CL 115-121

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Côn Luân

Lục Hoa Diệu Thuật

Trong lúc Lương Tiêu ngóng nhìn, A Thuật cùng A Lý Hải Nha đã thúc ngựa vượt lên. A Lý Hải Nha huơ roi ngựa chỉ:

- Kia chính là hai thành Tương Phiền đấy!

Lương Tiêu nói:

- Chỉ là hai tòa thành tầm thường, vì sao công mãi vẫn không hạ được chứ?

A Thuật nói:

- Từ khi đại tướng người Tống là Nhạc Phi thu phục Nhạc Dương đến nay, trong vòng một trăm ba mươi năm qua, người Tống đã khổ tâm trù hoạch cho Tương Phiền. Đến thời của Oa Khoát Đài đại hãn, kể cả những danh tướng lớn cũng phải chắp tay cung kính những trọng binh thủ vệ của Giang Hán. Bọn chúng lại càng dốc thêm quốc lực, nhiều lần mở rộng Tương Dương, không nói đến chuyện thành trì vững chắc, thế gian hiếm thấy, lại thêm binh tốt lương đủ, vũ khí công thủ nhiều đến ba mươi tư khố. Theo như Bá Nhan nguyên soái và Sử Thiên Trạch suy đoán, nếu không thể công phá được tường thành thì gần như Tương Dương có khả năng chống đỡ đến hơn hai mươi năm, nhưng nếu chỉ dựa vào những phương pháp công thành bình thường thì căn bản không thể phá nổi.

Lương Tiêu bảo:

- Nói như vậy, hai bên chỉ có thể lưỡng bại câu thương hay sao?

A Lý Hải Nha thở dài:

- Điều đó cũng không khác biệt lắm. Cách duy nhất hiện tại chỉ có thể là cắt đứt viện trợ của hai thành từ bên ngoài, làm tiêu hao lương thảo và vũ khí tích trữ bên trong. Quân ta sớm đã củng cố được Lộc Môn Sơn, lại bố trí thêm rào cọc tại Quán Tử Sơn, năm rồi đồng loạt tiến kích, đánh bại bọn Tống nhân, xây đài thật vững nơi trung lưu Hán thủy, ngâm bảy khối cự thạch vào nước, dàn thành thủy trận, tại Vạn Sơn, Bách Trượng Sơn, Hổ Đầu Sơn, Hiện Sơn hợp thành một đường, lại xây nơi bờ tây Hán thủy một tòa thành mới. Hiện nay hai thành Tương Phiền, cả đông tây nam bắc, trên thủy trên bộ đều đã bị tuyệt viện cả rồi.

Hắn nói tới đây, lại hướng về A Thuật hỏi:

- Ta trên đường có nghe nói Tống quân đến tiếp viện cho Tương Phiền?

A Thuật gật gật đầu. A Lý Hải Nha cười nói:

- Hơn phân nửa đã bị ngươi giết đến một mảnh giáp cũng không chừa!

A Thuật lạnh nhạt hỏi:

- Phạm Văn Hổ kia là con rể của Cổ Tự Đạo à?

A Lý Hải Nha đáp:

- Đúng vậy!

A Thuật cười lạnh nói:

- Hắn cùng cái tên Hạ Quý kia, chưa đánh đã bỏ chạy mất, thật so với chuột còn lanh lợi hơn. Sao không phái Trương Thế Kiệt và Lý Đình Chi đi chứ? Hại ta uổng công xuất binh cả buổi, lại chẳng có đất dụng võ.

A Lý Hải Nha cười nói:

- Nếu không có cái đám vô dụng này, bọn ta sao có thể dễ dàng vây khốn Tương Dương như thế?

A Thuật lặng im một lúc rồi đáp:

- Nói không sai, người Tống chính là càng ngày càng kém đi. Năm đó tại Hợp Châu, ta còn gặp gỡ được vài tên có đảm khí, hôm nay lại cùng mấy tên vô dụng này đánh nhau, thật khiến người ta nhụt chí mà.

Lời thốt ra ẩn vẻ quạnh hiu.

Chẳng mấy chốc, mọi người đều tản ra khỏi đại doanh Nguyên quân. A Lý Hải Nha an trí cho Lương Tiêu ở tại trong trướng của mình, gọi tới một đại phu tốt nhất, lại tìm ra được hai nữ tử tòng quân hầu hạ A Tuyết đắp thuốc thay quần áo. A Tuyết da thịt vỡ tóe, máu hòa vào y sam bện lại một chỗ, không thể nào cởi ra, chỉ có thể dùng dao cắt nát rồi dùng từng khối từng khối nước nóng mà làm tan đi khối máu khô cứng ấy.

Nước vừa thấm lên miệng vết thương, A Tuyết nhất thời bật ra tiếng kêu thảm thiết. Lương Tiêu cố nhịn cơn nhói lòng, ôm lấy nàng nhỏ giọng an ủi. A Tuyết sợ hắn lo lắng, đành cắn răng giấu lệ, liều mình chịu đựng. Hai ả Sắc Mục nữ tử kia nhìn thảm trạng khắp người nàng, cũng rơi nước mắt theo, hai tay không ngừng run rẩy, càng làm tăng thêm đau đớn cho A Tuyết. Lương Tiêu đành phải tự mình động thủ xé áo tra thuốc, trong lòng càng hận bọn Vân Thù đến không thể hận hơn được nữa.

Chẳng mấy chốc, bọn người Thổ Thổ Cáp đã đuổi kịp trở về, liếc thấy A Tuyết trong bộ dáng như thế, kinh nộ đan xen, cả thảy đều chửi bới om sòm. Lương Tiêu không muốn mọi người quấy rầy đến A Tuyết bèn đuổi bọn họ ra ngoài trướng, nghiêm mặt nói:

- Bảo các ngươi trị thương tại đại doanh, sao lại không tuân theo mệnh lệnh của ta?

Mọi người ngơ ngác, Thổ Thổ Cáp gạt nước mắt nói:

- Bá Nhan nguyên soái đã đồng ý rồi.

Lương Tiêu nói:

- Lần này bỏ qua, lần sau nếu còn trái lệnh…

Hắn lấy một tay ra dấu, trầm giọng nói:

- Bất kể là ai, đều chém không tha.

Mọi người đồng thanh đáp ứng. Lương Tiêu mới gật đầu nói:

- Các ngươi trong người đều có thương tích, tất cả hãy đi nghỉ ngơi đi, trước khi vết thương lành, không được phép loạn động đấy.

Mọi người chỉ đành tản đi nơi khác. Thổ Thổ Cáp lưu luyến không nỡ rời khỏi, vừa đi được vài bước lại ngoảnh đầu, hướng sang bên này nhìn quanh.

Ngày kế, Lương Tiêu nhờ người mang tro cốt của Triệu San về Hoa Âm, còn bản thân cả ngày bên cạnh A Tuyết, chăm nom cho thương thế của nàng. Đại phu chữa bệnh vốn xuất thân là ngự y, lâu ngày ở trong quân đội, đối với những vết thương về da thịt vô cùng rành rẽ, dùng thuốc khá chính xác. Sau sáu bảy ngày chạy chữa, A Tuyết đã dần dần tỉnh táo, miệng vết thương đã bắt đầu kéo da non, có điều gân cốt cả người còn đau đớn, khó mà rời giường được.

Lương Tiêu liền hao phí tâm tư, nghĩ ra vài câu chuyện vui lúc xưa kể cho nàng nghe, khiến cho A Tuyết hợp ý cười tươi không ngớt, hầu như mọi đớn đau đã quên đi, chỉ cảm thấy nếu như có thể vĩnh viễn được thế này, thì cho dù có bị roi quất thêm nhiều lần nữa cũng không sợ.

Chớp mắt đã qua hơn một tháng, một hôm lính canh truyền lệnh, nói Bá Nhan triệu kiến. Lương Tiêu theo lính canh phía trước đi đến đại trướng của Nguyên soái. Vén lều đi vào, chỉ thấy Bá Nhan hai tay chắp ra sau, đang nhìn lên tấm địa đồ trên tường, nghe Lương Tiêu tiến đến, cũng không quay đầu lại.

Lương Tiêu ngây người cả nửa ngày, dần cảm thấy mất kiên nhẫn, vừa định rút lui, chợt nghe Bá Nhan cười ha hả, quay người bảo:

- Đã lâu không gặp, ngươi lại trở thành một kẻ vội vàng như thế sao?

Hai người vốn xa cách đã lâu mới gặp lại, bốn mắt nhìn nhau, tâm tình phức tạp khó giải. Lương Tiêu nghĩ đến người này chính là đệ tử của Tiêu Thiên Tuyệt liền không khỏi oán hận, nhưng thiết tưởng hắn cũng chính là sư huynh của mẫu thân, lại không khỏi sinh ra chút cảm giác ấm áp.

Bá Nhan cũng nhìn ra tâm ý của hắn bèn chuyển sang chủ đề khác, chỉ lên bức địa đồ trên tường hỏi:

- Lương Tiêu, ngươi có biết đây là gì không?

Lương Tiêu đáp:

- Là bản đồ địa lý núi sông của Đại Tống.

Bá Nhan mỉm cười, ngón tay chỉ lên đất Tương Phiền nói:

- Một khi Tương Phiền bị phá, đại quân của ta lập tức có thể xuôi theo Hán Thủy, mau chóng đổ vào đại giang, băng qua Giang Nam, lướt qua Ngạc Châu rồi sau đó với trăm vạn tàu lớn, xuôi dòng về hướng đông, quét sạch Đại Tống, tiếp lấy Lâm An.

Ngón tay hắn theo đường sông mà di chuyển, dừng lại phía trên Lâm An, thở dài thườn thượt:

- May mà ngươi đã cứu được A Lý Hải Nha trở về, cái này gọi là “Ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó cầu”, nếu thiếu đi hắn khác nào đã chặt đứt một cánh tay của ta, ngày sau công diệt Đại Tống có thể sẽ gian nan hơn gấp nhiều lần!

Dứt lời hắn bước dạo hai bước, chắp tay nhìn trời, sắc mặt khi sáng khi tối, tựa như gặp phải một vấn đề thập phần khó xử, rất lâu sau mới quay đầu lại, chăm chú nhìn Lương Tiêu bảo:

- A Thuật vì mến ngươi kiêu dũng đã tiến cử ngươi đến Khâm Sát doanh dưới tay hắn để làm bách phu trưởng, hôm nay ta đã đồng ý, ngươi hãy gắng mà làm cho tốt. Nhớ kỹ, làm một tướng quân giỏi so với luyện võ công cao càng không dễ dàng đâu!

Vừa nói vừa gỡ nhẫn bạch ngọc xuống trao cho hắn, lại tiếp tục nói:

- Ngày sau nếu gặp chuyện khó xử, hãy đến tìm ta, chỉ cần không phạm vào quân kỷ quốc pháp, ta nhất định sẽ giúp ngươi.

Lương Tiêu khuôn ngực nóng ran, hai tay tiếp lấy. Bá Nhan hỏi qua một chút về thương thế bạn bè hắn, lại cảm thấy không có việc gì khác để phân phó, liền lệnh cho hắn trở về, lập tức chuyển đến Khâm Sát doanh.

Lương Tiêu trở lại nơi ở, đem mệnh lệnh của Bá Nhan nói cho A Tuyết nghe, để nàng ở lại trong trướng của A Lý Hải Nha mà dưỡng thương. A Tuyết trong lòng tất nhiên không muốn, nhưng biết quân lệnh như núi, không thể cưỡng lại. Đêm ấy, Lương Tiêu chuyển vào Khâm Sát đại doanh, tiếp nhiệm chức Bách phu trưởng.

Khâm Sát doanh chính là kỵ binh tinh nhuệ nhất trong Nguyên quân, có từ thời cháu của Thành Cát Tư Hãn là Bạt Đô kiến lập Khâm Sát Hãn Quốc, trong đó có những Sắc Mục nhân như Khâm Sát, A Tốc, Oát La Tư, Hung Gia Lợi; sau này cũng có pha tạp chút máu huyết của người Mông Cổ, tóc vàng mắt xanh, từ nhiều nơi hợp lại, tất cả đều nhân cường mã tráng, nhanh nhẹn và hung mãnh dị thường. Lương Tiêu trong đám người Hán cũng được kể như có vóc người cao lớn, nhưng khi đến doanh trung này rồi thì cũng trở nên tầm thường mà thôi.

Tổ phụ của A Thuật là Tốc Bất Đài từng cùng Triết Biệt, Bạt Đô hai lần tây chinh, dương oai Tuyệt vực. Đám binh sĩ trong Khâm Sát doanh này đều rất kính sợ A Thuật nhưng lại xem thường Hán nhân. Trước tiên là vì không thông ngôn ngữ, thứ hai là do dựa theo luật lệ Đại Nguyên, Sắc Mục nhân tuy thấp hơn người Mông Cổ nhưng lại cao hơn Hán nhân, địa vị của họ vì không bằng người Mông Cổ nên thiết tưởng có thể lấy lại thể diện trên mình người Hán, cho nên khi gặp một trọng thần danh tướng như Sử Thiên Trạch cũng không thèm xuống ngựa hành lễ. Thêm vào đó bọn họ tác chiến kiêu dũng, trong ba quân chiếm số đông, dựa vào công lao càng thêm hoành hành bá đạo, chẳng chịu để Hán quân vào mắt.

Lương Tiêu trong bộ dáng của người Hán, lại bị phái đến nơi Khâm Sát doanh này, hơn nữa lại đến với thân phận bách phu trưởng khiến cho bọn binh lính Khâm Sát vô cùng khó chịu, ngấm ngầm thương nghị với nhau tìm cách gây khó dễ cho hắn.

Đến ngày kế, Lương Tiêu theo lệ xuất trướng điểm binh, tù và thổi ba hồi vẫn không thấy một người tới báo. Hắn không rõ nguyên do, trong lòng kinh ngạc: “Bọn họ không nghe hiệu lệnh của ta hay sao? Nếu muốn thi hành quân pháp, thì cứ đem trăm tên gia hỏa này ra chém đầu, nhưng như thế chẳng phải bách phu trưởng ta sẽ trở thành kẻ lạm sát hay sao?”

Cùng lúc này, những đội ngũ tướng sĩ khác đã hoàn thành xong phần huấn luyện buổi sớm, đều kéo đến xem nhiệt náo, vây quanh Lương Tiêu mà chỉ chỉ trỏ trỏ, hi hi cười nhạo, dùng ba cái thứ tiếng xí xô xí xào kêu réo ầm ĩ. Lương Tiêu một mình một bóng đứng giữa nơi ấy, tiến lùi không xong, xấu hổ vô cùng, ngôn ngữ đối phương lại không cách nào nghe hiểu được, cũng chẳng biết vì sao lại thành ra thế này. Im lặng cả nửa ngày, hắn chỉ đành siết quyền nén giận, không nói lời nào trở vào trong trướng.

Khâm Sát tướng lãnh lập tức đem việc này bẩm báo lên A Thuật, kể xấu phóng đại về Lương Tiêu. A Thuật để cho Lương Tiêu vào một địa phương như thế, cố ý muốn làm cho hắn tiêu tan ngạo khí, nghe vậy chỉ cười trừ, nghĩ ngợi rồi nói: “Để xem tiểu tử này xử trí ra sao?”

Ai ngờ tới hai ngày sau, Lương Tiêu vẫn không xuất trướng triệu binh, đám binh sĩ Khâm Sát kia vốn cũng không định đi tập luyện, chỉ thêm mừng rỡ lười nhác ngủ nướng, lũ binh sĩ trong đội ngũ của hắn càng thêm đố kỵ. Những tướng lãnh Khâm Sát khác cũng vô cùng bất mãn, lại đến dưới trướng của A Thuật, nói Lương Tiêu vô dụng, không thể cầm binh.

A Thuật nghe nói Lương Tiêu mãi không lộ diện, cũng cảm thấy kinh ngạc, suy đi nghĩ lại đành để cho chúng tướng lãnh lui xuống, bảo rằng nếu ngày mai mà Lương Tiêu vẫn không có động tĩnh gì thì chính mình sẽ có chủ trương. Chúng tướng nghe lệnh, vui mừng rời đi.

Đến buổi tập sớm ngày thứ ba, Mông Cổ đại doanh tù và thổi vang, các bộ nhân mã đều xuất trướng, nhưng trong doanh của Lương Tiêu vẫn chẳng chút động tĩnh. Chúng quân sĩ sớm nhận được tin tức, quyết tâm đuổi Lương Tiêu đi, người người đều nằm sấp trên giường, rụt đầu trùm chăn say ngủ, những tướng lãnh của các đội ngũ khác đều phái thám tử đi rình trộm, chỉ chờ tới khi buổi luyện tập sáng sớm này trôi qua sẽ lập tức đi bẩm báo cho A Thuật, để hắn đổi tướng.

Hồi hiệu lệnh thứ hai sắp sửa thổi lên, bọn thám tử cực kỳ cao hứng, chỉ đợi ba tiếng lệnh dừng là lập tức đi bẩm báo. Trong lúc ấy bỗng nhiên nghe được tiếng vó ngựa vang lên, hai mươi con tuấn mã hùng hổ xộc vào trong doanh. Lương Tiêu thúc ngựa lên trước, tay cầm một chuỗi dây xích tam trảo thiết câu, thiết liên làm đầu, đâu dính vào cổ trước của sáu con chiến mã, mỗi con chở theo một cái thùng gỗ được bịt kín, chẳng biết chứa đựng thứ gì. Năm người phía sau hắn, tay đều kéo theo thiết câu.

Bọn thám tử còn chưa hiểu đã phát sinh sự tình gì đã thấy Lương Tiêu bắn ra thiết câu móc lên đỉnh lều. Năm người khác y cách làm theo, thiết liên trong tay đều lần lượt ném đi, đem hơn hai mươi đỉnh lều cả thảy móc vào trong.

Lúc này, Lương Tiêu vung roi ngựa lên, sáu người đồng thời quất ngựa. Lũ ngựa đau đớn, chạy như điên về bốn phía. Chẳng mấy chốc, hơn hai mươi đỉnh lều bốc lên khỏi mặt đất. Bọn binh lính Khâm Sát đương ngủ mê ngủ mệt tức thì lộ ra giữa ban ngày, ai nấy dụi dụi mắt, ngơ ngác ngồi dậy, nhìn quanh bốn phía chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Chợt thấy chiến mã đang lồng lộn, Lương Tiêu mở ra một cái thùng gỗ lớn, nhất thời xú khí ngập trời, trong thùng chính là phân và nước tiểu của người trộn gia súc.

Bọn quân sĩ còn chưa biết ất giáp gì, phân đã nhằm đầu nhằm mặt bọn chúng rải tới, uế vật bắn tung tóe đến từ mọi hướng, bên trong còn có giòi bọ lúc nhúc. Mặt khác năm người theo cách đã định, trong chớp mắt công phu khiến cho Khâm Sát binh sĩ không một ai may mắn thoát khỏi. Bọn quân còn chưa hết ngây ngốc, Lương Tiêu cũng chẳng thèm quay đầu lại, dẫn đám người mau chóng bỏ đi, để lại sau lưng một trăm người, đứng có ngồi có, cả người đầy phân, ngây đơ tại đương trường. Những quân sĩ Khâm Sát khác hay được tin tức đều kéo đến xem, càng làm cho mấy tên quân sĩ này xấu hổ cơ hồ muốn chui xuống đất, mối hận hôm nay dành cho Lương Tiêu khắc sâu đến tận xương tủy.

Đến lúc này, Khâm Sát tướng sĩ không thể không kinh nộ. Bọn họ ở nơi xa xứ, cả người lẫn địa hình đều hoàn toàn không quen biết, đối với nhau cực kỳ đoàn kết để phòng sự khi nhục của ngoại tộc. Một người mà chịu nhục chẳng khác nào lây nhục đến toàn quân. Dưới cơn giận dữ, bọn họ thương mâu đều rút hết cả ra, leo lên tuấn mã truy tìm Lương Tiêu. Ai ngờ kiếm khắp cả doanh, cũng chẳng thấy bóng dáng hắn đâu, chỉ làm cho cả đại doanh Nguyên quân càng thêm nhốn nháo hơn, thậm chí làm kinh động đến cả Bá Nhan. Bá Nhan lệnh cho A Thuật lập tức xử trí, không để nhiễu loạn lòng quân.

Đám đông Khâm Sát tướng lãnh đang cơn phẫn nộ, tìm đến trướng của A Thuật, yêu cầu nghiêm trị Lương Tiêu. A Thuật chẳng ngờ Lương Tiêu lại áp dụng cái loại biện pháp này, trong lòng có chút tức giận, hối hận đã không nghe lời A Lý Hải Nha, cùng nhau làm tiêu tan đi nhuệ khí của Lương Tiêu. Nhưng hắn đường thời là danh tướng, cũng không thể phủi bỏ trách nhiệm, bèn đem mọi tội lỗi dùng người tắc trách ấy của Lương Tiêu toàn bộ nhận lãnh về phía mình. Khâm Sát tướng lĩnh đối với A Thuật cực kỳ kính trọng, thấy hắn bảo như vậy, cũng không dám nói gì nữa, chỉ một mực thỉnh cầu điều Lương Tiêu đi nơi khác.

Thật ra A Thuật lại có ý niệm khác trong đầu: “Lương Tiêu có vẻ không phải hạng ném đá rồi bỏ chạy. Thôi, để xem xem hắn còn có hậu chiêu gì nữa.” Nghĩ đến đây, ngoài miệng thì đáp ứng nhưng lại cố ẩn nhẫn trong lòng không lộ ra. Chúng Khâm Sát tướng lãnh được hắn đáp ứng, cơn giận tuy đã nguôi ngoai nhưng vẫn còn âm ỉ.

Nói là nguôi ngoai, thật ra lại ngấm ngầm lên kế hoạch, nhất định phải giết chết Lương Tiêu để báo mối hận bị làm nhục. Sáng hôm sau, đội binh lính Khâm Sát hơn trăm tên của Lương Tiêu đều dậy thật sớm, cưỡi ngựa trữ tên, lập trận thế để đề phòng Lương Tiêu lại chơi khăm lần nữa.

Trong phút chốc, ba hồi tù và đã thổi vang, nhưng Lương Tiêu lại chẳng hề xuất hiện, mọi người tinh thần uể oải, cả thảy đều mắng to Lương Tiêu là đồ hèn nhát rắm chó. Chính đang lúc chửi sướng miệng, chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên, trong làn bụi mờ mờ xuất hiện sáu kỵ nhân mã, hốt nhiên phóng nhanh đến gần, chỉ thấy Lương Tiêu cùng Thổ Thổ Cáp ghìm cương lại. Lương Tiêu cầm nghiêng một thanh hoa thương, Thổ Thổ Cáp tay vác đại đao, phía sau là bốn người Nang Cổ Ngạt, mỗi người đều nắm sẵn thương mâu, dáng dấp kiêu dũng.

Bọn quân sĩ không ngờ hắn còn dám đến đây, hết thảy đều ngẩn ra, lúc sau mới bừng tỉnh, lại ỷ vào Khâm Sát tướng lãnh làm chỗ dựa, bèn hè nhau rống mồm chửi bới. Lương Tiêu nghe không hiểu gì đành hướng về Thổ Thổ Cáp hỏi:

- Bọn họ nói gì vậy?

Thổ Thổ Cáp chính là người Khâm Sát, thông hiểu ngôn ngữ Khâm Sát, tự nhiên nghe được rõ ràng, liền đáp:

- Đều là những lời mắng người rất khó nghe.

Lương Tiêu gật đầu nói:

- Thay ta nói với bọn họ: hôm nay bọn họ thức dậy đúng giờ, nếu không muốn ăn phân uống nước tiểu thì ngày sau cũng phải dậy sớm như thế.

Thổ Thổ Cáp nhíu mày nói:

- Lương Tiêu, làm vậy thật sao? Đối với những người này mà nói chính là một sự xúc phạm nặng nề!

Lương Tiêu khẽ cười nói:

- Ngươi chỉ cần nói đại khái ý nghĩa như thế là được.

Thổ Thổ Cáp chẳng còn cách nào khác đành y lời thuật lại. Mọi người nghe hắn nói bằng ngôn ngữ quê hương, tất cả đều không khỏi sửng sốt, đến khi nghe rõ lời nói, trước tiên thì ngẩn ngơ, kế đó là nổi giận bừng bừng. Một tên hán tử tóc vàng rời khỏi hàng thét lên:

- Lương Tiêu thối tha kia, chúng ta sẽ không nghe lời ngươi chỉ huy đâu. Ngươi dám vũ nhục chúng ta, ta phải cùng ngươi quyết một trận sống mái mới được.

Lương Tiêu nghe Thổ Thổ Cáp nói lại, khịt khịt mũi trong không trung, ra vẻ ngửi ngửi rồi cười nói:

- Thối thật, thối thật!

Người nọ hỏi Thổ Thổ Cáp:

- Hắn vừa nói gì thế?

Thổ Thổ Cáp trả lời:

- Hắn nói ngươi thối thật.

Mọi người nghe được câu này, chợt nhớ tới cái chuyện khốn khổ ngày hôm qua, tuy đã ngâm mình cả nửa ngày trong Hán Thủy nhưng xú khí trên người cũng chẳng thể tan đi, nhất thời lửa giận bốc cao, cả thảy đều cất cao trường mâu.

Hán tử tóc vàng hướng về Thổ Thổ Cáp quát:

- Ngươi là người Khâm Sát sao? Ta sẽ không giết ngươi, ngươi mau tránh ra.

Ngón tay của hắn chỉ vào Lương Tiêu hét:

- Hán cẩu nhà ngươi, có tài cán gì mà đòi làm bách phu trưởng của chúng ta? Ngươi do A Thuật đại nhân phái đến, ta sẽ không giết ngươi, ta với ngươi so đấu, ai thua người đó tự tận.

Lương Tiêu cười nói:

- Dựa vào ngươi à? Còn chưa đủ để ta nhét kẻ răng!

Hắn chỉ tay về phía mọi người nói:

- Không cần khách khí, các ngươi cùng lên cả đi!

Mọi người sau khi nghe Thổ Thổ Cáp phiên dịch xong, vừa kinh vừa giận. Hán tử tóc vàng quát lên:

- Hán cẩu cuồng vọng, ngươi dám xem thường người khác, một mình ta đánh với ngươi, không cần đến cung tiễn cũng có thể thắng ngươi.

Lương Tiêu cười nói:

- Được thôi, ta cũng không dùng cung tiễn.

Nói xong thúc ngựa tiến đến, hán tử tóc vàng kia cũng huơ mâu xuất ra.

Lúc này binh sĩ nơi Khâm Sát doanh đều biết tin Lương Tiêu đến, cùng bỏ luôn buổi tập sáng, cưỡi ngựa giương mâu, vây lấy doanh địa của hắn kín đến nỗi nước chảy cũng không lọt. Mấy tên Khâm Sát tướng lãnh khác càng phân phó chúng quân sĩ, muốn cho Hán cẩu lần này có đi mà không có về. Nhưng thấy hán tử tóc vàng khiêu chiến, mọi người đều chĩa ngón cái xuống dưới, ha ha kêu lên:

- Khế Nhĩ Ni Lão, giết hắn đi! Giết hắn đi!

Tên hán tử tóc vàng Khế Nhi Ni Lão này vốn là người Oát La Tư, vốn là kẻ kiêu dũng nhất trong trăm người nơi đây, đương lúc hy vọng sẽ trở thành bách phu trưởng của nơi này chẳng ngờ lại bị Lương Tiêu đoạt mất, thất vọng dồn nén đâm ra oán hận. Lúc này nghe chúng nhân hô thúc, đảm khí chợt tăng thêm, quát lên một tiếng, kẹp ngựa tiến đến, trường mâu đâm thẳng đến trước mặt Lương Tiêu.

Lương Tiêu cũng không thèm thúc ngựa, huy thương gạt đỡ, Khế Nhĩ Ni Lão cánh tay tê rần, trường mâu nhất thời lệch ra, trong lòng gã thầm giật mình: “Hán cẩu này tuy nhỏ người nhưng khí lực cũng lớn thật.”

Ý niệm trong đầu còn chưa kịp chuyển hoán thì trường thương của Lương Tiêu từ cao đã đâm tới. Khế Nhĩ Ni Lão vội vàng cúi thấp đầu, mũ giáp lại bị Lương Tiêu dùng mũi thương đâm vào. Khế Nhĩ Ni Lão vội vàng huơ mâu quét ngang, Lương Tiêu tiện tay chộp lấy, Khế Nhĩ Ni Lão chợt phát giác trường mâu như bị đúc vào trong sắt, tiến lùi không xong, nếu Lương Tiêu phía trước mà đâm tới một thương, bản thân ắt không thể ngăn đỡ nổi, trong lúc hoảng kinh liền gồng mình giật lại. Ai ngờ Lương Tiêu thuận thế buông tay, Khế Nhĩ Ni Lão dùng sức quá mạnh, gần như muốn rơi khỏi ngựa, hai chân vội kẹp lấy ngựa, vừa muốn ổn định lại, Lương Tiêu đã huy thương đến, mũi thương nhằm vào giáp sắt đánh lên đầu gã. Chiêu này đã dùng tới một ít chân lực, Khế Nhĩ Ni Lão chỉ cảm thấy hoa mắt, rơi khỏi lưng ngựa. Lương Tiêu không đợi gã té xuống mặt đất, một thương đã lại đâm đến, nhằm vào thắt lưng gã, mũi thương kề sát vào người.

Khế Nhĩ Ni Lão thua dễ dàng như thế, binh sĩ Khâm Sát một phen náo động. Lý Đình cười đến gập cả người, kêu lên:

- Trông cách Lương đại ca so đấu, rõ ràng là đùa với khỉ mà.

Vương Khả cũng cười to bảo:

- Đúng vậy, lại còn là một con khỉ lông vàng.

Mọi người phá lên cười ha hả. Bọn họ trải qua mấy ngày dưỡng thương, phần lớn đều đã khôi phục, đến như Vương Khả, miệng vết thương cũng đã lên da non, khỏe mạnh đến chín phần.

Khế Nhĩ Ni Lão giãy giụa một cách khó khăn. Dưới ánh nhìn trừng trừng của chúng nhân, gã cảm thấy không đất để chui, đột nhiên rút ra một thanh yêu đao, định đưa lên cổ tự tận. Trường thương của Lương Tiêu vội rung lên, nhấc gã lên giữa không trung. Khế Nhĩ Ni Lão tay giãy chân đạp, yêu đao đâm trật khỏi đầu, Lương Tiêu hoành thương quét qua, khiến yêu đao của gã bị đánh bay, thương gỗ dưới bụng gã thuận thế nhấc lên, dùng lực vừa vặn đáp gã xuống một chỗ tốt, rồi lập tức bốc gã trở lại lưng ngựa.

Khế Nhĩ Ni Lão chưa kịp nghĩ gì, thuận thế đã nằm rạp trên lưng ngựa, hai tay ôm chặt lấy cổ tuấn mã, không khỏi mặt mày choáng váng. Lương Tiêu cười nói:

- Ngươi chịu thua chưa?

Thổ Thổ Cáp thông dịch lại, Khế Nhĩ Ni Lạp cả giận nói:

- Ta thua rồi, ngươi vì sao lại không để ta tự sát chứ?

Lương Tiêu lắc đầu nói:

- Ngươi ngoài việc đối nghịch với quan trên chỉ biết tự sát thôi sao?

Hắn phun một ngụm nước bọt cười lạnh nói:

- Có thể thắng mà không thể thua, còn tính là nam nhân làm gì? Chỉ có thể là một tên nhát gan vô dụng mà thôi.

Khế Nhĩ Ni Lão bị hắn mắng, mặt đỏ như máu, không còn lời nào để đáp trả. Lương Tiêu xoay mũi thương chĩa vào đám Khâm Sát binh sĩ kia quát:

- Các ngươi đều rất lợi hại phải không? Lên cả đi!

Chúng quân sĩ ai nấy nhìn nhau, nhất thời không ai dám lên. Lương Tiêu hét lớn:

- Các ngươi không lại thì ta lại.

Hắn thúc ngựa tiến nhanh đến, trường thương thế như gió cuốn, sát nhập vào trong đám người. Một kẻ đương đầu thấy Lương Tiêu ập đến, vừa định nhấc mâu, mũi thương của Lương Tiêu đã hất tới, hai mắt y nhất thời hoa lên, chẳng biết nên đón đỡ làm sao. Lương Tiêu thừa thế một thương bất ngờ xuất ra, đánh rơi mũ sắt của y xuống, trong lúc trở tay, cán thương lại quét vào huyệt Thái Dương của y, đánh y văng khỏi lưng ngựa.

Chỉ trong phút chốc, Lương Tiêu thúc ngựa đột phá, trên chồm dưới thụp, tựa như một chiếc lông hồng trên lưng ngựa. Thanh hoa thương trái đỡ phải xoay, như giao long cưỡi mây lại như đằng xà lướt khói, phiêu hốt bất định, chuyên đâm vào mũ giáp quân sĩ, sau khi đánh rơi mũ sắt lại đánh choáng bọn chúng khỏi lưng ngựa. Khâm Sát binh sĩ kinh sợ chạy qua chạy lại, mạnh mẽ phản kích, trong thoáng chốc, hai bên thương đến mâu đi, càng đấu càng khó phân thắng bại.

Lương Tiêu có chủ ý muốn áp chế ba quân bằng tài nghệ của mình nên xuất ra hết cả vốn liếng toàn thân, đến đi chớp nhoáng, thương pháp như điện, chỉ qua hai tuần trà đã khiến cả trăm kẻ nhào tới gục ngã hết tám phần. Nhưng Khâm Sát quân sĩ vô cùng cứng cỏi kiêu dũng, tuy gặp phải cường địch như thế nhưng cũng không lùi bước, lại còn la hét dậy trời, trước sau bao vây, trái phải tiến kích, một tấc vuông cũng không hề bấn loạn.

Lương Tiêu trong lòng thầm tán thưởng, đã động đến ý niệm háo thắng, hét dài một tiếng, xoáy hoa thương thành những vòng rộng dần, bay đến lướt đi khiến cho mọi người không cách nào tụ lại gần được. Trong chốc lát đã đánh ngã được mười bảy mười tám người, còn dư lại hai người đều vạn phần kinh hãi, liều mạng ngăn cản.

Lương Tiêu huy thương quét ngã một người, tên còn lại đằng sau huơ mâu đâm tới, Lương Tiêu cũng không thèm quay đầu lại, thân mình nhẹ nghiêng, chộp mâu vào tay, hét lớn một tiếng, nhấc y lên khỏi ngựa, lại rung tay khiến cho y bay lên cao đến sáu trượng, như sao sa rơi xuống mặt đất, bên tai lại vang lên tiếng gió rin rít, thật làm tim mật y muốn vỡ ra, oai oái kêu thảm.

Lương Tiêu thảy cho y rơi xuống, lập tức phóng ngựa chạy như điên, tóm lấy kẻ ấy trong khoảnh khắc y sắp chạm mặt đất, cánh tay giơ lên giữ lấy hậu tâm của y thật vững vàng, vác tại đỉnh đầu, thúc ngựa xoay tròn rồi nhẹ nhàng ném y lên mặt đất. Tiếng hò reo của bọn Thổ Thổ Cáp vang lừng, đám quân Khâm Sát ai nấy đều há mồm đớ lưỡi, mất cả ngôn ngữ.

Lương Tiêu trải qua phen kịch chiến này, sức ngựa đã cạn, gặp đám ngựa vô chủ trên trường chạy loạn xung quanh liền nhảy sang một con khác, thương chỉ về bốn phía Khâm Sát quân, cười lạnh nói:

- Các ngươi còn muốn tới nữa không?

Khâm Sát nhân thấy hắn ngang nhiên thách thức như vậy lại dấy lên một trận ồn ào. Một gã thiên phu trưởng tóc nâu mắt xanh bước ra hét lớn:

- Hán cẩu nhà ngươi, ỷ vào chút ít khả năng đã tự cho mình là anh hùng à?

Hắn dùng tiếng Mông Cổ nói ra, Lương Tiêu có thể hiểu được liền cười lạnh đáp:

- Ta quản giáo thủ hạ bất phục dưới tay mình, liên quan gì đến ngươi? Nếu không có hồ ly thi triển quỷ kế, chó săn dám ở trước mặt người giương oai hay sao?

Người nọ giận dữ thét:

- Ta là thiên phu trưởng, ngươi chỉ là bách phu trưởng mà dám nói với ta như vậy à?

Lương Tiêu đáp:

- Người Hán thường nói rằng, tướng ngoài chiến trường, có lúc không cần nghe cả lệnh vua. Đã là chiến tranh thì sinh tử đều đặt trên đầu dây cung. Nếu ngươi nói đúng ta tự nhiên nghe theo ngươi, nếu là sai thì cho dù có là lời của Hốt Tất Liệt hoàng đế, ta cũng chưa chắc nghe theo. Giả sử xảy ra chiến tranh, với một trăm kẻ ta quản thúc lại bất phục này, gặp phải địch nhân thì chỉ có chịu chết mà thôi.

Người nọ cười lạnh nói:

- Khâm Sát quân theo sông Diệc Đắc Lặc đánh tới bờ Hán giang, chưa bao giờ thất bại. Hừ, cho dù không có tướng quân thì cũng gần như như thiên hạ vô địch. Hán cẩu bách phu trưởng nhà ngươi, chúng ta sẽ không bao giờ tôn trọng đâu.

Khâm Sát binh lính giơ trường mâu lên, đồng thanh hô lớn:

- Đúng vậy, Hán cẩu bách phu trưởng, chúng ta không tôn trọng!

Lương Tiêu không nhịn được cười, nói:

- Thiên hạ vô địch? Thiệt là lợi hại a! Ngươi dám cùng ta đánh cược hay không?

Người nọ đáp:

- Sao lại không dám?

Nói rồi xách mâu lên ngựa, lập tức tiến lên trước.

Lương Tiêu nói:

- Đơn nã độc đấu không tính là lợi hại. Các ngươi nhiều người lắm phải không? Các ngươi một phe, chúng ta dựa vào sáu người, tất cả không dùng đến cung tên, chỉ dựa vào tài nghệ trên đao thương. Nếu ta đột phá không ra khỏi Khâm Sát doanh sẽ tùy ý các ngươi xử trí, còn nếu rời khỏi, sẽ tính thế nào đây?

Khâm Sát quân nghe vậy vừa sợ vừa giận, không có tiếng la thét nào thoát ra. Thiên phu trưởng kia lạnh lùng nói:

- Hay lắm! Cược thì cược, nếu sáu người các ngươi có thể xông ra khỏi đại doanh, ngươi muốn làm bách phu trưởng thì sẽ tùy ý ngươi! Bất quá đao thương không có mắt, theo hiệp định thì sự chết sống của các ngươi không liên quan đến chúng ta.

Lương Tiêu cười nói:

- Được! Một lời đã định.

Hắn mang trường thương giơ lên, năm người Thổ Thổ Cáp tụ lại bên cạnh. Trong lúc ấy, bốn mặt Khâm Sát quân bao vây trùng trùng lớp lớp, trông qua không dưới ba ngàn, mỗi bên do một thiên phu trưởng lãnh đạo, chúng quân siết ngựa đồng loạt kêu vang, phát ra tiếng “Hi hí” rít rống, thanh thế bức nhân.

Trong khoảnh khắc, ba gã thiên phu trưởng vung roi ngựa lên, chúng quân hô to, thúc ngựa vọt tới. Lương Tiêu liếc mắt quan sát, bỗng nhiên quát lớn:

- Tây nam lai phong,thùy thiên chi hình.

Sáu đạo nhân mã đột ngột chuyển động thật nhanh, tạo thành một trận thế kỳ lạ, vừa nhỏ vừa cụ thể, theo hướng Tây Nam lao ra. Lương Tiêu phía trước, Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt chia ra hai bên trái phải, ba người Lý Đình cũng xếp tương tự ở phía sau, múa đao vẽ thương, tựa như một cái dùi thép, trong phút chốc đã xuyên thủng vòng vây.

Côn Luân

Lục Hoa Diệu Thuật (2)

Thiên phu trưởng kia vội vàng hét lệnh vây lấy Tây Nam, chợt nghe Lương Tiêu quát:

- Tây Phương chi thủy, thanh phong chi tượng.

Trận thế của sáu người chợt biến, Lương Tiêu cùng Thổ Thổ Cáp mỗi người một phía trước sau, Lý Đình bốn người thì dồn vào trung ương, hóa thành trước sau sắc nhọn còn ở giữa lại vô cùng dày đặc, nhắm hướng Tây đột phá, đột phá vừa được vài trượng Lương Tiêu lại quát:

- Tiểu súc bắc, đại tráng nam, long bàn chi trận.

Trong sát na, trận thế hóa hình rồng rắn, uốn lượn quanh co, giả vờ trùng hướng Bắc thật ra lại đột hướng Nam, nhìn hướng Đông lại chạy hướng Tây, co giãn chia ra hợp vào, trong phút chốc đã liên tiếp hóa ra vô số trận, lao ra được hai mươi trượng, Lương Tiêu lại bất ngờ bảo:

- Đông Bắc Chi Lôi.

Lời hắn vừa thốt ra, năm người khác theo tiếng mà động, hóa thành “Hắc hổ chi thế” hốt nhiên chuyển thân, tựa như mãnh hổ xuống núi, theo thế “sét đánh không kịp bưng tai” nhắm hướng Đông Bắc mạnh mẽ xông phá, đi đến chỗ nào, Khâm Sát quân chỗ ấy đều lách tránh, chẳng ai có thể chống cự.

Trong lúc nhất thời, chỉ nghe Lương Tiêu hô hét không ngừng, trận thế của sáu người cũng tự nhiên biến hóa theo, hổ rồng đuổi bắt, tám hướng đến đi, liền lạc như thủy ngân chảy trên mặt đất, không chỗ nào mà không luồn lách vào được. Trong nháy mắt, rốt cuộc đã làm cho đội Khâm Sát kỵ binh một đời ngạo mạn bị xung phá đến thất điên bát đảo, đầu đuôi khó mà liền lạc lại được.

Ba gã thiên phu trưởng liên tiếp phát hiệu lệnh, nhưng cũng chẳng thể nào ngăn cản, trong lòng vô cùng hoảng sợ. Bọn họ mặc dù rong ruổi nơi đại mạc, tinh thục dã chiến, nhưng nào ngờ được người Hán lại dụng binh kỳ diệu như vậy.

Trận thế mà Lương Tiêu đã sử dụng chính là binh pháp “Lục hoa trận” thời Đường mà Lý Tĩnh đã sáng tạo ra, lộ trận pháp này thoát thai từ Vũ Hầu bát trận, nhưng tinh vi ảo diệu hơn nhiều, lấy sáu người một đội, mỗi người cầm một vũ khí, biến hóa vô cùng, chính là hai phương pháp dùng để đối phó với thiết kỵ của tái ngoại. Năm đó Lý Tĩnh từng bằng trận này lấy ít thắng nhiều, dưới Âm Sơn đại phá hơn hai mươi vạn thiết kỵ Đột Quyết, bắt sống Hiệt Lợi Khả Hãn, từ đó về sau, người Đột Quyết không thể gượng dậy nổi, cũng không còn đủ khả năng cùng Đại Đường tranh hùng.

Phải biết trận pháp xưa nay không thể rời khỏi thuật số. Lương Tiêu toán học tinh thâm, vượt xa tiền nhân. Sau lần Vân Thù đoạt lương, nỗi đau của hắn trở thành nỗi đau thường trực, hắn bắt đầu đánh giá cách dùng binh, muốn ngày sau không để một ai phải tổn thương nữa.

Thương thế của năm người Thổ Thổ Cáp vừa mới lành lại, hắn liền đem chuyện nói ra, tính cả mình vừa đủ sáu người, chính là phù hợp với số người của lục hoa, lệnh mọi người thao luyện lục hoa trận. Trong lúc diễn luyện, hắn khéo léo thêm thắt tìm tòi, đối với trận pháp đa phần cải tiến khiến cho uy lực của nó tăng thêm gấp bội.

Sau lần chịu nhục trên giáo trường ngày ấy, Lương Tiêu nhẫn nhịn không phát tiết, để cho Thổ Thổ Cáp lẻn vào Khâm Sát doanh bí mật tìm hiểu, đến khi biết được nguyên do chúng quân không chịu đến, trong lòng biết để khuất phục được đám gia hỏa này tất khó tránh khỏi một trường ác đấu. Hắn một mặt tìm một địa phương hẻo lánh, khẩn trương thao diễn thêm trận thế, một mặt chọc giận đám quân để cùng mình đánh cược, định bụng dùng lục hoa diệu thuật này khuất phục ba quân. Lúc này thi triển ra, quả nhiên đánh đâu thắng đó, dù đó chính là Khâm Sát tinh binh cũng không cách nào chống đỡ được.

Tư đấu một lát, Lương Tiêu thay đổi mười sáu loại trận hình, dần dần đã tiếp cận được đến cổng ngoài, chợt thấy hướng Tây Nam, Tây Bắc mỗi nơi lộ ra một trận thế sơ hở, lập tức hét lớn:

- Trường kình chi trận.

Sáu người giục ngựa, thế như kình phóng, hướng vị trí “Quy muội” mà đột phá. Chúng tướng lật đật xua quân cắt ngang, nhưng kỳ ý của Lương Tiêu lại ở một nơi khác, đột nhiên dẫn mọi người len xéo về Tây Nam, trận trở thành “Côn bằng chi biến.”

Nhất thời ngư long hóa thành đại bàng, đập cánh lên tận chín tầng trời, tiếng thét vừa vang, lập tức đem quân trận phía trước chia thành hai mảnh, từ vị trí “Vô vọng” lại xuyên ra một lỗ hỏng lớn, vượt ra khỏi giới hạn của ngàn quân. Khâm Sát kỵ binh phía sau thu ngựa không kịp, trước đẩy sau kéo, trái phải xô vào nhau, la to gọi nhỏ loạn thành một bầy.

Sáu người phóng ra khỏi cổng ngoài, nghĩ đến lúc đầu thật hung hiểm nhưng kết cuộc lại toàn thắng, tinh thần mỗi người đều hưng phấn cao độ, ghìm ngựa cười dài, Lương Tiêu giương giọng kêu lên:

- Thắng bại đã phân! Các ngươi trước đó đã nói những gì, có tính hay không?

Đám Khâm Sát quân khó khăn lắm mới ghìm được lũ ngựa, tập hợp lại đội hình, trong lòng vô cùng hoảng sợ. Một trận này, phía Lương Tiêu sáu người không một ai bị thương tổn, Khâm Sát nhân lại tổn thương vô số, có điều năm người bọn Thổ Thổ Cáp vì nghe theo mệnh lệnh của Lương Tiêu, vẫn chưa hết ý đả thương người, cho nên đa phần đám quân chỉ bị thương nhẹ ngoài da thịt, không có gì đáng ngại.

Số quân sĩ té ngựa mau chóng bò dậy, bật người trở lên ngựa, mấy ngàn ánh mắt đều dừng lại trên người của ba tên quan tướng, đợi nghe hiệu lệnh của bọn chúng. Nhất thời, trên giáo trường lặng phắt như tờ, chỉ còn nghe tiếng gió hun hút thồi, thốc lá cờ lớn phần phật tung bay.

Ba gã thiên phu trưởng đối mắt nhìn nhau, lúc này trả lời không được mà không trả lời cũng không được. Nếu trả lời thì hai mươi năm uy danh sẽ bị hủy trong một ngày, còn nếu không trả lời lại mang danh thất tính, cũng là điều tối kỵ trong việc quân. Chính đang không biết làm sao cho phải, chợt nghe có người sang sảng cười nói:

- Đã nói qua đương nhiên phải giữ lời, huống chi đừng nói là bách phu trưởng, cho dù đó là thiên phu trưởng cũng vị tất có thể đương cự được!

Ba người nghe được giọng nói, đồng loạt xuống ngựa, kêu lên:

- A Thuật đại nhân.

Lương Tiêu trông thấy A Thuật vẻ mặt cười cười, dắt theo thân binh ven theo rìa mà đến, bèn xuống ngựa hành lễ nói:

- A Thuật đại nhân, thật không còn biện pháp nào khác, nếu không dùng thủ đoạn sét đánh này, Lương Tiêu lúc này khó mà yên ổn được.

A Thuật xuống ngựa, hai tay đỡ hắn dậy, cười bảo:

- Lại nói tiếp, Khâm Sát quân này người mạnh ngựa khỏe, lúc chiến đấu vô cùng lợi hại,chỉ bằng bổn sự của một binh một tướng,thì cho dù là quân Khiếp Tiết Ngạt(1) dưới tay Thái Tổ cũng chưa chắc đã chiếm được thượng phong. Chỉ vì nhiều năm qua chưa gặp được địch thủ, cho nên càng lúc càng kiêu ngạo, chẳng thèm để ai vào mắt. Ta để ngươi đến đây cũng không ngờ được ngươi có thể sống yên! Thật sự cũng chính để khảo sát bổn sự của ngươi, nào hay ngươi với sáu người lại có thể đột phá cả ba ngàn Khâm Sát quân. Hà hà, ta nửa đời làm đại tướng không ngờ cũng nhìn lầm!

Lương Tiêu nói:

- Đại nhân nói quá lời, ta trước tiên rào đón thỏa thuận, khiến cho bọn họ không thể dùng tiễn. Nếu là chiến trường thật sự, cung tiễn nảy ra, chỉ sợ công phu hợp lại, sáu người chúng ta đều hóa thành nhím cả rồi!

A Thuật vuốt cằm nói:

- Ngươi thắng mà không kiêu, rất tốt. Bất quá sự thật quả là như thế, Khâm Sát kỵ binh mạnh nhất không phải là thương mâu mà chính là cung tiễn.

Hắn nhìn ba thiên phu trưởng bảo:

- Ba người các ngươi, còn gì để nói không?

Ba người nhìn nhau, gã thiên phu trưởng tóc nâu kia nói:

- Nếu luận về công kích hãm trận, chúng ta thua không còn gì để nói, nhưng A Thuật đại nhân nói rồi, chúng ta mạnh nhất chính là thuật cung tiễn, ta muốn xem qua tiễn thuật của Lương Tiêu một chút.

A Thuật mắng:

- Các người đều là đầu đá cả à?

Lương Tiêu cười nói:

- Không sao, ai đó cho ta mượn cung tiễn dùng một chút nhé.

Chúng tướng vừa định tháo cung xuống, A Thuật đã nói:

- Dùng của ta đi.

Nói rồi lập tức gở xuống một thanh ngạnh cung viền vàng. Lương Tiêu tiếp lấy, mắt thấy trăm bước bên ngoài có hai Hồ nữ áo trắng trên bờ sông đang đùa giỡn nghịch nước, một người mặt phủ khăn lụa, một người mặt trắng để trần, trên đầu mang theo một chuỗi minh châu chói mắt.

Lương Tiêu cười nói:

- Xem ta bắn vỡ minh châu trên đỉnh đầu người bên trái đây.

Mọi người nghe vậy đều thất kinh. A Thuật nhíu mày nói:

- Lỡ bắn trúng người thì làm thế nào?

Lương Tiêu đáp:

- Bắn rơi một sợi tóc hãy chém đầu Lương Tiêu ta.

A Thuật còn chưa kịp nói thêm, Lương Tiêu đã thúc ngực chạy đi, hốt nhiên gài tên giương cung, bạch vũ tiễn như chớp bắn ra. Hồ nữ kia đang cùng người bạn đùa giỡn, bỗng đỉnh đầu bất chợt nổi gió, chẳng biết nguyên do gì, “cạch” một tiếng, một thanh vũ tiễn đã găm lên bờ rào cách đó không xa, ngay lập tức minh châu trên búi tóc nàng tứ tán rơi xuống, tí tách rơi vào con nước.

Thực tế tiễn phong của Lương Tiêu quá lợi hại, đáp đúng ngay khe hở nơi đỉnh chóp của hai viên minh châu, đem sợi dây vàng kết tràng châu cắt đứt thành hai đoạn, minh châu đứt chuỗi tự nhiên rời ra, đám quân thấy thế trước tiên ngây ngốc, sau đó lại ầm ầm tung hô như sấm động.

Nữ tử kia đang kinh ngạc, nghe tiếng liền quay đầu lại. A Thuật thấy rõ bộ dáng của nàng, đầu mày nhăn tít. Lại nghe ba gã thiên phu trưởng đồng thanh kêu lên:

- A Thuật đại nhân, chúng ta đều phục rồi! Để cho hắn làm vạn phu trưởng cũng còn được.

A Thuật cười bảo:

- Phục rồi hả? Ầy, làm vạn phu trưởng chưa đủ tầm đâu, thiên phu trưởng cũng còn chưa thể được. Hắn mới đến đây, chưa có chiến công gì, làm bách phu trưởng ở nơi này chính bởi hắn vừa cứu được Hữu Thừa đại nhân, cũng đã miễn cưỡng lắm rồi!

Chúng nhân nghe nói Lương Tiêu cứu được A Lý Hải Nha, nhất thời cả thảy đều tôn kính. Viên quan tóc nâu kia nói:

- Chẳng ngờ trong số người Hán, lại có được nhân vật như thế!

A Thuật lắc đầu bảo:

- Hắn không phải Hán nhân tầm thường, hắn có huyết thống của người Mông Cổ.

Chư tướng nghe được càng tăng thêm phần kính ý, nhìn vào Lương Tiêu, ánh mắt dĩ nhiên đã khác trước rất nhiều.

Đúng lúc này, chợt thấy Hồ nữ kia cầm vũ tiễn, đùng đùng nổi giận đi đến, vóc người nàng cao lớn đầy đặn, da thịt trắng hơn tuyết, mi dài mắt to, con ngươi xanh như nước biển, mái tóc xanh xám tết thành bím, thả xuống mềm mại bên tai, vương vào chiếc cổ mảnh khảnh tuyết bạch. Bọn người Khâm Sát Doanh trông thấy, ai nấy đều đồng loạt nuốt nước bọt thầm nghĩ: ”Cô bé xinh đẹp đang đi tới ấy trước kia sao chưa từng gặp qua?”

Hồ nữ kia đến gần, chỉ vào dấu hiệu trên tiễn, dùng tiếng Mông Cổ nói:

- A Thuật đại nhân, là người dùng tiễn bắn ta à?

A Thuật ha ha cười, đang muốn trút tội trạng lên đầu mình, Lương Tiêu bỗng lên tiếng:

- Không phải việc của ông ấy, là ta bắn đấy.

Đôi mi xanh biếc của Hồ nữ khẽ nhướng lên, cao giọng hỏi:

- Ngươi vì sao lại dùng tiễn bắn ta?

Lương Tiêu đáp:

- Còn chưa bắn trúng cô, cô tức giận làm gì chứ?

Hồ nữ cười lạnh nói:

- Dạ minh châu của pa pa cho ta bị ngươi đem bắn cả xuống nước! Lại nói, ngươi chỉ biết ngươi nhất định sẽ không bắn lên trời chứ gì? Ngươi nói tiếng Mông Cổ chứng tỏ ngươi là người Mông Cổ? Ta nghe nói, người Mông Cổ đều là những cánh đại bàng cao ngạo, vì cớ gì đại bàng lại không đi đối phó với sói xanh hung ác, lại tới bắt loài bồ câu nhỏ bé yếu đuối như ta chứ?

Nàng một phen nói ra hợp tình hợp lý, Lương Tiêu dẫu năng ngôn thiện biện(2) nhưng cũng chẳng có từ nào để đối đáp.

A Thuật mắt thấy không khí có phần ngượng ngập bèn cười khỏa lấp:

- Lan Á à, nàng đừng nói nữa, ta bồi thường lại dạ minh châu cho nàng là được chứ gì. Nàng ở trong trướng của pa pa nàng phải không? Đợi một lát, ta sai người đem đến ngay.

Lan Á ném tiễn lên mặt đất, cười lạnh đáp:

- Ngươi tặng ta thứ không quý hiếm, ta chỉ thích hạt châu mà pa pa cho ta mà thôi

A Thuật cười nói:

- Đừng nóng, ta sẽ tự mình mang tới, hỏa giả vẫn khỏe chứ?

Lan Á nghe hắn ân cần thăm hỏi phụ thân, cơn giận nguôi đi ít nhiều, đáp:

- Pa pa khỏe lắm! Không phiền ngươi thăm hỏi.

Dứt lời cùng với người Hồ nữ kia xoay người bỏ đi.

Một gã Khâm Sát tướng lãnh nuốt ực nước bọt hỏi:

- A Thuật đại nhân, cô bé này từ đâu tới vậy? Trông thật xinh quá đi!

A Thuật nét mặt nghiêm túc, trầm giọng nói:

- Đám bại hoại các ngươi không được nghiêng ngó bậy bạ. Nàng ta chính là con gái của Trát Mã Lỗ Đinh - chiêm tinh gia của Hồi Hồi, là niềm hạnh phúc của Mao Lạp, là đệ tử yêu quý nhất của đức Hiền Minh Giả - Nạp Tốc lạp Đinh, là nữ hiền triết duy nhất của Y Nhi Hãn quốc. Tám tuổi thì nàng đã hướng về chủ thần mà lập thệ rằng suốt đời sẽ không lấy chồng, đem trinh tiết gìn giữ hiến dâng cho tinh tú trên bầu trời, lại được Y Nhi Hãn - Húc Liệt Ngột đại vương hết lời ca tụng. Mấy tên thô lỗ các ngươi, chỉ biết đến chiến tranh giết chóc, hừ, mang đi xách hài cho người ta còn không xứng!

Mọi người nghe nói nàng suốt đời không lấy chồng đều than đáng tiếc. Lương Tiêu trong đầu lại ngẫm nghĩ: “Chiêm tinh gia của Hồi Hồi sao? Trong ghi chép thuật số của Thiên Cơ cung tựa hồ có đề cập qua, nói rằng trong số người Hồi Hồi lợi hại nhất chính là các đại số gia, còn mơ hồ nhắc tới, thuật toán và cách đếm của bọn họ so với số thuật của người Trung Thổ có sự khác biệt lớn, nhưng khác biệt thế nào vẫn chưa nói tường tận. Ài, cái gã Nạp Tốc Lạp Đinh kia lại được xưng tụng là đức Hiền Minh Giả thật là thổi phồng quá đáng mà.”

Hắn vừa mới bị Lan Á mắng cho á khẩu không trả lời được, vốn đang bực mình, nghĩ đến đây lại càng thêm “lão tử không phục”!

A Thuật quay đầu khích lệ Lương Tiêu một cái, chợt nghe có chiến báo truyền đến, vội vàng giục ngựa chạy đi.

Đám Khâm Sát nhân này cùng Lương Tiêu không đánh không quen biết, lại biết hắn có huyết duyên Mông Cổ, bao nhiêu ý niệm khinh miệt đều mất hết, đối với hắn càng thêm coi trọng, lập tức kéo nhau vào trong trướng uống rượu. Mọi người mới uống với nhau hai chén rượu đã cảm thấy so với huynh đệ ruột thịt còn thân thiết hơn.

Cha của Thổ Thổ Cáp chính là người Mông Cổ thuộc tộc Khâm Sát, mẹ lại chính là người Oát La Tư, vì thế hắn đương nhiên thông hiểu ngôn ngữ Khâm Sát, đến nơi này thật như cá gặp nước, cùng mọi người hòa thành một đoàn, hát vang những bài mục ca của Oát La Tư, nhảy múa những điệu vũ của quê hương. Bọn người Nang Cổ Ngạt thấy thú vị cũng nhập hội, cùng nhau dậy lên một trường náo nhiệt.

Lương Tiêu bưng bát rượu, lại gọi Khế Nhĩ Ni Lão đến bên cạnh, bảo người phiên dịch, khen y mâu pháp không tồi. Khế Nhĩ Ni Lão vốn là bại tướng dưới tay hắn, vốn đang quẫn bách, nhưng sau khi nghe Lương Tiêu tán dương lại cao hứng nói không nên lời. Hai người uống hai bát rượu nồng, mọi tỵ hiềm đều tiêu hết.

--------------------------------

(1): Khiếp Tiết là 1 đội binh do Thành Cát Tư Hãn lập ra, thành viên trong đội xưng là Khiếp Tiết Ngạt, đóng 1 vai trò quan trọng trong vấn đề an ninh, xã hội, quốc phòng của người Nguyên.

(2) năng ngôn thiện biện: nhiều lời giỏi cãi.

Mọi người chính đang lúc trò chuyện hợp ý chợt nghe trống trận vang rền, tướng sĩ Khâm Sát quân thần sắc biến đổi, đánh rơi cả bát rượu, ba chân bốn cẳng vọt ra ngoài, một bên vừa chạy một bên vừa mặc y giáp, chộp mâu vác cung, nhảy lên chiến mã. Hồi trống đầu còn chưa kết thúc, chúng quân mỗi người đã hàng ngũ chỉnh tề, rần rần hô hét hội tụ tại một chỗ, hành xử nhanh đến mức khó tin, hình dáng so với lúc uống rượu xằng bậy ngông nghênh thật như hai kẻ khác nhau.

Lương Tiêu cũng đã điều động binh chúng, để cho bọn năm người Thổ Thổ Cáp hợp cùng bốn Khâm Sát chiến sĩ khác kết thành một đội mười người, do Thổ Thổ Cáp đảm nhiệm chức thập phu trưởng.

Chỉ trong thời gian ngắn, Khâm Sát quân đã hoàn tất việc tập kết, phóng nhanh ra khỏi doanh trại. Chính đang đến lúc điểm tướng xuất binh chợt nghe tiếng trống vơi đi, tiếng kèn cất lên vang dội, một dài hai ngắn. Thiên phu trưởng tóc nâu Hợp Xi Man người A Tốc kia vung tay lên, chúng quân ghìm ngựa dừng lại. Hợp Xi Man kêu lên:

- Nghe hiệu lệnh, lệnh cho thủy quân xuất chiến! Tống quân trước tiên đã theo đường thủy tấn công rồi!

Khâm Sát quân cộng lại có ba cánh quân, mỗi cánh ngàn người lại sắp xếp cho một người dẫn đầu, tất cả đều thuộc quyền điều khiển của A Thuật. Hợp Xi Man trong số các thiên phu trưởng được xem là người lớn tuổi nhất, lại có chiến công lớn nhất, vì thế mệnh lệnh ngày thường đều do y hô phát.

Hợp Xi Man tính toán chớp nhoáng rồi giơ roi, hét lên:

- Chúng ta theo bờ Tây Nam mà đi, đề phòng Tống nhân theo đường bộ xuất viện.

Chư quân lật đật nhằm hướng Tây phóng đi, còn chưa qua được sườn núi phía trước, liền nghe được phía Tương Dương thành tiếng pháo nổ vang, lại thấy cổng thành rộng mở, hơn ngàn kỵ binh, bộ binh Tống nhân ồ ạt xông ra, bộ phận binh sĩ người Hán của Nguyên quân xông lên trước tiên , trận thế còn chưa hoàn chỉnh hai bên đã động thủ, nhất thời tên loạn như mưa, máu tuôn ngập đất.

Phía trên Tương Dương thành không ngừng rung chuyển, nỏ pháo khổng lồ gầm thét, hướng về trận địa Nguyên quân trút xuống, đội tiên phong của Nguyên quân chết la liệt, hướng về sau dần rút lui. Bộ binh của Tống nhân thừa thế xông lên, một đội mang theo khiên gỗ đoản đao, lăn đến chém vào chân kỵ mã, một đội giương thần tí cung, hướng về phía bộ binh của Nguyên quân mà xạ tới.

Kỵ binh, bộ binh của Nguyên quân lập tức trở nên cảnh lộn xộn. Đầu thành lại vang lên tiếng pháo, người ngựa phe Tống đột nhập vào bên trong trận thế của Nguyên quân, oằn cung múa thương, xung đột qua lại, chỉ mới hai hiệp mà Nguyên quân nhất thời đã rối loạn.

Hợp Xi Man bật người lên sườn núi, trông về xa xa, cười bảo:

- Người Tống thật phí sức, Hán quân không xong rồi, chúng ta lên thôi!

Chúng quân đang muốn thúc ngựa chạy đi bỗng nghe Lương Tiêu kêu lên:

- Chậm đã!

Hợp Xi Man hỏi:

- Sao vậy?

Lương Tiêu đáp:

- Đợi cho phục binh của người Tống đi ra đã.

Hợp Xi Man nhíu mày hỏi:

- Vậy là ý gì?

Lương Tiêu đáp:

- Ta vừa rồi có tính qua, nơi mà hai quân giao chiến vẫn chưa nằm trong phạm vi bao trùm của cường cung đại nỏ. Tống quân chỉ dẫn mà không phát, phái binh mã cùng ta kịch chiến rõ ràng là cố ý ra vẻ giả vờ, hấp dẫn tinh kỵ của chúng ta đuổi theo vào trong, sau đó trá bại vào thành, còn kỵ bộ của chúng ta đều bị kẹt lại bên dưới pháo nỏ, đến lúc này Tống nhân sẽ đồng loạt khai hỏa, cho dù kỵ binh có cường thịnh trở lại cũng khó tránh khỏi trận cước rối loạn, sau đó đội tinh nhuệ bên ấy sẽ đột ngột xuất ra giết ta không kịp đối phó, nếu ta đoán không lầm, phía sau Tống nhân còn có tinh binh ẩn nấp.

Hợp Xi Man chau mày, còn chưa nói gì chợt nghe một gã kỵ binh phi ngựa truyền tin đến báo:

- A Thuật đại nhân có lệnh, bảo ngài án binh bất động, đợi một chút cho phục binh của Tống quân trong thành tấn công ra thì lập tức xông lên, cắt đứt đường về của bọn chúng, tiêu diệt chúng ngay dưới thành.

Hợp Xi Man nhìn Lương Tiêu thầm nghĩ: “Quái thật, hắn cùng A Thuật đại nhân có ý nghĩ giống nhau.”

Lệnh truyền binh còn chưa dứt, hai nhóm kỵ binh người Hán đã đuổi tới, theo hai hướng trái phải của Tống quân mà xông vào. Đương qua cự lại một chút, Tống quân nhất thời tan rã, hướng vào trong thành rút lui. Quân Nguyên chưa kịp xua quân tiến kích, Tống quân đã sớm cho khởi động pháo nỏ.

“Uỳnh” một tiếng chấn động màng nhĩ, trong khoảnh khắc pháo thạch như mưa hướng kỵ binh Hán nhân rơi xuống, Nguyên quân bỗng chốc bị cắt làm hai, chỉ nghe trong thành pháo hiệu nổi lên, bốn ngàn Tống kỵ như cuồng phong bão táp, hòa vào trận thế Nguyên quân, thỏa sức giết chóc.

Nguyên quân chống cự không nổi, lùi về phía sau, Tống quân được thế, theo kế hoạch nổi trống trợ khí, đem bốn cánh Nguyên quân này bẻ gãy, nhất thời thế như chẻ tre, đuổi gấp không tha. Cùng lúc này, bên trong thành bước ra hai ngàn kẻ bắn cung nỏ, tạo thành hình cánh ưng theo hai bên trái phải phối hợp với trận thế của kỵ binh, hướng về phía Nguyên quân bắn tới. Nguyên quân tiến lùi không được, trái phải khó thoát, nhất thời người ngựa giẫm đạp lên nhau, tử thương trầm trọng.

Lương Tiêu xem đến đây thì kêu lên:

- Đến lúc rồi!

Hợp Xi Man nói:

- A Thuật đại nhân còn chưa lên tiếng mà!

Lương Tiêu nói:

- Thời cơ không đợi người. Tống nhân vốn nhút nhát, bất ngờ tấn công sẽ đắc thủ, bọn chúng khó tránh khỏi việc rút lui, ta xem trận thế, nhất quyết phải truy cùng giết tận.

Trải qua lần cá cược trước, Hợp Xi Man đối với hắn hoàn toàn tin tưởng, lập tức hiệu lệnh ba quân.

Tướng sĩ Khâm Sát quân sớm đã không còn kiên nhẫn nữa, nghe tiếng lập tức hành động, theo sườn núi phía trên bất ngờ tản xuống dưới. Lúc này tên lính truyền lệnh của A Thuật cũng đâm đầu chạy tới, gọi Khâm Sát quân tiến kích, chợt thấy tất cả đã xuất kích rồi, kinh ngạc vô cùng. Hợp Xi Man không kịp nghe lệnh, suất quân chớp nhoáng, nhắm đến ngay trước Tương Dương thành. Lúc này Hán quân đã rối loạn, tử thương vô số, kỵ binh Tống nhân chính muốn rút lui, hai ngàn cung nỏ thủ vừa bắn ra một đợt tiễn đã lại gấp gấp rút tên lắp nỏ, yểm hộ kỵ binh về thành, không ngờ Khâm Sát quân đột ngột đến nơi, trong cơn hốt hoảng, chẳng biết phải ngăn cản thế nào, đạp trước đẩy sau tranh nhau chạy vào trong thành.

Hợp Xi Man mau chóng phất roi ngựa ra hiệu, ba cánh Khâm Sát quân trong lúc chạy điên cuồng chia ra làm ba đội, một đội tiêu diệt nỏ thủ, một đội cắt đứt đường về của kỵ binh, còn một đội do đích thân Hợp Xi Man suất lãnh, xông vào giữa bọn kỵ binh Tống quân. Chỉ thấy ngựa phi như rồng, tên rớt như mưa, thiết kỵ Khâm Sát như gió thu cuốn lá rụng, quét qua dưới thành Tương Dương, Hán quân của Nguyên triều thừa cơ phản kích, bốn phía chém giết, chỉ qua hai nén hương, năm ngàn Tống quân đã hoàn toàn tan tác, hầu như chết sạch.

Hợp Xi Man phút giây tham chiến, xa xa trông thấy bại quân rút lui, cổng thành Tương Dương còn chưa kịp khép kín, phát hiện ra cơ hội có thể tận dụng. Y trước giờ vênh vang, tự phụ chiến mã của mình là ngựa tốt, nhanh như cắt roi dài phất lên, chỉ muốn thừa thắng xua quân, chớp nhoáng thẳng tiến vào Tương Dương khuấy đảo, lập nên đại công lao to lớn.

Lương Tiêu đang lúc dẫn trăm thủ hạ tiêu diệt tàn địch của Tống quân, thấy vậy kinh hãi hô lên:

- KHÔNG ĐƯỢC ĐIIIII !!!!

Nhưng tiếng hô đã chìm ngập vào giữa những tiếng la thét chém giết, Hợp Xi Man làm sao nghe được. Y vọt ngựa lên trước, cùng với hai thiên phu trưởng dẫn theo binh mã, phi ngựa tiến sát bên dưới Tương Dương thành. Đúng lúc ấy, chỉ nghe một tiếng nổ lớn vang lên, một viên đại thạch che trời lấp đất từ cự nỏ đầu thành giáng xuống, nhất thời bao phủ toàn bộ bọn người Hợp Xi Man vào trong.

Lương Tiêu kinh hãi thất sắc, phi thân xuống ngựa, dựa vào thân pháp khinh công, mạo hiểm chui vào giữa pháo thạch, chỉ thấy Hợp Xi Man toàn thân một khối máu thịt lẫn lộn, cả người lẫn ngựa sớm đã thành một đống bùi nhùi, chẳng thể phân biệt được nữa.

Lương Tiêu thấy chẳng còn ai sống sót đành phải rời khỏi, luồn qua lách lại bất định trong đám pháo thạch. Quân Tống thủ thành sớm đã có chuẩn bị, pháo thạch dày đặc, liên miên không dứt, cho dù khinh công của hắn có lợi hại, bộ pháp tuyệt thế, nhưng miễn cưỡng chỉ có thể tránh được các tảng đá to cây lớn, còn tiểu thạch thì không thể né khỏi.

Khối lượng tiểu thạch trút xuống lưng hắn phải ước chừng nặng đến bảy tám trăm cân. Lương Tiêu cả người lảo đảo, cố tiêu trừ phần lớn lực đạo, cổ họng một trận phát ngọt, lắc mình thoát khỏi một khối cự thạch trăm cân giáng xuống, loạng choạng chạy vào bên trong đại đội, nhảy lên lưng chiến mã, đợi đến khi thoát khỏi phạm vi công kích của pháo nỏ, hắn không thể chịu đựng nổi nữa, nằm rạp trên lưng ngựa, miệng phun ra một ngụm máu tươi.

Lúc họp lại, Khâm Sát quân tổn thất vô cùng thảm trọng, ba gã thiên phu trưởng đã ra đi bên dưới thành, đồng thời có đến ba trăm người mất mạng, lưu lại mười mấy gã bách phu trưởng, lớn nhỏ như nhau, ai nấy đều tự ra lệnh. Chư quân như rắn mất đầu, cả đoàn hò hét loạn xạ.

Thái thú Tương Dương Lữ Đức là danh tướng của Đại Tống, tài thao lược uyên sâu, trông thấy cơ hội bày sẵn bèn không thèm để ý đến đội binh tinh nhuệ vừa mất đi, tức tốc điều khiển ba ngàn thiết kỵ rời khỏi cổng thành, một ngàn kỵ binh tiến về phía Hán quân, nhiệm vụ không cho bọn chúng tiếp viện, hai ngàn kỵ binh trực tiếp giao chiến cùng Khâm Sát quân, chủ tâm đem đội binh tinh nhuệ nhất của Nguyên quân này một lần xóa sổ, triệt phá nhuệ khí của người Nguyên.

Khâm Sát quân từ khi lập ra đến nay chưa từng bị đánh bại, thắng thì đương nhiên càng đánh càng hăng, khí thế cực sắc bén, nhưng phàm những thứ sắc bén ít khi dài lâu, khí thế cũng dễ tiêu tán, cái đám sư binh (1) bất bại này một khi thua trận ngược lại sẽ càng thêm mất tinh thần không lấy lại được sĩ khí.

Huống chi bọn họ luôn trị quân dựa trên nghĩa đồng bào, cực kỳ trọng tình, bọn người Hợp Xi Man vừa chết, mỗi người đều mất hết lý trí, lập tức đã không còn tuân theo chiến pháp, ùn ùn mà kéo ra, dựa vào tài kỵ xạ tinh thục, mạnh ai nấy chiến, liều mạng cùng Tống nhân. Điều này vô tình đã phạm vào cấm kỵ lớn trong binh gia, cũng chính là mong mỏi của người Tống.

Phe Tống dựa vào hoàn cảnh, trận hình dày đặc, thừa thế trùng đột, đem Khâm Sát quân chia cắt ra, khiến cho trước sau trái phải không thể hổ trợ, mặt sau lại phân binh thỏa sức công kích, bốn mặt tàn sát.

Ngày thường Khâm Sát nhân mắt để trên đầu kẻ khác, khinh người vô cùng, các lộ Hán quân đối với nhóm kỵ quân sắc mục này ghét cay ghét đắng, trông thấy lần này bọn họ tan tác đại bại, trong lòng mừng thầm, cả thảy đều ứng chiến một cách cầm chừng, không có bất kỳ ý niệm ứng cứu nào.

A Thuật đang lãnh nhiệm mặt phía Nam của Tương Phiền, chỉ huy thủy lục hai quân, lúc này thủy chiến gặp phải đối thủ lợi hại, khó có thể phân thân giúp đỡ. Chợt nghe truyền lệnh binh báo cáo, nhìn về xa xa, chỉ thấy trên bộ tình thế đang nắm chắc phần thắng đột nhiên xoay chuyển mau lẹ. Hắn kinh hãi thất sắc, cũng không thèm quan tâm đến thủy chiến nữa, lúc này bước xuống soái đài, sai truyền lệnh binh hỏa tốc triệu tập kỵ binh, định tự mình đích thân ứng cứu. Trong khoảnh khắc ấy, Khâm Sát quân mười phần đã bị tiêu diệt mất hai phần.

Liền lập tức, chợt thấy trận thế Tống quân xao động. Một đội Khâm Sát nhân mã đang đột phá xuyên qua trùng vây của Tống quân, ước chừng đông đến trăm kỵ, chỉ tụ mà không tán, thế trận gọn gàng, tại bên trong trận thế của Tống quân tiến lùi quét sạch.

Người dẫn đầu chính là Lương Tiêu. Hắn đã thụ nội thương bèn trao quân vụ lại cho Thổ Thổ Cáp nắm giữ, chợt thấy Tống quân đánh tới, binh mã bên mình đã mất sự khống chế, vội vàng thúc ngựa lao ra, lớn tiếng hô hét, giữa đám loạn quân gắng gượng quản thúc binh chúng.

Trăm thủ hạ của hắn mấy ngày nay liên tục chịu sự bẻ mặt, không như các đội ngũ khác vẫn kiêu ngạo hống hách, thêm vào bọn năm người Thổ Thổ Cáp cùng Khế Nhĩ Ni Lão toàn lực tương trợ, một trăm người này rốt cuộc cũng không rối loạn.

Lương Tiêu quan sát sơ hở địch, cản chỗ mạnh đánh chỗ yếu. Đợi đến khi lòng quân ổn định liền cùng năm người Thổ Thổ Cáp kết thành “Lục Hoa trận”, lấy trận pháp làm mấu chốt, thúc đẩy cả đội trăm người, dẹp bỏ tự ái đánh vào chỗ trống, lặp lại thế trùng phá trận địch, lại để cho Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt, Khế Nhĩ Ni Lão dùng tiếng Khâm Sát hô gọi đồng bạn, nhập trận với mình.

Khâm Sát quân sĩ trong lúc phẫn kích, trận thế rồi loạn, bấy giờ tử thương trầm trọng thê thảm mới giật mình hiểu ra, thầm biết nếu không đồng tâm hiệp lực sẽ chắc bại chẳng thể nghi ngờ, lúc này đều gia nhập vào đội ngũ của Lương Tiêu.

Lương Tiêu trong lúc đuổi giết, hô to gọi nhỏ tùy ý chỉ điểm, cùng ở chung vị trí với mọi người, thụ thương khắp nơi trên cơ thể, không gì không gánh chịu. Cơ may sống sót nhờ đó đã thu hút được sự tự nguyện gia nhập của chúng quân sĩ.

Qua lại bốn năm lần, Lương Tiêu từ trong cảnh cực kỳ hỗn loạn, đem một đội quân đang lúc thảm bại tan rã một lần nữa tập hợp lại mạnh mẽ, hơn hai ngàn người gầm thét hú dài, tất cả đều trông theo sự chỉ đạo của hắn. Khâm Sát quân vốn lợi hại như thế nào, mới rồi chia rẽ tự nhiên dễ dàng bị khi dễ, lúc này có thủ lĩnh, nghìn lòng như một, ai nấy đều có thể lấy một địch mười, bọn họ chưa bao giờ chịu qua sự thất bại như thế, lửa giận bên trong thiêu đốt, nghe theo hiệu lệnh của Lương Tiêu, tả xung hữu đột, liều mình truy giết.

Lương Tiêu xem trận thế địch, thấy binh mã Tống quân di động như muốn lệch ra hai bên sườn núi, liền lệnh Khâm Sát quân tản ra hai cánh, ngăn trở Tống quân bất ngờ tập kích, lại lệnh cho Thổ Thổ Cáp lãnh đội tinh nhuệ binh vốn có, thừa dịp thì phi mã đột trận, xuyên thẳng vào nơi yếu hại của đối phương, lấy kình cung duệ tiễn (2) bắn chết mấy tên đại tướng của Tống quân. Ba ngàn Tống quân như rắn mất đầu, nhất thời tan rã, bị Khâm Sát quân đột phá qua lại, giết cho thây chất khắp nơi.

Lữ Đức thấy thế kinh hãi, tự thân lãnh bốn ngàn kỵ bộ xuất viện, gắng gượng cứu được hai ngàn tàn quân, còn hơn một ngàn người khác không ai may mắn thoát được. Lữ Đức lệnh quân vừa đánh vừa lui hướng thẳng về dưới tường thành.

Lương Tiêu biết pháo thạch của đối phương sẽ lập tức giáng xuống bèn gấp rút lệnh cho toàn quân triệt thoái về sau, đến khi điểm binh, gộp lại chỉ còn hơn bảy trăm người.

------------------------------

(1): sư binh gồm khoảng 2500 lính

(2)kình cung duệ tiễn: cung lớn tên nhọn

Côn Luân

Hán Thủy Kinh Đào

A Thuật vốn đã định lên ngựa xuất phát, nhưng đột nhiên thấy Lương Tiêu suất lĩnh chúng quân phá vây, thu thập bại quân, trong lòng kinh hỉ vạn phần, y rất tin tưởng vào khả năng của Lương Tiêu, lập tức nhảy xuống ngựa, trở lại soái đài. Lúc này chiến thuyền của quân Tống trước sau gặp nhau, đang lao ngược lên thượng lưu. Nguyên quân đại tướng Trương Hoằng Phạm cố gắng chỉ huy các chiến hạm cản trở; Thủy quân thống soái Lưu Chỉnh bày trận ở hai bên bờ, phát động máy bắn đá công kích vào hai cánh Tống quân. Nhất thời trên Hán thủy (1) pháo nổ ầm ầm, những mũi tên lửa tựa như châu chấu từ trên bờ bắn xuống tạo nên một cảnh tượng vô cùng hoành tráng.

Chiến hạm quân Tống ước chừng có khoảng ngàn chiếc, nhưng không phải tất cả đều là cự hạm kiên cố, có rất nhiều chiếc thuyền nhỏ nhẹ, thực ra là được cải tạo từ thuyền đánh cá mà thành; thuyền lớn thì lại ngập sâu trong nước, chứng tỏ đang chở đầy đồ nặng. Theo tình hình trước mắt, đội thuyền này không hề đồng đều, theo lí mà nói thì một đòn tất có thể đánh tan, nhưng thủy trận lại được xắp xếp rất đặc biệt, phía trước giống như cánh vịt trời, sau lại giống như đuôi cá chép, lúc thành hình vuông, lúc giống hình tròn, biến hóa vô cùng. Trương Hoằng Phạm mấy lần xua quân tấn công, nhưng người Tống lại thường đột nhập vào phía sau, tiếp đó hai mặt hợp nhất, đẩy hơn chục chiến hạm vào trong trận, những chiếc thuyền tiếp ứng đều bị cản lại ở vòng ngoài; tiếp đó Tống quân lại dùng thuyền nhẹ liên tục bắn tên lửa vào, sau khoảnh khắc đã phá tan những chiến hạm bị hãm trong trận. Nhất thời cánh thủy sư Tống quân này giống như một con cự kình, không ngừng há miệng thè lưỡi, nuốt hết thủy sư (2) Nguyên quân, ép đến gần mười sợi xích sắt ngăn giữa dòng sông.

Đúng vào lúc này, trong trận của Tống quân một bạch y nam tử đột nhiên giơ cờ lệnh lên, chỉ thấy một tráng hán khôi vĩ ở bên trái cùng một lão giả tóc trắng ở bên phải đang chỉ huy mấy chục nam tử trong tay cầm cự phủ (3) đi thuyền nhẹ từ trong trận ra, tất cả yểm hộ cho nhau, tiến vào giữa làn đạn đá của Nguyên quân, áp sát những sợi xích sắt. Cự phủ mãnh liệt bổ xuống, tiếng sắt thép va vào nhau loảng xoảng, hoa lửa bay loạn lên. Chỉ sau nháy mắt mười sợi xích sắt đã hoàn toàn bị chém đứt, trên Hán thủy không còn trở ngại gì nữa, thủy sư Tống quân nhất tề hoan hô, hết sức xông lên, thủy sư Tương Phàn cũng thừa thế thuận dòng đi xuống, nội ứng ngoại hợp giáp kích quân Nguyên.

A Thuật thấy tình thế bất diệu thì liền vội vàng hạ lệnh cho Trương Hoằng Phạm đưa quân lên thượng lưu cản trở thủy sư Tương Phàn. Lại lệnh cho đài pháo ở giữa sông dùng pháo lớn nỏ mạnh bắn ra, muốn phá tan thủy trận của Tống quân trước.

Đài pháo và mười sợi xích sắt ngăn giữa sông này là do Nguyên quân dựng lên năm ngoái. Sau khi Bá Nhan chiếm giữ phía nam Phàn Dương, để cản trở sự cứu viện của Tống quân đã lệnh cho quân lính đem hơn mười vạn cân (4) đá lớn từ trên núi xuống đổ xuống giữa sông, tạo nên cái đài cao một trượng này, bên trên đặt mười cỗ máy bắn tên, tám cửa đặt pháo lớn. Lại đặt bảy khối cự thạch trước đài, giăng ra mười sợi dây xích lớn, hình thành một thủy trận khổng lồ, cho dù Tống quân dựa vào chiến hạm lớn không sợ đạn đá thì cũng khó mà tiến tới gần đài được. Bá Nhan sắp đặt như vậy có thể nói là vạn vô nhất thất (5), sức mạnh của thủy sư Tống quân vốn ở trên Nguyên quân, nhưng từ năm ngoái trở đi, liên tục bị trận thế này cản trở, khó mà tiếp viện cho Tương Phàn.

Nguyên quân thủ trên đài nhận được hiệu lệnh của A Thuật liền lập tức nổ pháo. Nhất thời tên to đá nặng cùng bay ra ào ào, chiến hạm của Tống quân ở phía trước bị phá vỡ rất nhiều, Nguyên quân thấy vậy thì hoan hô đến rung trời lở đất.

Lương Tiêu chỉnh đốn xong đám bại binh, hạ lệnh phòng thủ nghiêm mật đề phòng quân Tống trong thành tấn công ra. Đột nhiên nghe thấy tiếng hô ầm ầm trên sông, không biết đã phát sinh chuyện gì, hắn đoán Lữ Đức sau trận chiến này quyết không dám xuất kích một lần nữa nên phân phó cho bách phu trưởng chỉ huy quân đội, tự mình cùng với Dương Các thúc ngựa tiến về soái đài báo cáo tình hình với A Thuật.

Khi Lương Tiêu đi đến vừa kịp thấy pháo đài giữa sông phát uy, chiến thuyền Tống quân bị phá nát, Lương Tiêu lên đài chào hỏi A Thuật và báo cáo tình hình, A Thuật nghe xong liền cười khổ một tiếng, vỗ vai hắn gật đầu nói: “Ta biết rồi, may mà có ngươi…” Nhưng lúc này chiến sự kịch liệt, không để cho y có thể nói nhiều, đột nhiên thấy phía trước Tống quân lõm vào, thủy sư trận thế biến thành hình chữ nhất, giống như rắn nước bơi lội, miệng rắn mở rộng, lúc đóng lúc khép, biến hóa vô cùng. Không chỉ đạn pháo hai bên bờ của Nguyên quân khó lòng bắn trúng mà ngay cả pháo đài phía trước cũng không làm gì được. Lương Tiêu tỉ mỉ quan sát rồi kinh ngạc nói: “Thủy Cầm Ngư Long trận.” A Thuật ngạc nhiên nói: “Ngươi biết trận thế này?”

Lương Tiêu gật đầu nói: “Nguyên lý của trận này dựa theo ngũ hành, trận thế theo hình thủy điểu, thủy xà, thủy ngư (6) mà biến, phía trước biến hóa đặc biệt ảo diệu, giống như mồm cá, môi rắn, mỏ chim, từ từ thôn phệ binh mã đối phương vào trong, lại mai phục tinh binh ở giữa trận để tiêu diệt. Ngày đó ta thấy qua biến hóa của trận này trong cuốn 'Ngũ Hành Thuyên Binh', nhưng chưa từng thấy người khác dùng qua. Trong sách có viết: 'Trận này biến hóa thong thả, không lợi khi đánh nhau trên mặt đất, thích hợp với thủy binh.' Lời này bao hàm đại trí đại tuệ của những vị tiên hiền trung thổ, A Thuật không thông số thuật, chẳng thể hoàn toàn hiểu hết, nhưng nghe những lời Lương Tiêu nói và sự biến hóa của trận thế trước mắt này rất giống nhau, vui mừng nói: “Như vậy là có cách phá trận này?”

Lương Tiêu quan sát trận thế Nguyên quân rồi lắc đầu nói: “Trận này phía trước biến hóa vô cùng, không thể chính diện tranh đấu cùng nó, chỉ có thể luồn ra sau lưng địch rồi mới có cách phá trận. Nhưng hiện nay thủy sư đã lùi đến thượng du, khó có thể thuận lưu đi xuống. May mà có thạch đài giữa sông, có thể cản trở bọn chúng.” Vừa dứt lời, đột nhiên thấy hai chục khoái thuyền (7) từ trong thủy trận của Tống quân lao ra, xếp hành hình cánh quạt, mau chóng xông đến thạch đài, tựa hồ muốn dùng sức mạnh leo lên, Nguyên quân sao có thể để cho bọn họ thành công, đạn đá bắn ra ào ào, loáng cái đã đánh chìm hai chiếc thuyền.

Trong chốc lát, hai chục khoái thuyền đã bị hủy đi quá nửa, Lương Tiêu đột nhiên cảm thấy không đúng, hắn nhíu mày nói: “Giỏi lắm! Vờ sửa sạn đạo, ngầm vượt Trần Thương ư?” A Thuật không biết đến điển cố này, nghe vậy liền kinh ngạc nói: “Là ý gì vậy?” Lương Tiêu chỉ về phía sau những chiếc khoái thuyền nói: “Anh xem đằng kia kìa!”

A Thuật định thần nhìn kĩ, chỉ thấy một chiếc thuyền lớn, bên trên mang theo một cỗ máy bắn tên, từ từ tiến theo sau những chiếc khoái thuyền, thừa cơ khoái thuyền hấp dẫn sự chú ý của quân Nguyên mà tiến về phía thạch đài. Trên thuyền, một người thân mang bạch y, tay cầm sào trúc lao ra, chính là bạch y nam tử chỉ huy biến trận vừa rồi. Người này thân pháp nhanh như điện, nhảy lên cao chừng năm thước, hướng về máy bắn tên, chân vừa chạm xuống lập tức năm binh sĩ Tống quân đồng thời buông sợi dây cung khổng lồ đã được kéo căng, bạch y nam tử kia giống như một mũi tên bắn thẳng đến thạch đài giữa sông. Đúng vào lúc này, Lương Tiêu đột nhiên nhìn thấy khuôn mặt của bạch y nam tử kia, hắn tức giận gầm lên: “Là hắn!” Bạch y nam tử này chẳng phải ai xa lạ, chính là Vân Thù.

Vân Thù mượn lực của dây cung bay thẳng lên không. Nguyên quân không ngờ y lại dùng chiêu này, vô cùng kinh ngạc, lập tức hò hét không ngừng. Chiến thuyền của Nguyên quân thủ ở bên đài, chúng quân đang kéo căng cung chờ bắn, vốn là để phòng bị Tống quân dùng khoái thuyền lên đài, thấy tình huống lúc này, loạn tiễn lập tức bắn thẳng vào Vân Thù như mưa.

Vân Thù thân ở trên không khua khoắng sào trúc kết thành một tấm đại thuẫn bao quanh ba trượng quanh mình, gạt hết những mũi tên bắn tới xuống dòng sông. Nhưng lực đẩy của dây cung cuối cùng đã quá yếu, Vân Thù tuy đã phải dùng đến sức của chính mình nhưng vẫn vô cùng khó khăn, bị loạn tiễn quấy rối, thế tiến bị trì hoãn, trong khi đó còn cách thạch đài giữa sông đến năm trượng, không thể tiến tiếp, y đành hạ xuống giữa sông. Cần phải biết lúc này dòng nước đã bị cự thạch cản trở nên lại càng trở nên mạnh mẽ, người rơi xuống nước là lập tức sẽ bị cuốn xuống hạ lưu. Tống quân mắt thấy việc chỉ còn thiếu chút nữa là thành công thì đều kinh hô một tiếng, Nguyên quân được thể hoan hô rầm trời, chấn động cả dòng sông.

Đúng vào lúc rơi xuống nước, sào trúc trong tay Vân Thù đột nhiên đưa ngang, tăng thêm độ dài cho cánh tay, không dài không ngắn vừa khéo chạm đến mép thạch đài. Tức thời nội kình của Vân Thù phát ra, rắc một tiếng, sào trúc chịu lực mà cong lại; Vân Thù dựa vào lực đàn hồi của cành trúc lật người nhảy lên, lăng không xoay người, thoáng cái đã tới được trên thạch đài, thân vừa tiếp đất lập tức dùng sào trúc xuyên qua hai binh sĩ Nguyên quân. Trên đài trừ những quân sĩ đang nổ pháo, hai đội thủ vệ mười người thấy vậy bèn vác đao cầm mâu lao đến tấn công y.

Vân Thù thét lớn một tiếng, giơ sào trúc lên, thế như hổ nhập đàn dê, tuy chỉ là một cành trúc nhưng đến tay y lại giống như trường thương đại kích, đánh đến một thân bạch y đã chuyển thành màu huyết hồng. Không đến thời gian một tuần trà, Nguyên quân trên thạch đài đã chết quá nửa. Tông quân lại nổ pháo trợ uy, dùng Thủy Xà trận mà tiến lên.

Trương Hoằng Phạm thấy vậy vội vã thôi thúc bắn đạn đá lên đài, tên đạn lao đến thạch đài như mưa. Nhưng không ngờ những đống đạn đá trên đài vốn để nổ pháo lúc này lại thành nơi ẩn nấp cho Vân Thù. Vân Thù sau khi tránh vào đó lại tiếp tục xông ra xung sát. Qua vài lần như vậy, Tống quân thủy sư đã tiến tới trước thạch đài, Tương Dương thủy sư đã thúc quân tấn công, Nguyên quân sau lưng thụ địch, lập tức phải hãm nhập vào khổ chiến.

A Thuật không ngờ trong Tống quân lại có một nhân vật như vậy, trong lòng kinh dị vô cùng. Lúc này thạch đài đã bị vây hãm, trừ liều chết ngăn cản thì đã chẳng còn cách nào khác, y hạ lệnh nổi trống lên trợ giúp uy thế cho thủy quân. Lúc này, đột nhiên nghe thấy Dương Các kinh hô: “Lương đại ca!” A Thuật quay người lại, nhìn về hướng mục quang Dương Các đang hướng tới, thấy Lương Tiêu đang thúc ngựa dọc theo bờ sông, A Thuật ngạc nhiên nói: “Anh ta muốn làm gì vậy?” Dương Các nói: “Người mặc áo trắng đó là thù nhân của chúng tôi, hắn bày kế giết hết đội vận lương, hại chết huynh đệ của chúng tôi!”

A Thuật nhíu mày nói: “Thì ra là vậy.” Lời còn chưa dứt đã thấy sau khi Lương Tiêu giục ngựa chạy được trăm trượng thì đột nhiên xoay người lại, thúc ngựa lao thẳng đến bờ sông. Chúng nhân không hiểu hắn có ý gì, lại thấy hắn ghìm ngựa lại, chiến mã bị đau hí dài một tiếng, chân sau chống mạnh xuống đất, nhảy chồm lên không, vượt qua đầu Nguyên quân mà phi thẳng vào Hán giang.

Chú thích:

(1) Thủy ở đây nghĩa là sông, Hán thủy là sông Hán.

(2) Thủy quân

(3) Búa lớn hoặc rìu lớn

(4) Cân ngày xưa, bằng 0,5kg

(5) Không thể có sơ xảy

(6) Xà: rắn, điểu: chim, ngư: cá.

(7) Khoái thuyền: Thuyền nhỏ nhẹ, chạy nhanh

Phải biết tự cổ danh mã không ngoài “Đại Uyển”, “Nguyệt Chi”. Nhưng hai nước này đều nằm trên dãy Khâm Sách, “Sử Kí Chính Nghĩa” có đoạn: "Ngoại quốc xưng thiên hạ hữu tam chúng, Trung Quốc vi nhân chúng, Đại Tần (La Mã cổ) vi bảo chúng, Nguyệt Chi vi mã chúng." Ý của câu này là: "Trung Quốc nhân khẩu đông nhất, Đại Tần nhiều trân bảo nhất, Nguyệt Chi là có nhiều ngựa tốt nhất." Vì vậy mấy tuyệt thế danh câu như Hãn Huyết mã, Yên Chi mã đều có xuất xứ từ Khâm Sách. Con ngựa này của Lương Tiêu tuy không phải là vạn con chọn một nhưng cũng là nghìn con chọn một, thần tuấn phi phàm, huống chi lại mượn thế bổ nhào xuống, trong khoảnh khắc đã vượt qua mười trượng, rơi xuống chiến thuyền của Nguyên quân trên sông, chiếc thuyền đó bị mãnh lực này ấn xuống khiến chút nữa thì lật nhào, quân sĩ trên thuyền đều lảo đảo đứng không vững. Ngựa của Lương Tiêu không hề dừng lại, tiếp tục nhảy tới những chiến thuyền khác. Sau khoảnh khắc, hắn mượn chiến thuyền của Tống quân làm chỗ đặt chân rồi lại thúc ngựa nhảy đi giống như là đi trên bình địa, trong khoảnh khắc đã đến gần thạch đài giữa sông. Thủy sư Tống quân thấy vậy vừa mừng vừa sợ, đồng thanh hô lên.

Vân Thù đang cùng quân Nguyên kịch đấu, huy động sào trúc sâu Nguyên quân thành một sâu, đột nhiên thấy một âm thanh vang lên, vừa quay đầu nhìn lại, trước mặt chợt tối đen, một chiến mã từ trên không rơi xuống, Vân Thù cấp tốc xoay người, một sào xuyên qua bụng ngựa, con ngựa đó kêu thảm một tiếng rồi rơi xuống như sao băng.

Lương Tiêu chống tay lên lưng ngựa, nhảy vọt lên không, tay cầm trường thương hướng về hướng Vân Thù lăng không lao tới, Vân Thù giơ sào đâm lên, Lương Tiêu chuyển thân tránh qua, hoa thương (1) trong tay vạch đến, trong thoáng chốc đã xuất ra mấy nhát, đẩy sào trúc ra, đâm thẳng tới Vân Thù.

Vân Thù thấy người tới thương pháp tinh diệu, trong lòng hoảng sợ, nhìn kĩ lại thì không khỏi kinh ngạc mà tức giận hét lên: “Ác tặc! Là ngươi?” Hoành ngang sào trúc ngăn cản trường thương, y lập tức khôi phục thần sắc. Hai người kẻ thù gặp nhau, mắt đỏ ngầu lên, nhất thời trổ hết tài nghệ lao vào kịch đấu.

Trương Hoằng Phạm thấy Vân Thù gặp phải đối thủ, cũng chẳng thèm quan tâm đến sự sống chết của Lương Tiêu, vội vã lệnh cho Nguyên quân bắn tên, đoạt lại thạch đài. Hai ngươi trên đài chỉ đành xoay người tránh né. A Thuật vội vã truyền lệnh Trương Hoằng Phạm không được bắn tên. Trương Hoằng Phạm trong lòng kinh ngạc, nhưng cũng chỉ đành phụng mệnh, Lương Tiêu và Vân Thù thấy tên đã ngưng lại lập tức lao vào nhau kịch đấu, chỉ thấy sào ảnh trầm ổn, hoa thương bay bổng, hai bên tiến thoái nhanh như thiểm điện, hai quân Tống Nguyên xem đến hoa cả mắt, hò hét ầm ầm trợ uy cho người phe mình.

Đấu được hai ba chục hiệp, sào trúc của Vân thù vừa dài vừa lớn, thạch đài lại nhỏ hẹp, thi triển không tiện; hoa thương của Lương Tiêu linh động, chiêu số chiếm được thượng phong, nhưng hắn nội thương vừa khỏi, kình lực bị giảm đi nhiều, nhất thời hai người cứ giằng co không phân cao thấp.

Vân Thù sau khi chiếm được thạch đài, Cận Phi thay y chỉ huy quân đội, nhưng “Thủy Cầm Ngư Long trận” chỉ có Vân Thù hiểu rõ biến hóa. May mà đã diễn luyện thỏa đáng, Cận Phi cứ theo vậy mà làm, miễn cưỡng có thể ứng phó được, nhưng bị Nguyên quân mấy lần thuận lưu đánh thốc xuống, trận cước đã hơi rối loạn, Phương Lan vội vàng nhảy lên thuyền nhẹ xông đến thạch đài, từ xa kêu lớn: “Thù nhi mau trở lại, sư huynh ngươi ứng phó không nổi rồi.”

Vân Thù nghe vậy thì kinh hãi, đâm nhanh ra mấy sào bức lùi Lương Tiêu rồi đột nhiên nắm chặt lấy sào trúc nhảy vọt lên, chống mạnh cành trúc xuống đất, cành trúc cong lại, vù một tiếng, Vân Thù mượn lực cành trúc bay ra xa mười trượng rơi xuống một chiếc thuyền. Lương Tiêu không có loại dụng cụ này, chẳng thể mượn lực, chỉ đành trừng mắt nhìn Vân Thù lên thuyền tiến vào trong trận của Tống quân, trong đầu chợt lóe lên ý tưởng dùng pháo nỗ (2) đối phó, nào ngờ Vân Thù đã sớm dùng nội kình kích nát tất cả tay cầm của pháo nỗ rồi, nhất thời khó mà sửa chữa.

Vân Thù trở về bên quân mình lập tức nổi trống biến trận. Đội thuyền phía trước của Tống quân tách làm hai nhánh, biến thành “Song Đầu Ngao trận” vượt qua thạch đài giữa sông tiến lên phía trên. Lương Tiêu mấy lần muốn nhảy lên thuyền của Tống quân, nhưng Phương Lan đã có phòng bị, lệnh cho thuộc hạ bắn tên ngăn cản. Lương Tiêu mấy lần xung sát nhưng đều khó mà đến gần, lại thấy nội phủ ngầm đau đớn, trong miệng mằn mặn, tự biết nội thương phát tác, chỉ đành trở lại sau đống đạn đá, thở gấp từng hồi.

Tiếng trống của Tống quân như sấm động vang lên, vượt qua thạch đài lưỡng quân hợp nhất biến thành “Tê Tượng trận” phía trước sắc nhọn, hai cánh chắc chắn. Biến hóa tinh vi ở chỗ giống như bạch tê vượt sông, không hề lưu lại dấu tích, đó có thể nói là biến hóa lăng lệ nhất trong “Thủy Cầm Ngư Long trận”. Nguyên quân bị trận này xông đến, lập tức rối loạn, Tống quân tiến lên phía trên được hai dặm đường thủy thì gặp thủy quân Tương Phàn, hai cánh quân hợp nhất, thanh thế tăng lên bội phần.

Lữ Đức trên thành thấy vậy thì vô cùng mừng rỡ, vội quay lại phát hiệu lệnh thừa thế tấn công, muốn một đòn tiêu diệt sạch cánh quân Nguyên này, phá vỡ triệt để vòng vây ở phía nam. Sau khoảnh khắc, chỉ nghe hồi trống nổi lên, Tống quân ‘phản khách vi chủ’ (3), từ phía trên thượng lưu tiến xuống, Nguyên quân không ngăn cản nổi lập tức chạy xuống hạ lưu.

A Thuật thấy tình thế nguy cấp, vội lệnh cho Lưu, Hoằng ở hai bên bờ nổ pháo oanh kích, nhưng hiệu quả rất nhỏ, chỉ đành lập tức cho người về báo với Bá Nhan. Bá Nhan được tin bèn cùng với A Lí Hải Nha dẫn hai cánh bộ quân tấn công Tương Dương, lại truyền lênh cho Sử Thiên Trạch dẫn thủy quân trên thượng du thuận lưu công kích quân Tống, muốn kềm chân Tương Phàn thủy sư, bức họ trở lại.

Lữ Đức thấy vậy bèn lệnh cho quân Tống thủ vững thành trì và hướng dọc theo tường thành nổ pháo, hai mặt cùng oanh kích thủy quân của Sử Thiên Trạch, cùng với binh sĩ ở trên cầu nổi nối giửa hai thành dùng pháo nỗ công địch. Trong trận chiến này, Tống quân dùng đến thứ vũ khí Nguyên quân nghe đến là mất vía, đó là “Phi Hỏa Thương” và “Chấn Thiên Lôi”. “Phi Hỏa Thương” là dùng mồi dẫn lửa bên trong hỏa thương, có thể bắn xa hơn mười trượng, xuyên qua khôi giáp làm bằng tinh thiết; “Chấn Thiên Lôi” là dùng thùng sắt chứa đầy hỏa dược, chỉ cần đốt lửa, trong vòng nửa mẫu (4) người và súc vật sẽ đều bị nát vụn. Chỉ nghe thấy tiếng nổ vang lên ầm ầm trên sông, mấy chục vạn thủy lục đại quân Tống Nguyên đều không màng sống chết, chém giết đến trời long đất lở trên đất Phàn Dương.

Thủy quân của Sử Thiên Thạch bị Tống quân ba mặt ngăn cản, chiến hạm bị Chấn Thiên Lôi ném trúng là lập tức vỡ vụn, hắn bất đắc dĩ phải kéo quân tránh lên thượng du. Thủy quân Tương Phàn không còn nỗi lo phía sau bèn thuận lưu tấn đánh xuống, bộ thuộc của Trương Hoằng Phạm binh bại như núi đổ, bốn phía đều trở nên tán loạn.

Mắt thấy Nguyên quân bại cục đã định, chợt thấy đài pháo giữa sông phát ra tiếng động, một viên đạn đá lớn bay vào thủy trận của quân Tống, bắn chìm luôn một chiến hạm. Nguyên quân phấn chấn tinh thần, quay đầu nhìn lại, thấy Lương Tiêu đã hồi phục khí lực, đang đổi sang một máy bắn đá khác phát ra một viên đạn đá lớn nữa, trúng luôn vào một chiếc thuyền của Tống quân.

Thì ra Lương Tiêu nhân lúc hai bên đại chiến, xem xét xem mấy cỗ pháo nỗ bị tổn hại ra sao. Vân Thù tuy phá hủy tay cầm nhưng những bộ phận khác lại không bị tổn hại. Lương Tiêu với cơ giới vô cùng tâm đắc, lấy đao kiếm chẻ lấy mấy chiếc đinh, sửa chữa một đám pháo nỗ, lắp thêm tên đạn vào nổ pháo. Trương Hoằng Phạm thấy vậy vội hạ lệnh cho mấy chục Nguyên quân lên thuyền tiến về thạch đài, trợ giúp Lương Tiêu.

Vân Thù thấy vậy lại dùng cách cũ muốn lên thạch đài. Lương Tiêu giả vờ không biết để y đến gần sau đó phát động nỗ pháo bắn nát chiếc thuyền, mấy người Vân Thù đều rơi xuống nước, Lương Tiêu lại hạ lệnh nổ pháo, Vân Thù vội vàng lặn vào trong nước, nhưng vẫn bị một viên đạn đá đập trúng lưng, lập tức miệng thổ máu tươi. Phương Lan vội vàng dẫn mấy chiếc thuyền tới liều chết cứu y lên. Vân Thù thương thế không nhẹ, chỉ đành quay vào trong trận, Lương Tiêu thấy y thoát chết trong gang tấc thì luôn miệng kêu đáng tiếc.

Lúc này Trương Hoằng Phạm chỉnh đốn lại bại binh lao đến. Thủy quân Tống Nguyên đại chiến trên sông, chiến đấu vô cùng kịch liệt. Lương Tiêu sửa chữa xong pháo nỗ, chỉ huy nổ pháo, tức thời mười bảy cỗ pháo nỗ đồng thời phát ra, đại hiển thần uy, chiến thuyền Tống quân vỡ nát vô số. Nguyên quân phấn chấn tinh thần, mỗi lần trên thạch đài nỏ pháo là quân sĩ lại theo đó hô lên, tăng thêm thanh thế.

Lữ Đức thấy tình thế bất diệu liền vội lệnh cho thủy quân trở lại thượng du. Trương Hoằng Phạm truy kích đến dưới chân hai thành Tương Phàn mới từ từ thu binh.

Trường ác chiến này, đánh từ sáng cho tới khi mặt trời lặn về phía tây, song phương thủy công lục chiến, đều là có thắng có bại, mấy lần xoay chuyển, Nguyên quân tổn thất trầm trọng, từ khi vây khốn Tương Phàn đến giờ chưa từng xảy ra chuyện như vậy. Khâm Sát kị binh của Hợp Xi Man và thủy quân người Hán của Trương Hoằng Phạm được xưng là Nguyên quân thủy lục song hùng hôm nay lại bị thảm bại, ba Thiên phu trưởng của Khâm Sát Quân đông thời chết dưới chân thành Tương Dương. Người Tống vốn cũng tổn thất không nhẹ, nhưng Vân Thù đã phá tan được xích sắt ngăn sông, dùng nghìn chiếc thuyền phá tan vòng vây, chiếm được vô số lương thảo và dụng cụ công thủ đem vào Phàn Dương, có thể nói là được mất đủ bù cho nhau, nếu xem xét kỹ có thể nói là Nguyên quân đã bại.

Từ khi Bá Nhan giữ soái ấn của Nguyên quân tới giờ, Tống quân ở Tương Phàn liên tục bị thua, sĩ khí xuống thấp thê thảm, đến hôm nay mới được xả ra nỗi bực tức bấy lâu. Mắt thấy Trương Hoằng Phạm phải lùi lại, Tương Dương thành vô cùng vui vẻ. Lữ Đức giáp không kịp cởi, ra ngoài thành nghênh tiếp, nhìn thấy Cận Phi liền cười lớn: “Tốt lắm, ngàn mong vạn mong, cuối cùng cũng chờ được các vị tới rồi! Ngươi là bộ hạ của ai mà lợi hại như vậy!” Cận Phi chắp tay làm lễ nói: “Chúng tôi không phải là quan quân, chỉ là nghĩa quân do Lí Đình Chi đại nhân triệu tập.” Lữ Đức vô cùng kinh ngạc, nhíu mày nói: “Thảo nào quân đội của các ngươi còn có thuyền đánh cá. Ài! Phạm Văn Hổ, Hạ Quý quân tinh nhuệ mười vạn, chiến hạm vài nghìn, mấy lần tiến đến cũng chẳng được tích sự gì. Lần trước đến, vừa đánh thấy bất lợi thì đã chạy trốn mất hút rồi, làm binh mã của ta trước sau thụ địch, bị A Thuật đánh cho manh giáp cũng không còn, ‘tang sư nhục quốc’ (5) cũng chỉ đến thế này thôi!” Ông ta thở dài một hơi rồi nói: “Hậu Phương tình thế ra sao?” Cận Phi còn chưa kịp hồi đáp thì Vân Thù đột nhiên nói: “Tình thế hậu phương, có thể miêu tả bằng bài từ này!” Lữ Đức ngạc nhiên nói: “Bài từ nào? Nói ra nghe xem!”

Chú thích:

(1): Loại thương có tua ở phần mũi, hình bên dưới!

(2): Máy bắn đá

(3): Đổi khách thành chủ

(4): Một mẫu bằng 666,67 mét vuông

(5): Quân đội bị tổn thất, quốc gia bị sỉ nhục

Côn Luân

Hán Thủy Kinh Đào (2)

Vân Thù hừ lạnh một tiếng rồi cao giọng ngâm: “Tương Phàn tứ tái lộng can qua, bất kiến ngư ca, bất kiến tiều ca, thí vấn như kim sự như hà? Kim dã tiêu ma, cốc dã tiêu ma. Thác Chi bất dụng vũ bà sa, xú dã năng đa, ác dã năng đa! Chu môn nhật nhật mãi chu nga, quân sự như hà? Dân sự như hà?”

Dịch nghĩa:

Tương Phàn tứ phía động can qua, chẳng thấy tiếng ngư dân hát, tiếng tiều phu ca. Thử hỏi bây giờ chuyện ra sao? Vàng cũng thành không, cốc cũng thành không. Thác Chi không cần nhảy múa, xấu cũng có thể có nhiều, ác cũng có thể có nhiều! Nhà giàu ngày ngày mua son phấn, quân sự ra sao? Dân sự ra sao?” (Thác Chi vũ: một điệu múa cổ truyền có nguồn gốc từ Tây Vực, lưu truyền rất rộng rãi ở đời Đường)

Dịch thơ:

Bài này là của bạn Hậu:

Tương Phàn bốn phía động can qua

Chẳng thấy ngư tiều cất tiếng ca

Người xưa chẳng biết còn hay mất?

Bạc vàng thức uống chẳng ngó qua!

Thác Chi người hỡi đành để ngỏ

Xấu ác người đời cứ phô ra

Lũ giàu sang ngập chìm nhung lụa

Chính sự, dân đen chẳng ngó màng

Còn đây là của I&M:

Tương Phàn ơi, bốn phía can qua

Chẳng thấy tiều, ngư tiếng hát ca

Muốn hỏi thế gian sao thảm thiết

Vàng không, thóc gạo cũng lùi xa

Thác Chi điệu ấy còn đâu múa

Gian, xấu nơi nơi lắm ác tà

Giàu có đắm chìm son phấn lụa

Quân, dân thế sự biết ra sao?

Bài từ này nói rõ ràng sự thờ ơ không quan tâm tới sự an nguy trên tiền tuyến của giới quyền quý hậu phương, vẫn sống mơ mơ màng màng, tham hoang vô sỉ. Sau khi được Vân Thù ngâm lên, mọi người trên cầu nổi đều có thể nghe thấy, từ Lữ Đức trở xuống, tướng sĩ Tống quân đều lộ ra thần tình tuyệt vọng. Cận Phi thấy tình thế không hay bèn tức giận nói: “Vân Thù, bài từ sai lệch này chẳng qua là những lời tào lao của văn nhân Cùng Toan, đâu có chính xác, sao có thể nói ra làm loạn lòng quân?” Vân Thù hừ lạnh một tiếng quay đầu đi.

Lữ Đức lắc đầu cảm thán: “Thôi, những chuyện này vốn không hỏi cũng biết, các hạ đừng tức giận!” Nói đoạn nhìn về phía quần hào lên tiếng: “Các vị dùng sức của mấy nghìn người lập nên công lao của mấy chục vạn đại quân, đúng là đáng để kinh ngạc, đáng để kính phục, các phụ lão ở Tương Phàn cảm kích vô cùng. Các vị hào kiệt, xin nhận của Lữ Đức một lạy.” Nói xong bèn như muốn quỳ xuống. Cận Phi cả kinh, vội vàng tiến lên đỡ lấy: “Đại nhân đừng như vậy, ngài tử thủ Tương Phàn, dựa vào hai thành trì nhỏ bé này chống lại hai chục vạn quân Nguyên mới đáng khiến người ta kính phục vô cùng.“ Lữ Đức cũng chỉ là làm bộ vậy, đã liệu trước đối phương nhất định sẽ đến đỡ. Lúc này bèn đứng dậy luôn, cười lên ha hả, truyền lệnh mở đại yến mừng công. Lần này nghĩa quân mang theo rất nhiều giáp trụ và lương thảo, bách tính trong thành vô cùng mừng rỡ, trong thành đốt đèn hoa, vui mừng một trận.

Lúc này, trong Khâm Sát đại doanh lại vang lên tiếng khóc rầm trời. Nguyên quân dùng thi thể Tống quân trao đổi lấy thi thể của mấy người bọn Hợp Xi Nhan. Hơn hai nghìn Khâm Sát quân ôm lấy những thi thể bừa bộn của đồng bào, khóc rống lên như những đứa trẻ. Lương Tiêu trong lòng cảm thấy thê lương không nỡ nhìn xuống, ra khỏi Khâm Sát doanh. Nghĩ đến A Tuyết, đang muốn tới doanh trại của A Lý Hải Nha thăm nom, đột nhiên thân binh của A Thuật chạy tới truyền hắn vào soái trướng.

Lương Tiêu lên ngựa đi đến trước đại soái trướng trung quân, thấy có hơn mười lạt ma đang ngồi giữa khoảng đất trống trước trướng, tay cầm ống tròn, miệng niệm kinh văn, mấy chục ngọn đèn đang đốt bằng một loại dầu kì lạ phát ra những hương vị đặc biệt. Lương Tiêu trước kia cũng thấy qua những nghi thức này, biết bọn họ đang siêu độ vong linh, lòng không ngừng suy nghĩ: “Người sau khi chết còn có vong linh không? Nếu như cha, Tam Cẩu trên trời linh thiêng, liệu có nghe được lời ta nói, nhìn thấy việc ta làm không?” Nhưng nghĩ tới chuyện quỷ thần chỉ là vô căn cứ, buồn bã thở dài một hơi, tiến vào trong trướng.

Soái trướng rất lớn, có hai ngon đèn mỡ trâu đang thắp nhưng vẫn mờ mịt. Mọi người đều ngồi xếp bằng bên trong, liếc mắt nhìn qua, thấy đều là trọng thần đại tướng. Chúng nhân nhìn thấy Lương Tiêu bước vào thì đều liếc xéo. Lương Tiêu hành lễ xong, Bá Nhan gật đầu nói: “Ngươi ngồi phía sau Lan Á hỏa giả (1).” Lương Tiêu đưa mắt nhìn đi, thấy Lan Á ngồi ở sau cùng bên trái, ngồi bên cạnh nàng là một lão giả người hồ mắt xanh, râu đen, đầu quấn khăn trắng, trường bào trắng xóa. Lan Á thấy hắn đến, thần sắc lãnh đạm. Lương Tiêu cũng không nói gì, xếp bằng ngồi xuống.

Chúng nhân lặng yên không nói, không khí trong trướng vô cùng trầm trọng. Qua một hồi, Bá Nhan mới từ từ cất tiếng: “Hiện nay xích sắt đã đứt, viện quân cũng đã vào thành, lông cánh của Phàn Dương thành cũng cứng, các ngươi không có gì để nói sao?” A Thuật liền nói: “Đều là do tôi chỉ huy sai lầm, xin nguyên soái trách tội.” Bá Nhan hừ lạnh một tiếng: “Trương Hoằng Phạm thua còn có thể chấp nhận! Đối phương có trận pháp đặc biệt, ngươi chưa nhìn qua, chẳng thể phá giải. Nhưng Khâm Sát quân thì sao? Những người râu rậm mắt xanh đó đã bị ngươi chiều chuộng thành ra sao rồi? Trong cổ họng chúng đều bị mắc xương trâu, không cúi xuống được nữa rồi? Hợp Xi Man đó, đường đường thiên phu trưởng, không ngờ lại bị mỡ trâu che mắt, không chịu nghĩ ngợi gì đã xông vào Tương Dương. Nếu Tương Dương dễ đánh như vậy chúng ta cần gì phải phí nhiều công phu để vây khốn thế? Hắn cho rằng hắn là ai, là Thành Cát Tư Hãn sao?”

A Thuật mồ hôi tuôn ra như mưa, chẳng dám nói gì. Sử Thiên Trạch đứng dậy mở lời: “Đại nguyên soái, để tôi nói mấy câu. Khâm Sát quân tuy ngang ngược kiêu ngạo, nhưng cũng có những chỗ lợi của nó. Đối thủ mỗi lần gặp phải khí thế đó, tự nhiên ba quân bị mất khí thế, không đánh mà tan; A Thuật đại nhân dung túng bọn họ là không muốn làm bọn họ mất đi cái khí thế dũng mãnh đó mà thôi.” Bá Nhan suy nghĩ một chút rồi gật đầu nói: “Ngươi nói cũng có đạo lý! A Thuật, ngươi đứng dậy đi!” A Thuật lúc này mới ngồi về nguyên vị. Bá Nhan nói: “Binh pháp của người Hán nói: ’Kiêu binh tất bại’, tuy không phải hoàn toàn chính xác nhưng cũng rất có đạo lí. Binh sĩ có thể kiêu ngạo, nhưng tướng lĩnh thì phải bình tĩnh. Binh sĩ xung phong sát địch tất phải có khí thế mạnh mẽ, nhưng tướng quân lại cấn phải tỉ mỉ xem xét, trong loạn cục phải tìm ra cơ hội chiến thắng kẻ địch.” A Thuật gật đầu công nhận. Bá Nhan lại hỏi: “Hiện nay Khâm sách quân còn lại bao nhiêu?”

A Thuật nói: “Theo như bách phu trưởng Lương Tiêu kiểm kê, còn hai nghìn hai trăm ba mươi sáu người.” Bá Nhan nói: “Hiện nay đại quân tụ tập, binh mã bộ hạ của ngươi càng ngày càng đông, cũng càng ngày càng không chuyên tâm rồi. Thường có lời rằng, một người khi giết trâu thì không thể đi xe lông cừu được! Thất bại ngày hôm nay chính là như vậy, nếu ngươi tự mình dẫn quân thì sao có thể thua như vậy? Ừm, Ngươi có nhân tuyển thích hợp chỉ huy đội quân râu rậm chưa?” A Thuật lặng yên không nói. Bá Nhan lại hướng về các tướng hỏi: “Ai có thể thống lĩnh bọn họ?” Nhất thời trong trướng không có tiếng động nào, Sử Thiên Trạch khẽ ho một tiếng rồi nói: “Khâm Sách quân cậy công tự phụ, bài trừ người ngoài. Đừng nói tướng lĩnh Sắc Mục, cho dù là tướng lĩnh Mông Cổ bình thường thường cũng không thể làm cho bọn họ phục tùng. Trừ phi là những bậc anh kiệt Mông Cổ công lao cái thế như đại nguyên soái hay A Thuật đại nhân, mới có thể chỉ huy bọn họ.” A Thuật tiếp lời nói: “Chắc gì đã là thế, đám kỵ binh này tuy kiêu ngạo nhưng lại khâm phục cường giả, rất thích nói đến nghĩa khí. Nếu có người có thể dùng bản sự chế phục bọn họ, lại có ân cứu mệnh với bọn họ, chế ngự bọn họ cũng dễ như trở bàn tay thôi.”

Chúng nhân nghe đến sững sờ, nhao nhao nhìn vào Lương Tiêu. A Thuật đứng dậy, cao giọng nói: “Tôi đề cử bách phu trưởng Lương Tiêu đảm nhận thống soái Khâm Sách quân.” Lương Tiêu nghe xong thì cả kinh, trong trướng lại càng ồn ào, đại tướng quân A Lạt Hãn Cao cất tiếng: “Sao có thể như vậy? Y vừa tới được một tháng.” Lưu Chỉnh cũng lên tiếng: “Kinh nghiệm của y quá ít, hôm nay tuy lập được đại công nhưng để làm thống soái một quân thì vẫn còn chưa đủ.” Sử Thiên Trạch cũng trầm giọng nói: “Không sai, y tuổi còn quá nhỏ, khó đảm đương trọng trách.” Nhất thời trừ A Thuật và A Lý Hải Nha ra, gần như mọi người đều nói là không được. Nguyên do rất đơn giản, các tướng thân kinh bách chiến, công lao vô số mới có được địa vị ngày hôm nay. Lương Tiêu chẳng qua chỉ vừa mới tới, luận về tư cách có lau giầy cho bọn họ cũng không đáng, làm sao có thể làm thống soái của đạo kị binh tinh nhuệ nhất trong Nguyên quân được? Như vậy mà nói há chẳng phải là cá chép vượt long môn, cùng với những trọng thần danh tướng ở đây ngồi ngang hàng hay sao. Tự nhiên ai cũng không thể cam tâm rồi.

A Thuật đợi các tướng lĩnh trong trướng yên ổn trở lại mới cười lạnh nói: “Vậy thì tốt thôi! Các vị đều nói không được. Ta hỏi các vị, ai có thể dùng sáu người sáu ngựa xung phá trùng vây của ba nghìn Khâm Sách quân? Ai có thể chấn chỉnh lại Khâm Sách quân trên bờ vực thất bại đây? Ai có thể nhận biết thủy trận mà hôm nay Tống quân sử dụng đây?” Y nói đến đây, liếc mắt nhìn Lan Á rồi khẽ cười nói: “Ai có thể đứng ngoài trăm bước bắn đứt một sợi kim tuyến trên hạt minh châu đây?” Lan Á lườm Lương Tiêu một cái, trên gò má trắng như tuyết lộ ra thần sắc giận giữ.

Trong trướng không một tiếng động, mọi người đều nhìn nhau. A Thuật lại cao giọng nói: “Nếu có người tự nhận là mình có thể làm được hai điều trong đó ta sẽ thu lại những lời vừa rồi.” Trong trướng nội vẫn không hề có một tiếng động. A Thuật ánh mắt sáng ngời, lại hướng về chúng nhân nói: “Người Hán có một câu rằng: Người làm đại sự thì không câu nệ tiểu tiết. Chúng ta muốn đánh bại quân Tống thì không nên câu nệ tiểu tiết. Công lao đều là ngày trước lập nên, các vị thân kinh bách chiến, hôm nay không phải cũng thất bại sao? Khi ta đảm nhận chức vạn phu trưởng, tuổi tác có hơn kém y bao nhiêu, công lao của ta bây giờ ít hơn các vị sao?”

Chúng tướng nhất thời im lặng, hàng mi dầy của Bá Nhan giãn ra, y nói: “A Thuật nói rất đúng! Ta tán thành ý kiến này!” Ngay sau đó liền cao giọng nói: “Lương Tiêu nghe lệnh!” Lương tiêu lập tức đứng dậy. Bá Nhan nói: “Ta lệnh cho ngươi đảm nhận chức Vạn phu trưởng của Khâm Sách quân, nếu thống lĩnh tốt, chiến công đủ lớn ta sẽ khởi tấu với thánh thượng, chính thức lệnh cho ngươi làm thống soái của Khâm Sách quân.” Lương Tiêu tính tình bướng bỉnh ngoan cố, mọi người đồng loạt phản đối càng làm trỗi dậy ngạo khí của hắn, cho nên lập tức chắp tay vui vẻ nhận lời.

Phân phó Lương Tiêu xong, Bá Nhan lại ngồi xuống nói: “Hiện nay Tống quân lại thêm lực lượng, quân ta không thể đánh lâu, chư vị có cách nào phá thành không?” A Lý Hải Nha nói: “Phải đợi chế tạo xong ‘Hồi Hồi pháo’ mới có thể tiếp tục công thành.” Bá Nhan ánh mắt thay đổi nhìn sang lão giả mắt xanh nói: “Trát Mã Lỗ Đinh (2), chế tạo đại pháo cần mấy ngày nữa.” Trát Mã Lỗ Đinh nói: “Cái này tôi cũng không rõ ràng lắm, thầy của tôi, Hiền minh giả chi vương, hỏa giả Nạp Tốc Lạp Đinh (3) sau khi vẽ ra tấm sơ đồ này thì chưa từng chế tạo qua, nhưng theo lời người nói cỗ máy đánh thành đáng sợ nhất này bắn được xa nhất, công phá mạnh nhất, cho dù tường thành kiên cố thế nào cũng có thể phá hủy.”

Chú thích:

(1): Bắt nguồn từ tiếng Ả Rập và Ba Tư, là cách xưng hô tôn kính với những nhà giáo học đời sau của giáo tổ Islam giáo.

(2): Một nhân vật có thật, người Tây Vực, đến Trung Quốc vào cuối đời Tống đầu đời Nguyên.

(3): Nasraddin, một nhà hiền triết, số học gia, chính trị gia Trung Á.

Bá Nhan vui vẻ hỏi: “Ngài có nắm chắc mười phần không?” Trát Mã Lỗ Đinh lắc đầu đáp: “Loại vũ khí này chưa từng xuất hiện trên mặt đất, uy lực của nó chỉ là theo lời thầy ta miêu tả.” Bá Nhan nắm chặt tay, nhíu mày không nói.

Lương Tiêu khẽ cười lạnh, đột nhiên đứng dậy cao giọng nói: “Ta không tin trên thế gian có loại pháo bắn đá lợi hại như vậy, máy móc nào cũng có cách phá giải. Tạo ra những vũ khí từ trước đến giờ chưa từng nhìn thấy cũng chẳng bằng được những mưu kế tuyệt diệu.” Hai hàng lông mày của Bá Nhan giãn ra, y trầm giọng nói: “Ngươi nói!“ Lương Tiêu tiếp tục: “Hôm nay ta ở trên thạch đài quan sát hai thành Tương Phàn, phát giác khi chúng ta tấn công một thành thì cả hai thành cùng tác chiến.” Sử Thiên Trạch ngắt lời hắn: “Ngươi muốn nói đến chiếc cầu nổi giữa hai thành sao?”

Lương Tiêu nói: “Không sai, Tống quân ở hai thành thông qua cầu nổi mà cứu viện lẫn nhau. Có câu: Giết được một mãnh hổ nhưng đánh không lại hai trâu bệnh.” Bá Nhan gật đầu nói: “Ngươi chỉ vừa mới tới đã có thể nhìn thấy mấu chốt để công thành đã là không dễ dàng rồi. Đạo lý này mọi người đều đã hiểu, cũng đã từng phái người tấn công vài lần, nhưng Tống quân phòng thủ nghiêm mật, không thể thành công.” Lương Tiêu nói: “Thủy quân không thể đến gần chẳng lẽ không thể phái người lặn tới tập kích sao?” Sử Thiên Trạch nhíu mày nói: “Nói thì dễ, nhưng có bao nhiêu người có thể bơi xa như vậy mà không bị Tống quân phát giác?” A Lý Hải Nha thở ra một hơi rồi nói: “Nói như vậy ta lại nghĩ ra một cách. Đại nguyên soái, ngài còn nhớ năm đó khi thánh thượng chinh thảo Đại Lí, vượt qua sông Lan Thương như thế nào không?” Bá Nhan cười nói: “Ngươi nói là dùng bao da vượt sông phải không? Ta hiểu rồi! Ta và Lưu Chỉnh sẽ thử xem.” Lương Tiêu nghe thấy lại có chút không hiểu ra sao.

Bá Nhan lại dặn dò những việc chỉnh đốn lại quân đội rồi mới lệnh cho mọi người lui đi. Lương Tiêu cưỡi ngựa về doanh trại, vừa ra khỏi cửa thì nghe có người nói: “Lương Tiêu đứng lại!” Lương Tiêu quay đầu nhìn lại, thấy Lan Á tức giận giục ngựa lao tới. Lương Tiêu nhíu mày. Lan Á tới trước mặt hắn, thần sắc tức giận quát lớn: “Ngươi bằng cái gì mà xem thường người khác vậy?” Lương Tiêu ngạc nhiên nói: “Ta làm gì mà xem thường người khác đây?” Lan Á tức giận nói: “Ngươi coi thường ‘Hồi Hồi pháo’ mà thầy của ta, Nạp Tốc Lạp Đinh thiết kế.”

Lương Tiêu nhẹ nhàng nói: “Ta chỉ nói thẳng một chút thôi, nhưng nghĩ lại cũng không có gì quá lắm.” Lan Á tức giận trợn mắt, mặt đỏ hồng lên quát: “Tốt lắm, ngươi coi thường sư phụ ta, ta muốn cùng ngươi tỷ thí!” Lương Tiêu ha ha cười lớn nói: “Đấu cái gì, thi cưỡi ngựa bắn cung hay sao?” Lan Á khẽ hừ một tiếng nói: ”Cái đó ngươi lợi hại, ta không bằng ngươi! Nhưng ta hỏi ngươi, ngươi có biết hình học Ơclit không? Biết chiêm tinh học không? Biết cơ quan học không? Biết thủy lợi học không? Biết dùng sa bàn để suy diễn ảo phương không?”

Lương Tiêu nghe xong thì hơi nhíu mày, trừ thủy lợi học và cơ quan học ra những cái khác hắn đều đã nghe qua, ngập ngừng một chút hắn mới hỏi: “Cái cô nói là gì thế?” Lan Á cười lạnh nói: “Ngươi không biết phải không? Đó đều là học vấn mà sư phụ ta tinh thông. Với sự vô tri của ngươi căn bản không biết đến sự vĩ đại của người. Nạp Tốc Lạp Đinh là một trí tuệ gia siêu tuyệt được truyền tụng khắp trên thế giới, còn ngươi, bất quá chỉ là một nô tài của hoàng đế Nguyên triều thôi.

Nạp Tốc Lạp Đinh quả đúng là nhà hiền triết Y Tư Lan (Islam) vĩ đại nhất đương đại, Lan Á đối với ông tôn trọng vô cùng, quyết không chịu để người khác khinh thường. Nàng tức giận đến nói không tiếc lời, tuôn ra những lời đầy tính vũ nhục. Lương Tiêu chỉ cảm thấy một luồng máu nóng xông lên mặt, tay trái nắm chặt lại. Lan Á thấy hắn mặt đỏ như máu, mục quang lăng lệ, trong lòng cảm thấy sợ hãi, nhưng chuyện liên quan đến sự tôn kính của sư phụ, nàng quyết không thể lùi bước, bèn nói lớn: “Ngươi trừ việc đánh giết ra còn biết làm cái gì khác không? Được lắm, ngươi lấy cung tên bắn ta đi, ta không sợ ngươi!”

Lương Tiêu nhìn nàng, nghĩ tới chuyện ban ngày liền cảm thấy áy náy, khẽ thả lỏng tay ra: “ Nghe nói cô là học giả Hồi Hồi Tinh?“ Lan Á nói: “Vậy thì sao?” Lương Tiêu nói: “Nghe nói cô tinh thông số thuật, có thể thiết kế cơ quan xảo diệu, biết được sự vận hành của các vì sao, sự thay đổi dòng chảy của sông, tạo ra những phòng ốc không bị mục nát, phải không?” Lan Á cảm thấy kì quái, nhưng vẫn gật đầu nói: “Ngươi cũng biết?” Lương Tiêu cười lạnh cao giọng nói: “Được, ta tiếp nhận lời khiêu chiến của cô, học trò của Nạp Tốc Lạp Đinh, ta cùng cô thi thiên văn, thi cơ giới, thi thủy lợi! Phàm là những gì thuộc về số học sẽ do cô lựa chọn.” Lan Á kinh ngạc, khẽ bĩu môi lộ ra thần sắc khinh miệt, cười lạnh nói: “Tự chuốc lấy nhục nhã.”

Lương Tiêu cười lạnh: “Tốt, cô đi theo ta!” Dứt lời liền giục ngựa bước đi. Lan Á tuy thấy không đúng lắm, nhưng nghĩ tự mình gây hấn trước sao lại có thể rút lui, lập tức thúc ngựa đuổi theo. Theo Lương Tiêu tiến đến một đại trướng, Lương Tiêu tiến vào bên trong, Lan Á chần chừ một chút rồi cũng tiến vào theo, vừa vén tấm bạt lên thì nghe thấy một nữ tử dùng tiếng Hán nói: “Ca ca! Huynh trở lại rồi!” Lan Á trời sinh thông minh, thông hiểu rất nhiều loại ngôn ngữ, nhìn theo hướng tiếng nói thì thấy một nữ hài tử trên mặt hằn đầy vết roi đang từ trên giường ngồi dậy, Lương Tiêu đỡ lấy thiếu nữ đó, nắm tay nàng ta nói: “A Tuyết, hai ngày nay không tới thăm muội, thật là vô cùng nhớ nhung!” Lời còn chưa dứt, thiếu nữ tên A Tuyết kia đã lao vào lòng hắn bật khóc nức nở. Lương Tiêu bối rối tay chân: “Sao rồi? Sao rồi?“ A Tuyết nức nở nói: “Ban ngày nghe thấy tiếng chém giết muội lo lắng muốn chết.” Nàng khóc đến thương tâm, Lương Tiêu cũng không nhịn được, khóe mắt ươn ướt: “Nha đầu ngốc, đừng khóc nữa!” Nheo mắt lại nhìn, thấy Lan Á đang đứng ngơ ngẩn một bên, trong lòng kinh ngạc: “Ta chỉ chú ý đến A Tuyết mà quên mất còn nàng ta ở bên cạnh.” A Tuyết cũng ngẩng đầu lên lau nước mắt, ngạc nhiên nói: “Ca ca, nàng ta là ai vậy?”

Lương Tiêu nói: “Nàng ta tới cùng huynh tỉ thí toán số.” A Tuyết lộ xuất thần sắc ngạc nhiên, nhìn trân trân vào Lan Á nói: “Cô muốn cùng ca ca ta tỉ thí toán thuật sao? Ca ca ta là người thông minh đệ nhất thiên hạ, không có người giỏi hơn đâu!” Lan Á không phục cười lạnh nói: “Lương Tiêu, người trong nhà ngươi đều biết khoác lác như thế này sao?” Lương Tiêu không nhịn nổi tức giận nói: “Cô có hiểu toán pháp của người Hán không?” Lan Á cười lạnh nói: “Cũng hơi biết một hai.” Lương Tiểu cười nói: “Giỏi lắm, đến một hai cũng biết.” Hắn rút bảo kiếm ra, khắc lên mặt đất ba đề toán. Đề thứ nhất “Thất diệu châu liên toán”, đề cập đến thiên văn; đề thứ hai “Đại Vũ trị thủy đồ”, đề cập đến thủy lợi; đề thứ ba “Lỗ Ban thụ hạ vấn”, nói đến chuyện Lỗ Ban đứng trước một cái cây lớn dài sáu trượng mà hỏi, chặt cây đại thụ này như thế nào mới có thể tạo thành được chiếc thang mây công thành lớn nhất, đề này đề cập đến kích thước của cơ quan. (Tác giả chú: Tương đương với vấn đề cực hạn của số học hiện nay.)

Ba đề này tinh vi ảo diệu, vô cùng phức tạp. Lan Á xem qua mấy lần, thần sắc đại biến, ngồi xổm xuống, chọn lấy một viên đá, vẽ ra xung quanh trên mặt đất, viết xuống mấy kí hiệu kì lạ “ 1,2.........57”, vừa nghĩ vừa tính. Lương Tiêu biết nàng là học giả Hồi Hồi Tinh, trình độ số thuật chắc chắn bất phàm, nên có ý làm khó, ba đề toán này khó khăn vô cùng. Lan Á tính đề thứ nhất được mấy bước thì đã bị lâm vào khó khăn.

Côn Luân

Tương Dương Công Phòng

Lương Tiêu thấy cách tính của Lan Á thập phần cổ quái, khác xa với các phương pháp của Trung Thổ, nhưng các bước tính toán lại rất ngắn gọn chứ không hề phức tạp như cách tính Trung Thổ, nên không khỏi gật đầu khen ngợi:

- Đây là phương pháp tính của người Hồi phải không? Quả nhiên có chút phương pháp riêng.

Lòng nghĩ dù trước đây mình đã giận dữ với nàng, nhưng giờ cũng nên gạt bỏ thành kiến, thành tâm thỉnh giáo sự tinh diệu của số thuật Hồi Hồi. Nghĩ vậy, hắn nhất thời bỏ qua cơn giận, thở dài, cùng với A Tuyết kể lại tình hình gần đây. A Tuyết khi nghe hắn kể việc những ngày qua thì lòng biến đổi không ngừng. Khi hắn nói đến tính hung hãn của bọn quân Khâm Sát, bất giác nàng không còn cười nổi; khi nghe đến đọan đại chiến Tống Nguyên thì nàng trở nên khẩn trương, nắm chặt tay hắn; đến lúc hắn nói đến việc đã được thống lĩnh quân Khâm Sát, thì trong lòng nàng nhất thời cảm thấy mơ hồ như đang ở trong giấc mộng.

Lan Á vùi đầu tính toán một vài thời thần, giải đề thứ nhất đến bước thứ hai mươi vẫn không ra, nhìn chằm chằm đề toán đến ngây ngốc. Lương Tiêu lúc này đã nguôi cơn giận, nhớ lại hồi niên thiếu hắn cũng đã nhức đầu, khổ ải vì các đề toán, nay nhìn bộ dạng sầu khổ của nàng thì sinh đồng cảm, hạ giọng nói:

- Tính không ra phải không?

Lan Á nghiến răng, nói nhỏ:

- Ngươi... ngươi đưa ra cái đề quỷ không thể giải ra này để hại người mà!

Lương Tiêu cười cười, một tay nắm tay A Tuyết, tay kia cầm kiếm, soạt soạt soạt một lèo giải ra. Hắn biết Lan Á cũng không tầm thường, cho nên chỉ giải một cách vắn tắt, đồng thời cũng chỉ cho nàng chỗ quan trọng. Trong khoảnh khắc, đề thứ nhất đã được giải xong; rồi hắn lại đưa ra cách giải đề thứ hai. Lan Á thấy cách giải tinh diệu, vừa mừng vừa sợ, mày động mắt chớp, gật đầu liên tục. Đến khi Lương Tiêu giải đến đề thứ ba, Lan Á nói gấp:

- Thế nào cũng có cách giải khác! Thế nào cũng có cách giải khác!

Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Sao? Nàng cũng tính ra à?

Lan Á đỏ mặt nói:

- Bây giờ tính chưa ra, ta nghĩ từ từ, cuối cùng cũng ra thôi.

Lương Tiêu nghe nói vậy, lòng mừng cảm thấy như gặp tri kỉ, nghiêm mặt nói:

-Tốt, nếu tính không ra, ta sẽ nói với nàng.

Thấy vậy, A Tuyết cười nói:

- Ca ca không mắng chửi người ta à? A Tuyết cũng tính không ra, nhưng mà bị mắng chửi không ngừng.

Lương Tiêu liếc mắt nhìn nàng nói:

- Ta giải chỉ vài bước người ta đã hiểu. Còn muội, thiệt là đầu đá, cho dù ta có giải đến trăm lần cũng chưa chắc đã hiểu.

A Tuyết cong môi đáp:

- A Tuyết vốn ngu ngốc mà!

Lương Tiêu trừng mắt:

- Ngu ngốc thì có gì ghê gớm lắm à?

A Tuyết dựa vào vai hắn cười hì hì.

Lan Á thấy huynh muội họ tình thâm, trong lòng thấy ấm áp, thở dài nói:

-Lương Tiêu, ta nên trở về rồi, không thì cha ta sẽ lo lắng.

Lương Tiêu đứng dậy nói:

- Ta đưa nàng về.

Đoạn quay hắn qua nói với A Tuyết:

- Ngoan ngoãn ở lại dưỡng thương, ngày mai ta quay trở lại gặp muội.

A Tuyết gật đầu:

- Muội đợi ca ca.

Lương Tiêu và Lan Á rời khỏi đại doanh, tới trước trại của Trát Mã Lỗ Đinh. Lan Á dừng ngựa, trù trừ cả nửa ngày trời, đột nhiên nàng hỏi:

- Lương Tiêu, ngươi là có phải là toán giả vĩ đại nhất Trung Thổ không?

Lương Tiêu lắc đầu nói:

- Không thể nói như thế! Tuy nhiên, thật sự đến giờ ta vẫn chưa gặp ai hơn được ta.

Lan Á hai mắt ngời sáng cười nói:

- Lương Tiêu, ngươi làm khó được ta nhưng chưa chắc đã làm khó được sư phụ ta đâu.

Lương Tiêu bình thản nói:

- Nạp Tốc Lạp Đinh? Ông ta ở đâu?

Lan Á nói:

- Người ở Hồi Hồi, trong đài thiên văn của Mã Lạp Gia. Đó là đài thiên văn tráng lệ nhất thế giới, tàng trữ không biết bao nhiêu đồ thư, có những khí cụ thiên văn tốt nhất. Sư phụ ta mỗi ngày đều ở đó, lắng nghe âm thanh của sao trời.

Nói đến đây, mặt nàng lộ lên vẻ tôn kính vô vàn.

Lương Tiêu im lặng một lúc rồi hạ giọng nói:

- Lan Á, cô quay về Hãn quốc, nói với Nạp Tốc Lạp Đinh rằng một khi xong việc ở Trung thổ, ta nhất định sẽ đến Mã Lạp Gia (Malaga - ND) thỉnh giáo người. Lúc đó mới biết ai là tinh học giả vĩ đại nhất, ai mới là minh giả chi vương.

Lan Á nghe hắn nói thế, trong lòng chấn động, vội nói:

- Ngươi nói nghiêm túc chứ?

Lương Tiêu mỉm cười đáp:

- Tuyệt không hư ngôn.

Lan Á nhìn hắn chằm chằm, rồi đột nhiên cười lộ hai núm đồng tiền, giống như giọt thủy ngân sóng sánh long lanh, lẩm nhẩm:

- Thật muốn ngươi đi ngay bây giờ!

Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Sao cô lại cao hứng thế? Không sợ ta đánh bại sư phụ cô à?

Lan Á cười đáp:

- Sư phụ ta không màng thắng bại, chỉ mong gặp các bậc trí giả mà thôi.

Rồi nàng kín đáo thở dài, trong mắt toát ra vẻ thần bí, nói tiếp:

- Thật muốn thấy ngươi gặp mặt sư phụ. Bậc trí tuệ siêu việt nhất thế giới Hồi giáo gặp gỡ người có học vấn sâu rộng nhất Trung Thổ, khi đó có thể tạo ra những cảnh tượng kinh hãi thế tục như thế nào đây?

Lương Tiêu quay đầu lại, nhìn ánh đèn rực rỡ từ thành Tương Dương, thần sắc buồn bã, thở dài nói:

- Bây giờ thì không thích hợp!

Lan Á cũng nhìn theo hắn, cười khổ, rồi quay người thúc ngựa đi vào doanh trại, nhưng được vài bước, vội quay đầu lại, ngây ra nhìn Lương Tiêu. Lương Tiêu nói:

- Có việc gì nữa à?

Lan Á chợt run lên, hoảng hốt trả lời:

- Không có gì, không có gì.

Vội vàng chạy vào doanh trại, hai má nóng bừng, nàng tự nói với lòng:

- Lan Á, ngươi làm sao thế? Không phải trinh tiết và tính mạng ngươi đã phó thác cho tinh tú rồi sao? Ngươi sao lại có thể như thế được?

Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng trong nàng, tâm trạng vẫn dao động không ngừng, không sao ổn định được.

Ngày hôm sau, Lương Tiêu nhận chức Đại Thống Soái Khâm Sát Quân, rồi trong suốt mười ngày sau đó hắn chuyên tâm thao luyện binh sĩ. Những lúc rảnh, hắn cũng không ngừng trao dồi tướng sóai chi pháp và học tiếng Khâm Sát với Thổ Thổ Cáp để tiện bề thống lãnh ba quân.

Kể từ ngày hôm ấy, mỗi chiều Lan Á đều đến chỗ A Tuyết, cùng Lương Tiêu nghiên cứu số học. Lương Tiêu si mê toán học, không giữ kiến thức làm của riêng, nên mỗi khi Lan Á không hiểu hắn đều giảng giải tận tình. Lan Á thấy hắn sử dụng số học vô cùng tinh diệu, nên lại càng kinh phục khả năng của hắn, thầm than toán học Trung Thổ thật tinh tế, có thể hơn cả thuật toán của người Hồi. Nhưng rồi lại tự nhủ, sư phụ Nạp Tốc Lạp Đinh trí tuệ bao la, lớn rộng như biển thì sao có thể thua người này được.

Một lần nói đến toán học, Lương Tiêu không nhịn được hỏi Lan Á về số học của người Hồi. Qua lời Lan Á, hắn biết được rằng số học của người Hồi vốn xuất phát từ nơi xa nhất về phía Tây, gọi là Hy Lạp. Hàng ngàn năm trước nơi đó đã có vô số những nhà tóan học lớn với hình học Euclide, đại số học Pythagoras, thiên văn học Thales, Archimedes vĩ đại, tinh anh tụ hội, phát triển vô cùng. Nhưng chiến tranh triền miên không dứt, Archimedes bị người La Mã chém đầu, Hy Lạp cũng bị ngọn lửa chiến tranh tiêu diệt, nền học vấn quý giá bị xem là tà thuyết dị đoan, bị đốt, bị mất, đến giờ lưu lại cũng chẳng còn bao nhiêu. Sau đó, người Hồi trở nên hùng mạnh, thảo phạt La Mã chiếm lấy Hy Lạp, khiến những kiến thức bị thất lạc đã rơi vào tay các vị học giả Hồi giáo. Người Hồi nghiên cứu học vấn Hy Lạp, đến giờ phát dương quang đại, xuất hiện các hiền triết vĩ đại, và người vĩ đại nhất hiện nay là Nạp Tốc Lạp Đinh, là đại thành giả về học vấn của người Hồi.

Đến đây, Lan Á im lặng hồi lâu rồi nói tiếp:

- Nhưng sau đó, người Mông Cổ trở nên cường đại, vương triều A Bạt Tư của chúng ta bị Húc Liệt Ngột Hãn tiêu diệt. Sư phụ để lưu truyền học vấn, trong cảnh chiến tranh cửu tử nhất sinh, đã chỉ dạy thuật luyện kim và thuật chiêm tinh cho giới quyền quý người Mông Cổ, mong được sự che chở. Tuy nhiên, Húc Liệt Ngột Đại Hãn mặc dù tôn trọng lão sư, hắn lập đài thiên văn, không phải để lão sư nghiên cứu học vấn, mà để hắn dùng thuật chiêm tinh mà xem tương lai của mình là họa hay phúc; đừng tưởng rằng hắn sẽ chế tạo ra các dụng cụ tinh xảo để xem sao trời, hắn chủ yếu chỉ tạo ra lợi khí công thành, nhằm phục vụ cho việc chinh phạt các quốc gia không phục tùng mà thôi.

Nói đến đây, hai mắt chợt đỏ, nàng thở dài:

- Kì thật người khác thấy sư phụ ta địa vị tôn quý, nào biết đâu rằng ngài thật sự rất đau khổ trong lòng.

Bất chợt Lương Tiêu nhớ tới lúc khó khăn ở Thiên Cơ Cung, trong lòng cảm thấy xót xa, nhưng rồi lại chợt vui. Phải biết sáu năm gian khổ đó, hắn đã học đến tận cùng của toán thuật Trung Thổ, đến không còn gì để học nữa, giờ phút này biết được ngoài Trung Thổ vẫn còn môn toán học bác đại tinh thâm như thế, hỏi sao lại không vui. Hắn lập tức nhờ Lan Á chỉ dẫn. Lan Á dĩ nhiên đáp ứng hắn, nhưng toán học của người Hồi đúng là rất độc đáo. Để hiểu biết học vấn tinh thâm của người Hồi, trước tiên Lương Tiêu phải học chữ Hồi. Hắn tuy thông minh, nhưng học một ngôn ngữ của dân tộc khác cũng rất khó, nên chỉ có thể từ từ học mà thôi.

Một ngày nọ, Lan Á dạy toán, ngồi bên sa bàn viết đề bằng chữ Hồi; bên tả nàng ra đề "Kim tự tháp bút toán", còn bên hữu là đề "Ni la hà (sông Nile – ND) điền mẫu trượng lượng". Đề trước hỏi đến thể tích của đất và đá xây kim tự tháp (tính bằng hình học không gian - TG), đề sau lại hỏi về diện tích khai khẩn bên sông Nile. Hai đề này vốn có nguồn gốc từ hình học cổ điển Euclid. Lan Á để Lương Tiêu dịch đề rồi đưa ra cách giải.

Lương Tiêu nếu theo toán thuật Trung Thổ vốn có thể dễ dàng giải ra, chỉ là thông dịch thập phần gian khổ; nhưng hắn lại muốn dùng toán pháp của Hy Lạp nên nghĩ đến nhức cả đầu. Cách giải của Hy Lạp thật ra thì rất khác với Trung Thổ. Cách giải của Trung Thổ thì khá nhũng tạp, trong khi cách giải của Hy Lạp thì hướng đến sự đơn giản, tinh tế, lí luận chuẩn mật. Cho nên Lan Á nhận xét rằng:

- Phương pháp của Trung Thổ, tựa như minh châu chuỗi ngọc, làm cho người ta thấy hoa mắt; còn phương pháp của Hy Lạp không có vẻ châu ngọc, có thể không đẹp đẽ như của Trung Thổ, nhưng từng hạt, từng hạt đều được đặt ở những vị trí thích đáng nhất.

Nàng nói thì dễ, nhưng Lương Tiêu đã phải bỏ hơn mười ngày, mới có thể nắm được yếu quyết của toán học Hy Lạp. Đó là hắn thông minh tuyệt đỉnh mà còn gian nan như thế, chứ nếu gặp phải người khác, chỉ sợ còn gian nan hơn nhiều.

Lương Tiêu ước tính và giải bài "Kim Tự Tháp bút toán", cả kinh nói:

- Cái tháp này to lớn vô cùng, nó dùng để làm gì thế?

Lan Á nói:

- Nó là lăng mộ của vua Ai Cập.

Rồi nhân tiện nàng kể về phong thổ cũng như con người Ai Cập. A Tuyết đang ngồi bên cạnh vẻ chán nản, đột nhiên nghe Lan Á nói đến thú sự (sự việc hấp dẫn – BT) liền trở nên hoan hỉ. Những khi Lan Á ngừng nói, nàng hỏi liên thanh: "Còn gì nữa không? Còn gì nữa không?"

Đợi cho Lan Á nói xong, Lương Tiêu tưởng tượng ra phong cảnh, con người của nước ấy, không khỏi than rằng:

- Dùng hết ngàn vạn nhân công, chỉ để xây dựng mộ phần cho một người. Thật vua Ai Cập so với Tần Thủy Hoàng Đế của Trung Thổ chúng ta cũng chẳng khác gì!

A Tuyết cười nói:

- Ca ca, đợi ca ca đánh trận, báo thù xong, chúng ta qua Ai Cập được không? Đến Kim Tự Tháp mà Lan Á tỉ tỉ nói, rồi có thể đứng trên Đại Hải Đăng bên bờ biển nữa. (Chú thích: tức ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại ở Ai Cập, bị phá hủy vào thế kỷ 13 - TG)

Lương Tiêu cười nói:

- Được thì được, nhưng đi Khâm Sát xong, lại đi Ai Cập, đợi khi đến Kim Tự Tháp thì chúng ta cũng trở thành lão đầu với lão thái bà rồi!

A Tuyết mỉm cười không nói, thầm nghĩ:

- Nếu được đi với ca ca cả đời, A Tuyết sống cũng đáng mà!

Lan Á liếc trộm A Tuyết, rồi dùng tiếng Hồi hỏi:

- Lương Tiêu, muội tử của ngươi thật khả ái, nhưng sao nàng lại có vết sẹo kia vậy?

Nàng kiềm chế câu hỏi này đã lâu rồi, cuối cùng cũng không nhịn được mà hỏi như vậy. Lương Tiêu cười khổ, cũng dùng tiếng Hồi đáp lại, lắp bắp mãi cũng trả lời xong. A Tuyết nghe hai người nói lại tưởng họ trao đổi về toán học nên cũng không nghi ngờ. Lan Á nghe thế trầm ngâm nói:

- Nàng ấy chỉ là một nữ hài, trên người lại có vết sẹo, tương lai khó mà tốt được.

Nàng nói động đến nỗi khổ trong lòng của Lương Tiêu, hắn đỏ mặt không thể nói gì. Lan Á khẽ nhướn đôi mày, cười nói:

- Ở đây ta có một phương thuốc, nếu tuân thủ đúng theo thì trong vài tháng, vết sẹo đó có thể biến mất được.

Lương Tiêu kinh hỉ nói:

- Lan Á, Lan Á, điều này, điều này...

Thật lòng hắn muốn cầu khẩn, nhưng có quả chút khó mở miệng. Lan Á hé miệng cười, đưa tay viết ra phương thuốc, chợt nhíu mày nói:

- Thứ này trước đây sư phụ luyện kim mới có được, nguyên liệu vô cùng đắt tiền, nếu không giàu có tuyệt không thể mua được, lại khó chế biến. Để ta đi cầu khẩn cha ta, xem có thể có được số tiền này không.

Lương Tiêu cẩn thận xem phương thuốc, thấy đều là xích kim mĩ ngọc, trân châu bảo thạch, báo thai linh chi, không khỏi câm lặng. Nhưng hắn bản tính vốn kiêu ngạo, không chịu nhận ân huệ của người khác, liền nói:

- Có được phương thuốc này, ta đã nhận tấm chân tình của cô, còn đối với dược vật, ta tự có cách lo liệu được.

Lan Á nhìn hắn vẻ dò xét, bán tín bán nghi, đang muốn khuyên hắn thì bỗng nghe bên ngoài có tiếng chân ngựa đi đến, một tên thân binh của A Thuật tiến vào. Lương Tiêu ngồi dựa vào sa bàn hỏi:

- Chiến sự thế nào?

Tên thân binh nói:

- Tối nay A Lý Hải Nha đại nhân đột tập Phù Kiều, mời đại nhân đến xem.

Lương tiêu gật đầu đứng dậy. Lan Á nói:

- Ta cũng đi.

Ba người cưỡi ngựa dọc theo bờ sông, sớm có một con thuyền nhỏ bên bờ tiếp dẫn. Khi họ vừa bước lên thì thấy lĩnh quân đại tướng đều đã ở trên truyền, thoáng thấy Bá Nhan sắc mặt ngưng trọng nhìn về phía trước. Lúc này bầu trời mây đen mù mịt, che lấp trăng sao, một chút ánh sáng cũng không có. Đột nhiên, trên chiến thuyền phía xa chợt truyền lại một hiệu lệnh nghe như tiếng nước rì rầm, hai trăm tử sĩ quân Nguyên ôm túi da lớn nhảy xuống nước, yên lặng bơi về phía Phù Kiều nằm giữa hai thành Tương - Phàn.

Lương Tiêu biết túi da này tên gọi “Hồn Thoát”, cũng gọi là “Hốt Luân Thoát”, được làm bằng kĩ thuật độc đáo: lột da dê từ trên xuống dưới, sau khi lột như vậy, bộ da dê chỉ có sáu lỗ: ở cổ, ở bốn chân và ở đuôi; sau khi may lại các lỗ, có thể đựng rượu và nước. Loại Hồn Thoát này, kỵ binh Mông Cổ trên đường viễn chinh mang theo rất nhiều, bình thường thì đựng rượu, nếu gặp dòng sông có sức chảy lớn, thổi hơi vào rồi tập trung lại, kết thành cái bè da dê rồi bơi qua. Năm ấy đại quân của Thành Cát Tư Hãn, một người với hai Hồn Thoát, đã đánh Nam dẹp Bắc, không ai có thể ngăn cản, tiêu diệt vô số quốc gia. Nguyên hoàng đế Hốt Tất Liệt chinh thảo Đại Lý, cũng là nhờ Hồn Thoát mà vượt qua đoạn có dòng nước chảy siết vô cùng của sông Lan Thương để đột tập Đại Lý.

Lần tập kích này, mỗi tử sĩ quân Nguyên đều mang đến ba cái Hồn Thoát, hai cái chứa đầy khí, một cái chứa đầy dầu hỏa. Không mất đến một thời thần, họ đã yên lặng vượt qua đám dây sắt mà quân Tống giăng trên sông. Trên thuyền, quân Nguyên mỗi người đều im lặng, không khí trở nên căng thẳng tột cùng. Mắt thấy quân Tống trên cảnh giới thuyền cũng không phát hiện ra, khi chỉ còn cách Phù Kiều chưa tới hai mươi trượng, nhiều thủy binh đã lên tiếng hoan hô nho nhỏ. Ngay lúc này, bỗng nghe tiếng chuông treo bên cầu vang to. Bá Nhãn khẽ thốt: "Không tốt!" Các tướng lĩnh khác đều biến sắc.

Trong nháy mắt, tử sĩ quân Nguyên phát giác bản thân đã nằm trong lưới, tiến thoái đều không được. Trên lưới nhô ra rất nhiều lưỡi câu, hai bên trên mép lưới đánh cá còn treo đầy chuông, một khi vướng vào là lập tức kêu lên không ngừng.

Trong thành nghe tin, cả hai bờ hỏa quang đều phát sáng, quân Tống thấy quân Nguyên trong lưới cố sức thoát ra, liền cười lớn, rồi bắn loạn tiễn. Chỉ trong khoảnh khắc, hai trăm người đã chết thảm. Nhưng các tử sĩ được tuyển chọn này thật vô cùng dũng cảm, tuy rơi vào thế bất lợi, nhưng hơn năm mươi người mạo hiểm, liều mạng vượt qua lưới, bò lên trên Phù Kiều, rút ra bội đao cắt bỏ Hồn Thoát, đổ dầu hỏa lên cầu rồi đốt lửa, Phù Kiều bắt lửa cháy mạnh.

Lập tức cửa thành Tương Phàn mở rộng, 110 quân Tống từ hai bên chạy lên Phù Kiều, một nhóm giơ thương múa đao chiến đấu với quân Nguyên, một nhóm quay ra lấy thùng gỗ cứu hỏa. Quân Nguyên cũng chia thành ba nhóm nhỏ, một nhóm nghênh tiếp quân Tống, giơ đao giết địch, họ thân thủ nhanh nhẹn phi thường, trong khoảnh khắc đã giết mười mạng quân Tống; một nhóm khác mở rộng túi da để ngăn cản cung tên; còn lại một đội cởi bỏ đại chùy trên lưng xuống, hết sức đập phá những cây cọc gỗ chống giữ Phù Kiều, chỉ giây lát đã chặt gãy mấy cây, chỉ nghe một tiếng kêu thật lớn, Phù Kiều đã đổ sụp một đoạn.

Lúc này gió sông bắt đầu thổi, trên cầu, lửa cháy mạnh hơn, thiêu rụi mọi thứ. Thủy sư quân Nguyên hoan hô vang dội, thừa dịp tấn công, hai thành Tương - Phàn cũng bắn đạn đá vào, âm thanh náo động cả một vùng trời.

Đột nhiên, trong ánh lửa, một đạo bạch ảnh phóng ra, tấn công lên Phù Kiều, kiếm quang sáng chói, đâm ngã một số tử sĩ. Lương Tiêu nhận ra đúng là Vân Thù, bất giác lòng thấy phẫn nộ. Các tướng lĩnh cũng nhận thấy thế, A Thuật kêu lên:

- Hảo gia hỏa, đúng là hắn!

Vân Thù tay múa kiếm như gió quét lá, tiến lùi hai lần, lập tức Nguyên quân 10 người dù không chết cũng bị thương. Quân Tống phi thân xông lên, xuống sông lấy nước dập lửa, lần lượt dựng lên các cọc gỗ, rồi lại lấy các mảnh gỗ gắn vào thay thế những chỗ bị hư hại. Lưu Chỉnh đánh giá tình hình, thấy rằng hôm nay khó mà đánh thắng được nên chỉ thị cho lui quân.

Vân Thù máu dính đầy áo, quay về thành. Lữ Đức tiếp đón cười nói:

- May là Vân công tử thần cơ diệu toán, đoán trước người Nguyên có thứ này, thiết lập ngư võng trận, không cho một tên chạy thoát, ha ha, quả thật là có đi mà không có về!

Vân Thù chắp tay nói:

- Thái Thú nói đùa rồi. Quân Nguyên dùng túi da đó vô thanh vô tức tấn công, cũng chẳng thể nào phòng thủ được đâu, chẳng qua bọn chúng không gặp may mà thôi. Gia sư hôm đó ngẫu nhiên từng nói với ta phương pháp đó, và nói cách phòng ngự tốt nhất tuyệt không thể hay hơn Kim Câu Ngư Võng trận. Vân Thù bất quá chỉ là nghe lệnh thực hiện thôi!

Hắn nói tới đây, chau mày buồn bã, thở dài:

- Gia sư học cứu thiên nhân, Thủy Cầm Ngư Long trận này cũng là sở truyền của người. Trong sáu năm, người truyền thụ cho ta nhiều cách tiến công. Hồi đó Vân thù chẳng biết thâm ý, toàn chú ý học võ, chẳng chịu dụng công. Giờ mới biết lão nhân gia người đã biết kết cục hôm nay, hao phí tâm tư thuyết giáo ta, mới được thành công như vầy.

Lữ Đức kinh hãi nói:

- Lệnh sư mưu lược thâm sâu như thế, thật là cao nhân! Nhưng người vì chuyện gì mà không tự mình đến? Nếu có người tương trợ, bọn quân Nguyên đó ắt sẽ trở nên khốn đốn vô cùng.

Vân Thù cười khổ nói:

- Điều này thì thật thứ cho, Vân Thù cũng không biết.

Lữ Đức thở dài, trầm ngâm nói:

- Vân công tử đã lập công lớn, Lữ mỗ muốn để ngươi làm Thống Chế, ý ngươi thế nào?

Vân Thù lắc đầu:

- Gia sư đã có nói, không được làm quan Đại Tống. Vân Thù quyết không dám trái lệnh. Tại hạ làm một chức Mạc Liêu nhỏ cũng đã mãn ý rồi.

Lữ Đức nghe hắn nói với khẩu khí quyết liệt, đành bỏ không nói nữa.

-------------------------

Chú thích về trận chiến Tống – Mông ở thành Tương – Phàn (BT):

Thành Tương – Phàn thật ra là 2 tòa thành ở gần nhau: Tương Dương và Phàn Thành, được ngăn nhau bởi sông Hán Thủy. Năm 1267, Kublai Khả Hãn bắt đầu tấn công vào hai thành này (chính xác mà nói thì vào thời điểm này phải gọi là cuộc chiến Tống – Mông vì năm 1267, Kublai chưa thành lập triều Nguyên). Quân Tống chiến đấu ngoan cường và giữ vững được cả 2 thành trong khỏang 5 năm. Quân Tống dùng đường thủy là đường tiếp ứng chính của 2 thành, lại có thêm cầu treo nối liền 2 thành. Tất cả tạo thành 1 hệ thống phòng thủ vững chắc, tương hỗ nhau để kháng Nguyên. Trong khỏang thời gian công phá 2 thành, Khả Hãn Mông Cổ cai trị vùng Ba Tư, gọi là Il-khan (cái này là danh hiệu giống như hòang đế bên Trung Quốc, chứ không phải là tên), có giúp Kublai bằng cách gửi sang chiến trường Trung Hoa ít nhất 2 kĩ sư giỏi nhất của ông ta để chế tạo những máy bắn đá khổng lồ (great catapults) cho việc công thành. Trong khi quân Mông/Nguyên tập trung tối đa vào việc công phá Tương – Phàn, bọn gian thần nhà Nam Tống lại cố tình bưng bít thông tin nên không đến tai hòang đế. Cuối cùng, việc phải đến cũng đến, 2 thành Tương – Phàn bị thất thủ, đầu tiên là Phàn Thành rồi kế đến là Tương Dương. Tướng giữ thành Tương Dương đầu hàng. Trong khi trận chiến ở Tương – Phàn xảy ra, năm 1271 Kublai thành lập nhà Nguyên (cũng có nhiều sách nói năm 1279, triều Nguyên mới được ra đời, dựa trên việc đến năm 1279, triều Nam Tống mới bị tiêu diệt hòan tòan).

Những chi tiết chính về Phù Kiều, great catapults, cũng như việc đầu hàng của tướng giữ thành Tương Dương trong Côn Luân đều có thật. Nhân vật Lưu Chỉnh cũng có thật, chính người này đã vấn kế cho Kublai tấn công vào Tương Dương trước rồi sau đó mới đến những nơi khác của Nam Tống.

Côn Luân

Tương Dương Công Phòng (2)

Trên phù kiều (1) hỏa quang dần tắt, hai thành Tương Phiền trở về tĩnh mịch. Bá Nhan nghe tiếng nước sông rì rào, trầm ngâm không thốt một câu, rất lâu sau mới nói :

- Ai có thể hủy được tòa phù kiều này, sẽ được trọng thưởng!

Trên thuyền chợt lặng lại, chúng tướng đối mặt nhìn nhau. Chợt nghe Lương Tiêu hỏi:

- Lời này có là sự thật?

Bá Nhan ngẩn người, hỏi lại:

- Lẽ nào ngươi có phương pháp?

Lương Tiêu nói:

- Ta mới nghĩ đến một cách, tuy rất hao nhân lực vật lực, nhưng lại có thể không tổn hại một binh sĩ nào. Chẳng những hủy được phù kiều, còn khiến nó không thể trùng tu được nữa.

- Hao phí nhân lực thì không thành vấn đề. Người mệt còn có thể nghỉ lấy sức, chứ người chết thì không thể hồi sinh lại. Chỉ cần ngươi làm được, ngươi muốn gì, miễn là trong khả năng của ta, ta sẽ cho ngươi cái đó.

Lương Tiêu gật đầu :

- Được lắm. Quan trọng nhất, chính là chặn dòng Hán giang, tích nước thượng lưu.

Mọi người nghe vậy không ai không kinh ngạc.

Sử Thiên Trạch cau mày:

- Ngươi muốn tích nước để đẩy phù kiều ư? Thế thì rất khó. Một là người Tống khi kiến tạo phù kiều, đem mấy trượng gỗ lớn đóng xuống đáy nước, rất kiên cố. Hai là vì Hán thủy chậm rãi, mặt sông rộng lớn, không dễ tích thế nước hủy được phù kiều đâu.

Hắn thân là lão thần danh tướng, suy nghĩ chu đáo, hơn nữa lại là người chuyên dẫn dắt thủy quân, thông hiểu thủy tính, những lời này nói ra ai nấy đều gật đầu.

Lương Tiêu lắc đầu:

- Ta không phải dùng nước đẩy cầu, cùng lắm là mượn đỡ thế nước mà thôi!

Bá Nhan hỏi:

- Mượn thế bằng cách nào?

Lương Tiêu cười:

- Khoan, bây giờ ta chưa nói ra vội. Trước hết để ta quan sát thế nước, rồi sẽ gặp và báo cáo với các vị sau.

Lại hướng qua Bá Nhan nói:

- Nhưng không biết Giang Tâm thạch đài là ai xây dựng?

Bá Nhan cau mày:

- Ngươi hỏi cái này làm gì?

Lương Tiêu nói:

- Ngay giữa chỗ nước xoáy mà dựng nên được thạch đài như vậy, nhất định phải có cách riêng ngăn cản dòng nước.

Bá Nhan bảo:

- Người đó ở Đại Đô chứ không ở đây.

Lương Tiêu cau mày, lại nghe Lan Á nói:

- Ta cũng biết chút ít về thủy lợi, có thể đến giúp ngươi!

Lương Tiêu hoan hỉ:

- Được cô tương trợ, hơn hẳn thiên quân vạn mã.

Lan Á không ngờ Lương Tiêu tán thưởng mình trước mặt mọi người như vậy, xấu hổ không chịu nổi, mặt đỏ rần rần, cúi đầu xuống.

Bá Nhan nghĩ ngợi:

- Việc này mất sức quá. Nếu không thành công thì sao?

Lương Tiêu thuận miệng nói:

- Vậy thì chặt đầu ta.

Mọi người đều kinh ngạc, Lương Tiêu nói câu này ra, không nghi ngờ gì đã lập quân lệnh trạng.

A Thuật hơi mấp máy môi, định lên tiếng thì Bá Nhan đã nói:

- Được lắm. Việc quân chẳng thể nói chơi, nếu không thành công, ta cũng không thể lưu tình. Từ hôm nay về sau, binh hay sĩ giỏi thợ thuyền tất cả tùy ngươi điều động. Ngươi cần bao nhiêu thời gian?

Lương Tiêu nhẩm tính rồi nói:

- Hai tháng là đủ.

Bá Nhan sang sảng giọng:

- Được, nội trong hai tháng, ta đợi tin ngươi. - Nói rồi lập tức quay mình đi thẳng lên bờ, không hề ngoảnh lại.

Chúng tướng thi nhau đưa mắt nhìn Lương Tiêu, nhiều phần là hạnh tai lạc họa (2). Họ thấy Bá Nhan luôn nâng đỡ người này, sớm đã bất mãn, lại chứng kiến Lương Tiêu vì háo hức lập đại công mà dám nhận một việc như vậy, thảy đều mừng thầm:

- Ngăn sông cách dòng, thời gian hai tháng làm sao mà đủ? Tiểu tử này quá mong lập được công danh, có chết cũng đáng.

A Thuật nhìn hắn một cái, thở dài, cũng phất tay áo bỏ đi.

A Lí Hải Nha và Lương Tiêu đi cùng đường lên bờ, cả hai đều không nói gì, sóng vai đi một lúc. Hồi lâu sau, A Lí Hải Nha nhịn không được hỏi:

- Lương Tiêu, ngươi có mấy phần thành công?

Lương Tiêu nói:

- Bảy tám phần!

A Lý Hải Nha nói:

- Ta tưởng ngươi chắc chắn mười phần, mới dám đại ngôn như thế.

Lương Tiêu cười:

- Thiên hạ đâu có việc thập toàn thập mỹ.

A Lí Hải Nha gật đầu:

- Nói cũng đúng. Nếu cần ta giúp, cứ lên tiếng.

Lương Tiêu nói: “Đa tạ!”, rồi trở về Khâm Sát doanh.

Hôm sau, Lương Tiêu chế tạo được thiết bị đo sóng động, cùng Lan Á đi ra Hán Thủy kiểm tra, ước lượng độ sâu của từng khúc sông. Quả không uổng công, ba ngày sau, hai người đã tìm thấy nơi thích hợp để đắp đê. Hôm đó quay về đại doanh, Lương Tiêu suy nghĩ mất một đêm, vẽ ra đồ họa thủy khố và các loại cơ giới, lại cùng với Lan Á thương nghị định đoạt.

Thương nghị qua hai ngày thì chính thức dùng bản vẽ con đê. Lan Á chiêu tập thợ, theo đồ bản chế tạo cơ giới, cải tạo hạm thuyền.

Lương Tiêu không lo không hoảng, ban ngày vẫn thao luyện binh mã, đêm xuống học Hồi Hồi số thuật, sau đó mới nghe Lan Á thuật lại tình hình công trình. Lan Á nghĩ hắn đã lập quân lệnh trạng, trong lòng lo lắng vạn phần, nhưng Lương Tiêu đã dặn nàng trước mặt A Tuyết đừng đề cập đến chuyện quân lệnh trạng, nên nàng cũng không tiện nói nhiều. Nhưng khi truyền thụ Hồi Hồi số thuật, trong lòng nàng vẫn thấp thỏm không yên, thường tính sai đề mục. Lương Tiêu vừa nhìn qua đã biết, không nhịn được trêu ghẹo mấy câu khiến Lan Á dở khóc dở cười.

Thời gian như tên bay, chớp mắt đã mười ngày. Hôm nay, Lương Tiêu ở doanh trại thao luyện kỵ binh, lệnh cho ba quân chơi mã cầu chi hí. Mã cầu hí vốn là trò chơi của giới quý tộc Hán, có tác dụng khảo sát kỵ thuật của người tham gia. Sau khi người Mông Cổ học được, lấy làm phép luyện kỵ binh. Làm một quả mã cầu và sáu cái cầu môn, kỵ giả phân làm đội thi đấu. Trên lưng ngựa mỗi người cầm một cây gậy màu, bên nào đánh cầu vào cầu môn nhiều hơn là thắng. Trò chơi này vốn là hai đội đấu nhau, Lương Tiêu lại có ý muốn khảo nghiệm trận hình của quân lính, chỉ đặt bốn cầu môn, đem hơn hai ngàn người phân thành ba trăm bảy mươi đội, mỗi đội sáu người, dùng Lục hoa chi trận, tranh đánh ba quả mã cầu.

Lương Tiêu đứng trên soái đài, phát hiệu lệnh. Trên thao trường, hơn hai ngàn người vây quanh ba quả mã cầu màu đỏ bắt đầu tranh đoạt, cứ sáu người một đội, ai nấy đều lo giữ trận thế không dám loạn chút nào. Trận thế hễ bị loạn, là tính như thua. Nhất thời, chỉ thấy trên giáo trường hơn ba trăm đội nhân mã xuyên qua xẹt lại, ai nấy biến hóa trận thế, bao vây ngăn chặn, kéo bắn ngáng trở. Tình hình đó thực giống như thi nhân từng nói:

“Bán không thải trượng phiên tàn nguyệt

Nhất điểm phi cầu bính lạc tinh

Thúy liễu tiểu đình huyên cổ xuy

Ngọc tiên kiêu mã túc lôi đình.”

Tạm dịch nghĩa :

Giữa bầu trời treo mảnh trăng khuyết vằng vặc

Một đốm sáng bay vụt qua như sao băng

Liễu xanh nơi tiểu đình lả lơi theo làn gió thổi

Roi ngọc thúc ngựa như sấm sét

Tạm dịch thơ :

Nửa vầng trăng treo lờ lững giữa đêm

Chợt sáng chói một tinh cầu vụt mất

Bên tiểu đình liễu vờn theo gió hát

Tiếng vung roi thúc ngựa động càn khôn

(@BT)

Hoặc :

Nửa vầng trăng giữa đêm sâu

Sáng soi một bóng tinh cầu vút qua

Tiểu đình liễu gió hát ca

Tiếng roi giục ngựa như là lôi giăng

(@Kiếp Nô)

Nói ra thì tiêu sái khôn tả. Nhưng đó vốn là trò chơi của mười mấy người, mà lúc này lại có hơn hai ngàn người tranh đoạt. Kỹ thuật cưỡi ngựa tinh thông cố nhiên không thể thiếu, nhưng nếu không đem Lục hoa trận biến hóa ra kỳ lạ, cũng rất khó để đoạt được giải nhất, tức là dùng công phu của sự khéo léo hơn là dùng sự kỳ diệu của tài phi ngựa.

Lương Tiêu đứng xa quan sát, chỉ thấy ba chấm mã cầu vào ra không thể đoán trước được ở bốn cầu môn. Nếu là người bình thường, chắc khó mà nhớ được chỉ trong sát na quả cầu vào ra bao nhiêu lần. Nhưng khả năng tính toán của Lương Tiêu là thiên hạ hiếm có, mã cầu đến đến đi đi tuy nhiễu loạn mất trật tự, hắn vẫn nhìn thấy rõ, tính rõ, không hề để lọt một quả nào. Vì thế tuy đây là phép luyện binh thiên hạ vô song, nhưng khắp thiên hạ này e rằng cũng chỉ có mình Lương Tiêu dùng được. Nếu không, các đội tự mình nhớ được bóng vào bao nhiêu quả, người xem cầu mà tính thiếu, nhất định có thể gây oán giận, vốn là việc tốt, nhưng lại biến thành việc xấu rồi.

Một lát sau, hơn hai trăm đội nhân mã đều phải nhận thua, lui sang một bên. Còn một trăm đội vẫn đang giao chiến. Lương Tiêu ghi lại rất rõ, hai đội vào cầu nhiều nhất là đội của Thổ Thổ Cáp và Lý Đình, cơ hồ không phân trên dưới. Nang Cổ Ngạt, Dương Giác, Vương Khả ba người đều ở trong những đội đó. Chỉ vì năm người này theo Lương Tiêu đã lâu, về Lục Hoa trận lĩnh ngộ tương đối sâu sắc, vì thế trận thế biến hóa vượt xa quân sĩ Khâm Sát về sự lợi hại. Lại thêm ba khắc công phu, tại trường đấu chỉ còn mười đội. Lương Tiêu ra lệnh lấy đi một quả cầu, chỉ lưu lại hai quả cầu để tranh đoạt.

Trong khoảnh khắc, năm đội kia đều bị đội ngũ của mấy người Thổ Thổ Cáp đánh tan. Lúc này tính ra, Thổ Thổ Cáp là đội có cầu vào nhiều nhất, Lý Đình thì ít hơn ba quả cầu. Chỉ một lúc sau, ba đội của Nang Cổ Ngạt, Dương Giác, Vương Khả lục tục rời đi, trên trường biến thành trận quyết đấu của hai đội Thổ Thổ Cáp và Lý Đình. Lương Tiêu lại ra lệnh lấy một quả cầu, trên trường đấu chỉ còn lại một quả mã cầu.

Cả đội Thổ Thổ Cáp có ba bách phu trưởng, kỵ thuật rất tinh thâm. Đội của Lý Đình tuy là quân sĩ bình thường, nhưng Lý Đình cơ trí thiện biến, chỉ huy đúng đắn, trận hình biến hóa đa đoan, rất khó để đánh tan. Nhất thời, hai đội đều chiếm lấy các cứ điểm, đấu đến khó phân cao thấp, người đến kẻ đi, chỉ một quả mã cầu mà đánh cho bay như phi tiễn.

Lúc này, sĩ tốt Khâm Sát thấy hai đội đấu mãi mà không phân thắng bại thì hết sức vô vị. Khi luyện binh, Lương Tiêu nghiêm túc ít ai bằng, nhưng thời gian còn thừa thì mặc cho lười biếng. Cho nên quân sĩ Khâm Sát lúc này thấy tẻ nhạt quá, bắt đầu bày trò cá độ xem đội nào thắng đội nào thua. Có người còn chè chén ca hát, đại tiện tiểu tiện. Trường đấu một phen trở nên náo loạn.

Lương Tiêu chú mục rất lâu, thấy Thổ Thổ Cáp hơi thắng hơn một bậc, Lý Đình cũng không phải loại dễ dàng đối phó, bất giác hơi gật đầu, cảm thấy rất được an ủi: “Quả không uổng công ta hao tâm tổn khí, hai người này nếu luyện tập nhiều hơn, sau này nhất định sẽ có thể trở thành đại tướng chi tài.” Nghĩ tới đây, chợt hơi có cảm giác bèn liếc mắt nhìn, chỉ thấy Bá Nhan và A Thuật dẫn thân binh ngồi trên mình ngựa đứng ở đằng xa nhìn lại. Sau lưng hai người có một vị văn quan người Hán, râu đen dài tới ngực, khuôn mặt thanh tú, đôi con ngươi nhìn chăm chăm vào trường đấu, lấp lánh tỏa sáng.

Lương Tiêu đứng dậy, roi ngựa lăng không giật một cái, một tiếng lanh lảnh vang khắp toàn trường, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp vội lùi sang bên; lại giật một nhát roi nữa, Khâm Sát quân hạ xuống những việc trong tay, ngay cả đi đại tiện cũng không kịp chùi đít, nhấc quần nhảy lên ngựa, cùng chạy điên cuồng về trước soái đài. Lương Tiêu giật nhát roi thứ ba xong, Khâm Sát quân đã tập trung ở dưới đài, xếp hàng tăm tắp, một chút cũng không loạn.

Bọn Bá Nhan phi ngựa vào, Lương Tiêu tiến lên nghênh tiếp. Bá Nhan cười điềm đạm:

- Mã cầu hí hay lắm, thật là sôi động! –

Hắn chăm chú nhìn chúng quân, nói:

- Vừa rồi rối bời bời, mà đã đến đủ rồi à?

Lương Tiêu nghe nói giương mắt nhìn, chợt thốt lên một tiếng kinh ngạc nói:

- Tại sao thiếu mất hai người rồi?

Một bách phu trưởng đứng ra khỏi hàng tâu:

- Ngạt Vật Lão bụng đau, Tiết Tư Đà theo hắn đến khám đại phu, vừa rồi cùng với ta nói qua. Ta không kịp báo, ngươi đã chiêu binh rồi!.

Lương Tiêu gật đầu:

- Ngươi đi xem hắn có trở ngại gì không? Ta lát nữa sẽ đến thăm hắn.

Bách phu trưởng lĩnh mệnh vội vã đi.

Bá Nhan ngạc nhiên nói:

- Ngươi chưa điểm binh, làm sao biết thiếu người?

Lương Tiêu định nói, văn quan người Hán đã đột nhiên cười ha ha:

- “Tam nhân đồng hành thất thập hi

ngũ thụ mai hoa nhập nhất chi

thất tử đoàn viên chỉnh bán nguyệt

trừ bách linh ngũ tiện đắc tri”! (3)

Lương Tiêu tâm niệm chợt động, cung tay cười:

- Dám hỏi tiên sinh đại danh?

A Thuật cười :

- Vị này là Quách Thủ Kính Quách đại nhân, Đô thủy thiểu giám của triều đình, là người thông minh hiếm có trong số Hán nhân. Lần này ngài phụng chỉ đến đây, kiến tạo thủy trạm cho đại quân.

Lương Tiêu biết quân Nguyên đông đến hai mươi vạn người, không chỉ lương thảo vận tải hết sức gian nan, nước uống cũng thế. nếu uống phải nước không tinh khiết, dịch bệnh lây nhiễm, sẽ chết hàng ngàn hàng vạn người, tổn thất không thể tính được. Vì thế việc kiến lập thủy trạm là một việc khá lớn, không tinh thông thủy lợi không làm được.

A Thuật giơ roi chuyển thân, hướng về Khâm Sát quân ra lệnh:

- Các ngươi đi đi!

Nào ngờ chúng quân hoàn toàn không động đậy. A Thuật cau mặt định nói, chỉ thấy Lương Tiêu huy roi giật nhẹ, cười bảo:

- Giải tán đi!

Chúng quân mới hô một tiếng rồi giải tán dần. A Thuật sững người, đấm Lương Tiêu một quyền, mắng:

- Giỏi cho ngươi Lương Tiêu, đã dạy dỗ cái lũ lưu manh này ngoan thế? Đến lời của ta mà họ cũng không nghe.

Lương Tiêu cười:

- Họ nghe lời ta, ta nghe lời huynh vậy!

A Thuật khẽ vỗ một cái lên vai hắn, cười ha hả.

Bá Nhan ho khẽ, hỏi Quách Thủ Kính:

- Bài thơ mới rồi có ý nghĩa gì?

Quách Thủ Kính mỉm cười:

- Bài thơ này là một khẩu quyết toán đề. Đề bài tên là Vật bất tri số, lại là Tôn Tử toán đề, do Binh thánh Tôn Vũ Tử lưu lại. Toán đề ra rằng: “Vật bất chi số, ba nhân ba thừa hai, năm nhân năm thừa ba, bảy nhân bảy thừa hai, hỏi vật này có bao nhiêu?” Bài thơ mới rồi, chính là bí quyết giải đề, cứ theo đó mà giải, cuối cùng khai triển theo nó, ta được vật là hai ba.

A Thuật nói:

- Ngươi nói bóng bẩy ta cũng không hiểu. Nhưng Tôn Vũ Tử đại danh ta lại có nghe. Chỉ bất quá, đề mục này với điểm binh có quan hệ gì?

Quách Thủ Kính nhìn Lương Tiêu, cười bảo:

- Lương tướng quân, ta thật là “múa búa trước cửa Lỗ Ban” (4) rồi!

Lương Tiêu phẩy tay:

- Ngài nói đi đâu thế!

Quách Thủ Kính tiếp tục:

- Đề này là di pháp của Tôn Vũ, tự nó cũng có ám hợp binh pháp bên trong. Nói ra, đây vốn là phép tính toán rất xảo diệu, chỉ cần binh tốt căn cứ theo ba ba, năm năm, bảy bảy trận thế xếp hàng, là có thể suy ngược lại tổng số binh viên. Hán đại danh tướng Hàn Tín, Đường thái tông Lý thế dân các vị nhất định phải biết. Hai người đó sở trường dụng binh không ai bằng, cũng đều là cao thủ về phép này. Vì thế điểm binh thuật lại tên là Hàn tín điểm binh hoặc Tần vương ám điểm binh, chính là cho dù có bao nhiêu binh mã, chỉ cần theo đúng trận xếp ra, đại tướng lặng lẽ quan sát trận thế, chỉ trong sát na là biết được số mục.

Nói tới đây, hắn chăm chú nhìn Lương Tiêu, nói.

- Đạo lý đó nói ra tưởng dễ, nhưng vận dụng vào thì lại khó càng thêm khó. Nếu không phải trong lòng tính toán đến xuất thần nhập hóa, rất khó vừa nhìn một cái là ra. Từ Đường Thái Tông và Lý Tịnh tới nay, kỳ thuật điểm binh này cơ hồ đã thất truyền, cận đại chỉ nghe nói có Nhạc Phi thông hiểu, nhưng cũng chỉ là nghe nói. Nhạc Vũ Mục chết oan trong ngục, không có binh pháp truyền ra hậu thế, phép này cũng chính là không có người dùng. Không ngờ ở chỗ Lương tướng quân, Quách mỗ lại được nhìn thấy Tôn Vũ diệu thuật!

Bá Nhan thần sắc nghiêm túc, gật đầu, hướng Lương Tiêu nói:

- Ngươi viết phép này thành chương trình, gủi đến chỗ ta để truyền ra toàn quân, khiến đại tướng nào cũng biết được. Cái gọi là binh quý thần tốc, điểm binh chi pháp này rất có tác dụng.

Lương Tiêu đáp ứng. Quách Thủ Kính nghĩ thầm:

- Sợ rằng đại tướng khác cho dù biết cách cũng không thể dùng tốt được.

Mọi người vừa nói chuyện vừa tiến vào trướng. Lương Tiêu cho người dâng lên rượu pha sữa ngựa, Bá Nhan uống một hớp, nói:

- Ngươi lúc trước không phải từng hỏi ta ai xây Giang Tâm thạch đài ư?

Lương Tiêu mục quang khẽ chuyển, nhìn Quách Thủ Kính, cười nói:

- Nghĩ chắc là Quách đại nhân rồi.

Bá Nhan thở dài:

- Việc quân không thể nói chơi được. Ngươi là tiểu tử mà gan to bằng trời, trước mặt chúng tướng dám lập quân lệnh trạng với ta, không cần mạng nữa sao? May mà trời còn thương cho Quách đại nhân kịp thời đến nơi.

Lương Tiêu lại cười, nói:

- Thật là trùng hợp.

Quách Thủ Kính cau mày:

- Lương tướng quân chỉ cần hai tháng kỳ hạn. Bây giờ tính ra chỉ còn chưa đến một tháng rưỡi, tướng quân chắc đã có chuẩn bị rồi?

Lương Tiêu nói:

- Cái này ta cũng không mười phần chắc chắn, đều là Lan Á đang làm.

Ba người còn lại nhìn nhau. Bá Nhan cau mày:

- Đến lúc đó ta sẽ chặt đầu ngươi chứ Lan Á không có liên quan gì cả.

Lương Tiêu khe khẽ lắc đầu, nghiêm sắc mặt:

- Ta tin Lan Á.

A Thuật có vẻ không vui:

- Cô ta là một nữ nhân mà cũng có thể tin ư?

Lương Tiêu trông ra xa, điềm đạm nói:

- Cô ấy là nữ nhân, nhưng cũng là học trò của Nạp Tốc Lạp Đinh.

Bá Nhan, A Thuật nghe lời này, mặt đều trầm xuống. Chưa kịp trách móc, Quách Thủ Kính đã cười nói:

- Bây giờ đã gặp Lương tướng quân rồi, đại nguyên soái việc quân bận rộn, xin cứ về trướng đi!

Bá Nhan nghe vậy, trong lòng hồ nghi nhưng đành đứng dậy. Lương Tiêu tiễn hắn ra khỏi lều, chợt thấp giọng nói.

- Cám ơn.

Bá Nhan hừ lạnh, cũng không đáp lời, nhảy lên ngựa, cùng A Thuật ra khỏi viên môn.

A Thuật cười:

- Hai người đúng là cùng một nhà mà ra. Ngươi thì nói một đằng nghĩ một nẻo, rõ ràng là việc công, lại âm thầm chiếu cố gã sư điệt ấy rất cẩn thận. Hắc, với cái danh tu sửa thủy trạm, dùng mấy mươi khoái mã đi suốt ngày đêm, từ đại đô đem Quách đại nhân đưa tới quân trung. Còn tiểu tử này? Miệng không nói, nhưng trong lòng thì rõ hết.

Bá Nhan cau mày, thở dài:

- A Thuật, hài tử này tài hoa cái thế, ngươi và ta đều không bằng. Nhưng hắn hay tỏ ra sắc sảo quá mức, ta sợ hắn bị người khác đố kỵ.

A Thuật cười lạnh:

- Kẻ nào muốn động đến hắn, trước tiên phải vượt qua cửa ta đây.

Bá Nhan lắc đầu:

- Nếu trong hai tháng hắn không phá được phù kiều, ai cũng cứu không được hắn!

A Thuật cười:

- Ngươi yên tâm, ta biết tính Lương Tiêu. Đúng là hắn luôn đặt mắt trên đỉnh đầu, nhưng xưa nay chưa từng nói láo.

Bá Nhan ngậm miệng không nói, ngoảnh nhìn Khâm Sát đại doanh, thở một hơi dài.

-----------------------

(1) Phù kiều : cầu nổi.

(2) Hạnh tai lạc họa : vui mừng trước tai họa của người khác.

(3) Bài thơ này bao hàm lối chơi chữ của người Hoa cổ, dùng những từ vừa có nghĩa cũng vừa là số, nếu dịch số thì mất nghĩa mà dịch nghĩa thì mất số. Do tiếng Việt không có những từ chức năng tương tự, nên chúng tôi đành để nguyên.

(4) Nguyên văn : “ban môn lộng phủ”. Ban: Tên Ban, họ Công Thâu, người nước Lỗ thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên thường được gọi là Lỗ Ban, làm mộc rất giỏi, về sau được tôn là Ông Tổ nghề thợ mộc. Môn: Cửa. Lộng: Múa. Phủ: Cái búa. Câu này nghĩa tương tự như “múa rìu qua mắt thợ”.

Lương Tiêu ra lệnh cho người mời Lan Á nhập doanh, đưa bản thủy khố ra cùng xem với Quách Thủ Kính. Quách Thủ Kính cẩn thận xem một lúc lâu, chợt thở ra một hơi, chậm chậm hạ bản thủy khố xuống, Lan Á vội hỏi:

- Quách đại nhân, lẽ nào không tốt ư?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Đâu có, bản vẽ này thật toàn thiện toàn mỹ, ngay cả chính lão sư ngươi Nạp Tốc Lap Đinh cũng vị tất đã moi được khuyết điểm nào. Cái ta thở dài là, ta chuyến này là đến không được việc gì rồi. Chẳng làm được việc gì nữa.

Lan Á vui mừng nói:

- Vậy thì tốt quá rồi, ta ngày đêm lo lắng, chỉ sợ bản thủy khố này không ổn.

Nàng lại liếc Lương Tiêu, trách:

– Hắn thì im hơi lặng tiếng, chỉ biết nói không có vấn đề gì, không có vấn đề gì, đúng là khiến người ta lo muốn chết đi!

Quách Thủ Kính cười:

- Lương tướng quân trong lòng đã có dự tính rồi, tất nhiên không phải sợ gì rồi.

Lương Tiêu phẩy tay nói:

- Nói không sợ là nói dối, nhưng thay vì kinh sợ lo lắng, đứng ngồi không yên, chi bằng cứ phóng tay thử một trận. Lan Á là tinh học gia Hồi Hồi, thuật thủy lợi giỏi hơn ta. Bây giờ lại có Quách tiên sinh ngài, một đại gia thủy lợi tương trợ, tin rằng không hết một tháng là có thể thành công..

Quách Thủ Kính mỉm cười:

- Lương đại nhân quá lời rồi, Quách mỗ gắng sức là được.

Sau đó, Lương Tiêu cáo từ đi ra ngoài, tự mình xử lý các quân vụ, để lại hai người thương lượng cụ thể.

Lương Tiêu biết tin tàu bè đã làm xong, bèn đem quân vụ ủy thác cho A Thuật, đích thân ra bờ Hán Thủy cùng Quách Thủ Kính chỉ huy việc lắp sườn thuyền, lắp đặt các loại cơ quan. Sau đó hắn cho đào một hố to dưới mười chiếc thuyền, khiến cự hạm dần dần bị treo lơ lửng, ở bên dưới đặt những cọc gỗ dài ngắn; xong rồi mới từng bước chặt bỏ cọc gỗ, làm cho cự hạm rơi xuống hố, bằng với mặt đất; lại đem mấy ngàn vạn cân đất đã đào chia làm ba tầng, đẩy vào ba tầng khoang thuyền của cự hạm.

Lan Á thì dẫn người dựng những hàng rào gỗ dọc bờ sông, trong vòng ba ngày ngắn ngủi, đã phát động đến gần một vạn sĩ tốt, dùng những cơ quan gỗ tròn, đem đất đá từ trên núi hai bên bờ sông lăn xuống đến trước hàng rào. Còn Quách Thủ Kính thì ở bên hàng rào, dùng những đất đá này đắp thành đê sông.

Đất đá đắp xong, Lương Tiêu dẫn người trước các cự hạm đều đào một dòng kênh ngắn, đào sơ một đoạn mương ngắn trước thuyền, dẫn thông ra dòng Hán Thủy. Nước sông từ con kênh ngắn chảy vào hố sâu, cự hạm tức thì nổi lên. Sĩ tốt thuận theo thế nước mà đẩy thuyền đi. Tám chiếc cự hạm rộng trước sau lần lượt được hạ thủy. (1) Đến chỗ đắp đê, chỗ này so với những chỗ chỗ khác thì rất hẹp, Lương Tiêu đã sớm ở trên sông đặt tám cái phao để nhận rõ địa điểm.

Đến gần phao, Quách Thủ Kính thả neo, neo dừng thuyền lại. Lan Á thì chỉ huy thủy quân chuyển động máy móc, đẩy tấm ván di động dưới đáy thuyền trượt ra khiến nước sông tràn vào rất mạnh. Tám chiếc cự hạm mang theo đất đá, từ những vị trí đã được đánh dấu bằng phao, chìm xuống dưới sông; bốn trên bốn dưới, cao đến mười trượng, cắt ngang dòng sông, cấu thành một cơ sở cho con đê. Còn hai chiếc cự hạm hẹp dài, đặt ở hai bờ đê, Lương Tiêu cũng lệnh cho đào kênh thẳng, thông với sông, rồi cùng Quách Thủ Kính, mỗi người dẫn một con thuyền dài tiến ngang ra sông rồi cũng lại rút ván cho nước sông tràn vào. Một trái, một phải từ từ chìm sâu xuống móng. Hai chiếc thuyền này cách nhau chỉ khỏang mười trượng, ván lát sàn thuyền thì cao hơn mặt nước mấy trượng. Đến đây, ở giữa hai thuyền, dòng nước có xu hướng xoáy hơn.

Sau đó, Lan Á dẫn mọi người đắp lại mười con kênh, lấp hết những khe hở của con đê. Lương Tiêu thì cùng Quách Thủ Kính chia nhau đứng ở hai đầu thuyền, dùng hai mươi dây sắt to đem một cái lồng chu vi mười trượng xếp đầy đá lớn treo vào giữa hai con thuyền. Lúc này dòng nước bị cản trở, thượng lưu dâng lên mạnh, cao hơn mười trượng nữa, vị trí nước vượt qua chiếc lồng khổng lồ, xoáy mạnh vô cùng. May có con đê ngăn dòng nước, khiến nó không đến nỗi vỡ tung.

Trên mặt thành, người Tống thấy quân Nguyên cả ngày bận rộn, chỉ cảm thấy bất diệu, nhưng bất diệu chỗ nào thì lại không nói được. Cho đến khi con đê hợp long, mới biết quân Nguyên muốn cắt đứt Hán Thủy, nhất thời đều không hiểu ra sao. Lữ Đức nói:

- Người Nguyên cắt dòng làm gì? Muốn dìm thành à? Nếu chặn hạ lưu, làm nước sông chảy vào Tương - Phàn, nhưng thành môn Tương - Phàn cách nước rất cao, dìm thành e rằng còn khó hơn cả lên trời. Muốn thả nước đẩy phù kiều của ta ư? Đến chỗ phù kiều, thế nước đã chậm, cuốn được mặt phù kiều thì còn có đạo lý, chứ đẩy cả trụ cầu thì tuyệt không thể được.

Vân Thù cũng cảm thấy có lý, bèn nói:

- Để tránh nước lớn đẩy mất mặt cầu, Thái Thú nên phái người và vật chở nặng đồ đứng chặn trên phù kiều.

Lữ Đức mừng rỡ, cho rằng kế này thế là hoàn hảo.

Lương Tiêu thấy đê đắp đã xong, liền hiệu lệnh cho quân Nguyên, đem một trăm khúc gỗ tròn nhọn đẩy xuống nước. Mỗi khúc gỗ tròn dùng da trâu buộc mấy trăm tảng đá lớn, đến nỗi gỗ tròn không thể nào nổi lên mặt nước được, chỉ có cách chìm xuống đáy nước. Sau đó gỗ tròn nhao nhao theo dòng trôi đi, đến cửa lồng gỗ muốn qua không được, cứ xô tới xô lui. Lương Tiêu lại lệnh cho chúng quân kéo chiếc lồng lên, thả cho nước trôi ra. Đột ngột, mấy trăm cây gỗ lớn theo dòng nước lao ra, sau đó dần dần tản ra, chìm trong những con sóng mạnh mẽ, xông thẳng đến hạ du.

Trong lúc đó, Tống quân kéo trâu ngựa, phụng mệnh ở trên phù kiều trấn thủ, nhìn ra xa thấy dòng nước lớn tràn tới, nổi lòng tức giận người Nguyên, lần lượt cởi áo, nghênh đón dòng nước, hét lên một cách thống khoái. Ai ngờ cầu gỗ chấn động dữ dội, dưới nước đột nhiên truyền tới những nhiều tiếng ầm ấm, tựa như có cây cột gỗ sụp đổ. Không đợi chúng nhân bình tĩnh lại, một trăm cây trụ nâng đỡ phù kiều đã đổ mất một nửa, phù kiều sụp xuống, người Tống rơi tòm xuống nước.

Trên thành tướng Tống trố mắt há mồm. Tính toán trăm mưu ngàn kế, nhưng tuyệt không thể ngờ tới Lương Tiêu khổ sở tích nước, chính là muốn mượn thế nước dẫn đẩy những cây gỗ tròn, tránh khỏi Ngư Võng trận, từ dưới mặt sông mà xô hủy cây chống của phù kiều. Chưa kịp nghĩ đến đối sách, Lương Tiêu lại một lần nữa tích nước, thả nước, đợt cây gỗ lần thứ hai lại trôi tới. Lần này, phù kiều cây trụ đều đã bị hủy hết, chỉ còn lại mặt cầu bên trên, bị dòng nước xoáy cuốn vào, trôi xuống hạ du.

Hơn mười vạn quân Nguyên hoan hô không dứt. Bá Nhan và chúng tướng đứng bên cạnh chỗ lồng nước, xem đến đây, khó nhịn được niềm vui điên cuồng, bèn hét to:

- Lương Tiêu, ngươi làm rất tốt! Ngươi muốn được thưởng gì? Cứ việc nói đi!

Chúng tướng nhìn Lương Tiêu, trong lòng lo sợ, lại cảm thấy đố kỵ, sợ hắn lại đòi thăng quan tấn tước. Nếu phải để cái tên tiểu tử non kém này cùng mình đứng ngồi ngang hàng, thì thật khó chịu vạn phần.

Lương Tiêu từ trong ngực lấy ra một trang giấy, đưa cho Bá Nhan:

- Dược liệu trên giấy này, Nguyên Soái có thể vì tôi cung cấp các vị thuốc này chừng nửa năm không?

Chứng tướng vừa nghe, đều hết sức ngạc nhiên. Bá Nhan tiếp tờ giấy quét mắt qua, vô cùng buồn bã:

- Việc này ngươi cứ cầu xin riêng với ta, ta tiện tay làm là được, hà tất phải lấy làm phần thưởng?

Cau mày lại, hắn lại hỏi lần nữa:

- Chỉ thế này thôi hả?

Lương Tiêu nói:

- Chỉ có thế.

Bá Nhan ngấm ngầm thở dài, quay lại bảo thân binh đem giao cho y quan, hỏa tốc bốc thuốc. Lương Tiêu nghĩ tới A Tuyết có thể xóa được các vết sẹo trên thân thể, khôi phục làn da trong ngọc trắng ngà ngày xưa, trong lòng có một niềm vui khôn tả, không thể nói nên lời.

Lúc này Bá Nhan mục quang như điện, quét nhìn chư tướng, dõng dạc nói:

- Hôm nay phù kiều đã phá xong, hai thành đã bị cách ly. Phàn Thành thấp nhỏ, binh cô, thế yếu, chỉ cần Phàn thành bị phá thì Tương Dương sẽ lập tức trở thành một thành trì cô độc, mau chóng bị hạ. Trừ Lương Tiêu, chúng tướng hãy quay về vị trí, lập tức thống lĩnh quân đội tiến vào vây Phàn Thành.

Chúng tướng nghe lệnh, nhao nhao tỏa đi. Bá Nhan hướng tới Trát Mã Lỗ Đinh hỏi:

- Hồi Hồi pháo(2) làm xong chưa?

- Đã xong hai pháo, hai ngày sau là có thể dùng được.

Bá Nhan cười dài:

- Đất trời trường tồn bảo hộ Đại Nguyên ta rồi! Thưởng cho ngươi hai trăm lạng vàng. Ngươi dẫn người đem pháo vận chuyển đến Phàn Thành, bắn vào tường thành, đánh cho nó nát vụn ra.

Trát Mã Lỗ Đinh ứng thanh, vội vã đi ngay.

Bá Nhan ngoảnh đầu lại, cười bảo Lương Tiêu:

- Ta đoán, quân Tống không còn phù kiều, Lữ Đức nhất định sẽ điều thủy sư sang cứu viện Phàn Thành. Tuy chậm hơn một chút, nhưng cũng không dễ đối phó. Ngươi có cách nào không?

Lương Tiêu trầm ngâm nói:

- Nếu muốn thuyền chiến vận chuyển , thì phải gỡ các lưới đánh cá, nếu không thuyền không thể chèo được.

Bá Nhan hiểu ý:

- Hảo, ta phái ba ngàn người, luân phiên chặt cây gỗ, nếu còn không đủ, lại cho ngươi năm ngàn người và súc vật. Hãy nhớ, phải làm đứt sự tương trợ của hai thành.

Lương Tiêu đáp ứng nhận lệnh.

Một lát sau, tiếng pháo hiệu vang lên, quân lính bắt đầu áp sát Phàn Thành. Bá Nhan xuống khỏi đê, nhảy lên ngựa, đích thân chỉ huy.

Quả nhiên, khi thấy Phàn Thành gặp hiểm nguy, Lữ Đức hỏa tốc gỡ lưới, điều thủy sư chở binh sĩ cứu viện. Vân Thù hiến kế bỏ neo thuyền, dùng xích sắt nối lại, tự tạo thành phù kiều. Lữ Đức lập tức làm theo, điều động một trăm thuyền nối thành một chuỗi, nối liền hai thành.

Lương Tiêu thấy lưới đánh cá đã được gỡ, lập tức hạ lệnh bỏ đi các khối đá buộc, các cây gỗ tròn lần lượt nổi lên mặt nước. Quách Thủ Kính nhấc lồng thả nước, sóng mạnh lập tức mang theo gỗ tròn xông thẳng xuống, khiến đáy các thuyền chiến của Tống quân bị đánh nát từng chiếc, từng chiếc một. Nhất thời nước sông tràn vào, chiến hạm của quân Tống tổn thất nhiều không sao kể xiết.

Lữ Đức và Vân Thù hoảng kinh thất sắc, vội ra lệnh cho thủy quân kéo lưới đánh cá ngăn sông. Lương Tiêu không để cho họ có thời cơ giăng lưới, không ngừng điều gỗ tròn đến, phóng thẳng xuống dưới, quét hết thủy sư Tống. Chỉ một ngày ra công phu, tàu lớn thuyền nhỏ của quân Tống bị cọc gỗ đánh chìm vô số, bị bức lui xuống hạ du.

Trương Hoằng Phạm thừa cơ ngược dòng công kích, Tống quân thủy sư đằng trước có cọc gỗ, đằng sau lại bị pháo bắn, không nghĩ ra được cách gì, nhất thời nhốn nháo chạy trốn, lại sau một đêm kịch chiến, thủy sư quân Tống hoàn toàn bị đánh tan, tàu thuyền tan tác khắp Hán Thủy. Từ đó, Tương Phàn hai thành không thể tương hỗ cho nhau, trở thành cô lập.

Bá Nhan đích thân đốc trận, quân Nguyên không phân ngày đêm, tấn công Phàn Thành. Quân phòng thủ Tương Dương hữu tâm vô lực, lại khó cứu viện. Mấy mươi vạn quân dân thành Tương Dương nhìn sang Phàn Thành, tiếng khóc chấn động trời đất. Lữ Đức gặp phải thất bại to lớn, bi thống vô cùng, nhưng thân làm chủ soái, chỉ còn cách gạt lệ nhẫn chịu, cùng Vân Thù thương nghị một lúc, quyết ý phái mấy tên lính thông thạo thủy tính, lén vượt qua Dĩnh Châu, tiến về triều đình cầu viện.

Ba ngày sau, Hồi Hồi pháo được vận chuyển qua sông Hán Thủy, lắp đặt bên ngoài tường thành của Phàn Thành, cách thành lâu khỏang một ngàn bộ. Lương Tiêu trông ra xa, chỉ thấy cỗ pháo cao chín trượng, dài mười trượng, trong có trụ quay, trước ngắn sau dài, trước dùng xích sắt treo đến mấy vạn cân cư thạch, sau có răng cưa lớn nhỏ mấy chục cái. Hơn mười mấy người nắm lấy chuôi, mượn sức răng cưa, mới đem những hòn đá buộc lại, để đuôi pháo trễ xuống, lắp lên hơn mười tảng cự thạch.

Trong sát na, Trát Mã Lỗ Đinh một tiếng ra lệnh, chúng nhân đồng thời thả tay, xích sắt vội thu lại, tiếng như sấm nổ. Lương Tiêu ở ngoài mấy dặm, vẫn có thể nghe thấy rõ, chỉ thấy trăm cân đá trầm xuống, ba trăm cân đá thì lại bay lên cao, rơi xuống đầu thành Phàn Thành. Đúng lúc đá rơi, quân Tống liền trông thấy một chuyện đáng sợ nhất trong đời. Tiễu lâu nguy nga chỉ trong nháy mắt nát vụn, mấy chục tên lính Tống bị đá đè nát nhừ. Nhất thời, tiếng rung chuyển, tiếng la thảm, tiếng thốt kinh hãi hòa lẫn vào nhau trên đầu thành.

Hai cỗ pháo Hồi Hồi từ mặt đông luân phiên bắn vào Phàn Thành. Trên thành lâu, tất cả đều tan nát, không ai còn đứng được. Tướng lĩnh Tống dẫn bộ và kỵ binh đánh ra ngoài thành, muốn hủy hoaị cỗ pháo, nhưng quân Nguyên đã đề phòng trước hai bên xông vào huyết chiến, quân Tống ít, không địch được nhiều, phải lùi vào thành. Quân Nguyên thấy quân Tống không đủ lực để chống trả, liền đưa cỗ pháo thêm năm trăm bộ vào gần chân thành, đá tảng bắn thẳng vào trong thành, tiếng động như sấm nổ mưa rơi.

Tấn công dữ dội như thế suốt nửa tháng, Phàn Thành chống trả ngày càng yếu ớt. Quân Nguyên thừa thắng lắp vân thê đột nhập vào ngoại vi Phàn Thành. Tám ngàn quân phòng thủ phải lùi vào nội thành. A Lý Hải Nha và Lưu Chỉnh cùng lĩnh đại quân bao vây nội thành.

Lúc này, Lâm An nghe tin Tương - Phàn bị cắt đứt sự tương trợ, vô cùng khiếp đảm. Giả Tự Đạo vội điều mười vạn lục quân và mười vạn thủy quân, lệnh cho Hạ Quý và Phạm Văn Hổ dẫn quân lại cứu viện Tương - Phàn. Bá Nhan nghe được tin tức từ gián điệp bên Đại Tống, thấy thủy sư đã bị phá, bèn gọi Lương Tiêu về, lệnh cho Khâm Sát quân trấn giữ Bách Trượng sơn, cản đường Phạm Văn Hổ, lại ra lệnh cho A Thuật, Sử Thiên Trạch dùng thủy sư phong tỏa thủy đạo bốn mặt, cản trở Hạ Quý.

Hơn mười ngày sau, Phạm Văn Hổ dẫn mười vạn kỵ binh đến gần Bách Trượng sơn. Hắn vốn hèn nhát, lại không muốn đến cứu viện, đến đây chỉ là ra vẻ để sau này báo cáo với triều đình. Tống binh lập tức hạ trại quan sát, cách Tương Phàn năm mươi dặm. Không ngờ Lương Tiêu đã nhận được tin mật báo, dẫn thẳng Khâm Sát quân đến công kích trong đêm. Phạm Văn Hổ lúc này chưa ổn định được doanh trại, vừa bị tấn công đã thất bại. Khâm Sát quân tung hoành trong trận, đánh giết mười vạn quân Tống dữ dội, làm máu chảy thành sông. Phạm Văn Hổ thu thập bại binh hốt hoảng rút về Dĩnh Thành.

Lương Tiêu phán đoán tình hình, quyết định thừa thắng truy đuổi, ra lệnh cho Thổ Thổ Cáp dẫn năm trăm người về trấn giữ Bách Trượng sơn, còn chính hắn thì dẫn hơn một ngàn tinh kỵ Khâm Sát, mỗi người dắt theo hai ngựa, tên bắn năm mươi túi, ba ngày hai đêm, ngựa không rời yên, giáp không cởi bỏ, vượt núi băng đèo chém giết liên tục, tiến lui như quỷ thần, không sao nắm bắt được. Mười vạn quân Tống bị hơn một nghìn quân Khâm Sát đánh tan, hầu như toàn quân đều bị tiêu diệt. Phạm Văn Hổ mặc giả nông dân, ẩn trốn trong núi mới thoát chết. Số binh sĩ chạy được về Dĩnh Châu còn chưa tới một trăm. Trước cảnh thất bại thê thảm ấy, lực lượng trấn thủ Dĩnh Châu đều ớn lạnh.

Lương Tiêu dẫn quân đuổi tới chân thành Dĩnh Châu, quân Tống đóng chặt cửa, chĩa cung nỏ xuống, im lìm lập trận chờ đợi. Lương Tiêu thấy vậy, lại thêm quân mình đã mệt mỏi, bèn giục ngựa quay về. Tướng Tống là Trương Thế Kiệt thấy trận thế như vậy, cảm thấy có cơ hội thủ thắng, bèn mở cổng thành đuổi đánh, nhưng sợ quân Khâm Sát kiêu dũng, bèn đặc phái đến bốn ngàn tinh kỵ, hai ngàn đuổi đằng sau, hai ngàn đánh úp hai cánh.

Lương Tiêu bèn dẫn quân chạy về phía bắc. Quân Tống đeo bám không rời. Quân Khâm Sát đã mấy lần quay lại chực giao chiến, khổ nỗi ít không chọi được nhiều, dần dần có dấu hiệu tan rã. Mãi cho đến khi cách xa bình nguyên Dĩnh thành, quân Tống cuối cùng cũng đuổi tới nơi. Tống quân vừa tấn công là quân Khâm Sát chia làm bốn đội, bỏ chạy tứ tán. Quân Tống xé lẻ truy sát, vô tình làm hỏng trận thế, lúc này Lương Tiêu bèn quay lại rúc tù và, tướng sĩ Khâm Sát vừa phóng điên cuồng vừa đổi ngựa, từ bốn hướng phản kích vào, trận thế Lục Hoa bắt đầu chuyển động, tên bắn như gió táp mưa sa. Ngay tức khắc, bốn ngàn kỵ binh Tống rối loạn, xác người, xác ngựa la liệt khắp núi đồi.

Trương Thế Kiệt đứng trên đầu thành nhìn ra xa, kinh hãi vô cùng, gấp rút dẫn đại quân ra khỏi thành cứu viện. Nào ngờ quân Khâm Sát vẫn rất khí thế. Lương Tiêu vung roi chỉ, đoàn quân đang trở về bèn xông tới tiếp viện, vừa phi thật nhanh, vừa theo hiệu lệnh của Lương Tiêu. Quân Khâm Sát chia ra làm các Lục Hoa trận, sáu tiểu trận kết thành một trung trận, sáu trung trận kết thành một đại trận, đại trận kết thành hình mũi kiếm vươn dài, như một thanh trường kiếm sắc bén, xuyên suốt trung quân Tống dễ như trở bàn tay, ra vào như chốn không người. Toàn thể quân Tống thua chạy tan tác, Trương Thế Kiệt chỉ dẫn được một nhóm sống sót chừng ba ngàn người chạy về Dĩnh Châu.

Đến đây, Lương Tiêu khua roi thu binh, chỉ thấy năm nghìn túi tên sắp cạn, người ngựa tuy vẫn khỏe mạnh nhưng biết thực chất đều đã mệt mỏi vô cùng, khó mà đánh tiếp được nữa. Hắn lập tức hạ lệnh thu binh, trở về đại doanh ở Bách Trượng sơn. Trương Thế Kiệt là danh tướng đương thời nhưng mới hai trận đã tổn thất nghiêm trọng, đành trợn mắt nhìn quân địch mệt mỏi chậm rãi rời đi, mà không dám phái thêm một binh một tốt nào truy đuổi. Sau trận chiến này, quân Tống tổn thất năm vạn, uy thế của đám “Hoàng Mao Quỷ” chấn động Đại Tống đến độ trên Hán Giang một dải, dân chúng thường đem Mao quỷ ra để dọa cho trẻ con nín khóc quấy ban đêm.

Tống tướng Hạ Quý nghe tin bộ binh và kỵ binh của Phạm Văn Hổ thất bại như thế thì một ngày kinh sợ đến mấy lần. Hắn trông thấy thủy sư của Trương Hoằng Phạm đến tấn công, chưa bắn một mũi tên nào đã quay thuyền tháo chạy về Dĩnh Thành, lại thấy thảm trạng Phạm Văn Hổ, trong lòng nghĩ mình rất là may mắn.

Nửa tháng sau, quân Nguyên cuối cùng cũng đột nhập được vào Phàn Thành. Đến lúc này, chiến cuộc giữa hai nước Tống - Nguyên đã duy trì được suốt sáu năm, Phàn Thành thất thủ, Tương Dương hoàn toàn trở thành một thành trì cô độc. Cũng trong tháng ấy, triều đình nhà Nguyên hạ chỉ, vì Lương Tiêu lập được chiến công rực rỡ, lệnh cho làm Khâm Sát quân Tổng Quản. Bá Nhan lại đưa bốn ngàn tinh kỵ Khâm Sát mới chiêu binh nhập vào Khâm Sát doanh, đưa tổng số lên bảy ngàn, binh lực mạnh mẽ độc nhất vô nhị.

-------------------------------

Ghi chú:

(1) Đây là 1 trong 2 phương pháp hạ thủy thông dụng cho tàu bè và cả 1 số kết cấu khác. Cách thứ nhất là dùng mặt nghiêng, trực tiếp đẩy tàu xuống sông/biển. Cách thứ 2 là đào những con kênh nhỏ để đưa nước vào vị trí đóng tàu (dry-dock), cho tàu nổi lên rồi đẩy dần tàu ra biển/sông. Lương Tiêu dùng cách thứ 2. Cần lưu ý đây là truyện, có những chi tiết kỹ thuật không thật hòan tòan chính xác.

(2) Hồi Hồi pháo là great catapult mà trong phần chú chương 1, hồi 2, quyển 4 có đề cập tới.

Côn Luân

Cùng Đồ Mạt Lộ

Hôm sau, Lương Tiêu cắm cọc cách thành Tương Dương chừng hai ngàn bộ, đánh dấu vị trí xây đài. Cùng lúc, quân Tống cũng dỡ nhà lấy gỗ, chế tạo giàn nỏ Thiên Cương phá trận thứ ba để tăng uy lực tấn công. Vân Thù nhìn quân Nguyên lũ lượt chuyển đất đến đắp thì hiểu ngay mục đích của họ, lập tức cho lính đánh phá, hiềm nỗi hai bên cách nhau đến mấy dặm, thay đủ mọi loại tên đạn mà nỏ giàn đều không bắn tới nơi. Lương Tiêu còn phái kỵ binh ra khiêu khích Thiên Cương phá trận nỗ, thử xem cự ly xa nhất đến đâu thì vẽ vạch trắng ở đó, hễ thấy quân Tống vượt qua vạch là xáp lại tấn công, còn chưa thì chỉ đối kháng từ xa bằng cung nỏ.

Trong ba ngày hai bên giằng co, pháo đài cũng được cấp tốc hoàn thành, hiện lên sừng sững trên đồng trống. Đài cao bốn trượng, rộng tám trượng, bên trên còn dựng thêm một bệ gỗ cao bốn trượng, chỉ sáu trượng nữa là ngang bằng với mặt thành. Trát Mã Lỗ Đinh tháo rời Tương Dương pháo, kéo lên đài rồi ráp vào như cũ. Khẩu pháo cao mười trượng, lắp đặt xong đã vượt hẳn bờ tường Tương Dương.

Vân Thù đoán ra ý đồ của quân Nguyên, vội chạy đi báo Lữ Đức. Họ Lữ hoảng hồn dốc hết lực lượng tấn công, Lương Tiêu bèn lập trận chống trả. Hai đạo quân hò hét vang lừng. Chiến binh Khâm Sát dũng mãnh vô song, quân Tống có Vân Thù, Cận Phi và đám hào kiệt phương nam trợ giúp mà vẫn không sao lay chuyển được trận thế của họ. Vân Thù định đưa Thiên Cương phá trận nỗ ra ngoài thành, nhưng giàn nỏ quá kềnh càng, xoay ngang xoay dọc đều không lọt qua cổng. Cấu tạo của nó lại phức tạp, gá lắp rất tốn thời gian, nếu tháo rời đem xuống chân thành ráp lại, chẳng may Lương Tiêu dẫn thiết kỵ lao ập tới như lần trước thì nhất định nỏ sẽ bị phá hủy ngay tại chỗ.

Dưới đồng hai bên lăn xả vào chém giết, trên đài cao pháo đã chuẩn bị xong. Tương Dương pháo đối mặt với Tương Dương thành, vị thế hai bên hoàn toàn đảo ngược. Khẩu pháo ung dung chĩa xuống, thay vì phải ngóc lên cao như xưa.

Trát Mã Lỗ Đinh phát lệnh khai hỏa. Quân Nguyên thả một khúc gỗ nhồi đầy thuốc nổ và phết dày dầu mỡ vào lưới, châm lửa bắn. Khúc gỗ nhẹ vạch một đường sáng rực trên không, băng qua khoảng cách hai ngàn bộ, lao vù về phía thành Tương Dương. Lửa mạnh bắt dầu cháy rất nhanh, xuống gần vọng lâu, nó đã ăn qua lớp vỏ gỗ, liếm vào phần thuốc nổ bên trong. Khúc gỗ kêu “đoành” một tiếng như pháo Tết, vọng lâu bốc cháy phừng phừng.

Lữ Đức vội vã cứu hỏa, nhưng quân Nguyên liên tục bắn pháo, cứu chữa không kịp, ngược lại rất đông binh lính bị thương thêm. Chưa đến một canh giờ, mặt thành Tương Dương đã cháy ngùn ngụt như biển lửa. Ba giàn nỏ Thiên Cương phá trận đều gắn cố định tại chỗ, không di chuyển ngay được, hứng một đợt pháo hỏng mất hai. Vân Thù liều chết dỡ giàn cuối cùng xuống, nhưng phần lẫy đã bị cháy, dễ phải mất nhiều thời gian mới sửa xong.

Pháo kích liên miên mấy ngày, quân Tống thương vong nặng nề. Khi cỗ pháo thứ hai hoàn thành, Lương Tiêu đưa nó vào gần mục tiêu hơn một ngàn bộ, trong lúc đó cỗ thứ nhất vẫn tiếp tục oanh tạc, gây sức ép ngăn cản quân Tống lắp lại Thiên Cương. Với sự bảo vệ của quân Khâm Sát, một đài cao sáu trượng được đắp lên để đặt cỗ pháo mới.

Pháo mới lắp xong liền phát huy tác dụng cao độ. Hàng trăm cân đá tảng cứ tạt thẳng vào thành Tương Dương như sét đánh. Đã mấy lần Vân Thù dẫn bọn hào kiệt phương nam lao ra khỏi thành toan cướp pháo, song phương huyết chiến đến hơn chục trận, nhưng quân Tống mỗi đánh mỗi bại, không tài nào địch nổi thiết kỵ Khâm Sát.

Trước sự chống trả ngoan cường của đối phương, Lương Tiêu quyết định phải dùng biện pháp cứng rắn hơn. Gã cho thợ mộc đẽo những con lăn thật to, khoét rỗng ruột, nhồi đầy thuốc nổ, châm lửa xong bắn vào thành. Thứ đạn bắn này gọi là Mộc phích lịch[1], hễ phát nổ là hủy diệt hoàn toàn sự sống trong phạm vi ba mẫu xung quanh, uy lực khủng khiếp gấp nhiều lần Chấn thiên lôi của quân Tống.

Sau hai ngày đêm tấn công dai dẳng, sáng tinh mơ ngày thứ ba, một phát Mộc phích lịch bắn trúng kho hỏa khí của Tương Dương, đâm thủng mái kho, dẫn nổ toàn bộ quân dụng bên trong. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc làm rung chuyển cả thành trì, phá nát mọi vật xung quanh, gây chấn động đến hơn trăm dặm. Lửa được thế gió mau chóng lan rộng, cháy rừng rực khắp thành Tương Dương.

Kho hỏa khí cháy rụi hoàn toàn, kho lương thảo bị thiêu hủy gần hết. Hơn một vạn dân chúng mất nhà mất cửa, rơi vào cảnh ăn gió nằm sương, khóc gào náo loạn. Quân Nguyên thừa thế từ hai hướng tây và nam tiến công Tương Dương, quân Tống chật vật chống cự. May thay, khi bộ binh Nguyên triều sắp leo được lên mặt thành thì Vân Thù đã sửa xong Thiên Cương phá trận nỗ, vừa kịp đem bắn cản bước kẻ thù. Lúc này Dĩnh thành mới nhận được tin khẩn của Tương Dương, Trương Thế Kiệt vội tiến quân cứu viện, nhưng bị A Truật đánh lui hết lần này đến lần khác. Tương Dương lâm vào cảnh ngộ tuyệt vọng hoàn toàn.

Từ lúc thi hành biện pháp mạnh, Lương Tiêu vẫn áy náy không yên. Sau hôm tiêu diệt được kho hỏa khí, nghe tiếng dân chúng khóc than nháo nhác, gã đâm chột dạ, hạ lệnh ngừng dùng Mộc phích lịch, chỉ nạp đá tảng bình thường bắn lên đầu thành. Khổ chiến dằng dai như thế, Tương Dương tiếp tục cầm cự được thêm một tháng.

.

Mùa đông rét mướt tràn tới, thời tiết mỗi ngày một lạnh, tuyết đổ lấp xấp, bay phiêu phất trên đất Tương Phàn. Chỉ sau mấy đêm, không gian đã nhuộm một màu trắng toát. Bị cướp đi mái ấm che thân cũng như lương thực thực phẩm, vô số người chết vì đói, vì rét, nhiều người may mắn sống sót thì nghĩ quẩn, bắt đầu vật các xác chết ra nấu ăn.

Lương Tiêu đánh mãi không hạ được thành, thường băn khoăn tự hỏi không hiểu Tương Dương còn sức mạnh bí mật gì mà vẫn khăng khăng chống cự. Một hôm, gã trèo lên đỉnh pháo nhìn sang quan sát tình hình, chợt chứng kiến hành động rùng rợn đó thì choáng váng như bị sét đánh. Từ lúc hạ quyết tâm công phá tòa thành hòng bắt giết Vân Thù, gã chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ gián tiếp tạo nên một thảm cảnh như vậy. Nhất thời, Lương Tiêu đứng chết trân trên đỉnh pháo, vừa ăn năn vừa căm hờn, đồng thời không lý giải nổi vì sao đã đến nước này mà quân Tống còn ngoan cố tử thủ không hàng. Thẫn thờ hồi lâu, gã tụt xuống khỏi pháo đài, cưỡi ngựa đến gặp Bá Nhan, thỉnh cầu chiêu hàng Lữ Đức.

Bá Nhan nghe Lương Tiêu thuật lại, suy nghĩ một thoáng rồi triệu các tướng vào trướng thương nghị. Lưu Chỉnh vẫn ôm mối hận trúng tên hôm trước, cứ điều một điều hai là phải bắn tan tành Tương Dương, giết sạch dân chúng mới hả dạ. Đa số tướng lĩnh chôn chân ở đất này đã lâu, vất vả đã nhiều, cũng muốn nhân cơ xả giận nên cùng gật đầu hưởng ứng. Chỉ có Sử Thiên Trạch và A Lý Hải Nha là không nói một lời, nét mặt nặng nề.

Lương Tiêu thấy mọi người đều tán đồng Lưu Chỉnh thì rất bức xúc, lớn tiếng hỏi:

- Người sống hữu dụng hay là xác chết đây, hả? Đập vỡ bát sứ thì ai chả làm được, nhưng mấy kẻ biết nặn một cái cho ra hồn? Hủy hoại thành trì sẽ rất nhanh thôi, nhưng bao lâu mới có thể tái kiến thiết?

Các tướng nghe phân tích hợp lý, tự dưng đắn đo.

Lưu Chỉnh thực ra chỉ nói bừa cho đỡ tức, nào ngờ Lương Tiêu còn trẻ, tính tình nóng nảy nên phản ứng gay gắt, khiến họ Lưu ngượng quá hóa giận. Y đường đường là đại tướng, chiến công hiển hách, đời nào cho phép một tên tiểu tử trèo đầu cưỡi cổ mình, bèn sừng sộ mắng ngay:

- Ngươi thì hiểu cái gì? Hôm nay làm cỏ Tương Dương, ngày mai các thành trì khác đều táng đởm kinh hồn, không ai dám chọc giận đại quân ta nữa. Ngươi chẳng qua mới nhập ngũ dăm ba bữa, lập được một dúm công lao mà tưởng mình ghê gớm lắm sao? Hừ, thời lão phu thống lĩnh thiên quân vạn mã đánh đông dẹp bắc, ngươi còn bú tí mẹ kia kìa!

Lương Tiêu cười nhạt:

- Đã nói thì nói rõ hẳn ra, ông thống lĩnh thiên quân vạn mã nào? Tống hay Nguyên? Ông phản bội Đại Tống thì được, mà người khác đầu hàng Nguyên triều thì không được hay sao?

Những lời cay độc ấy làm các tướng tái mặt. Bá Nhan quát:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu giật mình, tạm thời ngừng lại. Lưu Chỉnh nhảy nhổm lên như phải bỏng, mặt mày xanh lét.

- Chỉnh này sống nửa đời người, hôm nay mới biết có thứ hậu sinh vừa nứt mắt mà miệng lưỡi đã đầy nanh nọc! Tre già măng mọc, Lưu mỗ không những già lại còn vô dụng, đành nhường thiên hạ cho người trẻ tuổi vậy! Mong Đại Nguyên soái rón tay làm phúc để thuộc hạ được về quê cày ruộng!

Lưu Chỉnh ngoài miệng nói nhún, thực chất đầy ý hăm dọa: “Hoặc là Lưu Chỉnh này đi, hoặc là Lương Tiêu bị phạt. Bá Nhan, ngươi hãy tự chọn đi!”.

Bá Nhan không trả lời thẳng, chỉ gọi:

- Na Tốc!

Một thân binh đáp lời bước ra. Bá Nhan nghiêm nghị nói:

- Lột mũ áo Lương Tiêu, đánh ba trăm hèo thật nặng rồi treo lên cổng doanh thị chúng một ngày.

Na Tốc vâng lệnh, cùng các thân binh khác chạy lên định bắt giữ. Lương Tiêu một tay chống nạnh, quát to:

- Kẻ nào dám?

Đám quân sĩ biết gã kiêu dũng tuyệt luân nên tạm thời chưa dám đến gần. Bá Nhan biến sắc, lừ lừ đứng dậy:

- Ngươi dám chống lệnh ta ư?

Tất cả đều nín thở. Chống lại quân lệnh, chỉ có một con đường chết!

Lương Tiêu cao giọng:

- Tôi chả làm gì sai cả!

A Truật thấy gã quá ương bướng, chỉ sợ tình hình xấu thêm, vội khuyên nhủ:

- Kẻ cưỡng lệnh Nguyên soái sẽ bị chém đầu, không cân nhắc nhiều.

Lương Tiêu vẫn khăng khăng:

- Tôi chả làm gì sai!

A Truật mắng:

- Ngươi ăn nói ngông cuồng, là kẻ dưới mà vô lễ với người trên, chẳng sai thì đúng vào đâu? Đã tòng quân phải trọng kỷ luật. Thổ Thổ Cáp hiểu, Lý Đình cũng hiểu, vậy mà ngươi không hiểu hay sao?

Lương Tiêu nghe giọng A Truật, hiểu ngay điều y ngầm nhắn nhủ. Gã chết là yên phận gã, nhưng còn A Tuyết và đám bạn bè đang ở trong doanh trại, tất đều bị liên đới.

Lương Tiêu cụp mắt xuống, muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu, sự hung hăng lúc trước dần dần bay biến cả. Đám thân binh chực tiến lại, gã nghiến răng bảo:

- Để ta tự làm lấy! – Đoạn bỏ mũ cởi giáp, bước ra khỏi trướng.

Binh sĩ ùa lại ấn dúi gã xuống, tiếng gậy vụt đen đét vang lên. Bá Nhan lắng nghe một lúc, chợt cau mày bảo:

- Na Tốc, mạnh tay vào, nếu không sẽ bị xử theo quân pháp!

Quả vậy, Na Tốc biết Bá Nhan và A Truật rất yêu mến Lương Tiêu nên cố ý nương nhẹ, ngờ đâu Bá Nhan là cao thủ võ học, vừa nghe đã phân biệt ngay thực giả. Na Tốc vâng lời, đành toàn lực nện xuống.

A Truật nghe tiếng gậy nặng hẳn, chỉ sợ Lương Tiêu có bề gì, vội van nài:

- Bẩm thừa tướng, bây giờ Tương Dương chưa…

Bá Nhan quát:

- Im ngay! Nếu không phải tại ngươi dung túng, tên tiểu tử ấy dám ngang ngược thế không?

A Truật nghe thét, nín thít ngồi xuống. Lưu Chỉnh thấy Bá Nhan giữ thể diện cho mình, cũng hài lòng quay lại chỗ ngồi, nghiêng tai lắng nghe, tự đắc nghĩ: “Đánh mạnh thật! Chịu đủ hình phạt xong chắc cũng thân tàn ma dại. Nhưng hắn là ái tướng tâm phúc của A Truật, chiến công lừng lẫy, rủi có mệnh hệ gì, chỉ e A Truật sẽ để bụng thù mình. Bản thân mình là hàng tướng, vốn đã thiếu bè cánh cội rễ ở triều ca, trong khi gia đình A Truật ba đời danh tướng đánh đông dẹp bắc uy chấn vạn dặm, chẳng may để y đem lòng oán hận, rắp tâm trừ diệt thì mình gay go to”.

Họ Lưu già đời từng trải, suy nghĩ chín chắn, bụng dạ thâm sâu, lập tức vuốt râu lặng lẽ đếm cho đủ một trăm hèo mới từ tốn đứng dậy, vòng tay cười nói:

- Bẩm Nguyên soái, Lương tướng quân trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, khó tránh khỏi có lúc nông nổi. Bây giờ chưa diệt được Đại Tống, còn cần nhiều sức người. Suy cho cùng Lưu Chỉnh cũng có chỗ không phải, mong Nguyên soái tha cho Lương tướng quân lần này.

Bá Nhan không muốn làm họ Lưu bẽ mặt, bèn bảo:

- Lưu đại nhân đã khoan dung độ lượng như vậy, thôi thì tha phạt đòn Lương Tiêu, nhưng nhất định phải treo hắn lên thị chúng một ngày.

Bá Nhan biết Lương Tiêu tâm cao khí ngạo, đem gã ra bêu xấu còn khiến gã khó chịu hơn bị đánh roi gấp bội, nhưng nếu không tỏ ra nghiêm khắc, cái tên cứng đầu cứng cổ coi thường thiên hạ ấy sẽ mỗi ngày một vô kỷ luật, có khi đến lúc bắt buộc phải xử hắn tội chết không chừng. Y bèn sai Na Tốc trói Lương Tiêu lên cột cờ, muốn gã chịu nhục để nhụt bớt ngạo khí đi.

Lưu Chỉnh được thỏa mãn cả hai đằng, vô cùng hả hê, vuốt râu cười nói:

- Vừa rồi quả tình tôi có hơi mất kiềm chế, nghĩ đi nghĩ lại, chiêu hàng vẫn là thượng sách.

Các tướng đều bực: “Đúng là lưỡi không xương trăm đường lắt léo, gió hướng nào lựa hướng ấy che”.

Sử Thiên Trạch lúc này mới lên tiếng, giọng ôn hòa:

- Lưu đại nhân nói rất đúng. Từ cổ chí kim, công thành là hạ sách, công tâm là thượng sách, không đánh mà khuất phục được địch thủ mới là cảnh giới tối thượng của binh gia. Hiện nay lòng người Tương Dương đang dao động, chính là thời cơ tốt để chiêu hàng.

Họ Sử tuổi tác đã cao, công lao cũng lắm, lời nói lại đầy sức thuyết phục, ai nghe cũng phải gật đầu. Lưu Chỉnh phất tay áo, cười nhạt:

- Lưu mỗ kiên quyết không đi.

Bá Nhan trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi:

- Muốn Lữ Đức tin thì phải cử một đại tướng có uy tín, ai đồng ý đi?

Sử Thiên Trạch cau mày im lặng. A Truật ngập ngừng. A Lý Hải Nha chợt đứng dậy:

- Tôi đi!

Bá Nhan nhìn sang ra ý hỏi. A Lý Hải Nha nói rành mạch:

- Lần trước tôi vào yết kiến thánh thượng, người có dạy: “Trong những kẻ chinh phục Giang Nam thì Tào Bân thời Tống Thái Tổ là viên đại tướng xuất sắc nhất. Ông ta bình định được dải đất ấy mà giết rất ít người. Nếu ngươi không tàn sát mà vẫn đoạt được Giang Nam thì ngươi cũng chính là Tào Bân của ta vậy”. Tôi nhớ nằm lòng lời thánh thượng, càng ngẫm càng thấm thía. Dân Mông Cổ, Sắc Mục chúng ta, lẽ nào không bằng người Hán?

Bá Nhan gật đầu:

- Thánh thượng dạy rất phải, nhưng chuyến đi này quả thực quá hung hiểm!

A Lý Hải Nha nói ngay:

- Tôi biết. Nhưng nếu đánh đổi sinh tử của bản thân mà cứu sống được cả một thành trì thì cũng chẳng phải công đức to lớn gì cho lắm. – Y mỉm cười. – Hơn nữa, tôi không nghĩ Lữ Đức dám nặng tay với tôi khi đang lâm vào hoàn cảnh bi đát thế kia.

Bá Nhan bóp trán suy nghĩ. A Lý Hải Nha cười:

- Nếu Nguyên soái vẫn chưa yên tâm thì phái thêm một người hộ tống, nhất định hắn sẽ đảm bảo cho tôi bình yên vô sự.

- Ai? – Bá Nhan ngẩng lên.

- Lương Tiêu.

- Thật thế ư? – Bá Nhan ngạc nhiên.

- Mạng tôi còn là nhờ Lương Tiêu vượt bao sống chết cứu khỏi tay người Tống. Với bản lĩnh của hắn, cho dù cả vạn mũi tên từ trên thành trút xuống cũng chưa chắc làm tôi sứt mẻ được.

Bá Nhan ngần ngừ:

- Hắn đang phải chịu hình phạt!

A Lý Hải Nha mỉm cười:

- Vậy thì mong Nguyên soái rón tay làm phúc!

Lưu Chỉnh toát mồ hôi, bụng bảo dạ: “Hú hồn hú vía, thiếu chút nữa là đắc tội cả với A Lý Hải Nha”. Bá Nhan phì cười:

- Ngươi vòng vèo mãi hóa ra cốt xin hộ hắn à? Được, nể mặt bách tính thành Tương Dương, ta tha cho hắn để đi hộ tống ngươi.

A Truật lầu bầu:

- Lĩnh ngần ấy hèo, chả chắc còn cưỡi ngựa nổi không!

Bá Nhan lắc đầu:

- Dăm ba roi thế thì hề hấn gì với hắn! A Lý Hải Nha, ngươi thả Lương Tiêu xuống, dẫn hắn theo sang Tương Dương.

Y bảo A Lý Hải Nha thả Lương Tiêu, ngụ ý là muốn Lương Tiêu cảm ơn đức ấy mà sẵn sàng liều chết báo đáp.

A Lý Hải Nha cưỡi ngựa ra cổng doanh, thấy binh lính đang xúm đông xúm đỏ, một số đứng gần cột cờ, chỉ chỉ trỏ trỏ. Lương Tiêu bị trói trên cao, mắt khép hờ, mặt lầm lì. A Lý Hải Nha than thầm: “Nguyên soái dùng cách này hơi quá đáng, một đại tướng bị lăng nhục trước ba quân thì mai sau làm sao để binh lính khâm phục?”. Y vội bảo thân binh giãn đám đông, tuyên lệnh Bá Nhan thả Lương Tiêu xuống.

Lương Tiêu nội lực thâm hậu, lĩnh đòn roi cũng chẳng đau đớn mấy, chỉ căm giận vì bị làm nhục. Đang lúc hờn oán ngập lòng, nghe tin Bá Nhan chấp nhận kế sách dụ hàng, gã mới cảm thấy dễ chịu đôi chút.

Hai người cưỡi ngựa sang Tương Dương. Bọn Thổ Thổ Cáp nghe nói chuyến đi đầy hung hiểm thì lẵng nhẵng đi theo, nhưng bị Lương Tiêu quát về hết. Khi Lương Tiêu và A Lý Hải Nha đến chân thành, bên trên tên nỏ đã chĩa ra tua tủa, ngắm sẵn vào bọn họ.

A Lý Hải Nha hít một hơi, định thần gọi to:

- A Lý Hải Nha, Hữu thừa Nguyên triều cầu kiến Lữ Đức đại nhân.

Lữ Đức vẫn lấy làm thắc mắc về việc quân Nguyên ngừng pháo kích. Lúc này y đang đứng lẫn trong đám sĩ tốt, nghe A Lý Hải Nha xưng danh thì cau mày, vội giơ tay ngăn Vân Thù bắn tên:

- Ta đây! Hải Nha đại nhân, ông đến dụ hàng chứ gì?

A Lý Hải Nha đáp:

- Đúng, hiện tại Tương Dương hoàn toàn trơ trọi, mọi mối liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Bách tính trong thành đói rét cùng quẫn, người người ăn thịt lẫn nhau, hoàn cảnh tuyệt vọng đến thế, tướng quân không hàng thì còn đợi tới bao giờ?

Lữ Đức trầm giọng:

- Nhà ta đời đời hưởng lộc Đại Tống, nay gánh trọng trách Thái thú Tương Dương, sẵn sàng da ngựa bọc thây, sống chết với thành để báo đáp ơn vua. Hải Nha đại nhân, ta không bắn ông. Hãy về mau đi, chỉ mong khi phá thành, đại nhân nể việc hôm nay mà nhẹ tay với bá tính, đừng giết chóc nhiều! Được thế thì Lữ mỗ cảm kích khôn cùng!

A Lý Hải Nha toan lựa lời thuyết phục thì Lương Tiêu thét lớn:

- Lữ đại nhân, ông đã muốn chết thì chết ngay đi!

Tướng sĩ trên thành nổi giận, A Lý Hải Nha sững sờ tự nhủ: “Thôi hỏng, chữa lợn lành thành lợn què rồi. Ta không nên cho hắn theo mới phải”. Vân Thù chuẩn bị bắn tên, Lữ Đức trầm giọng bảo:

- Khoan, nghe hắn lải nhải xong rồi giết cũng chưa muộn!

Lương Tiêu nói:

- Chắc ông muốn chết mà vẫn được lưu danh sử sách chứ gì? Tính toán hay lắm, ông chết thì còn thanh danh, nhưng dân chúng thành này chết rồi thì còn lại cái gì? Bặt tiếng vợ dịu dàng thủ thỉ, vắng con thơ ríu rít nô đùa, cha mẹ hiền từ mất cả, bạn bè vui vẻ không còn… Họ chết rồi thì chỉ còn xương trắng mà thôi.

Quân dân trên thành cùng biến sắc, không ai nén được nỗi thê lương.

Lữ Đức nổi giận mắng xuống:

- Đồ kẻ cướp chó má kia, ta tha chết mà ngươi lại dám cuồng ngôn để rối loạn lòng quân ta!

Y giơ tay, các cánh cung nhất loạt kéo căng. Lương Tiêu cười nhạt:

- Lòng quân cái con khỉ. Trong vòng mười ngày nữa thôi, Tương Dương sẽ bị phá. Ngươi mắng ta là cướp, nhưng có biết đâu chính bản thân ngươi cũng là một tên kẻ cướp đối với dân đen! Cướp thường chẳng qua chỉ nhằm lúc tối trời mưa gió đào tường khoét ngạch nẫng ít vàng bạc đổi lấy sự phè phỡn nhất thời, còn ngươi mồm hô khẩu hiệu trung hiếu nhân nghĩa, bụng lại rình rình ăn mòn tính mạng muôn dân để đổi lấy tiếng thơm thiên thu vạn tải của mình.

Từ lúc chứng kiến cảnh ăn thịt người gớm ghiếc, Lương Tiêu dằn vặt suốt về quyết định phá thành Tương Dương. Hôm ở núi Phục Ngưu gã đã từng thề độc diệt Tống, nay mà mủi lòng bỏ cuộc thì lại thành nuốt lời thề. Phá hay không phá? Gã đang khổ sở với nan đề ấy thì nghe Lữ Đức quyết ý tử thủ, giận quá không nhịn được bèn tuôn lời khích bác. A Lý Hải Nha tim đập chân run, bụng bảo dạ: “Thôi thôi, hắn đã cứu ta một lần, mạng này đành trả cho hắn vậy!”.

Quân Tống trên thành cũng bị Lương Tiêu tác động, bắt đầu xôn xao bàn tán. Vân Thù nóng nảy xen vào:

- Kẻ này không đáng tin. Mong Lữ đại nhân mau hạ lệnh bắn chết hắn, tránh để hắn nói năng nhăng nhít làm dao động lòng quân.

Lữ Đức thẫn thờ hạ tay xuống, trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- Từ thời Thành Cát Tư Hãn tới nay, quân Nguyên có thói quen cướp bóc tàn sát bằng hết sau khi hạ xong một thành trì. Các ông bị Tương Phàn cầm chân mười năm trời, hao công mất sức, thương vong vô số, ắt không khỏi ôm lòng oán hận. Hải Nha đại nhân, nếu ta đầu hàng, ông có dám đảm bảo rằng đồng đội ông sẽ không giết bất cứ một binh sĩ hay một dân lành nào của Tương Dương không?

A Lý Hải Nha thở phào, đáp:

- Thánh thượng nói hễ các ông chịu hàng, chúng ta sẽ không xâm phạm dẫu là chân tơ kẽ tóc. Lẽ ra ta có thể đưa thánh chỉ ra chứng minh, nhưng trên đường mang về đã bị người áo trắng bên cạnh ông cướp mất, ông hỏi hắn mà xem!

Lữ Đức nhìn Vân Thù. Vân Thù miễn cưỡng thừa nhận:

- Tôi xem thánh chỉ đấy rồi, Hoàng đế Thát quả tình có viết vài lời đẩy đưa xoa dịu để dụ hàng đại nhân!

Lữ Đức cau mày suy nghĩ. Lương Tiêu thấy y đã dao động, bèn rút một mũi tên ra hỏi:

- Ông có biết lời thề độc nhất của người Nguyên là gì không?

Lữ Đức nhìn xuống:

- Là bẻ tên thề!

Lương Tiêu bèn đưa mũi tên cho A Lý Hải Nha. A Lý Hải Nha gật đầu:

- Được! – Y giơ mũi tên lên cao. – A Lý Hải Nha xin thề với trời đất, chỉ cần Lữ đại nhân đầu hàng, ta dùng tính mạng mình đảm bảo sự an toàn cho tất cả quân dân thành Tương Dương. – Nói đoạn y bẻ gãy đôi mũi tên, ném xuống đất.

Lữ Đức hơi đổi sắc mặt, thở dài bảo:

- Để Lữ mỗ suy nghĩ đã, ba ngày nữa ta sẽ có câu trả lời cho đại nhân.

A Lý Hải Nha gật đầu, cùng Lương Tiêu quay ngựa về bẩm báo. Bá Nhan ra lệnh cho các tướng chuẩn bị vũ khí, nếu sau ba ngày mà Lữ Đức không đầu hàng thì dốc toàn lực tấn công, nhất quyết phá thành.

Đêm hôm đó trong thành Tương Dương, tướng lĩnh Tống tranh cãi không dứt, có kẻ cho rằng sự thể đã đến nước này, đành phải đầu hàng, có kẻ khăng khăng kiên cường đến chết để giữ tiếng thơm. Lữ Đức ngồi một mình trên lầu thành nhìn về phía nam, đập vào mắt y là đèn đuốc sáng trưng trong doanh trại quân Nguyên và thuyền chiến san sát trên sông, lòng y buồn khổ khó tả.

Từ khi búi tóc tòng quân tới nay, Lữ Đức đã khổ chiến nửa đời người, đánh từ Hợp Châu đến Tương Dương, di chuyển liên tục mấy ngàn dặm, tử thủ suốt mười năm, tuy biết khó lòng tránh được cục diện hôm nay, nhưng y luôn quyết chí tử thủ với thành. Vậy mà khi ngày ấy đến thực, y lại không biết nên xử sự thế nào. Đầu hàng thì mất tiết tháo, không đầu hàng thì coi như chôn sống hàng vạn dân chúng trong thành. Hàng hay không hàng? Hai ý nghĩ giằng xé tim y. Đột nhiên, chuyện mấy chục năm trước bỗng trở về trong trí óc, nhớ năm xưa sát cánh bên Văn Tĩnh đánh lui cường địch, giết chết đại hãn Mông Cổ dưới chân thành Hợp Châu, nhớ những buổi yến ẩm đối ca, y lại nhướng mày thở dài. Tình thế hiện tại quẫn bách quá đỗi, sống chết hai đằng đều khó quyết.

Y ngửa mặt nhìn trời, không nhịn được nghẹn ngào khóc than: “Hoài An, Hoài An, người ở đâu? Đại Tống vua hèn quan gian, phụ lòng trung của Lữ Đức, muốn báo đền nợ nước cũng chật vật biết bao. Nếu có người ở đây thì làm gì đến nỗi này? Hoài An, người ở đâu? Có nghe thấy Lữ Đức gọi không?”. Nước mắt viên tướng lã chã tuôn rơi, thấm ướt chiến bào.

Chợt có người hỏi:

- Lữ đại nhân phải không?

Lữ Đức luống cuống gạt lệ, quay ra thấy Vân Thù và Cận Phi đang đi tới. Y đứng dậy. Cận Phi vòng tay hành lễ:

- Đại nhân định thế nào?

Lữ Đức lắc đầu im lặng. Cận Phi hạ giọng:

- Đại nhân đừng để bọn chúng lung lạc.

Vân Thù tiếp lời:

- Đúng thế, quân Nguyên hung tàn vô đạo, không nên tin tưởng chúng.

Cận Phi lắc đầu:

- Điều cốt yếu không phải ở quân Nguyên, mà ở bản thân Lữ đại nhân. Người đời có câu: “Sống chết là chuyện nhỏ, tiết tháo là chuyện lớn”. Từ xưa tới nay các bậc trung liệt đều lưu danh sử xanh, những kẻ đầu hàng bị phỉ nhổ đời đời. Trương Công Tuần thời Đường tử thủ Thư Dương, tuy thành bị phá, bản thân ông ta hi sinh, nhưng ngàn năm sau vẫn còn có người tế bái. Bọn phản bội thì có kẻ nào được hậu thế nhớ tới đâu? Đại nhân sống chết với thành đến nay kể cũng đã lập công đức vô lượng cho Đại Tống, tiến một bước thì vẹn danh thơm, lui một bước thì sẽ để lại hai chữ gian thần trong sử sách. Cố gắng tới lúc này rồi, đừng để kiếm củi ba năm thiêu một giờ.

Lữ Đức liếc y, điềm tĩnh nói:

- Nhưng nếu ôm khư khư lấy bó củi ấy thì phải đốt thay bằng bao nhiêu xương máu của nhân dân toàn thành?

Cận Phi cười nhạt:

- Nếu đại nhân lùi một bước thì xương máu của bách tính hậu phương cũng sẽ bị đốt trụi. Thêm nữa, cổ nhân có câu: Khuyên người chớ nhắc chi chức tước, Một tướng danh thành vạn cốt khô[2]. Đại nhân đã là tướng tòng quân, cũng nên hiểu đạo lý này mới phải.

Mắt Cận Phi rực sáng, giọng nói mỗi lúc một gay gắt. Vân Thù siết chặt đốc kiếm, mắt đảo rất nhanh. Lữ Đức giật mình. Bao nhiêu năm ứng biến sa trường đã luyện cho y khả năng cảm nhận hết sức nhạy bén. Nhìn thần sắc hai người, y đã đoán được ba bốn phần. Quả thực, Cận Phi thấy Lữ Đức dao động nên cố ý đến dò xem ý tứ y thế nào, nếu y hé ra nửa chữ “hàng” thôi, họ Cận sẽ lập tức cùng Vân Thù uy hiếp y, buộc y tử thủ.

Lữ Đức cân nhắc rất nhanh, vụt đứng bật dậy, bước vài bước rồi nói:

- Cận Phi huynh nói đúng lắm, Lữ mỗ đã quyết! Tận trung báo quốc, ngọc vỡ còn hơn ngói lành, nhất định sẽ sống chết với Tương Dương. Chỉ có điều…

Cận Phi nghe giọng Lữ Đức dứt khoát thì rất mừng:

- Thái thú có gì khó khăn chăng?

Lữ Đức đáp:

- Thiếu thức ăn áo mặc, khí cụ công thủ cũng sắp cạn rồi. Cứ thế này mãi thì Tương Dương sớm muộn cũng bị phá, mà bị phá thì có khác gì đầu hàng đâu? Ta sở dĩ rầu rĩ không vui chính là vì việc này.

Cận Phi và Vân Thù nhìn nhau, cùng cau mày buồn bã. Lữ Đức lại nói:

- Mấy năm nay ta giữ Tương Dương, chỉ có Vân công tử và Cận môn chủ là vượt được phong tỏa vào thành, hừm… – Y ngừng lại, vẻ lưỡng lự.

Cận Phi khẳng khái nói:

- Việc nghĩa không thể từ nan, tôi cũng có ý đó. Mong Lữ đại nhân viết một bức thư cho đại tướng Dĩnh thành. Tôi và Thù nhi sẽ lập tức dẫn thủy quân ra ngoài, dùng Thủy cầm ngư long trận vận chuyển lương thảo khí giới vào tiếp viện Tương Dương.

Lữ Đức trù trừ:

- Vân công tử là trợ thủ đắc lực của ta, công tử mà đi, coi như Lữ mỗ mất một cánh tay. Vả chăng Lưu Chỉnh đã đặt thủy trận ở Phàn Thành, dòng Hán giang đang bị quân Nguyên khống chế, bơi ra không phải dễ.

Vân Thù nói:

- Thủy cầm ngư long trận biến hóa rất vi diệu, phi tôi không ai điều khiển nổi. Nếu đường thủy khó khăn thì chuyển lên bộ, chúng tôi sẽ mang ít người hơn, tận dụng bóng đêm để ra khỏi thành. Mong Thái thú gắng giữ thêm một tháng nữa, đợi tôi luyện xong trận thế.

Lữ Đức lại kê ra một số nguy hiểm khác, hai huynh đệ Thần Ưng môn vẫn kiên quyết ý định đi tìm quân tiếp viện, cuối cùng y đành đồng ý. Vì tình hình khẩn cấp, luôn đêm ấy Cận Phi triệu tập nhân thủ, cùng Vân Thù, Phương Lan thắt dây thừng vào hông, nhảy ra ngoài thành.

Lữ Đức nhìn theo toán người cho đến khi bóng họ tan nhòa trong màn đêm, bỗng thở dài quỳ xuống đất, nghẹn ngào nói:

- Vân công tử, tình thế khốn quẫn không thể cứu vãn được nữa. Lữ mỗ suy nghĩ rất lung, cuối cùng vẫn không nhẫn tâm hãm chết con dân trong thành. An nguy của hậu phương đành giao phó cho công tử vậy.

Nước mắt hai hàng, y lạy theo hướng đám hào kiệt ba lạy, đoạn đứng dậy, nói với tên thân binh đang ngơ ngác:

- Truyền ý ta: niêm phong các kho, phá hủy Thiên Cương phá trận nỗ. Ra lệnh cho ba quân: giờ ngọ ba khắc ngày mai mở cổng thành đầu hàng!

.

Lương Tiêu từ trướng soái trở về doanh trại, lồng ngực trĩu nặng, tâm trạng buồn bực khôn tả. Tiếng khóc than của bách tính Tương Dương cứ văng vẳng bên tai, hễ nhắm mắt là cảnh tượng bi thảm lại lồ lộ hiện lên trước mặt. Gã thầm nghĩ: “Đại Tống có muôn vạn thành trì, lẽ nào mỗi khi công thành đều nổ ra chiến tranh? Trên sa trường, lính đánh lính, tướng đánh tướng, một sống một chết đã đành, nhưng tại sao lại để liên lụy đến những người dân vô tội? Binh thư viết: không đánh mà khuất phục được kẻ địch là cảnh giới tối thượng của binh gia, nhưng thực tế có phương pháp nào không đánh mà thắng, bảo đảm an toàn cho bách tính không?”. Gã vò đầu bứt tai hồi lâu, vẫn không nghĩ ra kế nào toàn vẹn cả. Trong lúc khổ sở, một mối nghi ngại bỗng nhen nhóm: “Ta thề độc diệt Tống, lẽ nào là sai…”. Nhưng mối nghi ngại vừa manh nha đã tắt lịm ngay: “Mẹ thường dạy: đại trượng phu đã nói phải làm, không thể tự xéo lên lời nói của mình, ta đã bẻ cung thề, cũng như A Lý Hải Nha bẻ tên thề, đều là thề độc…”.

Gã buồn phiền, không muốn về doanh chạm mặt quân sĩ, bèn rong ngựa đến lều A Tuyết, nghe thấy bên trong vọng ra tiếng Lan Á trầm bổng, tựa hồ đang kể chuyện gì. Gã bước vào. A Tuyết nằm trên giường, mắt mở to, chăm chú nghe như uống từng lời. Trông thấy Lương Tiêu, cô cười tươi:

- Ca ca đến đúng lúc quá! Lan Á thư đang kể chuyện, nhan đề là Nghìn… nghìn mốt đêm…

Lan Á đỡ lời:

- Nghìn lẻ một đêm.

- Đúng rồi, Nghìn lẻ một đêm. – A Tuyết cười xòa.

Lương Tiêu ngắm nụ cười rạng rỡ và vẻ mặt tươi tắn của cô gái, lòng bỗng nhẹ hẳn đi:

- Lan Á, đa tạ cô đã quan tâm em ta.

Lan Á gạt đi:

- Cứ ra vẻ khách sáo làm gì thế! – Nàng xoa vai A Tuyết. – Muội đáng yêu thật, ta mến lắm.

Lương Tiêu cười méo xệch:

- Tiếc rằng dốt kinh khủng, nếu lây được chút thông minh của cô thì đỡ biết bao.

A Tuyết bĩu môi, lại thủ thỉ:

- Muội thích nghe kể chuyện, thư thư kể cho A Tuyết nghe một ngàn lẻ một buổi tối nhé.

Lan Á cười, nụ cười có phần miễn cưỡng, nàng dịu dàng nói:

- Tiếc rằng ta chỉ kể được lẻ một buổi tối thôi.

A Tuyết không hiểu. Lương Tiêu kinh ngạc ra mặt, hỏi:

- Cô định đi đâu à?

Lan Á buồn buồn thở dài:

- Tương Dương pháo đã xong, chỉ nay mai là phá được thành, ta không muốn trông thấy thảm cảnh ba ngày sau, cứ đi trước là hơn.

Lương Tiêu nói:

- Ba ngày sau họ đầu hàng chưa biết chừng.

Lan Á nhìn sâu vào mắt gã, thong thả hỏi:

- Ngươi chắc không?

Lương Tiêu máy môi, nhưng không thốt ra lời. Gã ngồi sững trên thảm một lúc rồi đứng bật dậy, loay hoay đi lại. Lan Á ngậm ngùi:

- Phá thành đồng nghĩa với chém giết, đấy là thông lệ của quân Mông Cổ. Năm xưa khi tây chinh công phá thành Bát Đa, Húc Liệt Ngột Hãn cho lính thả sức chém giết liền ba ngày, tới khi trong thành không còn tráng niên nào mới thôi. Mỗi khi nhắc lại chuyện ấy thầy ta lại đau lòng, nước mắt giàn giụa. – Giọng nàng tuy gắng giữ bình tĩnh, nhưng mắt đã đỏ hoe.

Lương Tiêu ớn lạnh:

- Thầy cô căm thù người Mông Cổ đến thế, vì sao vẫn thiết kế Hồi Hồi pháo cho họ? Vì sao cha con cô lại đến đây?

Lan Á thở dài:

- Hoàng đế Đại Nguyên thống trị cả bốn hãn quốc, một ý chỉ nhỏ nhoi của ông ta truyền xuống Y Nhĩ có thể khiến ánh sáng trí tuệ ở Mã La Gia vĩnh viễn lịm tắt. Lần này lẽ ra thầy đến, nhưng tuổi tác người đã cao, không chịu đựng được một hành trình xa xôi như vậy, cha con ta mới đi thay cho người.

Lương Tiêu lặng thinh. Lan Á nhìn gã đăm đăm, nghiêm nghị nói:

- Tương Dương pháo là cánh tay của ma quỷ, Mộc phích lịch là lửa địa ngục. Ngươi đã để ma quỷ hỏa ngục phục sinh, nếu còn tiếp tục sai lầm đó, sau này khi chết đi, linh hồn sẽ không được yên ổn đâu.

Lương Tiêu hơi giận, to tiếng:

- Cô nguyền rủa ta đấy à?

Lan Á cười buồn:

- Ngươi thông minh tuyệt đỉnh, đừng giả vờ không hiểu lời ta. Nạp Tốc La Đinh tuổi tác đã cao, người bây giờ giống như tuyết đọng trên đỉnh núi, một cơn gió to bất thần thổi qua là lả tả rớt xuống. Ngươi hãy buông thương vứt cung, cùng ta đến Mã La Gia. Ngươi là người xuất sắc nhất trong các toán gia xuất sắc hiện nay, nhất định có thể kế tục sự nghiệp của thầy ta, trở thành bậc trí tuệ của các trí tuệ.

Hai người nói chuyện bằng tiếng Hồi Hồi, A Tuyết không hiểu gì hết, chỉ thấy nét mặt họ nặng nề, bầu không khí trong trướng dường như đông cứng, khiến người ta khó thở. Cô vừa cúi đầu vê vê chéo áo vừa lén liếc mắt nhìn họ, tim đập thình thịch. Trên trán Lương Tiêu, gân xanh đập phập phồng, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, mấy lần định lên tiếng nhưng cuối cùng chẳng thốt ra được một từ. A Tuyết đang thấp thỏm theo dõi, thình lình Lan Á nhướng mày, nhoẻn cười với cô:

- Muội còn muốn nghe chuyện không?

A Tuyết gật đầu.

Lan Á lại kể hai chuyện rất hay. Đêm dần buông, A Tuyết nghe mãi, nghe mãi, đến khi mắt díp lại thì ngủ thiếp đi ngay trong lòng Lan Á. Nàng bèn đặt cô gái nằm ngay ngắn trên giường, đắp chăn thật kín. A Tuyết ngủ say, mặt vẫn vương nụ cười, tựa hồ đang đi vào thế giới kỳ ảo của Nghìn lẻ một đêm.

Lan Á biết A Tuyết chưa lâu nhưng rất mến tính hồn nhiên trong sáng của cô. Nghĩ tới lúc phải rời khỏi đây, lòng chua xót, nàng cúi xuống chạm môi lên má A Tuyết, nước mắt rớt nhẹ xuống mặt cô gái. A Tuyết khẽ ú ớ như thể linh cảm được. Lan Á vội thấm khô cho cô, xong xoay mình đi ra khỏi trướng. Lương Tiêu cũng ra theo:

- Để ta đưa cô về.

Hai người ruổi ngựa đến cổng trại Trát Mã Lỗ Đinh. Lương Tiêu mấy lần ngập ngừng muốn nói, nhưng lại thôi. Khi gã quay ngựa đi, Lan Á gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngoái đầu nhìn. Lan Á nhảy xuống ngựa, sắc mặt nàng hiện lên khổ sở dưới ánh trăng. Lương Tiêu hỏi:

- Gì vậy?

Đôi mắt xanh biếc của người thiếu nữ lấp lánh sáng, nàng lặng lẽ nhìn Lương Tiêu, chậm rãi nói:

- Bên đường cái đi về phía đông có một ngôi đình nhỏ, sáng mai ta đợi ngươi ở đó. Mong rằng ngươi thay đổi quyết định.

Tim Lương Tiêu trĩu nặng. Lan Á quay đi, chạy thật nhanh vào trại.

Lương Tiêu đưa mắt dõi theo cho đến khi bóng người thiếu nữ chìm hẳn trong đêm dày, ruột rối như tơ. Gã thốt nhớ đến cảnh cha chết thảm, đến ánh mắt não nề của mẹ lúc biệt li, lát sau lại nhớ tới dáng vẻ mềm yếu nhút nhát của Hiểu Sương, nụ cười duyên dáng của Oanh Oanh. Thời gian dần trôi, vầng trăng từ từ bò lên giữa trời, gió rét căm căm, Lương Tiêu rùng mình vì lạnh, nhận ra khóe mắt ướt nhoèn tự bao giờ. Gã nhảy lên ngựa, nhìn về phía Tương Dương, lòng buồn chán khôn tả: “Ba ngày sau, nếu quân Tống không hàng, tình hình sẽ ra sao đây? Bất kể thế nào, nếu bọn Lưu Chỉnh lạm sát người vô tội, ta chỉ còn cách cùng quân Khâm Sát chém chết chúng mà thôi”.

Ra quyết định xong, trong lòng cũng dễ chịu hơn một chút, Lương Tiêu thúc ngựa quay về đại doanh Bách Trượng sơn. Chưa đến gần đã nghe thấy âm thanh huyên náo, đoán biết trong doanh xảy ra việc lớn, gã bèn thúc ngựa phi nhanh vào. Một kỵ binh chạy ào ra đón:

- Bọn Tống tập kích!

- Có đông không? – Lương Tiêu hỏi.

- Ít thôi, nhưng thân thủ lợi hạ lắm. Thổ Thổ Cáp và mấy người nữa nổi giận, đang truy sát rồi!

Lương Tiêu nhói tim, vội hỏi:

- Đi về hướng nào?

Tên lính giơ tay trỏ về hướng đông nam.

Lương Tiêu không kịp hỏi nhiều, hấp tấp thúc ngựa đuổi theo, chưa đầy hai dặm đã gặp rất nhiều xác người ngựa ngổn ngang dưới đất, đủ cả lính Tống, lính Nguyên, có thi thể găm mười mấy mũi tên tua tủa; có kẻ đang bóp cổ một lính Khâm Sát, phần bụng bị loan đao đối phương đâm thủng, cả hai đã tắt thở, mắt lồi tướng; có kẻ bị trường mâu Khâm Sát xuyên từ người xuống ngựa, ghim cứng một chỗ. Đủ mọi kiểu chết bi thảm, chắc hẳn hai bên đã gặp nhau ở đây rồi diễn ra ác chiến.

Lương Tiêu tế ngựa phi điên cuồng, ruột nóng như lửa đốt, được một quãng thì gặp chừng hai trăm kỵ binh chầm chậm đi ngược lại, người dẫn đầu chính là Thổ Thổ Cáp, Vương Khả đang ẵm một người, thi thoảng lau nước mắt. Lương Tiêu điểm qua hàng ngũ, thấy vắng bóng Dương Giác, tức thì trái tim trĩu nặng. Mọi người vỗ ngựa chạy lại gần chủ tướng, mắt ai cũng sưng húp. Lương Tiêu nhìn người đang nằm trong lòng Vương Khả, nhận ra đúng là Dương Giác, mặt mũi xám ngoét, hẳn đã tắt thở từ lâu.

Lương Tiêu thấy trước mắt tối sầm, đầu óc trống rỗng, trong lúc lơ mơ chỉ nghe Vương Khả nghẹn ngào:

- Lương đại ca, lại… lại tên khốn kiếp đó…

Dù Vương Khả không nói, Lương Tiêu cũng nhận ra. Thanh kiếm trên người Dương Giác xuất phát từ vị trí Đại hữu, lật kính hộ tâm đâm vào huyệt Đản trung, chính là thủ pháp của Quy tàng kiếm.

Thổ Thổ Cáp dộng mạnh trường mâu, gằn giọng nói:

- Nếu không giết được tên khốn đó, Thổ Thổ Cáp này quyết không quay về quê hương.

Lý Đình, Nang Cổ Ngạt và Vương Khả đều quắc mắt, cao giọng:

- Đúng, không trả được thù này, quyết không về quê hương.

Lương Tiêu là đại tướng, không tiện tỏ thái độ yếu đuối trước mặt thuộc hạ, bèn xua xua tay, giục ngựa quay đầu. Nhưng vừa thúc ngựa, gã đã mất kiềm chế, nước mắt ròng ròng tuôn rơi.

Đang canh khuya không kịp chuẩn bị hậu sự, mọi người để tạm xác Dương Giác trong lều Lương Tiêu rồi ngồi im lìm xung quanh, đèn thắp sáng suốt đêm. Giờ ngọ hôm sau, A Tuyết sang, thương xót khóc lóc vật vã một hồi, lại thấy mọi người chưa có hột cơm nào vào bụng bèn nấu nhanh nồi cháo, không ai nỡ chối từ nên đều ăn một ít. Lương Tiêu sực nhớ lời Lan Á nói đêm qua, vội vàng lên ngựa đuổi theo. Gã tưởng nàng đã đi mất rồi, không ngờ đến gần tiểu đình vẫn thấy cha con họ ngồi đợi, bên ngoài có chừng một trăm binh sĩ đang nghỉ ngơi, áng chừng đi theo hộ tống.

Lương Tiêu tần ngần một thoáng, cuối cùng xuống ngựa lùi sang bên đường, dõi mắt quan sát. Lan Á ngồi suy tư, thình lình đứng lên đi đi lại lại. Trát Mã Lỗ Đinh cũng đứng dậy, thì thào với con gái một hồi. Lan Á xoay mặt đi, đôi vai run bần bật. Trát Mã Lỗ Đinh thở dài, lại vỗ vỗ vai nàng, an ủi vài câu. Sau một hồi thẫn thờ, Lan Á đưa tay áo lau nước mắt, nhảy lên con ngựa Ả Rập đi về hướng bắc, nhưng được mấy bước, nàng lại ngoái đầu nhìn phía sau. Cứ thế mười mấy lần cho đến khi khuất hẳn cuối con đường.

Lương Tiêu lên ngựa dướn nhìn theo, bụi vẫn chưa lắng mà bóng người đã xa, nhất thời trong lòng trống rỗng. Gã và Lan Á mới quen biết nhau nhưng ý hợp tâm đầu, cứ nhắc đến toán học là quên hết thời gian. Khổ nỗi Triệu San mất chưa lâu thì lại tới Dương Giác, oán thù mỗi ngày một sâu, gã không thể tìm đường giải thoát như nàng gợi ý. Mà chưa biết chừng, chẳng bao lâu nữa đến lượt gã cũng mất mạng nơi sa trường, vĩnh viễn nằm lặng trong cõi u minh. Nghĩ đến đây, Lương Tiêu chán nản cùng cực, ủ rũ cưỡi ngựa về doanh.

.

Giờ ngọ ngày thứ ba, cổng thành Tương Dương mở rộng, Lữ Đức mặc áo trắng, đội mũ trắng, đi bộ ra khỏi thành. Bá Nhan được tin, đích thân sang tiếp nhận đầu hàng, phong Lữ Đức làm Đô đốc Tương Phàn.

Tin bay vào nội địa, một đám mây u ám bao trùm triều đình Đại Tống, tiếng ai oán chê trách lan rộng khắp nơi. Người đương thời làm bài thơ than rằng:

Lữ tướng quân trấn thủ Tương Dương,

Xương sống mười năm giữ biên cương.

Cầu cứu viện quân không thấy đến,

Căm hờn mạt sát Giả Bình chương.

Giả Bình chương tức Giả Tự Đạo, kết tội hắn không gửi quân tiếp viện Tương Dương kể cũng chưa thỏa đáng, nhưng hắn dụng binh ngu muội, triều đình lại u mê, chẳng lần nào viện binh tới nơi, khiến cả hai thành bị vây hãm, Lữ Đức bị cô lập, chỉ biết vẫy vùng chiến đấu trong tuyệt vọng. Suy cho cùng Giả Tự Đạo lộng quyền làm loạn triều chính, là kẻ tội phạm đầu sỏ đẩy Tương Phàn vào cảnh khốn đốn, bài thơ không trách Lữ Đức dâng thành mà trách Giả Tự Đạo hại nước, đủ thấy thế nhân nhìn nhận rất công bằng.

Đất Tương Phàn xưa rày vẫn được gọi là “xương sống của thiên hạ”, một vai gánh miền nam, một vai gánh miền bắc, mặt bắc dẫn sang Hà Nam, mặt tây nối liền Ba Thục, mặt nam áp sát Hồ Quảng, mặt đông kề cận Giang Hoài. Từ cổ chí kim, trận khởi đầu của các cuộc nam bắc tương tranh đều diễn ra ở đây. Tương Phàn thất thủ làm đứt đoạn hàng phòng ngự biên giới, đất đai trăm dặm vùng Giang Hán tự nhiên phơi ra trước mũi tấn công của quân Nguyên.

.

Tuyết chảy băng tan, trời dần dần ấm lên. Năm thứ mười một nhà Nguyên, tương đương năm Hàm Thuần thứ mười ba theo lịch Tống, Hốt Tất Liệt truyền chỉ chinh thảo miền nam. Tháng ba năm ấy, Sử Thiên Trạch đi tuần doanh trại ban đêm bị cảm hàn, từ đó đổ bệnh nặng. Họ Sử tuổi tác đã cao, khí huyết suy nhược, nằm li bì hai ngày một đêm thì nhắm mắt xuôi tay. Bá Nhan và các tướng đến tế vọng, an ủi gia quyến.

Viếng xong, Lương Tiêu theo mọi người rời Sử phủ, trong lòng rầu rĩ: “Sử Thiên Trạch công toại danh thành là thế, chết đi cũng chỉ hai bàn tay trắng. Thổ Thổ Cáp và Lý Đình đang hăm hở gây dựng sự nghiệp, nhưng một mai lìa đời, liệu có mang công danh theo mình được không?”. Đang mải trầm tư, chợt nghe Bá Nhan gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Cặp mắt uy nghiêm của Bá Nhan xoáy vào mặt gã:

- Cậu lại đây với ta!

Y giật mạnh cương, tế ngựa chạy thẳng ra cổng thành. Lương Tiêu không hiểu ra sao, liền vội vàng thúc ngựa chạy theo.

Bên ngoài thành là đồng ruộng bao la, nhưng chỉ lơ thơ vài nông dân bộ dạng lam lũ đang chậm chạp bước trên luống cày. Mười năm đại chiến Tương Phàn, nhà cửa ruộng vườn quanh vùng bị bỏ hoang, hàng vạn mẫu đất tốt đều biến thành chiến trường.

Đột nhiên, một con thỏ rừng nhảy phóc ra khỏi bụi cây, tung bốn chân chạy như bay, một con sói vàng cong đuôi đuổi theo, thình lình nhún móng trước xuống đất, bắn mình lên chụp lấy đầu con thỏ. Đúng lúc này, một mũi tên rít gió lao tới, cắm phập vào cổ con sói, đâm xuyên xuống cả lưng thỏ.

Bá Nhan bắn xong thở dài, định hạ cung, chợt nghe gió đưa tiếng nhạn kêu trong trẻo, y lại nghiêng người giương cung. Một bầy nhạn xếp thành mũi nhọn bay về phương bắc. Bá Nhan kéo cung hồi lâu nhưng không phát tên, đăm đăm nhìn đàn chim bay đi xa, chùng tay thở dài:

- Cậu bắn chim ưng bao giờ chưa?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan cười:

- Tế ngựa hăng chạy lồng đại mạc, Giương cung bắn tan tác chim muông. Cuộc sống ấy thực là thống khoái! Hiềm nỗi chưa diệt Tống thì chưa trở về bắc được. Không biết đánh trận bao giờ mới xong?

Lương Tiêu lúc này mới hiểu ban nãy Bá Nhan giương cung mà không bắn là vì chạnh lòng nhớ quê hương. Gã chợt xót xa:

- Thế thì đừng đánh nữa. – Vừa dứt lời, chợt cảm thấy không ổn chút nào, lại tự vấn: “Không đánh thì làm sao trả thù được đây?”.

Bá Nhan liếc mắt nhìn gã, cười hỏi:

- Lần trước ta hạ lệnh phạt cậu, còn giận ta không?

Lương Tiêu nhíu mày im lặng, Bá Nhan biết gã vẫn ấm ức chưa nguôi, bèn cười ha hả:

- Thôi, đều tại ta không tốt, nhưng cậu là tiểu tướng mà xúc phạm đại tướng, cũng quá đáng lắm. Lúc đó chỉ có hai lựa chọn, một là xử phạt, hai là xử trảm, đành chọn cách ít tổn thất nhất, nên để cậu phải chịu ấm ức.

Lương Tiêu nghe phân tích hợp tình hợp lý, cũng nguôi nguôi giận. Bá Nhan chợt trỏ roi về một tòa miếu cổ:

- Lại kia xem đi!

Khi tới gần, họ thấy tường miếu đã đổ nát, cổng vào có dựng một tấm bia. Bá Nhan xuống ngựa, cho tả hữu lui ra sau, xoa xoa mặt bia, im lặng trầm ngâm. Tấm bia chạm chi chít chữ, lốm đốm bạc màu, dựng trên lưng một con rùa đá mòn, chừng như niên đại xa xưa lắm rồi.

Bá Nhan chợt hỏi bằng tiếng Hán:

- Cậu biết lai lịch của tấm bia này không?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan trỏ tòa miếu đất trước mặt:

- Đây là miếu Dương Thái phó, nơi thờ Dương Cổ nhà Tấn. Dương Cổ là danh tướng người Hán. Họ Tư Mã diệt Đông Ngô và thống nhất ba nước đều xuất phát từ gợi ý của ông ta. Đáng tiếc, người này soạn kế diệt Đông Ngô mà không sống được tới ngày bình định thiên hạ, thuở sinh tiền đã mấy lần dâng biểu phạt Ngô nhưng đều bị hoàng đế bác đi, ông ta không thỏa tráng chí, mỗi khi nhìn về phương nam đều sa lệ, vì vậy tấm bia này còn gọi là Đọa lệ bi[3]. – Y nhìn Lương Tiêu, nghiêm chỉnh hỏi. – Cậu có biết vì sao trên đời cứ luôn xảy ra chiến tranh không?

Lương Tiêu thần người, cuối cùng thành thật đáp:

- Tôi không biết!

- Đơn giản lắm, cứ nhiều nước cùng tồn tại là sinh chiến sự.

- Nhiều nước cùng tồn tại ư?

Bá Nhan mỉm cười:

- Nhớ năm xưa, các bộ lạc Mông Cổ phân tranh, binh lửa ngùn ngụt ngàn năm không dứt. Mãi cho đến khi Thái Tổ xuất thế, bằng sự anh minh trời phú, cơ trí mưu lược, người đã khắc phục muôn vàn gian khổ, đầu tiên thống nhất Mông Cổ, chấm dứt nội chiến, sau đó mở rộng phạm vi chinh phạt. Chắc cậu cũng biết người Hán đánh nhau dữ dội nhất vào thời các chư hầu cát cứ, trước tiên là Xuân Thu Chiến Quốc, kế đến Tam Quốc Lưỡng Tần, sau thời Đường thì các triều đại thay nhau trị vì nhanh như thay áo, hết Ngũ đại thập quốc đến Tống Liêu giao phong, kế tiếp là chiến tranh giữa năm nước Tống, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn, chém giết vô cùng thê thảm. Hiện tại, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn đều đã bị diệt, nhưng Tống Nguyên còn đang tranh hùng. Bốn trăm năm qua liên tục loạn lạc, chưa từng có một ngày bình yên.

Lương Tiêu không kìm được hỏi:

- Tức là phải thống nhất toàn bộ thiên hạ thì mới chấm dứt được chiến tranh?

- Đúng thế! Từ cổ chí kim, những người có chí cứ thích chọc trời khuấy nước, nhưng thực chất, tứ hải một nhà mới đem lại thái bình cho thiên hạ. Dương Cổ rơi lệ không phải vì vinh nhục cá nhân mà vì dân chúng cả nước! Đại Tống hiện nay cũng tương tự Đông Ngô thuở nào, chưa diệt được nó thì chiến tranh giữa hai miền nam bắc còn dai dẳng mãi, và hứng chịu tổn thất trước tiên chính là bách tính đôi bên.

Lương Tiêu cau mày:

- Vì sao phải giết? Vì sao phải đánh? Hòa hảo chẳng tốt hơn ư?

Bá Nhan xua tay:

- Cá lớn nuốt cá bé, ấy là lẽ thường tình ở đời! Cậu đã thấy hổ nào không ăn thịt dê chưa? Dẫu chúng ta để yên cho người Hán, khi họ mạnh lên chắc gì đã tha chúng ta? Tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh từng nói: “Hung Nô chưa diệt, chuyện nhà đáng chi?”. Đại Hán hùng cường, kéo lên bắc tiêu diệt Hung Nô. Đại Đường hưng thịnh, cất quân chinh phạt Đột Quyết, làm cỏ Cao Ly. Ngay thời Tống đây, chẳng phải Thái Tông cũng đã từng tấn công Khiết Đan đấy ư? Chỉ tội hắn không tự lượng sức, đánh không lại người ta mà thôi.

Lương Tiêu băn khoăn:

- Tóm lại là, hễ lắm quốc gia tất chia mạnh yếu, đã có mạnh yếu tất sinh chiến tranh ư?

Bá Nhan không trả lời thẳng vào câu hỏi của gã, nói lảng sang chuyện khác:

- Nghe nói bạn cậu mất.

Lương Tiêu dàu dàu gật đầu. Bá Nhan thở dài:

- Cậu là người trọng tình cảm, cũng tốt. Nhưng tính mệnh một cá nhân so với tính mệnh ức vạn dân lành thì bên nào nặng bên nào nhẹ?

Lương Tiêu ngẩn người. Bá Nhan bước mấy bước, vụt xoay phắt lại nói to:

- Cuộc đời lắm nỗi đoạn trường, đường đường một đấng nam nhi thân cao bảy thước, nếu giương cánh cung cứng, cưỡi ngựa khỏe bình định thiên hạ thì ngàn năm nữa vẫn còn tiếng thơm lưu truyền. Nếu vì cái chết của một cá nhân mà suốt ngày đau đớn, sụt sùi khóc than rền rĩ thì thử hỏi chỉ trăm năm sau thôi, còn ai nhớ đến Lương Tiêu nữa? – Y trỏ đám nông dân. – Thế thì có khác gì đám thôn phu thô kệch kia đâu?

Lương Tiêu chưa bao giờ ôm chí lớn, làm việc đều theo cảm hứng nhất thời, hoàn toàn hững hờ với những lý tưởng như trị quốc bình thiên hạ, nay nghe những lời này, trong lòng bỗng hoang mang. Bá Nhan càng nói càng sôi nổi:

- Trống da trâu tốt, gõ khẽ là phát ra âm thanh vang rền. Một người thông minh dứt khoát không cần ta phải phân tích quá nhiều. Trong huyết quản cậu có có dòng máu của Thành Cát Tư Hãn, tài năng cậu khiến người đời đố kỵ. – Y xòe tay, cười nhạt. – Một hàng tướng nhỏ nhoi như Lưu Chỉnh thì đáng kể gì?

Lương Tiêu tuổi còn trẻ, máu nóng đương căng, nghe vậy bật thốt:

- Đại Nguyên soái… – rồi họng nghẹn lại, không thốt nên lời.

Bá Nhan xua tay cười:

- Hiểu là được, không cần phải nói ra. Sử Thiên Trạch đã chết, ta giao binh mã của ông ấy cho cậu. Dám nhận không?

Lương Tiêu đáp ngay không nghĩ ngợi:

- Càng nhiều càng tốt.

Bá Nhan cười mắng:

- Tiểu tử nhà ngươi, đúng là đại ngôn không biết ngượng mồm. – Nghĩ sao y lại đưa mắt nhìn về phương nam, buồn bã thở dài. – Chỉ mong lần này thống nhất thiên hạ để ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh nữa.

Lương Tiêu nghe dứt, bỗng rùng mình lẩm bẩm:

- … ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh.

Gã lẩm bẩm câu ấy mấy lần, giọng mỗi lúc một mong mỏi, mắt đăm đăm dõi ra đồng dã nơi xa.

[1] Sấm sét gỗ.

[2] Trích bài thơ Kỷ Hợi tuế nhị thủ của Tào Tùng thời Đường.

[3] Bia rơi lệ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro