biết nó tu? Vớ vẩn!
-Em vạch cái bao, biểu nó chun vô, thì nó chun vô, biểu chun ra thì nó chun ra, em sợ quá.
Chuyện này hồi giờ em chưa gặp. Em chạy về cầm cái bao sọc xanh bảo:
- Chun vô con. Con chó len lét chun vô. Thằng Hùng lào khào:-Đó anh thấy hông?. Em lại bảo:- Đi ra , con. Nó lại chun ra.
Thiệt lạ kỳ. Thằng Hùng nói:- Chắc con này tu anh à! Em đuổi đi nghe?-Ừ đuổi đi đi! Em nói, mà quả thật lúc đó tự nhiên em sởn gai ốc. Thằng Hùng dẫn con chó ra cổng nói: Mầy đi đi, lát nữa thằng Thanh về mà mày còn ở đây thì chết với nó. Nó cầm cây roi, quất cái đét, con chó kêu ẳng, cúp đuôi chạy mất.
Một lát sau hai thằng kia đi chợ về thấy bếp nguội lạnh , hỏi chưa làm chó à? Thằng Hùng nói:- Con chó này tu, tui thả rồi. Nó kể câu chuyện lúc nãy.Thằng Thanh gầm lên: - Tu mụ nội mày! Mất toi bữa thịt chó! Thằng Hải thì hỏi:- ba cái đồ này tính sao? Thì mày để ăn lần chớ sao! Mấy ông phải trả tiền lại cho tui.
Cả đám cười khơ khớ đáp:- Tụi tao có  thịt chó ăn đâu mà trả tiền lại cho mày!
Nó gầm lên:- lần sau đừng hòng mượn tiền tui. Rồi nó khóc hu hu. Cả bọn nhìn thằng Hải khóc cười khoái chí, khoái chí vì thằng keo kiệt nhất b bị chơi một vố.
Sau này vài lần nữa em mới thấy có sự trùng hợp kỳ lạ: hễ bàn mần chó mà nấu nước, đi chợ trước là không bao giờ có ăn, không biết bác nào gặp trường hợp như tui em chưa?
Câu chuyện kết ở đây, nhưng em muốn kể thêm một đoạn nữa. Sau 20 năm rời quân ngũ, tháng 8 năm nay em có dịp đi Hà nội cong tác, trên đường về qua Vinh thì có thêm một ông khách lên tàu ngồi toa em. Chả lâu lâu lại nhìn em lom lom. Cái nhìn thiệt khó chịu.Mấy lần chả bắt chuyện làm quen nhưng em giả lơ. Tới Lăng Cô ổng mới hỏi : -Anh có phải tên .......... trước ở K5 không? Sao anh biết tui? em ngạc nhiên hỏi. Chả nói:-tui nhận ra ông ngay lúc lên tàu, nhưng thấy ông lựu đạn quá nên tui ghét không thèm hỏi nữa, tui là Hải nè. Trời! Thằng Hải, thằng kẹo nhất b. Hai thằng lúc đó mới huyên thuyên nhắc đủ chuyện.
Vô Đà nẵng nó nhất quyết không cho em về, kéo ở lại vói nó một đêm. Tối hôm đó bên bờ sông Hàn, hai thằng ngồi nhậu và kể chuyện cũ, nhắc lại chuyện nó bị tụi em xù tiền mua đò mần chó vì tội quá riết róng, keo kiệt. Nó trầm ngâm:- Hồi đó nhà tao ở quê, đói khổ lắm, một hột cơm cõng bảy, tám lát mỳ. Ông già tao mất trước ngày tao đi lính một tuần, mẹ tao đau yếu có làm được gì đâu, còn 4 đứa em, đứa út mới 6 tuổi. Tao nhịn ăn nhịn tiêu là gởi về cho em tao thôi. Nhưng cũng cảm ơn tụi mày là chủ nhật nào cũng nhường một suất ra ngoài cho tao. Tao ra thiệt sớm, lận thêm mấy ký đồng ra bán phế liệu, kiếm một chút  tiền về đưa cho mẹ tao thuốc men, mua gạo. Tụi mày có đứa nào lục xét gì tao đâu, nếu không làm sao gia đình tao qua nổi khó khắn đó. Em nghe mà nghẹn ngào. Hồi đó mình vô tâm thiệt. -Sao hồi đó mày không nói, tụi tao đâu có biết. -Nói với tụi mày thì được gì, tui mày cũng trên răng dưới cát tút như tao, ích gì! Thôi vô đi!
Ly rượu trên tay em lúc này sao đắng quá!

Mùa khô năm 1984 sau khi ta đánh chiếm căn cứ Bantaveng - F912 của Polpot, D8 và D9 chốt trên các cao điểm, D7 cơ động, riêng C5 - D8 một trung đội chốt trên cao điểm, 2 trung đội chốt ở lưng chừng núi , những ngày sau đó nằm chốt chủ yếu chỉ gác vào ban đêm,  ban ngày nghĩ ngơi , do ngủ nhiều nên tôi bị sốt rét, khoảng ba ngày sau chuyển sang sốt ác tính, tôi không biết gì chỉ nghe anh em kể lại rằng y tá xuống cặp nhiệt,và nhiệt độ lên rất cao, tôi nói chuyện bậy bạ, nên anh em cáng tôi lên bệnh xá tiểu đoàn, điều trị được một ngày lại chuyển lên bệnh xá E...nằm ở đây một tuần thì tôi hạ sốt, nhưng đi lại phải nhờ đồng hương dìu, vì còn rất yếu, những ngày ở bệnh xá E tôi có nghe anh em kể lại một câu chuyện không biết có đúng không....? nếu như anh em nào ở E429 mà nằm viện vào khoảng tháng 5/1984 biết rõ câu chuyện nầy thì xin bổ xung thêm.
      Chuyện kể rằng trước ngày tôi nhập viện khoảng một tuần tại bệnh xá E429 có một đ/c bị sốt ác tính sau đó chết, bộ phận chuyên môn đến vệ sinh, xong mặc quần áo mới, quấn ni-lon xanh bó chặt và giao lại cho vận tải chuyển xuống núi hình như là chuyển về nghĩa trang Sam-raong , nhưng vừa xuống núi một đoạn, đi qua một con suối, đ/c cáng sau bị té và buông ca tử , bộ phận đi cùng mới nắm võng kéo vào bờ, khiêng lên vừa đặt xuống đất thì tử thi nhúc nhích, sợ quá có người bỏ chay chỉ có một đ/c cắt dây tháo ra thì bệnh nhân vẫn còn sống và thở....sau đó chuyển đi đâu thì tôi không biết....
    Riêng trường hợp chết đi 3 tiếng sau sống lại là có " nhà ngoại cảm Bích Hằng " là khi cô bị chó cắn sốt miên man có dặn với bố rằng, khi nào con chết bố bắn 3 phát súng tiễn đưa con " bố Bích Hằng là đại tá trong quân đội" điều trị mãi không hết sau đó Bích Hằng đã chết......!! và đúng như vậy, bố cô vừa bắn xong ba phát súng k54, là lúc cô mở mắt tỉnh dậy sau 3 tiếng đồng hồ chết lâm sàn, còn chuyện bệnh nhân tôi nghe kể lại, thì chờ những người trong cuộc, hoặc anh em nào có câu chuyện  tương tự thì cho ý kiến

Chuẩn bị đón xuân 1982 , Tết Nhâm Tuất . Cái Tết lính đầu tiên của tôi . Quân cảnh địa bàn nhiều hơn , giúp việc vặt cho e bộ nhiều hơn, quản giam nhiều hơn ,gác xách nghiêm ngặt hơn. Tuy bận rộn , b vệ binh sôi động khác thường . Mấy thằng được về tranh thủ , anh H b trưởng về phép . Sáng 30 , chúng tôi lên quản lí nhận bánh chưng . Mỗi thằng hai chiếc . Bánh, mứt kẹo trà thuốc .... mõi thứ một tí .Trưa ,  anh Hiển ( giờ vân đeo sao TO lắm )trên ban tác chiến xuống quán triệt vui Tết : '' Cấm bỏ gác , cấm đốt pháo , băn súng , tăng cường quân cảnh . Lính tráng say rượu , mất tác phong bắt ngay ....''. Thấy tôi anh hỏi :
 - Sao ko về ? Cha mẹ già yếu , nhà neo đơn . Cho về chiều mùng 2 có mặt .
 Mừng quýnh . Chẳng đợi giấy tờ , tôi vác ''gùi''dông một mạch.
 Cả đi lẫn về 3 ngày . Chiều mùng 2 tôi tới đv . Quang cảnh e bộ vắng teo . Cán bộ '' đi u '' uống rượu . Vệ binh làm quân cảnh gần hết . Tôi vào nhà b , cái bàn làm việc phủ tấm li lông được kê sát vách .Trên bánh , mứt kẹo . Chai '' Hương Chanh '' đã mở .Tôi làm một ngụm . Nhạt toẹt . Rượu hết , đổ nước lã bày cho oai . Tôi lặng lẽ đặt hộp mứt , bánh chưng vừa mang lên . Sang nhà lính , mấy thằng đang xúm xít tiến lên bôi râu . Thấy tôi chúng bỏ bài ra đón '' Lên sớm thế . Sao ko thêm mấy ngày !'' .Tôi móc chè , thuốc đưa cho anh em :'' Chán bỏ mẹ ! Lên cho sớm chợ '' .
 Ra giếng rửa mặt . Nước lạnh tê tay . Thấy mấy hạt cơm phơi trên tấm liếp tôi nói đổng '' ĐÉ..o có mà ăn còn phơi ''.Thằng Sáng dân Thái Bình đang đun nước nói vóng ra :'' Thằng Lanh phơi để nuôi gà ''. Gà ! b tôi có mấy con gà ông H đổi dầu gác từ hồi bé bằng quả quýt nay cũng kha khá .Anh em tôi uống trà , hút thuốc chuyện trò rôm rả . Chúng kể đêm 30 lính bắn nhiều lắm (?). ( đv tôi sau mấy vụ súng ống , quản lý đạn kỹ hơn , súng tập trung ở giá nhà b trưởng . Vệ binh thì súng đạn đầy đủ ).Lúc giao thừa , tập trung chúc Tết . Thằng gác khóc ti tỉ ngoài cổng . Anh Hậu b phó cho một thằng ra động viên nó . Ra một lúc thằng kia vào nói :
- Em bảo nó rồi mà nó cứ khó..ó..c . Từ khóc nó kéo dài rồi tru lên . Thế là cả b khóc theo .
Tôi bắt thằng Lanh đi bắt gà để thịt . Thằng này tính nịnh bợ được ông H giao cho ''quản gà''. Vốn sợ tôi nó nói '' Thôi để ông H lên hãy thịt . Em để phàn bác nửa con '' . Tôi cáu :
- Đé ..o gì ! Tao vừa về , thèm gì thịt . Có mấy con gà nhiếp thịt cho anh em ăn . Ông ấy về ấp vợ sướng bỏ mẹ ( ông H chưa vợ ).Thịt 4 con . Còn 4 con để b lên đủ tao thịt nốt .
 Tôi cắt tiết , bắt thằng Lanh làm lông . Anh em thấy nó mổ gà mà mặt tái xám méo xệch không nhịn được cười . Tối ăn cơm , uống rượu thịt gà . Anh em bàn cách chống chế khi ông H lên . Tôi tuyên bố :
- Ông H hỏi chúng mày cứ chỉ tao . Không cần nói gì . Thằng nào bép xép đừng trách .( Chuỵên thịt gà ân oán còn dài . Ông H giờ vẫn đeo sao khớ lắm . Gặp nhau anh em vẫn nói chuyện gà qué . Khi nào rảnh tôi kể bê '' chuyện thường ngày ....).
 Tôi nói với anh Hậu : '' Em mới về , để em gác thông đêm ''
 Anh Hậu cười '' Cậu mới về , '' quất '' ác . Gác ngủ quên chết tao ''.
 Tôi co ro trong áo trấn thủ ra thay gác mà lòng nặng trĩu . Đêm xuân , mưa lất phất . Mùi hương trầm , mùi thuốc pháo bên xóm đưa sang càng làm tôi thêm buồn . Qua 26 năm rồi , cái buồn ấy lại trở về phảng phất trong tôi....!

