Chuyện xảy ra trên con tàu tốc hành Phương Đông

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần III - Hercule Poirot vận dụng những chất xám

Chương I : AI? HOẶC NHỮNG AI LÀ THỦ PHẠM?

Ông Bouc và bác sĩ Constantine đang ngồi nói chuyện thì Poirot bước vào toa. Ông Bouc có vẻ thất vọng:

- Ông ta đây rồi! - ông, Bouc thốt lên khi trông thấy Poirot. Poirot vừa ngồi xuống, ông Bouc lại tiếp ngay:

- Nếu ông tìm ra thủ phạm thì đó là một phép lạ đấy.

- Vụ án này làm ông khổ tâm đến thế kia à?

- Phải. Nhất là ta không biết phải bắt đầu điều tra từ đâu.

- Tôi cũng đồng ý như thế, - bác sĩ Constantine nói. - Thật ra tôi chẳng hiểu chúng ta sẽ làm gì bây giờ

Poirot đốt điếu thuốc và trả lời:

- Đối với tôi, đó là điều đáng lưu ý của vụ án. Vì thiếu tất cả mọi thủ tục điều tra nên chúng ta không thể nào kiểm soát lời khai của tất cả hành khách. Vậy chỉ còn mỗi một cách: sử dụng trí thông minh.

- Nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu.

- Chúng ta đã có những lời khai của những hành khách và những gì chúng ta đã trông thấy đó?

- Cuộc hỏi cung các hành khách đã không cho ta biết thêm điều gì.

- Xin lỗi ông, nó đã cho chúng ta biết về nhiều vấn đề.

- Thế mà tôi chẳng thấy gì!

- Có thể là ông đã không lắng nghe một cách chăm chú.

- Vậy thì ông hãy phân tích rõ cho tôi đi.

- Chúng ta hãy xem xét lại lời khai đầu tiên: lời khai của ông Mác Queen. Theo tôi, ông ta đã nói một câu mang nhiều ý nghĩa.

- Về những bức thư hăm dọa ấy à?

- Không, nhưng Mac Queen đã cho chúng ta biết là Ratchett đi du lịch rất nhiều nhưng lại rất bị lúng túng vì không biết ngoại ngữ. Mac Queen còn nói thêm anh ta là thông dịch viên cho Ratchett hơn là thư ký.

Poirot chăm chú nhìn ông Bouc và bác sĩ Constantine.

- Sao? Các ông vẫn chưa hiểu à? Thật không thể chịu nổi...

- Ông giải thích đi. - Ông Bouc nôn nóng hỏi.

- Khổ quá! Đây nhé: Ratchett không nói tiếng Pháp vậy mà khi anh phục vụ nghe chuông chạy đến một giọng nói đã trả lời bằng tiếng Pháp. Ngoài ra, người trong phòng Ratchett đã sử dụng tiếng Pháp thông dụng. Không phải thứ tiếng của những kẻ không biết nói tiếng Pháp. “Không có gì, tôi nhầm”.

- Phải rồi! - Bác sĩ Constantine kêu lên. - Chúng ta phải nhận ra điều đó ngay mới phải. Bây giờ tôi hiểu tại sao ông lại ngại ngừng khi chấp nhận giờ trên đồng hồ Ratchett là giờ xảy ra vụ án mạng vào lúc 1 giờ kém 23, Ratchett đã chết rồi...

- Và kẻ sát nhân đã trả lời thay thế cho Ratchett... - ông Bouc nói.

- Ta không nên đốt giai đoạn sớm quá, - Poirot nói. - Dù sao thì chúng ta cũng có thể khẳng định rằng vào lúc 1 giờ kém 23 một người nữa đã ở trong phòng Ratchett và người này là người Pháp hay ít ra cũng nói tiếng Pháp thông thạo.

- Ông rất tỉ mỉ trong cách làm việc.

- Cứ đi chậm cho nó chắc, không có gì xác định là Ratchett đã chết vào lúc đó.

- Nhưng ông đã bị thức giấc vì một tiếng hét?

- Phải, đúng thế.

- Điều khám phá hồi nãy chẳng làm chúng ta tiến thêm bước nào, - ông Bouc tuyên bố. - ông đã nghe thấy tiếng động ở phòng bên. Lúc đó không phải là Ratchett mà là kẻ sát nhân đang rửa tay vấy máu, xếp dọn lại và đốt lá thư. Sau đó, khi yên tĩnh đã trở lại trong toa, kẻ sát nhân đã móc xích an toàn phía trong phòng Ratchett. Hắn đã mở cửa ăn thông sang phòng bà Hubbard và đã thoát ra ngoài. Tóm lại, đó đúng là những gì chúng ta đã nghĩ... Với một sự khác biệt là Ratchett đã bị giết trước đó nữa tiếng và những kim đồng hồ ngừng chạy ở 1 giờ 15 chỉ là một chứng cớ vắng mặt.

- Một chứng cớ vắng mặt không có giá trị, - Poirot nói. - Kim đồng hồ chỉ 1 giờ 15... Giờ mà kẻ sát nhân đã rời khỏi hiện trường...

- Đúng đấy, - ông Bouc đồng ý, vẻ hơi thất vọng! - vậy kim đồng hồ ngừng ở 1 giờ 15 chỉ gì?

- Nếu kim đồng hồ bị xê dịch. Tôi nói nếu. Thì chắc phải có lý do. Trong trường hợp này, ta phải nghi ngờ tất cả những người có thể có chứng cứ vắng mặt vào lúc 1 giờ 15.

- Lý luận trên có vẻ có lý, bác sĩ Constantine nói.

- Chúng ta cũng nên có giả thuyết về giờ mà sát nhân đã vào phòng, Hắn đã có cơ hội lẻn vào lúc nào? Trừ phi chúng ta buộc tội anh phục vụ là đồng lõa, người phục vụ giả chỉ có thể lẻn vào toa tàu trong khi tàu ngừng ở Vincovei. Vì sau khi tàu rời ga, anh phục vụ, ngồi ở chỗ thường lệ của mình, có thể kiểm tra cả dãy hành lang. Dù cho không một hành khách nào để ý đến sự xuất hiện của một nhân viên tàu nằm thì anh phục vụ, chắc chắn sẽ để ý đến sự hiện diện của kẻ lạ mặt trên tàu. Nhưng, trong lúc tàu ngừng ở ga Vincovei thì anh phục vụ đã xuống sân ga. Như thế là kẻ lạ mặt đã có thể lên tàu mà không ai để ý.

- Và sau cuộc điều tra sơ khởi của chúng ta thì thủ phạm chỉ có thể là một trong những hành khách thôi! - Vậy kẻ đó là ai?

Poirot mĩm cười.

- Tôi có ghi rồi đây. Nếu các ông muốn xem cho cho dễ nhớ thì đây.

Bác sĩ Constantine và ông Bouc cùng xem những tờ giấy, trên đó có tên của từng hành khách đã được ghi vào, theo thứ tự của cuộc điều tra, kèm theo những nhận xét của Poirot.

1. Hector Mac Queen: Quốc tịch Mỹ. Kút sét 16. Toa hạng nhì.

Lý do để phạm pháp: có thể do sự quan hệ với nạn nhân.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng (từ 12 giờ đến 1 giờ 30, chứng cớ vắng mặt được

Đại tá Arbuthnot xác nhận và từ 1 giờ 15 đến 2 giờ, được anh phục vụ xác nhận).

Chứng cứ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: Không có..

2. Pierre Michel: Nhân viên, Công dân Pháp.

Lý do để phạm pháp: Không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12 giờ đến 2 giờ sáng được Hercule Poirot trông thấy ở hành lang. Khi một giọng nói được nghe thấy trong phòng Ratchett lúc 12 giờ 37- Từ 1 giờ đến 1 giờ 16 chứng cớ vắng mặt xác nhận bởi hai người phục vụ toa tàu khác.

Chứng cớ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: Bộ đồng phục của nhân viên toa nằm được tìm thấy trong hành lý của cô Ohlson đã có lợi cho Pierre. Kẻ gian đã sử dụng bộ đồng phục này để đổ tội cho Pierre.

3. Edward Masterman: Công dân Anh. Kút sét số 4, toa hạng nhì.

Lý do để phạm pháp: Có thể do sự quan hệ với nạn nhân.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12 giờ đến 2 giờ sáng. Chứng cớ vắng mặt đã được Antonio Foscarelli làm chứng.

Chứng cớ buộc tội: Trong nhóm hành khách chỉ có Masterman là có thể mặc vừa bộ đồng phục của nhân viên toa nằm tìm thấy trong hành lý của cô Ohlson. Ngoài ra, Masterman không nói thông thạo tiếng Pháp.

4. Bà Hubbard: Công dân Mỹ. Két sút số 3, toa hạng nhất.

Lý do phạm pháp: không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g: Không có.

Chứng cứ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: không có.

Ghi chú:

Câu chuyện người đàn ông trong phòng bà Hubbard đã được xác nhận bởi lời chứng của Hardman và cô Schmidt.

5. Guta Ohlson: Quốc tịch Thủy Điển. Kút sét số 7, toa hạng nhì.

Lý do phạm pháp: không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt xác nhận bởi Mary Debenham.

Ghi chú:

Cô là người cuối cùng thấy Ratchett còn sống.

6. Công chúa Dragomiroff: đã chuyển sang quốc tịch Pháp. Kút sét số 14, toa hạng nhất.

Lý do phạm pháp: Rất thân với gia đình Armtrong. Bà là mẹ đỡ đầu của Sonia Armtrong.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt được xác nhận bởi anh phục vụ và cô hầu phòng.

Chứng cớ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: không có.

7. Quận công Andrenyi: Quốc tịch Hunggari, du lịch theo thông hành ngoại giao. Kút sét 13, toa hạng nhất.

Lý do phạm pháp: Không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt do anh phục vụ xác nhận trừ thời gian từ l giờ đến 1giờ 15.

8. Vợ Andrenyi: Như trên. Kút sét 12.

Lý do phạm pháp: Không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: đã uống thuốc ngủ. Điều này do chồng và chai thuốc ngủ trong tủ xác nhận.

9. Đại tá Arbuthnot: Quốc tịch Anh. Kút sét 15, toa hạng nhất.

Lý do phạm pháp: không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt ngồi nói chuyện với Mác Queen đến 1g30. Về phòng và không rời phòng nữa (điều này do anh mắc Queen và anh phục vụ xác nhận).

Chứng cứ buộc tội: không có.

Sự kiện khả nghi: Cái nạo ống điếu.

10. Cyrus Hardman: Công dân Mỹ. Kút sét 16, toa hạng nhất.

Lý do phạm pháp: Không có.

Chứng cớ vắng mặt từ 12g đến 2g sáng: Không hề rời phòng (Mác Queen và anh phục vụ xác nhận).

Chứng cớ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: Không có.

11. Antonio Foscarelli: Công dân Mỹ (gốc Ý). Kút sét số 5, toa hạng nhì.

Lý do phạm pháp: Không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt xác nhận bởi Edward Masterman.

Chứng cớ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: Không có. Trừ việc dùng để giết người phù hợp với tâm lý của người Ý. (Ý kiến của ông Bouc).

12. Mary Debenham: Quốc tịch Anh. Kút sét 6, Toa hạng nhì.

Lý do phạm pháp: Không có.

Chứng cứ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng: chứng cớ vắng mặt, được Greta Ohlson xác nhận.

Chứng cớ buộc tội: Không có.

Sự kiện khả nghi: Câu đối thoại do Hercule Poirot nghe lỏm, và Mary Debenham không chịu giải thích.

13. Hildegarde Schmidt: Quốc tịch Đức. Kút sét 8, toa hạng nhì.

Lý do phạm pháp: Không có.

Chứng cớ vắng mặt: Từ 12g đến 2g sáng có anh tài xế và công chúa Dragomiroff xác nhận. Sau khi về phòng ngủ. Khoảng 12g30, nhân viên phục vụ đánh thức để đến phòng chủ là bà Dragomiroff.

Ghi chú: Lời khai của những hành khách trùng hợp với lời xác nhận của anh phục vụ về việc không một ai đã vào phòng Ratchett hoặc đã ra khỏi phòng giữa 12g và 1g (vào giờ này anh phục vụ đã sang toa bên) và từ 1g15 đến 2g.

Đây chỉ là một bản tóm tắt cuộc hỏi cung. Nó đã được sắp xếp như vậy để cho dễ hiểu, - Poirot nói

Ông Bouc nhăn mặt, trả lại tờ giấy cho Poirot.

Không lấy gì khả quan lắm!

Có lẽ những câu hỏi này hợp với ông hơn? - Vừa nói Poirot vừa đưa cho ông Bouc một tờ giấy khác.

Chương II: 10 CÂU HỎI

Trên tờ giấy có ghi:

Những giải thích cần thiết:

1. Cái khăn tay có thêu chữ “H” của ai?

2. Ai đã làm rơi cái nạo ống điếu? Phải chăng là đại tá Arbuthnot?

3. Ai mặc áo choàng đỏ?

4. Người đàn ông hay đàn bà đã cải trang thành nhân viên toa tàu nằm là ai?

5. Tại sao kim đồng hồ lại ngừng lúc 1g15 với mục đích gì?

6. Vụ án này có xảy ra lúc đó không?

7. Có thể sớm hơn không?

8. Hay muộn hơn?

9. Có thể xác định là Ratchett không phải bị một người đâm không?

10. Nếu không, những vết thương khác do đâu mà có?.

- Chúng ta hãy thử giải những câu hỏi này xem, - ông Boue nói. - hãy bắt đầu theo thứ tự, câu thứ nhất?

- Hay lắm, - Poirot nói vẻ hài lòng.

- Chữ H có thể hợp với ba người, bác sĩ Constantine nói, bà Hubbard, cô Debenham vì cô còn có tên là Hermione, và cô hầu phòng Hildegarde Schmidt.

- Vậy trong ba người này, ai có cái khăn tay đó?

- Thật khó xác định. Tuy nhiên tôi nghĩ chiếc khăn tay của cô Debenham. Không hiểu người ta có dùng tên Hermione để gọi cô ấy không. Mẫu chuyện mà ông nghe lỏm được, mà cô ta cố tình không giải thích có vẻ mờ ám.

- Theo tôi, thì tôi nghĩ anh chàng người Mỹ hơn, - bác sĩ Constantine nói. - Chiếc khăn tay này có vẻ đắt tiền và người Mỹ, như mọi người đều biết, không nghĩ đến giả tiền.

- Như vậy, cả hai ông đều loại trừ cô hầu à? - Poirot hỏi.

- Phải, chính cô ta đã bảo là chiếc khăn tay phải của một người sang trọng mà?

- Hãy sang câu hỏi thứ hai. Ai đã làm rơi cái nạo ống điếu? Đại tá Arbuthnot hay một người khác?

- Câu này khó đấy, - ông Boue nói. - Một người Anh không giết kẻ thù của mình bằng dao. Tôi cũng suy nghĩ như ông về tâm lý người Anh. Và nghĩ rằng mọi kẻ nào khác đã làm rơi trong phòng của nạn nhân để đổ tội cho Arbuthnot.

Quay sang Poirot, bác sĩ Constantine nói:

- Như ông đã nói, hai sự bất cẩn là hơi quá. Việc làm mất chiếc khăn tay là do vô ý, cho nên chẳng ai trong đám hành khách chịu nhận cái khăn của mình. Trái lại việc làm rơi cái nạo ông điếu chỉ là cố tình và đại tá Arbuthnot đã nhận một cách thẳng thắn là ông ta hút ống điếu và dùng loại nạo ống điếu này.

- Ông lý luận tuyệt đấy, - Poirot tán thành.

- Câu số ba: Ai mặc áo choàng đỏ? - ông Bouc nói. Tôi không có một ý kiến nào về câu này. Còn ông, ông Constantine?

- Tôi cũng thế.

- Ồ câu hỏi này, chúng ta bó tay, mong rằng câu hỏi tiếp theo sẽ dễ hơn. Người đàn ông hay đàn bà cải trang thành nhân viên hỏa xa là ai? Chúng ta hãy loại bỏ những người có tầm vóc: Hardman, đại tá Arbuthnot, Foscarelli, quận công Andrenyi và Hector Mac Queen, bà Hubbard, Hildegarde Schmidt và Greta Ohlson lại không đủ tầm vóc. Còn lại anh hầu phòng, cô Debenham, công chúa Dragomiroff và bà Andrenyi... Nhưng cả bốn người đều có những chứng cớ vắng mặt không chối cãi được.

- Ngoài ra Greta Ohlson và Antonio Foscarelli đã khẳng định là cô Debenham và anh hầu phòng không hề rời phòng. Hildegarde Schmidt xác định là công chúa Dragomiroff ở trong phòng bà ta và quận công Andrenyi đã nói rằng vợ ông sau khi uống thuốc ngủ, đã ngủ vùi trong phòng. Và như thế thì hình như là không một hành khách nào trên tàu có thể là thủ phạm... Thật khó tin!

- Thủ phạm chắc chắn phải là một trong bốn hành khách mà ta vừa kể trên. - Bác sĩ Constantine nói - Trừ khi, kẻ sát nhân đã đột nhập từ bên ngoài và đã tìm ra một chỗ trù ẩn... Nhưng chúng ta đã chứng minh sự vô lý của giả thuyết này rồi.

Ông Boue sang câu thứ năm.

- Tại sao kim đồng hồ lại ngừng ở 1g15? tôi thấy có hai câu trả lời: Hoặc là kẻ sát nhân đã xê dịch kim đồng hồ để tạo cho mình một chứng cớ vắng mặt và sau đó không kịp ra khỏi phòng đúng lúc dự định vì nó đã nghe thấy một tiếng động hay là. Ê, chờ một tí!... Tôi vừa nảy ra một ý kiến...

Hai người bạn im lặng để nghe ông Bouc nói ý kiến của mình:

- Không phải kẻ sát nhân cải trang thành nhân viên hỏa xa đã xê dịch. Kim đồng hồ, mà là kẻ chúng ta đã gọi là tên sát nhân thứ 2... Người thuận tay trái... Người đàn bà mặt áo choàng đỏ. Bà ta đã đến trễ và xê dịch kim đồng hồ để tạo một chứng cớ vắng mặt cho mình. - ông Bouc thở dốc ra như hết hơi!

- Hoan hô! - Bác sĩ Constantine thốt lên. - Tưởng tượng rất hay!

- Tóm lại, - Poirot nói. - Bà ta đã đâm Ratchett trong tối mà không hề biết ông ta đã chết trước rồi - Nghi ngờ rằng Ratchett bỏ đồng hồ trong túi áo, bà ta đã lấy ra và cũng trong bóng tối xê dịch kim đồng hồ rồi đập mạnh đồng hồ xuống cho nó hỏng.

Ông Bouc lạnh lùng nói:

- Ông có một cách giải thích khác hơn không?

- Hiện giờ thì chưa. Tuy nhiên theo tôi thì cả hai ông đều không để ý đến một chi tiết rất quan trọng về cái đồng hồ.

- Đây có phải là câu trả lời cho câu hỏi số 6 không? - Bác sĩ hỏi. Để trả lời cho câu hỏi: Vụ án mạng có xảy ra lúc 1g15, là giờ do kim đồng hồ chỉ không? Tôi trả lời: không!

- Tôi cũng thế, - ông Bouc nói. - có thể là sớm hơn không? Tôi sẽ trả lời là có. Còn ông thì sao, ông Constantine?

Bác sĩ Constantine gật đầu và nói:

- Tuy nhiên, ta cũng có thể trả lời có cho câu hỏi tiếp theo: Vụ án mạng có thể xảy ra muộn hơn có lẽ ông Poirot cũng đồng ý với tôi. Kẻ sát nhân thứ nhất đã đến lúc 1g15 và kẻ thứ 2 sau 2g15. Vậy ta nên xem hành khách nào thuận tay trái.

- Tôi đã không bỏ chi tiết này, - Poirot nói. - Chắc ông cũng đã nhận thấy tôi đã mời tất cả những hành khách ký tên và viết địa chỉ của họ. Cuộc thí nghiệm này không mấy đúng vì có những người thuận tay phải khi làm việc này nhưng cũng có người thuận tay trái. Ví dụ họ có thể viết tay phải nhưng lại chơi Tennis bằng tay trái. Dù sao thì tất cả hành khách trên tàu đều đã viết tay phải, trừ công chúa Dragomiroff từ chối không chịu viết.

- Không thể nào buộc tội cho bà Dragomiroff được, - ông Boue nói.

- Tôi nghĩ là bà Dragomiroff không đủ sức đâm bằng tay trái. - Bác sĩ Constantine nhận xét, - một vài nhát đâm đã được giáng xuống rất mạnh.

- Vượt ngoài sức lực của người phụ nữ.

- Có thể không vượt ngoài sức lực của phụ nữ, nhưng ít ra cũng vượt ngoài sức lực của một người đàn bà lớn tuổi. Công chúa Dragomiroff có vẻ yếu đuối.

- Chúng ta không nên lấy ảnh hưởng của ý chí đối với sức lực của thân thể, - Poirot nhắc nhở. - Công chúa Dragomiroff có một cá tính và một ý chí rất mạnh nhưng chúng ta hãy sang câu hỏi khác đi.

- Ơ câu hỏi 9 và 10: Chúng ta có thể xác định là Ratchett không phải bị một người đâm và những vết thương khác do đâu mà có? với tư cách là bác sĩ, tôi nghĩ rằng ít nhất phải có hai kẻ sát nhân. Thật là điên rồ mới nói là một người có thể đâm thật nhẹ rồi thật mạnh bằng tay phải rồi lại tay trái và nữa giờ sau lại đâm tiếp nạn nhân!

- Đúng thế, - Poirot nói. - Theo ông. - sự hiện diện của một kê sát nhân thứ 2 có vẻ dễ tin hơn?

- Ông hãy thử tìm cho tôi một giải đáp hay hơn!

- Tôi không ngừng nghĩ đến điều đó. - Poirot thở dài đáp. - bây giờ, - vừa vỗ vào trán ông vừa tiếp, - chúng ta phải tìm trong này! Chúng ta đã nghiên cứu và sắp xếp có thứ tự những dữ kiện. Những hành khách đã đến đây và đã trả lời những cầu hỏi. Chúng ta đã biết tất cả những gì chúng ta có thể biết... Trừ bên ngoài. - Đến đây - Poirot mỉm cười thân mật với ông Bouc - Bạn thân mến, ông vẫn thường chế giễu cách làm việc này của tôi: ngồi và suy nghĩ để tìm ra sự thật từ đáy giếng... Vậy thì tôi sẽ làm việc theo cách này và cả hai ông cũng sẽ làm như tôi. Thử nhắm mắt lại và tập trung suy nghĩ.

- Ratchett đã bị giết bởi một hay nhiều người. Ai hoặc là những ai?

Chương III: MỘT VÀI CHI TIẾT

15 phút trôi qua trong im lặng. Ông Bouc và bác sĩ Constantine cố gắng theo đúng sự chỉ dẫn của Poirot. Họ đang cố tìm ra sự thật. Ông Bouc nghĩ:

- Lẽ dĩ nhiên phải suy nghĩ. Từ nãy giờ mình chỉ làm có mỗi chuyện đó. Poirot nghĩ cho cô Debenham có dính líu đến vụ án. Theo mình thì không tin thế - có thể nghĩ cho gã người Ý. Thật uổng. Anh hầu phòng không có lý do gì để nói dối khi xác nhận rằng gã người Ý đã không rời phòng. Thật rắc rối. Không hiểu bao giờ thì tàu mới chạy lại được? Người ta phải nghĩ đến việc phải giúp chúng ta chứ. Cảnh sát Nam Tư lại sắp sửa gây rắc rối cho vụ này đây... Và cứ như thế suy nghĩ của ống Bouc bị phân tán dần dần.

Bác sĩ Constantine nghĩ:

- Anh chàng thám tử người Mỹ này thật kỳ lạ. Một thiên tài hay một thằng điên? Anh ta có tìm ra thủ phạm không? vô lý. Riêng mình thì chẳng còn hiểu ra sao nữa! Hay là tất cả hành khách đều nói láo. Nếu thế thì lại càng thêm rắc rối ... mình không sao giải thích được tất cả những vết thương trên tử thi... Một tên côn đồ Mỹ giết người bằng súng chứ... Hoa Kỳ... Đất nước của rối ren và phức tạp... Mình thích sang đó xem sao. Khi về, thế nào mình cũng phải gặp Démetrius Zagone. Anh ta đã đi sang Mỹ nhiều lần...

Và cứ như thế bác sĩ Constantine lại trầm ngâm suy nghĩ về... Nước Mỹ.

Hercule Poirot ngồi bất động, hình như ông ngủ.

Bỗng nhiên sau 15 phút im lặng hoàn toàn, Poirot thở dài và lầm bầm:

- Sao lại không nhỉ? Nếu như thế thì mọi việc đều được giải thích.

Poirot mở mắt - cặp mắt xanh như mắt mèo - nói với ông Bouc và bác sĩ Constantine.

- Tôi đã suy nghĩ, còn các ông?

Đang thả hồn vào giấc mộng, cả hai đều giật mình.

- Tôi cũng thế, - ông Bouc nói. - Nhưng tôi chẳng tìm ra được gì. Tìm ra thủ phạm là nghề của ông chứ không phải của tôi.

- Tôi cũng đã suy nghĩ, - bác sĩ Constantine nói, - tôi đã có nhiều suy nghĩ nhưng chẳng có cái nào vừa ý cả!

Poirot gật gù như muốn nói: Tôi biết mà!

- Ông ngồi thẳng dậy, vuốt râu, ưỡn ngực và nói như đang thuyết trình:

- Các bạn, tôi đã lần lượt xem lại những lời khai của hành khách và tôi đã tìm ra một giải thích mặc dù chưa được rõ ràng lắm, nhưng cũng có thể trả lời một phần nào cho chúng ta. Trước khi xác định câu trả lời này là tốt nhất, tôi còn phải xem lại một vài vấn đề nữa.

- Trước hết, xin phép cho tôi có vài nhận xét khá quan trọng.

- Cũng ở chỗ này, vào bữa cơm trưa cuối cùng, ở toa ăn này, ông Boue đã cho tôi một nhận xét rất hay: ông nói là trên chuyến tàu này tập trung nhiều hạng người, đủ mọi tầng lớp và mọi quốc tịch. Việc như vậy rất hiếm vào mùa này. Với thời tiết khỉ gió này thì chuyến tàu tốc hành rất vắng khách. Ngoài ra, một hành khách có đăng ký nhưng không đến. Tôi cũng xin nêu lên những chi tiết khác. - Vị trí túi xách của bà Hubbard. Tên của mẹ bà Armtrong. Cách làm việc của anh chàng thám tử tư Hardman. Tên của bà Dragomiroff. Vết mờ trên số thông hành người Hung và lời khai của Mác Queen với mảnh giấy bị đốt trong phòng Ratchett. Anh ta đã nói rằng chính Ratchett đã đốt tờ giấy này!

Hai người đàn ông nhìn Poirot, không hiểu.

- Sao? Tất cả những điều đó không quan trọng đối với các ông à?

- Hoàn toàn không. Ông Bouc thật thà nói.

- Còn ông, thưa bác sĩ.

- Tôi chẳng hiểu, ông muốn chứng minh điều gì?

- Ông Bouc lục trong xấp thông hành và rút số thông hành của vợ chồng quận công Andrenyi ra.

- Có phải vết này không?.

- Phải, nó còn mới, và hãy nhìn xem vết mờ ở đâu.

- Ngay ở đầu tên bà Andrenyi... Đúng hơn là trên chữ đầu tiên của tên bà ấy. Nhưng thú thật là tôi vẫn chưa hiểu gì.

- Ông sẽ hiểu. Chúng ta sẽ trở lại chuyện cái khăn tay tìm thấy ở hiện trường. Như chúng ta đã nói khi nãy. Ba nữ hành khách có chữ đầu của tên là H: bà Hubbard, cô Harmion Debenham và cô Hildegarde Schmidt, cô hầu của công chúa Dragomiroff. Chúng ta hãy xem xét chiếc khăn tay dưới một khía cạnh khác. Đó là một chiếc khăn làm bằng vải mỏng, được thêu bằng tay và rất đắt tiền. Có lẽ được mua ở Paris. Ai trong các nữ hành khách, nếu chúng ta không để ý đến chữ “H” thêu trên khăn, có khả năng mua cái khăn này? Chắc không phải bà Hubbard, vì quần áo và đồ dùng của bà không cầu kỳ. Chắc cũng không phải cô Debenham: Loại người này chỉ dùng những thứ khăn vải bình thường. Còn cô hầu phòng, chiếc khăn này quá đắt đối với cô ta. Nhưng trên tàu này còn hai nữ hành khách khác chúng ta hãy thử xem chữ “H” có trùng hợp với tên họ không? trước hết công chúa Dragomiroff.

- Tên của bà ta là Natalia mà, - ông Bouc nói giọng mỉa mai.

- Đúng đấy. Như thế công chúa Dragomiroff vô can. Bây giờ đến bà Andrenyi. Ở đây điều làm chúng ta chú ý là ...

- Ông nên nói điều làm ông chú ý đi.

- Cũng được. Điều làm tôi chú ý là trên số thông hành, tên của bà ta lại bị dính mở. Người ta có thể cho đó là một sự vô ý. Nhưng các ông hãy chú ý đến cái tên Elena. Chữ “H” hoa phía sau có thể đã bị sữa thành chữ E và che mất chữ E tiếp theo... Một vết mờ đã ngay đúng chổ có thể che đậy được điều này.

- Helena! - ông Bouc thốt lên. - Chà đó là một ý kiến hay đấy!

- Dĩ nhiên. Tôi đã tìm một lý lẽ để xác định sự nghi ngờ của tôi dù cho nhỏ. Và cuối cùng tôi đã tìm ra. Một miếng nhãn nhỏ dán trên vali của bà Andrenyi vẫn còn hơi ướt và được dán ngay trên chữ đầu tiên của tên bà Andrenyi. Nhãn đó đã được gỡ ra và dán vào chỗ khác.

- Ông bắt đầu thuyết phục được tôi rồi đấy, - ông Bouc nói. - Nhưng bà Andrenyi...

- Bây giờ, thưa các ông, chúng ta hãy xem vụ án dưới một khía cạnh khác. Vụ án này dưới mắt cảnh sát sẽ được xem như thế nào? Chúng ta không nên quên rằng tuyết đã làm xáo trộn mọi dự tính của kẻ sát nhân. Cứ thử nghĩ xem rằng tàu không bị kẹt vì nghẽn đường con tàu sẽ đi binh thường và chuyện gì sẽ xảy ra?

- Vụ án chắc chắn sẽ được phát giác ra ở biên giới Ý. Tất cả những hành khách sẽ cung cấp mọi dữ kiện cho cảnh sát. Mac Queen sẽ đưa ra những bức thư hăm dọa. Ông Hardman sẽ kể câu chuyện của ông ta. Bà Hubbard cũng sẽ nói có một kẻ lạ mặt đã vào phòng, cái khuy sẽ được đưa ra. Nhưng theo tôi thì sẽ có hai chi tiết khác: Kẻ lạ mặt đã vào phòng bà Hubbard trước một giờ... Và người ta sẽ tìm ra bộ đồng phục của nhân viên hỏa xa trong phòng vệ sinh.

- Ông nói sao?

- Tôi nói là vụ án đã được đàn dựng lên để cho người ta lầm tưởng kẻ sát nhân đến từ bên ngoài.. Sau khi giết Ratchett xong, hắn đã bỏ trốn. Người ta sẽ nghĩ rằng hắn đã xuống ga Brod, ga mà tàu phải đến lúc 0g58. Một người nào đó đã gặp một nhân viên phục vụ lạ mặt ở hành lang. Bộ đồng phục để lại đã tố giác ý định của kẻ sát nhân. Như vậy, không ai trong hành khách sẽ bị nghi ngờ. Đó là tất cả những gì thực sự phải xảy ra.

- Nhưng việc nghẽn tàu đã làm đảo lộn tất cả dự tính. Đó là lý do tại sao kẻ sát nhân lại phải nán lại phòng nạn nhân lâu thế. Không còn hy vọng là con tàu sẽ tiếp tục đi lại, bắn đã có ý định thay đổi kế hoạch vì người ta sẽ biết là kẻ sát nhân chưa hề rời tàu.

- Tôi hiểu rồi, - ông Boue nói, - nhưng trong chuyện này cái khăn tay là thế nào?

- Tôi sẽ trở lại. Trước hết, các ông phải biết là những bức thư hăm dọa chỉ là một cái bẫy cho cảnh sát. Những bức thư này có thể đã được chép trong bất cứ tiểu thuyết trinh thám nào. Chúng ta phải hỏi là: Những bức thư này có làm Ratchett nao núng không? Hình như không! Theo những lời dặn dò của Ratchett cho Hardman, thì Ratchett sợ một kẻ thù riêng tư mà Ratchett biết rõ danh tánh. Điều này nếu chúng ta tạm tin vào sự thành thật của Hardman. Nhưng Ratchett đã nhận một lá thư mang tính cách hoàn toàn khác... Cái thư có liên quan đến vụ Armtrong mà chúng ta đã tìm thấy một mảnh trong phòng nạn nhân. Lá thư này nhằm mục đích cho Ratchett biết lý do tại sao cuộc sống của mình bị đe dọa. Bức thư này không thể lọt vào tay cảnh sát cho nên kẻ sát nhân đã vội vàng đốt đi. Đó là chướng ngại vật thứ hai cho sự thành công của kế hoạch của kẻ sát nhân: Đầu tiên là tuyết, sau đó là việc chúng ta tìm ra mảnh giấy bị đốt.

- Sự thận trọng của kẻ sát nhân khi đốt mảnh giấy chứng tỏ một hành khách trên tàu dính líu mật thiết đến gia đình Armtrong. Và việc tìm ra mảnh giấy đủ để nghi ngờ hành khách này.

- Chúng ta hãy sang hai tang chứng khác: Không nói đến cái nạo ống điếu mà ta đã đề cập đến nhiều rồi. Trước tiên là cái khăn tay, nó làm cho những hành khách có tên đầu là “H” dính líu vào vụ án. Chiếc khăn này chắc vì bất cẩn đã bị rơi ở hiện trường..

- Đúng lắm, - bác sĩ Constantine nói. - Và kẻ ấy sau khi biết mình mất khăn đã vội vàng sửa lại tên mình.

- Ông đi nhanh quá đấy. Tôi không dám kết luận sớm thế đâu!

- Còn kết luận nào khác hơn.

- Dĩ nhiên, cứ thử nghĩ là ông vừa giết người và muốn cho người khác bị nghi ngờ, ông biết rằng trên tàu có một phụ nữ bạn thân với gia đình Armtrong... Cứ cho là ông đã làm rơi ở hiện trường chiếc khăn tay của phụ nữ đó... Người ta sẽ hỏi cung và sẽ tìm ra sự quan hệ của phụ nữ này với gia đình Armtrong.. Và bây giờ đã có lý do của một tang chứng buộc tội.

- Nếu thế, - bác sĩ Constantine nói, - người bị nghi ngờ, vì sự vô tội của mình, sẽ không dấu danh tánh nữa.

- Thật không? ông nghĩ thế à? ông bạn ơi, tôi biết thế thái nhân tình lắm. Trước sự đe dọa đột ngột bị nghi là thủ phạm, người phụ nữ vô tội nhất, sẽ mất bình tĩnh và làm mọi việc điên rồ. Vết mờ trên, số thông hành và sự thay đổi những nhãn tên, hành lý không chứng minh là bà Andrenyii có tội, mà chỉ cho chúng ta biết rằng, vì một lý do cá nhân nào, bà Andrenyii muốn dấu danh tánh mình.

- Không hiểu bà ta liên hệ gì với gia đình Armtrong. Bà ta có bao giờ ở Mỹ đâu!

- Đó là bà ấy nói vậy, bà Andrenyi nói tiếng Anh không thông thạo và đôi khi làm ra vẻ giống Á đông. Tuy nhiên tôi muốn biết mẹ bà Andrenyi là ai. Mẹ của bà Armtrong là Linda Arden, một kịch sĩ nổi tiếng... Tuyệt vời trong những vai trò của các vở bi kịch Shakespeare. Các ông có còn nhớ trong hai vở Ý muốn có đề cập đến rừng Ardeni và Rosalinde. Đó là điều đã gợi ý cho bà cái tên Linda Arden. Dưới cái tên này bà đã nổi danh trên toàn thế giới. Nhưng tên thật của Linda Arden có thể là Goldenberg ... tổ tiên của Linda Arden có thể là người Trung Á. Nếu thế thì Linda Arden có mang dòng máu Ixraen. Thưa các ông, người em gái của bà Armtrong, khi thảm kịch xảy ra mới chỉ là một cô bé, là Helena Goldenberg. Cô con gái thứ hai của Linda Arden: Helena đã lấy quận công Andrenyi. Tùy viên tại sứ quán, khi ông này công tác tại Washington.

- Nhưng công chúa Dragomiroff đã nói với chúng ta là cô con gái thứ hai của Linda Arden đã lấy một người Anh mà!

- Phải, một người Anh mà bà không nhớ tên. Khó tin! công chúa Dragomiroff là bạn thân thiết của Linda Arden và có thể bà là mẹ đỡ đầu của một trong hai cô con gái... Vậy mà bà lại quên một cách nhanh chóng tên chồng của cô con gái thứ hai của Linda Arden. Khó tin lắm! tôi có thể nói là bà Dragomiroff đã nói dối chúng ta. Bà biết là Helena cùng đi trên chuyến tàu này và bà đã thấy Helena. Ngay sau khi công chúa Dragomiroff biết danh tánh của Ratchett, bà nghĩ ngay rằng Helena sẽ bị nghi ngờ. Vì thế khi chúng ta hỏi bà về cô em gái của bà Armtrong, bà Dragomiroff đã trả lời một cách mơ hồ.

Một người hầu trong toa tàu ăn bước vào và hỏi ông Boue:

- Thưa ông có dọn cơm không ạ?

Ông Bouc đưa mắt dò hỏi Poirot:

- Lẽ dĩ nhiên, - Poirot nói.

Anh hầu ra ngoài và chẳng bao lâu chuông báo cơm vang lên.

Chương IV:  VẾT MỠ TRÊN THÔNG HÀNH.

Cả ba người ăn cùng bàn. Những hành khách tập trung trong toa ăn đều yên lặng. Ngay cả bà Hubbard nói nhiều cũng biếng mở miệng. Khi ngồi vào bàn, bà lẩm bẩm:

- Tôi chẳng muốn ăn.

Tuy nhiên bà ta ăn hết tất cả thức ăn được dọn lên và cô Greta Ohlson ngồi cạnh, không ngừng săn sóc bà.

Bắt đầu bữa ăn, Poirot đã kéo người hầu trưởng lại và nói thầm với anh ta. Bác sĩ Constantine đoán được những lời dặn dò của Poirot khi trông thấy vợ chồng quận công Andrenyi bao giờ cũng ăn sau những hành khách khác. Cho nên đến cuối bữa ăn họ phải chờ tính tiền và họ là người cuối cùng rời toa ăn.

Khi vợ chồng quận công Andrenyi đứng lên, và đi về phía cửa, Poirot mới nối gót họ.

- Xin lỗi bà, bà đã làm rơi chiếc khắn tay.

Nói xong, Poirot đưa cho bà Andrenyi cái khăn có thêu chữ “H”.

Bà Andrenyi cầm lấy khăn nhìn. Sau đó bà đưa lại và nói:

- Ông nhầm rồi thưa ông, chiếc khăn này không phải của tôi.

- Bà chắc chứ?

- Thưa ông chắc chắn.

- Nhưng nó có thêu tên bà mà. Chữ “H” đây.

Quận công Andrenyii lộ vẻ bực mình, nhưng Poirot không hề chú ý tới, ông nhìn bà Andrenyi chầm chặp.

Không hề nao núng, bà Andrenyi trả lời:

- Thưa ông tên đầu của tôi là “E.A”.

- Xin lỗi bà, tên bà là Helena chứ không phải là Elena... Helena Goldenberg, con gái thứ hai của Linda. Arden Helena Goldenberg, em gái của bà Armtrong.

Một không khí nặng nề bao trùm lấy toa ăn. Vợ chồng quận công Andrenyii tái mặt một lúc, sau Poirot nói bằng một giọng ôn tồn:

- Không cần chối nữa thưa ông bà. Đó là sự thật, phải không thưa bà?

Quận công Andrenyi nhảy chồm lên tức giận.

- Ông có quyền gì...?

Bà Andrenyii đưa tay lên miệng chồng như ngăn lại và nói:

- Em xin anh. Anh Rudolph hãy để em nói. Chối chẳng ít gì? Chàng ta nên ngồi xuống đây nói chuyện.

Quận công Andrenyi im lặng và họ cùng ngồi xuống ghế trước mặt Poirot.

- Thưa ông, tôi chính là Helena Goldenberg. Em gái của bà Armtrong.

- Sáng nay bà đã không nói thế, thưa bà.

- Vâng.

- Nếu thế thì lời khai của ông bà chỉ toàn là dối trá.

- Kìa ông! - Quận công Andrenyi nói to.

- Anh hãy bình tĩnh đi Rudolph. Ông Poirot không khéo nói, nhưng những gì ông ấy nói đều đúng

- Tôi rất mừng là bà đã thành thật. Xin bà vui lòng cho tôi biết tại sao bà lại sửa tên trên thông hành.

- Việc này chỉ liên quan đến tôi thôi. - Quận công Andrenyi nói.

Helena bình tĩnh nói:

- Thưa ông Poirot, ông biết rõ lý do của tôi. Người đàn ông bị giết tối qua là kẻ sát nhân cháu gái tôi...

- Anh chị tôi đã chết vì buồn khổ. Hắn đã lấy đi mất ba người thân thiết nhất của tôi.

Giọng Helena run lên vì xúc động. Bà đúng là con gái của một kịch sĩ nổi tiếng đã làm rơi lệ biết bao nhiêu khán giả!

Ngừng một lúc, Helena tiếp bằng một giọng bình thường.

- Trong tất cả hành khách ở đây, tôi là người có lý do chính đáng nhất để giết hắn.

- Bà không giết hắn chứ, thưa bà?

- Tôi xin thề là không, thưa ông. Chồng tôi đây cũng sẵn sàng thề với tôi. Dù cho tôi có mong muốn làm điều đó. Nhưng tôi không hề chạm vào hắn ta.

- Thưa các ông, tôi xin lấy danh dự bảo đảm là vợ tôi đã không rời phòng tối qua, Andrenyi nói. Như tôi đã nói, Helena đã uống thuốc và ngay sau đó ngủ vùi. Cô ấy hoàn toàn vô tội.

Poirot đưa mắt nhìn 2 vợ chồng Andrenyi.

- Tôi xin thề danh dự, quận công Andrenyi lặp lại một lần nữa.

Poirot gật đầu.

- Ông đã không ngần ngại sửa tên trên thông hành.

- Ông Poirot ạ, - quận công Andrenyi nói. - Ông hãy nghĩ đến địa vị của tôi. Làm sao tôi có thể chấp nhận cha vợ tôi bị đưa ra tòa vì một vụ án mạng được? Tôi biết cô ấy vô tội. Nhưng vì sự liên hệ gia đình Armtrong, chắc chắn cô ấy sẽ bị nghi ngờ - Người ta sẽ hỏi cung, và ai mà biết được? Có khi còn bị bắt nữa! Nếu sự không may đã run rủi cho chúng tôi đi cùng một chuyến tàu với Ratchett thì tôi còn cách quyết định nào khác đâu? Tôi xin thú nhận, thưa ông, tôi đã dối ông... Nhưng tôi xin thề một lần nữa vợ tôi không hề ra khỏi phòng đêm qua!

- Giọng thành khẩn của Andrenyi không thể làm cho sự thành thật của ông bị nghi ngờ.

- Tôi không hề nghi ngờ lời ông, - Poirot nói. - Hình như gia đình ông là gia đình quý tộc. Như vậy nếu vợ ông bị dính líu vào một vụ án thì đó là một điều phiền phức. Nhưng làm thế sao giải thích chiếc khăn tay của bà nhà trong phòng nạn nhân?

- Một lần nữa tôi xin nói, chiếc khăn tay đó không phải của tôi.

- Dù cho nó có thêu chữ H.

- Vâng, thưa ông. Tôi có những khăn tay giống như vậy. Nhưng tôi không có cái nào kiểu như thế. Tôi nghĩ rằng thuyết phục ông cũng vô ích nhưng tôi vẫn cứ nói: Chiếc khăn này không phải của tôi

- Có thể thủ phạm đã vất lại hiện trường cho bà bị nghi ngờ.

Helena Andrenyi mỉm cười:

- Ông cứ muốn nhử tôi khai. Vậy thì đây là lần thứ ba tôi nói là chiếc khăn này không phải của tôi.

- Nếu nó không phải của bà, tại sao bà lại sửa thông hành?

Quận công Andrenyi xen vào:

- Nghe nói đã tìm thấy một chiếc khăn tay có thêu chữ “H” trong phòng Ratchett. Chúng tôi đã bàn cãi với nhau về điều này, tôi đã cho Helena thấy sự nguy hiểm nếu người ta biết là tên cô ấy bắt đầu bằng chữ “H”. Họ sẽ hỏi đủ thứ. Vậy thì dễ nhất là nên đổi Helena thành Elena.

- Thưa quận công, ông có tính khí của một kẻ sát nhân, - Poirot nhận xét. - ông có sự lanh lợi tự nhiên và lương tâm ông không hề sợ trách nhiệm.

- Không, không ông Poirot ạ, chỉ vì tôi nên anh ấy đã phải làm như thế thôi. Tôi sợ, sợ kinh khủng. - Helena nói. - Cứ nghĩ là người ta sẽ khơi lại tất cả dĩ vãng cũng đủ làm cho tôi kinh hãi... Ngoài ra, tôi còn sợ bị liên lụy và bị tù nữa. Ông Poirot bộ ông không hiểu sự lo lắng của tôi sao?

Helena bào chữa cho mình bằng một giọng ấm trầm bỗng, giọng nói của nữ kịch sĩ nổi tiếng Linda Arden.

Poirot nhìn Helena có vẻ ái ngại.

- Nếu bà muốn tôi tin, và tôi cũng muốn tin bà lắm, thì bà phải giúp tôi.

- Tôi giúp ông?

- Phải, nguyên nhân của vụ án nằm ở dĩ vãng, ở thảm kịch đã làm tan nát gia đình bà và vẫn đục thời thơ ấu của bà. Bà hãy cho tôi biết về dĩ vàng đó để tôi có thể tìm ra sự liên hệ với vụ án này!

- Nói gì bây giờ? tất cả những nhân chứng đều đã chết, chết hết: Robert Sonia, và cháu gái Daisy yêu dấu của tôi. Nó xinh xắn làm sao với những lọn tóc vàng! Tất cả chúng tôi đều yêu nó.

- Có một nạn nhân nữa, thưa bà, chúng ta có thể gọi đó là một nạn nhân gián tiếp.

- Phải, tội nghiệp cho Suzanne. Tôi quên mất cô ta. Cảnh sát đã hỏi cung cô ta. Pháp luật cứ một mực nghi cô ta đã cung cấp tin cho bọn khốn khiếp, ít ra cũng là vô tình. Hình như cô ấy đã nói chuyện và biết giờ giấc những cuộc đi dạo chơi của Daisy. Suzanne đã hốt hoảng lên, cô ấy nghĩ lại người ta đổ trách nhiệm cho mình về cái chết của Daisy. Thật kinh khủng!

Đến đây; Helena lấy tay bưng mặt vì quá xúc động.

- Cô Suzanne thuộc quốc tịch nào?

- Cô ấy người Pháp.

- Tên họ gia đình cô là gì?

- Thật ra, tôi lại không nhớ ...Chúng tôi đều gọi cô ấy là Suzanne. Một cô gái tươi tắn, rất yêu quí Daisy.

- Cô giữ nhiệm vụ giữ trẻ phải không?

- Thưa phải.

- Cô y tá là ai? ( Chú thích: Trong những gia đình quý tộc Anh thường mướn y tá để chăm sóc sức khỏe ) 

- Một cô y tá ở bệnh viện tên là Stigelberg. Cô ta săn sóc Daisy và chị tôi rất chu đáo.

- Bà hãy nghĩ kỹ trước khi trả lời câu hỏi này: Bà có thấy trên tàu một người quen nào không?

Helena nhìn thẳng vào mặt Poirot:

- Tôi ấy à? Không chẳng có ai quen trên tàu cả.

- Vậy còn công chúa Dragomiroff thì sao?

- Bà ta à? Tôi đâu có quen bà ấy. Tôi tưởng ông muốn nhắc đến một người quen lúc thảm kịch xảy ra chứ.

- Thưa bà vâng, bà hãy nghĩ kỹ. Năm tháng đã trôi qua, con người có thể thay đổi; hình dáng, khuôn mặt ...

Helena trầm ngâm suy nghĩ một lúc và nói:

- Không ...không có ai hết!

- Ngay bà, lúc bấy giờ chắc cũng còn nhỏ. Có ai giúp bà trong việc học hay chăm sóc bà không?

_ Ồ, có chứ! Một bà vừa chăm sóc tôi, vừa là thư ký của Sonia...Một người đàn bà có mái tóc đỏ.

- Bà ta tên gì?

- Cô Freebody.

- Trẻ hay già?

- Tôi thấy bà ta già lắm nhưng chắc bà ấy không quá 35 tuổi đâu.

- Còn ai khác trong nhà không?

- Chỉ có những gia nhân.

- Và bà chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn là không nhận ra một ai quen trên tàu này chứ?

- Vâng, thưa ông, hoàn toàn chắc chắn.

Chương V:  Tên thật của công chúa Dragomiroff.

Sau khi vợ chồng Andrenyi rời toa ăn, Poirot quay sang hai người bạn và hỏi:

- Sao, các ông nghĩ sao? Vụ án có tiến triển đấy chứ?

- Vâng thưa ông, - ông bouc vội trả lời. - Riêng tôi thì tôi sẽ không bao giờ nghi ngờ quận công Andrenyi. Sự vô tội của họ không thể chối cãi được. Vậy mà bà Andrenyi lại là kẻ sát nhân! Khổ thật! Tôi mong rằng họ sẽ không xử tử bà ta. Bà ta cũng có những lý do bất khả kháng ...Vậy có lẽ chỉ một vài năm tù thôi!

- Ông nghĩ rằng bà ấy có tội à?

- Chứ còn gì nữa. Ông vẫn chưa tin à? Tôi nghĩ rằng thái độ của ông chỉ là nhằm làm bà Andrenyi bớt lo lắng cho đến khi chúng ta hết kẹt đường và cảnh sát sẽ chính thức làm việc thôi chứ?

- Ông bạn ơi, làm sao ông Andrenyi có thể làm khác hơn. Ông ta yêu quý vợ và muốn cứu bà ấy bằng bất cứ giá nào! Ông ấy đã nói láo, nhưng nói láo một cách quân tử, có thế thôi!

- Còn tôi, tôi nghĩ là ông ấy nói thật.

- Thôi, tôi xin ông. Cái khăn không phải là bằng cớ để nói tôi có lý à?

- Chúng ta không nên nôn nóng. Về phần cái khăn thì có hai hỉa thuyết.

- Vừa phải thôi ...

Ông Bouc ngưng bặt vì cánh cửa vừa mở và công chúa Dragomiroff bước vào. Bà ta tiến thẳng đến chỗ ba người.

Không chú ý đến hai người kia, công chúa Dragomiroff nói với Poirot:

- Thưa ông, hình như ông có giữ cái khăn tay của tôi?

Poirot nhìn hai người bạn mình một cách đắc ý:

- Thưa bà, phải cái khăn này không? - Poirot đưa khăn tay ra.

- Đúng rồi. Có tên tôi ở góc.

- Nhưng thưa bà, - Poirot nói, - chữ này là chữ "H" và nếu tôi không nhầm, thì tên bà là Nathalia.

Công chúa Dragomiroff lạnh lùng nhìn Poirot:

- Đúng thế, thưa ông. Khăn tay của tôi bao giờ cũng thêu chữ Nga: chữ "N" tiếng Nga viết như chữ "H".

Ông Bouc ngẩn người ra. Cô công chúa lớn tuổi này có những cái làm cho người ta không ngờ được. Ông lẩm bẩm:

- Nhưng sáng nay bà không chịu nói là cái khăn này của bà.

- Ông có hỏi tôi đâu? - Bà Dragomiroff gằn giọng.

- Xin mời bà ngồi, - Poirot nói.

Bà Dragomiroff thở dài/

- Nếu ông mời.

Ngồi xuống, bà nói ngay:

- Mong các ông đừng dài dòng. Chắc các ông thắc mắc tại sao cái khăn tay của tôi lại ở trong phòng người đàn ông bị giết? Chính tôi đây cũng không hiểu nổi nữa.

- Thật không?

- Tôi bảo đảm.

- Xin bà thứ lỗi. Nhưng chúng tôi có thể tin bà đến mức độ nào?

Poirot nhấn mạnh từng chữ. Bà Dragomiroff liếc nhìn ông và nói:

- Có phải là bởi vì tôi quên nói với ông Helena Andrenyi là em bà Armstrong không?

- Như vậy, bà đã cố tình lừa chúng tôi?

- Vâng, và tôi sẽ làm lại nếu cần. Mẹ cô ấy là bạn tôi. Thưa các ông tôi tin ở sự trung thành của một người đối với bạn mình, gia đình và giai cấp họ.

- Bà không nghĩ đến việc phải giúp luật pháp à?

- Trong vụ này thì tôi nghĩ, luật pháp, luật pháp chính trực đã được thi hành.

Poirot chồm người về phía trước:

- Bà hãy thông cảm cho tình huống khó khăn mà bà đã đặt tôi vào. Tôi có thể tin lời bà về chiếc khăn tay này không? hay là bà lại đang bảo vệ cho con gái bạn mình.

- Tôi hiểu ý của ông. Ông cứ kiểm tra điều tôi nói. Tôi sẽ chỉ địa chỉ chỗ may chiếc khăn tay này. Ông cứ mang chiếc khăn tay này đến, họ sẽ xác nhận đã may nó cho tôi cách đây một năm. Đây đúng là chiếc khăn tay của tôi.

Bà Dragomiroff đứng lên.

- Ông còn cần gì nữa không?

- Có thể lắm. Cô ấy đã thấy và không nói gì. Như thế chứng tỏ cô ta rất trung thành với tôi.

Khẽ gật đầu, bà Dragomiroff bước ra khỏi phòng.

- Như thế là đã được giải thích rồi, - Poirot nói. - Sáng nay tôi đã thấy cô hầu ngập ngừng khi tôi đưa chiếc khăn tay ra. Cô ta không biết có nên trả lời có hay không. Bây giờ làm cách nào sắp xếp lại những dữ kiện xung quanh ý nghĩ chính của tôi đây?

- Thật là một bà già quái dị - Ông Bouc nói.

- Bà ta có thể giết Ratchett không? - Poirot hỏi bác sĩ Constantine.

- Một vài nhát, ví dụ như những nhát chạm vào những bắp thịt, không thể nào được gây ra bởi một người yếu đuối.

- Còn những nhát khác?

- Những nhát nhẹ sớt qua thì được.

- Tôi nghĩ đến câu sáng nay tôi nói với công chúa Dragomiroff rằng sức mạnh bà ta ở nghị lực hơn là đôi tay. Tôi đã giăng cho bà ấy cái bẫy. Tôi muốn xem là bà Dragomiroff sẽ nhìn tay phải hay tay trái của mình. Bà ấy đã nhìn cả hai, nhưng đã nói một câu rất lạ "Không, tôi không có sức mạnh của đôi tay, tôi không hiểu nên mừng hay thất vọng!" câu này đã xác định được ý kiến của cá nhân tôi về vụ án.

- Điều này không cho ta biết thêm về những nhát đâm bằng tay trái.

- Không, à các ông có để ý đến túi áo vét để nhét khăn tay của quận công Andrenyi ở bên phải không?

Ông Bouc gật đầu và nói:

- Toàn là những lời nói láo. Tôi thật kinh khiếp về số lượng những câu nói láo mà chúng ta đã phải nghe từ sáng đến giờ.

- Chúng ta còn phải tìm ra nhiều nữa.

- Ông nghĩ thế.

- Điều trái ngược sẽ làm tôi thất vọng.

- Tôi thật không hiểu ông.

- Tôi biết nhiều lắm chứ. Khi tôi để kẻ nói láo trước sự thật, anh ta sẽ thú nhận, đôi khi chỉ vì vô tình thôi. Muốn thế phải đoán đúng, đó là cách duy nhất mà ta có thể điều tra vụ này. Tôi lấy lại từng lời khai và tự nhủ: "Nếu người này nói láo, anh ta vặn vẹo sự thật ở chỗ nào, và với mục đích gì? Cách này đã thành công với bà Andrenyi. chúng ta hãy thử nó với người khác xem sao.

- Nếu dự đoán của ông sai thì sao?

- Thì người được tôi thử sẽ hoàn toàn không bị nghi ngờ.

- À, ông định lọc dần ra.

- Đúng thế.

- Ai sẽ là người lọt vào bẫy đây?

- Đại tá Arbuthnot.

Chương VI:  Cuộc hỏi cung đại tá Arbuthnot lần thứ hai.

Đại tá Arbuthnot tỏ vẻ bực mình khi được gọi vào toa ăn lấn thứ hai.

- sao? -Ông ta hỏi khi bước vào phòng.

- Xin lỗi đã làm phiền đại tá một lần nữa. Nhưng còn một vài chi tiết mà ông có thể làm sáng tỏ.

- Ông nghĩ thế, chứ tôi thì không.

- Chúng ta hãy bắt đầu bằng cái nạo ống điếu.

- Sao?

- Đây là cái nạo ống điếu của ông?

- Tôi không biết. Tôi đâu có inte6n tôi vào đây.

- Đại tá Arbuthnot, xin ông biết cho rằng, ông là người duy nhất trên tàu hút ống điếu.

- Nếu thế thì chắc cái nạo ống điếu này của tôi.

- Ông có biết, nó đã được tìm thấy ở đâu không?

- Tôi không hề biết.

- Gần giường của nạn nhân.

Đại tá Arbuthnot nhíu mày:

- Ông có thể giải thích lý do tại sao cái nạo ống điếu lại ở đó không?

- Nếu ông muốn ám chỉ là chính tôi đã để rơi trong phòng Ratchett, thì tôi xin nói ngay là ông nhầm rồi.

- Có lúc nào đại tá vào phòng Rachett không?

- Tôi chưa bao giờ biết hắn.

- Ông chưa bao giờ nói chuyện với hắn và không giết hắn chứ?

Lần này cặp lông mày của Arbuthnot nhíu cao hơn:

- Nếu tôi giết hắn thì chắc tôi cũng không nói cho ông biết ...Nhưng tôi không giết hắn.

- Ôi ... Điều đó cũng chẳng quan trọng gì?

- sao?

- Tôi nói điều đó cũng chẳng quan trọng.

- Ồ.

Sửng sốt và khó chịu Arbuthnot nhìn Poirot:

- Bời vì, cái nạo ống điếu chỉ là một chi tiết nhỏ. Tôi có thể cho đại tá lý do để giải thích tại sao lại nó lại ở cạnh tử thi.

Arbuthnot mở to mắt nhìn Poirot.

- Thật ra, tôi cho mời ông đến dçe63 nói một vấn đề khác, - Poirot nói. - Cô Debenham có lẽ đã nói cho ông biết mẫu đối thoại mà tôi đã nghe lỏm được giữa cô ta và đại tá ở ga Konya chứ?

Đại tá Arbuthnot không trả lời:

- Cô ta đã nói với đại tá: "Không, bây giờ không phải lúc. Khi tất cả đã xong xuôi, và trở thành dĩ vãng". Những lời này có ý nghĩ gì?

- Ông Poirot ạ tôi từ chối trả lời câu này .

- Vì sao?

- Tôi nghĩ ông nên hỏi thẳng cô Debenham.

- Tôi đã hỏi rồi.

- Và cô ấy đã không trả lời à?

- Phải.

- Nếu thế thì sự im lặng của tôi cũng dễ hiểu thôi.

- Ông không muốn tiết lộ bí mật của một phụ nữ.

- Ông muốn nghĩ gì tùy ông!

- Cô Debenham nói với tôi là câu chuyện giữa cô ấy và ông hoàn toàn có tính chất cá nhân!

- Câu trả lời này không làm ông vừa lòng à?

- Không, vì cô Debenham rất đáng nghi ngờ!

- Ông đùa đấy à?

- Không.

- Ông có chứng cớ nào buộc tội cô ấy?

- Cô ấy chẳng phải là quản gia trong gia đình Armstrong khi tấn thảm kịch xảy ra hay sao?

Một thoáng im lặng. - Poirot gật gù.

- Ông thấy không, chúng tôi biết nhiều hơn ông tưởng. Nếu cô Debenham vô tội, tại sao cô ta lại giấu chi tiết này! Tại sao cô ấy lại xác nhận là mình chưa bao giờ ở Mỹ?

Đại tá Arbuthnot hắng giọng:

- Có thể ông nhầm.

- Không, tôi chắc chắn điều này! Tại sao cô Debenham lại nói dối tôi.

Đại tá Arbuthnot nhún vai.

- Ông hãy hỏi cô ấy. Theo tôi thì ông đi sai đường rồi.

Poirot gọi một người nhân viên đến.

- Anh hãy đi mời hành khách người Anh ở phòNg số 11 đến đây.

- Thưa ông vâng.

Bốn người đàn ông ngồi bất động. Gương mặt sạm nắng của đại tá Arbuthnot đanh lại.

Người nhân viên trở lại và nói.

- Bà ta sẽ đến ngay, thưa ông.

- Cảm ơn.

Một hai phút sau Mary Debenham bước vào phòng.

Chương VII:  Danh tính của Mary Debenham

Mary Debenham bước vào, đầu hất về phía sau như thách thức. Mái tóc đen để lộ vầng trán cao, nét mặt kiêu hãnh, tất cả dánh điệu đài các của Mary giống như những hình tượng được khắc trên những mạn tàu.

Mary liếc sang Arbuthnot trước rồi nói với Poirot.

- Ông muốn gặp tôi.

- Thưa cô, tôi muốn biết lý do tại sao cô đã nói dối tôi sáng nay?

- Tôi? Tôi nói dối ông? Tôi không hiểu ông muốn nói gì?

- Cô đã giấu với tôi rằng lúc thảm kịch xảy ra cho gia đình Armstrong cô đã nói là cô chưa bao giờ sang Mỹ.

Poirot thấy Mary sắp hốt hoảng nhưng cô ta trấn tĩnh lại ngay.

- Vâng, đúng thế!

- Thưa cô, không phải thế.

- Ông không hiểu rồi, tôi nói là tôi đã nói dối ông điều đó.

- À, cô nhận à?

Mary Debenham mỉm cười.

- Dĩ nhiên, vì ông đã làm tôi lộ tẩy.

- Ít ra lần này cô đã thành thật.

- Bắt buộc thôi!

- Cô cho phép tôi hỏi lý do của sự dè dặt này.

- Hình như cũng dễ hiểu thôi thưa ông.

- Đối với tôi thì không.

Bằng mộT giọng bình tĩnh Mary nói:

- Tôi phải kiếm ăn.

- Vậy thì sao?

Mary nhìn thẳng vào mặt Poirot.

- Như vậy là ông không biết đến sự khó khăn của một phụ nữ đi kiếm việc và sợ bị cho nghỉ việc sao? Bộ ông nghĩ rằng người ta sẽ dễ dàng trao con cái họ cho một người quản gia mà trước đây đã bị liên lụy đến một vụ án mạng và biết đâu đã có ảnh đăng trên báo.

- Sao lại không ...nếu người quản gia đó vô tội.

- Đây không phải là một vấn đề có tội hay không, mà là một hình thức... quảng cáo. Cho đến nay, tôi khá thành công ở đời. Tôi đã tìm được chỗ làm thoải mái và lương hậu hỉnh. Chẳng lẽ tôi lại phải hy sinh cả tương lai của tôi hay sao?

- Xin phép cô cho tôi được nhắc lại là chỉ có tôi là người có quyền đánh giá sự nói dối của cô thôi.

Mary Debenham nhún vai.

- Cô có thể giúp tôi nhận diện những hành khách.

- Bằng cách nào?

- Không thể chấp nhận được nếu cô lại không nhận ra bà Andrenyi là em gái bà Armstrong, cô học trò của cô ở New York .

- Bà Andrenyi à? Không, cho dù đó là việc khó tin, nhưng tôi không nhận ra bà ta. Thật ra thì gương mặt bà Andrenyi nhắc tôi một khuôn mặt quen thuộc...Nhưng tôi không tài nào đặt tên được cho khuôn mặt đó. Bây giờ bà ta giống người Á Đông nhiều, nên tôi không thể nào nhận ra cô học trò bé bỏng người Mỹ của tôi. Vả lại tôi cũng chỉ nhìn bà ta thoáng qua trong toa, và tôi lại chú ý đến cách trang phục của bà ấy hơn.

Mary mỉm cười và thở dài nói tiếp:

- Vả lại tôi còn chuyện của tôi nữa!

- Như thế là cô từ chối không cho tôi biết điều bí mật của cô!

Poirot hỏi giọng dỗ dành.

- Tôi không thể, không, không thể được.

Và bổng nhiên Mary Debenham bật khóc.

Đại tá Arbuthnot đứng dậy, vẻ lúng túng bước ra sau Mary.

- Tôi ...Hãy nghe tôi...- Arbuthnot ấp úng. Ông quay sang Poirot, vẻ giận dữ:

- Tôi sẽ đập nát xương ông ra.

- Thưa ông, - ông Bouc can thiệp.

Arbuthnot quay sang Mary và gọi khẽ:

- Mary ... Cô nín đi.

Mary ngẩng đầu lên và nói:

- Không sao... Tôi bình tĩnh rồi. Ông Poirot, chắc ông không còn cần đến tôi nữa! Nếu có chuyện gì, ông cứ gọi tôi. Thật tôi kỳ cục quá!

Mary Debenham hoàn toàn không biết gì về chuyện này ...Không biết gì hết, ông hiểu chứ? Nếu ông còn dằn vặt cô ấy nữa, ông sẽ biết tay tôi!

Arbuthnot bước nhanh ra khỏi phòng.

- Tôi thích thấy dân Anh mất bình tĩnh, khi họ hết lạnh lùng họ rất buồn cười. Càng xúc động bao nhiêu, họ lại càng mất bình tĩnh bấy nhiêu.

- Ôi! ông bạn thân mến, ông giỏi thật, - ông Bouc nói. - Ông đoán tài thật.

- Sao ông lại nhìn vào dĩ vãng của họ hay thế, - bác sĩ Constantine nói:

- Ồ, lần này thì tôi chẳng có công gì hết, bà Andrenyui đã cho tôi biết đấy.

- Sao? Có thể nào như thế?

- Các ông thử nhớ xem: Tôi đã hỏi bà Andrenyi về bà quản gia và cô hầu của chị bà ta. Tôi tự nhủ là nếu Mary Bebenham có liên quan đến vụ án thì cô ấy chỉ có thể giữ một trong hai nhiệm vụ thôi.

- Phải, nhưng bà Andrenyi đã cho ông hình dáng của một người nào khác hẳn.

- Phải...một người đàn bà đứng tuổi, to lớn, mái tóc đỏ...thật ra trái ngược hẳn với cô Debenham. Nhưng khi được hỏi đến tên của bà quản gia này, thì bà Andrenyi đã làm một việc liên hệ vô tình trong tư tưởng. Bà Andrenyi đã nói tên cô Freebody, các ông có nhớ không?

- Có, rồi sao?

- Chắc các ông cũng biết là ở London có một nhà tạp hóa đã giữ mộT cái tên từ nhiều năm nay trên hảng hiệu Debenham và Freebody. Bà Andrenyi đã nhớ ngay tên cô Debenham và vì sống ở London nên bà ta đã nhắc ngay đến tên Freebody.

- Lại một điều láo nữa. Với mục đích gì?

- Cũng do lòng chính trực. Với mong muốn làm xáo trộn các quân bài.

- Trời ơi! - Ông Bouc nói, - nếu thế tất cả các hành khách trên tàu này đều nói láo cả sao?

- Điều đó chúng ta sắp biết thôi, - Poirot nói.

Chương VIII:  Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác

-Bây giờ, không có cái gì làm tôi ngạc nhiên nữa, - ông Bouc nói. - Nếu tất cả hành khách trên tàu đều là gia đình Armstrong thì cũng không phải là điều gì mới lạ.

- Một nhận xét sâu sắc đấy ông bạn. Ông có muốn biết anh chàng người Ý của ông sẽ nói gì để bào chữa cho anh ta không?

- Ông lại định đưa ra một khám phá độc đáo của ông nữa đấy hẳn?

- Ông đoán đúng đấy.

- Vụ án này rắc rối quá!

- Không, thưa bác sĩ, tất cả đều bình thường thôi.

- Nếu ông gọi là bình thường thì .. - đến đây ông Bouc không biết phải diễn đạt ý nghĩ của mình như thế nào nữa, ông ta đưa tay lên trời tỏ vẻ khổ sở.

Poirot đã cho mời Antonio Foscarelli đến. anh ta bước vào có vẻ lo lắng:

- Các ông muốn gì? Tôi chẳng có gì để nói, chẳng có gì cả.

Nói rồi anh ta đấm mạnh tay xuống mặt bàn:

- Có chứ, anh có một điều cần phải nói, - Poirot đáp ngay. - Sự thật.

- Sự thật à?

Foscarelli nhìn Poirot mộT cách bối rối.

- Có thể là chúng tôi đã biết cả rồi. Cho nên anh nên khai ra thì tốt hơn.

- Ông nói như cảnh sát Mỹ. Khai! họ chỉ biết nói có chừng đó. Khai đi!

- Nếu vậy anh đã có kinh nghiệm với cảnh sát Mỹ à?

- Đâu có, không bao giờ. Tôi chẳng có gì đáng chê trách cả.

- Anh bị rắc rối lúc thảm kịch xảy ra cho gia đình Armstrong phải không? Anh là tài xế của gia đình phải không?

Poirot nói và nhìn như xoáy vào mặt Foscarelli.

Anh chàng người Ý xìu xuống như trái bóng xì hơi.

- Nếu ông đã biết hết ... việc gì phải hỏi tôi.

- Tại sao anh đã nói dối tôi sáng nay?

- Vì lý do cá nhân. Tôi không tin cảnh sát Nam Tư, vì họ ghét dân Ý lắm và họ sẵn sàng buộc tội tôi.

- Sai à?

- Không, không. Tôi chẳng dính líu gì đến vụ án tối qua cả. Tôi không rời phòng tôi ở toa hạng hai. Anh chàng người Anh với bộ mặt dài như một ổ bánh mì sẽ làm chứng cho tôi. Không phải tôi đã giết Ratchett. Tên khốn khiếp. Ông không có một chứng cớ nào buộc tội tôi hết ...

Poirot hí hoáy viết trên giấy. Ông nhìn lên và nói một cách chậm rãi:

- Được rồi. Anh có thể về phòng.

Foscarelli do dự, có vẻ không tin:

- Ông hiểu cho là không phải tôi ...Tôi không thể dính líu đến ...

- Tôi đã nói là anh có thể về phòng.

- Đây là một cái bẫy các ông muốn làm tôi sa lưới, tất cả chỉ vì thằng khốn kiếp, đáng lý nó phải ngồi ghế điện. Tại sao lại để nó chạy trốn? Nếu là tôi thì họ đã không để tôi thoát.

- Nhưng đâu phải là anh ... Việc bắt cóc trẻ em này có liên quan gì đến anh.

- Sao? Ông nói gì? Cô bé Daisy là niềm vui của cả nhà! Cô ta gọi là Tonio, leo lên xe, và muốn cầm tay lái bằng đôi tay bé bỏng của mình! Mọi người đều yêu mến cô ấy. Ôi, cô bé đáng yêu.

Nói đến đây, Foscarelli hạ thấp giọng và mắt anh ta long lanh. Bỗng nhiên, anh ta quay ngoắt đi và ra ngoài.

- Pietro! - Poirot gọi.

Anh hầu phòng trưởng chạy lại.

- Anh mời hành khách số 10 ... Cô người Thụy Điển.

- Thưa vâng.

- Nữa à? - Ông Bouc nói. - Sao nhiều quá vậy?

- Chúng ta phải đi đến cùng. Cho dù chúng ta có thể tìm ra tất cả những hành khách trên tàu đều có lý do để giết Ratchett. sau đó, chúng ta sẽ tìm ra thủ phạm.

- Tôi bắt đầu chóng mặt đây, - ông Bouc rên rỉ.

Gureta Ohlson bước vào. Cô ta òa lên khóc và ngồi bật xuống ghế trước mặt Poirot.

- Xin cô đừng hốt hoảng, bình tĩnh nào, tôi xin cô. - Vừa nói Poirot vừa vỗ vào vai Gureta.

- Chúng tôi chỉ mong ở cô một chút thành thật thôi. Cô là y tá của daisy Armstrong phải không?

- Vâng ...đúng đấy. - Cô Ohlon nức nở nói. - Daisy là một thiên thần...một thiên thần từ trên trời rơi xuống ...Cô ấy tốt và rất có tình...Vậy mà con quái vật đó đã cướp mất cô ấy đi ... Giết cô ấy. Tội nghiệp cho bà mẹ ... Và đức con thứ hai... Nó cũng không sống được! Ông không thể hiểu được. Không , không thể hiểu được? Nếu ông đã được chứng kiến tất cả thảm kịch như tôi ...Sáng nay, đáng lý tôi phải nói hết sự thật cho ông về tôi... Nhưng tôi sợ! Vả lại tôi cũng hả dạ về cái chết của con quái vật ấy! Tôi nghĩ là hắn sẽ không làm khổ những đứa trẻ khác .. Ôi, tôi không thể kể tiếp được nữa...- Cô Ohlson nưc nở khóc.

Poirot lại dỗ dành cô ta:

- Tôi hiểu, tôi hiểu tình cảm của cô. Như thế là tôi đã hỏi cô xong rồi, chỉ cần cô xác nhận những gì tôi đã biết rồi. Vâng, vâng, tôi hiểu cô.

Không thể nói thêm tiếng gì ngoài tiếng nức nở, Gureta Ohlson đứng lên và lần mò ra cửa như người mù. Ra cửa, cô đụng phải một người đàn ông, Masterman, anh hầu phòng.

Anh ta đi thẳng đến Poirot và nói:

- Tôi mong rằng không làm phiền ông, nhưng tôi nghĩ là nên đến nói cho ông biết sự thật. Trong chiến tranh tôi đã là người lính dưới quyền đại tá Armstrong. Sau đó đại tá đã mướn tôi làm hầu phòng cho ông ở New York. Tôi xin lỗi đã không cho ông biết điều này. Tôi mong rằng ông sẽ không nghi ngờ cho Tonio. Anh ta không làm hại đến một con muỗi. Và tôi thề là anh ta đã không rời phòng suốt đêm. Anh ta không thể giết Ratchett. Đúng là Tonio là người Ý nhưng tính khí của anh ta không giống những bọn vô lại trong tiểu thuyết đâu.

Đến đây, anh ta ngừng lại. Poirot chăm chú nhìn anh ta.

- Anh chỉ có từng đó để nói thôi à?

- Thưa ông hết rồi ạ.

Một thoáng im lặng. Poirot không nói gì. Materman gật đầu chào và lặng lẽ ra khỏi toa ăn.

- Cứ như là truyện trinh thám. - Bác sĩ Constantine nói.

- Tôi cũng nghĩ thế, - ông Bouc nói. - Trong số 12 hành khách trên tàu thì 9 đã dính líu vào vụ Armstrong. Chúng ta sẽ biết thêm gì nữa đây?

- Để trã lời cho câu hỏi của ông, ông Hardman. - Poirot nói.

- Không lẽ ông ta đến tự thú?

Trước khi Poirot có thể trả lời cho ông Bouc, Hardmanđã vào phòng, ngồi xuống ghế và nói:

- Chuyện gì đã xảy ra trên tàu vậy? Cứ như nhà thương điên.

Poirot nheo mắt.

- Ông có chắc là mình không phải là người làm vườn cho nhà Armstrong không?

- Họ không có vườn.

- Hay là hầu trưởng.

- Tôi không phải là người có thể làm được công việc đó. Không, tôi không hề ở nhà Armstrong... Và hình như tôi là một trường hợp ngoại lệ trên tàu này thì phải. Ông hãy giải thích hộ tôi chuyện này xem!

- Lạ thật, - vừa nói Poirot vừa mỉm cười!

- Hãy nói là không thể tin được. - Ông Bouc nói.

- Ông có một nhận xét riêng nào về cái chết của Ratchett không?

- Không, tôi thú thật là tôi chẳng hiểu gì. Và lẽ dĩ nhiên là tất cả những người trên tàu không thể là thủ phạm hết. Nhưng nếu bảo tôi tìm ra thủ phạm trong bọn họ thì khó đấy. Làm sao ông đã tìm ra là họ có dính líu đến vợ Armstrong vậy ?

- Tôi chỉ cần suy nghĩ thôi.

- Ông là một người rất tinh.

Hardman ngã người ra sau để ngắm Poirot.

- Xin lỗi nhé, nhìn ông thì không ai nghĩ như thế đâu!

- Ông tử tế quá ông Hardman à.

- Không đâu. Tôi nghiêng mình trước sự thông minh của ông.

- Vụ này đã xong hoàn toàn đâu, - Poirot nói. - Chúng ta chưa tóm được tên sát nhân.

- Tuy nhiên, những điều ông tìm ra làm tôi phục lăn. Không kể tôi, còn hai người trên tàu mà ông chưa đoán ra danh tánh. Ba người Mỹ lớn tuổi và cô hầu phòng. Hay là họ nằm ngoài sự nghi ngờ của ông ?

- Hay là họ là những người giặt quần áo hoặc làm bếp cho gia đình Armstrong.

- Chẳng có gì có thể làm tôi ngạc nhiên nữa! - Hardman nói. - Hình như tôi đang sống giữa những người điên!

- Ôi, ông bạn, ông nói đùa hơi quá đấy. - ông Bouc nói.

Poirot quay sang Hardman và nói:

- Ông không hiểu gì à ? Nào hãy nói cho tôi biết ông có biết ai giết Ratchett không ?

- Còn ông, ông có biết không ? - ông Bouc nói.

- Có, - Poirot nói. - Tôi biết từ một lúc rồi. Rất đơn giản thôi. Tôi rất ngạc nhiên là các ông không trông thấy thôi. Còn ông, ông Hardman ?

Hardman lắc đầu.

- Không, thú thật là tôi không biết. Tôi không thể nói ai là thủ phạm.

Sau một lúc im lặng, Poirot quay sang nói với Hardman.

- Ông bạn làm ơn mời tất cả những hành khách tập trung ở đây. Tôi có hai giải pháp, và tôi muốn trình bày cho mọi người.

Chương IX:  POIROT TRÌNH BÀY HAI GIẢI PHÁP CỦA ÔNG.

Những hành khách đều đã tập trung ở toa ăn. Tất cả các khuôn mặt đều biểu lộ sự mong đợi và sự dè dặt. Gureta Ohlson vẫn khóc và bà Hubbard đang dỗ cô ta.

- Nào, cô hãy can đảm lên! Tất cả sẽ ổn thôi, cô bình tĩnh đi! Nếu có một kẻ sát nhân ở trong chúng ta thì không ai nghĩ là cô đâu. Phải điên mới buộc tội cô. Hãy ngồi xuống bên cạnh tôi đi.

Poirot đứng lên.

Anh phục vụ tàu Pierre Michel đứng gần cửa hỏi:

- Ông cho phép tôi ở lại chứ?

- Dĩ nhiên rồi Michel.

Poirot bắt đầu:

- Thưa các ông bà, tôi sẽ nói bằng tiếng Anh vì các ông bà đều hiểu ít nhiều. Chúng ta đến đây để tìm sự thật về cái chết của Samuel Edward Ratchett. Còn được biết đến với cái tên là Cassetti. Chúng ta có hai giải đáp mà tôi sẽ trình bày trước ông bà và mời ông Bouc, bác sĩ Coustantine hiện diện ở đây xem giải đáp nào đúng nhất.

- Các ông bà đã biết sáng nay ông Ratchett đã bị ám sát bằng dao trong phòng. Chúng ta biết ông ta vẫn còn sống vào lúc 12g37 đêm qua. Vào giờ đó ông vẫn nói chuyện với nhân viên phục vụ qua cánh cửa. Một cái đồng hồ bị vỡ tìm thấy trong túi áo nạn nhân có kim đồng hồ chỉ 1g15. Bác sĩ Constantine, người xem xác nạn nhân đã cho biết là cái chết xảy ra giữa 12g đêm và 2g sáng. Vào lúc 12g30, như các ông bà đều biết, con tàu đã bị ngừng lại vì tuyết. Vậy sau giờ này không ai có thể rời tàu được. Ông Hardman, nhân viên của một văn phòng thám tử tư ở Nữu ước (New York) (nhiều cái đầu quay về phía Hardman) đã xác nhận là không có ai đi ngang qua phòng ông ta. Phòng 16, mà ông ta không trông thấy. Như vậy là chúng ta có thể kết luận là tên sát nhân đã lẫn trốn trong những hành khách của tàu Staraboul Calais.

- Ít ra đó cũng là giả thuyết của chúng ta.

- Sao ? ông Bouc ngạc nhiên nói.

- Dù sao tôi cũng sẽ trình bày với các ông bà một giải đáp khác. Ông Ratchett bị kẻ thù đe dọa, đã cho Hardman những chi tiết để nhận dạng, và nói với Hardman rằng cuộc ám sát sẽ có thể xảy ra vào đêm thứ hai của cuộc hành trình.

- Tôi xin các ông bà lưu ý là Ratchett biết nhiều hơn là những gì ông ta tiết lộ. Đêm thứ hai bằng cánh cửa mà Mac Queen và đại tá Arbuthnot đã để mở khi xuống ga Vincovci, một lúc sau, có kẻ lạ mặt đã lên tàu. Bên ngoài quần áo, hắn đã mặc bộ đồng phục của nhân viên toa kút sét. Dùng xâu chìa khóa của nhân viên tàu hỏa, hắn đã vào phòng Ratchett lúc bấy giờ đang ngủ say vì thuốc ngủ. Kẻ sát nhân đã đâm Ratchett nhiều lần rất mạnh và rời phòng bằng cánh cửa thông qua phòng bà Hubbard.

- Đúng thế đấy. - Bà Hubbard nói.

- Khi đi ngang qua phòng bà Hubbard, kẻ sát nhân đã cho con dao dùng để đâm Ratchett vào túi xách của bà treo ở cửa. Và kẻ sát nhân đã vô ý làm rơi một cái khuy của bộ đồng phục. Hắn đã lẻn ra khỏi phòng, lần theo hành lang. Rất nhanh chóng, hắn đã cởi bộ đồng phục ra trong một phòng trống và nhét vào vali. Vài phút sau, trước khi tàu tiếp tục chạy hắn đã xuống vẫn bằng cánh cửa cạnh toa.

Những hành khách ngồi nghe chăm chú.

- Vậy ông nghĩ gì về cái đồng hồ ? - Hardman hỏi.

- Tất cả đều được giải thích một cách dễ dàng. Ratchett đã quên điều chỉnh đồng hồ chậm lại theo giờ Á Đông (giờ Á Đông sớm hơn 1 tiếng so với giờ Trung Âu). Như thế Ratchett đã bị giết lúc 12g15 chứ không phải 1g15.

- Lý luận của ông không vững! - ông Bouc nói.- Vào lúc 1g kém 23, một người đã nói trong phòng Ratchett. Ông ta hay kẻ sát nhân của ông ấy ?

- Không nhất thiết, một kẻ thứ ba đã vào phòng để nói chuyện với Ratchett và đã thấy ông ta chết.

- Người này đã bấm chuông gọi nhân viên phục vụ. Sau đó hiểu ra sự nguy hiểm của tình huống, sợ bị nghi ngờ, người này đã trả lời thay cho Ratchett khi anh phục vụ gõ cửa phòng.

- Có thể lắm, - ông Bouc nói.

Poirot quan sát bà Hubbard:

- Bà định nói gì thưa bà ?

- Tôi cũng không biết nữa. Ông có tin là chính tôi cũng đã quên điều chỉnh đồng hồ không ?

- Không, thưa bà, chắc có lẽ bà đã nghe thấy kẻ sát nhân đi ngang qua một cách vô ý thức... Và sau đó, vì bị ác mộng, bà đã tưởng tượng có một người đàn ông trong phòng. Bà đã thức giấc và bấm chuông gọi nhân viên phục vụ,

- Cũng có thể lắm, - bà Hubbarđ đáp.

Công chúa Dragomiroff chăm chú nhìn Poirot và nói:

- Thưa ông, ông giải thích thế nào về lời chứng của cô hầu phòng của tôi.

- Đơn giản thôi thưa bà. Cô hầu phòng của bà đã nhận ra chiếc khăn tay tôi đưa cho cô ấy, là của bà. Đã cố gắng đánh lạc hướng sự nghi ngờ của tôi đối với bà. Cô ấy đã gặp kẻ lạ mặt, nhưng sớm hơn, khi tàu vẫn còn đậu ở ga Vincovci. Cô ta đã bảo là đã trông thấy kẻ lạ mặt trễ hơn. Mong rằng đã cung cấp cho bà một chứng cứ vắng mặt chắc chắn.

Công chúa Dragomiroff gật đầu:

- Ông đã giải đáp được mọi điều. Tôi phục ông đấy.

Im lặng một lúc, bỗng mọi người đều giật mình: Bác sĩ Constantine đập mạnh tay lên bàn:

- Không, không thể được! Những lời giải thích của ông không làm tôi hài lòng! Nhiều cái vô lý lắm. Vụ án đã không xảy ra như vậy và cũng như tôi, ông thừa biết như vậy.

Poirot nhìn bác sĩ Constantine:

- Như vậy tôi lại phải trở lại cách giải đáp thứ nhất của tôi. Nhưng ta không nên bác bỏ giải đáp thứ hai này. Biết đâu lát nữa lại phải sử dụng nó.

Quay sang những hành khách, Poirot nói:

- Còn một giải đáp nữa cho vụ án, và đây là cách mà tôi đã tìm ra nó:

- Sau khi nghe xong những lời khai của quý ông, quý bà, tôi đã ngồi nhắm mắt và suy nghĩ. Có một vài điểm gây sự chú ý của tôi. Tôi đã kể cho hai bạn tôi nghe.

- Tôi đã tìm ra câu trả lời cho một vài vấn đề, ví dụ như vết mờ trên thông hành... Nhưng một vài điểm vẫn còn khó hiểu. Điểm quan trọng nhất là nhận xét của ông Bouc trong bữa cơm trưa, ngay sau khi chúng ta vừa rời khỏi Stamboul, ông Bouc nhận thấy rằng những hành khách trên chuyến tàu này thuộc những quốc tịch, những giai cấp khác nhau lạ lùng.

- Việc này đối với tôi cũng khá lạ. Tôi tự hỏi không hiểu nó có hay xảy ra không ? Và tôi thấy rằng sự việc như vậy cũng hay xảy ra ở... Mỹ. Trong một gia đình người Mỹ, người ta có thế thấy một tài xế Ý, một bà quản gia Anh, một Ý tá Thụy Điển, một cô hầu phòng Pháp... Điều đó đã đưa tôi đến chỗ gắn cho mỗi người một vai trò trong tấm thảm kịch gia đình Armstrong. Cũng như một đạo diễn phân vai chỗ diễn viên của một vở kịch, tôi đã có một kết quả khá lý thú.

- Tôi xem xét lại từng lời khai của từng hành khách, một cách riêng lẻ và tôi đã có những nhận xét ngộ nghĩnh. Ta hãy lấy lời khai của Mac Queen. Lần hỏi cung đầu tiên không có gì đáng nói. Nhưng lần thứ hai khi tôi hỏi anh ta, Mac Queen đã nói một câu kỳ lạ. Khi tôi cho anh ta biết là tôi đã tìm ra một mảnh giấy có liên quan đến vụ Armstrong, Mac Queen đã nói: nhưng mà... Và sau một lúc do dự, tôi muốn nói là hắn thật lơ đễnh khi để giấy tờ lung tung.

- Tôi hiểu ngay là anh đã lỡ lời. Giả thử như Mac Queen đã nói tiếp câu của mình: Nhưng mà tờ giấy đó đã được đốt rồi mà. Nếu thế Mac Queen đã biết bức thư này và việc bức thư bị đốt đi... Nói một cách khác, Mac Queen là kẻ sát nhân hay đồng lõa. Như thế là đã loại được một người.

- Sau đó là lời khai của Masterman, anh hầu phòng. Anh ta xác nhận là Ratchett có thói quen dùng thuốc ngủ khi đi du lịch bằng tàu hỏa. Điều này khá hợp lý - Nhưng thử hỏi đêm qua Ratchett có muốn ngủ không ? Khẩu súng để dưới gối chứng tỏ điều trái ngược lại. Ratchett muốn đề phòng. Vậy nếu có người muốn ông ta uống thuốc ngủ đó là ngoài ý muốn của Ratchett. Ai là người làm việc này nếu không phải là Mac Queen hay anh hầu phòng.

- Đến lời khai của Hardman. Tôi tin anh ta khi anh đề cập đến danh tánh thật của mình. Nhưng khi nói đến cách làm việc của anh để bảo vệ Ratchett thì điều này cần xét lại. Cách duy nhất có hiệu quả để bảo vệ Ratchett là ngủ trong phòng Ratchett hay đứng ở một chỗ nào đó thuận tiện để canh chừng phòng Ratchett. Qua lời khai của Hardman tôi thấy là không một ai, ngoài số hành khách trên tàu Stamboul - Calais có thể giết Ratchett. Chi tiết này đối với tôi hơi lạ, và tôi quyết định là sẽ để ý đến Hardman.

- Chắc quý ông, quý bà đều biết là tôi đã nghe lỏm được mẫu chuyện giữa cô Debenham và đại tá Arbuthnot. Một điều đáng nhớ là đại tá Arbuthnót gọi cô Debenham là Mary và có vẻ rất thân với cô ta. Tuy nhiên Arbuthnót khai là mới quen cô Debenham trên tàu. Nhưng đối với tâm lý người Anh, như đại tá Arbuthnot, cho dù ông ta có bị tiếng sét ái tình thì Arbuthnot cũng sẽ tiến một cách từ từ. Và như thế là tôi có thể kết luận là đại tá Arbuthnot và cô Debenham đã biết nhau lâu rồi và họ chỉ giả vờ như không quen biết nhau thôi.

- Chúng ta hãy sang lời khai của bà Hubbard. Bà Hubbard cho rằng từ kút sét của mình bà không thể biết cánh cửa thông qua phòng Ratchett khóa hay không, cho nên bà đã nhờ cô Ohlson xem hộ. Tốt, nếu bà Hubbard ngủ ở các phòng 2, 12, 14,... Vì ở những phòng mang số chẵn cái chốt cài cửa ở ngay dưới nắm đấm cửa. Nhưng ở những phòng mang số lẻ như phòng 3 của bà Hubbard thì cái chốt cài cửa ở ngay phía trên nắm đấm cửa, không thể bị cái túi xách che. Và tôi đã kết luận là bà Hubbard đã bịa ra chuyện vừa rồi. Bây giờ tôi xin đề cập đến thời gian.

- Cái đồng hồ được tìm thấy trong túi áo Ratchett, một chỗ hơi lạ, vì ở ngay đầu giường đã có cái móc treo đồng hồ. Và thế là tôi tin chắc rằng cái đồng hồ sau khi đã được điều chỉnh kim đã được cố ý bỏ vào túi nạn nhân, nếu thế vụ án mạng không xảy ra lúc 1 giờ 15.

- Có thể nào vụ án mạng đã xảy ra sớm hơn, lúc 1 giờ kém 23 phút ? Có lẽ ông Bouc tin thế vì tiếng hét đã đánh thức tôi lúc đó. Nhưng Ratchett vì uống thuốc ngủ, không thể hét được. Nếu không, ông ta còn có thể chống cự được. Điều này đã không xảy ra vì chúng tôi không tìm thấy vết tích của một cuộc xô xát nào ở hiện trường.

- Tôi nhớ Mac Queen đã nói với tôi hai lần là Ratchett không hề biết tiếng Pháp, và tôi hiểu là những gì đã xảy ra lúc 1 giờ kém 23 phút chỉ nhằm mục đích lừa tôi. Bất cứ ai cũng có thể tìm ra việc cố tình sửa kim đồng hồ... Một cách rất thông thường trong các truyện trinh thám. Cho nên người ta biết ngay là không sớm thì muộn tôi sẽ tìm ra sự bịp bợm về cái đồng hồ. Nếu tôi ỷ vào sự nhạy bén của tôi thì tôi đã xác định là Ratchett, vì không biết tiếng Pháp, giọng nói nghe được vào lúc 1 giờ kém 23 từ phòng nạn nhân không thể là của Ratchett. Vậy lúc đó ắt hẳn Ratchett phải bị giết rồi. Nhưng, tôi lại chắc chắn là vào lúc 1 giờ kém 23. Ratchett đang còn chìm vào giấc ngủ do thuốc ngủ gây ra.

- Tuy nhiên, tôi suýt bị lừa. Tôi mở cửa nhìn ra hành lang và đã nghe rõ ràng câu nói bằng tiếng Pháp (nói rất đúng). Nếu tôi khá đần độn để không hiểu nghĩa câu này thì người ta sẽ giải thích cho tôi. Nếu cần Mac Queen sẽ đến nói với tôi là: “Xin lỗi, ông Poirot, chắc chắn không phải là ông Ratchett đâu. Ông ta không hề biết tiếng Pháp”.

- Vậy vụ án xảy ra lúc nào ? Ai là thủ phạm ?

- Theo tôi - ở đây tôi chỉ nói ý kiến cá nhân tôi – Vụ án mạng đã xảy ra lúc 2 giờ, mốc giờ cuối cùng do bác sĩ Constantine đưa ra.

- Ai là thủ phạm ?

Poirot ngừng một lúc và nhìn tất cả những hành khách đang chăm chú nghe ông. Im lặng hoàn toàn.

Poirot chậm rãi nói:

- Tôi ngạc nhiên khi cảm thấy khó mà kết tội bất cứ một người nào trong những hành khách. Một sự trùng hợp kỳ lạ, chứng cớ vắng mặt của mỗi một người, lại được một người khác xác nhận, ví dụ như ông Mac Queen và đại tá Arbuthnot đã cung cấp những chứng cớ gỡ tội cho nhau rất vững vàng. Mặc dù cả tính hai người này hoàn toàn khác biệt nhau để có thể nói chuyện với nhau trong suốt cuộc hành trình.

Trường hợp này cũng rơi vào anh hầu phòng người Anh và ánh người Ý. Cô người Thụy Điển và cô gái người Anh.

Bỗng nhiên tôi hiểu ra, tất cả đều có tội. Việc mà nhiều người dính líu đến vụ Armstrong đi du lịch trên cùng một chiếc tàu không thể là một sự ngẫu nhiên được. Tất cả phải được chuẩn bị từ lâu. Tôi nhớ đến một nhận xét của đại tá Arbuthnot về bản án của bồi thẩm đoàn. Một bồi thẩm đoàn gồm 12 người... Và Ratchett bị đâm 12 nhát. Lần này thì, việc tụ tập của nhiều người, đủ mọi tầng lớp, mọi quốc tịch trên chuyến tàu Stamboul Calais vào một mùa mà con tàu thường vắng người được giải thích một cách rõ ràng.

Nếu Ratchett đã thoát khỏi luật pháp Hoa Kỳ, dù cho tội của hắn đã rõ ràng. Tôi liền liên tưởng đến một bồi thẩm đoàn gồm 12 người kết tội hắn và đã trở thành những kẻ trừng trị tội phạm. Đứng ở khía cạnh này thì tất cả bí mật đều được sáng tỏ.

Mỗi hành khách đều được giao cho một vai trò. Tất cả đều được chuẩn bị từ chi tiết nhỏ nhất. Nếu một người trong nhóm người này bị nghi ngờ thì sẽ có kẻ khác làm chứng và làm đảo lộn mọi cuộc điều tra. Ngoài ra, sự canh chừng có xếp đặt của Hardman không cho phép kết tội oan bất cứ một ai.

Giải đáp này đã làm sáng tỏ mọi tình huống của vụ án. Những vết thương trên người nạn nhân do 12 người khác nhau gây ra. Những thư hăm dọa viết ra chỉ nhằm mục đích làm tang vật - Ratchett có nhận được - những bức thư mà Mac Queen đã đốt đi và đánh tráo bằng những bức thư giả. Câu chuyện của Hardman được thuê để bảo vệ Ratchett chỉ là một điều bịa đặt ra hoàn toàn. Hình dáng, một người đàn ông nhỏ, tóc nâu, có giọng nói đàn bà, một sự bịa đặt khôn khéo vì nó có thể áp dụng cho đàn ông hay đàn bà và những người phục vụ trên tàu đều vô tội.

Việc dùng dao làm tôi ngạc nhiên. Nhưng sau khi suy nghĩ thấy không một vũ khí nào phù hợp hơn. Tất cả, khỏe hay yếu đều có thể dùng dao và tiện lợi của nó là không gây tiếng động, có lẽ tôi nói hơi quá. Nhưng đấy là những gì tôi có thể tưởng tượng ra. Mỗi người lần lượt đi qua phòng bà Hubbard vào phòng Ratchett và đâm! Vì phòng không bật đèn, nên không ai nhận ra vết thương của mình gây ra cho nạn nhân. Và như thế không thể xác định ai là người đã đâm chết nạn nhân.

Bức thư cuối cùng mà có lẽ Ratehett đã tìm thấy dưới gối đã được đốt một cách cẩn thận. Không có cái gì cho thấy sự liên hệ giữa vụ Armstrong và nạn nhân. Như vậy không có lý do gì nghi ngờ hành khách trên tàu. Người ta có thể nghĩ cho một kẻ sát nhân đến từ bên ngoài. Và người đàn ông tóc nâu, có giọng nói đàn bà, sẽ được nhận ra bởi một trong những hành khách như đã xuống ga Brod.

Tôi không hiểu khi tàu bị kẹt vì tuyết làm đảo lộn phần hai này của chương trình, quí vị đã nghĩ gì. Có lẽ quí vị đã họp nhanh lại để quyết định hành động ngay. Lần này thì chắc chắn là một hay nhiều người trong quí vị sẽ bị nghi ngờ. Nhưng điều này đã được tính rồi và nghi ngờ sẽ được xóa tan ngay do việc làm chứng của những hành khách khác. Bây giờ phải tính đến chuyện làm nản chí những người điều tra. Với mục đích đó, hai tang vật đã được để lại tại hiện trường... Một tang vật kết tội đại tá Anbuthnot, một người có chứng cớ vắng mặt rất vững vàng. Và sự liên hệ với gia đình Armstrong rất khó được phát hiện. Tang vật thứ hai, chiếc khăn tay buộc tội công chúa Dragomiroff. Căn cứ vào giai cấp, vào sự yếu đuối về thể xác và lời chứng của cô hầu, bà Dragomiroff cũng được xem là vô can. Để cho vụ án rắc rối thêm, một người đàn bà mặc áo choàng đỏ xuất hiện và vì muốn tôi trông thấy bóng dáng bà ta, người ta đã gõ cửa phòng tôi. Khi nhìn ra ngoài tôi thấy bóng dáng cái áo choàng đỏ vừa khuất ở cuối hành lang. Ba lời chứng khác đã được lựa chọn khéo léo cũng đều trông thấy cái áo choàng đỏ: nhân viên phục vụ, cô Debenham, và Mac Queen. Kẻ nào nghịch ngợm đã đem dấu cái áo choàng này trong va li của tôi. Khi tôi đang bận điều tra. Tôi không hiểu cái áo choàng này của ai. Nhưng tôi nghĩ là có lẽ của bà Andrenyi vì hành lý của bà chỉ toàn quần áo ngủ mỏng đắt tiền nhưng lại thiếu mất áo choàng ngoài.

Khi biết lá thư mặc dù đã được đốt kỹ, vẫn còn để lại chữ Armstrong, Mac Queen vội vàng báo động ngay cho những hành khách. Như thế bà Andernyi phải đề phòng và có lẽ lúc đó quận công Andernyi đã nghĩ đến việc tẩy xóa thông hành.

Tất cả những hành khách đều chối là không quen biết gia đình Armstrong. Nghĩ rằng tôi không có một phương tiện nào để kiểm tra việc này ngay (vì tàu đang bị kẹt). Quý vị đã nghĩ rằng tôi chỉ chú ý đến vụ Armstrong nếu một hành khách làm tôi nghi ngờ có liên quan đến vụ này.

Một điểm khác cần được sáng tỏ: Nếu giả thuyết của tôi đúng, và tôi nghĩ rằng mình không lầm - anh phục vụ toa kút sét tham dự vào vụ án. Nhưng trong trường hợp này chúng ta có tất cả 13 người phạm tội thay vì 12. Trái với số lượng bồi thẩm đoàn. Tôi phải tìm cho ra trong 13 người này ai là kẻ vô tội.

Tôi đã đi đến một kết luận khá kỳ lạ:

- Người không tham dự vào vụ án này là người đáng bị nghi ngờ nhất, đó là bà Andrenyi. Khi quận công thề danh dự là vợ ông ta không rời khỏi phòng. Ông đã tỏ ra rất thành thật đến độ tôi tin là ông ta nói thật Và tôi biết là quận công Andrenyi đã thay chỗ cho vợ mình.

- Pierre Michel là đồng lõa. Vì một lý do gì, một nhân viên lâu năm trong ngành lại dính líu đến vụ này ? Khó có thể có một sự liên hệ nào giữa Pierre Michel, một người Pháp, và gia đình Armstrong. Bỗng nhiên tôi nhớ ra là cô giữ trẻ là người Pháp, người đã giữ Daisy Armstrong. Nếu cô ta là con gái của Pierre Michel thì sao ? Tất cả đều được sáng tỏ.

Còn có ai mà sự liên hệ với gia đình Armstrong còn chưa rõ ràng ? Tôi nghĩ rằng đại tá Armstrong là bạn của đại tá Arbuthnot, có lẽ họ đã chiến đấu bên cạnh nhau.

Về phần cô hầu phòng Hildegarde Schmidt tôi đoán ngay vai trò của cô ở trong gia đình Armstrong. Có thể tôi tham ăn, nhưng tôi nhìn thấy ngay ở cô Schmidt một người đầu bếp giỏi. Tôi đã giăng một cái bẫy và cô Scbmidt đã rơi vào cái bẫy đó: “Tôi biết cô nấu ăn rất giỏi!”. Tôi đã nói với cô và Schmidt đã trả lời: “Đúng vậy, những chủ cũ của tôi đều khen tôi”.

- Sau đó là Hardman, bề ngoài thì anh la không liên quan gì đến gia đình Armstrong. Tôi nghĩ anh ta là hôn phu của cô gái giữ trẻ người Pháp. Tôi đã đề cập trước mặt anh ta về vẻ đẹp và duyên dáng của những phụ nữ ngoại quốc. Hardman đã long lanh nước mắt - anh ta đã viện cớ là tại tuyết làm chóa mắt mình.

- Còn bà Hubbard, người được giao vai trò chính trong vụ án là người ở cạnh phòng Ratchett. Bà Hubbard, hơn những người khác bị nghi ngờ nhiều nhất và bà cũng không có chứng cứ vắng mặt. Muốn diễn xuất vai trò của một người đàn bà Mỹ, hơi kỳ cục, chỉ biết đến con gái và cháu mình, phải là một kịch sĩ tài tình. Một kịch sĩ như thế trong gĩa đình Armstrong là ai khác, ngoài mẹ là Armstrong, nữ kịch sĩ nổi tiếng: Linda Arden.

Poirot ngừng lại.

Và rồi một giọng nói ấm và truyền cảm nổi lên, bà Hubbard nói:

- Ông còn muốn biết thêm gì nữa ? Tôi cứ ngỡ như mình vẫn còn diễn kịch!

Và bà tiếp bằng một thái độ mơ màng.

- Sự sơ suất vì cái xách tay chứng tỏ là mình phải luôn luôn tập diễn lại vai trò của mình cho đến phút cuối cùng. Chúng tôi đã diễn thử một lần trên tàu rồi đấy chứ... Có thể lúc đó tôi ở một phòng chắn và sau này không xem lại chỗ then cửa.

Bà nhìn thẳng vào Poirot và tiếp:

- Ông Poirot, tôi phục ông đấy. Tất cả những lập luận của ông đều đúng, ông không thể tưởng tượng ra tấn thảm kịch vào cái ngày kinh khủng đó... Ở New York. Tôi điên lên vì đau khổ... Tất cả những gia nhân đều buồn khổ... Đại tá Arbuthnot bạn thân của John Armstrong điên lên vì kinh tởm và tức giận.

- Armstrong đã cứu sống tôi trong chiến tranh, - Arbuthnot nói.

Ngày đó, trong cơn phẫn uất, trong sự đau buồn, trong sự tức giận đến tột cùng, có thể là chúng tôi đã không bình tĩnh, đã điên rồ. Làm sao tôi biết được ?

Chúng tôi đã quyết định, vì kẻ sát nhân đã không bị trừng trị thì chúng tôi phải tự mình trừng trị nó một cách đích đáng. Chúng tôi gồm mười hai người, hay đúng hơn mười một người, bố của Suzanne, cô hầu giữ Daisy, ở mãi tận Pháp. Mới đầu, chúng tôi định rút thăm xem ai sẽ là người thi hành bản án. Nhưng cuối cùng tất cả chúng tôi đều theo ý kiến Antonio, anh nhân viên. Mary và Hector Mac Queen sắp xếp mọi chi tiết của vở kịch.

Sự chuẩn bị đòi hỏi một thời gian dài. Chúng tôi phải truy lùng kẻ sát nhân - Hắn đã đổi tên khác - Hardman đã làm việc này. Sau đó Masterman và Hector đã được Ratchett mướn vào làm. Đại tá Arbuthnot nghĩ rằng con số mười hai phải được tôn trọng, nên chúng tôi phải mời bố của Suzanne tham dự. Vì muốn trả thù cho cô con gái duy nhất đã tự tử vì Ratchett, Pierre Michel (bố của Suzanne) đồng ý giúp chúng tôi. Đại tá Arbuthnot không thích dùng dao nhưng cuối cùng ông cũng đồng ý, vì cách này đỡ gây rắc rối!

Hector đã cho chúng tôi biết rằng Ratchett sớm muộn gì cũng sẽ đi Paris bằng chuyến tàu tốc hành Phương Đông. Dịp may đến với chúng tôi. Pierre Michel làm việc trên tuyến đường này. Như vậy một người vô tội khác không bị nghi ngờ.

Dĩ nhiên là chúng tôi phải nói chuyện này với chồng của con gái tôi. Anh ta đã xin được đi theo Hector để giàn xếp cho Ratchett quyết định đi du lịch vào đúng ngày Michel trực. Chúng tôi có ý định lên hết toa tàu kút sét Stamboul - Calais nhưng không may, một phòng của toa lại được dành cho ông giám đốc của công ty. Còn phần Harris, anh ta chỉ là một cái tên được bịa đặt ra thôi, vì cho một người lạ mặt ở chung phòng với Mac Queen là rất nguy hiểm. Và đến phút cuối cùng ông đã vào đó.

Ngừng một lát, bà tiếp:

- Ông Poirot thân mến, bây giờ thì ông đã rõ hết mọi chuyện. Ông sẽ quyết định điều gì ? Nếu ông phải làm một tờ báo cáo chính thức. Xin ông hãy cho tôi là thủ phạm duy nhất. Tôi sẵn sàng đâm con quái vật đó mười hai nhát dao! Không những nó đã giết con gái tôi, và cháu gái Daisy của tôi. Và còn đứa con trong bụng mẹ nó. Đáng lý đứa bé phải được sống chứ. Nhưng trước khi bắt cóc Daisy của chúng tôi, con quái vật sát hại bao nhiêu trẻ thơ khác và ai biết được nó sẽ còn giết bao nhiêu người khác nữa nếu nó còn sống, xã hội đã lên án nó. Chúng tôi chỉ thi hành bản án thôi. Tôi xin một mình chịu trách nhiệm về vụ án này. Tại sao những người như Michel, lại phải chịu tội. Còn Mary và đại tá Arbuthnot, họ yêu nhau.

Giọng nói của Linda Arden tràn ngập căn phòng. Giọng nói ấm áp, truyền cảm đã làm rung động biết bao khán giả.

Poirot đưa mắt dò hỏi ông Bouc:

- Với tư cách là giám đốc của công ty, ông nghĩ thế nào ?

Ông Bouc nói:

- Theo tôi thì cách giải thích thứ nhất của ông là đúng nhất... Chắc chắn là như vậy. Khi cảnh sát Nam Tư đến, chúng ta sẽ trao cho họ một tờ báo cáo với nội dung như thế. Bác sĩ có đồng ý không ?

- Dĩ nhiên. Còn về những nhận xét thuộc phạm vi Y học hình như... tôi đã nhầm ở một hai vấn đề gì đó!

- Sau khi trình bày quan điểm riêng của tôi, thưa quý ông, quý bà, tôi xin hân hạnh báo là tôi đã giải quyết xong vụ án này.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#poirot