Tết 84 sang 85 , lúc này tôi vừa chân ướt , chân ráo về Đài TS . Từ tối 30 , mấy thằng cùng Đài đã bỏ ra bản chơi , để lại tôi 1 mình với 1 đống rượu , thịt . Cũng vì mình mới nhất , vả lại cũng chưa quen dân nên đành chấp nhận canh miếu . Làm gần nửa lít ( rượu men lá nhẹ hơn rượu dưới xuôi ) , mà lại chả ăn gì vì không ngon miệng , định bụng say để đi ngủ , đỡ bị nghĩ và bị buồn . Cũng tây tây ... Nhưng không tài nào ngủ được . Khoảng 2h nữa là giao thừa nên lính bắt đầu bắn ... Lôi súng ra bắn hết 1 băng , nhưng chán , cảm thấy tiếng súng của mình cứ lạc lõng thế nào ấy , cứ như cái thằng đốt pháo 1 mình ... Thế là chọn đạn lửa ra ngồi gõ làm pháo hoa , đang khoái chí với những luồng lửa phụt lên thì reng...reng ...reng ...Tiếng điện thoại . Vừa cầm máy thì tiếng ông D trưởng gắt trong máy hỏi ai nghịch đạn . Thôi bỏ m... rồi ! Ông ấy kiểm tra bên C3 (386) nên nhìn rõ ... Đành phải nhận ... Thế là : " Ngay lập tức sang trạm gác C1 gặp tôi ! " . Sau khi gọi về nhờ bọn hữu tuyến là :" nếu mấy ông dưới D mà gọi thì bảo hình như dây bị chập , đang nhờ mấy thằng Đài xem hộ " Tôi 1 mạch đi ra trạm gác C1 ( độ 3-4km) . Ông D trưởng đã đứng sẵn ở đấy . Không để giải thích câu nào , ông ấy bắt tôi xuống hầm ( 2m khối , ngay dưới chân trạm gác ) , xong xuôi , ông ấy bỏ đi . Thằng gác lính C1 lại không quen nên năn nỉ mãi nó cũng không đồng ý cho mình lên vì sợ " nhỡ đâu TT quay lại kiểm tra " , cũng may nó còn vứt cho bó thuốc . Thế là đón năm mới dưới hầm . Đến giờ giao thừa , lính bắn như có chiến sự , cả tiếng lựu đạn , tiếng B , tiếng M79 ...  Đang thiu thiu thì thấy thằng gác mở cửa hầm gọi dậy và thả về , lúc ấy đã hơn 1 h sáng . Hóa ra trong lúc ăn tất niên , ông D truỏng mới kể lại chuyện của tôi cho mấy ông trong ban chỉ huy D nghe . Ông Doãn D phó liền sai thằng LL gọi điện sang C1 để thả tôi . Quá may ! Các bố say sưa thế quên hết thì có mà ... Chả biết đến bao giờ mới đuọc thả .
  Hôm sau , gọi điện lên 474 rủ A Giang ( lính 80 , BĐ Hà Nội ) đi vào bản Nà Luộc chơi ( bản này cách Đài độ 7-8km ) . Tôi quen 1 GĐ trong bản do những lần đi rừng cùng anh Thìn .
  Tới trước cửa nhà , tôi và A Giang mỗi người kéo hết 1 băng AK . Ngồi 1 lúc thì cô con gái chủ nhà (độ 18-19t , khá bắt mắt , tôi cũng có quen sơ qua ) bưng ra 1 đĩa bánh khảo và rượu . Lần đầu tiên ăn tết với dân nên tôi không hiểu , cứ nói với A Giang :" Dân ăn tết lạ thật ! uống rượu với bánh khảo thì say bỏ m... !" A Giang tuy lính cũ nhưng cũng chả biết gì ! Cô con gái chủ nhà ngồi lại tiếp rượu bọn tôi . Gái Tày rất tự nhiên , lại uống rượu khá , nên 2 chú lính cứ .. nhiệt tình . Sau đó thì có 1 tay SQ của E197 đến , lính với nhau nên dễ nói chuyện lắm ... Đang chuyện nở như ngô rang thì ông chủ nhà bưng ra 1 mâm tú ụ , toàn món ngon và "mời các chú xuống xơi cơm" . Lúc ấy mới ngã ngửa ra ... Rượu thì đã tây tây , bụng thì lưng lửng . Đồ ăn thì không ăn được mấy , nhưng rượu thì phải nói là ngon ( Rượu nóng , đang nấu , uống đến đâu chủ nhà hứng vào đến đấy ) . Nhất là A Giang , cha này tửu lượng thuộc loại thần sầu , nên cứ Pác phân  pác (trăm phần trăm ), đặc biệt là Noọng mà chúc thì ... Mình thì bắt đầu nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ , vậy mà tay SQ 197 vẫn tỉnh như không , hóa ra hắn uống thì ít mà có 1 vốc mì chính , cứ 1 lúc lại đưa vào mồm chữa cháy ... Mặc dù đã mấy lần ra ngoài lấy nõn cây giong riềng nhai , nhưng đến lúc tàn cuộc , tôi vẫn bị say . A Giang thì say bét nhè , nói thế nào cũng không chịu về , cứ đòi ngủ lại , thế là tôi về 1 mình . Từ bản ra phải leo 1 cái dốc dựng đứng , đang say nên chưa hết dốc , tôi đã ngồi nghỉ . Ai dè ! Ôm khẩu súng ngủ quên luôn . Sáng gà gáy mới tỉnh dậy , tôi phải mất 1 lúc mới định thần được , mình đang ở đâu , hôm trước làm gì ... Vội vàng lao xuống bản , lo cho A Giang ... Nhỡ đâu bố ấy say làm gì thì chết ... Thế mà ông ấy đã dậy rồi , lại đang uống tiếp và nói chuyện chính trị với ông  chủ nhà ( ông chủ nhà trước đây tham gia KCCP nên rất thích nghe chuyện CT ) . Phải năn nỉ mãi . A Giang mới chịu về . Đã thế trên đường đi cứ tiếc là hôm trước say quá nên ngủ mất , không làm được gì ... May cho ông ấy , nếu mà được gì thì làm sao mà về quê mẹ được ...

Hóa ra cái sự nằm khóc đêm giao thừa xa nhà cũng sảy ra nhiều ra phết! Thằng lính lúc xung trận trông cũng " hầm hố " giống như bác Haanh cả lượt, vậy mà đến thời khắc chuyển giao năm cũ - mới cũng nước mắt ngắn dài như cánh quần hồng lúc lên xe hoa về nhà chồng.
Tết Mậu ngọ ( 1978 ) tôi đang ở E36, F308 huấn luyện tân binh. Một cái tết đầu tiên xa nhà. Huấn luyện ngay ở Xuân Mai mà chẳng được về. Đêm giao thừa ngồi ven đường quốc lộ, nhìn ngóng mãi về quầng sáng Thủ đô xa xa với biết bao thèm muốn.
Không giống như bây giờ là được nghỉ từ ngày 30. Hồi ấy, chúng tôi vẫn phải hoạt động bình thường nửa ngày 30, chỉ đến chiều 30 mới được nghỉ. Doanh trại ngày tết mà vẫn như ngày thường. Chẳng hoa, chẳng cờ quạt khẩu hiệu gì hết. Không khí tết chỉ đến với chúng tôi khi nhìn lên bảng tin nhà ăn tiểu đoàn có ghi rõ thực đơn ngày tết bắt đầu từ chiều 30 đến hết ngày mùng 1 năm mới ( 3 bữa ăn tươi ). Chiều 30, mấy lão anh nuôi bếp tiểu đoàn bắt đầu vật mấy con lợn ra cắt tiết. Bữa ăn chiều ba mươi mở đầu ngày tết được mở màn bằng món lòng lợn luộc, xương lợn hầm xu hào và mấy lát thịt luộc đầy mỡ ! Và cũng chỉ có vậy. Bữa trưa mùng một tết là ăn to nhất : Cũng nem, cũng thịt rán, thịt kho.. ( không thấy có rượu ), khoai tây hầm xương lợn ( không thấy có canh măng ). Sinh hoạt văn hóa văn nghệ thì chẳng có gì ngoài mấy tờ báo tường đại đội.
Xem ra, tết đầu tiên trong quân ngũ của tôi kém xa những gì các bạn kể ở trên.   

Nhớ lại cái tết năm 1980/1981 tại sân bay Congpongchnang. Ngày hôm trước ( 26 tết ), đại úy Bảy Việt từ sáng sớm ( 5g ) đã gọi chúng tôi dậy và ra lệnh thịt mấy con lợn tăng gia. Mấy thằng lính chúng tôi vừa ngạc nhiên, vừa vui hỏi lại :
- Sao thịt lợn sớm thế anh Bảy? Anh giải thích
- Mấy hôm nữa, đơn vị thịt lợn, thịt gà ê hề lúc ấy mình thịt ăn cũng mất ngon. Lại còn các đơn vị trực thuộc nó mời mọc ăn tết nữa.
Hiểu ý anh Bảy, chúng tôi làm thịt hai con lợn béo tròn béo trục mà chúng tôi nuôi từ mấy tháng trước. Lợn ăn toàn gạo và cá tươi nên rất mau lớn. Chúng tôi ăn tết từ ngày 26, mời thủ trưởng các đơn vị đến vui tết cùng mà ai cũng khen là chúng tôi....khôn.

Nhớ lại cái tết năm 1980/1981 tại sân bay Congpongchnang. Ngày hôm trước ( 26 tết ), đại úy Bảy Việt từ sáng sớm ( 5g ) đã gọi chúng tôi dậy và ra lệnh thịt mấy con lợn tăng gia. Mấy thằng lính chúng tôi vừa ngạc nhiên, vừa vui hỏi lại :
- Sao thịt lợn sớm thế anh Bảy? Anh giải thích
- Mấy hôm nữa, đơn vị thịt lợn, thịt gà ê hề lúc ấy mình thịt ăn cũng mất ngon. Lại còn các đơn vị trực thuộc nó mời mọc ăn tết nữa.
Hiểu ý anh Bảy, chúng tôi làm thịt hai con lợn béo tròn béo trục mà chúng tôi nuôi từ mấy tháng trước. Lợn ăn toàn gạo và cá tươi nên rất mau lớn. Chúng tôi ăn tết từ ngày 26, mời thủ trưởng các đơn vị đến vui tết cùng mà ai cũng khen là chúng tôi....khôn.

Cuối năm Âm lịch Tân Tỵ 2001, khoảng ngày 20 âm là các đơn vị đi làm kinh tế của đơn vị đã cơ bản rút về hết. Ko khí chuẩn bị Tết Nhâm Ngọ 2002 bắt đầu diễn ra sôi nổi trong toàn Tiểu đoàn. Tết năm ngoái, tức là năm 2001 lính mới Hải Phòng đại đội 6 - tiểu đoàn 2 bọn em được chỉ huy Trung đoàn giải quyết 100% quân số về ăn Tết để bù vào việc bọn em ko được về phép đồng loạt hồi tân binh nên năm nay phải ở lại trực Tết (tất nhiên là vẫn có một số được về ăn Tết, đa số là bọn 4C thôi chứ lính trơn bọn em toạch hết). Tiêu chuẩn Tết của hạ sỹ quan binh sỹ bọn em được 4 ngày ăn thêm từ 30 đến mùng 3, mỗi bữa hình như được ăn thêm 15K cộng vào tiêu chuẩn ngày thường hay sao ý (lâu rồi em ko nhớ rõ). Tết trong Quân đội cũng ko khác nhiều so với bên ngoài, cũng có bàn thờ, mâm ngũ quả, rượu, bánh chưng, bánh kẹo, thuốc lá...... nói chung là đầy đủ ko thiếu gì, có điều là ko ngon như bên ngoài thôi.

Để chuẩn bị cho Tết, các đơn vị phân công lực lượng đi rừng để lấy lá dong và cây giang về làm lạt gói bánh chưng. Rồi lực lượng trang trí bàn thờ mâm ngũ quả, khánh tiết. Lực lượng sửa sang, dọn dẹp quét vôi ve lại nhà cửa, phòng ốc doanh trại... Nói chung là ko khí rất chi là bận rộn. Những thằng ở nhà thì ko nói, vì hầu như toàn những công việc bọn em phải làm thường ngày, làm một loáng xong là lại tụ vạ đánh bài, đánh chắn hoặc tếch ra dân chơi (từ 20 âm trở đi là bọn em nhàn rồi). Còn bọn đi lấy vật chất về phục vụ Tết thì sướng ra mặt, rừng rú gì chúng nó, có mà rừng ở Hải Phòng ý. Chúng nó lợi dụng mấy ngày đi rừng là té về nhà chơi bời bù khú, lúc lên lại bắt bố mẹ xùy hìu ra mua cho mỗi thằng trăm lá dong + mấy bó lạt mang lên nộp là xong.

Ngày 25 Tết bộ đội các đơn vị lên bếp nhận gạo nếp, thịt và đỗ xanh về để gói bánh chưng. Cứ căn cứ vào quân số của từng đại đội nhân với tiêu chuẩn để hậu cần tiểu đoàn phát. Lá dong + lạt các đại đội có rồi bây giờ chỉ việc mang gạo nếp, thịt và đỗ xanh về tự gói thôi. Gói xong mang bánh của đại đội mình lên bếp luộc, bánh chín lại lên nhận về. Công nhận là bộ đội khéo tay thật các bác ạh, cái bánh chưng nào cũng vuông thành sắc cạnh, lạt buộc đều tăm tắp nhìn rất đẹp mắt. Có vẻ như những người được phân công gói bánh chưng cố gắng nắn nót cho cái bánh chưng thật đẹp hay sao ý. Em còn nhớ đợt đấy có tổ chức thi gói bánh chưng giữa các đại đội, lính Hải Phòng bọn em ko biết gói nên toàn đẩy cho mấy anh tiểu đội trưởng đi thi. Mấy ông ý ở quê chuyên gói bánh chưng cho nhà rồi nên gói cực đẹp luôn, về sau đại đội em được giải nhất. Phần thưởng là 3 cái bánh chưng con con cho cả đại đội.

Chiều 29 Tết mọi công tác chuẩn bị Tết của các đơn vị đã xong. Nhà cửa phòng ốc được dọn dẹp sạch sẽ, quét vôi ve lại sáng choang. Trên phòng giao ban của đại đội bàn thờ, mâm ngũ quả cũng đã được bày biện trang trí đẹp mắt. Trên bàn thờ có cả cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ. Đại đội nào cũng cố gắng trang trí cho bàn thờ của đại đội mình đẹp nhất (có tiết mục thi xem bàn thờ giữa các đại đội). Bánh chưng cũng đã luộc xong, các đại đội lên nhận mang về để phát cho các trung đội và bày lên ban thờ. Bánh kẹo, rượu, thuốc lá cũng đã được phát.

30 Tết, những thằng về quê ăn Tết đã được về, những thằng ở lại cũng xác định tư tưởng rồi, đằng nào cũng chỉ vài ngày nữa là ra quân nên ăn một cái Tết trong Quân đội cũng ko sao, có khi lại thú vị nữa ý nên ko thằng nào đào ngũ cả. Chiều 30 Tết, chuẩn bị vào bữa ăn Tất niên, toàn đơn vị xếp hàng để chỉ huy tiểu đoàn chúc Tết. Chúc Tết xong là tất cả lên nhà ăn. Bữa cơm Tất niên cũng có đủ như ở nhà: chả nem, thịt luộc, nộm su hào, xương ninh măng, miến.... Mỗi bàn có thêm một chai rượu 0,5 lít nút chuối nữa. Tất nhiên số rượu đó ko thể đủ cho 6 con sâu rượu đang vã rồi nên bọn em thằng nào thằng ý tranh thủ đút rượu vào bụng để mang vào. Chỉ huy biết thừa nhưng là ngày Tết nên cũng du di đi cho. Thế là bọn em tha hồ vừa ăn vừa uống, tiếng chúc tụng vang lên khắp nhà ăn (khác hẳn với không khí "ăn ko nói, đói ko kêu" ngày thường). Rượu càng vào thì nhời càng ra, bắt đầu lác đác có nhiều thằng đứng lên bê rượu sang bàn khác để chúc. Lính cũ chuẩn bị ra quân chúc lính mới ở lại mạnh khoẻ, yên tâm công tác, lính mới ở lại chúc lính cũ ra quân vui vẻ, về nhà có công ăn việc làm rồi lấy vợ đẻ con. Nói chung là chúc tụng nhau nhiều lắm. Đúng thời khắc chuẩn bị chuyển giao giữa năm mới và năm cũ, men say đang ngây ngất nên tự nhiên tình cảm con người ta dâng trào đến thế. Nhiều thằng ngày thường ghét nhau như chó, có khi còn dã nhau liên tục nhưng tự nhiên lúc đó lại nói chuyện với nhau thân thiết thế, dành cho nhau những lời cực kỳ có cánh mới sợ chứ.

Ko khí đang rất sôi nổi và vui vẻ thì tiểu đoàn trưởng - chú Nguyễn Xuân Vịnh xuất hiện. Lúc này thấy chú cũng đã biêng biêng rồi, vừa ăn Tất niên với Dbộ xong mà. Chú xuống nhà ăn để chúc Tết anh em lính. Chú đề nghị cả tiểu đoàn uống với chú một bát nhưng bọn em ko đồng ý, bắt chú phải uống với từng anh em mỗi người một cốc (tranh thủ ép người quá đáng, ngày thường chú ép bọn cháu ra mỡ rồi). Tất nhiên là chú ko thể đồng ý rồi nhưng bọn em cũng ko tha bắt chú phải uống. Cuối cùng chú bảo thôi chú uống 2 bát để chúc Tết anh em thôi vì tí chú phải đi ra chúc Tết chỉ huy Trung đoàn và các cơ quan, bây giờ chú uống nhiều say ra đây thì chết. Bọn em ko ép chú nữa và cử đại diện ra uống cùng chú. Tiếng dzô dzô dzô...... vang lên khắp nhà ăn theo nhịp uống của chú Vịnh. Sau 2 lần dốc bát chú chúc Tết bọn em rồi tạm biệt hẹn sang năm mới gặp mặt.

Ăn uống no say xong, bộ đội bọn em về đơn vị nghỉ ngơi và thực hiện theo kế hoạch. Tết nên bọn em ko phải sinh hoạt, chỉ xem hết chương trình thời sự, nghe chỉ huy đại đội quán triệt tinh thần đón Tết xong là tập trung lên sân tiểu đoàn xem chương trình văn nghệ Chúc mừng năm mới do chỉ huy tiểu đoàn tổ chức. Vẫn những tiết mục "nhà trồng được" thôi nhưng sao nó hay thế ko biết. Xem văn nghệ xong bọn em được giải tán về trung đội nghỉ ngơi, nhảy múa hát ca. Đúng 11h30', toàn bộ quân số đại đội (trừ quân số gác) tập trung lên sân đại đội đón giao thừa. Chiếu được trải ra giữa sân, bánh kẹo, thuốc lá cũng được bày sẵn. Tất cả đại đội hướng lên TV xem chương trình Tết. Đúng 0h00' ở trên đại đội trưởng Quyết cá sấu bật nắp chai sâm banh thì ở dưới bọn em hò hét và tung hết bánh kẹo lên trời làm pháo hoa, đại phó chính trị là anh Văn cố gắng ngăn mà ko được. Bây giờ thì có trời cũng ko cản được lòng phấn khích của bộ đội trong thời khắc thiêng liêng này nhé. Tiếng hò reo vang ầm cả tiểu đoàn, tiếng bài hát Happy New Year nổi tiếng cũng vang lên, ko thằng nào thuộc lời nhưng cứ nhại nhau hát, bây giờ chủ yếu là ko khí thôi mà. Vui đón giao thừa nghe chỉ huy đại đội chúc Tết xong bọn em giải tán về trung đội để ngủ nghỉ. Nhưng ngủ làm sao được trong giờ phút này chứ. Ko biết thằng Sơn trọc kiếm đâu được cái băng có bài "Xuân này con ko về" của Duy Khánh rồi cho vào cái phone của nó bật lên cho cả trung đội nghe. Bình thường nghe thì ko sao nhưng đúng phút đó nghe bài ý nó xúc động thế. Cảm xúc nhớ nhà, nhớ người thân, bạn bè trào lên, sống mũi thằng nào cũng cay cay, khóe mắt bắt đầu có nước chảy. Một lúc sau ko kìm được cả bọn cùng nhau khóc tu tu, khóc một tẹo rồi lại ôm nhau cười như ma làm, chả hiểu ra làm sao nữa. Khóc lóc cười đùa chán bọn em quay ra hát, chả bài nào ra bài nào nhưng cứ cùng nhau ê a hát. Thằng Khanh thọt tiểu đội em ko biết kiếm đâu ra hai chai rượu nho, nó đưa cho em một chai rồi hai thằng tay chai rượu, tay bao thuốc khoác vai nhau đi khắp tiểu đoàn chúc Tết. Em với nó đi từ bếp lên Dbộ vòng sang quân khí, xuống căng tin, sang đại 9, đại 11, đại 12, gặp ai cũng chúc và bắt uống. Đi hết một cua về đến trung đội là hai chai rượu vừa kịp cạn đến đáy. Lúc này hai thằng em cũng ko còn biết trời trăng gì nữa, do chiều tối trên nhà ăn bọn em cũng uống khá nhiều rồi, vất hai vỏ chai rượu đi xong là hai thằng em nhảy lên giường đậu luôn, kệ mịe bọn kia thích hát hò, khóc lóc gì thì cứ việc. Say lắm rồi ý

Hôm sau là mùng một Tết, em ko dậy được vì đau đầu quá, uống bao nhiêu loại rượu mà. Bỏ mất bữa cơm sáng và cơm trưa. Bọn cùng trung đội mang cơm về cho ăn cũng ko nuốt nổi. Đến tối mới nhúc nhắc dậy được lên nhà ăn nhưng cũng ko ăn được gì vì vẫn còn đau đầu. Thế là cả ngày mùng một Tết em phải nhịn đói vì rượu. Bọn cùng trung đội đi ra dân chơi và chúc Tết hết. Bọn ở nhà thì vùi đầu vào sát phạt bài bạc. Thỉnh thoảng cũng có vài em dân "mặt xấu chân tay bẩn" vào chúc Tết mấy chú bộ đội ngày thường làm tốt công tác dân vận. Mấy chú cứ lăng xa lăng xăng đón khách nhìn tất bật lắm ý.

Hết ngày mùng 3 là hết Tết, mọi hoạt động của đơn vị trở lại bình thường. Lính cũ bọn em "đắp chăn chờ độc lập" túc tắc hoạt động để chờ ra quân. Cả ngày chỉ phải tưới vài luống rau rồi về đánh bài, đánh chắn, xóc đĩa... đến giờ cũng chả cần lên nhà ăn nữa. Ko cờ bạc thì lại rủ nhau đi chơi, đi uống rượu. Tư tưởng rã đám chợ chiều cuối khoá nên tác phong thằng nào cũng lem nhem. Chỉ huy biết nhưng cố tình lờ đi, thôi thì chịu chúng nó mấy hôm nữa rồi chúng nó biến là xong, rảnh nợ.

Đấy, cái Tết đầu tiên và duy nhất trong Quân đội của em là thế đấy. Tất nhiên là còn nhiều chi tiết em chưa kể hết nhưng đại loại là thế. Tết bộ đội tất nhiên ko thể được như bên ngoài, nó thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần nhưng phải nói là cực kỳ đặc biệt. Về nhà đón thêm rất nhiều cái Tết rồi, đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần nhưng chưa bao giờ em quên được cái Tết Nhâm Ngọ 2002 ý.

Tôi có 4 tết ở trong quân ngũ, xin nêu ra đây để các CCB coi nhé:

Tết đầu tiên ở đơn vị huấn luyện, 1978-1979:

Sau 1,5 tháng huấn luyện, bắn xong bài 1, ném 1 trái lựu đạn chày ở trường bắn trong núi Bút sơn, bọn tôi chuyển sang xã Thanh liêm, huyện Thanh liêm, cũng lại đóng quân ở nhờ nhà dân như trước đó, đúng thực sự là nằm trong dân, cứ 3-4 chú/nhà dân, nơi đóng gần ở Phủ lý, khỏang 5km.
Từ 23 tháng chạp, anh em HN và các tỉnh gần lác đác trốn về nhà ăn tết, cũng vì ở trong dân nên trốn ra đường dễ lắm, cứ lội tắt ruộng ra thẳng đường 1 (Ninh bình-HN) hay đi hướng ngược lại xa hơn là đường 21 (Nam định-HN) đón xe là về HN, đôi chú lính còn nhảy bám theo tầu chở đá dăm từ mỏ đá Kiện khê về HN nữa, còn chú nào dũng cảm mò ra tận TX Phủ lý đón xe về HN mà ko sợ vê binh trung đoàn tóm vì ngày CN lính ra đó chơi là bình thường (hồi sau này ngày 17.2.79 khi ra Phủ lý chơi, có lúc tôi còn thấy dân quân từ biên giới Lào cai, họ cùng gia đình về qua đến ga Phủ lý, vẫn thấy mang súng trên người, chắc chạy về quê cũ).
Gần Tết 1978-1979 ấy, đơn vị cho lính hành quân bộ đi Kiện khê để lấy gạo, mỗi chú lính được phân công mang 20-25kg gạo bằng ba lô về bếp C. Nhà tôi ở có 4 anh em, bàn mượn 1 xe kéo (lọai xe cải tiến dùng chở đủ thứ đi làm đồng ruộng của dân) để chở gạo, anh Sơn tóet, lớn tuổi nhất bàn lúc đi thì xe không đi tắt bờ mương cho gần (4km), lúc về phải đi vòng đường liên xã cho dễ đi (8km), anh A trưởng cán bộ khung ko thể bám theo được, thế là khi kéo đến quán nước bên đường lên xã Liêm cần gần đó ngồi nghỉ, anh Sơn lấy mũ cứng đang đội múc uôn 3 mũ gạo đổi lấy 10 bánh chưng (lọai nhỏ, cắn 2 cái là hết 1 chiếc ấy) và uống trà xanh, khi về nộp gạo cũng ko thấy tổ chị em nuôi quân nói gì (có lẽ vì đằng nào thì lính ăn cũng kêu đói?)
Sáng 25 tháng chạp, ngủ dậy ko thấy ai gọi tập thể dục, hóa ra bọn cùng nhà dân (4 đứa) chỗ tôi và 3 đứa chỗ anh bạn nhà gần đó, đêm trước sau khi sinh hoạt đại đội xong đi ngủ, đợi ngủ hết là trốn về nhà rồi. Cả đơn vị lưa thưa còn ba bốn chục người quê xa quá ko về được, ăn tết buồn thiu, cả ngày đơn vị ko làm gì ngòai ăn 3 bữa, ko tập tành gì, mấy ngày ấy ai ở nhà nào đi giúp dân đánh cá ao, giã giò, luộc bánh, mà vùng này có chỗ dân gói bánh chưng nhân hành không thôi.
Nói về dân, vùng Thanh liêm này là nơi có nhiều khóa bộ đội huấn luyện rồi, mà dân vẫn quý bộ đội lắm, có nhà còn bán cho nguyên cây bưởi trong vườn cho lính để ăn. Ngày thường bác chủ nhà hãm nước trà xanh uống cùng bác chủ, lâu lâu chú nào về HN là gửi chủ giữ ba lô, yên tâm cán bộ ko thu được, vài hôm sau lên thì nặng đi đóng 100 viên gạch mộc hay thu xếp đống gạch mộc phơi ở bờ mương là hết tội..., A Sơn cùng ở hay giúp chủ làm các việc, mà hồi đó nhà mang quà đồ tắc lên như muối vừng, thịt kho mặn, muối xả, muối lạc, ít kẹo bánh, trà... cũng hay có quà cho chủ nhà nên được quý (tôi thấy từ "quà tắc tế, hay quà tắc", dùng từ 1978, gần đây đọc bài của huyphuc_81nb đi lính khoảng 83-84 cũng vẫn thấy nói đến từ tắc này, từ “tắc” sống lâu nhỉ), dịp gần tết và sau tết đó anh Sơn này cứ gần chiều tối đến 6h-7h lại đứng loanh quanh góc sân nhà làm gì đó cho chủ, dồn tìm gà, quét rác... mãi sau mới biết là góc sân đó lại ngay sau nhà BCH C, anh ấy nghe lỏm giao ban để biết kế họach C ngày mai, vì thời điểm đó sắp hết khóa 3 tháng huấn luyện, chuyển quân đến nơi, biết được ngày chúng tôi chuyển quân vào biên giới Tây Nam, tránh ko lên đơn vị, nhưng rồi số người ở lại vì nhiều lý do cũng theo đơn vị huấn luyện đó lên đặc khu Quảng Ninh. Bác chủ còn thích mấy chú lính vì vui, tối các chú đánh bài ăn tiền bác chủ còn ngồi xem ké, hi hi.

Mấy ngày Tết đó, cả A còn 2 anh em tôi, vẫn phải đi gác bêp C đơn vị ở sân kho HTX, thấy mấy em nuôi quân (mà sao các em đó béo lắm) ngồi túm tụm đánh bài quệt nhọ nồi vào đánh ké mãi cũng chán, 9h-10h tối cũng ko muốn đột kích bếp của chị em nuôi xúc bo bo hầm mang về ăn thêm như mọi khi nữa. Một tối đang ngồi uống trà với bác chủ, thì thấy có đứa học sinh trung cấp gì đó vào nhờ giải bài tóan, nói là ở nhà xóm giữa, nhà có bộ đội ở nhờ, mấy hôm nay anh ấy trốn về, ko nhờ ai giải bài tập được, nhờ anh giúp. Bác chủ nhường cho bàn nước giữa nhà, tôi ngồi đối diện qua ngọn đèn dầu (đúng như cán bộ C giảng giải cho lính ta trong mọi buổi sinh họat lúc 7h-9h hàng ngày, nói về quan hệ với dân), tôi chăm chú đọc và viết ra lời giải bài tập, mà thấy chân em nó đạp vào chân mình mấy lần, quái học kiểu này ko vào rồi. Giảng giải mãi rồi hỏi có hiểu gì ko thì bảo là ko hiểu! lúc cô bé cầm giấy bút ra về rồi, tôi nói với bác chủ nhà sao nó để ý đi đâu và dốt thế, bài tóan dễ mà cũng ko hiểu, lúc đi ra ngòai sân thấy em nó đang nghe trộm, hôm sau hỏi anh bạn kia, hóa ra là nó cũng lại nhờ anh ấy giải bài và đạp chân như vậy, hồi đó lạ nhỉ.
Bọn tôi sáng 1, 2 tết ko biết làm gì, mà cũng ko quen tục lệ dân, nên trèo lên đồi chè gần đó, tìm bóng mát và ngủ đến tận quá trưa, bác chủ trách mãi sao các chú khách sáo thế…, bọn tôi mấy hôm sau có dịp lang thang chơi chùa trên núi gần đó, vào cả nhà thờ ở xã Thanh liêm coi lễ, mãi cũng hết 3 ngày tết đó. Tết đó lần đầu xa nhà, là tết đầu tiên ở bộ đội, sao nó nhạt khó tả lắm, vì 1 phần là cuối khóa của là đơn vị huấn luyện.
Sau tết đó tòan đơn vị tập trung đủ còn tập bắn 1 bài bắn nữa ở dãy núi có tượng phật nằm, gần thị trấn Non. Cũng như TS1 đã từng tả cảnh ra ga tàu trong diễn đàn -  sau đó bọn tôi ba lô quân tư trang đầy đủ, hành quân bộ tập trung ở sân vận động Phủ lý gần ga tàu (mà tôi thấy giống sân khấu ngòai trời), và được đơn vị khung huấn luyện dồn quân lên tàu, tiễn và giao quân tận căn cứ Long bình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro